TU VIỆN SUMELA, THỔ NHĨ KỲ –

TU VIỆN SUMELA, THỔ NHĨ KỲ –
Di sản văn hóa thế giới

Huyền bí tu viện cheo leo vách núi ở Thổ Nhĩ Kỳ

Được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới, tu viện Sumela là một công trình chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, tôn giáo và kiến trúc của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ.

Tu viện nằm cheo leo trên vách núi trong màn sương mờ ảo.

Tu viện Sumela nằm tại Trabzon, một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Thổ Nhĩ Kỳ, giáp với Biển Đen. Tu viện được xây dựng trên một vách núi cheo leo cao 1.200m. Do thời tiết quanh năm ẩm ướt cộng với sương mù thường xuất hiện nên tu viện cổ kính này luôn khoác trên mình vẻ âm u, huyền bí.

Để leo lên tu viện Sumela, du khách có hai sự lựa chọn. Một con đường hiện đại được xây dựng xuyên từ sườn bên kia của ngọn núi sang tu viện. Còn nếu bạn không ngại đi bộ, bạn hoàn toàn có thể trải nghiệm và đồng hành với một con đường xuyên rừng, leo lên sườn dốc để lên tu viện.

Lên một chiếc cầu thang chênh vênh bên sườn núi, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hệ thống dẫn nước được đặt trên những mái vòm nối tiếp nhau phía tay trái. Đây chính là nguồn nước duy nhất của những người sống trong tu viện. Ngày nay, các mái vòm đã được phục dựng khá hoàn thiện.

Cầu thang men theo sườn núi vào tu viện, bên trái là đường ống dẫn nước đặt trên những cột trụ cổng vòm.
Bao quát toàn cảnh những dãy nhà nguyện.
Phần kiến trúc bằng gạch trong lòng hang đá.
Nhà nguyện đá.

Leo hết cầu thang, bạn sẽ bắt gặp khung cảnh những dãy nhà nguyện cổ kính chen nhau dưới mái vòm hang động. Tu viện Sumela có tổng cộng 72 căn phòng, bao gồm nhà thờ đá, các nhà nguyện, bếp, phòng học, phòng tiếp khách và một thư viện lớn. Phần trung tâm của tu viện được đào sâu vào lòng núi và có thêm phần hậu cung xây bằng gạch. Các bức tường gạch và đá đều mang trên mình những bức tranh tường mang chủ đề tôn giáo.

Truyện kể rằng Thánh Luke, một tông đồ của Chúa Jesus đã tạc một bức tượng gỗ màu đen Đức Mẹ Đồng trinh Maria. Sau khi ông qua đời, thánh vật này được chuyển đến Athens, Hy Lạp. Tương truyền, các thiên thần đã mang bức tượng đến một hang đá cất giấu để đến năm 386, hai tu sĩ người Athens là Barnabas và Sophronius đã phát hiện ra nó. Họ đã xây dựng nên tu viện Sumela ngay tại hang đá này. Từ Sumela bắt nguồn từ tên tiếng Hy Lạp của Đức mẹ Đồng trinh – Panaghia.

Tranh tường theo chủ đề tôn giáo, khắc họa các cảnh trong Kinh Thánh.

Đức Mẹ Đồng trinh Maria.
Chúa Jesus.
Khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp quanh tu viện.

Tu viện Sumela là một tu viện Chính thống giáo Hy Lạp, một nhánh của Kitô giáo. Các hoàng đế của đế chế Trebizond đã không tiếc tiền của xây dựng tu viện này. Khi vương triều này sụp đổ và bị thay thế bởi đế chế Ottoman của người Hồi giáo, tu viện Sumela vẫn được duy trì. Cả người theo Cơ đốc giáo và Hồi giáo đều tin rằng, phép màu của Đức Mẹ Maria sẽ mang đến sức khỏe dồi dào cho những người hành hương.

Đầu thế kỷ 20, cùng với sự thành lập của nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, người Hy Lạp buộc phải rời khỏi Sumela và tu viện chính thức bị bỏ hoang từ năm 1923. Các tu sĩ đã chuyển các báu vật sang Hy Lạp, và nhiều công trình bằng gỗ đã bị phá hủy trong một trận hỏa hoạn năm 1930. Ngày nay, tu viện Sumela đã được phục dựng và trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn.

Chữ cổ trên tường tu viện.

Hình ảnh tu viện trên một tấm bưu thiếp gửi năm 1903.

Tu viện Sumela là điểm đến hấp dẫn với nhiều du khách trên thế giới.

Làn sóng vượt biên lần thứ hai

Làn sóng vượt biên lần thứ hai

Trần Vinh Dự –

Tôi có hai người bạn thành đạt. H là tổng giám đốc trong một quỹ đầu tư lớn ở thành phố Hồ Chí Minh. Anh từng đi du học và lập gia đình ở nước ngoài. Cách đây 8 năm, anh bỏ việc ở nước ngoài để về nước với niềm phấn khích cao độ. Giờ đây, anh đang tính nộp hồ sơ xin di trú cho gia đình sang Bắc Mỹ. Anh chưa tính sẽ sang Bắc Mỹ sống ngay, nhưng với anh, đó là một cách bảo hiểm.

T là chủ một doanh nghiệp cổ phần cũng ở thành phố Hồ Chí Minh. Anh từng bán một công ty trước đây do anh gây dựng và thu về một khoản tiền lớn. Giờ đây anh vẫn còn hai công ty nữa ở Việt Nam. Tuy nhiên hiếm khi anh ở Việt Nam. Anh dành phần lớn thời gian ở Mỹ với gia đình, nơi anh mới mua một căn biệt thự giá hơn 3 triệu USD hồi đầu năm 2012.

 

Trở thành thường trú nhân, hay còn gọi là người có “thẻ xanh”, hoặc trở thành người song tịch, tức là vừa có quốc tịch Việt Nam, vừa có quốc tịch một nước khác, đang trở thành một xu thế thời thượng. Có nhiều hãng tư vấn di trú đang hoạt động tích cực ở Việt Nam như IMG, Kornova, USIS, Harvey Law Group (HLG), Immigration (IMM), US Investment (USI), ImmiCa… để phục vụ những khách hàng tiềm năng như H và T. Một số đang trong tình trạng chạy hết công suất vì khách hàng quá đông.

 

Hợp pháp và hợp lý

Việc làm thủ tục xin định cư ở nước ngoài là việc hoàn toàn hợp pháp ở Việt Nam. Thậm chí, ở một khía cạnh nào đó nó còn được khuyến khích. Kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2009, Luật Quốc tịch mới của Việt Nam có hiệu lực và luật này quy định công dân Việt Nam có quyền có hai quốc tịch. Theo Bộ Tư pháp, kể từ ngày đó, người Việt Nam ra định cư, nhập quốc tịch ở nước ngoài đương nhiên mang quốc tịch Việt Nam mà không phải đăng ký. Điều đó có nghĩa là người Việt Nam có thể xin quốc tịch nước khác như Mỹ hay Canada mà không cần phải sợ mất quốc tịch Việt Nam.

Với nhiều người, việc có quốc tịch thứ hai cũng không quá quan trọng. Điều họ cần là quyền được định cư lâu dài ở nước mà họ lựa chọn ngoài Việt Nam. Và như vậy, chỉ cần là thường trú nhân (có thẻ xanh) là đủ. Điều đó có nghĩa là việc có hay không có quyền có hai quốc tịch theo luật Việt Nam không phải là yếu tố thúc đẩy họ xin định cư nước ngoài.

Xét về mặt cá nhân, việc thu xếp để có thêm một lựa chọn về nơi ở là chuyện bình thường và hợp lý. Cả H và T đều muốn con cái khi lớn lên được sống trong một môi trường an toàn và được hưởng thụ một nền giáo dục tốt. Ngay cả nếu không định cư dài hạn ở một nước khác, thì có được tự do trong việc đi lại và thay đổi môi trường sống theo sở thích cũng là một quyền lợi thú vị, mặc dù tốn kém. Đó là chưa kể việc một số người trở nên giàu có như T muốn đa dạng hoá tài sản của mình, vì thế, giữ một số tài sản bất động sản ở nước ngoài cũng là một lựa chọn thông minh.

Xã hội Việt Nam đang giàu lên. Cùng với sự phát triển chung của xã hội, Việt Nam ngày càng có nhiều người giàu. Đi kèm với nó là ngày càng nhiều những người có nhu cầu làm thường trú nhân ở các nước phát triển như H và T. Điều này xem ra có vẻ rất bình thường.

Không có số liệu chính thức về số hồ sơ xin định cư mà các hãng tư vấn định cư hoạt động ở Việt Nam đang giải quyết. Vì nhiều lý do tế nhị, cũng ít có người công khai tự nhận mình đang xin quyền định cư ở nước khác. Thế nhưng có nhiều bằng chứng gián tiếp cho thấy phong trào này hiện nay đang phát triển mạnh. Ngày càng có nhiều hãng tư vấn di trú quốc tế tham gia vào thị trường Việt Nam, ngày càng có nhiều đại lý độc lập mọc lên phục vụ khách hàng trên thị trường này. Một số hãng lớn trong năm 2012 thậm chí đã bị quá tải và phải outsource ra bên ngoài để có đủ nhân lực xử lý hồ sơ.

Thậm chí đã xuất hiện một số doanh nghiệp Việt Nam ngấp nghé đầu tư vào Bắc Mỹ hoặc Úc trong các ngành liên quan đến nông – lâm nghiệp với mục đích tạo càng nhiều công ăn việc làm ở các nước này càng tốt. Lý do là số lượng công ăn việc làm tạo ra càng nhiều thì các chủ dự án này càng xin được nhiều xuất thẻ xanh. Các xuất thẻ xanh này sau đó có thể bán lại cho các “nhà đầu tư”- thực chất là những người bỏ tiền ra mua thẻ xanh vào các nước phát triển.

Nhiều câu chuyện có vẻ hợp lý về mặt cá nhân nhưng khi gộp với nhau lại là tín hiệu cho thấy nhiều sự bất bình thường về mặt xã hội. Và câu truyện xin di trú ồ ạt này cũng vậy.

 

Bất bình thường về xã hội

Thông thường những đợt di cư ồ ạt ra nước ngoài thường là chỉ dấu cho thấy những vấn đề về mặt xã hội. Lý do thông thường nhất là sự khó khăn về kinh tế, hiểm hoạ chiến tranh, bất ổn chính trị, phân biệt chủng tộc…Làn sóng vượt biên ở Việt Nam trong những năm cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 trước đây là một thí dụ. Nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới đã rơi vào tình trạng kiệt quệ và điều này đã làm cho nhiều người Việt tìm cách vượt biên với hi vọng tìm được miền đất hứa.

Thế nhưng trào lưu di cư lần này của người Việt khác xa với trào lưu vượt biên trước đây, mặc dù có nhiều người gọi vui là phong trào vượt biên lần thứ hai. Khác biệt cơ bản nhất là phong trào hiện nay là phong trào di cư của những người giàu, những người thực sự có tiền để trở thành các nhà đầu tư và lấy thẻ xanh qua hình thức đầu tư. Nếu trước đây các thuyền nhân vượt biên nghèo đói chen chúc trên những thuyền cá nhỏ bé, thì những người di cư lần này đi máy bay trên ghế hạng C (hạng sang) và trong tài khoản đầy tiền.

Lý do thông thường khiến những người giàu muốn định cư ở nước phát triển là tìm đến một môi trường xã hội tốt hơn cho gia đình khi họ trở thành những người có khả năng chi trả cho một cuộc sống tốt hơn. Thế nhưng đây không phải là lý do tạo ra các đợt di cư đột biến.

Lý do thường được nghe đến nhiều nhất trong số các chủ doanh nghiệp muốn di cư ra nước ngoài ở Việt Nam là sự bế tắc về cơ hội kinh doanh hiện nay cũng như sự bi quan về triển vọng trong tương lai. Các doanh nhân luôn muốn tìm kiếm môi trường kinh doanh nơi họ có thể kiếm tiền nhiều nhất. Khi thấy Việt Nam không phải là nơi họ có thể kiếm nhiều nhất nữa, họ đương nhiên muốn kiếm tìm một chân trời mới.

Cũng từ sự bi quan về hiện trạng và tương lai của nền kinh tế khiến nhiều chủ doanh nghiệp lo lắng về các bất ổn xã hội có thể xảy ra trong tương lai. Điều này dẫn họ tới chuyện lo xa cho gia đình. Từ những mối lo sợ có thật như môi trường xã hội ngày càng kém an toàn, đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh, tới những mối lo xa xôi như bất ổn và rối loạn xã hội hoặc chiến tranh. Trong khi còn có điều kiện về tài chính, việc thu xếp để gia đình có quyền thường chú ở nước khác xem ra là một dạng mua bảo hiểm khôn ngoan.

Ẩn sau câu chuyện đó, còn có những lý do tế nhị hơn. Việt Nam trong một giai đoạn dài phát triển rất mạnh. Do hệ thống luật pháp và chính sách không hoàn thiện và phải thay đổi thường xuyên, các lỗ hổng pháp lý rất nhiều và dẫn đến một thực tế là có nhiều người làm giàu dựa vào sự lỏng lẻo của quản lý hoặc các bất cập trong hệ thống pháp luật. Kết quả là các rủi ro pháp lý luôn luôn tồn tại, mặc dù không dưới các hình thái cụ thể. Ý thức về rủi ro pháp lý đối với các chủ doanh nghiệp Việt Nam thường không được rõ ràng lúc “thái bình” nhưng lại được làm sâu sắc hơn mỗi khi có các vụ bắt giữ hoặc điều tra quy mô lớn liên quan đến các chủ doanh nghiệp. Năm 2012 vừa qua là một năm như vậy.

 

Ra đi không tay trắng

Cuộc di cư của những người giàu thường là tai hại cho nền kinh tế nếu nó diễn ra trên diện rộng. Đầu tiên là sự thất thoát về chất xám. Không phải ai giàu có cũng giỏi, nhưng nhiều trong số những người này là những người có kinh nghiệm, có khả năng kinh doanh, hiểu biết, và thông minh. Sự ra đi của những cá nhân này là một thiệt thòi lớn cho nền kinh tế xét về mặt chất xám trong kinh doanh.

Thứ hai là sự thất thoát về của cải. Những người ra đi không phải với hai bàn tay trắng như phần lớn những người vượt biên bằng tàu cá hồi 30 năm trước. Những người ra đi lần này mang theo những khối tài sản lớn, thường là hàng triệu USD, ra nước ngoài. Rất nhiều, nếu không muốn nói là phần lớn, chủ doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đều đã có bất động sản và số dư tài khoản tiền mặt lớn ở nước ngoài.

Thứ ba, đó là các phong trào này tạo ra hiệu ứng tâm lý, làm tăng sự dao động, làm sâu sắc thêm tâm lý lo ngại, cũng như làm giảm nhiệt huyết của những người còn ở lại. Nó cũng đồng thời làm nản lòng những người muốn tới Việt Nam đầu tư và làm ăn. Đây cũng là một bất lợi nghiêm trọng mà các phong trào di cư của người giàu gây ra cho thị trường.

