Gì cũng cười

Gì cũng cười

                                                                         Nguyễn văn Vĩnh 

 An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì; quấy cũng hì; phải cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang.

Có kẻ bảo cười hết cả, cũng là một cách của người hiền. Cuộc đời muôn việc chẳng qua là trò phường chèo hết thảy không có chi là nghiêm đến nỗi người hiền phải nhăn mày mà nghĩ ngợi.

Ví dù được y như vậy, thì ra nước An Nam ta cả dân là người hiền. Nếu thế tôi đâu dám đem lời phường chèo mà nhủ người nhếch mép bỏ tính tự nhiên mà làm bộ đứng đắn lại, nghiêm nhìn những cuộc trẻ chơi.

Nhưng mà xét ra cái cười của ta nhiều khi có cái vô tình độc ác; có cái láo xược khinh người; có câu chửi người ta; có nghĩa yên trí không phải nghe hết lời người ta mà gièm trước ý tưởng người ta; không phải nhìn kỹ việc người ta làm mà đã chê sẵn công cuộc người ta.

Thực không có tức gì bằng cái tức phải đối đáp với những kẻ nghe mình nói chỉ lấy tiếng cười hì hì mà đáp. Phản đối không tức, kẻ bịt tai chẳng thèm nghe cũng không tức đến thế…

Ừ, mà gì bực mình bằng rát cổ bỏng họng, mỏi lưỡi, tê môi, để mà hỏi ý một người, mà người ấy chỉ đáp bằng một tiếng thì khen chẳng ơn, mắng chẳng cãi, hỏi chẳng thưa, trước sau chỉ có miệng cười hì hì, thì ai không phải phát tức.

Ta phải biết rằng, khi người ta nói với ta, là để hỏi tình ý ta thế nào. Ai nói với mình thì mình phải đáp. Tuỳ ý mình muốn tỏ tình ý cho người ta biết thì nói thực; không hiểu thì hỏi lại; mà không muốn nói tình ý cho người ta biết, thì khéo lấy lời lịch sự mà tỏ cho người ta hiểu rằng câu hỏi khi phạm đến một điều kín của mình. Hoặc là có khôn thì lựa lời mà tỏ cho người ta biết những điều mình muốn cho biết mà thôi, và khiến câu chuyện cho người ta không khỏi căn vặn được mình nữa.

Nhưng phàm người ta hỏi, mình đã lắng tai nghe, là mình nợ người ta câu đáp.

Nguyễn văn Vĩnh   trong Đông Dương Tạp Chí   

Biết Tha Thứ

 Biết Tha Thứ

 Lịch sử Hoa kỳ còn ghi lại một hành động tha thứ nổi bật của vị tổng thống nổi tiếng của họ, ông Abraham Lincoln. Trong thời tranh cử tổng thống, Abraham Lincoln đã bị địch thủ chính trị của mình là ông Edwin McMasters Stanton đã kích, vu oan đủ điều. Dầu vậy, Abaraham Lincoln vẫn đắc cử làm vị tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ. Ðến lúc phải chọn những người cộng tác trong chính phủ, Abaraham Lincoln bắt đầu chọn người cho những chức vị phụ thuộc trước. Và cuối cùng, đến chức vụ quan trọng cuối cùng của thời đó, chức vụ tương đương với chức vụ Bộ Trưởng Quốc Phòng ngày nay. Mọi người mong đợi ông Abaraham Lincoln chọn kẻ có công nhất trong cuộc tranh cử, thì ông lại chọn chính kẻ đã thóa mạ mình, ông Edwin McMasters Stanton. Những cộng tác viên nhắc khéo: “Thưa Tổng thống, ngài hẳn quên ông Edwin Stanton này đã từng công kích và vu oan cho ngài trong lần bầu cử vừa qua hay sao? Ông ta sẽ phá hoại chương trình hành động của ngài. Ông có suy nghĩ kỹ chưa, thưa tổng thống?” Tổng thống Abaraham Lincoln lúc đó trả lời: “Ðúng vậy, tôi biết rất rõ ông Stanton này là ai, đã làm cho tôi những gì. Nhưng tôi đã tha thứ cho ông ta, và nhìn nhận ông ta là kẻ có tài năng hơn những người khác để giữ chức vụ này”. Và ông Stanton đã trở thành người cộng tác viên đắc lực nhất của tổng thống Abaraham Lincoln. Rủi thay, không bao lâu sau, tổng thống Abaraham Lincoln bị ám sát. Giữa những lời từ biệt trong lễ an táng, thì lời từ biệt của Stanton đáng giá hơn cả. Ông Stanton đã gọi tổng thống Abaraham Lincoln là con người cao cả nhất, con người lưu danh mãi mãi trong lịch sử vì đã tha thứ cho kẻ thù mình, và biến kẻ thù thành bạn, thành người cộng tác.

 Chắc chắn rằng, tổng thống Abaraham Lincoln không phải là người đầu tiên đã làm cử chỉ đẹp tha thứ cho kẻ vu oan mình. Chúng ta hãnh diện vì Chúa Giêsu Kitô, vị thầy và là đấng cứu rỗi chúng ta, cũng đã tha thứ cho những kẻ bách hại, đóng đinh Ngài trên thập giá. Ngài đã để lại cho chúng ta lời dạy quan trọng: Hãy yêu thương kẻ thù, hãy làm ơn cho kẻ bách hại anh em… Chỉ như thế, anh em mới xứng đáng làm con cái của Thiên Chúa Cha, Ðấng ngự trên trời, và không ngừng thi ân cho tất cả mọi người lành cũng như kẻ dữ.

 Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con học được bài học tha thứ của Chúa. Sự tha thứ có sức mạnh giải thoát và biến cải người anh chị em. Xin giúp con nhìn thấy điều tốt nơi anh chị em và đừng để con sống nô lệ cho những tâm tình ganh tương, hận thù. Xin dạy con sống quảng đại yêu thương như Chúa đã nêu gương. Amen.

 nguồn: do Cindy Do gởi

10 ĐIỀU LÃNG PHÍ TRONG CUỘC ĐỜI

10 ĐIỀU LÃNG PHÍ TRONG CUỘC ĐỜI

 Trong hành trình tạo dựng một cuộc đời có ý nghĩa, nếu bạn lỡ coi thường một trong 10 điều thiết yếu dưới đây, coi như bạn đã tự đánh mất một phần nhựa sống của chính mình.

1. Sức khoẻ: Lúc còn trẻ, người ta thường ỷ lại vào sức sống tràn trề đang có. Họ làm việc như điên, vui chơi thâu đêm, ăn uống không điều độ… Cứ như thế, cơ thể mệt mỏi và lão hoá nhanh. Khi về già, cố níu kéo sức khoẻ thì đã muộn.

2. Thời gian: Mỗi thời khắc “vàng ngọc” qua đi là không bao giờ lấy lại được. Vậy mà không hiếm kẻ ném 8 giờ làm việc qua cửa sổ. Mỗi ngày, hãy nhìn lại xem mình đã làm được điều gì. Nếu câu trả lời là “không”, hãy xem lại quỹ thời gian của bạn nhé.

3. Tiền bạc: Nhiều người hễ có tiền là mua sắm, tiêu xài hoang phí trong phút chốc. Đến khi cần một số tiền nhỏ, họ cũng phải đi vay mượn. Những ai không biết tiết kiệm tiền bạc, sẽ không bao giờ sở hữu được một gia tài lớn.

4. Tuổi trẻ: Là quãng thời gian mà con người có nhiều sức khoẻ và trí tuệ để làm những điều lớn lao. Vậy mà có người đã quên mất điều này. “Trẻ ăn chơi, già hối hận” là lời khuyên dành cho những ai phí hoài tuổi thanh xuân cho những trò vô bổ.

5. Không đọc sách: Sách truyền bá văn minh. Không có sách, lịch sử im lặng, văn chương câm điếc, khoa học tê liệt, tư tưởng và suy xét ứ đọng. Từ sách, bạn có thể khám phá biết bao điều kỳ thú trên khắp thế giới. Thật phí nửa cuộc đời cho nhưng ai chưa bao giờ biết đọc sách là gì.

6. Cơ hội: Là điều không dễ dàng đến với chúng ta trong đời. Một cơ may có thể biến bạn thành giám đốc thành đạt hay một tỷ phú lắm tiền. Nếu thờ ơ để vận may vụt khỏi tầm tay, bạn khó có thể tiến về phía trước.

7. Nhan sắc: Là vũ khí lợi hại nhất của phụ nữ. Có nhan sắc, bạn sẽ tự tin và chiếm được nhiều ưu thế hơn so với người khác. Tuy nhiên, “tuổi thọ” của nhan sắc có hạn. Thật hoang phí khi để sắc đẹp xuống dốc. Hãy chăm sóc mình ngay từ bây giờ.

8. Sống độc thân: Nhiều người ngày nay theo trào lưu “chủ nghĩa độc thân”. Thực tế là khi sống một mình, bạn rất cô đơn và dễ cảm thấy thiếu vắng vòng tay yêu thương của chồng/vợ và con cái. Bận bịu gia đình chính là một niềm vui. Sống độc thân, bạn đã lãng phí tình cảm đẹp đẽ ấy.

9. Không đi du lịch: Một vĩ nhân đã từng nói: “Khi đi du lịch về, con người ta lớn thêm và chắc chắn một điều là trái đất phải nhỏ lại”. Vì thế, nếu cho rằng đi du lịch chỉ làm hoang phí thời gian và tiền bạc, bạn hãy nghĩ lại nhé.

10. Không học tập: Một người luôn biết trau dồi kiến thức sẽ dễ thành công hơn người chỉ biết tự mãn với những gì mình biết. Nếu không học hành, bạn đang lãng phí bộ óc.

Nguồn: MariaThanh Mai gởi

Xin Chúa Tha Thứ Cho Tôi

Xin Chúa Tha Thứ Cho Tôi

Sau thời cách mạng Pháp, trước cửa một nhà thờ tại Balê, người ta thường thấy một người hành khất với một dáng vẻ lạ thường. Xuyên qua lớp áo rách rưới, ai cũng có thể nhìn
thấy trên vòng cổ của người ăn xin một cây thánh giá nhỏ bằng vàng.

Người khách quen thuộc nhất của người xấu số này là một vị linh mục trẻ. Vị linh mục thường đến dâng thánh lễ tại nhà thờ này. Mỗi lần ra khỏi nhà thờ, ông không quên hỏi han và giúp đỡ người hành khất.

Ngày nọ, vị linh mục trẻ không còn thấy người ăn xin lảng vảng trước cửa nhà thờ nữa. Lần mò hỏi thăm, vị linh mục đã tìm đến thăm người hành khất đang trong cơn rét run vì bệnh tật và đói ăn. Cảm động trước nghĩa cử của vị linh mục, ông ta đã kể lại cuộc đời của mình như sau: “Khi cách mạng vừa bùng nổ, tôi làm quản gia cho một gia đình giàu có. Hai vợ chồng chủ tôi là những người đạo đức, giàu lòng thương người. Thế nhưng tôi đã phản bội
họ. Quân cách mạng tìm cách bắt họ. Hai vợ chồng và hai đứa con của họ đã bị bắt giữ và kết án tử hình. Chỉ còn người con trai duy nhất là thoát khỏi”.

