Liên lụy tội lỗi

Liên lụy tội lỗi

 

Tác giả LM John Zuhlsdorf

Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU

Lợi ích của việc xưng tội có liên quan “cấu trúc tội”. “Cấu trúc tội” là điều mà
những người sống phóng khoáng dùng để che giấu thực tế trách nhiệm cá nhân đối
với tội lỗi đã phạm. Tất cả các “cấu trúc tội” có căn nguyên trong trách nhiệm
của tội cá nhân.

Tuy nhiên, tội lỗi ảnh hưởng nhiều hơn tội nhân. Nó ảnh hưởng mọi người. Khi
một chi thể trong Nhiệm thể Chúa Kitô phạm tội, tất cả chúng ta đều chịu đau
khổ. Một số người ảnh hưởng trực tiếp, nhưng tất cả chúng ta đều yếu đuối. Do đó, khi chúng ta muốn hòa giải với Thiên Chúa, chúng ta cũng phải giải hòa với cả Giáo hội, không chỉ với người này hay người nọ mà có thể chúng ta đã làm tổn thương. Vì thế có “chiều kích xã hội” đối với tội lỗi.

Có “chiều kích xã hội” vì nó nằm trong cách chúng ta có thể phạm tội. Chúng ta có thể phạm tội không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên can các tội lỗi do người khác phạm trực tiếp.

Chúng ta liên can tội của người khác bằng cách nào? Chúng ta phạm tội qua hành động của người khác bằng cách…

1. Tư vấn: Nếu bạn tư vấn hoặc xúi người khác làm điều tội lỗi, và họ làm, bạn đã phạm tội bằng cách can dự vào tội lỗi của người đó.

2. Mệnh lệnh: Nếu bạn có quyền trên người khác, và bạn ép buộc người khác phạm tội, trong khi người đó có thể giảm tội, còn bạn thì không.

3. Ưng thuận: Nếu người ta yêu cầu bạn mà bạn nghĩ tội lỗi là điều tốt có thể làm, bạn có thể chủ động với tình huống đó, và nếu bạn cho phép hoặc ưng thuận thì bạn đã phạm tội.

4. Khiêu khích: Bạn khiêu khích hoặc thách thức người khác làm điều xấu mà họ không muốn.

5. Nịnh bợ: Khá rõ ràng. Đây là cách khác để phạm tội.

6. Che giấu: Một người phạm tội và rồi bạn giúp người đó che giấu chứng cớ hoặc động thái.

7. Đồng lõa: Một người khác là người chính có liên can, nhưng bạn có mặt ở đó hỗ trợ hành vi tội lỗi. Chẳng hạn, một người giúp bác sĩ phá thai, một chính khách giúp nhà cầm quyền hoặc nói về việc nhận thức đối với “hôn nhân” trái tự nhiên bằng cách ủng hộ.

8. Im lặng: Có một câu nói rất thường gặp: “Im lặng là đồng ý” (silent implies
consent). Nếu một người có quyền thế hoặc có quyền về luân lý có nhiệm vụ ngăn
chặn tội lỗi, nhưng lại im lặng và bàng quan, điều đó có thể cấu thành việc can
dự vào tội lỗi. Điều này quỷ quyệt mới nghĩ ra được, nhưng đó không chỉ là sự
im lặng quở trách (rocket silence). Có thể là can dự làm giảm nhẹ tình huống,
chẳng hạn như sự xâm chiếm Vatican, bắt Giáo hoàng và tiêu diệt Giáo hội ở
nhiều nơi. Trong khi đó, ai đó có thể im lặng làm ngơ. Tuy nhiên, ai đó không
làm được gì. Một điểm khác có thể được cân nhắc: Luật về việc sửa lỗi anh em
(fraternal correction). Điều này không thể là vị trí của bạn để sửa lỗi người
khác, tùy trường hợp.

9. Biện hộ: Khá rõ ràng. Đó là bạn biện hộ để ủng hộ tội lỗi. Nhưng điều này không giống như luật sư biện hộ trước tòa cho người phạm tội.

Cần xem lại danh sách này một lần nữa để có một lúc chân thành kiểm tra lương tâm.

Tất cả chúng ta vướng vào những tình huống khó khăn hoặc mơ hồ về luân lý mà chúng ta
bị giằng co trong việc chọn lựa giữa những điều tốt hoặc điều xấu nhiều và xấu ít. Chúng ta phải theo dõi chính mình và là sự tương tác với những người khác để:

a) Chúng ta đừng gây nguy hiểm cho linh hồn mình bằng cách can dự vào tội lỗi của người khác.

b) Chúng ta đừng gây nguy hiểm cho linh hồn người khác bằng cách lôi kéo họ vào tội lỗi của mình.

Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Catholic News)

KINH CẦU KHIÊM NHƯỜNG

KINH CẦU KHIÊM NHƯỜNG
của Đức Hồng Y Raphael Merry Del Val
(1865-1930)
Quốc Vụ Khanh Toà Thánh dưới thời Thánh Giáo Hoàng Piô X
Ôi lạy Chúa Giêsu! hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin đoái nghe lời con cầu…
Lạy Chúa Giêsu, xin giải thoát con:
. Khỏi lòng ham muốn được quí trọng
. Khỏi lòng ham muốn được yêu mến
· Khỏi lòng ham muốn được tôn vinh
· Khỏi lòng ham muốn được ngưỡng mộ
· Khỏi lòng ham muốn được ca tụng
· Khỏi lòng ham muốn được ưu đãi hơn người
· Khỏi lòng ham muốn được tham vấn
· Khỏi lòng ham muốn được chấp thuận
· Khỏi nỗi sợ bị hạ nhục
· Khỏi nỗi sợ bị khinh chê
· Khỏi nỗi sợ bị khiển trách
· Khỏi nỗi sợ bị vu khống
· Khỏi nỗi sợ bị lãng quên
· Khỏi nỗi sợ bị giễu cợt
· Khỏi nỗi sợ bị xử bất công
. Khỏi nỗi sợ bị nghi kỵ
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con ơn biết ước ao:
· Cho người khác được yêu mến hơn con
· Cho người khác được quí trọng hơn con
· Cho người khác được đề cao, trong ý kiến mọi người, còn con phải hạ xuống
· Cho người khác được tuyển chọn, còn con bị loại trừ
· Cho người khác được ca tụng, còn con bị lãng quên
· Cho người khác được ưa thích hơn con trong mọi sự
· Cho người khác được thánh thiện hơn con, miễn là con phải thánh thiện như con có thể.
Đức Hồng Y Raphael Merry Del Val thường đọc kinh này sau khi cử hành Thánh Lễ
Litany of Humility
Composed by Rafael Cardinal Merry del Val (1865-1930),

Secretary of State for Pope Saint Pius X

O Jesus! meek and humble of heart … Hear me.
From the desire of being esteemed … Deliver me, Jesus.
From the desire of being loved … Deliver me, Jesus.
From the desire of being extolled … Deliver me, Jesus.
From the desire of being honored … Deliver me, Jesus.
Fromthe desire of being praised … Deliver me, Jesus.
From the desire of being preferred to others … Deliver me, Jesus.
From the desire of being consulted … Deliver me, Jesus.
From the desire of being approved … Deliver me, Jesus.
From the fear of being humiliated … Deliver me, Jesus.
From
the fear of being despised … Deliver me, Jesus.
From the fear of suffering rebukes … Deliver me, Jesus.
From the fear of being calumniated … Deliver me, Jesus.
From the fear of being forgotten …Deliver me, Jesus.
From the fear of being ridiculed … Deliver me, Jesus.
From the fear of being wronged … Deliver me, Jesus.
From the fear of being suspected … Deliver me, Jesus.
That others may be loved more than I … Jesus, grant me the grace to desire it.
That others may be esteemed more than I … Jesus, grant me the grace to desire it.
That, in the opinion of the world, others may increase and I may decrease … Jesus,
grant me the grace to desire it.
That others may be chosen and I set aside … Jesus, grant me the grace to
desire it.
That others may be praised and I unnoticed … Jesus, grant me the grace to
desire it.
That others may be preferred to me in everything …Jesus, grant me the grace to
desire it.
That others may become holier than I, provided that I may become as holy as I
should… Jesus, grant me the grace to desire it.
Cardinal Merry del Val often recited it after the celebration of the holy Mass.

LINH HỒN NÓNG LÒNG CHỜ NGƯỜI YÊU

LINH HỒN NÓNG LÒNG CHỜ NGƯỜI YÊU

(THÁNG CẦU CHO CÁC LINH HỒN)

Tác giả: Tuyết Mai

Trên đời tôi thiết nghĩ có rất nhiều người trải qua chuyện tình sử của đời mình đẹp như trong mộng cũng có, bi thương ai oán cũng có.   Đến với nhau được trong sự thoải mái dễ dàng cũng có, hay đoạn tuyệt một mối tình trong tiếc nuối trong luyến thương cũng
có, dù là già hay trẻ thưa có phải?.   Ở đây tôi chỉ muốn mượn đề tài nóng lòng chờ người yêu là để cho ta dễ dàng cảm nhận sự chờ đợi ấy “nó” như thế nào?.   Để chúng ta hiểu được và thông cảm được cho tất cả Linh Hồn anh chị em của chúng ta đang sống trong Luyện Ngục và họ đang vô cùng đau khổ.   Vì muốn, vì khao khát được nhanh chóng lên Trời diện kiến Thiên Chúa và được ở lại cùng Người.   Là Đấng mà không một Linh Hồn nào lại dại khờ muốn chối từ để được sống trong Nhà của Người.

Trước khi ta đến Luyện Ngục thì không một Linh Hồn nào lại không được diện kiến Thiên Chúa một lần duy nhất.   Bởi lý do được diện kiến Người mà tất cả mọi Linh Hồn đều quá
đau khổ, chịu đựng mọi hình phạt, nhưng cái đau đớn nhất vẫn là sự nóng lòng chờ Người Yêu (là Thiên Chúa chúng ta).   Chờ đợi được có ngày hưởng phúc vinh cùng Thiên Chúa trên Nhà Cha trên Trời.   Linh Hồn nào khi còn sống trên thế gian làm nhiều việc lành phúc đức thì sự cứu xét để được có giấy thông hành và giấy cho đi xuất ngoại sẽ được bảo đảm nhanh chóng hơn.   Còn những Linh Hồn nào khi còn sống gieo họa nhiều hơn làm phúc cho anh chị em mình, thì cái ngày được trùng phùng cùng Thiên Chúa “nó” sẽ xa vời biết bao, thưa anh chị em!.

Tuy dù khi ta còn ở trên trần gian ít có ai hiểu được tường tận cách thức giúp cho chúng ta Con Đường Về Trời cách đúng nhất hay hữu hiệu nhất!?.   Nhưng có phải Chúa Giêsu đã sinh hạ xuống trần gian là để dậy dỗ, củng cố, và cho chúng ta thật nhiều cơ hội biết
trước được Nước Trời trong tất cả Lời của Ngài và Gương Sống của Ngài?.   Và không gì mạnh Tin cho bằng là Sự Sống Lại của Chúa Giêsu.   Đại khái những bài học Nước Trời của Thầy Giêsu dậy dỗ người đời chúng ta thì không gì trên trần gian này có thể sánh ví cho bằng.  Do đó muốn được lên ấy không phải là chuyện dễ dàng nhưng không vì thế mà Ngài
làm cho chúng ta ra nản lòng.

Bởi có phải chuyện gì nó cũng có giá của nó?  Trên trần gian nếu chúng ta muốn có bằng cấp cao trong bất cứ ngành nghề gì thì ta cũng phải tìm cho được đúng trường và điều kiện phải là trường học đó giỏi và có tiếng.   Đã tìm được đúng trường thì sau đó ta chỉ cần bỏ công sức và hết tâm trí để lo học hành và chờ đến ngày được Áo Mũ Ra Trường, thưa có phải??.   Ngược lại nếu chúng ta muốn tìm được Con Đường Về Trời, thiết tưởng chúng ta cũng nên sớm tìm hiểu để đạt được ước nguyện như sự mong đợi.

Công nhận rằng con đường nào thì cũng dẫn chúng ta tới La Mã, nhưng ăn thua chúng ta mượn phương tiện nào để dẫn chúng ta đến được La Mã mà thôi!.   Trên Trời thì chúng ta không sợ ai lên chậm phải uống nước đục, nhưng vì thời gian của mỗi con người chúng ta
là một sự rất huyền nhiệm mà không một ai biết trước ta sẽ sống được bao lâu trên trần gian này.   Thưa đây mới là vấn đề rất quan trong để một con người có thể chuẩn bị cho chính mình Nơi chúng ta muốn đến!.

