Cá chết: bốc “mùi tử khí” chế độ

Cá chết: bốc “mùi tử khí” chế độ

Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam

Thông tin mới nhất, cá chết đã dạt vào đến bãi biển Đà Nẵng. Vũng Áng những ngày tháng Tư đang “nóng” như chảo lửa. Mùi “tanh” cá chết, độ “nóng” lòng dân đang lan tỏa dồn dập trên mạng xã hội, hoặc âm ỉ trên hè phố Sài Gòn, Hà Nội, Huế, Vinh… tất cả đều hướng về Hà Tĩnh – tử huyệt đang mở ra?

20160426-Bai-CaChet-CamChau_Anh [2567732]

Đến cả những người vốn thường vẫn tỏ ra hoặc được cho là “khôn ngoan, cẩn thận” cũng đã treo khẩu hiệu trên trang cá nhân hoặc thốt lên giữa quán cà phê: “Quá bất thường”. “Âm mưu” hơn, có người nói theo kiểu “các thế lực thù địch” luôn cho nó vuông: “Bán nước rồi”.

“Khủng hoảng Vũng Áng” được bàn phím cả trái lẫn phải cập nhật hàng phút. Đầu tiên cá trên trắng bờ biển. Lãnh đạo Hà Tĩnh bảo cứ thoải mái ăn cá, tắm biển. Dân điên tiết “mời” ngược lại bác lãnh đạo giỏi xơi cá cho chúng em xem. Thợ lặn tiết lộ đường ống thải hóa chất cực độc từ dự án nhà máy thép Formosa xả thẳng ra biển. Sự phẫn nộ leo thang bởi tay đối ngoại của nhà máy tàu thách thức dân An Nam “chọn thép hay cá tôm” – một bằng chứng thép đã giết cá. Chứng cứ Formosa đang đầu độc Đại Việt càng củng cố khi 1 thợ lặn của Nibelc, một nhà thầu của dự án Formosa, tử vong bất thường. Thêm 5 thợ lặn khác của đơn vị này sau đó cũng phải nhập viện kiểm tra sức khỏe. Hàng tấn cá chết bị phát hiện đang trên đường “Nam tiến”. Xuất hiện các vụ ngộ độc do ăn hải sản miền Trung với hàng trăm người nhập viện v.v. và cá chết vẫn đang cứ tiếp tục trôi dập dềnh dọc biển Việt Nam trước sự im lặng của kẻ cầm quyền.

Quả là lấy vải thưa che mắt thánh và che thành công mắt các thánh quan của chế độ.

Vào tháng 3/2015, Thanh tra Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã kết luận Ban quản lý Khu kinh tế Vũng Áng (Hà Tĩnh) cấp giấy chứng nhận đầu tư với thời hạn 70 năm cho nhà đầu tư Công ty TNHH Gang Thép Hưng Nghiệp Formosa khi chưa được Chính phủ đồng ý. Trách nhiệm được xác định thuộc về thường trực UBND tỉnh Hà Tĩnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban Quản lý Khu kinh tế Vũng Áng.

Tuy nhiên, cùng thời điểm đó, thông tin từ Hà Tĩnh “giải trình” rằng có 2 văn bản do Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải ký cho phép địa phương thực hiện việc cấp chứng nhận đầu tư? Cái trên của một Ủy viên Bộ Chánh trị sinh ở Thái Bình, gốc Trung Quốc, làm từng thớ thịt Việt Nam nổi gân xanh cùng với màn xin lỗi vụng về bằng giọng lơ lớ của Chu Xuân Phàm – Giám đốc đối ngoại gang thép Formosa Hà Tĩnh.

Không thể tiếp tục các màn kịch vụng về kiểu cứ xơi cá, cứ tắm biển hay xin lỗi dân An Nam bằng giọng Tàu chệt nữa… Trò hề chỉ khiến dân chúng thêm sục sôi.

Bây giờ câu hỏi “chọn cá hay thép” lại đang hối thúc kẻ cầm quyền phải trả lời hơn là nhân dân. Bởi nhân dân đã có chọn lựa của mình trước cả khi các chế độ cầm quyền được sinh ra.

Nếu chọn cá, chính là chọn quốc gia dân tộc, phải ra ngay quyết định đóng cửa, hủy bỏ dự án “chết chóc” này. Đồng thời, như thư ngỏ mới đây do các luật sư độc lập trên cả nước đề nghị: Bộ Công an phải khởi tố vụ án hình sự hành vi gây ô nhiễm môi trường và hủy hoại nguồn lợi thủy sản theo điều 182 và 188 Bộ Luật Hình sự của cá nhân, tổ chức liên quan, cho dù đó là ai.

Lo lắng trước các cuộc biểu tình từ vụ “khủng hoảng Vũng Áng” nhiều khả năng sẽ nổ ra trên toàn quốc trong những ngày sắp tới, một fanpage mạng xã hội “thân nhà nước” đã đưa ra cảnh báo:

“Thực địa từ Vũng Áng cho thấy, lãnh đạo, công an trong tâm trí dân xung quanh rất xấu. Từ vụ chợ Kỳ Anh, đến tất cả các kiểu dân cư quanh đó đều luôn trong tình trạng kích động, ức chế sẵn, lại đông bà con giáo dân”. Các thế lực thù địch đang “chất củi lâu chờ giờ châm lửa. Đáng lo nhất là tính mạng đám “người nước lạ” bên trong Formosa vì tiền lệ đã vài anh bỏ mạng hồi vụ giàn khoan HD 981. Mỗi làng xã ở Kỳ Anh như một gia đình riêng. Bà con trong làng là họ hàng hoặc thông gia với nhau. Tính đoàn kết tính bằng máu mủ. Đấy là chưa kể đồng bào giáo dân.”

Fanpage kết luận: “Hy vọng nhà nước sớm giải quyết mọi vấn đề. Sắp 30/4, cảm thấy có mùi”.

Biết đâu, tháng Tư lại có duyên với dân tộc Việt đến thế? Cá chết đã nghe thoang thoảng mùi tử khí của một chế độ.

Cam Châu

PHỎNG VẤN ÔNG LÝ QUANG DIỆU (tiếp theo)

 PHỎNG VẤN ÔNG LÝ QUANG DIỆU (tiếp theo)

Nguyễn Đình Cống

27-4-2016

Sau khi đăng bài “Phỏng vấn ông Lý Quang Diệu trong mộng”, nhân dịp kỷ niệm ngày giỗ đầu (ông mất ngày 23 tháng 3 năm 2015), tôi được vong linh ông cho phỏng vấn tiếp.

Hỏi: Thưa ngài, quan hệ giữa ngài với Hà Nội sau 1990 là tốt đẹp, nhưng trước đó, đặc biệt là trước 1975 có thể nói là xấu. Điều gì đã làm thay đổi.

Trả lời: Thay đổi bắt đầu từ nhận thức. Trước đây vì thấy sự hung hăng và tàn bạo của cộng sản, tôi tìm cách ngăn không để nó lọt vào Singapore, vì thế bị Hà Nội chụp cho cái mũ phản động, gọi là tên chống cộng hèn hạ. Khối ASEAN ban đầu gồm 5 nước bị Hà Nội cho là “Khối xâm lược Đông nam Á, tay sai của đế quốc Mỹ”. Sau sự kiện sụp đổ của phe XHCN tôi biết chắc rằng cộng sản không còn đáng cho chúng tôi để ý, nó đang trên đường tan rã do mắc phải bệnh trầm trọng từ trong tế bào, gặp những mâu thuẩn gay gắt không khắc phục được. Chế độ cộng sản đã bộc lộ gần hết mọi khuyết điểm không thể sửa chữa, chỉ còn hơi tàn để lừa bịp một số người có dân trí thấp và bị khống chế, chỉ đủ sức duy trì sự độc tài và đàn áp dân chủ trong nước bị nó thống trị, không còn có khả năng tuyên truyền, lừa phỉnh các dân tộc khác đã biết về tự do, dân chủ, văn minh. Trước đây tôi lo đề phòng cộng sản lọt vào Singapore, sau này  tôi để cho tự do tuyên truyền vì biết chắc rằng những người có lương tri không ai còn nghe theo nữa, và nếu có một số ít, vì vô minh và lầm lỡ mà nghe theo thì cũng chỉ làm cho xã hội thêm phong phú chứ không đảo ngược được tình hình.

Trước đây Mỹ và một số nước lo chống cộng nhưng sau này chúng tôi thấy không dại gì mà làm một việc tốn công, vô ích như vậy, vì cộng sản sớm muộn gì cũng tự sụp đổ . Chúng tôi chủ trương chung sống hòa bình với cộng sản, tôn trọng các xu hướng khác nhau, việc đó không hại gì mà còn có ích lợi cho nhân dân và đất nước chúng tôi.

Hỏi: Ngài nói  chính phủ Mỹ và nhiều nước tôn trọng chế độ của các nước cộng sản, vậy phải chăng các ngài  cho rằng chế độ đó tuy có chứa mâu thuẩn, tuy thế nào cũng sụp đổ nhưng hiện tại loài người vẫn chấp nhận được, hoặc cũng có chỗ nào đó tốt đẹp.

Trả lời: Không, có lẽ tôi trình bày chưa rõ làm ông hiểu nhầm. Chúng tôi chấp nhận chung sống và tôn trọng sự khác biệt chứ không bao giờ cho rằng cộng sản có cái gì tốt, không cho rằng nhân loại “chấp nhận được” cộng sản. Nhân loại, để phát triển bình thường thì cần loại bỏ cộng sản. Còn các ông, nếu thấy thích thú cộng sản, cần thử nghiệm “chế độ làm tùy sức, hưởng theo nhu cầu” thì xin tùy, chúng tôi không muốn và không thể áp đặt các ông theo ý chúng tôi. Xin lấy thí dụ. Hàng xóm nhà ông có người vì chơi bời trác táng mà nhiễm HIV, lại có tính tham lam, gian dối. Trước đây mọi người vì hiểu nhầm, quá sợ lây bệnh mà xa lánh, tẩy chay hắn. Ngày nay thấy bệnh đó không dễ lây, có thể phòng ngừa nên người ta chung sống hòa bình với hắn, giao tiếp, giúp đỡ, hợp tác với hắn, mong cho hắn khỏi bệnh. Bên ngoài người ta tôn trọng hắn, bên trong đề phòng thói tham lam và gian dối của hắn, không thể nào thân mật với hắn như với những người bạn tốt hoặc tâm giao. Vì lòng nhân đạo người ta sẽ giúp hắn chữa trị bệnh tật. Nếu hắn biết hoàn cảnh của mình mà ra sức chữa bệnh, từ bỏ tính xấu thì nhiều người sẽ trở thành bạn tốt của hắn, còn nếu hắn không chịu chữa bệnh, không muốn từ bỏ thói tham lam và dối trá thì mọi người cũng mặc kệ hắn, sẽ đến lúc hắn chết trong sự sỉ nhục và bị khinh bỉ.

Hỏi: Những điều ngài vừa nói có  mâu thuẫn gì không với việc chính phủ Việt Nam cộng sản ký kết Hiệp định đối tác toàn diện , đối tác chiến lược   với rất nhiều nước, trong đó có Mỹ  Singapore  và Nhật.

Trả lời: Trong những năm qua Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước, ký nhiều hiệp định đối tác.  Việc này không mâu thuẩn gì với nhận định của tôi trên kia. Đối tác song phương, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược chỉ khác nhau về mức độ và phạm vi hợp tác  chứ không làm thay đổi về bản chất của quan hệ từ hợp tác trở thành đồng minh, trở thành bạn bè cùng chí hướng. Quan hệ giữa Mỹ với Nhật Bản và giữa Mỹ với Việt Nam đều là quan hệ giữa hai nước thù địch trong chiến tranh, mà Nhật bị tàn phá nặng nề hơn và có ít tài nguyên thiên nhiên.Thế mà sự hợp tác giữa Mỹ với Nhật có hiệu quả hơn rất nhiều so với Việt Nam. Một trong những lý do chính là Nhật không theo cộng sản, không bị kìm hãm bởi ý thức hệ, lao động sáng tạo được giải phóng, không bị chế độ toàn trị của một đảng đẻ ra tham nhũng, mua quan bán tước, lãng phí. Nhật và Mỹ cùng đi chung con đường dân chủ, không có mâu thuẩn về tư tưởng nên hợp tác chân thành. Quan hệ giữa Việt Nam với Nhật, giữa Việt Nam với Mỹ không thể nào thân thiết, gắn bó như quan hệ giữa Nhật với Mỹ hoặc như giữa Philippin, giữa Singapore với Nhật và Mỹ, mặc dầu giữa những nước đó đều ký các hiệp định gần giống nhau. Còn giữa Việt Nam và Trung Quốc, cùng ý thức hệ cộng sản, ký hiệp định hợp tác ở mức cao nhất là “đối tác chiến lược toàn diện”, thế mà thực chất thì thế lực bành trướng Trung quốc mới là kẻ thù nguy hiểm của Việt Nam, các ông còn bị lừa ký kết điều khoản không liên kết với nước khác để chống lại nước thứ ba, các ông mắc mưu Tàu cộng nhiều mà không biết. Chính vì các ông một mực theo Tàu cộng, cố giữ cho bằng được ý thức hệ cộng sản mà làm cho nhiều nước đối với các ông “chỉ bằng mặt mà không bằng lòng”.