Nghe đến đây, vị linh mục như muốn té xỉu, nhưng ông đã cố gắng giữ bình tĩnh để nghe tiếp câu chuyện của người hành khất: “Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu đài và thản nhiên theo dõi cảnh người ta chém đầu họ. Tôi quả thực là một quái vật khát máu… Từ đó, tôi không thể nào có sự bình an trong tâm hồn. Tôi bắt đầu đi lang thang khắp các ngả đường để quên tội ác của mình. Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh của gia đình họ trong túi áo này đây. Cây thánh
giá tôi đang treo ở đầu giường là của người chồng, còn chiếc thánh giá bằng vàng tôi đeo trên cổ đây là của người vợ… Xin Chúa tha thứ cho tôi”.

Vừa nghe xong những dòng tâm sự và cũng là lời tự thú của người hành khất, vị linh mục trẻ đã quỳ gối xuống bên cạnh chiếc giường của người hấp hối và thay cho một công thức giải tội, ông đã nói như sau: “Tôi chính là người con trai còn sống sót trong gia đình. Ðại diện cho gia đình và với tư cách là một linh mục, tôi tha thứ cho ông nhân danh Cha và Con và Thánh Thần…”.

Câu chuyện tha thứ trên đây là một trong những mẩu chuyện đã và đang xảy ra ở mọi thời đại và mọi nơi. Giữa sa mạc cằn cỗi của lòng người, Thiên Chúa vẫn còn cho mọc lên những hoa trái của yêu thương, tha thứ. Tha thứ là vẻ đẹp thanh tú cao sang nhất của lòng người…

Sự hiện diện của bà Muzeyen Agca tại Roma dạo tháng 02/1987 nhắc lại cho chúng ta một biến cố vô cùng đau thương, nhưng cũng gợi lại một nghĩa cử vô cùng cao quý của vị Cha chung. Ngày 13/5/1981, giữa lúc hàng ngàn người đang chen chúc tại công trường thánh Phêrô để chờ đón Ðức Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát chúa vang lên từ đám đông đã làm cho mọi người như đứng tim. Ðức Thánh Cha đã gục ngã trên chiếc xe Jeep mui trần, máu me vọt lên tung téo. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một vị Giáo Hoàng bị mưu
sát.

Ali Agca, thủ phạm chính của vụ mưu sát, đã bị bắt giữ ngay sau đó. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này đã bị giam giữ tại nhà tù Rebibbia ở Roma. Biến cố đẫm máu trên đây đã ghi đậm sự thù hận đang sôi sục trong lòng người… Nhưng thế giới không chỉ được nung náu bằng lò lửa của hận thù. Thiên Chúa đã tạo dựng con người để yêu mến và tha thứ…

Năm 1984, một biến cố khác đã làm chấn động dư luận thế giới: Ðức Gioan Phaolô II đã đích thân đến nhà giam Rebibbia để nói chuyện với Ali Agca và tha thứ cho anh. Không ai biết hai bên đã trao đổi những gì, nhưng ai cũng cảm động trước cảnh tượng kẻ sát nhân và người bị mưu sát đã bắt tay nhau và trao cho nhau ánh mắt của tha thứ, của hòa giải…

Trích Lẽ Sống
nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

TÔI ĐÁNH MẤT TÔI…

TÔI ĐÁNH MẤT TÔI…

Tôi sinh ra vốn tay không, trần trụi

Một ngày nào tôi tay trắng ra đi

Của cải trần gian khi ấy ích gì?

Càng giầu có tôi càng đau lòng lắm!

Lúc tuổi trẻ – Tôi chất thuyền  thật khẳm

Bởi tiện tằn – Tôi chắt bóp từng xu

Nhưng rồi rong chơi – Tôi đã chu du

Khắp biển rộng sông dài – Âu Á Mỹ!

Cuộc sống của tôi toàn là vị kỷ

Tôi thừa dư nhưng tích của làm giầu

Người nghèo bần tôi có nhớ gì đâu

Tôi không giúp, không hề cho một cắc!

Những của cải dù trong kho rất chắc

Nhưng một ngày rồi chúng cũng ra đi

Chứng khoán tiêu, nhà cửa xuống bởi vì

Cả hoàn cầu nạn suy trầm kinh tế!

Cuộc đời tôi rồi trở nên tồi tệ

Lại tuổi già tôi đau ốm luôn luôn

Ngẩng nhìn trời đôi dòng lệ rơi tuôn

Rồi nay mai lìa đời tôi tự huỷ

Những gì là đáng lẽ giúp cho tôi

Quá tham lam tôi đã sống tệ tồi

Đã phí uổng cả kiếp người hoa gấm!

Đã bao lần nghe lời Ngài thương nhắn

– Con hỡi con, hãy kính Chúa, yêu người

Của đời sau, con cất ở trên trời

Là giúp đỡ, ủi an người cùng khổ!

Làm bác ái không bao giờ sợ lỗ

Làm cho người là con làm cho Cha!

Nhưng hồn tôi chai đá, chẳng thiết tha

Tôi đánh mất tình yêu thương của Chúa!

Giờ lâm chung linh hồn tôi ngập ngụa

Bao âu lo, bối rối lẫn chán chường

Nếu tôi biết tìm ra một con đường

Những phút chót cuộc đời, đâu đến nỗi!

Giờ lâm chung dù rằng tôi thống hối

cũng muộn màng bởi mọi chuyện đã xong!