Dù có những tác động bất lợi như vậy, việc lựa chọn di cư là một quyền hợp pháp của người dân. Vì thế không thể ngăn chặn xu hướng này bằng các mệnh lệnh hành chính. Cũng không thể ngăn chặn nó bằng những lời kêu gọi suông.

 

Giữ chân người tài bằng cách tạo niềm tin

Để chống lại xu hướng “vượt biên lần thứ hai” này cần phải giải quyết tận gốc nguyên nhân khiến nhiều người có tiền đang muốn dứt áo ra đi. Đó là niềm tin vào sự phục hồi của nền kinh tế Việt Nam và niềm tin vào sự an toàn của bản thân họ và gia đình ở Việt Nam. Việc này không dễ dàng. Để khôi phục lại lòng tin vào tương lai phát triển của đất nước, điều quan trọng là nhà nước phải chứng minh được cho thị trường và công chúng thấy khả năng dẫn dắt, lộ trình và giải pháp cụ thể, và uy tín chính trị của lãnh đạo.

Liên quan đến lộ trình và giải pháp cụ thể, đưa Việt Nam ra khỏi vũng lầy hiện nay không phải là một nhiệm vụ bất khả thi. Ngược lại, tất cả các vấn đề này đều có giải pháp. Khủng hoảng kinh tế không phải là một câu chuyện xa lạ mà nó đã xảy ra ở khắp nơi trên thế giới, trong mọi hình thái kinh tế mà loài người đã trải qua. Việt Nam không phải là ngoại lệ. Thực tế là các lời giải này đã được bàn đến nhiều, trong giới chuyên gia, trong các cơ quan tư vấn, từ các tổ chức hỗ trợ quốc tế, tới cả các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước Việt Nam.

Vì thế, vấn đề còn lại nằm ở việc chứng tỏ năng lực cũng như uy tín chính trị của người lãnh đạo.

Uy tín này phải được khôi phục và nó chỉ được khôi phục khi người dân nhìn thấy các động thái quyết đoán của Đảng và nhà nước liên quan đến tư cách, trình độ, đạo đức, phẩm chất, tính chuyên nghiệp, tinh thần phụng sự đất nước, và cái nhìn viễn kiến của bộ máy lãnh đạo.

Phải từ việc khôi phục uy tín này, lãnh đạo quốc gia mới có thể vực dậy lòng tin của người dân về tính khả thi của sự đổi thay tích cực. Đi kèm với lòng tin này, các quyết sách thực tế của nhà nước nhằm thẳng vào các vấn đề giai góc nhất đang tồn tại mới có thể giúp Việt Nam vượt qua khó khăn hiện tại.

Chỉ khi làm được như vậy, lòng tin của thị trường cũng như của giới doanh nhân vào tương lai ở Việt Nam mới được khôi phục. Và chỉ có thế, câu chuyện “vượt biên lần thứ 2” của những người có tiền và những người có tài mới giảm bớt và dần dần đảo ngược giống như thời kỳ các doanh nhân Việt kiều lũ lượt về nước làm ăn hồi 10 năm trước.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

 

HÀNH TRÌNH NỘI TÂM

HÀNH TRÌNH NỘI TÂM

“Trong sự tĩnh lặng của con tim chúng ta nghe được tiếng nói, nhưng chúng bắt đầu mờ đi và hầu như không nghe được nữa khi chúng ta bắt đầu bước vào thế giới” –
Ralph Waldo Emerson

With God

Mùa chay thánh là mùa mà Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại hành trình nội tâm của mỗi người, nhìn lại sự chọn lựa của chúng ta trong mỗi giây phút của cuộc sống vì chính những chọn lựa ấy uốn nắn (shape) con người mà chúng ta trở thành. Nhưng trước khi chọn lựa chúng ta cũng cần phân định phương hướng của mình, mà sự phân định đó cần được rõ ràng vì nó sẽ giúp chúng ta chọn lựa những việc hàng ngày với mục đích. Chẳng hạn như các em học sinh, khi các em biết mình muốn học ngành nào, các em sẽ lấy các lớp thích hợp cho ngành đó, và ngay cả đi xin việc làm, các em cũng muốn được có việc làm trong ngành của mình. Cũng vậy trong hành trình thiêng liêng, chúng ta cũng cần có phương hướng, và định nghĩa hành trình nội tâm của riêng mình trong từng giai đoạn của cuộc sống.

Hành trình nội tâm không phải là hành trình riêng tư nhưng là một hành trình với Chúa, một hành trình có phương hướng rõ ràng và Chúa sẽ dạy cho ta trong từng mỗi giai đoạn. Cũng như thể xác của chúng ta có những giai đoạn lớn lên, lúc mới sanh thì uống sữa, sau đó được ăn cháo, v.v., hành trình tâm linh cũng có những giai đoạn tương tự và Chúa sẽ dạy cho chúng ta biết chúng ta đang ở giai đoạn nào với Ngài. Nhưng nếu muốn được nghe tiếng Chúa, chúng ta cần sống trong tĩnh lặng, con tim của chúng ta cần phải sống với Chúa trong tâm tình cầu nguyện. Lắm lúc chúng ta sợ cầu nguyện, sợ tĩnh lặng vì cảm thấy mình không biết cách cầu nguyện. Thật ra cầu nguyện không có phương thức, cầu nguyện không có cuốn cẩm nang, nhưng cầu nguyện là mối tương quan giữa mình với Chúa cũng như mối tương quan giữa ta và một người bạn. Lắm lúc chúng ta đặt Chúa Giêsu trên bàn thờ và quên đi nhìn đến Mầu Nhiệm Nhập Thể là một mầu nhiệm mà Con Một Thiên Chúa đã chọn làm một con người như ta, và chúng ta sợ không dám kết bạn với Ngài vì chúng ta chỉ thấy sự cao sang và không nhìn đến một Thiên Chúa đang mong mỏi tình yêu và sự kết hợp của mỗi một người chúng ta.

Mối quan hệ nào cũng có những tâm tình riêng tư, những cách nói chuyện và chia sẻ chỉ giữa hai tâm hồn đang muốn được hiểu nhau. Mối tương quan giữa ta và Chúa cũng vậy, có người cảm thấy mình gần gũi với Chúa hơn qua Kinh Thánh, có người cảm thấy Chúa nói chuyện với mình qua những lời kinh, riêng tư hay với cộng đoàn, có người cảm thấy mình kết hợp với Chúa hơn qua công việc sinh nhai, hay qua những công việc nội trợ trong nhà, có người tìm được sự hiện diện của Chúa khi ru con ngủ, hoặc nấu ăn cho gia đình. Hãy để ý và tìm hiểu xem coi đâu là những lời kinh của chính mình với Chúa và biết trân quý và sống với Chúa qua những lời kinh ấy. Cho đó là những lời kinh nấu ăn, những lời kinh đi làm việc thiện, những lời kinh đi làm hãng xưởng, những lời kinh ru con, những lời kinh chịu đau đớn vì bệnh tật hoặc tuổi già, tất cả đều là những lời kinh giúp mình cảm nhận được tình thương của Chúa và giúp cho mối tương quan của mình với Chúa được trọn vẹn hơn. Không có lời kinh nào đẹp bằng lời kinh chân tình thành nhất của mình với Chúa. Vì tất cả những lời kinh đơn sơ chân tình của chúng ta đều đẹp dưới ánh mắt của Thiên Chúa và cũng qua những lời kinh ấy Thần Khí Chúa dẫn ta đi vào cõi sâu thẳm của tâm hồn. Nhưng dẫu lời kinh nào Chúa chọn cho hành trình của mỗi người, Chúa Giêsu vẫn mời gọi mỗi một người đến với bàn tiệc thánh để Ngài nuôi dưỡng chúng ta vì,
“Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh toàn bộ đời sống Kitô giáo. Thánh Thể là tột đỉnh hoạt động thánh hoá của Thiên Chúa đối với chúng ta và là tột đỉnh của hoạt động phương tự chúng dâng lên Ngài. Bí Tích Thánh Thể chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Hội Thánh, đó chính là Đức Kitô, Đấng là Chiên Vượt Qua của chúng ta.” Giáo Lý Công Giáo điều 1324

Mối quan hệ thật sự nào cũng có những lên xuống của nó, những giận hờn, những hiểu lầm, những giây phút vui buồn, nhưng qua những giây phút ấy chúng ta hiểu và yêu mến nhau hơn. Mối quan hệ của ta và Chúa Giêsu cũng không khác, cũng có lúc chúng ta muốn được gần gũi với Ngài, có những lúc chúng ta cảm thấy khô khan khi đến với Ngài, rồi cũng có lúc chúng ta giận hờn với Chúa và thấy Ngài rất là khó ưa. Nhưng trong tất cả mọi sự, chúng ta xin ơn để được thấy rằng chỉ có mỗi mình Ngài mới ban lại cho chúng ta sự sống và niềm vui thật hầu chúng ta biết bám chặt lấy Ngài cho dù hành trình của ta với Ngài như thế nào đi nữa.

Khi mối quan hệ của Chúa và ta được trưởng thành hơn, chúng ta sẽ biết sống mật thiết và tin tưởng nơi Ngài, và lúc đó chúng ta sẽ biết buông tay để cho Thần Khí Chúa dẫn dắt vì:
Chúa Thánh Thần không chỉ giới hạn trong sự nghèo nàn và lý trí tự hào của chúng ta. Thần Khí Chúa làm việc bên ngoài tầm hiểu biết của con người. Giống như một thợ lặn đi sâu vào bóng tối của đáy đại dương, Chúa Thánh Thần đi sâu vào cõi tâm tư mà chúng ta chưa hề biết của bản chất sâu xa nhất của mình, phát hiện ra những viên ngọc trai quý giá mà chúng ta không bao giờ biết là chúng ta có – Kathryn J. Hermes, FSP.

Hành trình nội tâm là hành trình tĩnh lặng trong phó thác, một hành trình lựa chọn để cùng được với Thần Khí Chúa đi sâu thẳm vào cõi tâm tư của mình qua những lời kinh thiêng liêng. Một hành trình đòi hỏi chúng ta luôn hướng nội để cảm nhận những biến chuyển trong tâm hồn để nhận ra mình đang ở đâu trong mối quan hệ của mình với Chúa.

Chúng ta đang bước vào ngưỡng cửa của mùa chay thánh trong năm mà Giáo Hội Mẹ mời gọi các con cái nhìn về hành trình đức tin của mình. Uớc gì mỗi người chúng ta biết lắng đọng và để ý xem trong các công việc hàng ngày, qua những giây phút thờ phượng, đâu là lời kinh của mình với Chúa, đâu là những phút thiêng liêng chỉ có mình ta với Ngài. Hãy lắng đọng, hãy tìm xem, và nếm thử vị ngọt của một tình yêu thiêng liêng mà Thiên Chúa dành riêng cho chính ta. Hãy sống tĩnh lặng để lắng nghe tiếng Chúa qua Bí Tích Thánh Thể và lời kinh chân thành của một người con chỉ mong làm đẹp lòng Cha mình.

Củ Khoai

2/2013

Bryan Đỗ gởi

LỄ RỬA CHÂN, BỔN MẠNG CỦA NGƯỜI LÀM NAIL

LỄ RỬA CHÂN, BỔN MẠNG CỦA NGƯỜI LÀM NAIL

Tác giả: Cát Minh

LỄ RỬA CHÂN, BỔN MẠNG CỦA NGƯỜI LÀM NAIL

(Lễ Rửa Chân = Chúa rửa chân cho các môn đệ. Nail = Nghề Làm Móng, thường gọi là làm neo)

Nếu người Tàu nổi tiếng về dịch vụ nhà hàng, người Phi chuyên về nghề y tá, thì người Việt Nam phải nói đến thành công về nghề làm tóc và làm móng tại Hoa Kỳ. Theo thống kê tường thuật thì trên nước Mỹ có khoảng trên dưới 4 ngàn tiệm tóc và làm móng. Cứ 10 tiệm làm móng thì khoảng 7 tiệm là do người Việt Nam làm chủ. Vì thế, có câu chúc Tết vui nói về nghề neo như sau:

Lẳng lặng mà nghe họ chúc nhau:

Chúc nhau năm mới làm neo giầu.

Phen này ta quyết đi buôn kéo

Thiên hạ bao nhiêu đứa cắt đầu.

Các cơ quan truyền thông quốc tế cũng đã nhiều lần đề cập đến sự thành công của người Việt tỵ nạn trong lãnh vực làm neo. Lý do vì sao người Việt thích chọn nghề này? Theo thiển ý có lẽ là vì học lấy bằng hành nghề “neo” không mất nhiều thời gian, khoảng từ 6-9 tháng, và nghề neo đi đâu cũng có thể sống được. Lợi tức thu nhập cao trong khi học phí lại tương đối nhẹ. Nếu có mở tiệm cũng không cần nhiều vốn so với các ngành nghề khác. Ngoài ra, làm nghề neo ở đâu cũng có thể kiếm được việc làm. Học và làm neo không khó mà cần sự tỉ mỉ khéo tay, không đòi hỏi học vấn cao cũng như không cần giỏi tiếng Anh. Cũng vì lý do này mà tiệm Nail là nơi phức tạp nhất. Đủ mọi thành phần dân trí có mặt trong thế giới làm neo: từ những người có trình độ dân trí cao đến những người có dân trí thấp. Tại một vài tiệm neo, thợ làm nói chuyện với nhau ồn như chợ, đôi khi còn dùng “tiếng lóng”. Có người nói rằng muốn biết tin tức, thời sự thế giới ra sao không cần xem báo hay coi tivi, chỉ cần đi làm neo là biết rõ sự tình.

Vì sao nghề neo được cho là “hái” ra tiền? Thật ra không phải dễ kiếm tiền mà vì họ làm nhiều giờ, và làm nhiều ngày. Trung bình mỗi ngày làm khoảng 10 tiếng và làm 6 ngày một tuần. Mỗi bộ “neo” làm mất khoảng nửa tiếng. Tiền công, cộng với tiền típ hàng tháng tính ra ngang ngửa so với lương kỹ sư mới ra trường 4 năm đại học. Nghề “neo” được trả phần lớn bằng tiền mặt vì thế việc khai thuế với chính phủ nhiều hay ít là tuỳ hỉ, khó mà kiểm soát được. Nói về nghề nail, có một bài hát vui mang tên Nail Nail Nail do Phạm Hoàng Dũng sáng tác như sau:

Nghe nhạc MP3

Mới đến nước Mỹ nên học nghề Nail
Vừa dễ vừa chẳng tốn hao gì đâu
Chỉ vài trăm đô bằng Nail ta có
Tà tà sáng tối cuộc sống lai rai
Nếu muốn chắc cú kiếm thêm nghề Hair
Cắt tóc Mỹ trắng Mỹ đen đừng chê (hê)
Móng tay móng chân ta mài ta dũa
Chiều chuộng đủ cách bởi khách là vua

Nail nail nail
Bàn tay ta phải khéo
Nail nail nail
Nghề Nail đâu có bèo
Nail nail nail
Tiền dzô đầy ngăn kéo
Nail nail nail nail nail nail
Chắc chắn sẽ không nghèo

Bác Sĩ, Kỹ Sư cũng không bằng nail đâu
Học phí tốn kém ra trường lại lâu
Chỉ vài trăm giờ bằng Nail ta có
Mài mài dũa dũa cứ thế tiền dzô.