Việt nam hiện nay có quan hệ ngoại giao với nhiều nước, được tham gia vào hội này, ban nọ của Liên hiệp quốc, bên ngoài tưởng như thế là có uy tín lớn trên trường Quốc tế, là có nhiều bạn bè, nhưng thực chất chưa bao giờ Việt Nam bị cô độc như bây giờ, vì bạn thì nhiều nhưng phần lớn chỉ là bạn ngoại giao, không có đồng minh cùng chí hướng đáng tin cậy, không có bạn chí cốt, không có bạn tâm giao. Có được  bạn thân là Lào thì quá bé, một bạn khác là Cu Ba thì quá xa mà cũng đang xa dần ý thức hệ. Việt Nam còn bị nhiều nước coi thường vì cho rằng đó là “ một đất nước không chịu phát triển”.  Chỉ riêng một việc lãnh đạo Việt Nam, ở trong nước nói nhiều đến kinh tế thị trường định hướng XHCN, còn ra nước ngoài, đi đâu cũng xin người ta công nhận nước có nền kinh tế thị trường, tự cắt cái đuôi XHCN, đã làm rõ bộ mặt dối trá và hèn kém. Hình như dân Việt các ông quen với động tác xin- cho, mà không thấy sự yếu kém trong đó. Hiện nay Việt Nam đang bị cộng sản Trung quốc dùng ý thức hệ để khống chế, để bao vây, để phá hoại và cướp đoạt, dần dần dẫn đến thôn tính, thế mà không hiểu vì sao lãnh đạo các ông không nhận ra và tìm cách  thoát khỏi. Thái độ khuất phục của Đảng Cộng sản Việt Nam trước Tàu cộng là một điều rất khó hiểu của nhiều nhà chính trị trên thế giới và chắc cũng khó hiểu đối với đa số nhân dân Việt Nam.

Hỏi: Từ năm 1975 đến 1990 là giai đoạn chuyển tiếp trong quan hệ Việt Nam- Singapore. Xin ngài cho biết vài nhận xét về giai đoạn đó.

Trả lời: Sau năm 1975 tôi vẫn tiếp tục bị Hà Nội lên án, đặc biệt xung quanh vụ di tản của thuyền nhân. Nhưng trước hết tôi nói về cuộc tiếp xúc với ông Phạm Văn Đồng vào tháng 10 năm 1978. Ông Đồng đến Singapore với tư cách một người chiến thắng trong chiến tranh, ngạo mạn và hung hăng. Ông cho rằng chúng tôi đã từng là cơ sở trong việc trung chuyển xăng dầu của Mỹ cho chiến tranh Việt Nam thì bây giờ phải có nghĩa vụ viện trợ cho Việt nam. Ông tự nhận là một chiến sĩ cộng sản và Việt Nam có vai trò lịch sử làm cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Đông nam Á để giải phóng nhân dân lao động. Ngược lại, chúng tôi chỉ muốn bàn chuyện hợp tác kinh tế và trao đổi văn hóa, nhân dân chúng tôi không cần làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc gặp gỡ không mang lại sự hiểu biết và hợp tác, chúng tôi chia tay nhau lịch sự nhưng lạnh lùng.

Về nạn thuyền nhân. Tôi biết việc dân Việt Nam đang ào ào bỏ quê cha đất tổ ra đi để tránh họa cộng sản. Hồi đó tôi quả có hơi sắt đá, không chịu tiếp nhận, chỉ giúp đỡ chút ít rồi đẩy họ đi tiếp. Tôi chỉ nghĩ đơn giản Singapore là nước quá bé, khả năng rất hạn chế, lại ở rất gần Việt Nam, nếu chúng tôi sẵn sàng tiếp nhận mọi thuyền nhân thì sợ họ đổ xô đến làm rối loạn đất nước. Tôi cũng được biết là Việt Nam có “kế hoạch II “, công an thu vàng của người muốn ra đi, tổ chức cho họ lên thuyền rồi đẩy ra biển. Không lẽ vàng thì công an Việt Nam nhận còn khó khăn thì Singapore chịu. Hơn nữa tôi cũng ngại là trong số thuyền nhân biết đâu có gián điệp của cộng sản. Sau này nghĩ lại tôi có ân hận và có thay đổi thái độ.

Về quan hệ tốt đẹp. Sau năm 1986 thấy Việt Nam có sửa sai đường lối kinh tế, mà các ông gọi chệch là đổi mới, tôi thấy có thể hợp tác. Vì thế khi ông Võ Văn Kiệt đến gặp tôi tại Diễn đàn kinh tế thế giới ở Thụy Sĩ vào tháng 2 năm 1990 với đề nghị bỏ qua bất đồng trong quá khứ để hợp tác thì tôi vui vẻ nhận lời . Và từ đó mở ra giai đoạn mới trong quan hệ 2 nước.

Hỏi: Được biết, vào tháng 11 năm 1991, sau khi ngài đã thôi chức thủ tướng, ông Võ Văn Kiệt có mời ngài làm cố vấn kinh tế cho chính phủ Việt Nam. Xin cho biết ngài đã góp được những ý kiến gì.

Trả lời: Tháng 11 năm 1991, ông Võ Văn Kiệt, với tư cách thủ tướng chính phủ Việt Nam sang thăm Singapore. Trước đây ông Phạm Văn Đồng làm cho tôi quá thất vọng thì nay ông Kiệt làm cho tôi hy vọng. Ông Kiệt có lời mời tôi làm cố vấn nhưng tôi chưa dám nhận lời, hẹn sẽ sang Việt Nam khảo sát tình hình và sẽ trao đổi. Tháng 4 năm 1992 lần đầu tiên tôi đến Hà Nội, làm việc với ông Kiệt. Ban đầu ông Đỗ Mười,Tổng bí thư đảng định không tiếp , vẫn nghĩ tôi là tên chống cộng hèn hạ, nhưng sau khi biết các nội dung tôi trao đổi với ông Kiệt là thiện chí thì ông Mười đồng ý tiếp, bên ngoài tỏ ra thân mật, vui vẻ. Tháng 10 năm 1993 ông Đỗ Mười sang thăm Singapore thì đã có thái độ thân thiện và sau đó Hà Nội đã cho dịch và phát hành Tuyển tập các bài chính luận của tôi. Tôi còn đến Việt nam 3 lần nữa vào năm 1993, 1995, 1997.

Về việc góp ý kiến cho vua chúa hoặc cho những người lãnh đạo đất nước. Tôi thấy có 2 loại chính. Loại 1 là thuyết khách kiểu như Tô Tần, Trương Nghi, Phạm Chuy … trong lịch sử Trung quốc. Loại này có mục đích tiến thân nên phải tìm cho được điều vua chúa thích nghe để nói cho lọt tai. Loại 2 là các cố vấn, họ ít quan tâm đến điều các đối tượng thích nghe mà tập trung vào những kế sách có nhiều hiệu quả, đó là những mưu lược thể hiện tài năng và ý chí của họ.

Các ông lãnh đạo của Hà nội muốn đồng thời phát triển kinh tế thị trường, mà lại phát triển cho nhanh, bất chấp sự bảo vệ môi trường, vừa phải  giữ nguyên đường lối chuyên chính vô sản với chế độ đảng trị. Các vị cho rằng họ đã đánh thắng hai đế quốc lớn là Pháp và Mỹ thì rồi việc gì khó đến đâu họ cũng sẽ làm được, rằng họ muốn tôi góp ý kiến để họ chứng minh đường lối xây dựng CNXH theo chủ nghĩa Mác Lênin là hoàn toàn đúng đắn và để làm gương cho nhiều nước khác.

Tôi biết nếu góp ý thẳng thắn ngay họ sẽ không nghe, nên ban đầu tôi phải tỏ rõ thiện chí bằng cách bỏ ra một số tiền kha khá để viện trợ, để đầu tư một số cơ sở sản xuất, sau đó mời một số nhà lãnh đạo Việt Nam sang khảo sát tận nơi cách làm của chúng tôi để tham khảo được gì thì được. Sau ông Phạm Văn Đồng, Võ Văn Kiệt thì các ông Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Nguyễn Phú Trọng đã lần lượt sang Singapore. Tuy các ông có thăm nhiều nơi, nghe nhiều bài giới thiệu nhưng hầu như không tham khảo được gì. Điều các ông muốn học và làm cho đến nay nhân loại chưa có ai biết, chưa có ai làm được, đó là phát triển kinh tế thị trường trong chế độ vô sản chuyên chính, theo Chủ nghĩa Mác Lênin, hoặc là “Kinh tế thị trường định hướng XHCN”.

Cũng đến lúc phải nói ý kiến của mình, tuy biết rằng những góp ý đó hoàn toàn ngược với lòng mong muốn của họ. Tôi cho rằng kinh tế thị trường và thể chế chính trị vô sản chuyên chính là mâu thuẩn nhau, không thể dung hòa. Nếu cứ cố gán ép hai thứ đó với nhau thì sẽ sinh ra một xã hội rối loạn và thối nát, kiểu chế độ tư bản thời kỳ hoang dã. Vô sản chuyên chính sẽ không phát huy được mặt tích cực của kinh tế thị trường mà càng làm tăng thêm mặt tiêu cực, làm trầm trọng thêm các nhược điểm thối tha của nó. Kết hợp kinh tế thị trường với chuyên chính vô sản sẽ đẻ ra tham nhũng trầm trọng và rộng khắp, đẻ ra tệ nạn mua bán quan tước, sẽ làm xuống cấp đạo đức và giáo dục, sẽ làm phát triển tệ nạn dối trá từ trên xuống dưới, thế mà kết quả chẳng phát triển kinh tế được bao nhiêu.

Sau sửa sai 1986 mà Việt Nam nhận nhầm là đổi mới, kinh tế có phát triển, mặc dù phát triển với tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 8%, nhưng đó là chỉ là tăng trưởng do người dân được cởi trói chứ chưa phải do lao động sáng tạo và công nghệ cao, chưa phải do nền kinh tế tri thức. Hơn nữa đó là sự phát triển nóng dựa vào khai thác cạn kiệt tài nguyên, vay nợ, lao động đơn giản. Trong sự phát triển vội vàng dễ gặp phải việc tàn phá thiên nhiên và làm ô nhiểm môi trường, có được chút lợi trước mắt mà để tai họa nặng nề cho hậu thế. Tôi có góp ý về sự “Phát triển bền vững”, lãnh đạo Hà Nội có nghe, có nhắc lại nhưng hình như chỉ nói cho qua chuyện. Việc Việt Nam phát triển kinh tế trong khoảng mười năm sau 1986, đưa đất nước thoát khỏi nghèo đói đã làm mờ mắt, làm tối lòng một số lãnh đạo, họ tưởng nhầm là nhờ tài năng của họ, là nhờ vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác Lênin, mà không biết rằng thực chất là nhờ làm ngược lại chủ nghĩa đó, nhờ nhân dân được cởi trói một phần.

Việt Nam muốn cải cách và phát triển kinh tế theo thị trường, muốn hòa nhập với thế giới dân chủ thì trước hết cần cải cách nhà nước theo thể chế tam quyền phân lập, cần phải thật sự tự do tư tưởng, thật sự mở rộng dân chủ, đặc biệt dân chủ trong bầu cử để chọn được những người có tài năng, như thế mới có được những sáng tạo. Lãnh đạo ở Hà Nội chỉ muốn nghe thuyết khách loại 1, kiểu các chuyên gia của Liên xô và Trung quốc trước đây, mà tôi không thể nào làm được như họ. Tôi chỉ muốn và có thể làm cố vấn loại 2, trình bày trung thực quan điểm của mình. Tôi tuy có được lời mời làm cố vấn nhưng những điều tôi góp ý chẳng ai nghe. Tôi đành nói ý cuối cùng: Các ông không phải tìm mời cố vấn nước ngoài mà hãy tìm ở trong nước, người Việt các ông có nhiều người giỏi nhưng không được dùng đúng chỗ vì họ không thích hợp với chế độ độc tài toàn trị của các ông. Vì bất đồng ý kiến mà số thì bị bắt giam, số bỏ ra nước ngoài, số khác ôm hận chờ thời. Tinh hoa, hiền tài của đất nước phải được tập họp lại trong Quốc hội, trong các cơ quan nhà nước. Kinh nghiệm chủ yếu của Singapore là bộ máy hành chính nhà nước phải thật tinh gọn, muốn vậy phải chọn dùng được những người thật sự tài giỏi và liêm khiết.   Khi nhìn vào Quốc hội của các ông chỉ thấy tính chất đại diện của nó chứ không thấy trí tuệ. Bộ máy của các ông gồm 3 tầng đè lên nhau gồm cơ quan đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc, ôm ấp lấy nhau, dẫm đạp lên nhau mà lại thiếu người giỏi và liêm khiết. Năng suất lao động của Việt nam thuộc loại rất thấp mà năng suất trong công tác của chính quyền và Quốc hội của các ông lại càng thấp. Việt nam có câu thành ngữ “Ăn tàn phá hại”, câu ấy khá đúng cho đội ngũ quan chức các cấp của các ông từ cơ sở đến trung ương. Như thế thì dựa vào đâu để phát triển xã hội. Các nước dân chủ đều cho rằng động lực để phát triển xã hội phải dựa vào năng lực và trách nhiệm của 3 lực lượng chính là trí thức, doanh nhân và quan chức chính quyền. Cộng sản lại cho là dựa vào liên minh công nông, thế mà công và nông của các ông đang lao động cực nhục và sống lay lắt, trí thức các ông thì phần lớn hữu danh vô thực, doanh nhân còn yếu và bị chèn ép, quan chức nhà nước thì phần lớn nặng về tham nhũng và cửa quyền, yếu kém về trình độ và đạo đức. Các ông muốn phát triển đúng hướng thì phải thay đổi từ gốc rễ là nhận thức, là thay đổi thể chế.