Tôi sống như một kẻ quá thân vong

Đánh mất mình, không bao giờ tìm thấy

Bút Xuân Trần Đình Ngọc  

nguồn: conggiaovietnam.net

Ba lời ước sau cùng của Alexander Đại Đế

             Ba lời ước sau cùng của Alexander Đại Đế

 Đại Đế Alexender khi sắp chết, cho triệu tập các quan trong triều đến, để truyền đạt ba ý nguyện cuối cùng của mình cho hậu thế, Ngài phán:

 *Quan tài của ta phải được khiêng bởi chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất của thời đó.

 *Tất cả các báu vật của ta (vàng, bạc, châu báu…) phải được rải dọc theo con đường dẫn đến mộ ta.

 *Đôi bàn tay của ta phải được để lắc lư, đong đưa trên không, thò ra khỏi quan tài cho mọi người cùng thấy.

 Ngài Alexender Đại Đế giải thích như sau:

 Ta muốn chính các vị ngự y bác sĩ phải khiêng quan tài của ta để cho mọi người thấy rằng: một khi phải đối mặt với cái chết thì chính họ là người giỏi nhất cũng không tài nào cứu chữa.

Ta muốn châu báu của ta phải được vung vãi trên mặt đất để cho mọi người thấy rằng: của cải, tài sản mà ta gom góp được sẽ mãi mãi ở trên thế giới này, một khi ta nhắm mắt suôi tay từ giả cõi đời.

Ta muốn hai bàn tay của ta đong đưa trên không để cho mọi người thấy rằng chúng ta đến thế giới này với hai bàn tay trắng và khi rời khỏi thế giới này, chúng ta cũng chỉ có hai bàn tay trắng.

 Đến cuối cuộc đời, chúng ta mới nghiệm ra rằng kho tàng quý giá nhất trên thế gian là:” Tình Yêu Thương”

 trích từ báo Trái Tim Đất Mẹ số 413 (tháng 5-2012)

HƯỚNG LÒNG VỀ THƯỢNG GIỚI

 

HƯỚNG LÒNG VỀ THƯỢNG GIỚI
 
Khi con người chỉ biết nhìn xuống…
 
Người phụ nữ có biệt danh là ‘Bà Năm Khòm’ đã trở thành nhân vật quá quen thuộc đối với những ai hay lui tới công viên của thành phố nầy. Đã lâu lắm rồi, từ sáng tới chiều, ngày nầy qua ngày khác, người ta thấy bà lầm lũi cúi gập người xuống để tìm nhặt những đồng tiền xu mà khách nhàn du đánh rơi đâu đó trong công viên. Hình như nghề nầy đem lại cho bà nguồn thu nhập tương đối khá, nên ngày nào bà cũng khom người xuống và căng mắt tìm kiếm miệt mài như con kiến cần cù chăm chỉ nhất.
Vì ngày nào bà cũng cúi gập người xuống, đôi mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn sát mặt đất để tìm kiếm những đồng tiền rơi nên rốt cuộc, cần cổ của bà cụp xuống, lưng còng hẳn đi đến nỗi bà không còn ngửng lên nhìn trời được nữa. Vì thế, người dân quanh đó gán cho bà biệt danh là “Bà Năm Khòm.”
Thế là mặc dù kiếm được khá tiền, nhưng bà đã đánh mất cuộc sống. Bà chỉ biết có mặt đất mà không biết có bầu trời. Bà chỉ biết ky cóp những đồng tiền xu mà chẳng biết gì đến thế giới bao la muôn màu muôn vẻ chung quanh!
Hình ảnh người đàn bà còng lưng trên đây là biểu tượng cho những người chỉ biết có thế giới vật chất mà không màng gì đến thế giới thiêng liêng.
Nếu không được ánh sáng phục sinh và lên trời vinh hiển của Chúa Giê-su soi sáng, con người chỉ có thể thấy gần mà không thể thấy xa, chỉ biết chú mục vào cuộc sống phù du đời nầy mà lãng quên cuộc sống mai sau, chỉ biết vun quén của cải vật chất tạm bợ trần gian mà không lo tích lũy cho kho tàng vĩnh cửu, chỉ biết kiếm tìm lạc thú chóng qua mà lãng quên hạnh phúc trường cửu muôn đời…  Họ chối bỏ Trời, quay lưng lại với Thiên Chúa, khước từ thế giới thiêng liêng!
Họ xem mặt đất nầy là quê hương duy nhất. Họ xem nấm mồ như điểm đến cuối cùng của cuộc sống, như nhận định của thi hào Nguyễn Du:
“Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.”
Hãy ngước nhìn lên
 
Sự kiện Chúa Giê-su lên trời mở ra cho loài người một viễn tượng mới: Thế giới loài người không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ vật chất nhưng còn mở vào cõi vô biên. Cuộc đời con người không chấm dứt trong nấm mồ tối tăm nhưng vượt qua đó để tiến vào vĩnh cửu.
Như ấu trùng ve sầu chui ra khỏi những lớp đất tăm tối, lột bỏ chiếc vỏ chật hẹp để đón chào thế giới mới, cất tiếng ca vang dưới ánh nắng mặt trời, con người cũng được mời gọi vượt lên trên thế giới hữu hình, phá bỏ lớp vỏ vật chất bó chặt đời mình để vươn vai trở thành tạo vật mới, sống một đời sống mới.
Thánh Phao-lô nhắc nhở chúng ta hãy hướng về đích xa:
“Quê hương chúng ta ở trên trời” (Phi-lip 3, 20)
Thế nên: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới.” (Col 3, 1-4)
Sự kiện Chúa Giê-su lên trời kêu gọi chúng ta hướng về đích cao: đừng chỉ lo phần xác mà quên mất phần hồn, không chỉ biết đời nầy nhưng còn phải chuẩn bị cho đời sau.
Chỉ dán mặt xuống đất mà không biết ngẩng lên nhìn trời là đánh mất cuộc sống.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà     nguồn: từ Maria Mai gởi

ĐGH John Paul II bị ám sát ở Vatican

ĐGH John Paul II bị ám sát ở Vatican  

Vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, ĐGH đã bị một người đàn ông Hồi giáo gốc Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Ağca bắn trọng thương khi Ngài đang đứng trên xe chạy vòng quanh Quảng trường Thánh Phêrô như thường lệ.