Theo tôi thấy và nhận biết thì Trường Học về Nước Trời (about heaven) thì chúng ta hãy tìm chạy đến cùng Đức Mẹ Maria, Mẹ Mân côi của chúng ta, bảo đảm Mẹ sẽ giúp đưa chúng ta đến đúng trường qua Chúa Thánh Linh và nhờ Chúa Thánh Linh dậy dỗ và chỉ bảo.   Nhưng điều rõ ràng nhất là Trần Gian và Thiên Đàng là hai nơi không bao giờ gặp được nhau vì nó là hai con đường đi song song.   Hễ muốn tìm được Nước Trời thì ta phải học cách từ bỏ mọi sự gì mà trần gian ban phát hay luôn gọi mời.   Giản dị có thế và không gì là khó hiểu cả!.   Sự lựa chọn này thì không khác mấy với một anh chàng đang đứng trước ngã  ba đường để anh sẽ chọn ai và sẽ bỏ ai, để cho anh chọn cưới làm vợ??.

Vì danh nghĩa Vợ thì anh phải có trách nhiệm và bổn phận lo và bảo bọc cho vợ anh cho đến hết cả cuộc đời của anh.   Nên anh tốn biết bao nhiêu đêm trường thức trắng, vắt tay lên
trán để suy nghĩ về  chuyện hệ trọng của đời anh, là lẽ tất nhiên thôi.   Sự so sánh này thưa có rõ ràng lắm không là con người ai muốn chọn Chúa thì ngay bây giờ ta phải tập cuộc sống từ bỏ, sống nghèo, không tham lam, sống thờ phượng Chúa và yêu người như yêu chính mình.   Luật Chúa và Lời Chúa ta phải thi hành vì thời gian rất có hạn.   Vì tận thế cũng sẽ tuần tự xẩy đến cho từng người chúng ta, khác cách thức, và sự Ra Đi không ai sẽ
giống ai.

Còn những ai chọn Trần Gian thì cơ hội Về Trời là chuyện không ai muốn đặt vấn đề? Nhưng nếu chúng ta đã là con cái của Chúa qua bí tích Rửa Tội thì Thiên Chúa Người cũng tìm cách và tìm cơ hội để đưa chúng ta trở về Đường thẳng Nẻo ngay.   Trong giai đoạn
của một đời người  Thiên Chúa sẽ tìm đúng lúc mà đến Nhà Tâm Hồn chúng ta để gõ
cửa.   Hy vọng chúng ta hết thảy mau mắn mà mở cửa mời Người vào nhà mà đừng có ý xua đuổi Người ra vì đâu biết chừng cơ hội ấy chỉ đến với ta chỉ một lần trong đời?.

Nhân tháng 11 Cầu cho các Linh Hồn xin được nhắc nhở hết thảy mọi người tìm đọc những mẩu chuyện kể về Linh Hồn đang sống trong Luyện Ngục để mở mang trí hiểu biết mà chuẩn bị sớm cho Nơi chúng ta sẽ lần lượt đến đó là Luyện Ngục.   Vâng, điều mà không bao
giờ phí thời gian, công sức hay sai là chúng ta hãy siêng năng chạy đến cùng Mẹ Maria Mẹ Mân Côi của chúng ta.

Lậy xin Mẹ Maria, giúp chúng con đừng lãng phí thời gian trên thế gian này mà bỏ đi cả một kho tàng vô giá đang chờ đợi con cái của Mẹ là Nước Thiên Đàng.   Mà Linh Hồn là giống thiêng liêng chẳng hề chết được.   Nhưng quan trọng nhất cho một Linh Hồn sống đời là nóng lòng chờ được sum họp với Người Yêu của mình (là Thiên Chúa chúng ta) mới có thể làm cho một Linh Hồn được ngụp lặn trong sung sướng, trong đam mê, trong sự chiêm ngắm mãi không bao giờ mỏi mắt của một Thiên Chúa rất là thiện hảo vô cùng.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

(11-07-12)

Giáo huấn Công giáo về Luyện hình

Giáo huấn Công giáo về Luyện hình

TRẦM THIÊN THU

Lễ Các Thánh là dịp chúng ta mừng Giáo hội Khải hoàn, là ngày gợi nhớ Giáo hội
Đau khổ, nhưng cũng là ngày gợi lên nhiều câu hỏi ở cả những người Công giáo
lẫn không Công giáo. Vậy Giáo hội nói gì về Luyện hình?

Dưới đây là những điều trong giáo lý chính thức của Giáo hội Công giáo. Hãy đọc cẩn thận. Các đoạn văn dưới đây xua tan nhiều cách hiểu sai của Tin Lành và Chính thống giáo Đông
phương về Luyện hình:

Số 1030 – Những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa thanh luyện hoàn toàn, chắc chắn được hưởng ơn cứu độ đời đời; nhưng sau khi chết họ chịu thanh luyện để đạt được sự thánh thiện cần thiết để hưởng niềm vui Nước Trời.

Số 1031 – Giáo hội gọi sự thanh luyện đối với những người được chọn là Luyện hình hoặc Luyện ngục, hoàn toàn khác với sự trừng phạt đối với những người bị nguyền rủa. Giáo hội đã công thức hóa tín điều về Luyện hình, nhất là tại Công đồng Florence và Trentô.
Truyền thống Giáo hội, có tham khảo văn bản Kinh thánh, nói về ngọn lửa thanh
tẩy:

Đối với lỗi lầm nhỏ, chúng ta phải tin rằng, trước giờ phán xét sau cùng, có ngọn lửa thanh luyện. Đấng là Chân lý nói rằng những ai thốt ra lời nguyền rủa Thánh Thần sẽ không
được tha đời này và đời sau. Từ câu này, chúng ta hiểu rằng các lỗi phạm nào đó có thể được tha ở đời này, nhưng các lỗi phạm khác được tha ở đời sau (Thánh Grêgôriô Cả, Đối thoại 4, 39; PL 77, 396; x. Mt 12, 31.).

Giáo huấn này cũng dựa vào lời cầu nguyện cho người quá cố, đã được nói tới trong Kinh thánh: “Vì thế [Giuđa Macabê] đã đền tội cho người qua đời, họ có thể được tha tội”. Từ ban
đầu, Giáo hội đã tưởng niệm người qua đời và cầu nguyện cho họ, để họ được thanh luyện và có thể sớm hưởng Tôn Nhan Thiên Chúa. Giáo hội cũng khuyên làm việc bác ái, lãnh ân xá, và ăn năn đền tội thay những người đã qua đời:

Chúng ta hãy giúp đỡ và nhớ đến họ. Nếu các con của ông Gióp được thanh tẩy nhờ sự hy sinh của ngời cha, tại sao chúng ta nghi ngờ việc dâng lễ đền tội cho người qua đời đem lại
sự an ủi cho họ? Chúng ta đừng lưỡng lự giúp đỡ những người đã qua đời và cầu nguyện cho họ (611, Thánh Gioan Kim khẩu, Bài giảng về 1 Cr 41, 5; PG 61, 361; x. G 1, 5.).

Thứ nhất, Luyện hình không là Hỏa ngục. Thứ nhì, chỉ những người được chọn, các Kitô hữu được cứu độ, vào nơi đó. Luyện hình là nơi chỉ dành cho những người đang trên hành trình về Nước Trời. Đó là sự thanh luyện cuối cùng đối với những người đã chết trong
tình thân hữu với Đức Kitô.

Có những đoạn Kinh thánh liên quan việc cầu nguyện cho những người đã qua đời. Nếu người ta chấp nhận 2 Macabê (như đã trích ở trên) là đúng quy tắc Giáo hội, người ta phải chấp nhận việc cầu nguyện cho những người đã qua đời. Nhiều học giả tin rằng thánh
Phaolô đã cầu nguyện cho một người bạn quá cố trong 2 Timôthê 1:

[16] Xin Chúa tỏ lòng thương xót gia đình anh Ô-nê-xi-phô-rô, vì đã nhiều lần anh làm cho tôi lên tinh thần, và đã không hổ thẹn vì tôi phải mang xiềng xích, [17] trái lại, vừa đến Rô-ma, anh vội vã đi tìm và đã thấy tôi.

[18] Xin Chúa ban cho anh tìm thấy nơi Chúa lòng thương xót, trong Ngày đó. Về công việc phục vụ của anh ấy ở Ê-phê-xô, thì anh đã quá rõ.

Đức Kitô là Đấng Cứu Độ cũng đề cập cơ hội tha thứ ở đời này và sau khi qua đời: “Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau” (Mt 12, 32).

Nhưng đoạn văn thuyết phục nhất là 1 Cr 3, 13-15:

[13] Nhưng công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật thế, Ngày của Chúa sẽ cho thấy công việc đó, vì Ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị
công việc của mỗi người.

[14] Công việc xây dựng của ai tồn tại trên nền, thì người ấy sẽ được lĩnh thưởng.

[15] Còn công việc của ai bị thiêu huỷ, thì người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được cứu, nhưng như thể băng qua lửa.

Trước tiên, mỗi người sẽ bị xét xử và việc mình làm “sẽ được phơi bày bằng lửa”. Việc lành chúng ta làm sẽ thoát khỏi lửa và sẽ được “thưởng công”. Việc ác chúng ta làm sẽ bị
“thiêu đốt” và “người đó sẽ chịu sự mất mát, dù người đó sẽ được cứu, nhưng chỉ
qua lửa”.

Ở đây chúng ta thấy loại lửa không là Hỏa ngục, mà “người đó sẽ được cứu, nhưng
chỉ qua lửa”. Chữ “lửa” theo tiếng Hy Lạp là “pur” và cùng nguyên ngữ với tiếng
Indo-European là “PUR-gatory” (Việt ngữ gọi là Luyện ngục hoặc Luyện hình).
Luyện hình là tình trạng thanh luyện bằng lửa dành cho những người được cứu độ
rồi.

Người Tin Lành có thể hỏi về điểm này: “Nếu một người đã được cứu độ, vậy tại sao phải chịu lửa này? Chúa Kitô đã không chết vì tội lỗi của họ sao?”

Đúng, Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi của họ và đã cứu độ họ. Nhưng Ngài chết để chúng ta có thể thực sự thánh thiện: “Hãy thánh thiện như Tôi thánh thiện”. Lửa luyện hình là lửa
yêu thương của Thiên Chúa làm cho chúng ta “chịu sự mất mát” bằng một dạng đền
tội cuối cùng. Đó là đau khổ vì cúng ta phải từ bỏ mọi ham muốn của xác thịt và
đối mặt với những thất bại. Điều này nghĩa là “chịu sự mất mát”. Chúng ta không
thể loanh quanh lời của thánh Phaolô nói rằng các Kitô hữu phải qua lửa sau khi
qua đời.

Nếu Uzzah bị chết vì chạm vào Con tàu Giao ước, chúng ta phải được thánh hóa trọn vẹn để được vào Thiên đàng. Món nợ đã trả nhưng chúng ta chưa hoàn toàn biến thành hình ảnh của Chúa Kitô. Ngài chết để chúng ta hoàn toàn thực sự thánh thiện. Luyện hình là sự biến hình cuối cùng bằng các động thái tập trung vào Chúa Kitô để được chấp nhận và ảnh hưởng tội lỗi bị thiêu hủy.

1 Cr 12, 26 – Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.

Tốt nhất, chúng ta nên dâng lễ thay cho những người đã ra đi trước chúng ta. Chúng ta là một đại gia đình trong Đức Kitô. Khi chúng ta cầu nguyện cho những người đã qua đời, chúng ta xin Thiên Chúa, Đấng là “ngọn lửa thiêu”, thương giúp những người đang chịu
sự đền tội và sự thanh luyện cuối cùng để họ chuẩn bị hưởng Tôn Nhan Thiên Chúa
trọn vẹn.

Vì cuộc khổ nạn đau thương, sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, xin Chúa ân thương và tha thứ cho các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Catholic News)

Maria Thanh Mai gởi

Đức khôn ngoan sẽ khuyên bảo con làm điều thiện!

Đức khôn ngoan sẽ khuyên bảo con làm điều thiện!

Tôi thâm tín rằng chính Đức Tin Công Giáo giúp xã hội con người hiện đại tìm thấy trở lại các giá trị căn bản đích thật.

Tháng 10 năm 2006, ông Christian Joncas đệ đơn lên Tòa Án kiện ông Jean Tremblay, thị trưởng thành phố Saguenay thuộc tỉnh Québec bên nước Canada.

Lý do vụ kiện là vì ông thị trưởng Công Giáo thường đọc kinh trước mỗi khi chủ
tọa các phiên họp của Hội Đồng Thành Phố. Ông Christian Joncas là Chủ Tịch Liên
Nhóm Công Dân thành Saguenay. Ông muốn Tòa Án tuyên bố mình thắng kiện để
có thể bắt buộc ông thị trưởng Công Giáo ngưng việc đọc kinh trước mỗi cuộc
họp.