Ông Lý cho biết quan hệ giữa ông và Hà nội có thân thiết được một thời gian, sau đó cả hai bên đều chán nhau vì “đồng sàng dị mộng”, đặc biệt sau khi ông Võ Văn Kiệt nghỉ hưu thì quan hệ gần như quay về trạng thái “bằng mặt mà chẳng bằng lòng”.

Tôi định nêu tiếp câu hỏi về ý kiến của ông đối với mong ước “Thoát Trung” và con đường sắp tới mà dân Việt nên theo, nhưng đến đây ông Lý ra hiệu cuộc phỏng vấn đã khá dài, cần kết thúc và không hẹn gặp lại. Thật tiếc, nhưng biết làm sao.

Qua vụ Vũng Áng – Formosa mới thấy đảng ta thật là vĩ đại

 Qua vụ Vũng Áng – Formosa mới thấy đảng ta thật là vĩ đại

Ngọc Thu

27-4-2016

7997. Qua vụ Vũng Áng – Formosa mới thấy đảng ta thật là vĩ đại! « BA SÀM

Ông Nguyễn Sinh Hùng khi còn đương chức

 

 

 

 

 

 

 

Ông Nguyễn Sinh Hùng khi còn đương chức

Khi còn đương chức, ông Nguyễn Sinh Hùng đã từng dự báo về khu kinh tế Vũng Áng – Formosa như sau: “Giai đoạn một, ngân sách Hà Tĩnh sẽ đạt mức từ 5.000 – 7.000 tỷ. Giai đoạn hai sau năm 2015 nguồn thu ngân sách sẽ trên mười nghìn tỷ đồng/năm“.

Bây giờ, 5.000, 10.000 tỷ đồng ngân sách đâu không thấy, chỉ thấy tôm cá chết la liệt khắp nơi, người dân ở 4 tỉnh có cá chết, cũng sắp chết theo vì chẳng còn tôm cá đâu mà ăn!

Các thế hệ lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã từng để cho báo chí ca ngợi về công lao của mình đối với dự án ở Vũng Áng như sau: “Ðể có một khu kinh tế Vũng Áng và những dự án tầm cỡ quốc tế như Formosa là công lao của các thế hệ lãnh đạo, sự vào cuộc của toàn Ðảng bộ, quân và dân Hà Tĩnh. Mùa xuân là sự góp sức của nhiều cánh én, song không ai quên công lao của cánh én đầu đàn“.

Công lao chưa có, lãnh đạo đảng và nhà nước đã nhận trước rồi. Bây giờ tới phần nhận trách nhiệm thì trốn hết. Ôi đảng ta! Vĩ đại biết chừng nào!

Sinh thời, ông HCM đã từng làm thơ về cái sự “vĩ đại” của đảng ta:

Ðảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao,

Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.

Ðảng ta là đạo đức, là văn minh,

Là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no.

Công ơn Ðảng thật là to,

Ba mươi năm lịch sử Ðảng là cả một pho lịch sử bằng vàng…

Nào chỉ 30 năm, sau 76 năm, đảng ta bây giờ “vĩ đại” hơn cái đảng thời ông HCM trước đây rất nhiều!

Mời xem lại bài báo Nhân Dân của 2 tác giả Khắc Hiển và Võ Minh Châu, đăng ngày 16-8-2011, để thấy thêm cái sự vĩ đại của đảng ta!

Formosa – Dự án động lực của khu kinh tế Vũng Áng

Những ngày này, Hà Tĩnh đang dồn sức đẩy mạnh các hoạt động tiến tới kỷ niệm 180 năm thành lập tỉnh. Trong dòng chảy của lịch sử ấy, 20 năm tái lập tỉnh (1991 – 2011) là một bước ngoặt lớn, làm đổi thay nhanh chóng đến không ngờ bộ mặt kinh tế – xã hội của Hà Tĩnh. Trong đó, Vũng Áng là Khu kinh tế (KKT) có “sức hút” mạnh đối với các doanh nghiệp.

Thức dậy một vùng đất nghèo

Trong số hơn 100 DN, nhà đầu tư trong nước và quốc tế được UBND tỉnh Hà Tĩnh và Ban Quản lý KKT Vũng Áng cấp giấy chứng nhận đầu tư thì dự án Khu liên hợp gang thép và cảng Sơn Dương của Tập đoàn Formosa (Ðài Loan) là dự án lớn, trọng điểm có tầm chiến lược ý nghĩa quốc gia.

Ðịa điểm triển khai dự án Formosa trải dài trên địa bàn năm xã, là Kỳ Liên, Kỳ Long, Kỳ Phương, Kỳ Thịnh, Kỳ Lợi (huyện Kỳ Anh) là vùng đất có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất nước.

Hôm 6-7-2008, cả vạn dân trong huyện, đặc biệt là bà con các xã phía nam đổ về xã Kỳ Phương dự lễ động thổ Khu liên hợp gang thép và cảng nước sâu Sơn Dương Formosa. Câu nói đầy xúc động của ông Nguyễn Minh Ðức, một người dân gốc xã Kỳ Long: ” Lâu nay nghe nói mà chưa thấy chi, bầy tui lo lo, phấp phỏm. Nay được nhìn tận mắt lễ khởi công là bà con vui rồi, sướng rồi. Nhất định dân tôi sẽ đổi đời, quê hương Ðèo Ngang sẽ không phải mang tiếng “đang nghèo” mãi nữa”.

Theo cam kết sau hai năm khởi công, huyện Kỳ Anh phải bàn giao hơn 3.000 ha trong đó có hơn 2.300 hộ với khoảng 14.000 dân phải di dời đến năm khu tái định cư mới là cả một cuộc cách mạng lớn.

Xã Kỳ Phương tỷ lệ gia đình phải di dời đông nhất. Bà Lê Thị Nguyện ở thôn Quyết Tiến, tâm sự: Chồng mất sớm, bốn con đã trưởng thành, nay bà có trong tay số tiền đền bù 250 triệu đồng gửi tiết kiệm để dưỡng già và được sống tại khu TÐC khang trang, đầm ấm.

Ông Ðoàn Văn Luận ở xóm Thắng Lợi, cho biết: Mỗi tháng ông được nhận hơn ba triệu đồng tiền lãi từ ngân hàng của khoản tiền 280 triệu đồng được đền bù ruộng thừa mua gạo… Muốn đổi đời thì phải chịu gian khổ, khó khăn ban đầu, thậm chí thiệt thòi một chút, nhưng tương lai chắc chắn con cháu sẽ sung sướng bền lâu.

Khi Quốc hội khóa XIII khai mạc, chúng tôi vào xã Kỳ Liên được chị Nguyễn Thị Cúc Phó Bí thư Ðảng ủy xã dẫn vào thăm bác Nguyễn Xuân Liễu (thường gọi là bác Thanh) tại khu làng mới. Trong căn nhà vững chãi, lợp ngói, tường xây, người cán bộ về hưu đã ở tuổi 83, nhìn lên bàn thờ, trân trọng nói: “Tôi thay mặt tổ tiên, ông bà và cả linh hồn những người xưa sống vất vưởng ở chân núi, bìa rừng, nay được quy tập về trong nghĩa trang sạch đẹp, cảm ơn Nhà nước, cảm ơn dự án. Nhờ dự án mà người sống được đổi đời, dân quê tôi xưa có nằm mơ cũng chưa thấy nhà hai gác. Nay làng xóm ở như phố phường. Ðêm điện sáng tận vách núi. Câu thơ: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” xưa, nay phải đọc là… ” Hoành Sơn cồn bãi, vạn đại vinh quang…” mới đúng!

Hiện tại chương trình đào tạo nghề, giải quyết việc làm mang tầm chiến lược lâu dài, bền vững cho người dân vùng dự án đã được tỉnh triển khai. Số lao động trong vùng được phân loại để có chính sách hợp lý. Lớp thanh niên có sức khỏe, trình độ văn hóa được cam kết ưu tiên tuyển vào các nhà máy trong KKT Vũng Áng. Những người độ tuổi 40-45 có thể tham gia lao động phổ thông trong các nhà máy và tại dự án chăn nuôi, trồng rau sạch ở hồ Tàu Voi. Ðược biết, một dự án đào tạo các ngành nghề dịch vụ khác, học ngoại ngữ cho lao động đi xuất khẩu… dành riêng cho Kỳ Anh đã được tỉnh phê duyệt và sẽ sớm đi vào hoạt động. Số người hết tuổi lao động được tỉnh trợ cấp mỗi tháng 15 kg gạo trong nhiều năm liền.

Biến lời tiên tri thành hiện thực

Formosa là một Tập đoàn lớn, đã có hơn 55 năm thành công trong lĩnh vực sản xuất – kinh doanh tại Ðài Loan, Trung Quốc, Mỹ, Việt Nam… Năm 2007 tổng doanh thu lên tới gần 70 tỷ USD. Bước đầu Formosa đầu tư vào Hà Tĩnh gần tám tỷ USD cho dự án đa ngành từ luyện thép, cảng nước sâu, hóa dầu, nhiệt điện đến các ngành công nghiệp khác. Dự án có tầm quan trọng đặc biệt, tạo bước đột phá phát triển công nghiệp, tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hà Tĩnh và các tỉnh trong khu vực; là cơ hội và điều kiện tốt nhất để Hà Tĩnh cơ cấu lại lao động, sắp xếp lại dân cư theo hướng CNH – HÐH. Ðến thời điểm này, phía Dự án đã hoàn thành công tác khoan thăm dò địa chất trên đất liền, trên biển; hoàn chỉnh 5,2 km đê bao quanh khuôn viên dự án, triển khai hút cát san nền 300 ha mặt bằng, giá trị gói thầu lên tới 400 triệu USD. Hiện tại, mặt bằng đã cơ bản san lấp xong, đang triển khai xây dựng khu hành chính gồm chục khu nhà 5 tầng là nơi ăn ở cho 6.000 chuyên gia và cán bộ ở và làm việc; san lấp 150 ha khu vực quy hoạch xây dựng cảng, tiến hành xây bến số 1 và hoàn thành đường trục chính nối với QL 1A để chuyển vật liệu, đầu tư 45 triệu USD thi công đường ống dẫn nước ngọt dài 15 km từ thượng nguồn Sông Trí về phục vụ dự án.

Ðể chủ động về điện Formosa đang lập đề án xây dựng 10 tổ máy nhiệt với tổng công suất 1.500 MW cung cấp cho dự án.

Ðể đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng ổn định đời sống cho dân, Formosa đã chuyển trả 69 tỷ đồng tiền thuê đất… và cho Hà Tĩnh ứng trước 30 triệu USD trả tiền đền bù. Ngoài ra Dự án còn xây dựng hai hệ thống trường học giá trị 65 tỷ đồng tặng các xã Kỳ Phương và Kỳ Long phục vụ cho con em vùng tái định cư. Nhà đầu tư đã tập trung các nguồn lực, huy động hàng nghìn chuyên gia và công nhân triển khai một cách tích cực các hạng mục công trình, bảo đảm đúng tiến độ cam kết.

Việc triển khai tích cực dự án Formosa đã góp phần quan trọng thu hút đầu tư vào KKT Vũng Áng và vùng phụ cận. Ðến nay, đã có hàng chục dự án thuộc các lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, hạ tầng khu công nghiệp, đô thị, nhà hàng, dịch vụ thương mại, sản xuất thực phẩm, rau sạch, đào tạo nghề… đã và đang được tích cực triển khai, giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động.

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng, nay là Chủ tịch Quốc hội, đã từng dự báo: Giai đoạn một, ngân sách Hà Tĩnh sẽ đạt mức từ 5.000 – 7.000 tỷ. Giai đoạn hai sau năm 2015 nguồn thu ngân sách sẽ trên mười nghìn tỷ đồng/năm.

Ðể có một khu kinh tế Vũng Áng và những dự án tầm cỡ quốc tế như Formosa là công lao của các thế hệ lãnh đạo, sự vào cuộc của toàn Ðảng bộ, quân và dân Hà Tĩnh. Mùa xuân là sự góp sức của nhiều cánh én, song không ai quên công lao của cánh én đầu đàn.

Chúng đi buôn

2 con cá, 2 phút, 24.000 tiến sĩ và 21 ngày

2 con cá, 2 phút, 24.000 tiến sĩ và 21 ngày

 Người Lao Động

Quang Huy

226-4-2016

H1

Chiều 26-4, trong Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh tổ chức họp báo chủ yếu để xin lỗi về phát ngôn gây sốc trước đó thì kênh truyền hình VTC lại rẽ theo hướng khác, khá bất ngờ.

Trước sự chứng kiến của đại diện Trung tâm Quan trắc môi trường – Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hà Tĩnh và nhiều người dân, phóng viên VTC đổ nước vàng đục lấy từ vùng biển Vũng Áng – nơi Formosa xả thải khỏi nhà máy luyện thép, bị nghi là nguyên nhân gây ra tình trạng cá chết hàng loạt gần 1 tháng qua – ra thau nhựa rồi cho 2 con cá đang sống khỏe vào. Sau 2 phút tung tăng, 2 con cá đuối dần rồi chết ngay đơ.

Không cần nói nhiều, bấy nhiêu đã đủ khẳng định nước biển chỗ Formosa cực độc!

Trở lại với cuộc họp báo của Formosa, trả lời phóng viên về việc nhập gần 300 tấn hóa chất về súc rửa đường ống, lãnh đạo công ty này nói Formosa có nhập “một ít axít” về rửa đường ống nhà máy nhưng không phải là dùng cho đường ống xả thải (!?). Vậy khi “rửa đường ống nhà máy” xong, nước thải ấy không xả ra biển thì xả đi đâu?