ĐGH lập tức quỵ xuống vì đau đớn rồi từ từ ngã trong vòng tay các cận vệ. Ngay sau đó, hung thủ thực hiện vụ mưu sát bị cảnh sát tóm gọn. Nhưng kẻ tòng phạm đứng cách đó một đoạn xa thì nhanh chóng chạy thoát.

Viên đạn chỉ đi xuyên qua ổ ruột, cách động mạch vài ly, rồi rớt ngay trong xe, khiến ĐGH dù bị mất đến 2/3 số máu trong cơ thể, nhưng vẫn được cứu sống kịp thời. Các bác sĩ cho rằng nếu viên đạn cắt ngang động mạch, ĐGH sẽ chết tại chỗ hoặc trên đường cấp cứu. Về phần mình, ĐGH lại xem đó như một sự can thiệp lạ lùng của Ðức Mẹ Maria.

Sau khi hồi phục, ĐGH đã tuyên bố với mọi người rằng: “Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ”. ĐGH đã viết thư định gửi cho hung thủ Ağca: “Tại sao anh lại bắn tôi khi mà cả hai chúng ta đều chung đức tin vào Chúa?” Nhưng thay vì gửi bức thư đó, đã quyết định đến gặp Ağca. Năm 1983, ĐGH đến thăm Ağca và tha thứ cho việc ám sát Ngài. ĐGH còn cầu khẩn nhà cầm quyền Ý ân xá cho Ağca. Ngài đã giữ liên lạc với gia đình của Ağca nhiều năm sau đó và đã thăm mẹ Ağca năm 1987.    xem thêm: thanhnhacngaynay.

VỀ BỨC ẢNH ĐỨC MẸ ĐỠ ĐỨC GIÁO HOÀNG
KHI NGÀI BỊ TRÚNG ĐẠN

Pope in bed

ĐGH trên giường bệnh

Pope john paul injured

ĐGH bị trúng thương

Pope shot - See the gun

Khẩu súng nhìn thấy trong vòng tròn trên ảnh

Pope with Ali Agca

ĐGH với hung thủ Ali Agca

Pope with mother of Ali Agca

Thăm mẹ của hung thủ Ali Agca

Pope with the man who shot him

ĐGH vào trại giam thăm kẻ ám sát Ngài

Joseph Ratzinger: Nhà Thần học và Đức Giáo Hoàng

Joseph Ratzinger: Nhà Thần học và Đức Giáo Hoàng
 
 
            Như một sự trọng kính ĐTC Benedict XVI vào sinh nhật thứ 85 của Ngài và kỷ niệm lần thứ 7 với ngôi vị kế thừa Thánh Phê-rô của Ngài, nhật báo “Il Sole 24 Ore” và “L’Osservatore Romano” đã chuẩn bị một cuốn sách 88 trang tựa đề, “Joseph Ratzinger teologo e pontefice.” Công việc xuất bản được bao gồm cả miễn phí trong ấn bản hàng ngày của nhật báo Milan vào ngày 24 tháng Tư, ngày Nhiệm kỳ Giáo Hoàng của ĐTC Benedict được tấn phong trọng thể cách đây bẩy năm. Tường thuật kỹ thuật số sẽ được chuyển tiếp trên website của “Il Sole 24 Ore,” được bổ sung bằng nhiều phương tiện truyền thông nội dung bằng tiếng Anh và Tây Ban Nha. Ngôn ngữ cuối cùng, cuốn sách sẽ được xuất bản vào ngày 26 tháng tư bằng tiếng Tây Ban Nha bởi “La Razón,” như một sự đính kèm trên website ấn bản hàng ngày. Tổng biên tập viết lời bạt của cuốn sách.
Vào ngày 19 tháng Tư năm 2005 Giu-se Ratzinger được bầu chọn Giáo Hoàng – gần một ngày bởi Hội đồng Hồng y thiêng liêng nhất trong lịch sử – nhiều người ngạc nhiên. Vì một lý do, chủ yếu bởi vì nghi thức xã giao ôn hòa bền bỉ, vì đa phần người Đức, vì thời gian gian 23 năm đáng kể mà Ngài với tước hiệu chính thức nguyên Văn phòng Tòa Thánh và hầu như bất cứ điều gì quan trọng Ngài đóng một vai trò trọng đại trong việc thừa hành Đức Gio-an Phao-lô II, người mà đã gọi mời Ngài tới Roma mà Giu-se đã cộng tác mật thiết.
 
Đã có những dự đoán và mong đợi khác xa những sự kiện, giống như hình ảnh rập khuôn, dàn trải phi thực tế bởi nhiều điều vô căn cứ. Hiển nhiên, vị Hồng y ấy, đã được Hội đồng Hồng y bầu chọn Giáo Hoàng, người mà đã có một thời gian ham mê ẩn dật nơi quê hương Bavaria của mình để trở lại với toàn bộ thời gian nghiên cứu. Không làm bất cứ việc gì cho đến khi được bầu chọn. Đó là điểm mấu chốt quan trọng có thể làm đảo lộn tất cả mà không được tìm thấy, do vậy, giống như một con người vào năm 1977 đã để lại dấu ấn của nhà thần học tuổi 50 lẫy lừng này. – người mà hơn 15 năm trước đã đến Roma tham dự Hội nghị Công đồng Vaticano II với tư cách là một cố vấn duy nhất của những thành viên lỗi lạc Hội đồng Giám mục Đức – sự chỉ định tổng Giám mục và ngay sau đó được ĐTC Phao-lô VI tấn phong Hồng y.
 