Ngày xưa, lúc chưa có băng giao Mỹ-Việt, một số Việt kiều về thăm quê hương, chủ yếu là thăm gia đình. Họ thường mang tiền đô về làm quà và giúp đỡ gia đình. Có một thời Việt kiều được xem như là “công tử áo gấm”. Dân gian thời ấy có câu để nói về những người rủng rỉnh nhiều tiền như sau: “nhất Việt kiều, nhì cán bộ”. Các cô gái được trai Việt kiều “khều” (cưới) là một may mắn. Bây giờ thì thời thế đã thay đổi, ngôi vị Việt kiều đã nhường ngôi cho 2 giai cấp giàu sang mới trong xã hội: “nhất cán bộ, nhì đại gia, thứ ba mới tới Việt kiều”.

Có một vài câu chuyện vui kể về Việt kiều nghe cười chảy nước mắt. Một anh độc thân sang Mỹ không có gia đình, vì thế không có cơ hội đi học nên xin vào một nhà hàng làm nghề rửa chén. Công việc của anh là tráng chén bát và cho vào máy rửa chén. Ở Mỹ các nhà hàng đều sử dụng máy rửa chén, chứ rất ít tiệm rửa chén bằng tay. Khi về Việt Nam, anh được gia đình và họ hàng đón tiếp rất nồng nhiệt vì anh là Việt kiều. Người ta hỏi anh làm nghề gì ở bên Mỹ. Sợ bị đánh giá thấp, anh suy nghĩ một chút rồi trả lời làm nghề “điều khiển dĩa bay”. Một chị khác làm nghề móng tay. Khi thân nhân hỏi chị làm nghề gì, cũng sợ bị đánh giá thấp, chị trả lời nghe rất sang: “làm thẩm mỹ tứ chi”.

Trước đây nghề neo được đánh giá thấp, nhưng ngày nay được nâng cấp vì sự thịnh hành cũng như lợi tức cao thu nhập từ nghề này. Có người làm nghề neo mua được hai ba căn nhà và đi xe hơi sang trọng. Vì thế, một số bài hát được phăng ra để nghe cho vui như sau:

Con quỳ lạy Chúa trên trời
Sao cho con lấy được người làm neo…

Hay

Ai bảo làm neo là khổ
Làm neo sướng lắm chứ
Càng ngồi lâu, ta càng giàu mau…

Thời đại a-còng @, nghề nail cũng tiến bộ theo kỹ thuật hiện đại. Ngày xưa làm neo phải bưng chậu nước tới cho khách ngâm tay chân, sau khi làm xong lại bưng đi đổ thay nước mới. Hôm nay, khách tới làm neo được nằm trên cái ghế da có máy đấm bóp; còn chân ngâm vào chậu nước, có máy bơm nước vào và xả nước ra. Để cạnh tranh và để chiều khách hàng, có tiệm còn cung cấp wifi internet, Ipad, HD tivi miễn phí cho khách hàng thưởng thức trong khi được phục vụ bàn tay đôi chân của mình.

Có một tiệm nail nằm ở phía Bắc của tiểu bang Virginia, do người Việt Nam làm chủ đã nghĩ ra một cách thu hút khách hàng khá độc đáo. Khách tới làm nail có thể chọn dịch vụ cho cá rỉa chân. Họ muốn có một phương pháp mới để thay thế cách thức dùng dao cạo, để cạo lớp da chết hoặc da chai cứng ở bên dưới bàn chân. Phương pháp dùng dao cạo đã gây quan tâm cho các thanh tra của tiểu bang trong vấn đề thiếu vệ sinh. Dao cạo cũng bị cấm tại một số tiểu bang.

.

Về việc cho cá rỉa chân, phương pháp này đã phổ biến từ lâu tại Thổ Nhĩ Kỳ và cũng quen thuộc tại vài quốc gia Á Châu. Chủ nhân tiệm nail này tin rằng tiệm của ông là cơ sở duy nhất cung cấp dịch vụ cá rỉa chân tại nước Mỹ. Họ đã tốn khoảng $40,000 USD để sửa chữa cơ sở, xây hồ nước như hồ bơi để nuôi cá, và nhập cảng cá từ hải ngoại. Khách hàng ngồi trên bệ, thả chân xuống nước, và đàn cá bơi tới rỉa da chân. Khách hàng có cảm giác thích thú lạ kỳ khi được cá rỉa chân. Cá này thuộc loại cá “garra rufa” giống như một loại cá chép nhỏ bằng ngón tay. Tên nôm na của cá là “doctor fish” (cá bác sĩ).

Sau khi được cá rỉa chân từ 15 đến 30 phút, khách hàng được chăm sóc bàn chân, làm móng, sơn móng theo những phương pháp bình thường. Nhờ cá rỉa bớt tế bào chết và da chai, làn da non do cá để lại sẽ được chuyên viên săn sóc dễ dàng hơn.

Tiệm này cũng có những dịch vụ làm đẹp khác như cắt tóc, nhuộm tóc, làm móng, săn sóc da mặt v.v… Giờ đây dịch vụ cá rỉa chân (fish pedicure) của tiệm đang được khách thập phương chú ý hơn hết. Dịch vụ mới nhất này đã được nhiều người hưởng ứng. Chủ nhân cho biết khoảng 5,000 người đã đến tiệm để thò hai bàn chân xuống hồ nước nuôi cá, và được hàng trăm con cá xúm vào rỉa da chân.
“Cá bác sĩ” không có răng nên không thể cắn vào da hoặc gây thương tích cho khách hàng. Vì không có thức ăn nào khác, nên cá ăn da chết để sống. Tiệm đang nuôi trên 1,000 con cá và thường có khoảng 100 con cá trong mỗi hồ nước riêng để phục vụ vào bất cứ lúc nào. Lệ phí là $35 cho 15 phút và $50 cho 30 phút ngồi ngâm chân. Giá cao nhất là $70 với 20 phút được cá rỉa chân cộng thêm dịch vụ săn sóc, xoa bóp bàn chân trong 10 phút, tỉa móng và sơn móng.

Từ Rửa Chân Người Đến Rửa Chân Cho Chúa Giêsu

Câu chuyện vui buồn về nghề neo ở trên là những câu chuyện rửa chân cho người đời và được trả thù lao bằng hiện kim. Trong Kinh Thánh có một câu chuyện rất đặc biệt cũng nói đến việc rửa chân, nhưng không phải rửa chân cho thiên hạ mà là rửa chân cho Chúa Giêsu. Sự rửa chân này rất đặc biệt vì người hành nghề không dùng nước lạnh mà dùng nước mắt, không dùng khăn mà dùng tóc để lau, không dùng kem thoa da mà dùng nước hoa nguyên chất, thứ đắt tiền để xức lên chân Chúa. Đó là câu chuyện của chị Maria Mađalêna. Chị rửa chân cho Chúa Giêsu một cách tình nguyện và không thù lao, không tiền típ, nhưng đã nhận được ân sủng rất đặc biệt mà chỉ có Chúa Giêsu mới có thể ban cho chị. Ân sủng mà chị nhận được cũng là ân sủng mà mọi người đều muốn nhận trong Mùa Chay cũng như trong suốt cuộc đời nơi dương thế, đó là ơn được tha tội. Chúa đã nói với chị: “tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha”.

Câu truyện Maria Mađalêna được trích từ Thánh kinh Luca, Máccô, Matthêu và Gioan như sau:

Chúa Giêsu đến nhà ông Simon ở làng Bê-ta-ni-a. Giữa lúc Người dùng bữa, có một người phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, đến mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất, thứ đắt tiền. Chị đứng đằng sau, sát chân Chúa mà khóc, nước mắt tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn lên chân Người. Sau đó, chị đập bể bình dầu thơm, xức trên đầu Người.

Thấy vậy, ông Si-mon liền nghĩ bụng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” Chúa nói với ông Si-môn: “Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.” Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi…”

Maria Madalêna quì bên chân Chúa là hình ảnh của môt người đau đớn trong lòng vì tội lỗi mình. Chị cảm thấy buồn bã, cảm thấy tâm hồn mình ray rứt, cảm thấy dằn vặt trong trái tim, bởi chị đã sa ngã trước những đam mê, yếu đuối của thân xác, trước những cám dỗ của thế gian và ma quỷ. Hành động quỳ bên chân Chúa là hành động khiêm nhường sám hối của một tội nhân, mang tâm tình của người con hoang đàng biết quay về nhận ra tình yêu, lòng thương xót bao la của người Cha, lúc nào cũng luôn chờ đợi mình.

Nước mắt của Maria Madalêna không phải là “nước mắt cá sấu”, sự xúc động của chị không phải là một tình cảm nhất thời, nhưng xuất phát từ trái tim, từ nội tâm. Chị không xé áo nhưng đã xé lòng sám hối tội lỗi của mình. Điều này đã được chứng minh qua lối sống sau này của chị. Những đau đớn vì tội lỗi từ trong lòng của chị đã trào ra qua những giọt nước mắt như dòng sông trước đại dương bao la tình thương của Thiên Chúa.

Sau khi khóc, Maria Madalêna đã lấy tóc của chính mình mà lau chân Chúa. Tại sao chị không lau bằng khăn, bằng vạt áo, khăn choàng? Thưa, mái tóc biểu hiện vẻ đẹp và sự trung thành của người phụ nữ. Mađalêna lấy tóc lau chân Chúa biểu hiện sự quyết tâm sám hối và lòng trung thành theo Chúa của chị. Chị đã lau chân Chúa, vì sau bao nhiêu năm lạc bước xa đường, bao nhiêu năm đi tắt về ngang, chị đã tìm được đường ngay nẻo chính để bước theo, đó chính là bước theo chân Chúa Giêsu. Chị lau chân Chúa vì rồi đây chính đôi chân của Ngài sẽ bị đinh đóng thâu qua vì tội lỗi của chị.

Hành động sám hối kế tiếp mà chị đã làm là hôn chân Chúa. Khác với cái hôn giả tạo trên mặt Chúa Giêsu của một Giuđa phản bội, chị đã chân thành và yêu mến hôn lên chân Chúa. Sám hối mà thiếu yêu thương thì chưa đủ, mới chỉ là xé áo chứ chưa xé lòng. Mađalêna vừa xé áo, vừa xé lòng trở về với Chúa, vì thế, tội thật càng đáng trách bao nhiêu, thì lòng sám hối của chị lại đáng ca ngợi bây nhiêu. Vì thế, Chúa nói: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha vì chị đã yêu mến nhiều”.

Dầu thơm là một trang sức quý phái của người phụ nữ. Mađalêna đến gặp Chúa, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền, mà theo các nhà chú giải kinh thánh nó trị giá bằng lương làm việc của 1 năm của một người. Vì thế, bình dầu thơm của chị là một loại dầu thơm quí hiếm. Có lẽ đó là cũng báu vật quý giá nhất, là ước mơ lớn lao nhất, mà chị đã vất vả cả đời để mua được nó. Thế nhưng khi gặp Chúa Giêsu, chị đã mang vật quí giá nhất, điều không thể thiếu được trong cuộc sống… đập bể ra dưới chân Chúa Giêsu. Khi chị đập bể bình dầu thơm là lúc ấy chị đã đập bể bức tường vây hãm tâm hồn của chị để Chúa Giêsu bước vào. Chị đã làm điều đó cũng để nói lên rằng bình dầu thơm quý giá của chị không thể nào so sánh được với Người Con yêu dấu mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại. Người Pharisiêu cho hành động của chị là lãng phí, là phí của trời, nhưng Chúa Giêsu lại nói: “Ngày nào tin mừng còn được loan báo, thì việc làm của chị vẫn sẽ được kể lại để nhớ tới chị”.

Từ Rửa Chân Cho Chúa Đến Được Chúa Rửa Chân

Trước cuộc tử nạn và trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ, và câu chuyện này được tường thuật trong Phúc âm thánh Gioan chương 13 câu 1-16 như sau:

Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng. Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su. Đức Giê-su biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.

Vậy, Người đến chỗ ông Si-môn Phê-rô, ông liền thưa với Người: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao? ” Đức Giê-su trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.” Ông Phê-rô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu! ” Đức Giê-su đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.” Ông Si-môn Phê-rô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa.” Đức Giê-su bảo ông: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu! ” Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch.”

Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.

Qua đoạn Thánh Kinh trên, thánh Gioan muốn nhấn mạnh đến gương khiêm nhường phục vụ và bác ái của Chúa Kitô để mọi người neo theo. Sự rửa chân này vẫn còn được lập lại vào mỗi thứ Năm Tuần Thánh hằng năm, mà người ta quen gọi là Lễ Rửa Chân. Thánh Gioan đã tả lại hành động của Đức Giêsu như: “Chúa Giêsu chỗi dậy, cởi áo ra”. Đây là hành động lột bỏ tất cả ngôi vị của Thiên Chúa, trở thành nô lệ để phục vụ như người nô lệ. Việc Ngài cầm chậu nước quỳ gối rửa chân cho các môn đệ cho thấy sự tự hủy của Ngài như thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Philiphê: ”… Người đã mang lấy thân phận tôi đòi”. Chúa Giêsu đã trở nên nghèo khó để làm cho người khác trở nên giầu có. Việc rửa chân của Chúa Giêsu còn diễn tả ”tình yêu, yêu cho đến cùng của Chúa Giêsu”. Chúa Giêsu là Thầy và là Chúa mà còn làm như thế, để nêu gương và dậy các môn đệ, thì chúng ta cũng hãy làm cho nhau như vậy.

Maria Mađalêna là người phụ nữ tội lỗi đã rửa chân cho Chúa bằng chính nước mắt của mình. Một hành động thành tâm sám hối rất đáng khâm phục và để mọi người có thể suy nghĩ mỗi khi bước vào toà giải tội.

Tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa vượt quá sự hiểu biết của con người. Ngài là vị Thượng Tế cao cả, là Linh mục đời đời, ấy thế mà trước khi lập Phép Thánh Thể và thiên chức Linh mục, Ngài đã làm một việc rất ngoạn mục không ai ngờ. Trong bữa tiệc Vượt Qua, Đức Giêsu đã làm cử chỉ gây kinh ngạc cho các môn đệ, đó là: Ngài là Thầy, là Chúa đã cúi xuống rửa chân cho trò. Sự phục vụ của Ngài đã lật ngược bảng giá trị chức vị mà người đời thường hành sử. Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ:

Chúng con không được giống như các vua chúa trần gian bắt người khác phục vụ mình. Trái lại, trong chúng con ai muốn làm thủ lãnh thì phải làm tôi tớ mọi người, cũng như Con Người không đến để được người ta hầu hạ, nhưng là để hầu hạ và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người” (Mt 20,25-28).

Chính vì hành động “đảo ngược” này khiến cho Phêrô từ chối và không thể chấp nhận được. Khi thấy Phêrô quyết liệt không để Thầy rửa chân cho ông, Chúa Giêsu nói: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.” Ông Phê-rô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con sao, không đời nào con chịu đâu!” Chúa Giê-su đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.” Phêrô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa.” Chúa Giêsu bảo ông: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu! ” Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch” (Ga 13,7-11).