Tất nhiên, thực nghiệm nói trên của VTC chưa có cơ sở khoa học đầy đủ để “buộc tội” nhưng lý do vì sao nước biển ở Vũng Áng chỗ nhà máy luyện thép độc hại đến như vậy, Formosa không thể né tránh trả lời.

Để tìm ra sự thật, sự vào cuộc quyết liệt và trung thực, khách quan của các cơ quan hữu trách Việt Nam là rất cần thiết vào lúc này.

Sự vào cuộc ấy phải xuất phát từ tinh thần dân tộc và lòng tự trọng. Sở dĩ nói như vậy là bởi hiện tượng cá chết hàng loạt ở miền Trung đã diễn ra 3 tuần rồi nhưng các cơ quan chức năng chỉ mới dừng lại ở công việc lấy mẫu và chờ kết quả xét nghiệm, thậm chí chờ mời chuyên gia nước ngoài. Giá như các nhà chức trách, nhà khoa học khoanh vùng nghi vấn là Formosa và xét nghiệm mẫu nước ngay nơi ấy thì câu trả lời có cơ may đã sáng tỏ sớm rồi, đâu phải chờ mấy tuần.

Những người làm báo đã làm thay công việc của các nhà chuyên môn, dù chưa thật tròn vai nhưng đã nói lên được trách nhiệm cao độ của họ với cộng đồng, thể hiện nỗi bức xúc trước sự bê trễ, quan liêu của những người có trách nhiệm.

Và bức xúc không kém nữa là trong lúc nghi vấn cá chết do độc tố được đặt lên hàng đầu thì một phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh tuyên bố rất thiếu trách nhiệm: “Người dân cứ yên tâm ăn cá và tắm biển Vũng Áng”. Xin mời, ông dám ăn cá và tắm biển Vũng Áng trước thì dân mới tin!

Formosa chiều 26-4 khẳng định không đưa ra bất kỳ phát ngôn nào về nguyên nhân cá chết cho đến khi có kết luận từ phía Việt Nam. Chẳng biết bao giờ đội ngũ khoa học Việt Nam với 24.000 tiến sĩ và hàng ngàn giáo sư đang có mới đưa ra kết luận trong khi người dân thì hết sức nóng lòng vì sinh kế bị đe dọa từng ngày, từng giờ.

Khoa học là để phục vụ cuộc sống. Khi cuộc sống rất cần mà khoa học không cất tiếng thì là ngụy khoa học, là khoa học hữu danh vô thực. Câu chuyện con cá ở miền Trung, vì thế, đã kể rất nhiều câu chuyện buồn về cái tâm và cái tầm của nhà quản lý ở nước ta.

So sánh Formosa với Woburn: Vụ kiện ô nhiễm môi trường lớn nhất nước Mỹ

So sánh Formosa với Woburn: Vụ kiện ô nhiễm môi trường lớn nhất nước Mỹ

Thạch Đạt Lang

Những thùng đựng hóa chất độc hại ở Worburn. Nguồn: internet

26-4-2016

Ba tuần lễ vừa qua, người dân Việt Nam xôn xao về vụ cá chết hàng loạt trải dài trên bờ biển 4 tỉnh từ Hà Tĩnh, Quảng Bình, đến Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế.

Đến ngày hôm nay đã ba tuần trôi qua, dù chưa có công bố chính thức của chính quyền cộng sản Việt Nam về nguyên nhân gây ra thảm họa nhưng những chỉ dấu cho thấy rõ ràng là cá chết hàng loạt vị bị nhiễm chất độc chứa trong chất thải của khu công nghiệp luyện thép vũng Áng, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.

Thiệt hại về vật chất liên quan đến đời sống hàng trăm ngàn ngư dân nằm trong 4 tỉnh nói trên chưa thể ước tính, nhưng sự ô nhiễm môi trường còn nặng nề, di hại nhiều hơn.

Để cho độc giả thấy rõ sự quan trọng của môi trường đối với người dân cũng như chính phủ Mỹ như thế nào, người viết xin nhắc lại một vụ kiện lớn nhất về thảm họa môi sinh đã xẩy ra ở Woburn, Boston, tiểu bang Massachusetts thập niên 80.

Câu chuyện bắt đầu vào cuối thập niên 70, khi một số kỹ sư xây dựng phát giác ra hai giếng nước G và H ở Woburn đã đóng, không còn sử dụng, có nhiễm một số chất bị nghi ngờ gây ung thư, kể cả TCE (Tricholoroethylene). TCE là chất gây rối loạn bạch cầu trong máu, hủy hoại hệ thần kinh, gan… được chứng minh rõ ràng trong phòng thí nghiệm với động vật.

Woburn là một thị trấn nhỏ thuộc tiểu bang Massachusetts với khoảng 40.000 dân, người dân dùng nước được cung cấp bởi các giếng bơm (Well, Fountain). Woburn có một số nhà máy thuộc da hoạt động đã lâu đời. Những nhà máy này là hãng con của tổ hợp W. R. Grace & Co, W.R. Grace & Co lại thuộc tổ hợp khổng lồ Beatrice Foods có chi nhánh, hãng sản xuất thực phẩm, hàng tiêu dùng, mỹ phẩm… ở nhiều nước trên thế giới.

Trong thời gian từ năm 1966 đến giữa thập niên 80, hơn 10 gia đình có con em ở Woburn bị chết vì bệnh hoại huyết (leukemia), một số khác cũng đang bị bệnh. Việc phát giác ra sự ô nhiễm của các giếng nước G và H, hai giếng nằm gần nhà máy thuộc da nhất, khiến nẩy sinh ra nghi ngờ là các giếng nước khác người dân Woburn sử dụng cũng bị nhiễm hóa chất gây bệnh hoại huyết. Các mẫu nước uống lấy từ các giếng ở Woburn có màu hơi vàng chứ không trong suốt như các nơi khác, đồng thời có mùi lạ mà người dân không hiểu tại sao.

Đầu năm 1981, một báo cáo của trung tâm kiểm soát bệnh dịch cho thấy tỉ lệ chết vì ung thư ở Woburn cao gấp 7 lần các nơi khác. Tuy nhiên báo cáo này không kết luận rõ ràng là những trường hợp chết vì ung thư là do nhiễm độc hóa chất từ các giếng nước sử dụng ở Woburn.

Cha mẹ của các trẻ em bị chết vì bệnh ung thư máu đã tham khảo ý kiến một luật sư tên Joe Mulligan, kiện những người chịu trách nhiệm về việc nhiễm độc hóa chất ở các giếng nước tại Wobrun ra tòa nhưng hồ sơ cuối cùng bị bỏ lơ.

Jan Schlichtman, một luật sư trẻ chỉ mới 30 tuổi, tốt nghiệp ở Cornell Private University, trước đó có thời gian làm việc với Joe Mulligan, có văn phòng cùng vài cộng sự viên chuyên về tai nạn lưu thông.

Ban đầu khi nhận được lời kêu gọi của người dân Woburn, Jan cũng thờ ơ vì nếu khởi tố vụ kiện, không biết mình phải bắt đầu từ đâu. Tuy nhiên, những diễn tiến tình cờ sau đó khi gặp gỡ người dân Woburn đã khiến Jan quyết định đảm trách vụ kiện.

Việc Jan Schlichtman, đại diện người dân ở Woburn khởi kiện W.R. Grace Co và Beatrice Foods là một cuộc chiến đấu của David (Schlichtman) chống Goliath (W.R.Grace & Beatrice) vì văn phòng luật sư của Jan Schlichtman chỉ có 4 người, chống lại lực lượng luật sư hùng hậu của tổ hợp Beatrice Foods, đứng đầu là Jerry Facher với cả trăm cố vấn pháp luật..

Chỉ mấy ngày sau khi lập hồ sơ khởi tố nhà máy thuộc da do J. Riley Jr. quản lý ở Woburn làm ô nhiễm môi trường, Jan Schlichtman được tòa án cho phép khám xét tường tận khu vực, thu thập bằng chứng, lấy mẫu đất, lục soát các kho chứa hóa chất, bãi rác, thẩm vấn các nhân viên đã và đang làm việc cho nhà máy, người dân trong khu vực…

Những cuộc thẩm vấn với sự hiện diện của luật sư hai bên, được ghi âm làm bằng chứng. Nhiều nhân viên của nhà máy sợ mất việc không dám khai rõ, nhưng cũng có người can đảm nói hết sự thật.

Vụ án kéo dài nhiều năm, khởi thủy Jan nghĩ rằng đây chỉ là một vụ kiện nhỏ, sẽ kết thúc nhanh chóng. Chính bản thân Jan cùng 2 cộng sự viên là Kevin Conway và James Gordon không lường trước được hậu quả là họ sẽ bị khánh tận tài sản khi khởi tố.

Càng về sau vụ kiện càng bùng nổ lớn, không phải trong phòng xử mà ở bên ngoài hành lang tràn ngập phóng viên, ký giả. Những bằng chứng ô nhiễm môi trường trở thành một cuộc chiến tranh luận giữa các chuyên viên địa chất, thủy học. Đã có 130 nhân chứng được thẩm vấn, hồ sơ, chứng từ, tài liệu, báo cáo phân chất, thử nghiệm của bác sĩ, bệnh viện về bệnh ung thư máu… lên tới 24.000 trang giấy A4.

Khi vụ kiện bắt đầu kéo dài với những phí tổn trả cho các chuyên viên phân tích các mẫu nước, đất, những thẩm định đánh giá của bác sĩ chuyên môn về máu, về ung thư… đã khiến cho Jan Schlichtman và các cộng sự viên khánh kiệt, phải cầm cố nhà cửa và những kỷ vật quý giá. Tuy vậy vì lương tâm nghề nghiệp, Jan và các cộng sự viên không bỏ cuộc, quyết tâm theo đuổi đến cùng. Sau đó Jan cũng nhận được sự trợ giúp của một giáo sư luật ở Harvard, Professor Charles Nesson, chuyên viên thượng thặng về bằng chứng.

Hồ sơ khởi tố của Jan Schlichtman đưa ra chứng cớ là 15 mẫu đất (mẫu tây: Acres) chung quanh nhà máy thuộc da ở Woburn bị nhiễm các chất độc gây ung thư, đặc biệt là TCE.

Giai đoạn 1 của vụ án bắt đầu vào tháng 03.1986, chánh án là Walter Jay Skinner, một người nổi tiếng nhiều kinh nghiệm trong tố tụng, có lương tâm và công bằng khi xét xử.

Tuy nhiên, khi nhận ghế chánh án, những diễn tiến của phiên tòa khiến thẩm phán Skinner hoang mang, không hiểu phải quyết định như thế nào, dù có bằng chứng rõ ràng là các giếng nước G, H bị nhiễm hóa chất gây ung thư.

Các hóa chất độc hại và TCE đã thấm vào trong lòng đất, trôi theo các mạch nước ngầm rồi hòa tan trong các giếng nước ở Woburn như thế nào? Không ai chứng minh được nhưng cũng không ai dám phủ nhận tiến trình đó.

Trong giai đoạn này không có nhân chứng nào được Jan Schlichtman đưa ra hiện diện ở phiên tòa. Vì không có câu trả lời rõ ràng với câu hỏi trên, bồi thẩm đoàn kết luận những chứng cớ buộc tội nhà máy thuộc da của W.R. Grace & Co làm ô nhiễm môi trường là không vững chắc nhưng đồng thời cũng không bác bỏ các chứng cớ.

Chánh án Skinner đề nghị bên nguyên cáo cũng như bị cáo cố gắng tìm thỏa hiệp hoặc tiếp tục tìm kiếm đưa ra thêm chứng cớ. Kết thúc giai đoạn 1 của vụ án kéo dài 78 ngày là một thỏa hiệp. W.R. Grace & Co cũng như Beatrice Foods không nhận lỗi nhưng để tránh lôi kéo dư luận có ảnh hưởng không tốt đến biểu tượng, sản phẩm của mình, đồng ý bồi thường thiệt hại cho nạn nhân, cộng án phí, tất cả là $8.000.000. Theo đó mỗi gia đình có con em bị chết được đền bù $375.000.

Nhưng sự việc không dừng lại ở đó. Jan Schlichtman cũng như người dân Woburn, những gia đình có con em chết vì ung thư máu không hài lòng với kết quả đạt được, nhất là Anne Anderson, người có con trai tên Jimmy Anderson chết vì ung thư máu, Anne Anderson không tha thiết chuyện bồi thường tiền bạc, không chấp nhận kết luận rằng con trai mình chết vì bệnh hoại huyết chỉ là do tình cờ. Người dân Woburn yêu cầu những người có trách nhiệm phải điều tra và có câu trả lời rõ ràng về sư ô nhiễm.

Năm 1987, Jan Schlichtman cố gắng xin tái xét vụ kiện ở tòa phúc thẩm nhưng thất bại nên quyết định chuyển nội vụ cho sở Môi Trường EPA (Environmental Protection Agency). Tất cả hồ sơ vụ kiện được chuyển giao cho EPA để nơi này khởi tố W.R. Grace & Co và Beatrice Foods.

Khi EPA vào cuộc, để tránh những phiền phức, bất lợi khi phải đối mặt với luật pháp lần thứ hai, chủ tịch đoàn của W.R. Grace, Beatrice Foods theo sự cố vấn các luật sư của họ, đồng ý bồi thường $68.000.000 cho việc tái tạo, làm sạch môi trường ở Woburn.

Trong suốt diễn tiến chậm chạp của phiên tòa. Jan Schlichtman theo lời đề nghị của Giáo sư Charles Nesson, chấp thuận để phóng viên Jonathan Harr gia nhập vào nhóm mình, ghi chép lại mọi tiến triển của vụ kiện.