DÀnh cho kỳ niệm mừng sinh nhật lần thứ 85 của ĐTC Benedict XVI, và dành cho khởi đầu năm thứ tám của ngôi vị Giáo Hoàng, ý tưởng này được kết hợp và cập nhật trong một cuốn sách nhỏ một số những công việc được biết đến ít ỏi so với công việc của ngài: trong một ánh sáng nhưng không phải là một cuộc đốithoại thiển cận giữa một con chuột (Armando Massarenti) và một con voi (Giuliano Ferrara) về người thế tục và tôn giáo, vì sự đề nghị đọc những tác phẩm của Ratzinger – không chuyên môn hóa cũng không hệ thống hóa, mà chỉ là trí năng và nhận thức – được đề nghị bởi một sử gia (Lucetta Scaraffia), và cuối cùng là bảng tóm tắt niên đại cuộc đời của một nhà thần học bước lên ngôi vị Giáo Hoàng.
 
Khả năng bắt đầu công việc này được hai nhật báo khuyến khích – Il Sole 24 Ore và L’Osservatore Romano – chủ yếu truy tìm để giới thiệu một con người và sau đó là những tác phẩm của một bậc tài trí đã cống hiến và cống hiến đời mình cho công trình nghiên cứu bất tận và truy tìm chân lý vô tận cho một cuộc đối thoại không ngừng giữa đức tin và suy lý, với một tài hung biện để nói với tất cả.
 
Nhân dịp trọng đại này với niềm hy vọng của Nghi lễ Đế quốc La mã Đông phương eis ete polla có thể được áp dụng, bằng tiếng La tinh cô đọng cầu chúc ad multos annos với những lời mộc mạc, kính chúc Đức Thánh Cha một Sinh Nhật Hạnh Phúc.
 
 Jos. Tú Nạc, NMS

Một Chỗ Khủng Khiếp

Một Chỗ Khủng Khiếp

Câu chuyện xảy ra tại một nhà giam bên Liên Xô. Một cựu tù nhân, bà Arsenjeff, thuật lại một kinh nghiệm mắt thấy tai nghe diễn ra tại đó, nơi bà gọi là “Một chỗ khủng khiếp” như sau: Một buổi chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi kề miệng vào tai tôi khẽ nói: chị biết mai là ngày gì không? Rồi không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp: “Mai là ngày lễ Phục Sinh”.

Nghe thế, tôi tự hỏi: “Lễ Phục Sinh đã đến rồi sao, lễ của niềm vui và hy vọng? Nhưng trong tù, niềm vui của chúng tôi đã héo úa và khô cằn. Còn niềm hy vọng?…”. Tôi đi lại trong phòng và không dám suy nghĩ tiếp. Bỗng một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí nặng nề: “Đức Kitô đã sống lại thật”.

Quá sức sửng sốt, các nhân viên trở nên bất động như những tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí, họ giận dữ lên án một diễn tiến không bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng giày nặng nề tiến đến gần phòng giam của chúng tôi. Rồi cửa phòng được mở tung. Hai nhân viên giận dữ hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan và hùng hổ túm lấy cô gái, lôi cô ta sền sệt ra khỏi phòng.

Một tuần lễ sau, cô ta được thả về phòng giam, mặt cô ta xanh xao, người gầy đi thấy rõ. Qua tuần lễ Phục Sinh, người ta đã biệt giam cô vào một phòng không có lò sưởi, để cái lạnh thấu xương và cơn đói hành hạ thân thể một con người họ cho là cuồng tín. Sau khi nằm yên tại một góc phòng hồi lâu, cô ta vẫy tay gọi tôi lại thều thào: “Dù sao tôi cũng đã tuyên xưng niềm tin vào sự Phục Sinh trong trại giam. Những cái khác không quan trọng gì cho lắm”. Nói xong cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy ánh mắt cô vẫn lóe sáng lên như dạo nào.

Được dịp tuyên xưng niềm tin Phục Sinh cách đặc biệt như cô gái trên thật hiếm hoi. Nhưng mẫu gương can đảm của cô phải nhắc nhở chúng ta cố gắng thực thi lời nguyện chúng ta luôn cùng nhau xướng lên sau những lời truyền phép: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho đến khi Chúa lại đến”.

Tuyên xưng việc Chúa sống lại bằng cách hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của sự chết, của những đau khổ, của những vấn đề khó khăn. Cuộc sống của chúng ta không chỉ đóng khung và chấm cùng tại đó. Nhưng người mang niềm tin Phục Sinh phải chiến đấu để vượt qua, để lướt thắng những khó khăn, hạn chế những đau khổ, những sự dữ, những tội lỗi, để phát huy cuộc sống mới của những tạo vật được tái sinh nhờ cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Kitô.

Trích Lẽ Sống

ĐẠI HỌC SỰ CHẾT

   ĐẠI HỌC SỰ CHẾT

Hôm thứ Hai ngày 16/4/2007, một sinh viên và là hung thủ đã nổ súng gây tử thương cho 32 người tại đại học Virginia Tech đã làm chấn động dư luận Mỹ và trên thế giới. Đây là cuộc thảm sát tệ hại nhất lịch sử Hoa Kỳ. Hung thủ tên là Cho Seung-Hui, một thanh niên 23 tuổi người Nam Hàn, được mô tả là người cô đơn, bất thường và bạo động. Cho đang theo học ngành Anh văn và sống trong nội trú của trường Đại học Virginia Tech. Cho đã để lại các bức thư chống phụ nữ và con cái nhà giàu một cách dữ dội.