Điều đáng lưu ý trong việc rửa chân cho các môn đệ là thái độ của Chúa Giêsu trước Giuđa Iscariốt, kẻ phản bội Ngài. Chúa Giêsu đã tỏ ra thương xót và khiêm nhường tột bậc trước kẻ phản bội, bất trung. Nhìn sâu hơn thì thật ra Ngài hạ mình trước tất cả những kẻ phản bội, hay thất trung với Ngài. Không phải chỉ Giuđa là người sẽ phản bội, mà các môn đệ khác cũng có những thiếu xót bất trung với Chúa Kitô. Thế nhưng, Ngài đã hạ mình rửa chân cho tất cả. Ngài đã cúi xuống rửa chân cho:

– Giuđa, kẻ phản bội.

– Phêrô chối Chúa 3 lần.

– Các môn đệ  khác đã bỏ trốn Thầy khi Chúa bị bắt nơi vườn cây dầu.

Chẳng có môn đệ nào vẹn toàn trước mặt Chúa cả. Có người khi được chọn làm tông đồ để được rửa chân trong ngày thứ Năm tuần thánh, thì mong sao tránh mình không phải là tông đồ Giuđa, nhưng nếu họ là môn đệ nào khác thì người môn đệ ấy cũng có những yếu đuối khác. Khi Chúa truyền dạy các môn đệ rửa chân cho nhau là Chúa muốn họ rửa chân cho những lỗi lầm, thiếu xót của nhau. Cử chỉ Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ đã tỏ rõ nét Chúa yêu thương môn đệ cho đến cùng.

Lễ Rửa Chân, Bổn Mạng Của Người Làm Nail

Mỗi hội đoàn hay nghiệp đoàn Công Giáo thường chọn một Vị Thánh hay một Ngày Lễ Trọng làm bổn mạng của mình. Vậy xin mạo muội đề nghị những người hành nghề neo nên chọn Lễ Chúa Giêsu Rửa Chân ngày thứ Năm Tuần Thánh làm Lễ Bổn Mạng. Trong ngày này, những người làm nghề neo hãy cố gắng thu xếp công việc tới tham dự thánh lễ để cầu nguyện, tạ ơn Chúa, và suy niệm về sứ điệp yêu thương, bác ái và khiêm nhường phục vụ của Chúa Giêsu.

Nghề làm móng cũng như bao nhiêu ngành nghề khác kiếm cơm để sinh sống. Đó là công việc của sự phục vụ làm vui lòng khách đến và vừa lòng khách đi. Người làm neo bỏ công sức để đổi lấy tiền thù lao cho việc phục vụ của mình. Việc tham dự Lễ Rửa Chân mang chiều kích tâm linh sâu đậm của một sự phục vụ cao cả, trong đó yêu thương và khiêm nhường là chủ đích. Làm neo nếu phối hợp việc phục vụ về thể lý và phục vụ về tâm linh, biết đâu là một sự rao giảng Tin Mừng mới rất hữu hiệu mang Chúa vào đời và đến với Người anh em đã biết Chúa cũng chưa biết Chúa.

Trong lúc hành nghề, hãy dùng mọi cơ hội có thể được để nói về Chúa, làm chứng cho Chúa qua cách phục vụ và qua các câu chuyện đối thoại. Thế giới hôm nay chúng ta đang sống nặng về vật chất và hưởng thụ. Những khách đến làm móng với đôi bàn tay móng ngắn móng dài, bàn chân nhăn nheo sần sùi để được chăm sóc, làm đẹp. Chắc chắn trong số những vị khách này cũng sẽ có những đôi chân lạc bước hay đôi bàn tay tội lỗi về mặt tâm linh. Hãy cầu nguyện xin sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để hướng dẫn những tâm hồn này đến với Thầy Giêsu và để chính Chúa rửa đôi chân, đôi tay tâm linh cho họ.

Chúa Giêsu đã nói với Simon và em là Anrê làm nghề chài lưới: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người. Đi xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Ngài liền gọi các ông” (Mc 1:16-20). Như trong thế giới hiện hiện sinh có nhiều sự phục vụ khác nhau, thế giới tâm linh cũng có nhiều ơn gọi và phục vụ khác nhau. Trong lần tuyển mộ những cộng tác viên này, Chúa Giêsu đã biến đổi nghề chài lưới bình dân của Simon, Andrê thành nghề “chài lưới người” trong thế giới tâm linh.

Tất cả chúng ta khi chịu Phép Rửa Tội được trở nên con cái của Thiên Chúa, là tư tế, vương giả và là dân thánh đều được mời gọi vào với sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Ngày đó, chúng ta được trao cây nến cháy sáng tượng trưng cho Ánh Sáng Phục Sinh của Chúa Kitô. Đời người như một ngọn đèn cháy sáng mà Chúa Giêsu đã thắp lên và Ngài mong ngọn lửa ấy được cháy sáng mãi. Đèn được cháy sáng là nhờ có dầu yêu thương như Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói:

“Đừng nghĩ rằng một tình yêu chân chính phải là một điều gì phi thường to lớn. Điều cần thiết là yêu thương liên tục. Làm thế nào mà ngọn đèn cháy mãi nếu nó không được nuôi dưỡng bằng một giọt dầu? Khi hết dầu thì không còn ánh sáng, và vị hôn phu sẽ nói: ‘Tôi không biết các người’. Những giọt dầu của ngọn đèn các bạn là những điều nhỏ nhặt trong đời thường: niềm vui, lòng quảng đại, những việc lành nho nhỏ, đức khiêm nhường và sự nhẫn nại. Một suy nghĩ hướng đến tha nhân. Cách thức mà chúng ta thinh lặng, lắng nghe, tha thứ, nói năng và hành động. Đấy là những giọt dầu chân chính giúp cho ngọn đèn chúng ta cháy mãi suốt cuộc đời mình. Đừng tìm kiếm Chúa Giêsu ở nơi xa xôi, Người không có ở đấy đâu. Người đang ở trong các bạn! Hãy chăm sóc ngọn đèn của mình rồi các bạn sẽ nhìn thấy Người”.

Ước gì thông điệp tình yêu và phục vụ của ngày Lễ Rửa Chân không chỉ là sự lập đi, lập lại vào mỗi ngày thứ Năm Tuần Thánh, mà luôn là một thông điệp sống động được gởi tới những người khách tới làm neo. Ước gì những người làm nghề neo được Chúa dùng như những khí cụ để cũng phần nào giúp mài-dũa, cắt-tỉa, và lau-rửa cho những tâm hồn lấm láp bùn nhơ, đem họ trở về với nguồn tình yêu và cứu rỗi của Chúa Giêsu. Thật mong lắm thay!

Cát Minh

Mùa Chay 2013

MẶC CHO ĐỜI BIẾN ĐỔI

MẶC CHO ĐỜI BIẾN ĐỔI

Tác giả: M. Hoàng T Thùy Trang

nguồn:thanhlinh.net

Sự kiện Đức Giêsu biến hình là một trong những dấu lạ Ngài tỏ hiện quyền năng cho các tông đồ thấy mà tin, nhằm củng cố niềm xác tín của các ông. Chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi Tabor, các tông đồ hết sức ngạc nhiên và vui mừng vì vinh quang sáng lạn của Ngài: “…Y phục Người trở nên trắng xóa chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia.” (Lc 9,29-30) Như không muốn giây phút vinh quang ấy mất đi, ông Phê rô đã thốt lên: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho ông Môsê và một cái cho ông Êlia.” (Lc 9,33). Tin mừng ghi rõ, ông Phêrô nói nhưng không biết mình đang nói gì. Có lẽ trong phút ngây ngất trước vinh quang tột bậc của Đức Giêsu, ông Phêrô không muốn khoảnh khắc hạnh phúc ấy bị mất đi, cho nên mới thốt lên lời đề nghị như vậy. Đang khi chưa bừng tỉnh, các tông đồ còn bị cuốn vào trong đám mây, khiến các ông hoảng sợ. Và từ trong đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9, 35)

Đức Giêsu đang cầu nguyện với Thiên Chúa Cha, thì dung mạo Người biến đổi. Điều kiền cần để được biến đổi, đó chính là cầu nguyện, đó chính là sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể thay đổi khi được Thiên Chúa biến đổi. Muốn được biến đổi, cần phải có ơn Chúa, cần nhờ đến quyền năng của Ngài và cần có sự kết hiệp với Ngài.

Khi được biến đổi, con người thường hay có xu hướng muốn ở lại trong vinh quang, trốn tránh sự thật, không muốn đối diện với thực tế cuộc sống. Khi cầu nguyện được ơn sốt sắng, con người thường hay có hoài bão được ở mãi trong hạnh phúc, lầm tưởng mình đã thánh thiện đủ, đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và sống cho một mình Ngài, nhưng khi trở về với cuộc sống thường nhật, đối diện với những thách đố của cuộc sống, con người lại trở về với bộ mặt thật của mình, đầy dẫy những yếu đuối, tội lỗi và tham vọng.

Thế nên, chúng ta cần phải thường xuyên gặp gỡ kết hiệp với Thiên Chúa, để kín múc tình yêu và sự thánh hóa của Ngài, khi đã được quyền năng và ân sủng Thiên Chúa biến đổi, con người có thêm sức mạnh và động lực mà đối diện với cuộc sống đầy khó khăn, thử thách. Một khi đã được ơn Chúa nâng đỡ, con người can đảm đối diện với thách đố của cuộc sống với lòng tin yêu vững vàng vào vinh quang Thiên Chúa.

Nhân loại thường hay mơ ước, được trở nên xinh đẹp, thông minh, tài giỏi. Nhìn vào những mẫu người là chuẩn mực cho cái đẹp, họ khao khát được giống với thần tượng của mình. Chính vì mục đích ấy, mà nhân loại không loại trừ bất cứ hình thức nào để có thể làm cho mình đẹp hơn, hấp dẫn hơn. Người ta có thể bỏ ra hàng triệu đô để đổi lấy sắc đẹp. Người ta cũng không hề ngần ngại cướp đi hạnh phúc, ngay cả mạng sống của người khác để đổi lấy tấm áo danh dự, địa vị, quyền lực… Nhưng chả mấy ai dám từ bỏ tất cả để được mặc tấm áo linh hồn tinh tuyền, thánh thiện.

Lời nhắn nhủ của Thiên Chúa Cha là một khẳng định nhắc nhở chúng ta phải tin nhận vào Đức Giêsu và vâng nghe lời Ngài dạy bảo. Tin vào Tin mừng là một trong những điều kiện để được ơn cứu độ. Vì Lời Chúa chính là chân lý, là ánh sáng, là linh dược chữa lành mọi vết thương tội lỗi. Thiên Chúa Cha đã tuyên bố ngôi vị của Đức Giêsu để cho nhân loại nghe biết và tin thờ. Sự kiện hiển dung hôm nay cũng chính là mặc khải của Thiên Chúa về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Ngôi Cha, Ngôi Con và Chúa Thánh Thần, cùng kết hiệp mật thiết trong chương trình sáng tạo và cứu chuộc.

Lạy Chúa, chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi Tabor, ông Phêrô đã không kìm nổi sự khao khát được sống mãi trong hạnh phúc vinh quang của Ngài, để rồi xin được cắm lều ở lại. Hạnh phúc mà Thiên Chúa tỏ lộ cho các tông đồ cũng chính là hạnh phúc thiên đàng mai sau chúng con được diện kiến. Thế nhưng, đường lên núi xa và cao lắm, đường lên trời lại càng xa hơn. Chỉ khi nào con ở lại trong Chúa, chỉ khi nào có Ngài luôn hiện diện trong con, biến đổi con, thánh hóa con, lúc ấy con mới được diễm phúc hưởng nhờ ân phúc mai hậu. Xin giúp con luôn biết lắng nghe và vâng phục, xin giúp con biết thi hành ý Chúa, can đảm đánh đổi giá trị cuộc sống bằng giá trị thiêng liêng. Mặc cho thời gian, mặc cho sóng gió cuộc đời hay con người có làm con phai tàn, nhưng dung mạo tâm hồn con vẫn được nguyên vẹn, tinh tuyền như thuở ban đầu vì có tình yêu và bàn tay quyền năng Thiên Chúa biến đổi.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Hành trình tha thứ cho người cha của một linh mục

Hành trình tha thứ cho người cha của một linh mục

Tác giả: Thu Linh

19/02/2013

nguồn:thanhlinh.net

Câu chuyện có thật về sự tha thứ tuyệt vời  (Amazing true story of forgiveness)

Vị linh mục do kết quả của cuộc hãm hiếp thuật lại hành trình tha thứ cho người cha

Vị linh mục quá khứ là thai nhi trong một cuộc hãm hiếp, khi mẹ ngài mới chỉ 13 tuổi đã chia sẻ câu chuyện về cuộc gặp gỡ, tha thứ và giải tội cho người cha của mình, người đang sống cuộc đời có đức tin.

Vào ngày 6/2/2013 trong cuộc phỏng vấn qua điện thoại với thông tấn xã Công Giáo CNA, cha Leon, cha sở của họ đạo Thánh Giuse ở Loja nói rằng, mẹ ngài, bà Maria Eugenia Armijos Romero lúc ấy đang làm việc là người dọn dẹp phụ giúp cha mẹ của bà nuôi 8 người con. Người chủ căn nhà lợi dụng lúc bà làm việc một mình không có ai đã hãm hiếp bà và làm cho bà mang thai”.

Mẹ của ngài luôn bảo vệ mạng sống của ngài, mặc dù bà là thiếu nữ còn rất trẻ và đơn độc, không có sự giúp đỡ của gia đình. Gia đình cố gắng làm cho bị sẩy thai bằng cách cho bà uống thuốc tẩy thai và đấm thình thịch vào bụng bà. Cha Leon nói: “Bà cầu nguyện và cảm nhận rằng Chúa đang nói với bà trong trái tim rằng: hãy bảo vệ đứa bé ở trong con”.

Bà mẹ trẻ mang bầu đã bỏ nhà đi tới thành phố Cuenca, nơi đây bà tự kiếm sống. Ngày 10/10/1961, bà sinh ra cậu bé Luis Alfredo. Một thời gian ngắn sau, với sự giúp đỡ của cha đứa bé, bà trở về lại Loja với cuộc sống là một người mẹ độc thân. Rốt cuộc bà lại được chăm sóc bởi kẻ đã hãm hiếp bà – tức là người bố của linh mục Luis – người đã nhận ra tôi là con của ông và nói rằng ông sẽ chăm sóc cho tôi. Thế nhưng, không có nghĩa là mọi sự giữa họ đều lành mạnh, êm thắm cả.

Cha tiếp tục kể lại rằng, cha của ngài luôn tới thăm viếng nhà của mẹ con chúng tôi và chu toàn bổn phận đối với chúng tôi. Họ có thêm ba người con nữa và mối liên hệ của tôi với người cha tuy là xa cách nhưng vui vẻ. Tôi kính trọng ông nhiều. Ông dần dần tạo nên một cảm giác có uy quyền trong tôi. Ông cứng rắn với tôi và đưa tôi đi làm”.