Mặc dầu bị than phiền và bị kiện tụng như thế, ông thị trưởng Công Giáo Jean
Tremblay vẫn bình chân như vại. Ông không nao núng. Ông tuyên bố vẫn tiếp tục
đọc kinh trước mỗi phiên họp Hội Đồng Thành Phố. Ông sẵn sàng bảo vệ quyền tự
do tôn giáo tức là quyền công khai bày tỏ Đức Tin Công Giáo của ông, cũng như
của các công dân khác.

Thế rồi ngày 18-11-2006 ông Christian Joncas tự động tuyên bố rút lại đơn kiện.
Lý do là vì sau thời gian suy nghĩ, ông cảm thấy hổ thẹn với lương tâm. Ông
cũng là tín hữu Công Giáo, vậy tại sao ông có thể chống lại việc tuyên xưng Đức
Tin của một tín hữu Công Giáo khác, cho dù tín hữu ấy là ai đi nữa, kể cả ông
thị trưởng thành phố???

Nhận tin vui, ông Jean Tremblay – thị trưởng thành phố Saguenay – bày tỏ sự hài lòng và nói:

– Tôi nhận thấy rằng những cuộc chiến tranh đấu cho chính nghĩa thường kết thúc trong an bình tốt đẹp mà không cần phải lăng nhục hoặc đổ máu bất cứ người nào khác. Ông Christian Joncas đã quyết định đúng khi tự ý rút lại đơn kiện. Tôi xin cám ơn ông. Ông hành xử thật đẹp. Khiêm tốn là đức tính cao quí nhất luôn hướng dẫn con người trong mọi trường hợp, nhỏ cũng như lớn.

Nhân dịp này, ông thị trưởng thành phố Saguenay đã nêu cao các giá trị của Đức Tin Công Giáo. Ông nói:

– Càng ngày xã hội càng gặp nhiều vấn đề trầm trọng. Tôi thâm tín rằng chính Đức Tin Công Giáo giúp xã hội con người hiện đại tìm thấy trở lại các giá trị căn bản đích thật. Chính Đức Tin Công Giáo đã khai sinh – cho ra chào đời – người Canada nói tiếng Pháp ở Québec này. Vậy thì, chúng ta có nhiệm vụ trở về với Đức Tin Công Giáo và tuyên xưng Đức Tin Công Giáo. Đừng nao núng, cũng đừng sợ hãi!

Sau cùng, ông Jean Tremblay quyết định:

– Tôi tiếp tục đọc kinh lớn tiếng trước mỗi khi bắt đầu phiên họp Hội Đồng Thành Phố. Dĩ nhiên tôi không đi xa hơn khi xin cử hành Thánh Lễ tại Tòa Thị Chánh. Không. Tôi không làm thế. Tôi muốn giữ đúng mức quân bình. Nhưng tôi tin rằng mình không rơi vào tình trạng cực đoan khi cương quyết giữ vững quyết định đọc kinh lớn tiếng trước mỗi phiên họp Hội Đồng Thành Phố.

… “Tôi đã quyết định cưới Đức Khôn Ngoan làm người chung sống suốt đời, vì
tôi biết Đức Khôn Ngoan sẽ khuyên bảo tôi làm điều thiện, sẽ trợ lực cho tôi khi tôi gặp buồn phiền lo lắng. Nhờ Đức Khôn Ngoan, tôi sẽ được vẻ vang giữa muôn người, và dẫu còn trẻ tuổi, tôi vẫn chiếm được sự nể-vì của các vị bô lão.
Thiên hạ sẽ thấy tôi xét xử thật sáng suốt, và những người quyền thế sẽ nhìn
tôi bằng cặp mắt thán phục. Khi tôi lặng thinh, họ chờ tôi lên tiếng. Khi tôi
lên tiếng, họ chăm chú lắng nghe, và khi tôi thao thao bất tuyệt, họ tỏ lòng
cung kính. Nhờ Đức Khôn Ngoan, tôi sẽ được trường sinh bất tử, và muôn đời lưu danh hậu thế. Tôi sẽ thống trị chư dân, và các nước sẽ phải thần phục. Nghe
danh tôi, các bạo chúa sẽ phải khiếp kinh. Tôi tỏ ra nhân hậu với dân chúng và
quả cảm nơi trận địa. Trở về nhà, tôi nghỉ ngơi bên cạnh Đức Khôn Ngoan, vì làm bạn với Đức Khôn Ngoan, không bao giờ cay đắng, và chung sống với Đức Khôn Ngoan, chẳng khi nào đau khổ, mà luôn luôn thích thú, hân hoan”
(Sách Khôn ngoan 8,9-16).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Maria  Thanh Mai gởi

Lời cầu nguyện thiên đàng cũng phải rơi lệ

Lời cầu nguyện thiên đàng cũng phải rơi lệ

nguồn: Thanhlinh.net

LỜI CẦU NGUYỆN CỦA CHỊ VERONICA PHONG CÙI:

Một lời cầu nguyện thiên đàng cũng phải rơi lệ.

Một lời cầu nguyện hay nhất mùa Lễ Tạ Ơn.

Kính mời Quí vị đọc, nghe hay xem trên Youtube dưới đây
và xin giới thiệu với bạn bè.

httpv://www.youtube.com/watch?v=RYggna7hSHs&feature=youtu.be

Youtube link: http://youtu.be/RYggna7hSHs

Biết ơn là dấu chỉ làm người và cũng là dấu chỉ của người Kitô hữu trước những hồng ân bao la của Thiên Chúa ban cho. Nhân mùa Lễ Tạ Ơn và Năm Đức Tin, anh chị em thanhlinh.net xin gởi đến Quí vị và các bạn lời cầu nguyện của chị Veronica phong cùi. Một lời cầu nguyện tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa hay nhất, tuyệt vời nhất, và cũng là lời bày tỏ Đức tin sâu đậm nhất của một người mang căn bệnh phong cùi ngặt nghèo, dù mất mát tất cả nhưng vẫn tin
tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Xin Quí vị cùng chúng tôi dâng lên
Thiên Chúa lời cảm tạ, tri ân khi nghe lời cầu nguyện này.

 

CHỊ VERONICA PHONG CÙI

Hai linh mục Raymond và Pierre Jaccard – hai anh em ruột – cũng là hai bác sĩ hội viên của tổ chức “Frondations Follereau” tại Ba Lê đã từ nhiều năm hiến đời mình phục vụ “người cùi”. Do đó các ngài đã quen biết chị Veronica và đã tới hàn thuyên với chị nhiều lần. Là một linh hồn rất đặc biệt, chị không muốn hai cha tiết lộ danh tính, nhưng bằng lòng cho hai cha phổ biến lời cầu nguyện sau đây của chị. Hồi xưa, Veronica là một cô gái kiều diễm, ngày nay chị đã mất tất cả: sắc đẹp duyên dáng, tay chân mịn mà, hai con mắt huyền ảo. Nhưng để bù lại sự mất mát phần xác bề ngoài, chị đã được Chúa đền đáp cho một tâm hồn trong sáng, quảng đại, phó thác hoàn toàn, vì ở trong đó tràn đầy ân sủng và sống tiêu tan trong đại dương tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa được chị diễn tả trong một lời cầu nguyện tuyệt vời.

Lời cầu nguyện này là bản toát yếu đời sống bên trong của chị, là tấm gương sáng lạn phản chiếu một nội tâm sâu đậm, phong phú vì đã được lọc luyện qua đau khổ, qua một chứng bệnh bên ngoài thật ghê gớm, nhưng chị Veronica đã chấp nhận sống trong suốt 60 năm trời đằng đẵng, và chị cho đó là một sứ mệnh cá nhân: “Lạy Chúa, suốt bằng ấy năm chịu bệnh, con ý thức Chúa đã chiếm đoạt con cho một mình Chúa: thật sự cho một mình Chúa. Con đã chấp nhận, do đó hồn con đầy tràn thanh bình và hoan lạc”. Để cống hiến quí cha, quí tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân Việt Nam Lời Cầu Nguyện Này, chúng tôi gửi đến như là một đóng góp khiêm tốn – nhưng chân thành – ghi nhớ ngày đại hội ngàn năm một
thuở, nhân dịp lễ tôn phong Hiển Thánh các chân phước Tử Đạo Tiên Tổ tại giáo đô La Mã (19.6.1988).

 

LỜI CẦU NGUYỆN CỦA CHỊ VERONICA PHONG CÙI

(Bài “Avec Une Infinie Tendresse”)

 

Lạy Chúa, Chúa đến đòi con tất cả,

Và con đã tận hiến cho Chúa toàn thân.

Hôm xưa con mê đọc sách, nhưng giờ này con đã mù loà.

Con thích chạy nhảy trong khu rừng hoang vắng,

Nhưng hiện nay hai chân con đã thành bất toại!

Con thích đi hái những bông hoa dại dưới nắng trời xuân,

Nhưng ngày nay hai bàn tay ấy không còn nữa!

Là phụ nữ, con ưa nhìn mái tóc mây mượt mà óng ả,

Nhìn những ngón tay mềm mại xinh đẹp,

Nhìn tấm thân liễu đào kiều diễm.

Nhưng giờ này trên đầu con không còn một sợi tóc,

Những ngón tay mịn mà của tuổi giai nhân ngày xưa,

Hôm nay chỉ là những thanh gỗ nhỏ khô cứng!

Lạy Chúa, xin nhìn đến thân con hồi nào mỹ lệ,

Hôm nay đã tàn tệ, nhưng con không dám trách than:

Con tạ ơn Chúa, và ngàn đời con sẽ hát lời ca ngợi.

Và giả như con có chết đêm nay đi nữa,

Con tin chắc đời mình đã được sung mãn dồi dào.

Là vì sống bằng tình yêu, con được quá những gì lòng con ước nguyện.

Lạy Cha chí nhân,

Với đứa con Veronica, Cha đã quá nhân từ hiền hậu.

Quỳ hôm nay, con cầu cho những ai phong cùi trong thể xác,

Nhưng nhất là những ai “phong cùi” trong tâm linh nội diện:

Vì họ có thể đổ xô, gục ngã, tàn phế, tiêu tan:

Chính những lớp người này con càng thành tâm yêu mến,

Và trong âm thầm con nguyện hiến đời mình cho họ,

Bởi vì họ với con là anh chị em một nhà!

Lạy Chúa của lòng con yêu mến thiết tha,

Con dâng lên Chúa tấm thân phong cùi thể xác này,

Để cho họ không còn phải nếm phiền muộn, đắng cay,

Không còn phải lạnh lẽo và khổ đau chua xót,

Vì chứng phong cùi ghê gớm xâu xé tâm linh họ!

Lạy Cha chí nhân,

Con vẫn là đứa con gái bé bỏng thân tình,

Xin cầm tay dẫn con đi, như người mẹ dẫn đứa con thơ dại;

Xin xiết chặt con vào trái tim Cha đang rộng mở,

Như người Cha ấp ủ đứa con nhỏ bé hồi nào!

Xin cho con chìm sâu trong đáy huyệt lòng Cha,

Ở mãi trong đó với những người con yêu thương trìu mến,

Vì ở đó là hạnh phúc thiên đàng trường sinh vĩnh cửu!

Cảm ơn Cha.

Đức ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ (dịch)

 

CHO NHỮNG NGƯỜI NẰM XUỐNG

CHO NHỮNG NGƯỜI NẰM XUỐNG

Lm Giuse Trần Đình Long, Dòng Thánh Thể

Trong đời sống mỗi người chúng ta, không ai có thể chu toàn lòng kính mến đối với
những bậc ông bà cha mẹ, hoặc vuông tròn sự yêu thương hòa đồng giữa anh chị em
ruột thịt trong nhà, và bà con thân thuộc lối xóm được. Cho dù nếu có, thì trong tháng các linh hồn này, Hội Thánh cũng nhắc nhở chúng ta làm mới lại những yêu thương ấy đối với những người đã khuất, để từ đó làm mới lại mối dây liên lạc yêu thương, tương kính với những người đang sống. Những người mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày.

Nếu đạo hiếu của người sống đối với người chết chỉ là đi viếng nghĩa trang, chỉ là
tu sửa lại những nấm mồ cao thấp, chỉ là tổ chức đám ma đông người đi đưa, nhiều cha đồng tế, những đám giỗ linh đình náo nhiệt thì thực sự những cái đó, nó mong manh hời hợt biết bao ! Vì sau những buổi lễ lạc linh đình đó, hoặc ngay cả lúc những nghi thức ấy đang diễn ra, thì những xác người chết vô tri cứng lạnh nằm trong áo quan, hay tăm tối trong những nấm mồ sâu dưới lòng đất, những người ấy có nhận được gì không ? Còn linh hồn của những vị ấy, nếu vui thỏa được bằng những nghi thức nghèo nàn trần tục kia, thì thử hỏi cõi thiên đàng cao sang, hoặc chốn thẳm sâu địa ngục, còn có nghĩa gì đối với chúng ta, những kẻ tin vào Chúa Kitô hôm nay ?