Chân dung lạnh lẽo của Cho Seung-Hui, đã xuất hiện trên báo chí và truyền hình một ngày sau vụ tàn sát tại trường Ðại Học Virginia Tech. Mùa Thu năm ngoái, Cho đã cung cấp những kịch bản chứa đựng đầy những hình ảnh đồi trụy và bạo lực mà Cho đã viết trong khi anh ta theo học lớp viết kịch bản cùng thời gian với lớp Anh ngữ. Một kịch bản nói về một trận cãi vã giữa con riêng và cha kế trong đó gồm cả hành động ném búa và tấn công với cưa máy. Kịch bản thứ hai nói về những học sinh tưởng tượng một cuộc tấn công và giết người thầy giáo đã sờ mó họ.

Cho đã tự sát sau vụ nổ súng và vì anh có lối sống cô độc nên không ai biết rõ chính xác nguyên nhân nào khiến anh đã hành động như vậy. Theo tin tức mới nhất thì anh có mối thù ghét các con nhà giàu với lối sống đồi truỵ.

Sau 2 ngày xảy ra vụ Cho nổ súng với con số thương vong tệ hại nhất trong lịch sử Hoa kỳ thì tại Irắc cũng sảy ra 4 vụ nổ bom gây tử thương cho trên 170 người. Đây cũng là vụ sát hại tệ hại nhất trong một ngày của lịch sử chiến tranh khủng bố ở Irắc. Những tên khủng bố quốc tế gọi chiến trường Irắc hôm nay là “Đại học khủng bố” (University of Terror) mà qua đó các sinh viên đang thực hành việc ôm bom. Khủng bố ngày càng tinh vi hơn trong các chiến thuật giết người. Chúng dùng “bom người” và tất cả những vũ khí có thể được để giết người bất kể người đó là ai thường dân hay binh lính, và chết càng nhiều càng tốt.

THẾ GIỚI SỰ CHẾT

Những vụ bạo động, khủng bố xảy ra trên khắp thế giới đang đưa nhân loại vào đêm đen tăm tối. Con người đã trở nên mối đe dọa của chính con người. Con người đã trở nên vũ khí giết con người. Con người đã làm cho con người trở nên bất an. Nhân loại đang sống trong những ngày tháng lo sợ, không có bình an. Bước ra khỏi nhà, lên xe buýt, đi lửa, ngồi trên máy bay con tim đều phập phồng. Trường học, nhà thờ không còn là nơi an toàn. Sự ác đang lan tràn khắp thế giới. Thế giới đang bị sự ác, khủng bố làm áp đảo và chiếm đoạt.

Trong khi đó những ảnh hưởng của môi sinh do các nhà máy hóa học, khí đốt sa thải bừa bãi đang làm cho khí hậu điạ cầu trở nên nóng hơn, ngột ngạt, độc hại hơn. Những tảng băng vĩ đại ở Bắc Cựu đang tan dần thành nước. Nước biển trở nên nóng hơn và sẽ giết chết nhiều loài hải sản. Những rừng san hô dưới lòng biển cung cấp chỗ ở, sinh sản cho các loài tôm cá đang biến thành những sa mạc san hô chìm dưới mặt nước. Người ta tiên đoán trong 50 năm nữa, hải sản sẽ trở nên khan hiếm, cạn kiệt. Con người sẽ rơi vào tình trạng khan hiếm thức ăn nghiêm trọng.

Một hậu quả nữa là sự ô nhiễm khí quyển vì hiện tượng suy giảm (thủng) tầng khi ozon. Chất độc CFC do các nhà máy chế biến công nghiệp xa thải chính là “kẻ khủng bố” tầng khí ozon. Sau khi chịu tác động của khí CFC và một số loại chất độc hại khác thì tầng ozon sẽ bị thủng, không còn làm tròn trách nhiệm của một tấm lá chắn bảo vệ mặt đất khỏi bức xạ tia cực tím UV-B, làm cho lượng bức xạ UV-B tăng lên, gây hậu quả xấu cho sức khoẻ của con người và các sinh vật sống trên mặt đất, mà cụ thể là ung thư da.

Về y tế những bệnh AIDS, ung thư cũng lan tràn, nhưng giết người nhiều nhất vẫn là những vụ phái thai, mà trong đó Việt Nam đứng trong bảng danh sách hàng đầu các nước về số thai nhi bị giết.

CÔ ĐƠN VÀ SỰ CHẾT

Adong là nhân chứng đầu tiên rằng con người không thể sống cô đơn một mình mà có hạnh phúc. Adong được Thiên Chúa tạo dựng nên là người đầu tiên, một mình một cõi, làm chủ mọi loài, không ai phiền hà, quấy rầy thế mà Adong không cảm thấy vui. Một mình thì không thể có tình yêu mà chỉ có cô đơn. Anh Cho đã sống những chuỗi ngày cô độc vì tình yêu của anh không có để cho đi, hay anh chưa nhận ra một Tình Yêu ở trên cao.

Nhạc sĩ Đài Phương Trang đã viết bài nhạc tình yêu cô đơn như sau:

Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng không duyên
Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng không thành
Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng dở dang
Yêu ai cũng lỡ làng dù rằng tôi chẳng lỗi chi
………

Đời tôi cô đơn bao năm qua vẫn cô đơn
Dù ai đẹp đôi nhưng riêng tôi vẫn lạnh lùng
Trời cho tôi cô đơn bao nhiêu lần nữa đây?….