Lúc 18 tuổi, ngài cảm thấy có ơn gọi làm linh mục và vào dòng tu, cho dù có sự chống đối của cha ngài. Ngài thụ phong linh mục vào năm 23 tuổi với sự cho phép đặc biệt của Đức Giám Mục. Hai năm sau, ngài tham gia tổ chức hình thành người Kitô giáo trưởng thành, và mẹ ngài tiết lộ cho ngài biết về sự ra đời của ngài. Bà đã chấm dứt liên hệ với cha của ngài và điều này đánh dấu sự khởi đầu cuộc hành trình hoà giải cho cả hai người. Cha Leon giúp mẹ của cha hiểu rằng bà không thể ghét người cha của ngài, và cần đáp ứng với nhu cầu của chính ông là được tha thứ.

Cha nói: “Chúa cho tôi là một linh mục không phải để xét đoán mà là tha thứ, là khí cụ của lòng thương xót Chúa, trong khi tôi đã xét đoán cha tôi rất nhiều”.
Nhiều năm sau, cha nhận được cú điện thoại của cha ngài, ông đang sắp sửa phải đi mổ và rất lo sợ. Ông xin con của mình giải tội cho ông và đã trở lại với đức tin của mình sau 30 năm bỏ lễ.

Tôi nói với ông: “Cha ơi, cha đáng được vào thiên đàng, hưởng sự sống đời đời”. Và ngay lúc ấy ông đã trào nước mắt ra.

Khi cha Leon giảng co các người phụ nữ mang thai đang gặp những khó khăn trong cuộc sống, ngài nhắc nhở họ rằng cũng như tiên tri Giêmêria, Chúa cũng tác tạo những trẻ thơ trong bụng người mẹ như vậy.

Cha khuyến khích các trẻ em học nhìn mọi sự theo cái nhìn của tình yêu Thiên Chúa một khi họ biết về câu chuyện đời sống của họ.
Cha nói: “Nếu bạn là một đứa bé hay một người mẹ độc thân, bạn hãy nhận ra cách mà Thiên Chúa, cha của chúng ta đã chăm sóc cho bạn trong đời sống của bạn”.

Thu Linh (dịch từ CNA)

Sau phép lạ Thánh Thể, Chúa Giêsu còn hiện diện thật ?

Sau phép lạ Thánh Thể, Chúa Giêsu còn hiện diện thật ?

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 2:13 Sáng 23/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (23.02.2013) – NewTheologicalMovement  – Thánh Thể là Bí tích Yêu thương do chính Chúa Giêsu thiết lập để hằng ngày ở với chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta. Hãy cùng nhau tìm hiểu về Thánh Thể để củng cố đức tin Công giáo về Bí tích này, và cũng là để “kiểm điểm” mức độ tin yêu mà chúng ta dành cho Thánh Thể vậy!

Mặc dù có truyền thống phổ biến liên kết việc thiết lập lễ Mình Máu Thánh Chúa (Corpus Christi, ngày xưa thường gọi là lễ Săng-ti) với phép lạ Thánh Thể ở Bolsena-Orvieto, có lẽ có chút liên quan về lịch sử đối với sự xác nhận như vậy. Từ điển Bách khoa Công giáo (Catholic Encyclopedia) nói rằng lễ này không liên quan phép lạ Thánh Thể ở Bolsena-Orvieto, nhưng liên quan thị kiến của thánh Juliana Mont Cornillon, người đã sống tại Bỉ hồi đầu thế kỷ XIII.

Tuy nhiên, mặc dù có thể là thực sự có chút liên quan lịch sử giữa phép lạ Thánh Thể và sự thiết lập lễ Mình Máu Thánh Chúa, lòng sùng kính phổ biến của các tín hữu (nhất là ở Ý) và mừng kính long trọng hàng năm ở 2 thành phố của Ý, gợi chúng ta nhớ tới phép lạ Thánh Thể khi chúng ta mừng kính lễ trọng này ngày nay.

Khi chúng ta cân nhắc sự thật về phép lạ Thánh Thể, chúng ta có thể có một câu hỏi khác: Nếu chúng ta tin sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí tính Thánh Thể khi thuộc tính ngẫu nhiên vẫn còn (nghĩa là Chúa Kitô hiện diện khi Thánh Thể vẫn còn hình bánh và rượu), chúng ta sẽ làm Thánh Thể thành gì khi không còn hình bánh và rượu thay vì biến thành thịt và máu? Chúa Kitô có còn trong Thánh Thể sau một phép lạ Thánh Thể? Nếu Ngài vẫn còn đó, chúng ta sẽ kết luận phép lạ Thịt và Máu hữu hình vẫn là thịt và máu được thụ thai và hạ sinh bởi Đức Trinh nữ Maria? Nói cách khác, phép lạ Thánh Thể có giống như thánh tích của Chúa Giêsu?

Trong một câu hỏi phức tạp như vậy, chúng ta hãy trở lại với hướng dẫn của vị Tiến sĩ Thiên thần (Angelic Doctor, tức là thánh Thomas Aquinas, linh mục Dòng Đa Minh, tác giả bộ Tổng luận Thần học). Chúng ta nhớ rằng thánh Thomas Aquinas là “thần học gia vĩ đại nhất và là thi sĩ mãnh liệt nhất của Chúa Kitô về Bí tích Thánh Thể” – summus theologus simulque Christi eucharistici fervidus cantor (CP Gioan-Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, số 62).

Thánh Thể Chúa Kitô có là thật khi thịt hoặc một em bé hiện ra trong Bí tích này? (Summa Theologica III, Q. 76, Art.

Khách thể 1: Có vẻ như Thánh Thể Chúa Kitô không thực sự ở đó khi thịt hoặc một em bé hiện ra trong bí tích này. Vì thân thể Ngài ngừng ẩn trong bí tích này khi dạng bí tích ngừng hiện hữu (the sacramental species cease to be present), như đã nói ở trên (A. 6). Nhưng khi thịt hoặc một em bé hiện ra, dạng bí tích ngừng hiện hữu. Do đó thân thể Chúa Kitô không thực sự ở đó.

Khách thể 2: Hơn nữa, dù thân thể Chúa Kitô ở đâu, dưới chính dạng đó hoặc dạng bí tích. Nhưng khi có sự hiện ra, rõ ràng là Chúa Kitô không hiện hữu trong chính dạng của Ngài, vì toàn bộ Chúa Kitô được chứa trong bí tích này, và Ngài vẫn là tổng thể dưới dạng mà Ngài lên trời: nhưng điều xuất hiện mầu nhiệm trong bí tích này đôi khi được thấy là một miếng thịt nhỏ, hoặc đôi khi là một em bé. Rõ ràng là Ngài không ở đó dưới dạng bí tích là bánh hoặc rượu. Do đó, có vẻ như thân thể Chúa Kitô không ở đó bằng bất kỳ cách nào.

Khách thể 3: Hơn nữa, thân thể Chúa Kitô bắt đầu ở trong bí tích này bằng việc thánh hiến và biến chuyển (consecration and conversion), như đã nói ở trên (Q. 75, AA. 2, 3, 4). Nhưng thịt và máu xuất hiện mầu nhiệm bằng phép lạ không được thánh hiến (not consecrated), cũng không được biến chuyển thành Mình Máu thật của Chúa Kitô. Vì thế, Mình Máu Chúa Kitô không ẩn dưới dạng đó.

Ngược lại, khi xảy ra các phép lạ như vậy, sự sùng kính tương tự dành cho Thánh Thể như trước đó, không được sùng kính nếu Chúa Kitô không thực sự ở đó, với Đấng mà chúng ta tôn thờ hết lòng (giáo hội dùng từ “latria”, nghĩa là sự tôn thờ tối thượng chỉ dành cho Thiên Chúa). Do đó, khi có phép lạ như vậy, Chúa Kitô ẩn trong bí tích.

Phép lạ như vậy xảy ra theo 2 cách, đôi khi thấy theo dạng thịt và máu, hoặc một em bé. Đôi khi phép lạ xảy ra tùy người mục kích (beholder), mắt họ ảnh hưởng như họ thấy thịt, máu, hoặc em bé, nhưng trong bí tích không hề thay đổi. Và điều này có vẻ xảy ra khi người này nhìn thấy ở dạng thịt và máu hoặc một em bé, còn người khác lại thấy ở dạng bánh; hoặc cũng người đó thấy ở dạng thịt hoặc em bé suốt cả tiếng đồng hồ, sau đó lại thấy ở dạng bánh. Không hề có mánh khóe lừa dối ở đó, như thấy trong ảo thuật, vì dạng như vậy được hình thành một cách siêu phàm trong mắt nhìn để miêu tả sự thật nào đó, nghĩa là, vì mục đích cho thấy thân thể Chúa Kitô thực sự ở trong bí tích Thánh Thể; y như Chúa Kitô hiện ra với các môn đệ trên đường đi Emmaus mà không hề bị lừa dối hoặc ảo giác.

Thánh Augustinô nói (De Qq. Evang. ii): “Khi sự đòi hỏi của chúng ta được ám chỉ tầm quan trọng nào đó thì đó không là điều dối trá, mà là sự thật”. Và vì thế, theo cách này, không có sự thay đổi nào trong bí tích này, nghĩa là, khi có những phép lạ như vậy, Chúa Kitô không ngừng ở trong bí tích Thánh Thể.

Nhưng đôi khi một phép lạ như vậy xảy ra không chỉ bằng một sự thay đổi ở những người mục kích, mà bằng sự hiện hữu thực sự theo bề ngoài. Và điều này thực sự xảy ra khi được mọi người mục kích phép lạ như vậy, không chỉ kéo dài suốt một giờ mà kéo dài một thời gian đáng kể; trong trường hợp này là dạng đúng của thân thể Chúa Kitô. Đôi khi không là vấn đề dù toàn bộ thân thể Chúa Kitô có được thấy trọn vẹn ở đó hay không, nhưng phần nhục thể, hoặc không được thấy trong dạng trẻ trung, nhưng ở dạng giống như một em bé, vì nhục thể nằm trong một thân thể vinh quang được nhìn thấy qua con mắt không vinh quang – dù toàn bộ hay một phần, và dưới chính dạng giống nhau hoặc dạng lạ, như sẽ được nói sau đây (Suppl., Q. 85, AA. 2, 3).

Nhưng điều này có vẻ không khác. Trước tiên, vì thân thể Chúa Kitô ẩn trong dạng đúng có thể chỉ được thấy ở một nơi, được chứa đựng theo một khía cạnh nào đó. Do đó, vì được nhìn thấy theo dạng đúng, và được tôn thờ trên trời, không được thấy theo dạng đúng trong bí tích. Thứ hai, vì một thân thể vinh quang, hiện ra tùy ý (at will), biến mất tùy ý sau khi xuất hiện; như vậy điều này được Lc 24:31 kể lại rằng “mắt các môn đệ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất”. Nhưng điều đó xảy ra giống như thịt trong bí tích Thánh Thể, tiếp tục một thời gian dài. Thật vậy, theo nhiều giám mục, “phép lạ Thánh Thể” được giữ trong chén thánh (pyx).

Do đó, người ta vẫn nghĩ rằng, khi các chiều kích vẫn giống như trước, có sự thay đổi mầu nhiệm trong các ngẫu nhiên khác – như hình dạng, màu sắc, và phần còn lại, để nhìn thấy thịt, hoặc máu, hoặc một em bé. Và như đã nói, đây không là lừa dối, vì “để giới thiệu sự thật”, nghĩa là, phép lạ chứng tỏ rằng Mình và Máu Chúa Kitô thực sự ở trong bí tích Thánh Thể. Như vậy, rõ ràng như các chiều kích vẫn còn, là nền tảng của những điều khác, như sẽ thấy sau đây (Q. 77, A. 2), thân thể Chúa Kitô vẫn hiện dian65 trong Bí tích Thánh Thể.

Khách thể hồi đáp 1: Khi phép lạ xảy ra, đôi khi dạng bí tích vẫn tiếp tục hoàn toàn; và đôi khi chỉ là phần chính, như đã nói ở trên.

Khách thể hồi đáp 2: Như đã nói ở trên, khi xảy ra phép lạ, dạng đúng của Chúa Kitô không được nhìn thấy, nhưng dạng mầu nhiệm được thấy theo mắt nhìn của người mục kích, hoặc theo chính chiều kích bí tích.

Khách thể hồi đáp 3: Chiếu kích của bánh rượu được thánh hiến vẫn tiếp tục, trong khi sự thay đổi mầu nhiệm xảy ra ngẫu nhiên, như đã nói ở trên.

Kết luận

Như vậy, thánh Tiến sĩ Thiên thần trả lời “có” và “không” – nghĩa là ngài trả lời tích cực theo câu hỏi thứ nhất, và trả lời tiêu cực theo câu hỏi thứ hai của chúng ta.

Chúa vẫn hiện diện thật sau phép lạ Thánh Thể? Đúng, có 2 vấn đề. Trước tiên, vì số lượng chiều kích tiếp tục tồn tại, “chất liệu” vẫn còn. Hơn nữa, sự thay đổi bề ngoài (bánh biến thành thịt và rượu biến thành máu) là biểu hiện “thực tế thật” (true reality) của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Do đó, trong phép lạ Thánh Thể, sự hiện diện thật của Chúa Kitô vẫn có trong Thánh Thể.

Sau phép lạ Thánh Thể, Chúa Kitô vẫn hiện diện trong Thánh Thể như khi Ngài còn tại thế. Phép lạ Thánh Thể có như thánh tích của Chúa Giêsu? Không, lại có 2 vấn đề. Trước hết, vì vấn đề như vậy nghĩa là Thánh Thể không còn là bí tích. Điều này phân biệt sự hiện diện của Chúa Kitô trong Thánh Thể với sự hiện diện của Chúa Kitô trên trời, Ngài hiện diện ở dạng đúng trên trời trong khi Ngài hiện diện ở dạng bí tích trong Thánh Thể. Hơn nữa, nếu phép lạ Thánh Thể là Mình Máu Chúa Giêsu theo thể lý và ngẫu nhiên, như thế thì phép lạ Thánh Thể sẽ ngừng chứa đựng toàn bộ Chúa Kitô nhưng chỉ là “một phần” (a piece) của Đấng Cứu Độ – như vậy, chúng ta thấy không “ăn khớp” thế nào khi nghĩ về Thánh Thể (ngay cả sau phép lạ Thánh Thể) là thánh tích của Chúa Giêsu; vì thánh tích chỉ là một phần của một vị thánh, nhưng Chúa Kitô hiện diện hoàn toàn và trọn vẹn trong mỗi phần của Bí tích Thánh Thể.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ NewTheologicalMovement.blogspot.com)

Ghi chú: Ecclesia de Eucharistia: Tông thư về Thánh Thể do CP Giáo hoàng Gioan-Phaolô II ban hành ngày 17-4-2003 (Tông thư thứ 14 của ngài trên cương vị Giáo hoàng). Summa Theologica: Bộ Tổng luận Thần học của Thánh Tiến sĩ Thiên Thần Thomas Aquinas, Linh mục Dòng Đa-minh.

Thiên Chúa mời gọi mùa Chay

Thiên Chúa mời gọi mùa Chay

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 2:17 Sáng 22/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (22.02.2013) – onlineministries – Mùa Chay là mùa Thiên Chúa mời gọi riêng từng người: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”. Chúng ta trả lời: “Chúng con sẽ trở về”, nhưng chúng ta lại chưa sẵn sàng, chúng ta chưa thực sự chuẩn bị tâm hồn, còn nuối tiếc! Chúng ta muốn lòng vòng, lẩn tránh, lần lữa, viện cớ… Tâm hồn chúng ta chưa hoàn hảo. Chúng ta chưa sẵn sàng để Thiên Chúa yêu thương chúng ta!