Khi người chết nằm xuống rồi, thì linh hồn người ấy đi vào một cõi khác, một cõi vô
cùng bí nhiệm, một cõi mà không một ai ở trần gian này biết được nó ở đâu ? Không biết nó sinh hoạt thế nào ? Việc đi viếng nghĩa trang, việc sửa sang phần mộ là việc tốt. Không phải tốt cho người đã chết, mà là tốt cho người đang sống là chúng ta. Để từ cái nghĩa trang mà chúng ta thấy đó, từ cái nấm mồ mà chúng ta đang sửa sang tô quét đó, từ những hũ đựng hài cốt mà chúng ta ngắm nhìn đó, chúng ta thấy được cái kiếp sống vắn vỏi của con người. Và để cho chúng ta, những người đang nhởn nhơ vui sống, thấy rằng cái đích điểm mà tất cả mọi người ở trần gian này sẽ phải đến gặp nhau là chỗ này đây : ba tấc đất sâu, và một
nấm mộ cô đơn lạnh lẽo. Để trong tháng các linh hồn này, mỗi con người dù là Đức Giáo Hoàng hay vua chúa, linh mục hay giáo dân, dù giàu sang của chìm của nổi hay nghèo nàn mạt rệp, dù danh vọng chức tước đạo đời đầy mình hay chỉ là tên vô danh tiểu tốt,… tất cả cùng có dịp hồi tâm lại. Những nấm mồ, những hũ đựng hài cốt nhắc nhở ta đừng bám víu, bám chặt lấy những cái bồng bềnh trôi nổi nay còn mai mất của thế gian, như tiền của, danh vọng, chức quyền. Mỗi người hãy coi sự sống vĩnh cửu vô cùng vô tận mới là cùng đích của cuộc đời. Cuộc sống mà dù muốn hay không, mọi người đều phải đi vào cõi đó, “một cõi đi
về”! Cuộc sống thật ấy chỉ bắt đầu từ cõi đó, với hai bàn tay trắng và một thân xác trần truồng ai cũng như ai. Thánh Phaolô quả quyết: “Quả vậy, chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn, áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ. Còn những kẻ muốn làm giầu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người đắm chìm trong cảnh huỷ diệt tiêu vong. Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.” (1Tm 6,7-10)

Sống và chết là hai ngả vô cùng cách biệt. Người sống không thể liên lạc với người chết bằng bát cơm quả trứng, hay bằng nén nhang khói tỏa nghi ngút, hoặc ngay cả bằng những bài kinh nỉ non thảm thiết dài lê thê, mà người đọc cứ lập đi lập lại trong những giờ kinh giỗ buồn chán.

Chúng ta những người đang sống chỉ liên lạc được với những người hôm nay đang ở cõi
đời đời, nơi một con người thôi. Con người ấy đang nắm trong tay tất cả thời gian, không gian, tất cả vận mạng kẻ sống cũng như người chết. Con người đó là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Đấng Phục Sinh. Chỉ nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng cầm chìa khóa sự chết, mọi người mới hiểu được ý nghĩa của cuộc sống tạm bợ mau qua hôm nay, và bí nhiệm của cuộc sống vĩnh cửu ngày mai. Chỉ nơi thập giá cứu chuộc của Chúa chúng ta, nơi trái tim yêu thương của Thiên Chúa mở ra, mọi người có mặt ở trần gian, từ Ađam cho đến người cuối cùng trên trái đất này, mới thấy được rằng : sự chết từng là cái án khủng khiếp cho hết mọi người, thì
hôm nay lại là nguồn an ủi vô biên cho những kẻ tin vào Đức Giêsu Kitô, vì xác  tín rằng : nấm mồ không phải là chung cuộc cho tất cả những ai tin vào Ngài.

Vì Đức Giêsu Kitô đã phục sinh. Ngài đã đặt sự chết dưới bệ chân của Ngài, thì những ai đang sống trong sự sống của Đức Giêsu hôm nay là những kẻ sẽ không phải chết bao giờ nữa. “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết.” Chính Đức Giêsu Kitô đã bảo đảm với những kẻ yêu mến Ngài như vậy.

Chỉ những gì liên kết trong một thân mình thì mới thông hiệp được với nhau. Bàn tay
phải muốn cảm thông nỗi đau của bàn tay trái thì hai bàn tay đó cần phải dính liền vào trong một thân thể. Cũng vậy, người tín hữu còn sống muốn hiệp thông với người tín hữu đã chết, thì cả hai đều phải là chi thể của một thân mình – thân mình Đức Giêsu Kitô. Khi Ngài thương xót những người đang sống ở trần gian bị lao đao dằn vặt bởi tội lỗi và muôn ngàn thứ đau khổ, thì cùng một lúc lòng thương xót ấy lan ra khắp thân mình Ngài, thấm vào kẻ sống thì cũng thấm vào người chết đang là chi thể của Ngài. Lúc ấy hai người ở hai thế giới cách biệt muôn ngàn trùng mới hiệp thông được với nhau, mới biết thương nhau, và khi
thương nhau thì ngày đêm mới tha thiết nhớ cầu nguyện cho những người đã nằm xuống.

Những người dù là có đạo, mà trong cuộc sống hôm nay, sống ngoài Đức Giêsu như kẻ vô
đạo, thì đừng hòng nói là thương xót các linh hồn nơi luyện tội, vì nơi bản thân họ không có lòng trắc ẩn với những người đau khổ đang sống quanh họ, thì làm sao mà họ có được khả năng hiệp thông với kẻ đã chết, hiện đang ở cõi thiêng liêng vô hình?

Bởi thế trong ngày lễ cầu cho các linh hồn, Hội Thánh đòi buộc những ai muốn lãnh
ơn đại xá, phải xưng tội rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng, nghĩa là người đó phải ở trong Đức Giêsu Kitô và ở trong Hội Thánh của Ngài. Có đủ điều kiện ấy, thì người đó đã trở thành chi thể trong thân mình mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô và lời cầu nguyện của họ cho những người đã khuất mới có giá trị.

Chúng ta là những Kitô hữu, và hơn nữa chúng ta còn là những người bạn thân thiết của
trái tim Đức Giêsu Kitô, nên chúng ta không được nghĩ rằng : tôi cứ lo kiếm sao cho có nhiều tiền rồi ngày giỗ ngày tết, tôi rải tiền ra xin lễ cho nhiều để ông bà cha mẹ anh em tôi mau được lên thiên đàng. Ngoài ra tôi muốn sống sao thì sống, tôi không quan tâm gì đến ai. Nếu nghĩ và làm như vậy là xúc phạm đến lòng thương xót của Chúa, bởi vì coi rẻ tình thương của Đức Giêsu Kitô. Nếu như ta không có khả năng xin lễ, hay có ai bỏ quên ông bà cha mẹ, thì chính Chúa sẽ bù đắp tất cả bằng tình thương vô biên của Ngài, Đấng phục sinh.

Trong tháng các linh hồn, mỗi người hãy tha thiết nài xin Đức Giêsu làm cho tâm hồn
chúng ta được say mê yêu mến trái tim Ngài. Xin Ngài làm cho trái tim chúng ta trở nên mềm dịu để mở ra đón nhận tình yêu lạ lùng ấy. Lúc ấy con người chúng ta sẽ đổi mới không phải hời hợt bên ngoài như thay một màu áo, đổi một đôi giày, mà thay đổi từ sâu thẳm bên trong tâm hồn bằng sức mạnh của Thánh Thần. Lúc ấy một sinh khí mới của lòng mến sẽ bùng lên, chúng ta sẽ luôn sống hiệp thông được với những người đã khuất và liên kết trong tình huynh đệ với những người đang sống, bởi vì chúng ta đầy Thần khí Đức Giêsu Kitô.

Lạy Đức Giêsu Kitô, xin Chúa cho chúng con nhận biết mình là những tạo vật có cuộc
sống mong manh nay còn mai mất để chúng con biết luôn luôn cậy nhờ vào sức mạnh
của tình yêu nơi trái tim Chúa trong đời sống hàng ngày của chúng con. Xin cho chúng con được hiệp thông với những người đã qua đi bằng cách biết yêu thương những người đang sống với chúng con trong đời sống hôm nay, và chính nhờ tình yêu Chúa trong chúng con mà biết yêu mến những người đã ra đi trước. Chúng con yêu mến các linh hồn ấy bằng lời cầu nguyện, bằng Thánh lễ và bằng mọi việc yêu thưong bác ái hằng ngày trong sự kết hợp với Chúa Giêsu Kitô chứ không phải trong bản chất yếu đuối của chúng con. Amen