Jonathan Harr sau đó đã tổng kết mọi sự việc, viết thành một cuốn sách với tựa đề A Civil Action (Một Hành động Dân sự). A Civil Action trở thành một quyển sách bán chạy nhất (Best Seller) năm 1995, được quay thành phim với tài tử John Travolta trong vai Jan Schlichtman.

Hơn thế nữa A Civil Action còn trở thành đề tài giảng dạy, bàn thảo trong nhiều trường đại học của Mỹ. Đồng thời nó cũng làm thay đổi quan niệm, suy nghĩ, nhận định về sự quan trọng của môi trường đối với người dân cũng như chính phủ Mỹ.

So sánh vụ ô nhiễm môi trường ở Formosa và Woburn, người ta dễ dàng nhận ra sự khác biệt.

Ở Woburn, hóa chất thải ra trong quá trình thuộc da được chôn xuống dưới đất trong các bao, bì hay thùng sắt, nhiều nhất là TCE vì đây là chất cần thiết làm cho da trở nên trơn, láng. Những hóa chất này do rò rỉ đã thấm sâu vào đất, đi theo các mạch nước ngầm, hòa vào các giếng nước nên khó lòng phát hiện.

Quá trình này đòi hỏi thời gian lâu dài từ vài tháng đến nhiều năm. Ảnh hưởng kinh tế, xã hội ở Woburn cũng không nặng nề hay có dấu hiệu rõ ràng. Nhà máy thuộc da của Riley Jr. Bị đóng cửa sau vụ kiện, số nhân viên làm việc ở đó không quá trăm người, gánh nặng xã hội không lớn.

Ở Formosa, các chất thải độc hại được phun thẳng ra biển, làm ô nhiễm môi trường ngay lập tức và khi nồng độ tăng cao, sinh vật ở biển bị ảnh hưởng trực tiếp nên cá mới chết hàng loạt nhanh chóng như vậy. Theo dòng thủy triều, chất độc hại trong nước biển trôi về phía Nam nên gây ra thảm họa môi trường trong một phạm vi rộng lớn, trải dài trên 4 tỉnh.

Một khu vực nhỏ như Woburn cần $68.000.000 để tái tạo, làm sạch sẽ môi trường thì 4 vùng bờ biển Việt Nam cần bao nhiêu để tái tạo khi nơi này trở thành vùng biển chết không có tôm, cá…? Gấp chục lần, trăm lần hay hơn nữa số tiền bồi thường ở Woburn và ai sẽ bôi thường?

Gánh nặng kinh tế mà xã hội, đất nước phải chịu đựng là hàng trăm ngàn ngư dân thất nghiệp tràn về thành phố kiếm cách sinh sống vì không còn ngư trường để hành nghề.

Chế độ cộng sản Việt Nam chắc chắn sẽ không có kế hoạch, chính sách gì để giải quyết thảm nạn do Formosa gây ra và người dân cũng đừng hy vọng gì sự giúp đỡ của chế độ phản dân, hại nước này.

Hãy tự cứu lấy mình.

BIỂN ĐÔNG ĐANG RẤT NÓNG

BIỂN ĐÔNG ĐANG RẤT NÓNG

Blog Sống – Chia sẻ

Minh Châu

26-4-2016

Cảnh sát biển Việt Nam thực hiện nghi thức chào xã giao Cảnh sát biển Trung Quốc. Nguồn: CSB VN

Vụ việc Formusa Hà Tĩnh đang sôi sùng sục ở các trang báo đã làm cho người ta tạm gác qua chuyện Biển Đông – vốn đang nóng hơn rất nhiều…

KHÔNG HỀ CÓ ĐỒNG THUẬN NÀO CẢ

Hôm Chủ Nhật, 24-4, Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói rằng nước này đã đạt được thỏa thuận 4 điểm về Biển Đông theo lập trường của Bắc Kinh với Brunei, Campuchia và Lào sau chuyến công du của ông Ngoại trưởng Vương Nghị.

The Phnom Penh Post ngày 26-4 đưa tin: người phát ngôn Chính phủ Campuchia Phay Siphan khẳng định, chẳng có đồng thuận nào mới đạt được trong cuộc họp vào cuối tuần qua, khi ông Nghị ghé Phnom Penh.

“Không có thỏa thuận hoặc thảo luận nào, đó chỉ đơn thuần là chuyến thăm của một Ngoại trưởng Trung Quốc”, ông Phay Siphan nói với báo giới.

Trước đó, The Fiji Times ngày 15-4 đưa tin, Chính phủ Fiji ngày 14-4 tuyên bố, nước này không ủng hộ lập trường của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Tuyên bố được đưa ra sau khi Trung Quốc công bố thông cáo báo chí sau cuộc họp giữa Ngoại trưởng Fiji Ratu Inoke Kubuabola và người đồng nhiệm Vương Nghị ở Bắc Kinh, rằng:

“Hai bên (Trung Quốc và Fiji) kêu gọi các bên liên quan trực tiếp cam kết giải quyết hòa bình các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, hàng hải thông qua tham vấn thân thiện và đàm phán song phương phù hợp theo tinh thần Tuyên bố chung về ứng xử trên Biển Đông.

Cơ quan tư pháp và trọng tài quốc tế nên tôn trọng đầy đủ việc Trung Quốc bảo lưu ngoại lệ tùy chọn theo Điều 298 Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS).

Hai bên nhấn mạnh quyền của các nước có chủ quyền và các quốc gia thành viên UNCLOS để lựa chọn một cách độc lập các phương pháp để giải quyết tranh chấp phải được tôn trọng, và phải có sự đồng ý trước của các bên tranh chấp trước khi tiến hành giải quyết thông qua một bên thứ 3 bất kỳ”.

VIỆT – TRUNG LẠI TUẦN TRA CHUNG TRÊN VỊNH BẮC BỘ

Tuần qua, thông tin ít được phổ biến là Việt Nam và Trung Quốc đã bắt đầu cuộc tuần tra ngư nghiệp chung lần thứ 11 tại Vịnh Bắc Bộ.

Hai tàu cảnh sát biển từ Việt Nam và hai tàu Trung Quốc cùng giám sát các tàu cá và thỉnh thoảng tiến hành các cuộc kiểm tra trên ngư trường chung tại đây trong vòng 5 ngày kết thúc vào hôm thứ bảy vừa qua.

Cuộc tuần tra năm nay được gia hạn từ thông lệ 3 ngày thành 5 ngày và các tuyến tuần tra 1 chiều trước kia từ bờ biển này tới bờ biển kia nay được thay đổi thành hai chiều đi-về.

Hài hước là kết thúc cuộc tuần tra đã không ghi nhận được trường hợp nào vi phạm về quyền đánh bắt thủy hải sản. Trong lúc đó, theo báo cáo của lực lượng kiểm ngư Việt Nam, các ngư dân ở miền Trung cho hay suốt mấy năm qua đã phải khốn khó trong lẫn tránh nhóm các tàu sắt có treo cờ Trung Quốc gọi là Dân Quân Biển (Tanmen Maritime Militia) ngụy trang vào trong hạm đội tàu cá của Trung Quốc đang tràn ngập vùng Biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Đầu tháng Tư, Cảnh sát biển Việt Nam đã bắt giữ một tàu dầu Trung Quốc tiếp tế nhiên liệu cho những tàu cá hoạt động xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Tuy nhiên những thông tin này lại không được phổ biến trên báo chí.

BIỂN VIỆT NAM ĐANG BỊ TRUNG QUỐC CÀN QUÉT

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết “nhiều doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu hải sản của Việt Nam đang phải tạm ngưng sản xuất mặt hàng này hoặc hoạt động cầm chừng do không đủ nguyên liệu sản xuất”.

Theo bà Nguyễn Thị Thu Sắc, Phó Chủ tịch VASEP, đã có 147 doanh nghiệp ngưng chế biến và xuất khẩu hải sản để chuyển sang sản xuất các mặt hàng khác, “nguyên nhân do các thương nhân Trung Quốc sang tận nơi mua hải sản mà ngư dân đánh bắt về”.

VASEP còn cho biết có tình trạng thương nhân Trung Quốc “tranh giành, đón mua” tại các cảng cá hoặc thậm chí ngay tận ngoài biển. Các công ty Việt Nam thiếu hàng xuất cảng, đẩy giá mua lên cao mà vẫn không cạnh tranh nổi với độ vung tiền của các doanh nhân Trung Quốc. Miền Trung bị ảnh hưởng bởi “cơn dịch vét hàng” nặng nhất.

“KHÔNG THỂ GIẢI QUYẾT SONG PHƯƠNG VẤN ĐỀ QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA”

Ngày 14-4, trong cuộc họp báo thường kỳ tại Hà Nội, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nêu rõ trong các tranh chấp chủ quyền đảo trên Biển Đông, vấn đề liên quan đến hai nước thì giải quyết song phương, nhiều nước thì phải giải quyết đa phương.

Cũng trong thời gian này, cử tri 15 tỉnh: Phú Yên, Long An, Ninh Bình, Sóc Trăng, Hậu Giang, Bình Thuận, An Giang, Cần Thơ, Bạc Liêu, Bình Dương, Hà Nam, Tiền Giang, Cà Mau, Long An, Hà Nội đã có yêu cầu sớm kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế về vấn đề biển Đông.

Nguyên văn kiến nghị được Ban Dân nguyện của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tập hợp như sau:
“Cử tri tiếp tục bày tỏ thái độ bức xúc đối với những vi phạm của Trung Quốc ở biển Đông, đặc biệt là hành động xây dựng đảo nhân tạo tại một số điểm thuộc quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, ngang nhiên đánh bắt cá trên vùng biển Việt Nam, tấn công các tàu của ngư dân Việt Nam.

Cử tri đề nghị có các giải pháp đấu tranh khả thi, quyết liệt hơn, rõ ràng hơn để giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè, dự luận quốc tế trong việc đối phó với các hành động nêu trên của Trung Quốc; sớm hoàn thiện các thủ tục pháp lý khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế; thận trọng hơn trong các chính sách đối ngoại, cân nhắc khi hợp tác, ứng xử đối với một số nước bạn, đặc biệt là Trung Quốc; hạn chế các chính sách thỏa hiệp để đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc; đồng thời thông tin kịp thời, đầy đủ tình hình biển Đông và đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền về chủ quyền biển đảo…, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần đoàn kết, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc”.

Tuy nhiên có điều lạ là những thông tin nói trên không thu hút sự quan tâm, hưởng ứng của các tổ chức hội, đoàn xã hội dân sự. Đã không có bất kỳ cuộc tuần hành hay biểu tình nào diễn ra để phản đối Trung Quốc xâm lược biển đảo Việt Nam; thậm chí cũng chưa thấy bùng lên làn sóng yêu cầu nhanh chóng khởi kiện Trung Quốc của người dân Việt Nam.

Biển Đông vẫn đang nóng và…

Một làn khói trắng,

 Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ Sáu Phục Sinh năm C 01/5/2016

“Một làn khói trắng,”
“Du đời vào quên lãng
Nâng sầu thành hơi ấm
Hơ dịu tình đau.”

(Vũ Thành An – Bài Không Tên số 7)

(Công Vụ 10: 34-35)

  Trần Ngọc Mười Hai

Không tên hay có tên, vẫn một bài hát ấy, cứ lờ-mờ như làn “khói trắng”, rồi “du đời vào quên lãng” “hơ dịu một tình đau.” Thế đó, là giòng nhạc có tình-tự thi-ca cũng rất cổ. Thi-ca cổ đây, là giòng thơ/âm-nhạc vẫn dìu người hát và người nghe đi vào chốn hồn người có nhịp-điệu nhịp “Slow” êm-ả, tình-tứ, khá lãng-mạn.

Còn gì lãng-mạn và trữ-tình bằng những ca-từ liên-tiếp hát như sau:

“Ngày tàn im ắng,
Yêu người làm tóc trắng.
Tâm sự rồi đến đắng,
Như lệ giờ biết nhau.

Đêm vỗ về nuôi nấng
Đêm trao ngọt ngào hương phấn
Buông lơi dòng tóc mỡ
Trên vùng ngày tháng vật vờ.”

(Vũ Thành An – bđd)

Vâng. Dù cho “tâm-sự ngày rất đắng” đến như thế, lại có “đêm vỗ về nuôi-nấng”, đôi lúc còn “buông lơi giòng tóc mỡ”, “trên vùng ngày tháng vật-vờ”, cả đời người.

Vâng. Đời người đi Đạo nay cũng thế. Vẫn thấy “tháng ngày vật-vờ”, vẩn vơ, “ú ớ” cũng rất nhiều. Nhiều, như lập-trường tư-tưởng những là thần-học mù-mờ, vu vơ thật rất nản.

Ấy chết! Có nản hay không do lời-lẽ hoặc ý-nghĩa vẩn vơ, “ú-ớ” ở lời kinh/câu hát nào! Nản một nỗi, là khi các cụ cứ “lửng-lơ-con-cá-vàng-trong-chậu-nước”, âm-thầm như một nhận-định ở giòng chảy trên mạng với chi-tiết sau đây:

“Cách nay 50 năm, tuần-báo Time có đăng ở trang bìa một giòng chữ rất lớn với câu hỏi: “Thượng Đế đã chết thật rồi sao?” Đây là câu-hỏi nóng, do nhà thần-học và triết-gia nọ khi trước từng để ra với thế-giới trần-tục ở phương Tây. Và, các chế-độ vô-thần lâu nay vẫn khuynh-loát phần còn sót của nhân-loại!