Đúng vậy, nhưng chúng ta rất muốn quan hệ thân mật với Thiên Chúa, chúng ta nhiệt thành tự nhủ như vậy. Và chúng ta sẽ… Không bao lâu nữa. Chúng ta vẫn trì hoãn. Thiên Chúa lại mời gọi chúng ta: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”.

Vâng, lạy Chúa, con sẽ trở về với Ngài. Con chỉ còn vài việc cần làm nữa thôi. Trước tiên cho con thêm thời gian để cầu nguyện. Rồi con sẽ hòa giải. Xin cho con lau chùi nhà bếp, dọn dẹp nhà cửa, bán bớt mấy thứ lặt vặt, chăm sóc miếng đất con mới mua,… Thiên Chúa nhắc lại: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”.

Đó là lời mời gọi đặc biệt dành cho mỗi chúng ta, theo cách riêng của mỗi người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đừng biện hộ vì điều đó là khoảng cách giữa chúng ta và Thiên Chúa. Những gì Thiên Chúa muốn là chúng ta nhận biết các tiêu chuẩn của mình, cách phê bình và cách yêu thương của chúng ta cũng rất khác cách của Thiên Chúa. Ngài cho chúng ta cả mùa Chay, cả cuộc sống, vì yêu thương chúng ta vô điều kiện, dù chúng ta làm gì hoặc nghĩ gì mà chúng ta giấu giếm Ngài.

Từ thứ Tư lễ Tro, ngày khởi đầu mùa Chay, các bài đọc đều nhắc lại lời Chúa: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”. Tv 51 cũng nhắc nhở: “Lạy Chúa, xin tạo cho con trái tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ”. Đó là chính xác những gì Thiên Chúa muốn trao ban cho chúng ta, đó chính là niềm vui ơn cứu độ.

Ở Bắc Mỹ, mùa Chay rơi vào mùa Đông, những ngày này lạnh lẽo và tối tăm, hoàn toàn phải giấu mình trong nhà, hoàn toàn ẩn mình khỏi Thiên Chúa – chúng ta nghĩ vậy. Nhưng Thiên Chúa vẫn kiên trì, yêu thương, nhân hậu. Thiên Chúa là Người Cha của Đứa Con Hoang Đàng, nhẫn nại chờ đợi, tha thiết muốn đứa con trở về, chờ suốt ngày thâu đêm. Không hề khép vòng tay, không hề có ánh mắt xét đoán, chỉ có đôi mắt mỏi mòn chờ đứa con trở về. Thiên Chúa khao khát được ôm choàng lấy chúng ta và vui mừng thấy chúng ta trở về.

Nhưng chúng ta vẫn quan ngại tìm cách nào để trở về và đắn đo lời nói, tìm cách để đối thoại. Đó chỉ là lúc chúng ta còn ở xa, lúng túng và lẫn lộn, nhưng chúng ta không cần phải nói chi cả, chúng ta chỉ cần cho Ngài nhìn thấy chúng ta.

Hãy nhìn con đường phía trước: Thiên Chúa yêu thương đang vui mừng khi nhìn thấy chúng ta trở về. Lời mời gọi của Ngài đã được chúng ta nghe thấy và đáp lại: “Chúng ta phải mau về nhà thôi!”.

Nhưng điều gì cản trở chúng ta về đoàn tụ với Cha? Điều gì khiến chúng ta không đáp lại lời mời gọi để trở về sống với Thiên Chúa? Đó là sự trì hoãn, lần lữa, so đo: “Từ từ… Chờ chút… Vì không biết Thiên Chúa có biết mình hay không…”.

Tất cả không thành vấn đề. Chỉ cần biết rằng chúng ta phải trở về với Thiên Chúa, Ngài đang mỏi mòn chờ đợi chúng ta trở về để được ôm hôn mỗi chúng ta. Vậy chúng ta phải mau trở về! Tiếng Chúa vẫn âm vang: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”.

Chấp nhận lời mời gọi này là điều đơn giản nếu chúng ta có thể vượt qua nỗi sợ hãi. Những gì chúng ta cần làm là thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con đây. Con phải bắt đầu từ đâu? Vâng, con muốn được ở bên Ngài”. Lòng chúng ta đã mở ra và chúng ta đã bắt đầu bước về phía người cha đang đứng ở phía trước. Không cần giải thích chi hết, chỉ cần vui mừng trong yêu thương mà nhìn vào ánh mắt nhân từ của Thiên Chúa đang nhìn chúng ta.

Bước kế tiếp trên đường về nhà là gì? Chúng ta có thể dùng những giây phút đầu ngày, trước khi ra khỏi giường, để tạ ơn Chúa đã dành cho chúng ta lời mời gọi yêu thương như thế, và xin Ngài mở lòng chúng ta để chúng ta có thể đón nhận. Hãy bắt đầu từ hôm nay, đang là thời gian mùa Chay. Suốt ngày, chúng ta có thể nhớ lời mời gọi của Chúa khiến lòng chúng ta lay động: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”. Và chúng ta có thể cùng vui mừng với Thiên Chúa.

Đó là lời mời gọi mỗi ngày trong mùa Chay. Hôm nay là ngày chấp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ onlineministries.creighton.edu)

CHỮ HIẾU – CHỮ TÌNH

CHỮ HIẾU – CHỮ TÌNH

Maria Túc Lynh

Hiếu và Tình bên nào nặng hơn, Hai chữ này viết và nói thì xem ra đơn giản, nhưng để làm cho trọn nghĩa của hai chữ này, theo tôi không đơn giản và nhẹ nhàng chút nào.Nó càng khó khăn ở bất đồng ý kiến của cha mẹ trong vấn đề dựng vợ, gả chồng. Nếu ta yêu phải một người mà cha mẹ hay ông bà không hài lòng, thì chữ đầu tiên mà ta thấy là một chữ “khổ” to đùng nằm chắn ngang trước cửa tình yêu. Tuy nhiên nỗi khổ đó thì ta còn có thể dùng biện pháp lấy lòng từng người, có thể gọi là đánh du kích từng mục tiêu. Cuối cùng thì không nhiều cũng có ít ra vài người, nhìn thấy thiện chí của mình mà khoan nhượng và đồng ý cho ta lấy người ta yêu.

Nhưng vấn đề rắc rối và phức tạp hơn, là phải chọn lựa một tôn giáo cho riêng tình yêu của mình. Là con gái thì có thể theo lề thói xưa là “lấy chồng thì phải theo chồng” nên cho dù có gặp chút trắc trở, nhưng không khó khăn và nặng nề. Chỉ tội nghiệp cho những chàng trai, đặc biệt là những thừa tự, những đích tôn. Ôi thôi, bao nhiêu là rắc rối đến với những cuộc tình này. Một bên thì nếu thương con gái tôi, anh phải chiều theo chúng tôi thì chúng tôi mới gả nó cho anh. Một bên thì con là đứa con gia đình mong mỏi nhiều nhất, giờ chỉ vì đứa con gái mà con lại đành lòng để bàn thờ ông bà lạnh lẽo không hương khói, mà con gái thì trên đời này đâu có thiếu … bao nhiêu hoàn cảnh, bao nhiêu trường hợp éo le để người trong cuộc cười ra nước mắt.

Đã bao nhiêu lần tôi được nghe những bạn đi học giáo lý dự tòng than thở nỗi khổ của mình.Một bên là tình yêu đã chín muồi, không thể sống thiếu nhau nữa. Một bên là chữ hiếu đạo với gia đình rất nặng nề, đặc biệt là những bạn là con duy nhất trong gia đình thì càng khổ sở hơn.

Một lần nữa trong tâm tình của một người con, một tân tòng non trẻ. Tôi xin được chia sẻ một chút, mong làm sao những bậc trưởng bối và những quý vị chưa là Công Giáo nhận ra và xoá đi thành kiến đã có từ rất lâu đời về việc theo Chúa là bỏ hết ông bà, là bất hiếu tử, là bất tùng cuốc xuổng… Bao nhiêu từ ngữ nặng nề phủ lên đầu chúng tôi. Và tôi cũng đã bao nhiêu lần thấy khổ tâm khi phải nghe má tôi cứ gằng giọng, mỗi khi nói tới vấn đề tôi đến với Chúa.

Trong bài viết này, tôi xin đưa ra những nhân chứng là những tân tòng và những chị chỉ đang tìm hiểu về Chúa, đã có những tính cách rất dễ thương và đáng quý.

Người thứ nhất là một chị trung niên, chị tên N. Chị sống ở Saigon, chị là một tân tòng được nhiều người ngưỡng mộ về cách sống đạo. Chị từng là một người kinh doanh khá thành công, nhưng vì chị chứng kiến những cảnh trái tai gai mắt trên thương trường và để sống đúng theo những gì Chúa dạy. Chị đã phải đánh đổi cuộc sống kinh tế hiện tại, để có được một sự sống đời đời. Chị không thể nào nói dối để bán được hàng, chị càng không thể chịu đựng và đồng lõa với sự giả dối của những người bán hàng chung quanh. Cuối cùng, điều đáng nói là sau khi chị đọc và tìm hiểu trọn bộ Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước, thì chị đã quyết định phải thay đổi cuộc đời mình.

Chị kể lại rằng: Sau khi chị tìm hiểu thì cầu nguyện và quyết định một bước thay đổi rất ngoạn mục. Chị quyết định đánh đổi việc kinh doanh hiện tại, để được thay đổi cuộc đời cũng như đời sống tâm linh.Chị nói là từ ngày chị được trở lại và sống trong ơn nghĩa Chúa, thì chị thấy mình rất hạnh phúc và thoải mái. Chúa đã thu xếp cho chị một công việc rất nhẹ nhàng nhưng trọn vẹn nghĩa tình với Chúa cũng như với gia đình chị. Ngày ngày chị đi lễ sớm hơn mọi người để cầu nguyện và xướng kinh cho mọi người. Ngoài giờ Lễ thì chị chăm sóc mẹ chị và người thân chu đáo. Chị nói là cũng có nhiều khó khăn chị gặp phải trong những giao tiếp hàng ngày.Tuy nhiên vì chị có Chúa nên chị cũng đủ sức để vượt qua, và chị luôn nhận thức rằng đó chỉ là những trò của ma quỷ cố tình phá đổ những gì đẹp lòng Chúa.

Người thứ hai tên H,là một cô gái mà tôi quen biết đã hơn 10 năm. Cô này ngày trước rất ham thích những thú vui hiện đại, những người quen biết với cô ấy đã có lần nói rằng cô này chỉ toàn đi chơi vào ban đêm, mãi đến sáng thì cô mới về nhà. Gia đình cô thì chỉ còn cô và người mẹ đã lớn tuổi lại hay đau yếu, hoàn cảnh kinh tế cũng không khá giả. Công việc thường ngày là đi giúp việc chạy loanh quanh cho một chị gần nhà, vì chị ấy thương và xem cô ấy như người thân. Nên lắm khi cô gái ấy nghĩ mình cũng là tiểu thư giàu có sành điệu. Ngày trước tôi thường hay nghĩ không tốt về cô ấy và tôi không mấy thiện cảm, nhất là thấy cô ấy có thái độ khinh dễ người nghèo và người ăn xin. Bẵng đi một thời gian tôi có dịp gặp lại những người quen của cô ấy, đặc biệt là chị Mai (chị Mai được xem như là chị của cô ấy). Tôi vô tình hỏi thăm thì được biết một thông tin rất vui rằng, bây giờ cô ấy đã lãnh Bí Tích Rửa Tội được hơn 1 năm rồi. Điều đáng vui nhất là từ ngày cô ấy có Chúa, sau một biến cố trong đời thì cô ấy hoàn toàn thay đổi một cách kỳ lạ.Từ một cô gái đua đòi, ăn chơi không cần biết gì đến nỗi lòng của bà mẹ già, xin nói thêm là cô ấy không còn cha. Bây giờ cô ấy từ bỏ hết tất cả những cuộc vui thâu đêm suốt sáng, mà chỉ chuyên tâm ở nhà để chăm sóc cho mẹ thật chu đáo. Tính tình cô cũng khiêm nhu hơn, cô biết quan tâm và giúp đỡ những ai cần giúp.Giờ cô được xem là đứa con ngoan trong gia đình.

Người thứ ba tên P.N, hiện giờ thì chị đang trong giai đoạn tìm hiểu và cố gắng sống đúng như những gì chị hiểu về Chúa và Mẹ Maria. Chị tâm sự với tôi rằng trước kia khi chị không có Chúa, tâm trạng của chị rất mệt mỏi nặng nề bởi bà mẹ chồng luôn làm khó và tạo áp lực cho chị. Tuy chồng chị rất yêu quý chị, nhưng không khí gia đình nhỏ của chị khá nặng nề. Chị là con gái Bắc, mẹ chồng chị lại là người miền Trung nên chị phải chịu nhiều điều trái khoáy từ bà mẹ chồng khắt khe. Rồi đến một ngày, chị được dịp tiếp xúc với một linh mục khi gặp một biến cố. Sau thời gian trao đổi và được hướng dẫn có một lối thoát trong suy nghĩ, chị đã thấy lòng mình nhẹ nhàng hơn khi phục vụ mẹ chồng mình. Chị chia sẻ với tôi rằng, từ ngày có Chúa, từ ngày chị dành thời gian để tâm sự với Chúa thì chị thấy  mình hạnh phúc. Một điều quan trọng hơn nữa mà tôi cũng cần nêu lên để quý vị lưu ý, là mẹ chồng chị ấy bây giờ cũng được thay đổi. Bà ngày càng yêu quý con dâu mình, biết quan tâm tới con dâu, biết chia sẻ và nghe ý kiến của con dâu. Theo như lời chị vui vẻ chia sẻ thì bây giờ mẹ chồng chị rất dễ thương.