Lm Giuse Trần Đình Long, Dòng Thánh Thể

5 bài học quan trọng của đời người



5 bài học quan trọng của đời người

Mai  Vy

11/3/2012                  Vietcatholic.net

Bài số 1: Bài học về sự tự giác :
Xưa thật là xưa, có một ông Vua nọ, một hôm ông ta sai quân lính đặt một tảng
đá lớn nằm chắn ngang đường đi. Xong, ông nấp vào một bụi cây gần đấy và theo
dõi.
Lần lượt ông ta thấy, những thương nhân giàu có đi qua, rồi đến những cận
thần của ông đi qua, nhưng không ai có ý định xê dịch tảng đá sang bên nhường
chỗ cho lối đi cả, họ chỉ lẩm nhẩm đổ lỗi cho nhà Vua vì đã không cho người
giữ sạch sẽ con đường.
Một lúc sau, nhà Vua nhìn thấy một người nông dân đi tới với một xe rau cồng
kềnh nặng trĩu. Nhìn thấy tảng đá, người nông dân liền ngừng xe và nhảy xuống
đất, cố hết sức mình ông ta đã đẩy được tảng đá sang bên kia vệ đường. Vừa
làm ông ta vừa lẩm bẩm: “Thật không may nếu có ai đó không thấy mày và vấp
phải, chắc là sẽ đau lắm đây”. Xong đâu đấy, người nông dân quay trở lại xe
để tiếp tục đi tiếp, thì bỗng nhìn thấy một bao tiền to đặt đúng ngay chỗ mà
ông đã di chuyển tảng đá. Đó là một một món quà của Đức Vua cho người nào dịch
chuyển được tảng đá.
Câu chuyện của người nông dân này đã giúp chúng ta nhận ra một điều quý giá
mà rất nhiều người trong chúng ta không bao giờ nhận thấy: Vật cản đôi khi
cũng có thể là một cơ hội tốt.
Bài số 2: Bài học về sự quan tâm
Trong tháng thứ 2 của khoá học y tá, vị giáo sư của chúng tôi đã cho chúng
tôi một câu hỏi hết sức bất ngờ trong bài thi vấn đáp…
Tôi đã lướt qua hầu hết các câu hỏi trong bài thi, và ngạc nhiên dừng lại ở
câu hỏi cuối cùng: “Hãy cho biết tên người phụ nữ quét dọn trường học của
chúng ta?”. Một câu hỏi không có trong chuyên môn, chắc đây chỉ là một câu
hỏi đùa thôi. Tôi đã nghĩ vậy!
Thật ra, tôi đã nhìn thấy người phụ nữ đó vài lần. Cô ấy cao, tóc sẫm màu và
khoảng chừng 50 tuổi nhưng làm sao mà tôi có thể biết được tên cô ta cơ chứ?
Tôi đã kết thúc bài làm của mình với câu cuối cùng bị bỏ trống.
Cuối giờ kiểm tra, một sinh viên đã hỏi vị giáo sư rằng: “Liệu ông có tính
điểm cho câu hỏi cuối cùng kia không?”, ông ta trả lời: “Chắc chắn rồi”, rồi
ông nói tiếp: “Trong công việc, các em sẽ gặp rất nhiều người, tất cả họ đều
quan trọng, họ xứng đáng được nhận sự quan tâm của các em, dù chỉ là một nụ
cười hay một câu chào”.
Tôi đã không bao giờ quên bài học đó trên mỗi bước đường đời của mình sau
này, và tôi cũng không bao giờ quên tên của người phụ nữ đó, cô Dorothy.
Bài số 3: Bài học về sự giúp đỡ :
Trong một đêm mưa bão bất thường trên đường phố Alabama vắng vẻ, lúc đó đã
11h30 khuya, có một bà lão da đen vẫn cứ mặc cho những ngọn roi mưa quất liên
hồi vào mặt, cố hết sức vẫy vẫy cánh tay để xin đi nhờ xe.
Một chiếc xe chạy vút qua, rồi thêm một chiếc xe nữa, không ai để ý đến cánh
tay dường như đã tê cứng vì lạnh cóng. Mặc dù vậy, bà lão vẫn hy vọng và vẫy
chiếc xe kế tiếp. Một chàng trai da trắng đã cho bà lên xe. (Mặc cho cuộc
xung đột sắc tộc 1960). Bà lão trông có vẻ rất vội vã, nhưng cũng không quên
cám ơn và ghi lại địa chỉ của chàng trai.
Bảy ngày trôi qua, cánh cửa nhà chàng trai tốt bụng vang lên tiếng gõ cửa.
Chàng trai ngạc nhiên hết sức khi thấy một cái tivi khổng lồ ngay trước cửa
nhà mình. Một lá thư được đính kèm, trong đó viết: “Cảm ơn cháu vì đã cho bà
đi nhờ xe vào cái đêm mưa hôm ấy. Cơn mưa không những đã làm ướt sũng quần áo
mà nó còn làm lạnh buốt trái tim và tinh thần của bà nữa. Rồi thì lúc đó cháu
đã xuất hiện như một thiên thần. Nhờ có cháu, bà đã được gặp người chồng tội
nghiệp của mình trước khi ông ấy trút hơi thở cuối cùng. Một lần nữa bà muốn
cảm ơn cháu đã không nề hà khi giúp đỡ bà.”
Cuối thư là dòng chữ: “Chân thành – Bà Nat King Cole”.
Bài số 4: Bài học về lòng biết ơn :
Vào cái thời khi mà món kem nước hoa quả còn rất rẻ tiền, có một câu chuyện
về cậu bé 10 tuổi thế này:
Ngày nọ, Jim – tên của cậu bé – sau một hồi đi qua đi lại, ngó nghiêng vào
cửa hàng giải khát đông nhất nhì thành phố, nơi có món kem nước hoa quả mà
cậu rất thích, mạnh dạng tiến lại gần cái cửa, đẩy nhẹ và bước vào. Chọn một
bàn trống, cậu nhẹ nhàng ngồi xuống ghế và đợi người phục vụ đến.
Chỉ vài phút sau, một người nữ phục vụ tiến lại gần Jim và đặt trước mặt cậu
một ly nước lọc. Ngước nhìn cô phục vụ, cậu bé hỏi: “Cho cháu hỏi bao nhiêu
tiền một đĩa kem nước hoa quả ạ?”. “50 xu“, cô phục vụ trả lời. Nghe vậy, Jim
liền móc trong túi quần ra một số đồng xu lẻ, nhẩm tính một hồi, cậu hỏi
tiếp: “Thế bao nhiêu tiền một đĩa kem bình thường ạ?”. “35 xu”, người phục vụ
vẫn kiên nhẫn trả lời cậu bé mặc dù lúc đó khách vào cửa hàng đã rất đông và
đang đợi cô. Cuối cùng, người nữ phục vụ cũng mang đến cho Jim món kem mà cậu
yêu cầu, và sang phục vụ những bàn khác. Cậu bé ăn xong kem, để lại tiền trên
bàn và ra về.
Khi người phục vụ quay trở lại để dọn bàn, cô ấy đã bật khóc khi nhìn thấy 2
đồng kẽm (1 đồng bằng 5 xu) và 5 đồng xu lẻ được đặt ngay ngắn trên bàn, bên
cạnh 35 xu trả cho đĩa kem mà Jim đã gọi – Jim đã không thể có món kem nước
hoa quả mà cậu ấy thích bởi vì cậu ấy chỉ có đủ tiền để trả cho một đĩa kem
bình thường và một ít tiền boa cho cô.
Bài Học Số 5: Bài Học Về Sự Hy Sinh :
Đã lâu lắm rồi, nhiều năm đã trôi qua, khi tôi còn là tình nguyện viên tại
một bệnh viện, tôi có biết một cô gái nhỏ tên Liz – cô ấy đang mắc phải một
căn bệnh rất hiểm nghèo.
Cơ hội sống sót duy nhất của cô là được thay máu từ người anh trai 5 tuổi của
mình, người đã vượt qua được cơn bạo bệnh tương tự một cách lạ thường nhờ
những kháng thể đặc biệt trong cơ thể. Bác sĩ đã trao đổi và giải thích điều
này với cậu bé trước khi yêu cầu cậu đồng ý cho cô em gái những giọt máu của
mình. Lúc ấy, tôi đã nhìn thấy sự lưỡng lự thoáng qua trên khuôn mặt bé nhỏ
kia. Cuối cùng, với một hơi thở thật sâu và dứt khoát cậu bé đã trả lời rằng:
“Cháu đồng ý làm điều đó để cứu em cháu”.
Nằm trên chiếc giường kế bên em gái để thuận tiện hơn cho việc truyền máu,
cậu bé liếc nhìn em gái và đôi mắt ngời lên niềm vui khi thấy đôi má cô bé
hồng lên theo từng giọt máu được chuyền sang từ người cậu. Nhưng rồi, khuôn
mặt cậu bỗng trở nên tái xanh đầy lo lắng, cậu bé ngước nhìn vị bác sĩ và hỏi
với một giọng run run: “Cháu sẽ chết bây giờ phải không bác sĩ?” Thì ra, cậu
bé non nớt của chúng ta đã nghĩ rằng: cậu ta sẽ cho cô em gái tất cả máu
trong người mình để cứu cô ấy và rồi cậu sẽ chết thay cô.
Bạn thấy không, sau tất cả những hiểu lầm và hành động của mình, cậu bé đã có
tất cả nhờ đức hy sinh… Cuộc sống có câu: “Hãy cho đi thứ bạn
có, rồi bạn sẽ được đền bù xứng đáng”.

Sự Chết

Sự Chết

Bảo Ân, SJ

Sống trong truyền thống Công giáo, tháng 11 nhắc nhớ tôi về mầu nhiệm sự chết. Trí nhớ tôi như bị hút về bao phản ứng khác nhau của những người ở lại trước cái chết của người
thân. Khóc. Cười. Cãi vã. Hối tiếc. Cảm xúc. Suy tư. Những phản ứng ấy của người cũng đang ẩn hiện trong tôi khi tưởng nghĩ về cái chết.

Đối diện với sự ra đi của người thân, tuy có nhiều tâm tình khác nhau nhưng phần nhiều vẫn là một cảm giác hối tiếc. Cái chết của người nhắc nhở tôi về trách nhiệm yêu thương và quan tâm mà tôi dành cho họ. Thường thường tôi hối tiếc vì chưa quan tâm đủ. Có những niềm thương sâu kín muốn sẻ chia, mà sao sự hiện diện hữu hình của người đôi khi làm tôi ngập ngừng. Có những mong mỏi người tiến bộ hơn, thành nhân hơn mà tôi không tiện nói. Cũng có những oán hờn, ghen tương đang đào sâu hố tương quan giữa tôi với người. Và thậm chí có cả những ác ý trả thù nếu người lỡ gây cho tôi những niềm đau. Những bức tường vô hình và cả hữu hình kia cứ làm cho tình yêu tôi dành cho người vơi dần… vơi
dần.

Cái chết của người lại là thời điểm để những niềm đau chôn giấu và những niềm yêu ẩn sâu nơi tôi vùng sống dậy. Giờ đây những rào cản kia đã mất, chỉ còn lòng tôi đối diện với hồn người. Tôi thấy như người nhìn rõ tôi hơn, hiểu tôi hơn. Vậy còn gì nữa để mà che giấu? Hãy để cho những nỗi niềm ẩn kín trong tôi được đối diện với vong linh người. Nước mắt. Tôi khóc buồn tiễn đưa người hay khóc vui vì người đã giúp tôi sống thật với chính mình? Cười. Tôi cười mừng cho người vì đã được giải thoát nơi cõi thiên đường hay cười sầu cho tôi vì còn bị giam hãm nơi thế gian này?

Quay về với thực tại, ước muốn sống thật với chính mình của tôi lại gặp những trở ngăn của kiếp người hữu hạn. Tôi giới hạn ngay cả trong cách nắm bắt mình, diễn tả mình. Người giới hạn vì chỉ có thể hiểu tôi một phần. Trách ai? Đòi hỏi gì hơn? Ngày nào còn ở trong phận người tôi vẫn còn cô đơn. Tập sống với những nghèo nàn kia tôi sẽ bình an hơn. Vậy hóa ra, sự ra đi của người là cơ hội để tôi chiêm nghiệm cuộc sống này thêm sâu lắng.

Chiêm nghiệm để sống. Tôi cũng cần lắm những cái chết để sống thật, sống đúng. Bám vào danh dự, chức vụ, lợi lộc của đời làm tôi nhìn người cũng bằng những tiêu chuẩn ấy. Tôi đeo mặt nạ và tôi cũng tưởng người đeo mặt nạ như tôi. Tương quan giữa tôi và người chỉ là những chiếc mặt nạ thôi sao? Giữ chặt ý riêng, tôi nghe tâm sự của người qua một bộ lọc. Người sợ chẳng dám cởi mở lần nữa với tôi vì bộ lọc ấy vững quá, cứng quá. Còn tôi thì cho người là thiếu đối thoại, lười suy nghĩ… Chết đi cho những mặt nạ, bộ lọc ấy, tôi mới sống thật với sự nghèo nàn của mình, mới sống đúng cho một tương quan thân ái giữa tôi và người.

Suy nghĩ về cái chết dù của người hay của mình, con người tôi như bị lột trần. Nhờ sự trần trụi ấy mà tôi được một lần nhìn thấy những ý hướng ẩn kín đang chuyển động ngổn ngang nơi lòng mình. Sự chết cũng nhắc nhớ tôi về ý nghĩa cuộc hiện sinh này. Thấy mình, nhận ra ý nghĩa, tôi phải thay đổi để sự chết không còn là nỗi sợ trong tôi. Sợ vì mình chưa yêu đủ. Sợ vì mình chưa làm hòa với chính mình. Sợ vì mình còn mê lầm. Sợ vì mình chưa một lần sống có ý nghĩa. Sự  chết phải chăng là tiếng chuông cảnh tỉnh của Đấng Tối Cao?  Nếu thế, xin tạ ơn Người.

Tác giả bài viết: Bảo Ân, SJ

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

MỘT KINH KÍNH MỪNG BẰNG MỘT ĐỒNG ĐÔ LA

MỘT KINH KÍNH MỪNG BẰNG MỘT ĐỒNG ĐÔ LA

(THÁNG CẦU CHO CÁC LINH HỒN)

Tác giả: Tuyết Mai

Sở dĩ sao tôi lại nói như thế? Thưa có phải khi ta đọc kinh dâng Chúa nó cũng khó khăn như khi ta kiếm được một đồng đô la, để ta bỏ giỏ Nhà Thờ hằng tuần hay không?.   Có ai trong chúng ta cảm thấy rằng dù bỏ thời giờ cả ngày ra mà đọc dâng kinh, nhất là các ông bà có thời giờ rảnh ở nhà cũng chẳng thấy thấm tháp vào đâu?.   Vì biết rằng Linh Hồn anh chị em của chúng ta có số đông “hằng hà sa số” đang sống trong Luyện Ngục, đang rất cần chúng ta dâng kinh cầu nguyện cho họ.

Có phải chúng ta thường nói với nhau “người nghèo đói thì ở khắp mọi nơi, thương quá … xót quá … nhưng sao ta có thể giúp cho cả thế giới hết được cái nạn đói nghèo, thưa có đúng
không?.   Nhưng có phải việc con người nghèo khổ đã có suốt từ thời ông tổ của chúng ta cho đến nay, và đó có phải là việc của Thiên Chúa?.   Còn việc và bổn phận của chúng ta là luôn sống trải lòng trong khả năng của chúng ta có.   Có nhiều thì ta trải nhiều.   Có ít thì ta trải ít.   Nhưng nếu không có một giọt nước bỏ vào lòng đại dương, thì bảo đảm không bao lâu cả đại dương sẽ thiếu (nhiều) giọt nước (chia sẻ) ấy!.

Sở dĩ một bài kinh tôi so giá trị của nó bằng một đồng đô la ta cho người nghèo khổ.   Vì có
phải một đồng đô la ta giúp được người nghèo cái bao bánh, ổ bánh mì sandwich, một bình nước, một bao kẹo, v.v… nếu được mua trong tiệm 99 cents hay không? Thì một bài kinh Kính Mừng cũng có giá trị tương đương cho những Linh Hồn anh chị em chúng ta đang bị giam cầm Nơi Luyện Ngục.   Dù trí hiểu biết của chúng ta rất có giới hạn, nhưng một bài kinh ta đọc có ý chỉ cầu nguyện cho họ thì giá trị của nó cũng giống như những đồng đô ta giúp cho người nghèo, chứa đựng trong cái nón khiêm nhường của họ.