 Hôm nay, một trong các chế-độ xưa/cổ ấy đã biến dạng. Và tôn-giáo, nay đang đoạt lại chỗ đứng của mình trong cuộc sống ở Nga và một số nước. Có chế-độ còn sửa-đổi cả lề lối chống-báng đạo-giáo mạnh đến độ: hôm nay, có đến chục triệu người Trung Hoa đã và đang trở-thành tín-hữu Đạo Chúa rất hiên-ngang. Nhà cầm quyền nước này, cũng đã quay lại hầu chuyện Đức Giáo-Chủ Công-giáo La Mã.

 Riêng Châu Phi và nhiều nước Trung Đông, các nhóm/phái giáo-hội được hoạt động đến 100% khả-năng của mình. Tại Ấn Độ và các nước đang phát triển, dù theo đạo Chúa hoặc Hồi giáo, dù thuộc Ấn giáo hay đạo Phật, hiện vẫn thấy tồn tại một sức mạnh văn hóa, thật dũng-mãnh…

 Nhưng, hỏi rằng: ở thế kỷ 21 này, Thiên Chúa có chết thật chăng? Câu trả lời ở đây, đang vang rền một tiếng “không” rất mạnh! Không. Ngài “không chết đâu anh!” Thật ra, đó chỉ là nỗ-lực của một số người muốn giết chết niềm tin của người đi Đạo, đến tận tuyệt, mà thôi.

 Ở trời Tây bên ấy, điều này chừng như là mục-tiêu giết chết niềm tin của người đi Đạo vốn dĩ xảy ra qua ba đường-lối: một là, phong-trào trần-tục-hoá Đạo Chúa và nỗ-lực biến Đạo-giáo thành chốn/miền trần-tục, và/hoặc lèo lái đạo-giáo cho xa rời đời sống của chúng dân, thôi.

 Thứ hai, là: các nỗ-lực như thế, nay bắt đầu cho thấy tự-do tôn-giáo không còn là vấn-đề sống còn chỉ ở Trung-Hoa, Pakistan, hoặc Ả Rập Sauđi thôi, nhưng cả đến các quốc-gia lâu nay từng chủ-trương cách-mạng giới-tính; đồng thời, họ lại đưa ra nhiều biện-pháp quyết hợp-thức-hoá phá thai, coi “đồng tính luyến-ái” như chuyện thường-tình; và mới đây nhất, họ còn tạo cởi mở về tính-chất phức-hợp/đa-dạng về giới-tính của con người nữa.

 Nỗ-lực đây, lại đã kèm theo đòi hỏi về nhân-quyền có sự hợp-lực của luật pháp lâu nay vẫn mâu-thuẫn với niềm tin Do-thái-giáo và Hồi-giáo chuyên đặt nặng nhân-phẩm và sự phát-triển nhân-vị. Những thứ này, cùng với quyền-lợi mới được tạo đã khiến một số nhà cầm-quyền chấp-nhận cho chủ-nghĩa trần-tục và cảm-xúc dần dà chiếm-ngự tôn-giáo.

 Tựu-trung thì: vấn-đề tự-do tôn-giáo không nghiêm-trọng như trước; và vì thế, các tín-hữu không còn bị hố sâu ngăn-cách gây xung-đột trong cộng-đoàn kẻ tin nữa. Và, các nhà thần-học vẫn bận-tâm chuyện “Thiên-Chúa đã chết rồi”, như tác-giả John T. Elson từng viết bài trên báo vào năm 1966 đã khẳng-định rằng: “Thiên-Chúa chết thật rồi!”

 Dù có thế, ông vẫn đề-nghị mọi người hãy sống trung-thành với niềm tin mình có. Tác-giả, tuy đã viết về thứ “thần-học không có thần-linh” nhưng theo ông, Thiên-Chúa vẫn đồng-hành với ta cách này/cách khác. (X. Carolyn Moynihan, Is God dead? No, but our faith may be ailing, MercatoNet 08/4/2016)

 Ấy đấy, là tâm-tư/tự-sự của người viết ở ngoài đời bàn chuyện cho vui, thôi. Chứ, bà đâu đòi một chuyển-đổi nào nơi nhà Đạo, ở trời Tây. Nhưng, đây lại là lập-trường “ngoài Đạo” của nghệ-sĩ đời với câu hát không mang tính thần-học nào hết, dù ông nay đã là “phó-tế vinh-viễn” ở Đạo Chúa rất Kitô. Lập-trường ông đề ra, là ý-tưởng vang bóng một thời về nữ-phụ, rồi gọi đó là “Bài Không Tên số 7”, như sau:

 “Thân em rồi hoang phế,
Lê theo thời gian giông gió.
Thôi cũng đành cúi xuống,
Cho mộng đời thoát đi.

Một đời đổ cho tình yêu,
Từng đêm dòng nước mắt.
Sẽ nâng niu đời nhau (ừ) Đớn đau anh.
Sẽ cho nhau đời nhau (ừ) Xót xa em.
Dắt đưa nhau mối hận đời người.

Trả lại nước mắt,
Cho mệnh đời son sắt.
Thôi rồi em cũng mất,
Cho tình cúi đầu.

Một mình đi mãi.
Trên đường dài không thấy.
Ai người quen tôi đấy.
Bao giờ đời sẽ vơi.”

Vũ Thành An – bđd)

 Ấy! Thôi chết thật rồi bạn ơi, thế có khiếp không! Chết, là bởi: nếu bạn cứ tin rằng điều đó có thật, rất trữ-tình, thì đây: một tình-tự khác tuy không láng-mướt như một giảng-dạy rất hay ho, ở bên dưới.

Đó, là lập-trường thần-học của đấng bậc nọ ở trời Tây từng thổ-lộ:

“Có thể nói, một nhận-định lạ-lùng về bất cứ văn-bản chữ viết bắt gặp ở lịch-sử, là: lời-lẽ trong đó có chứa-đựng một thứ gì gọi là “Lời Chúa”. Khẳng-định như thế, tức bảo rằng: Thiên-Chúa là hữu-thể rất giống “con người”, ở một điểm là: Ngài cũng có khả-năng nói như con người và cho con người bằng ngôn-ngữ khiến họ hiểu được. Và, cả đến lập-trường/chủ-trương quyết rằng Thiên-Chúa đã “đầu-tư” một cách mật-thiết vào cuộc sống của con người theo dạng “thu nhỏ”.

 Thật ra, chẳng cần gì phải ưu-tư/bối-rối chút nào vì những khẳng-định như thế đã được đưa ra suốt chiều dài lịch-sử ở phương Phương theo kiểu-cách nào đó, mà ta gọi là Kinh/Sách. Nhưng, tín-hữu Đạo Chúa chẳng khi nào coi trọng các đòi-hỏi của người “ngoài Đạo”, hết. Nói như thế, tức bảo rằng: các đòi-hỏi ở đây đã đến từ nguồn văn không thuộc về Đạo Chúa, vẫn bị coi là phi-lý.

 Tuy nhiên, ta cũng chẳng cần đi đâu xa mới nhận ra rằng: Đạo Chúa diễn-tả điều này đều được bộc lộ bằng nghi-thức phụng-vụ thật đích-xác. Chẳng hạn như câu nói “Đó là Lời Chúa” ta vẫn quen nghe vào lúc kết-thúc các bài Sách thánh đọc ở thánh-lễ Chúa Nhật mà các Giáo-hội đều đưa vào phụng-vụ. Và, khi nghe câu nói ấy, cộng-đoàn dự lễ đều đồng-thanh đáp-ứng bằng câu thưa: “Tạ ơn Chúa”.  

 Ở một số Giáo-hội chuyên rao-giảng Lời Chúa, những câu đáp/trả như thế còn nở rộ hơn nữa. Có Giáo-hội còn thay-đổi lời công-bố sau Phúc Âm bằng những lời như: “Xin Thiên Chúa chúc phúc thêm cho người đọc Lời Ngài ở đây hôm nay.”          

Tóm lại, gọi Kinh Sách là “Lời của Chúa” là điều thường tình trong truyền-thống từng khiến cho lưỡi ta uốn cong/tròn theo quán-tính, rất thuộc lòng nhưng ít khi ta để tâm ra tìm-hiểu xem điều ta nói như thế có nghĩa gì đích-thực.

 Và rồi, vào các buổi chia-sẻ/học-hỏi Lời Kinh thánh trong Giáo-hội về một số vấn-đề xã-hội lớn lao, giới-chức có thẩm-quyền đều trích-dẫn hầu như thường-xuyên các văn-bản của Sách thánh. Và đấng bậc trích-dẫn những Lời rút từ Kinh thánh lại cứ cho rằng Kinh Sách rất thánh thật sự được đầu-tư với quyền-uy thế-lực của Đức Chúa…” (X. Tgm John Shelby Spong, A Claim that cannot endure, trong The Sins of Scripture, HarperCollinsPublishers 2005, tr. 15-16)

Thật tình mà nói, kể chuyện đời bằng lời lẽ của đấng bậc nhà Đạo bàn chuyện Đạo với lời lẽ rất đạo-mạo, thì như thế vẫn rất tuyệt. Kể chuyện đạo-làm-người ở đời, cũng có người từng kể theo cách-thức hoàn-toàn khác-biệt. Khác, như vị thiền-sư Phật-giáo nọ cũng kể như sau:

Một người không rõ về vận mệnh, đem thắc mắc của mình đi bái kiến một
vị thiền sư :
– Thầy nói xem trên đời này có vận mệnh không ?
– Có .
– Nhưng , vận mệnh của con ở đâu ?
Vị thiền sư kêu anh ta xoè tay trái ra , chỉ anh ta xem và nói :
– Con thấy rõ chưa ? Đường này là đường tình cảm , đường này gọi là đường sự nghiệp , còn đường kia là đường sinh mệnh.
Sau đó, vị thiền sư kêu anh ta từ từ nắm tay lại , nắm thật chặt.
Thiền sư hỏi :

– Con nói xem , những đường đó nằm ở đâu rồi
Anh ta mơ hồ bảo :
– Trong tay con này .
– Con hiểu vận mệnh của con ở đâu rồi chứ?
Vâng. Người kể hôm nay lại đính kèm thêm lời bàn, bảo rằng: vận-mệnh con người nằm gọn trong tay mình. Nhưng, nhiều thứ khác, tuy không gọi là vận-mệnh của trời của Phật, của đất trời, cũng khó biết.

Lời người kể lại cũng nói: người thanh-niên kia mỉm cười nhận ra vận-mệnh nằm ở trong tay mình. Nếu không tu, thì cứ sống theo nhân/quả đã có do nghiệp tạo. Có tu, thì dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Nghiệp đổi, số phận đổi, tốt/xấu là do cách ta chuyển nghiệp, mà thôi.

Và người kể, còn thêm đôi ba nhận-định về chữ-nghĩa con người, rất để đời như sau:

SỰ THẬT có 6 chữ
GIẢ DỐI cũng 6 luôn
Mặt trái và mặt phải
Trắng đen ôi khó lường!

TÌNH YÊU có 7 chữ
PHẢN BỘI cũng thế thôi
Chúng là hình với bóng
Rất dễ dàng đổi ngôi.

Chữ YÊU là 3 chữ
HẬN là ba, giống nhau.
Người say men Hạnh phúc
Kẻ thành Lý Mạc Sầu.


BẠN BÈ có 5 chữ
KẺ THÙ đếm cũng năm
Hôm nao lời ngọt mật
Hôm nay chìa.. dao găm.


Từ VUI có 3 chữ
Tiếng SẦU cũng đồng như.
Quá vui thường mất trí,
Mất trí đời đổ hư.

 Chữ KHÓC có 4 chữ

CƯỜI cũng vậy giống in

Ai “giòn cười tươi khóc”

Ai cảm thọ nhận chìm

Cuộc sống là hai mặt

Giới tuyến một đường tơ

Chấp nhận mà không vướng

Nhẹ bước qua hai bờ.”

(Nhận-định vận-mệnh, do Thích Tâm Tánh gửi trên mạng cho mọi người được đọc).

Suy về lời-lẽ/chữ-nghĩa của con người, tưởng cũng nên suy thêm về Lời của Đấng Thánh Nhân-Hiền từng nói cho con người và với con người như sau:

“Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng nói:

“Quả thật,

tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào.

Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa

và ăn ngay ở lành,

thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào,

cũng đều được Người tiếp nhận.

Ngài đã gửi đến cho con cái nhà Israel

Lời loan báo Tin Mừng bình an,

nhờ Đức Giêsu Kitô,

là Chúa của mọi người.”

(Công Vụ 10: 34-35)

 Thành thử, chiếu theo những điều thánh-nhân hiền-lành trong Đạo từng nhận-định về “Lời” và lẽ rất chân-chính, thì cũng nên phân-biệt hai chữ “vận-mệnh” theo định-luật “dừng” nghiệp và “chuyển” nghiệp nơi lời lẽ, là như thế.

Nhưng, như thế vẫn chưa hẳn là có thể chuyển/đổi cuộc sống mà tin-tưởng vào “tình-thương-không-nghiệp-chướng”, rất vô bờ của Thiên-Chúa Đấng đã gửi “Lời” đến với ta, tình thương-yêu của Ngài, bao giờ cũng mạnh hơn nghiệp/chướng và vận-mệnh của bất cứ ai, trên đời này.

Là người, ai cũng có thể dùng tình thương-yêu rộng-mở đến với mọi người để mà “dừng”/mà “chuyển” cả vận-mệnh lẫn cái nghiệp-(rất)-chướng của con người. Không tình-thương, chắc chẳng ai thể làm được gì, kể cả những thứ rất chướng của nghiệp-dĩ hoặc “vận-mệnh” con người. Đó, là sự thật mà con người vẫn tìm kiếm mãi suốt đời mình.