Người thứ tư tên là P.B, chị này là một phụ nữ trí thức. Chị luôn tự cho mình cái quyền là người hạch sách, đòi hỏi và ra lệnh mọi người trong gia đình phải luôn tuân theo ý kiến của mình. Cho dù đó lắm khi sai trái, chị bất kể đó là cha hay mẹ của mình. Mọi người gần như rất sợ tiếp xúc với chị, mỗi khi chị về nhà cha mẹ mình thì cuộc vui nơi đó gần như phải tan. Đối với mọi người chị giống như là một phần tử khủng bố, đó là danh từ mà người trong gia đình chị tặng cho chị. Rồi từ khi chị bị một căn bệnh khó chữa, thì chị càng tăng thêm quyền hành đòi hỏi mọi người phải phục vụ chị. Hôm nào mẹ chị nấu cơm cho chị ăn, mà món ăn không vừa miệng chị thì chị tha hồ nặng nhẹ, xách mé đến nỗi mẹ chị đã khóc vì chị không biết bao nhiêu lần. Chị luôn nghĩ là mình đã giúp đỡ cha mẹ, cha mẹ rất cần mình nên phải phục vụ mình và nhất định không được từ chối bất cứ yêu sách nào của mình, mặc dù nó rất vô lý. Rồi cũng đến ngày chị được Chúa đến thăm, Chúa đã âu yếm xoa dịu nỗi đau trên cơ thể chị, Chúa đã ôm chị vào lòng rất êm ái. Mẹ Maria thì nhỏ nhẹ tâm tình và dạy dỗ chị rất nhẹ nhàng. Chỉ với tình yêu Chúa và nỗi lòng bao la của một bà Mẹ Thánh. Chị gần như hoàn toàn thay đổi, sự thay đổi của chị đã làm cho những người trong gia đình rất đỗi bất ngờ. Chị tâm sự với tôi rằng, ngày trước mỗi khi mẹ chị không làm chị vừa lòng thì chị liền trả treo, đay nghiến cho thỏa mãn cái tính tự ái và kiêu căng của chị. Còn từ khi có Chúa thì chị bảo rằng chị không dám nói gì, mặc dù trong lòng cũng nổi cơn. Lúc đó chị chỉ còn nhớ tới việc đọc Kinh Kính Mừng của Đức Mẹ hay là lần Chuỗi Mân Côi, thì chị cảm thấy lòng mình dịu lại và thấy thương mẹ và thông cảm cho những vất vả của mẹ (xin được nói thêm một chút, về việc vì sao chị biết đọc kinh của Đạo Công Giáo trong khi gia đình chị thuộc Phật Giáo. Chị đã được người em gái của chị trong một biến cố đã tìm đến với Chúa trước chị, hướng dẫn và chia sẻ tâm tình của Chúa và Mẹ Maria dành cho nhân loại. Từ dịp đó, chị và em gái chị đã có tiếng nói chung về đời sống tâm linh). Giờ đây chị gần như là một con người khác, một con người biết chia sẻ, cảm thông với mọi người và biết chấp nhận những gian truân trong cuộc sống. Chị nói rằng khi có Chúa chị thấy mình rất yên tâm, chị thấy mình rất bình an trong mọi hoàn cảnh. Khi cảm nhận tình thương của Chúa và Mẹ Maria bên cạnh, thì chị càng thấy yêu quý cha mẹ ruột của mình hơn. Giờ thì mọi người trong nhà chị rất vui vẻ và luôn luôn mong muốn chị về chơi với gia đình. Hiện tại chị chia sẻ với tôi rằng chị đang cầu nguyện và xin thêm một ơn đặc biệt của Chúa là vượt qua tất cả để chị đến với Chúa trọn vẹn hơn.

Tôi xin phép gởi đến quý vị một câu trong Kinh Thánh, để quý vị rỏ hơn vì sao khi có Chúa thì những người chị em của tôi có thể vượt qua và làm hài lòng những người chung quanh tất cả. Chỉ vì họ tin vào Lời Hứa này của Chúa:

“…Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”. (Mt 11, 28-30)

Trên đây là những nhân chứng có thật, vì một lý do tế nhị nên tôi chưa tiện nêu tên cụ thể. Còn trong bài viết này thì tôi xin phép được chia sẻ tâm tư của mình, chỉ mong quý vị đón nhận trong thương yêu và đồng cảm.

Được gọi là Người Công Giáo thì nhất định, không ai không biết tới 10 Điều Răn của Đức Chúa Trời. Chỉ sau 3 điều răn đầu tiên là dành trọn vẹn cho Thiên Chúa, thì điều răn thứ 4 kế tiếp là Thiên Chúa đặc biệt nói đến điều luật là phải thảo kính cha mẹ. Cụ thể hơn nữa là nếu ai thờ cha kính mẹ một cách trọn vẹn thì con được Thiên Chúa chúc phúc và sống thọ trong ơn nghĩa Chúa.

Theo tôi nếu quý vị chịu khó dành một chút thời gian ít ỏi trong ngày, xin mời quý vị tham gia thử một Thánh Lễ một lần với tâm tình tìm hiểu để cảm thông và chia sẻ. Tôi chắc chắn rằng quý vị sẽ thấy Người Công Giáo chúng tôi, không hề quên hay từ bỏ tổ tiên ông bà. Mà trong tất cả những Thánh Lễ, cho dù là ngày thường (mỗi ngày có 2-3 Thánh Lễ) chúng tôi đều có lời cầu nguyện với Chúa cho tổ tiên, ông bà của mình sớm được hưởng hạnh phúc đời đời trên nước Trời. Trong mỗi Thánh Lễ đều có những lời nguyện của các linh mục, là xin Chúa tha thứ cho những việc làm không đẹp lòng Chúa của tiên nhân mình.

Không chỉ có vậy thôi, Người Công Giáo còn dành trọn tháng 11 hàng năm để tưởng nhớ, cầu nguyện và viếng thăm mộ của ông bà. Một điều đáng chú ý và làm cho tôi ngưỡng mộ hơn nữa, là chẳng những họ viếng mộ của người thân mình, mà Người Công Giáo còn viếng luôn mộ của nhưng người chưa một lần quen biết. Ở Đạo Công Giáo có một tính chất rất cao quý là tính thông công, con người sống thông công với các vị thánh, để các vị Thánh cầu nguyện cho người sống để người sống được hoàn thiện hơn. Người còn sống thì ngày ngày cầu nguyện và van xin Đấng Tối Cao tha thứ cho những thiếu sót, lỗi lầm của tổ tiên mình mắc phạm, hòng để cho các vị ấy sớm được hưởng phúc đời sau. Thậm chí giờ đây Người Công Giáo, còn hiệp ý để cầu nguyện cho những người không Công Giáo. Điều ngạc nhiên không kém là những người không Công Giáo, cũng được ơn Chúa ban từ những lời cầu nguyện của những người Công Giáo kia.

Trên đây là những điều tôi được biết, được hiểu và được cảm nhận những điều mà những bậc trưởng bối không phải người Công Giáo chưa được rõ.Tôi nghĩ là tôi cần phải nêu lên những điều cần thiết này, mong sao quý vị đón nhận dù là còn nghi ngờ khi quý vị chưa đến tham dự Thánh Lễ của chúng tôi.

Tôi không hề nói quá, nhưng vì là một tân tòng nên có thể tôi chưa trình bày cặn kẽ hơn và chi tiết hơn để hầu cùng quý vị.Trong bài tâm tình này tôi chỉ mong quý vị đọc để hiểu hơn và thông cảm hơn cho con cháu mình trong những hoàn cảnh được Chúa chọn bằng cách này hay cách khác.

Tôi xin chân thành cám ơn quý vị và dành thời gian quý báu để đọc bài chia sẻ của tôi. Chúng tôi, những người đã được Chúa chọn hay đang được Chúa chọn rất hy vọng quý vị sẽ thông cảm và xoá bớt đi định kiến nặng nề, mà không làm cho chúng tôi phải khổ sở, khó khăn trong việc làm tròn chữ hiếu với cha mẹ và vẹn nghĩa của chữ tình với bạn đời. Vì với tôi, chữ Hiếu và chữ Tình không thể thiếu nhau, vì trong cuộc sống mà thiếu đi một trong hai chữ, chắc chắn cuộc đời của ta sẽ không trọn vẹn. Hai chữ Hiếu -Tình luôn tương trợ và đồng hành cùng nhau, sẽ làm cho cuộc sống của con người ý nghĩa hơn và hạnh phúc hơn.

Sàigon, ngày 26 tháng 01 năm 2013

Maria Túc Lynh

HỒ XƯA,

HỒ XƯA,

Trời chiều bãng lãng cô thôn,
Hồ xưa rợp bóng in hồn núi sông,
Cây xanh kết lá nối lòng,
Tuy xa vẫn nhớ dáng hồng ngày qua,
Nghiêng nghiêng nắng đổ mượt mà,
Tóc mây cột mối tình xa quay về,
Em ơi cách mấy câu thề,
Rằng anh vẫn giữ trăm bề cùng em…

Liverpool.19/2/2013.
Song Như.

Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC.
Kính chúc sức khỏe.
Kim Trọng

TẤM LÒNG

TẤM LÒNG

Trầm Thiên Thu
tro ve

Triết gia Pascal nói: “Con người là cây sậy có lý trí”.  Một cách diễn tả dung dị dễ hiểu.  Điều đó mặc nhiên rằng con người là sinh vật bất túc, bất trác và bất toàn, với một số phận mong manh không khác đóa phù dung.  Và vì thế, con người cứ miệt mài ngày đêm đi tìm Chân-Thiện-Mỹ theo lệnh truyền của Thiên Chúa: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời” (Mt 5:48).  Nghĩa là phải chiến đấu và vươn lên không ngừng, với khát khao tìm về cái gọi là “nhân chi sơ tính bổn thiện” sau những ngày (có thể) sa chân lầm lạc hoặc lỡ để bàn tay nhúng chàm.

Con người yếu đuối nên dễ “nhiễm” cái xấu hơn cái tốt, nhưng hẳn là khôn hơn khi chưa vấp ngã. Phêrô, một ngư ông chất phác, được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ, và dù đã “thẳng thừng” chối Thầy mình, ông vẫn được Ngài cất nhắc lên làm Giáo hoàng tiên khởi, làm “hoa tiêu” đưa Con thuyền Giáo hội vượt qua ngàn trùng sóng gió, vì chính ông đã có kinh nghiệm bản thân.  Vấn đề không phải là tốt hay xấu, giỏi hay dốt, mà là biết thành tâm sám hối, biết sửa sai và phục thiện, để sống tốt hơn và lợi ích cho tha nhân.

Thật vậy, đời người là một chu-kỳ-ăn-năn không ngừng.  Hết lỗi lầm này đến sai lầm khác.  Rồi ăn năn. Rồi tái phạm.  Và rồi lại hối hận… Vậy đó, hứa nhiều mà chẳng giữ được bao nhiêu.  Càng nhiều tuổi càng “nói dối” nhiều: Ai càng sống lâu càng xưng tội nhiều lần mà vẫn chưa chừa được!  Chúng ta chỉ là những kẻ nói dối Chúa!  Ai cũng quyết lên án nhưng rồi không ai dám ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (x. Ga 8:2-11), thế nên họ đều lần lượt bỏ đi, người lớn tuổi đi trước, kẻ nhỏ tuổi đi sau, vì không ai thấy mình sạch tội.  Vâng, đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán!

Nói vậy không có nghĩa là không cần hoàn hảo vì không thể hoàn hảo.  Vẫn phải cố gắng tìm sự hoàn hảo: Hoàn hảo ngay trong cái chưa hoàn hảo.  Nếu tưởng mình hoàn hảo tức là chưa hoàn hảo.  Thật vậy, “ai tưởng mình là gì mà kỳ thực không là gì hết, đó là lừa gạt chính mình” (Gl 6:2-3).  Những người theo chủ-nghĩa-hoàn-hảo, gọi là cầu toàn, luôn làm ra vẻ hoàn hảo để mong được tiếng khen, dễ nóng giận với chính mình và luôn chê trách hoặc ghen ghét người khác.  Thực ra đó chỉ là cách che giấu cái bất toàn của mình.

Quả thật, con người quá yếu đuối và luôn đầy tham vọng.  Nhưng không vì thế mà ỷ lại hoặc cố chấp, biện hộ cho những gì mình làm.  Ngược lại, phải tự biết chấp nhận mức độ hữu hạn của mình để luôn biết làm việc tận tụy bằng tất cả tâm lực mà không đòi hỏi gì thái quá nơi người khác.  Đức Giêsu đã nói: “Ai trung thành trong việc nhỏ sẽ trung thành trong việc lớn” (Lc 19:12-27).  Hãy tự giành cho mình những việc khó và dành cho người khác những việc dễ, nhưng không hề miễn cưỡng hoặc tỏ vẻ khó chịu.

Mùa Chay là thời gian cần thiết để suy gẫm, tĩnh tâm, vì đời người như một cỗ máy, thỉnh thoảng vẫn cần được tu sửa – dù tiểu tu, trung tu hoặc đại tu.  Mùa Chay cũng là dịp “nhìn lại” số km mình đã đi qua để biết phải cố gắng thêm ít hay nhiều, như máy móc phải châm thêm hoặc thay dầu nhớt, chứ không thể tự mãn.  Ăn chay phải gắn liền với cầu nguyện, vì “bao lâu ta chưa thôi cầu nguyện là dấu chắc chắn Chúa đang thương” (Thánh Augustinô).  Cầu nguyện là mãnh lực khả dĩ chiến thắng tất cả!

Ăn chay song song với tịnh tâm.  Không nhất thiết phải làm điều gì vĩ đại mà chỉ cần “chấn chỉnh” hoặc “cởi bỏ” một thói xấu hoặc một động thái nào đó…  Thiết tưởng đó mới là cách “trở về” hữu ích và đẹp lòng Chúa.  Có thể là hy sinh không đi chơi, bớt hoặc bỏ hút thuốc, giảm uống cà-phê, bớt uống rượu, thôi cờ bạc, ít tán gẫu, không xét đoán, chăm học hơn, quan tâm nhau hơn, sống hòa đồng hơn, nghiêm túc hơn,… Đó chính là những Vị Ngọt làm cho ly-cà-phê-không-đường đời mình thêm đậm đà hương vị, để không chỉ cho riêng mình “thưởng thức” mà còn cho cả những người xung quanh cùng “nếm thử”. Và còn mãi dư vị làm sảng khoái…

Trở về là hành-trình-vui nếu biết trở về với cả tấm lòng sau những năm tháng hoang đàng.  Thiên Chúa luôn nhân hậu và đại lượng vẫn từng giây mong chờ tội nhân trở về nương náu Tình Yêu Thiên Chúa. Dù tội lỗi đến đâu, dù thất vọng nhưng đừng tuyệt vọng, Thiên Chúa vẫn nhân hậu vô cùng, chỉ cần chúng ta biết thành tâm sám hối, vì chính Chúa Giêsu đã nói với nữ tu Josefa Menendez (1890–1923, Dòng Thánh Tâm): “Sự khốn nạn của con lôi cuốn Cha”.  Thật là may mắn và hạnh phúc cho mỗi người chúng ta có một Vị Thiên Chúa từ bi ngoài sức tưởng tượng của loài người!

Tình Yêu Chúa là thế, yêu đến cùng, yêu đến chết, yêu đến giọt máu và giọt nước cuối cùng, vì vậy mức độ yêu Chúa của chúng ta phải theo cách thức của Thánh Bernard: “Mức độ yêu Chúa là yêu vô hạn”.  Con người với nhau rất cần một tấm lòng thì với Thiên Chúa, Ngài cũng chỉ cần chúng ta dành trọn cho Ngài một Tấm Lòng mà thôi!

*************************

Lạy Chúa, chúng con thật yếu đuối, “điều con muốn thì con không làm, điều con không muốn thì con lại làm” (x. Rm 7:19).  Thật trớ trêu thay! Nhưng Ngài vẫn không chấp, vẫn sẵn sàng tha thứ tất cả, tha thứ vô điều kiện chỉ vì Tình Yêu Ngài dành cho con luôn trọn vẹn, trước sau như một.  Có nhiều lúc con cô đơn và thất vọng ê chề, xin Ngài thương độ trì, vì con xác tín “Ngài là Đấng đã gọi con, Ngài đang ở với con, Ngài không để con cô đơn một mình” (Ga 8:29) và “xin thêm đức tin cho con” (Lc 17:5).  Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen!