Có phải ai cũng nghĩ rằng ôi 50 cents của ta thì giúp gì được cho ai, thôi thế thì ta không cho nữa vì nó ít ỏi quá! Nhưng ta lại không hiểu rằng phải có được 50 cents thì người
nghèo mới có được 1 đô la chứ!?.   Và hành động ta cho ấy sẽ làm cho nhiều người khác họ bắt chước theo!?.   Có ai nhớ câu chuyện nói về con người hay rất thường bắt chước lẫn nhau, cho nên họ làm cái test này là cho một người đứng giữa đường nơi có rất đông người ở tại thành phố New York.  Anh ta cứ đứng đó ngửa mặt lên Trời như tìm kiếm gì trên đó, và y như rằng chỉ cần 5 phút sau, đã thấy tất cả mọi người cũng ngửa đầu lên Trời mà không biết
sao họ làm như vậy??.

Rồi thì họ cũng thử một cái test khác cùng một nơi và cùng một người đứng chờ để băng ngang qua đường khi đèn đang đỏ; anh ta đột xuất băng qua đường thì buồn cười thay là hết thảy mọi người sau lưng anh cũng bắt chước đi theo, mà không ai nhìn biết là đèn đỏ
hay xanh??.

Vì thế cho nên có rất nhiều những bắt chước thật vô bổ nhưng ta cũng nên lợi dụng những cái bắt chước  y để biến thành điều làm tốt lành, nhất là trong tháng 11 Cầu cho các Linh Hồn đang trong Luyện Ngục.   Rất cần sự đóng góp tích cực của chúng ta  cách liên lỉ! Để Thời Gian về Trời của họ sẽ được nhanh chóng hơn và bớt khổ đau hơn.   Trong số đó biết đâu có ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, và bằng hữu của chúng ta?.   Có nghĩa khi ai xin tiền dù nhiều hay ít ta cứ cho rồi Chúa sẽ thưởng công cho.   Đó là vì chúng ta muốn hy
sinh, muốn được chia sẻ , khi chúng ta chỉ cần nhịn một ly cà phê buổi sáng, một gói bánh ăn vặt trong ngày, hay bất cứ sự hy sinh nhỏ bé nào cũng là sự đóng góp rất to lớn và rất cần cho anh chị em chúng ta Nơi Luyện Ngục.

Ngoài việc ăn chay, hãm mình, và hy sinh chúng ta cũng nên hy sinh thời giờ đọc kinh Mân Côi nhiều hơn trong tháng này, anh chị em nhé!.   Quan trọng lắm thay khi hết thảy
chúng ta nghĩ được rằng trong tương lai rất gần, chúng ta sẽ lần lượt từng người một phải vào Nơi đó!.   Và có quá đau khổ không khi ấy Linh Hồn của chúng ta nó nghèo xơ nghèo xác, ngay cả không có thể ngửa tay xin ai được ban cho ta một Kinh Mân Côi để cho đỡ nóng và đỡ thời gian mong chờ trong mỏi mòn trong tiếc nuối, vì khi ta sống đã không biết để “chuẩn bị”.   Vì thế sự “Cho đi” là điều khôn ngoan nhất của một con người khi còn sống trên cõi đời ô trọc này.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

(11-03-12)

 

 

 

CHUỖI HỒNG THƯƠNG MẾN

CHUỖI HỒNG THƯƠNG MẾN

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Mấy ngày nay trên các mạng truyền thông, sự kiện thu hút dư luận nhất là sự kiện cô
sinh viên trẻ Nguyễn Phương Uyên, 20 tuổi, bị bắt ( ngày 16 tháng 10 ) với những tình tiết khó hiểu và lý do khó hiểu, đã có nhiều bài báo nói về sư kiện này, còn có cả một thư kiến nghị của giới trí thức, nhân sĩ ( 147 vị, đề ngày 30 tháng 10 ) ký tên gởi Chủ Tịch Nước đề nghị xem xét giải quyết trường hợp Phương Uyên, trong danh sách 147 vị ký tên chúng ta thấy tên Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám Mục Giáo Phận Vinh và cha Huỳnh Công Minh, Tổng Giáo Phận Sàigòn, trong kiến nghị có đoạn viết : “Chúng tôi đề nghị Chủ Tịch Nước, với trọng trách của mình, chỉ thị cho các cơ quan có trách nhiệm trả tự do ngay cho cháu Nguyễn Phương Uyên để cháu nhanh chóng trở lại nhà trường…”

Cùng lúc đó một sự kiện khác xảy ra, một người con gái trẻ ngoài 20 tuổi, Anna Huyền Trang, cộng tác viên của nhóm Truyền Thông Chúa Cứu Thế bị bắt khi đang đi ngoài công viên trước Hội Trường Thống Nhất ( Dinh Độc Lập cũ ) đúng vào ngày xử án hai nhạc sĩ Việt Khang và Anh Bình ( ngày 30 tháng 10 ). Huyền Trang bị bắt ( lúc 10g30 ) và đưa về trụ sở Công An Phường Cầu Kho giam giữ tới tối, những diễn biến trong ngày hôm đó xảy ra với Huyền Trang đã được Huyền Trang tường thuât trên trang mạng của Dòng Chúa Cứu Thế.

Ngày xưa khi thời còn trai trẻ ở Sàigòn, tôi không thuộc thành phần đi biểu tình
xuống đường chống đối, thậm chí tôi không thích tham gia vào những chuyện đó,
dù khi ấy những người xách động đã mắng chửi chúng tôi hèn nhát, có khi còn đe
dọa chúng tôi nữa, nhưng khi xem hình nữ sinh Quách Thị Trang gục chết ở công
viên trước chợ Bến Thành, thân thể đẫm máu, tôi không thể không có cảm xúc, một
nỗi thương cảm cho thân phận người con gái đã nằm xuống đau đớn khi còn quá
trẻ, một nỗi tiếc thương nặng nề đè nén tâm tư.

Chiều tối ngày 30 tháng 10 khi Huyền Trang vừa từ trụ sở Công An Cầu Kho trở về, Huyền Trang đã có một buổi chia sẻ nhanh với các anh chị bạn bè làm truyền thông với Huyền Trang, khi tôi bước vào phòng sinh hoạt thì Trang đang chia sẻ dở dang câu chuyện, tôi ghé thăm một chút nên đã không nghe được hết câu chuyện, chỉ sau này khi đọc trên mạng tôi mới biết những chi tiết khác. Trong vài phút ngắn tôi ngồi nghe chuyện, khi nói về việc Công An lục soát trong cơ thể Huyền Trang, cô bé ngây thơ rụt rè ngập ngừng mỗi khi phải nói về những hành động thô bạo đó, khi đến sự kiện người ta lôi Huyền Trang vào buồng tắm và cưỡng bức lột quần áo, Trang không nói được nữa, mắt hoen đỏ rồi những giọt lệ trào ra, lúc ấy tôi cảm nhận được sự xúc phạm nặng nề mà họ đã dành cho Huyền Trang, dành cho một người con gái vừa lớn, vừa bước vào đời, ngây thơ trong sáng. Bóp mũi người khác, vả mặt người khác, nhục mạ người khác, … là những hành vi xúc phạm nhân phẩm, cho dù đó là một tên tội phạm thì cũng không được làm như thế. Phải nói đây lại là một hành vi tồi tệ mất nhân cách !

Bị xúc phạm như vậy nhưng trong bài tường thuật, Huyền Trang vẫn cứ một giọng văn,
một tâm tình từ đầu chí cuối là ôn hòa, nhẫn nại, bình tĩnh, quảng đại, khoan dung, đầy nhân cách và đặc biệt điều tôi muốn nói là đầy tính Tin Mừng. Trang xác tín vào chuỗi Mai Khôi, xác tín vào sức mạnh của lời cầu nguyện, xác tín vào quyền năng của chuỗi hồng thương mến, xác tín vào sự bình an và tình thương của Chúa. Khi gặp, Huyền Trang đã đưa cho tôi chuỗi Mai Khôi bị đứt làm hai, Huyền Trang nói: “Con tức lắm, họ giật đứt chuỗi của con rồi còn thách thức con nữa”, mắt cô bé lại ngấn lệ tay nắm chặt chuỗi hồng thương mến.

Chúng ta đã khai mạc Năm Đức Tin. Đức Tin không chỉ là những bài Thần Học dài lê thê
nặng nề cao siêu, nhưng Đức Tin đã được một người con gái bé bỏng, xa lạ với  những ngôn từ Thần Học, nhưng lại cảm tạ, tuyên xưng, cử hành, sống và chia sẻ rất giản đơn, rất hiệu quả, bằng chứng là những con người đang cuồng nộ bỗng thay đổi thái độ và trở nên tử tế. Đức Tin không chỉ làm cho người ta thỏa mãn những ý tưởng phiêu du bóng bảy nhưng lại có khả năng làm cho một cô gái đơn sơ nhìn kẻ đánh mình, hành hạ mình, mắng chửi mình, nhục mạ mình, rồi sau đó thuật lại cho mọi người là “chị Công An xinh đẹp, hiền từ”. Nhìn thấy cái đẹp nơi con người nhục mạ hành hạ mình đó là khả năng diệu kỳ của Đức Tin.

Chúng ta cảm tạ hồng ân Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, qua hoàn cảnh, Chúa gởi đến
cho chúng ta bài học Đức Tin sống động, nếu mỗi người Kito hữu chúng ta cố gắng
sống Đức Tin một cách sống động như thế, chúng ta hoàn toàn có thể làm “đổi mới
mặt địa cầu”.

Vâng, chính nhờ đời sống Đức Tin chứ không phải do tài năng nào khác !

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

3.11.2012

nguồn: trích báo Ephata 534

conggiaovietnam.net

 