Vâng, đời Cho “cô đơn” bao năm qua vẫn cô đơn, dù ai đẹp đôi nhưng riêng Cho vẫn “lạnh lùng”. Đơn độc có tình yêu rất khác với cô đơn không tình yêu. Cho cô đơn không tình yêu nên anh đã nghét những người phụ nữ, ghét con nhà giàu. Cho vẫn lạnh lùng nên khi cầm trong tay khẩu súng anh đã rất lạnh lùng nhả đạn. Sự chết và tội lỗi rất thích làm bạn với những kẻ cô đơn không tình yêu. Giuđa ở giữa tình yêu anh em và Thầy mình, nhưng Giuđa đã tự tách khỏi đường tình yêu để đi trong cô đơn đêm tối và sau cùng treo cổ chết trong cô đơn, lạnh lùng.

THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

Thánh Gioan định nghĩa rất chí lý: “Thiên Chúa là tình yêu”. Và Ngài lại nói thêm: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4:8). Rồi Ngài nói thêm: “Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết (1Ga 3:14)”.

Khi xem tin tức về vụ nổ súng ở trường đại học Virginia Tech, hay vụ đánh bom ở Irắc bạn và tôi đều suy nghĩ về sự ác và cái chết. Một người ác thì luôn muốn cho người khác chết, còn kẻ yêu thương thì luôn muốn cho người khác sống. Sự nghịch lý này không phải bây giờ mới xảy ra, mà nó đã xảy ra ngay từ buổi sơ khai của con người. Tội phạm đầu tiên giữa con người với con người là giết người. Ca-in đã giết Aben em mình. Tội phạm lớn lao nhất của con người là giết Thiên Chúa.

Trong hỏa ngục không có tình yêu và vì không có tình yêu nên cũng không Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa là tình yêu vĩnh cửu, tình yêu chân thật. Không có tình yêu của Thiên Chúa, con người vẫn có tình yêu nhưng tình yêu ấy là tình yêu nhất thời, tình yêu ích kỷ, tình yêu xác thịt, tình yêu mù quáng.

Bạn thân mến,

Khi xảy ra vụ thảm sát, người ta bắt đầu chỉ trích chính sách “Gun Control” (Kiểm soát súng ống) của chính phủ Mỹ. Các tay buôn vũ khí có áp lực và chạy hành lang quá mạnh nên luật Gun Control chẳng có cơ hội thông qua. Buồn thay Gun Control không thông qua (not passed) mà việc loại Thiên Chúa ra khỏi trường học, đời sống lại passed (thông qua). Thế giới hôm nay cần God be in control (Chúa làm chủ) đời sống, xã hội hơn là Gun control thì mới có hòa bình thực sự. Ngày nào con người không còn có Thiên Chúa trong cuộc đời thì có sống cũng như chết, có yêu mà chẳng được yêu. Súng để tự vệ, bảo vệ con người nhưng súng đã trở thành vũ khí để giết người. Ở đời có nhiều cái để bảo vệ mình như súng ống, tiền bạc, điạ vị… lại trở thành cái giết mình. Chỉ có sự bảo vệ của Thiên Chúa mới bảo đảm cho con người đời này và đời sau. Bạn hãy chọn Thiên Chúa làm chủ đời sống (Let God be in control of your life) hôm nay, đó là sự chọn lựa đúng nhất, khôn nhất và giá trị nhất. Hãy trở về tìm lại nguồn bình an và sự bảo vệ đích thực ở nơi Thiên Chúa hôm nay.

Có Thiên Chúa là có tình yêu đích thực. Mẹ Têrêsa đơn độc nhưng nơi Mẹ lại chảy ra suối tình yêu của Thiên Chúa đến với những người nghèo khó. Sự giàu có của người khác không thể sánh với sự giàu có tình thương của mẹ. Khác với Cho ghanh tỵ với con nhà giàu, Mẹ Têrêsa không ghanh tỵ với người giàu, vì mẹ biết cho dù họ giàu có vật chất đến đâu đi nữa mà không có tình yêu đối với anh em đồng loại thì họ cũng chỉ là kẻ nghèo khó rất đáng thương.
Nguồn: từ Maria Mai gởi

Đỉnh Cao

                                           Đỉnh Cao

 Đỉnh Everest cao nhất thế giới của dãy Hy Mã Lạp Sơn như có một ma lực hấp dẫn những người leo núi thiện nghệ. Ai đã vướng vào môn thể thao leo núi xem đó như là một giấc mơ, nếu ngày nào đó họ đặt được chân trên đỉnh núi cao 8,880 thước, quanh năm phủ tuyết này, nhưng chỉ có một số ít người thực hiện được giấc mộng ấy và rất nhiều người đã bỏ mình dọc theo con đường lên đỉnh.

Trên những con đường ấy, người ta thấy hai bia mộ ghi những dòng chữ sau đây: bia thứ nhất đề “Họ thấy được lần cuối cùng trong lúc gắng sức leo lên”. Và bia thứ hai tưởng niệm một huấn đạo viên chỉ viết vỏn vẹn một câu “Ông ta chết trong lúc đang leo”.

Nếu đời sống là một cuộc tranh đấu không ngừng thì để sống đạo và hành đạo cũng thế. Điều quan trọng không phải là thành công hay thất bại, mà là chỗi dậy và tiến bước. Phải gọi là thẳng tiến thì đúng hơn, vì câu tâm niệm của các Kitô hữu phải là: “ngày hôm nay tốt hơn ngày hôm qua, nhưng kém hơn ngày mai”.

Bí quyết thành công thứ hai là không bao giờ chúng ta nên đi trên con đường nên thánh một mình, hãy noi gương những người đi trước, những thánh nhân và hãy cùng nhau tiến bước. Và nhất là hãy đi vào những vết chân Chúa Giêsu đã để lại.

Trích từ Lẽ Sống