Trầm Thiên Thu

From: langthangchieutim

và Anh chị Thụ & Mai gởi

ĐẦU NĂM MỪNG TUỔI… “NHÓM TOBIA”

ĐẦU NĂM MỪNG TUỔI… “NHÓM TOBIA”

Tác giả: Lm. Lê Quang Uy, DCCT

nguồn:conggiaovitenam.net

Có lẽ công việc BVSS trước hết mọi mặt chính là đi nhặt xác thai nhi đem về lo tẩm liệm, chôn cất hoặc hỏa táng. Và nếu chọn mốc khởi sự là năm 1992, thì anh Tống Phước Hiếu cùng với người thân trong gia đình và các bạn sinh viên Huế sẽ được công nhận là thành viên “Nhóm Tobia” đầu tiên, đã tận tụy ân cần từng ngày vun đắp những nấm mộ thai nhi trên các quả đồi bỏ hoang của Giáo Xứ Ngọc Hồ, cố đô Huế. Từ đó đến nay đã 21 năm, 3 quả đồi trắng xóa những cây thập giá, có lẽ phải đến hàng mấy vạn anh hài.

Chúng tôi đóng ngoặc kép tên gọi “Nhóm Tobia” là vì không có hẳn một Nhóm nào mang tên Tobia, nhưng cứ hễ ở đâu khởi sự có chương trình BVSS, thì người ta có thể làm ngay khâu lo “hậu sự”, và như thế họ trở thành các hậu duệ của Thánh Tobia trong Cựu Ước.

Ngày xưa còn bé, trước 75, cuối tuần tôi thường được bố giao việc đi bộ từ Nhà Thờ Phanxicô Đakao ra Nhà Thờ Tân Định để nhận báo đem về phát cho từng nhà bổn đạo, khi băng ngang đường Hai Bà Trưng, nhìn sang phía bên phải thấy Trại Hòm Tobia, tôi cứ sờ sợ, ghê ghê thế nào ấy. Của đáng tội, những gì có hơi hướm sự chết, ai mà không hãi !?! Vậy mà không ngờ hơn bốn mươi năm sau, bản thân mình cũng liên quan đến “Nhóm Tobia”.

Có điều, ngày xưa Trại Hòm Tobia có câu slogan lừng danh “Sống một cái nhà, thác một cái hòm”, các thai nhi của chúng tôi bây giờ làm gì mà dám mơ có được hẳn một cái hòm ?!? Khi được các cộng tác viên “Nhóm Tobia” kín đáo mang ra khỏi bệnh viện hoặc phòng khám có dịch vụ phá thai, các bé nằm chung với nhau trong những túi nylon màu đen lõng bõng nước, từ đó đem về các Nhà Dòng hay Nhà Xứ, có khi là về một ngôi Chùa nữa.

Đến khi đem chôn thì các bé được đặt chung trong một cái bát hương, hay hũ sành, trám ximăng lại rồi táng vào hầm mộ, hoặc đào sâu xuống đất, nơi sẽ xây lên một nấm mộ bé xíu, quét vôi trắng, hoặc ốp đá đen, thường là mộ chung của 20 đến 30 em bé. Ở DCCT và một vài nơi khác giữa lòng các thành phố lớn, khi chọn giải pháp là thiêu, tro cốt các bé như nắm bột màu ngà ngà trắng, được gói lại, hàn kín trong những bao nylon trong, đặt gọn giữa lòng một viên gạch kích thước 15x15x25cm, mỗi viên gạch như thế là khoảng 100 cháu. Ở Sàigòn trước đây mỗi ngày chỉ 1 viên, bây giờ có khi phải là 2, 3 viên. Cứ thế, sau 10 năm, riêng Nhà Dòng chúng tôi đã nhặt về tính ra đã hơn 35 vạn cháu bé, vượt qua số lượng thai nhi được chôn cất sau hơn 20 năm ở Huế !

Để có được những Nghĩa Trang như thế, các Linh Mục nam nữ Tu Sĩ chúng tôi làm sao cho xuể từ A đến Z ? Rõ ràng phải có rất đông anh chị em Giáo Dân cộng tác gắn bó tin cậy suốt nhiều năm mà chúng tôi xin được gọi chung là “Nhóm Tobia”.

Trước hết phải kể đến các y bác sĩ, điều dưỡng, y công còn có lương tâm, tại các nơi có phá thai, họ dứt khoát không nhúng tay phạm tội ác phá thai nhưng cũng không đành lòng làm ngơ để xác các bé bị đem đi như rác thải y tế hoặc tệ hơn, bỏ tọt vào nhà cầu, giật nước ùm một cái là xong như người ta vẫn thản nhiên làm.

Tiếp theo, chỉ tính riêng với DCCT, là một đội ngũ khoảng 40 anh chị em, do tính cách công việc quá nhạy cảm, họ gần như hoạt động đơn lẻ độc lập, không quen không biết nhau, nhiều lắm là đi chung 2 người với nhau hoặc chia nhau luân phiên hai tư sáu – ba năm bảy. Họ hoàn toàn tự nguyện, lắm khi chúng tôi hỏi thăm, họ cũng khéo léo từ chối không cho biết tên, biết địa chỉ và nghề nghiệp. Có lẽ họ vừa muốn khiêm tốn âm thầm làm việc, lại vừa muốn tránh mọi sự dòm ngó đồn thổi. Suốt buổi sáng cho đến tối khuya, dù mưa gió, áp thấp nhiệt đới, rớt bão tràn về thành phố, bất cứ lúc nào có em bé bị giết, họ lại có mặt để nhận xác và đem về nơi Góc Thương Xót, cuối hành lang dãy Nhà Hiệp Nhất ở DCCT chúng tôi. Họ hiểu, chỉ một sơ sảy trễ hẹn hay bỏ phiên, các em bé có thể bị vứt đi không thương tiếc, làm mồi cho chuột, chó, mèo, ruồi nhặng…

Kế đó, vào lúc 21g30 hằng đêm, khi cái vại lớn ở chỗ chúng tôi đã đầy ngập những túi nylon đen, ít gì cũng cả trăm xác, mà lắm hôm gặp đợt cao điểm phá thai, tổng cộng phải đến 10Kg xác em bé, đến phiên các bạn Nhóm Fiat ( gần đây có thêm Nhóm Amen là c1svien gốc Tân Hà, Bảo Lộc ), từng hai bạn trẻ làm thành một ca, gói ghém kỹ lưỡng tất cả trong 2, 3 lớp bao nylon to và dầy, túm lại, buộc chặt, thắp một nén nhang, đứng im cầu nguyện trong mấy phút trước tượng Đức Mẹ và ảnh Lòng Chúa Thương Xót, rồi rời Góc Thương Xót mang tất cả đi một đoạn đường khoảng 10 cây số đến một ngôi Nhà Nguyện nhỏ bé xa xôi ở ngoại thành.

Cuối cùng, tại điểm lo hậu sự, một thầy trợ sĩ DCCT sẽ cùng các bạn trẻ trong “Nhóm Tobia” riêng của thầy, đón lấy, đưa các bé ra khỏi các túi nylon, trộn với vôi bột, lại cầu nguyện, rồi bắt đầu đặt vào lò thiêu bằng gaz thật an toàn, gọn nhẹ, không gây ô nhiễm. Mấy tiếng đồng hồ sau, nhiệt độ giảm dần, tro cốt các cháu từ nay sẽ yên nghỉ trong từng viên gạch lớn ghi rõ trên nắp bên ngoài: RIP ( Requiescat in Pacem ) xây thành 3 bức tường lớn hình chữ U của Nghĩa Trang Anh Hài.

Như vậy đó, với 4 khâu lần lượt nối tiếp nhau của “Nhóm Tobia”, những linh hồn bé bỏng bị con người từ khước được về bên Chúa, còn thân xác tý hon thì được chăm sóc chu đáo. Công việc lầm lũi âm thầm, không lương bổng, không bồi dưỡng nhưng lại đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm rất cao, giàu tình thương và lòng trung tín, không được để thất hẹn, cho dẫu phải phóng xe gắn máy đêm hôm về tận Bình Dương, Biên Hòa, Tây Ninh, Mỹ Tho rồi trở lại Sàigòn…

Hôm 28 Tết vừa qua, lúc 8g30 sáng, một cú phone bất ngờ từ Hóc Môn, cách Nhà Dòng chúng tôi khoảng 12 cây số: “Cha ơi, đến 10g30, cha gửi một bạn về nhận một thai nhi nhé, mẹ bé bây giờ đang nằm chờ trong phòng chuẩn bị rồi…” Các bạn gốc Sàigòn thì đang còn phải đi làm những ngày cuối năm, các bạn khác trong “Nhóm Tobia” thì đã về quê ăn Tết, tôi đang lo có khi chính mình phải lên đường, thì một bạn trẻ đang ngồi cộng sổ sách Quỹ Người Nghèo nghe tin đã nhận lời ngay: “Bố để con đi cho… Nhưng… khu vực ấy con không rành đường…” Cuối cùng bạn trẻ ấy cũng đã lên đường và mang về một bào thai đã 4 tháng tuổi còn ấm nóng đúng giữa trưa.

Tôi gọi phone hỏi cộng tác viên các nơi: “Tết nhất có phá thai không nhỉ ?” Họ trả lời: “Có chứ cha, cứ trả tiền cao là người ta làm tất ! Cha chuẩn bị tinh thần nhé…” Vâng, chúng tôi đã luôn chuẩn bị tinh thần, nhưng vẫn có một nỗi xót xa, buồn đến rũ người…

Còn nhớ, trước khi có các bạn Fiat tình nguyện, suốt trong 6, 7 năm liền, khâu thu gom xác thai nhi đưa đi thiêu này do gia đình bác MH. đảm nhận. Vợ chồng, các con trai con gái chia phiên nhau trong tuần, đến cả cô con dâu trong những ngày đang mang thai sắp sinh cũng luôn sẵn sàng. Vậy mà có lần cô con gái Út đang cặm cụi chở xe Honda một bọc to xác các thai nhi, dọc đường gặp một ông thầy tu trẻ, ông cười cợt mỉa mai: “Sao em ngu thế ? Người ta ăn ốc, em lại phải đi đổ vỏ à ?”

Vâng, tại sao lại có những con người, hầu hết là các bạn trẻ, lại tình nguyện làm cái chuyện ngược đời và có vẻ tào lao vớ vẩn như thế ? Nhiều Linh Mục cũng thường chất vấn chúng tôi theo cái kiểu châm biếm giễu cợt: “Sao các ông không chịu lo ngăn ngừa ngay từ cái gốc, mà cứ toàn lo giải quyết chuyện cái ngọn như thế, chẳng ra đâu vào đâu, vô ích !” Chúng tôi bực bội lắm nhưng rồi cũng đành nhịn, có cãi, có phân bua cũng bằng thừa, người ta không hề chú ý xem chương trình BVSS còn nhiều mặt hoạt động khác chứ đâu chỉ có khâu hậu sự chôn cất ! Những dư luận như thế thường chỉ có vậy, rồi thôi, chẳng thấy ai cùng lên tiếng, chẳng thấy ai bắt tay vào việc để cùng chúng tôi lo cái gốc rễ của vấn nạn nạo phá thai…

Ngẫm nghĩ thấy cái thân phận làm Tobia là như thế…

Đọc lại chuyện ông Tôbia trong Cựu Ước thì thấy được an ủi khích lệ rất nhiều. Cha con Tôbít – Tôbia quả thật là người hiền lành dễ thương chứ không đành hanh bần tiện, giàu lòng nhân ái chứ không vô cảm, luôn sẵn sàng giúp người nghèo đói khốn quẫn. Lại thấy xác những người bị vua giết hại quăng ra ngoài thành, không nỡ để cho thú dữ xé thịt, cha con ông lại đi đào huyệt chôn cất đàng hoàng tử tế. Vua biết được thì tức giận cho lùng bắt trị tội, ông Tôbit đã phải bỏ trốn biệt tích, gia sản bị sung công tất cả, trừ bà vợ là Anna và con trai là Tôbia.

Rồi mãi đến khi vua ấy bị giết chết, vua khác lên ngôi, ông Tôbít mới được tha về, vậy mà hai cha con vẫn cứ liều mình đi chôn cất những xác chết oan khiên đầu đường xó chợ. Láng giềng chế nhạo và mắng rằng: “Hắn vẫn còn chưa sợ ! Người ta truy nã để giết hắn về tội ấy và hắn đã phải trốn đi, thế mà hắn lại vẫn cứ đi chôn cất người chết !” ( Tb 2, 7 ).

Sau này, khi Tôbia cưới được vợ phương xa là Sara và mang thuốc quý trở về chữa bệnh mù cho cha, thiên thần Raphaen mới bảo với cha con Tôbia: “Chính tôi đã tiến dâng những lời cầu nguyện lên trước nhan vinh hiển của Đức Chúa, để xin Chúa nhớ đến hai người; tôi cũng làm như vậy khi ông chôn cất người chết. Và khi ông không ngại trỗi dậy, bỏ dỡ bữa ăn để đi chôn cất người chết, bấy giờ tôi được sai đến bên ông để thử thách ông và chữa lành cho ông…” ( Tb 12, 12 ).

Cựu Ước ghi lại câu chuyện thật có hậu. Trải qua bao thăng trầm, vui buồn, hạnh phúc và khốn khổ, ông Tôbít sống thọ đến 112 tuổi trong bình an. Còn Tôbia còn thọ hơn cha, đến 117 tuổi mới ra đi trong hạnh phúc. Có cái gì đó là lẽ nhân – quả trong cuộc đời cha con ông Tôbia hay đó là phần gia nghiệp Thiên Chúa ban tặng cho những ai sống công chính và có tấm lòng xót thương người ?

Trước mắt, chúng tôi viết bài này không nhắm đến chuyện phô trương, kể lể công khó thay cho các anh chị em “Nhóm Tobia” gần xa khắp nơi trên quê Việt, nhưng thật sự chỉ muốn “mừng tuổi” họ đúng vào ngày đầu năm mới.

Vâng, hôm nay họ đang cặm cụi đi “đổ vỏ” trong khi người đời tiếp tục ngang nhiên “ăn ốc”, họ vẫn nhẫn nại chôn cất các thai nhi đáng thương hằng ngày. Trong thinh lặng âm thầm của Sự Chết vẫn có vạn điều lên tiếng nói cho Sự Sống, cho Lương Tri, “Nhóm Tôbia” vẫn đang ở đầu sóng ngọn gió của phong trào BVSS. Họ vẫn đang chỉ ra cho mọi người thấy một đất nước ngỡ là đã hòa bình nhưng hằng năm vẫn có đến 3 triệu em bé phải chết, một quê hương có quá nhiều nghĩa địa và những rừng cây thập giá…

Mừng tuổi “Nhóm Tôbia” thế nào đây ? Chúng tôi tin, chẳng phải đợi đến cuối đời, ngay từ bây giờ anh chị em cũng đã được hưởng ân phúc trong Bình An thật sự của Thiên Chúa không thua gì cha con ông Tôbia ngày xưa…

“Phúc thay ai biết xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” ( Mt 5, 7 ).

Lm. QUANG UY, DCCT,

Mùng Một Tết, Chúa Nhật 10.2.2013 (Ephata 548)