TÔI THEO ĐẠO TRỜI

TÔI THEO ĐẠO TRỜI

1. Đạo Trời là gì ?
Đạo Trời là lòng tin tưởng một vị linh thiêng, tự hữu, toàn năng, toàn thiện, chí công, chí minh, ngự trên Trời; Đấng ấy gọi nôm là Ông Trời, là Tạo Hóa, là Thượng Đế, là Đấng Tối Cao, tùy tiếng nói của mỗi dân tộc.
2. Tại sao nhận biết có Trời ?
Nhìn vào vũ trụ bao la, tinh vi huyền diệu, tôi nhận rằng phải có bàn tay
tác tạo…
Ta xem một chiếc đồng hồ,
Nếu không có thợ, bao giờ thành thân,
Phương chi máy tạo xoay vần,
Tứ thời bát tiết muôn phần lạ hơn,
Nên ta phải lấy trí khôn,
Luận rằng có Đấng Chí Tôn sinh thành.
Con chim nó hót trên cành,
Nếu trời không có, có mình làm sao ?
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có thì sao có mình ?
Trời là gốc của vạn vật “Thiên giả vạn vật chi tổ” ( Trọng Thư )
3. Những ai tin tưởng có Trời ?
Có thể nói rằng hầu hết nhân loại tin tưởng có Trời. Tính tự nhiên của con
người, khi gặp nguy biến, đều kêu Trời ! Ca dao bình dân có bài:
Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nuớc tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm…
4. Đạo Trời có phải riêng cho một nước nào không ?
Đạo Trời chung cho mọi nước, mọi thời. “Thiên giả vạn vật chi tổ” ( Trọng Thư ); Đạo sáng suốt là bởi Trời ban xuống “Minh Đạo chi bản nguyên, xuất ư Thiên” ( Khổng Tử ).
5. Làm thế nào biết được Đạo Trời ở nơi mỗi người ?
Trời ban cho mỗi người có lương tri, lương tâm như ngọn đèn soi cho ta biết
đâu là thật, đâu là dối, đâu là lành, đâu là dữ, đâu là phúc, đâu là tội, để ta
lái mọi tư tưởng, hành động của ta sao cho hợp với đường lối của Trời. “Tri
Thiên đạo, hành thân dĩ nhân nghĩa” ( Biết Đạo Trời thì ăn ở theo nhân nghĩa –
Khổng Tử )
6. Mỗi người phải giữ Đạo Trời thế nào ?
Phải cố gắng tìm cho thấy rõ Đạo Trời. Phải lấy Đạo mà hướng dẫn đời sống –
theo lương tâm mà lấy điều thiện làm vui, lấy đạo lý làm trọng – phải nhớ luật
của Trời làm lành sẽ được thưởng, làm dữ sẽ bị phạ “Thiên vọng khôi khôi, sơ
nhi bất lậu”. ( Lưới trời rộng, thưa mà không lọt đâu ).
7. Bình thường, người ta thờ Trời như thế nào ?
Mỗi gia đình thường có bàn thờ trong nhà để thờ Trời và Ông Bà Tổ Tiên; có
người xây trụ ở ngoài sân trước nhà, sớm tối vái lạy; thỉnh thoảng dâng hương
nến, hoa quả để tỏ lòng tri ân.
8. Đạo Trời dạy ta phải cư xử với nhau như thế nào ?
Trời là gốc, là cha mẹ sinh thành, thì phải coi mọi người là anh chị em với
nhau và cư xử như một đại gia đình nhân loại, lấy tình thương mà bao bọc.
9. Đạo Trời có từ bao giờ ?
Đạo Trời có từ khi Trời tác tạo ra con người có trí khôn biết suy luận, biết
hướng về Trời, biết xem ý Trời thế nào mà hành động.
10. Ý Trời thế nào ?
Ý Trời là lương tri, lương tâm, Trời đã đặt trong lòng mỗi người, khác nào hạt giống đặt vào đất, sẽ dần dần nẩy mầm vươn lên thành cây, sinh hoa kết quả, thế là đạt tới mức độ mà ý Trời mong muốn.
11. Đạo Trời đưa người ta đến đâu ?
Đạo Trời đưa người ta về tới Trời. Trời là nguồn hạnh phúc vô cùng vô biên
mà lòng người khao khát.
12. Sống đạo Trời có dễ không ?
Dễ hay khó là tại mỗi người. E dè thì khó. Cương quyết thì dễ. Sống theo luơng tâm, làm lành lánh dữ. “Vi thiện tối lạc” ( làm lành thì rất vui ). “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông” ( Nguyễn Bá Học ).
13. Trên đường thực hiện đạo Trời, người ta gặp những kẻ thù nào ?
Có ba loại: Một là ngay ở trong mình. Đó là tính mê nết xấu, dục vọng đê
hèn… Hai là thế tục cám dỗ lôi cuốn đi vào sa đọa trụy lạc. Ba là Xa-tan ác
quỷ, luôn tìm hại con người.
14. Con người đối phó thế nào với 3 loại kẻ thù nói trên ?
Phải tự tu tỉnh và kêu cứu kịp thời:
a. Tự tu là sửa trị tính nết xấu, loại trừ những sâu mọt đục khoét trong mình
b. Tự tỉnh là tỉnh táo đề phòng, tránh xa những cạm bẫy do thế tục giương lên
để bắt mình
c. Kêu cứu kịp thời và xin Trời hộ giúp để Xa-tan ác quỷ không hại được mình.
Kẻ lành thánh, người khôn ngoan nhờ 3 việc đó là lúc nào cũng vững như kiềng 3
chân. “Trời giúp kẻ tự giúp”.
Chim khôn xa tránh lưới dò,
Người khôn tránh chốn ô đồ mới khôn.
15. Xa-tan ác quỷ ở đâu ra và mưu hại con người đến thế nào ?
Nó là một loài do Trời sinh ra, rồi vì tự kiêu tự đại mà phản bội với Trời,
nên nó muốn phá việc của Trời, và không muốn cho con người trở về với Trời, vì
như thế thì Trời được vinh hiển và con người được hạnh phúc thật. Xa-tan không
làm gì được Trời, nhưng chỉ làm hại được con người bằng cách lôi cuốn dụ dỗ con
người xa Trời, phản bội với Trời như nó. Người nào mắc mưu Xa-tan là đi đến chỗ
tự sát và đồng khổ cực với nó sau này mãi mãi.
16. Có ai thắng được Xa-tan ác quỷ chưa?
Các bậc thánh nhân lấy Đạo Trời làm lẽ sống, luôn cậy dựa quyền năng của
Trời, bền chí quyết giữ Đạo dù chết cũng không bỏ. Những vị đó đã thắng được
Xa-tan.
17. Đạo Trời từ xưa tới nay được công bố như thế nào ?
Lịch sử Đạo Trời là lịch sử nhân loại, vì Đạo Trời là đường lối để Trời đi
xuống với nhân loại bằng cách tác tạo nên ta, và cũng là đường lối để nhân loại
ta đi lên với Trời, đó là trở về nguồn chơn phúc vô biên mà ta khát vọng.
Đạo Trời được công bố bằng ba hình thức:
Hình thức thứ nhất là in sẵn vào tâm hồn mỗi người khi sinh ra. Đến tuổi
khôn người ta nhìn thấy trong lòng mình ý nghĩa thế nào là lành, thế nào là dữ,
đâu là phúc, đâu là tội, và khi làm trái lương tâm thì người ta thấy bứt rứt
sầu khổ.
Hình thức thứ hai là đi vào lịch sử thực sự. Trời chọn một dân tộc, giao cho
sứ mạng duy trì, phổ biến ý niệm về Đạo Trời, kêu gọi các dân tộc khác giác ngộ
từ bỏ những tà thần mà Xa-tan đã bày đặt ra để lừa dối con người. Hình thức thứ
hai này đã được thực hiện trong lịch sử dân Do Thái. Đạo luật của Trời xưa chỉ
in trong lòng người thì đã được in vào bia đá trên núi Xi-nai và trao cho thủ
lĩnh Mô-sê đem công bố cho dân một cách long trọng vào khoảng 1.250 năm trước
Công Lịch.
Hình thức thứ ba tiếp tục lịch sử thực sự. Đó là việc Trời cử một Ngôi vị
giáng trần, nhập thể làm một Con Người để sống với con người chúng ta, trực
tiếp nói với nhân loại đường lối của Đạo Trời, và cho chúng ta biết Trời yêu
thương ta như Cha yêu thương con, cùng dạy ta cách thức cầu nguyện thông hiệp
với Trời. Ngôi vị Trời giáng trần đây chính là Đức Giê-su Ki-tô mà thân thế và
sự nghiệp đã được lịch sử ghi nhận rõ ràng – và sự giáng trần của Ngài đã dựng
nên một cái mốc phân chia lịch sử làm hai giai đoạn:
– Trước Ngài ( BC ): Tính từ Ngài lui về trước.
– Sau Ngài ( PC ): Tính từ Ngài cho tới nay.
Và cũng từ ngày Đức Giê-su Ki-tô di vào lịch sử nhân loại, Đạo Trời được sáng
tỏ và mang thêm một tên mới là Ki-tô Giáo.
18. Việc Đức Giê-su Ki-tô đến có lợi gì cho nhân loại ?
Lợi rất nhiều, rất lớn, rất cần thiết:
a.    Chính nhờ sự hy sinh của Ngài, nhân loại được Chúa Trời ( Thiên Chúa ) nhận vào hàng con cái và cho hưởng gia nghiệp Thiên Quốc nếu trung thành.
b.    Nhờ lời giáo huấn và gương sống của Ngài, ta biết được gốc ngọn của mình, biết được lẽ sống chân chính, biết được đường lối trở về với Chúa Trời.
c.    Nhờ sự trung gian của Ngài, nhân loại lại được giao hòa với Chúa Trời.
d.    Nhờ quyền năng, biểu hiện trong cuộc sống lại ( Phục Sinh ) của Ngài, cũng là nhờ Chúa Thánh Thần, nhân loại được ơn thiêng hỗ trợ để thắng các mưu chước của bè lu Xa-tan, để tiến tới Quê thật là Nước Trời.
Ai theo Đức Giê-su Ki-tô thì được sống hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là đồng nhất với Đức Giê-su Ki-tô, trong Chúa Thánh Thần, trở nên con chí ái của Cha trên Trời.
19. Sự nghiệp của Đức Giê-su Ki-tô còn tiếp tục trong nhân loại bằng cách nào ?
Vì Đức Giê-su Ki-tô là một Ngôi Trời giáng thế, nên sau khi hoàn thành sứ mệnh, Ngài về Trời. Nhưng sự nghiệp của Ngài cần phổ cập đến mọi người và trong mọi thế hệ, nên Ngài đã lập một hội đoàn để duy trì, phổ biến những chân lý về Đạo Trời cho kẻ hậu lai khỏi bị Xa-tan lừa dối mà thiệt phần vĩnh phúc chăng.
Hội đoàn mà Đức Giê-su Ki-tô để lại, đó là Hội Thánh, do các Tông Đồ kế tiếp nhau coi sóc. Vị Tông Đồ Trưởng gọi là Giáo Hoàng, là thủ lãnh thay mặt Chúa Giê-su lãnh đạo Hội Thánh. Thánh Phê-rô là vị Giáo Hoàng đầu tiên do chính Chúa Giê-su chỉ định; và vị Giáo Hoàng hiện tại, vừa mới về Trời, là Đức Gio-an Phao-lô đệ nhị, vị Giáo Hoàng thứ 265, coi sóc hướng dẫn Hội Thánh từ năm 1978 đến năm nay, 2005.
20. Muốn học hỏi gia nhập Đạo Trời ( Đạo Thiên Chúa ), ta có thể căn cứ vào đâu và ta đến với ai ?
Căn cứ vào sử sách, vào uy tín và công cuộc của Hội Thánh đã thực hiện từ gần hai ngàn năm nay ở khắp mọi nơi trên thế giới. Bộ sách Thánh Kinh gồm phần Cựu Ước ( Đạo Trời do Ông Mô-sê và các Ngôn Sứ ghi chép trước Chúa Giáng Sinh ) và phần Tân Ước ( Đạo Trời do chính Chúa Giê-su và các môn đệ đầu tiên ghi chép ): Là bộ sách được phổ biến rộng rãi nhất từ xưa tới nay. Nước nào cũng có Thánh Kinh, có sách Giáo Lý in bằng tiếng nước ấy, nên việc học hỏi Đạo đuợc dễ dàng. Còn việc gia nhập Đạo cũng được các vị đại diện của Hội Thánh chỉ bảo cặn kẽ và tiếp đón nồng hậu.
Dù nhiều khi bị hiểu lầm, bị ghen ghét, bị bách hại, Hội Thánh vẫn phát triễn bất chấp mọi trở lực, khiến con số giáo hữu ngày nay đã tới hàng tỷ người.
Xưa kia chỉ biết kêu Trời,
Ngày nay lại biết Chúa Trời là Cha.
Trần gian chưa phải là Nhà,
Thiên Đàng vĩnh phúc mới là chính Quê.
Chữ rằng “Sinh ký tử quy”,
Nghĩa là: “Sống gởi thác về đời sau”.
21. Tại sao có người đang giữ đạo tự nhiên, ăn ngay ở lành, danh thơm tiếng tốt rồi, mà khi gặp Đạo Trời, lại tin theo ?
Vì Đạo tự nhiên thực ra cũng là Đạo Trời, nhưng ở giai đoạn sơ khai. Vả lại
giữ Đạo có phải cốt cho được danh thơm tiếng tốt ở đời này đâu, nhưng là cốt
làm đầy đủ đức hiếu thảo đối với Trời là Đấng sinh thành dưỡng dục và thưởng
phạt người ta sau này. Vì thế khi gặp được Đạo Trời ở giai đoạn hoàn toàn trọn
vẹn thì không thể không theo cho được.
Đức Giê-su đã ví Đạo Trời như viên ngọc quý giá đặc biệt mà một đời người
chỉ gặp thấy có một lần, nên ai khôn ngoan thật đều dẹp bỏ hết các thứ khác kém
cỏi để sắm cho bằng được thứ ngọc hảo hạng ấy. Những thứ ngọc khác đây có thể
coi là luân lý tự nhiên mà các bậc hiền nhân quân tử như Đức Khổng Tử, Mạnh Tử,
Tuân Tử, Mặc Tử, Lão Tử ở Trung Hoa; như Socrate, Platon, Aristote ở Hy Lạp,