Nói thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta hãy cất cao tiếng/giọng mà ca lên lời trần-tình rất thi-tứ của người nghệ-sĩ từng đề ra, cả khi chưa trở-thành “Phó-tế Vĩnh-viễn” trong Đạo Chúa. Những lời và lời như thế, vẫn được cất lên như sau:

“Thân em rồi hoang phế,
Lê theo thời gian giông gió.
Thôi cũng đành cúi xuống,
Cho mộng đời thoát đi.


Một đời đổ cho tình yêu,
Từng đêm dòng nước mắt.
Sẽ nâng niu đời nhau (ừ) Đớn đau anh.
Sẽ cho nhau đời nhau (ừ) Xót sa em.
Dắt đưa nhau mối hận đời người.


Trả lại nước mắt,
Cho mệnh đời son sắt.
Thôi rồi em cũng mất,
Cho tình cúi đầu.


Một mình đi mãi.
Trên đường dài không thấy.
Ai người quen tôi đấy.
Bao giờ đời sẽ vơi.”

(Vũ Thành An – bđd)

Chính thế. Trên con đường dài cuộc đời, ta dù có thấy hay không thấy được ý-nghĩa của lời người nói ở đâu đó, vốn dĩ là “người quen mình đấy”, rồi cuộc đời sẽ vơi đi “nỗi buồn không tên” rất số 7, mà thôi.

Đúng vậy. Trên đường đời đi Đạo cũng thế, dù bạn và tôi, ta đã nghe rất nhiều lần “Lời” Kinh ở đâu đó trong Đạo hay ngoài đời, rồi cũng sẽ như “một đời đổ cho tình yêu”, “sẽ nâng niu đời nhau (ừ) đớn đau!”

 Đúng là như thế. Lời thương-yêu, vẫn có thể chuyển-đổi cả một đời người. Vẫn rất vui.


 
Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc cũng có

Mối tâm-tư buồn cho chính mình,

Nhưng không phải

Bài Không Tên số 7.

Em gọi tên Người, gọi khàn hơi,

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ Sáu Phục Sinh năm C 24/4/2016

                    Tin Mừng: (Ga 14: 23-29)

 Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng:

Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

 Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.”

 “Em gọi tên Người, gọi khàn hơi,”

Dư-âm dội, tâm nhói rã-rời.

                                     Khuya đã tàn dần, bình-minh đến,

                                      Hồn-nhiên lại hẹn, chẳng giữ lời.

                                       Để em hoài-vọng một niềm vui.”

(dẫn từ thơ Niệm Nhiên)

  Mai Tá lược dịch.

Gọi mãi tên Người, em gọi khàn cả hơi. Gọi từ khuya-khoắt tàn dần, chợt bình-minh đến. Gọi hồn-nhiên tên Người, để em về hoài-vọng một niềm vui. Niềm vui hứa tặng, nay Ngài giữ. Giữ trọn Lời, trình-thuật ghi rõ đến hôm nay.

Trình-thuật hôm nay, thánh Gioan-Tin-Mừng nói: Ngài giữ Lời. Ngài giữ lời Ngài đã hứa với hết mọi người. Với, cả đồ-đệ lẫn dân con nhà Đạo ở khắp nơi. Lời hứa ấy thánh-nhân ghi thế này: “Ai yêu mến Thày, thì sẽ giữ Lời Thày. Và, Cha Thày sẽ yêu mến người ấy. Và Cha Thày sẽ ở lại với người ấy.” (Ga 14: 23).

Lâu nay, người đời quan-niệm rằng: Yêu-thương không là cảm-xúc nhè nhẹ, chóng qua; nhưng là động-thái đích-thực xuất-phát từ tâm can con người, chẳng làm sao có thể thương được người nếu không thực-sự biết yêu. Trong ca nhạc kịch “My Fair Lady”, Eliza Doolittle có nói với Giáo-sư Higgins, là: “Chớ nói nhiều về tình-yêu, nhưng hãy xác-chứng.” Và, ai trong chúng ta cũng có thể bắt đầu tiến-trình yêu-đương ngay bây giờ. Đừng để người khác bắt đầu trước.

Với Đức Kitô, tình yêu thương Ngài đề cập, chính là động thái “yêu”. Yêu là tình hoàn chỉnh được thể hiện bằng việc “tuân giữ Lời”. Lời Ngài khuyên, không chỉ giới hạn nơi những ta gọi là “Mười điều răn” hoặc vào “tín lý” của Đạo. Các hành xử mang tính linh đạo ta có xưa nay, dù bao gộp rất nhiều điều, đã chắc gì do “yêu”, mà ra. Yêu là tuân giữ “Lời” của Chúa. Yêu, bao gồm trọn vẹn những gì ta hiểu về Ngài, qua Kinh Thánh.

Lời của Chúa. Việc Ngài làm. Tương quan Ngài vẫn có với con người ở trần gian, nhất nhất đều là “Lời”. Lời, cũng là nguyên tắc Ngài sống. Lời, là giá trị Ngài ban bố; là cách xử sự Ngài thường làm gương. Nhưng, trên hết mọi sự, đó là điều cốt thiết để kiến tạo Vương quốc của Ngài, ở trần gian.Đức Kitô chính là “Lời” của Chúa, bằng xương bằng thịt. Lời Ngài, không chỉ là những gì được biểu lộ ra bên ngoài từ miệng Ngài, mà thôi.

Nhưng, “Lời” Ngài xuất trọn từ cuộc sống của Ngài. Cuộc sống ấy, khởi đầu từ giây phút Hài Nhi Giê-su nằm lạnh run nơi chuồng bò rất hôi ở căn nhà làng Bét-lê-hem. Và, cuộc sống ấy ngang qua chặng đường rao giảng Nước Trời; kéo dài mãi cho đến phút giây tận cùng Ngài, bỏ mình trên thập tự.

Tuân giữ “Lời”, là ôm trọn lấy Ngài, cả khi vui cũng như lúc buồn. Tuân giữ Lời, là đồng hóa với Chúa, biến Lời thành hiện thực trong bối cảnh rất riêng, của đời mình. Có thể nói: “Lời” của Ngài đến với ta từ những hành xử, cùng kinh nghiệm ta có với cộng đồng thân thương, người nhà. Ở nơi đó, Đức Chúa vẫn cứ phán. Từ nơi đây, Chúa vẫn bày tỏ với ta, từng người một.

Chính, ngang qua cộng đồng thân thương nhà Đạo; cộng đồng, với mọi lỗi lầm sơ xuất, luôn xảy đến với rất nhiều lầm lỡ, mà Thần Linh Chúa đang tiếp tục nói. Ngài vẫn tiếp tục soi tỏ cho ta. Ngài soi sáng như đã từng tỏ bày ra với đồ đệ Đức Kitô, thời tiên khởi. Thần Linh Chúa soi sáng và tỏ bày không chỉ qua các vị Giáo hoàng, hàng giáo phẩm hoặc giới giáo sĩ, tu sĩ mà thôi; nhưng qua mỗi người và mọi người.

Bởi, tất cả đều là thân mình của Đức Kitô. Tất cả, từ già đến trẻ, nam nữ có học hay đã bỏ học, bạn bè hoặc kẻ thù nghịch. Không ngoại trừ một ai. Tất cả cần tuân giữ Lời. Cần nghe theo Lời.

Ngày nay, các đấng vị vọng thuộc cộng đồng dân Chúa được thôi thúc hãy biết nghe nhau. Nghe nhau, là lắng tai để ý đến toàn cộng đoàn dân Ngài. Hiến Chế Tông Đồ Giáo Dân, thời Công Đồng Vatican II, có đoạn 10, đã phán quyết: các tầng lớp giáo dân phải “triển khai thói quen đưa mọi vấn đề ra trước cộng đoàn giáo hội. Từ những vấn đề có tính cách riêng tư cá nhân, đến các vấn đề của thế giới và cả những vấn nạn về ơn cứu chuộc con người nữa, để rồi ta cùng nhau tìm hiểu và giải quyết chúng bằng các buổi thương thảo thường kỳ.”

Tuân giữ Lời, là cùng nhau ta thực hiện những việc chung, mà Ngài ủy thác cho hội thánh, ngay từ đầu. Cả những tập tục như: “cắt bì”, ăn đồ dâng cúng ngẫu tượng, kiêng thịt động vật không cắt tiết, tránh gian dâm, tránh đối kháng với các đổi thay như đã đề cập trong sách công vụ tông đồ, đọc hôm nay. Tuân giữ Lời, còn phải hiểu là các quyết định của Hội thánh “vốn được Thần Linh Chúa soi tỏ” có sự đồng thuận của mọi thành viên, là chúng ta. Là Hội rất thánh.

Tuân giữ Lời, còn vì Lời Ngài là Lời ta nghe được từ Đức Kitô. Thầy chính “từ Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”mà ra (Yn 14: 24). Và, tuân giữ Lời Thầy, là bởi vì: “Đấng Bầu Chữa là Thánh Thần, Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Chính Ngài sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ nhắc anh em nhớ mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Yn 14: 26). Và, dựa vào những gì đã và đang xảy đến với Hội thánh, quả nhiên Thánh Thần Chúa vẫn đang dạy ta biết tuân giữ Lời, thời đại này.

Và, vì Thánh Thần Chúa vẫn nói qua Hội thánh, nên rất nhiều thành viên trong cộng đồng dân Chúa, đã sống kinh nghiệm. Kinh nghiệm, biết thân thiện cởi mở để có đổi thay. Thay đổi tự căn bản, ngõ hầu sự thật và việc tuân giữ Lời trong thực tế, đều đi vào hiện thực. Và, thánh Phaolô cũng đã cảnh báo dân con cộng đồng nhà Đạo chớ có theo “đường xưa lối cũ” trở về với tập tục “cắt bì”, như thánh nhân đã có thư cho cộng đoàn (Ga 5: 1-6).

Hội thánh hôm nay, nhiều người vẫn muốn quay ngược kim đồng hồ, trở về với lề lối thói tục, thời đã qua bằng cách áp-dụng nhiều tập-tục cổ xưa. Áp đặt luật lệ trên người khác, như: trở về với thánh lễ bằng tiếng La tinh, là một ví dụ. Nếu cứ tiếp tục như thế, những người ấy sẽ tra tay dẫn dắt hội thánh về cuối đường hầm, không lối thoát. Thực tế, Hội thánh trước tiên là cỗ xe, một phương tiên qua đó các kinh nghiệm về tình thương yêu của Chúa được dàn trải dài rộng, cho toàn thế giới.

Hội thánh sống trung thực với Thánh Thần Chúa, phải tuân giữ Lời Thầy. Biết mở ra với thế giới bên ngoài. Bởi, như nhà thần học nọ từng nói: thế giới nay “đang viết lịch trình giùm Hội thánh.” Thành thử ra, biết lắng nghe tình cảnh của những người không-phải-là-Do thái vừa mới trở lại, Hội thánh nay nhận ra, rằng: Thánh Thần Chúa đang dẫn dắt mình qua nhiều giai đoạn.

Và, một khi Hội thánh trở nên một xã hội đóng kín, ưu việt và riêng lẻ, có những phán đoán không thể đảo ngược được và chỉ muốn ngồi trên số phần còn lại của thế giới, thôi; thì lúc ấy, Hội thánh không còn là Giáo hội do Đức Kitô thiết lập, nữa. Tức, không nghe và không giữ Lời Ngài.

Cùng nhau và từng người một, ta cần đề cao cảnh tỉnh về đường lối tuyệt vời qua đó Chúa sẽ đến với ta, vào thời buổi này. Mỗi ngày, chỉ tặng Chúa một chút thời gian và chỉ cần chịu ngồi lại thêm vài khoảnh khắc nữa, ta sẽ cảm nghiệm được khát vọng to lớn mà chia sẻ tình thương yêu xuất từ bên trong ta, đạt đến Chúa

Từ đó, tình thương sẽ bắt đầu từ chính ta, ra với người ngoài. Thật sự, Chúa vẫn muốn san sẻ với ta nhiều hơn nữa. San sẻ những gì Ngài có. San sẻ, những gì đích thực là Ngài. Và, vấn đề là: phần đông chúng ta ít có khi trao tặng Ngài dù chỉ một cơ hội, ngắn và gọn nhỏ. Xét cho cùng, yêu thương không là một động từ. Mà, đó là con đường ta vẫn chọn con đường hai chiều, dành sẵn với hành trang, để ta đi. Con đường rao truyền Lời của Chúa, có yêu thương đùm bọc rất kiên-cường.

Thực tế tuân giữ Lời hoặc “yêu mến Thầy”, vẫn là kinh nghiệm sống rất bổng trầm theo thời tiết “sáng nắng chiều mưa, trưa ủ giời”. Có những ngày, ta nghĩ mình không thể ngồi lại với Ngài thêm được khoảnh khắc nào, nữa. Vì, đang bị ràng buộc bởi nhiều thứ “công chuyện” rất bận. Dù gì đi nữa, Thầy vẫn ở lại với ta. Và, Thầy vẫn giữ Lời.

Vấn đề còn lại, là: ta sẽ đối xử ra sao với Người yêu dấu đã từng hứa. Và từng giữ Lời

Lm Richard Leonard sj

  Mai Tá lược dịch.