như Đức Thích Ca ở Ấn Độ… đã theo luơng tâm thực hiện và phổ biến được phần
nào trong lúc sinh thời, đó là những sứ giả tiền phong của Đạo Trời.
Bởi thế khi chính Đạo Trời được công khai xuất hiện trong lịch sử với sự
giáng trần của Đức Giê-su Ki-tô, Con Trời hằng sống, thì vai trò của các sứ giả
đương nhiên chấm dứt, và lòng người tất nhiên hướng về Đạo Trời là chỗ có Chân
Lý hoàn toàn và Thiện Mỹ viên mãn vậy.
22. Đạo Trời đối với Đạo Ông Bà Tổ Tiên thế nào ?
Không có Trời thì làm gì có ông bà tổ tiên, vì chính tổ tiên cũng nhờ Trời
sinh Trời dưỡng, cũng do Trời đặt vào cái vũ trụ này, cho qua một cầu sinh tử
dài lắm là ba vạn sáu ngàn ngày, rồi cũng từ giã cõi trần mà về tới Trời rồi,
“sinh ký tử quy” là thế.
Đằng khác, chính đức hiếu nghĩa với tổ tiên cũng là do Trời in vào lòng ta,
nên hiếu nghĩa là theo hướng Trời sắp đặt, nhưng không nên dừng lại ở tổ tiên
mà phải đi xa hơn nữa, đến tận Trời mới là hiếu nghĩa vẹn toàn, mới là chính
đáng, vì Trời mới là gốc tổ mọi loài, còn ông bà tổ tiên chỉ là những móc nối
trung gian mà thôi.
23. Có người nghĩ rằng theo Đạo Trời thì không cúng thực phẫm đồ dùng cho ông bà để ông bà đói khổ, vì thế mà có người tuy mến Đạo Trời, vẫn chưa dám trở lại. Nghĩ thế có đúng chăng ?
Lòng thương nhớ ông bà đã quá cố là việc tốt, nhưng nghĩ rằng vong linh ông
bà còn cần cơm gạo bánh trái hay đồ dùng như khi còn sống thì không đúng, vì
linh hồn thiêng liêng không cần vật chất như xác, nhưng cúng quảy thực phẩm như
một nghi lễ để kính nhớ thì tốt. Việc hiếu nghĩa ta có thể làm là thành khẩn
cầu xin với Trời mở lượng hải hà: nhất xá vạn xá, cho ông bà vào hưởng phúc với
Trời sớm ngày nào hay ngày ấy, đó là thiết thực và cần cấp hơn hết.
Bên Công Giáo có việc cầu nguyện cho ông bà hằng ngày; mỗi năm lại dành hẳn
một tháng để toàn thể thế giới hợp ý thỉnh nguyện cho nữa. Ngoài ra, các ngày
kỷ niệm, tuần ba tuần bảy, tuần ba mươi, tuần trăm, giáp năm, hay giỗ đầu, giỗ
năm của gia đình nào thì gia đình nấy hoặc cả Họ Đạo cùng đọc kinh cầu nguyện
cho nữa. Cũng có thể tổ chức bữa ăn giỗ để phát huy tình cảm gia đình và gia
tộc. Xét thế, theo Đạo Trời, con cháu rất là hiếu nghĩa với ông bà tổ tiên.
24. Có người biết Đạo Trời là cần cho mình, nhưng vì sinh kế bận rộn, vì còn muốn sống dễ dãi, ngại chịu khó, nên chưa dám trở lại Đạo. Nghĩ thế có được chăng ?
Đạo lý tối đại, sao lại coi rẻ thế được. Sinh kế chỉ là phương tiện nhất thời, chớ có phải là cứu cánh của con người đâu. Ta nên biết, con người lúc nào cũng nhờ ơn Trời, sao ta lại quên vị Đại Ân Nhân của ta là Trời. Nếu ta muốn sống bừa bãi ngoài kỷ luật của lương tâm, tức là ta tự giảm giá và tự đặt mình vào tình trạng nguy cấp luôn luôn, vì ta không biết mình chết lúc nào – và chết rồi phải bị phán xét ngay lúc ấy, hối cũng không kịp.
Biết Trời thưởng phạt sau này,
Muốn sau được thưởng thì rày phải lo.
Gắng công Trời sẽ giúp cho,
Đạo lành gây dựng cơ đồ mai sau.
Mọi sự ở trên đời,
Một mai rồi cũng hết,
Việc lành dữ mà thôi,
Sẽ theo ta khi chết…
PHỤ LỤC:
Ý kiến của những người trở lại Đạo Thiên Chúa:
1.   Ông Lục Trưng Tường, nhà ngoại giao Trung Hoa, từ nhỏ là môn sinh của sân Trình cửa Khổng và chỉ có biết đạo Ông Bà Tổ Tiên, sau đã gặp được Đạo Công Giáo như gặp được kho báu, đã trở lại và tiến xa trên đường Đạo, đã hiến thân làm Linh Mục. Ông nói: “Ơn Cứu Độ là chỗ tập trung tất cả các nẻo đường, là chỗ độc nhất mà đức hiếu của loài người được tiếp vào đức hiếu thảo siêu nhiên mà Đức Ki-tô đã dạy và đã cho chúng ta hưởng thụ để kết hợp tất cả nhân loại với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên Trời”. ( x. The Ways of Confucius
and of Christ )
2.   Ông Ngô Gia Lễ, tri phủ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam ta, vì tiếp xúc với người Công Giáo, ông muốn tìm hiểu đạo lý, đã học sách Phúc Âm, đã nhận được tính cách siêu việt của Đức Ki-tô, Con Trời giáng thế, ông đã trở lại để được tâm giao với Trời qua Đức Ki-tô. Ông nói: “Tôi đã đọc Phúc Âm một cách thành kính. Tôi nhận thấy Đức Ki-tô không phải chỉ là một nhân vật khác thường, Ngài chính là con Thượng Đế đã đến để cứu đời. Tôi là một trong những kẻ được Ngài tỏ mình ra trong Phúc Âm”. ( x. Ông Tổ Đạo Công Giáo )
3. Ông Trịnh Sùng Ngộ, giáo sư triết học Đại Học Honolulu, nước
Huê Kỳ, nguyên đại sứ Trung Hoa Dân Quốc tại Vatican. Từ nhỏ đã sinh ra trong
gia đình thấm nhuần tư tưởng Lão Giáo, Khổng Giáo và Phật Giáo. Sau khi ông trở
lại ông đã giúp nhiều bạn hữu biết Đạo và đã đem hết tâm trí vào việc phiên
dịch Thánh Kinh và Kinh Thi ra tiếng Trung Hoa. Ông nói: “Thiên Chúa Giáo là
Đạo bởi Trời. Người ta lầm nếu cho đó là đạo của Âu Châu. Đạo dó không phải của
Âu Châu hay của Á Châu, không cũ không mới. Tôi cảm thấy Đạo đó tiềm ẩn ở trong
tôi một cách sâu đậm hơn cả Lão Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo là những đạo tôi đã
hấp thụ khi sinh trưởng. Tôi biết ơn những đạo này vì đã làm đà đưa tôi đến với
Đức Ki-tô. Sau nhiều năm lạc lõng, nay tôi được về với Đức Ki-tô để ở luôn với
Ngài thật là vui sướng vô biên. Tôi đã nhảy vọt lên trên thời gian rồi. Từ nay
sự sống động và bản thể của tôi đuợc đặt vào lãnh vực đời đời. Gia nhập Hội
Thánh Chúa Ki-tô, tôi đã không thiệt mất gì, nhưng đã được hoàn toàn mãn
nguyện” ( x. Par delà l’Est et l’Ouest ).
4.   Ông Mashaba, một học giả Ấn Độ, sau 20 năm tìm tòi suy luận
về Ấn Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo, Ba-la-môn Giáo, Do Thái Giáo, Thiên Chúa
Giáo, Lão Giáo, Hồi Giáo, Thần Đạo ( của người Nhựt Bổn ), Tin Lành Giáo, ông
đã phân tích như sau: “Sở dĩ mỗi tôn giáo có một công dụng khác nhau là vì mỗi
Giáo Tổ nhìn thấy một khía cạnh đau khổ của con người và tìm cách cứu giúp theo
khía cạnh đó. Bởi thế, có thứ kêu gọi từ bi quảng đại, có thứ chủ trương diệt
dục hy sinh, có thứ dùng hiếu thảo nhân nghĩa, có thứ giúp tu thân cứu đời,
công bình bác ái v.v… nhưng không tôn giáo nào được đầy đủ như Thiên Chúa
Giáo, vì Đạo này xây dựng cho con người một cuộc đời biết xả thân vì tình yêu
thương”.
Tưởng nhớ ông bà tổ tiên
Chương trình đơn giản khi cầu nguyện với tổ tiên bất cứ dịp nào:
1.   Thắp hương đèn trên bàn thờ
2.   Làm dấu hình Thánh Giá
3.   Nguyện Kinh Lạy Cha
4.   Nguyện: “Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen”.
5. Dâng lời nguyện với tổ tiên: “Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên ông bà nội ngoại…, hôm nay nhân ngày…, chúng con thắp nén hương bày tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn. Kính xin thương cầu nguyện cho chúng con được bình an mạnh khoẻ, được hòa thuận êm ấm và được mọi điều tốt đẹp như ý Thiên Chúa muốn…”
Nghi thức Lễ Cưới ở gia đình:
Ngày nay việc tổ chức đám cưới tại gia đình có thể diễn tiến theo nhiều dạng rất khác nhau. Tuy nhiên, trường hợp thông thường nhất vẫn là: sau Lễ Hôn Phối, nhà gái tổ chức mừng vu quy, và sau khi đón dâu về nhà, nhà trai tổ chức chúc mừng Lễ Thành Hôn. Nghi Lễ Vu Quy dưới đây cử hành khi nhà trai đến nhà gái đón dâu; nghi Lễ Thành Hôn cử hành khi cô dâu được đưa về nhà chồng. Nếu diễn tiến theo các cách khác, xin tùy nghi ứng biến.
A. Nghi thức Lễ Vu Quy:
Vị chủ hôn bên nhà trai, chú rể và họ hàng từ nhà trai tới nhà gái, dừng lại
ngoài cổng. Đại diện vào báo cho nhà gái ra đón mời vào. Rồi nghi thức như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời, giới thiệu lễ vật.
2. Nhà gái đáp lời chấp thuận và xin đưa lễ vật đến bàn thờ gia tiên để làm lễ.
3. Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn. ( xem Lễ Gia Tiên tiếp sau )
4. Chú rể và cô dâu vào chào cha mẹ và họ hàng bên vợ.
5. Uống nước hoặc ăn tiệc.
6.   Cuối giờ, chủ hôn nhà trai xin đón dâu, nhà gái đáp lời ưng
thuận…
B. Nghi thức Lễ Thành Hôn:
Đoàn đưa dâu về nhà trai, nhà trai mời vào. Người mẹ chồng đón con dâu vào
phòng nghỉ một lát rồi ra Lễ Gia Tiên. Nghi thức Lễ Gia Tiên như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời chào mừng và mời tới trước bàn thờ gia tiên làm lễ.
2. Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn.( xem Lễ Gia Tiên tiếp sau )
3. Cô dâu chú rể chào cha mẹ chồng và họ hàng bên chồng.
4. Uống nước hoặc ăn tiệc.
5.   Cuối cùng, vị chủ hôn nhà gái gởi gắm, nhà trai giã từ.
Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn:
1. Vị chủ hôn nói đại ý: “Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên, nhờ phúc đức
ông bà, tổ tiên, gia đình chúng con (hoặc nêu tên gia đình anh chị X… ) sinh
hạ được người con gái ( hoặc con trai ) là… và đã giáo dục cháu nên nguời.
Nay cháu được Chúa thương cho đẹp duyên cùng cháu… Chúng con xin đưa hai cháu
đến trước bàn thờ gia tiên. Xin phép cho hai cháu được dâng nén hương bày tỏ
lòng kính nhớ tri ân và thắp lên ngọn nến bày tỏ quyết tâm làm rạng danh tổ
tiên và vinh Danh Thiên Chúa. Xin các bậc tiền nhân bầu cử cho hai cháu được
trăm năm hạnh phúc, sống đẹp lòng cha mẹ họ hàng hai bên, chu toàn các trách
nhiệm hôn nhân và gia đình theo đúng ý của Chúa Trời”.
2. Cô dâu chú rể niệm hương: ( Một người đốt nhang sẵn và đưa cho cô dâu chú
rể, cả hai cùng vái 4 vái ).
3. Cô dâu chú rể thắp nến.
4. Vị chủ hôn tiếp lời: “Giờ đây chúng ta hướng đến Thiên Chúa là nguồn gốc
trên cùng của mọi gia tộc. Xin Ngài lấy tình Cha mà che chở gia đình mới…
“Lạy Cha chúng con…”
5. Đọc Lời Chúa: ( Ga 2, 1 – 11 )
6. Cô dâu và chú rể cùng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa đã đến trong
tiệc cưới Ca-na, ban ơn lành cho đôi bạn mới và gia đình hai bên. Nay qua Bí
Tích Hôn Phối, Chúa cũng đã đến trong gia đình chúng con, chúng con xin dâng
lời tạ ơn Chúa. Xin Chúa chúc lành cho cha mẹ chúng con, mỗi người trong gia
đình và họ hàng hai bên, và toàn thể ân nhân bạn hữu. Xưa Chúa đã biến đổi nước
thành rượu, ngày nay xin Chúa biến đổi tình yêu thương bé nhỏ giới hạn của
chúng con thành tình yêu thương bao la và nồng thắm của Chúa. Xin cho gia đình
chúng con biết tôn vinh Chúa, đem lại hạnh phúc cho nhau và niềm an ủi cho mọi
người. Chúa hằng sống hằng trị muôn đời. Amen”.
7. Kết thúc: Hát Kinh Hòa Bình hoặc một bài khác thích hợp…
Lm. NGUYỄN QUANG DUY, DCCT,

Gx. Long Hưng, Gp. Vĩnh Long, năm 2000, theo “Sứ Vụ Loan báo Tin Mừng”