VẺ ĐẸP CỦA NGƯỜI ĐỨNG MỘT MÌNH

VẺ ĐẸP CỦA NGƯỜI ĐỨNG MỘT MÌNH

“Chúa Trời đứng một mình – nhưng quỷ sứ thì trái lại, nó tìm tới hội đoàn, nó nhiều vô kể” Henry David Thoreau

Đứng một mình không dễ.  Không những nó có thể làm ta không được ưa thích, khi một mình, nhà văn Đan Mạch Dorthe Nors viết, chúng ta phải đối diện với cảm xúc của ta, quá khứ của ta, cuộc đời của ta, những vấp váp, sai lầm của ta, ta sẽ cảm thấy mình nhỏ bé.  Cần lòng dũng cảm để không lẩn tránh chúng.  Đổi lại, điều ta nhận được là một sự vững vàng mà không phải bám víu vào sự tung hô của người khác.  Một mình nhưng không cô đơn.  Triết gia thế kỷ 19 Henry David Thoreau viết: “Tôi không cô đơn hơn một cây mao nhị hay bồ công anh trên một đồng cỏ, hay một lá đậu, hay một cây chua me đất, hay một con mòng, hay một con ong nghệ.  Tôi không cô đơn hơn ngôi sao Bắc Đẩu, hay một ngọn gió nam, hay một cơn mưa tháng tư, hay băng tan tháng giêng.”

“Mọi vấn đề của con người xuất phát từ chỗ họ không thể ngồi yên một mình trong phòng” – nhà toán học và triết học Pháp Blaise Pascal đã nói vậy vào giữa thế kỷ 17…

Căn nguyên của các rắc rối, theo ông, là chúng ta luôn tìm cách chạy trốn bản thân.  Không muốn đối diện với chính mình, tâm trí con người luôn lùng sục điều kích thích tiếp theo, như một con khỉ không thể ngừng văng mình tới cành cây trước mặt.  Từ cãi vã với hàng xóm tới xung đột giữa các quốc gia, nhiều điều tệ hại bắt nguồn từ lý do này.

Chạy trốn bản thân

Năm ngoái, câu nói của Pascal được khoa học xác nhận.  Trong một thí nghiệm của Trường đại học Virginia (Mỹ), những người tham gia được yêu cầu ngồi một mình 15 phút trong một căn phòng trống trơn, không có gì cả, ngoài một cái nút.  Nếu bấm nút, họ sẽ bị điện giật.

Lẽ ra khoảng thời gian yên tĩnh này là cơ hội để người ta dừng lại, suy nghĩ, hồi tưởng, mơ màng.  Nhưng với nhiều người, đó là một cực hình, đến nỗi họ tự nguyện bấm nút giật điện bản thân chỉ để có cái gì đó để làm, mặc dù trước khi thí nghiệm bắt đầu, họ đã được thử mức độ điện giật và ai cũng xác nhận là có được trả tiền cũng không muốn bị vậy.

Nếu sống ở đầu thế kỷ 21, chắc hẳn Pascal đã diễn tả khác đi một chút: “Mọi cái tệ hại của con người tới từ chỗ họ không thể rời cái điện thoại thông minh để ngồi yên một mình.”

Chưa bao giờ người ta lại dễ dàng chạy trốn bản thân như bây giờ.  Không cần phải đợi về tới nhà để bật tivi lên nữa, bất cứ lúc nào và ở đâu, chỉ cần một cái gõ lên màn hình điện thoại là người ta sẽ được cuốn ra cái biển âm thanh hỗn độn của mạng xã hội.

Trong các quán cà phê, trên taxi, ở công viên, đâu đâu cũng là những con người toàn thân bất động, trừ một ngón tay cái đẩy lên đẩy xuống, mắt nhìn xuống, mặt vô hồn.  Xác họ ở đó, nhưng hồn họ thì đang xô đẩy trong đám đông nhốn nháo trên mạng.

Túc trực từ sáng tới tối, đám đông này làu bàu, gầm gừ, lê lết từ tường nhà này tới tường nhà kia, từ trang tin này tới diễn đàn nọ, giật status, like, share, còm, kết bạn, theo dõi, block.  Trên mạng, con khỉ tâm trí có vô vàn cành cây để nhảy nhót.

Con người hiện đại không biết phải làm gì với chính mình, và nếu người ta sẵn sàng giật điện bản thân chỉ vì buồn chán thì chúng ta có thể hình dung họ có thể làm những gì với người khác.  Đám đông ưa thích hai trạng thái, một là dạy dỗ, chỉ bảo, ban phát lòng thương; hai là chê bai, giễu cợt, phẫn nộ.

Lúc nào cũng đắc thắng, họ luôn tin rằng mình đúng và thế giới cần phải biết tới các phát ngôn của mình.  Không trực tiếp làm chết người như đánh trộm chó ở ngoài đời, họ truy lùng và dồn các nạn nhân của mình vào chân tường cho tới khi những người này phải tự tử như cô bé bị lộ video clip, hay phải van xin như cậu thanh niên Hào Anh: “Đừng cho tôi thêm gì nữa.  Xin mọi người cho tôi được sống tự nhiên.”

Năm 2012, một nghiên cứu của Đại học Chicago cho thấy cưỡng lại thèm khát truy cập mạng xã hội còn khó khăn hơn khước từ thức ăn và tình dục.  Sức hấp dẫn của mạng xã hội tới từ chỗ nó cho người ta một không gian để trình diễn.  Ai cũng có công chúng.

Câu của Andy Warhol – một họa sĩ Mỹ nổi tiếng về nghệ thuật đại chúng (pop art): “Trong tương lai, mỗi người sẽ nổi tiếng 15 phút” có thể được bổ sung thêm: “Mỗi người sẽ nổi tiếng với 15 người.”  Mỗi cái like, chia sẻ, bình luận tán thưởng là thêm một mơn trớn cho cái tôi của người đăng tin, một lần nữa khẳng định giá trị, trí thông minh, sự hóm hỉnh của họ, dù đó chỉ là bức ảnh chụp bát bún thang buổi trưa.

Trên mạng xã hội, mỗi người là một ông bầu của chính mình trong công cuộc xây dựng hình ảnh cá nhân.  Chúng ta trở nên kỳ quặc mà không hề biết.

Hãy hình dung cách đây mười năm, trong một buổi họp lớp, một người bỗng nhiên liên tiếp quẳng ảnh con cái, ảnh dã ngoại công ty, ảnh con mèo, ảnh bữa nhậu, ảnh lái ôtô, ảnh hai bàn chân mình, ảnh mình trong buồng tắm, lên bàn – chắc hẳn người đó sẽ nhận được những ánh mắt ái ngại.  Trên Facebook, ái kỷ không những được khuyến khích, nó là mục tiêu chính.

Căn bệnh tâm lý mới nhất của xã hội hiện đại là bệnh “sợ bị bỏ lỡ.”  Qua một đêm, sau một cuộc họp, thậm chí khi vừa làm tình xong, điều đầu tiên người ta làm là vồ lấy cái điện thoại.  Biết đâu vừa có chuyện gì mới xảy ra, ta không thể vắng mặt.

Mà những chuyện như vậy thì vô vàn: học giả thơm hoa hậu, người mẫu ngủ dạng chân, nguyên thủ quốc gia không cài áo vest, các án mạng ly kỳ nối đuôi nhau.

Chiếc điện thoại thông minh đã trở thành một ô cửa nhỏ dẫn người ta thoát khỏi sự buồn chán của bản thân, và cái rung nhẹ báo tin có thông báo mới của nó bao giờ cũng đầy hứa hẹn.  Nhưng càng kết nối, càng online thì cái đám đông rộn ràng kia lại càng làm chúng ta cô đơn hơn.

Chỗ này một cái like, chỗ kia một cái mặt cười, khắp nơi là những câu nói cụt lủn, phần lớn các tương tác trên mạng hời hợt và vội vã.  Càng bận rộn để giao tiếp nhiều thì chúng ta lại càng không có gì để nói trong mỗi giao tiếp.

Ngược với cảm giác đầy đặn, được bồi đắp khi chúng ta đứng trước thiên nhiên hay một tác phẩm nghệ thuật lớn, trên mạng xã hội ta bị xáo trộn, bứt rứt và ghen tị với cuộc sống của người khác như một kẻ đói khát nhìn một bữa tiệc linh đình qua cửa sổ mà không thể bỏ đi.

Đêm khuya, khi các chấm xanh trên danh sách friend dần tắt, người ta cuộn lên cuộn xuống cái newsfeed để hòng tìm được một status bị bỏ sót, một cứu rỗi kéo dài vài giây, một cái nhìn qua lỗ khóa vào cuộc sống của một người xa lạ để làm tê liệt cảm giác trống rỗng.

Bình tâm ở giữa đời thực

MOT MINH

Mê man với nhau trên mạng, chúng ta đang có nguy cơ đánh mất khả năng kết nối với những cái lớn hơn trong cuộc sống, khả năng cảm nhận thế giới.  Thay vì bình tâm ngắm buổi hoàng hôn lộng lẫy, chúng ta điên cuồng tìm những cái lọc khác nhau để chụp mấy chục cái ảnh, rồi bận rộn chọn một cái “đạt” nhất để post lên, băn khoăn nghĩ một lời tựa hấp dẫn.

Thay vì sống trong thế giới thật, người ta bị ám ảnh bởi thế giới ảo.  Không có hình tượng nào thể hiện điều này rõ hơn hình ảnh một bà mẹ trẻ vừa cho con bú vừa lướt web.  Việc post ảnh đứa bé sơ sinh lên mạng trở nên quan trọng hơn việc ngắm nhìn nó bú mẹ và cảm thấy được kết nối với vũ trụ.

Trong tiểu thuyết The Circle, tác giả Dave Eggers vẽ ra một xã hội mà mọi chi tiết, dù nhỏ nhất, của cuộc sống con người đều được chia sẻ trên mạng, và mọi người phấn đấu để trở thành các công dân mạng tích cực nhất.

Họ thức cả đêm để like, bình luận, post, tweet, càng hăng hái thì càng được nhiều điểm, nhiều “bạn”, nhiều lời khen.  Thực tế không quá xa xôi với câu chuyện viễn tưởng này.

Đứng trước bức Mona Lisa ở Bảo tàng Louvre, Paris, tất cả du khách đều nhìn kiệt tác này qua màn hình điện thoại của mình.  Dường như họ chỉ có thể trải nghiệm thế giới thông qua một lớp màng điện tử.  Cái gì không được ghi vào bộ nhớ điện thoại, cái đó không tồn tại.

Người ta đánh đổi mọi riêng tư thầm kín để chạy theo một quá trình tự trình diễn vô tận, không có thời điểm hạ màn, với mục tiêu tạo tối đa sự chú ý của người khác.

Sự chú ý là ôxy, và mỗi cái post là một cố gắng để người ta ngoi lên mặt nước chốc lát, để rồi lại bị làn sóng mới của newsfeed tràn qua nhấn chìm.  Mỗi lần ngoi lên là một lần chống lại cảm giác bị bỏ rơi, bị nằm ngoài cuộc.

Ý nghĩa và sự thành công của một ngày nghỉ, của một chuyến đi, rộng hơn là của cả cuộc đời, được đo bởi số lượng like.

Đã tới lúc chúng ta cần tách ra khỏi đám đông, khước từ chuyên chế của nó.  Người ta chỉ có thể lắng nghe tiếng nói bên trong mình nếu bỏ được ra ngoài sự ồn ào xung quanh.

Chúng ta cần đứng riêng để tìm ra mình, để bảo vệ tư duy độc lập và nuôi dưỡng ý thức trách nhiệm.  Triết gia Soren Kierkegaard coi đám đông là tập hợp những người lẩn tránh sự nhọc nhằn của quá trình phát triển bản thân.  Ma lực của đám đông đã được nhắc tới từ rất sớm.

“Không đi theo đám đông để làm điều xấu” là một câu trong Kinh Thánh.  Không chỉ đơn giản là “không làm điều xấu”, mà cụ thể là “không đi theo đám đông để làm điều xấu.”  Trong một loạt thí nghiệm nổi tiếng của Solomon Asch cách đây 60 năm, người tham gia thí nghiệm ngồi cùng với một số người khác (thực chất là những người đồng mưu với Asch).  Mọi người trong nhóm được yêu cầu so sánh độ dài của một số đường thẳng – một bài tập cho trẻ con.

Tuy nhiên, nếu những người đồng mưu nhất loạt cùng chọn một câu trả lời rõ ràng là sai thì tới 30% trường hợp người tham gia thí nghiệm sẽ từ bỏ đánh giá cá nhân của mình để vào hùa với đám đông.

Trạng thái một mình là cần thiết để phát triển bản sắc và nuôi dưỡng sự sáng tạo.

Ralph Waldo Emerson, nhà thơ lớn của Mỹ thế kỷ 19, viết: “Người gây cảm hứng và dẫn đường cần tách khỏi những người khác, để không phải sống, thở, đọc và viết hằng ngày dưới gông cùm của những ý kiến của họ.”

Một mình không có nghĩa là phải tách khỏi người khác một cách vật lý.  Một mình là một quan điểm sống, một trạng thái tinh thần độc lập, nó không được đo bởi khoảng cách vật lý giữa một cá nhân và những người xung quanh.

Các ẩn sĩ hiện đại không cần thiết phải lên núi.  Họ vẫn ở trong xã hội, yên lặng, quan sát và tìm hiểu thế giới.  Họ tự do trước các con sóng của đám đông để có thể quan tâm tới cộng đồng một cách sâu sắc hơn, đóng góp cho cộng đồng một cách hiểu biết hơn.  Vẻ đẹp của người đứng một mình là vẻ đẹp tự tại, với một niềm vui tự thân.  Một niềm vui mà như nhà tu hành David Steindl-Rast diễn tả, không phụ thuộc vào những điều đang xảy ra.

Nguồn:  Tuổi trẻ cuối tuần

nguồn: langthangchieutim

FORMOSA HÃY LỰA CHỌN ĐI!

FORMOSA HÃY LỰA CHỌN ĐI!

25/04/2016

Tạ Phong Tần

ChuXuanPham_Formosa

 

 

 

 

2 Votes

 

Báo Tuổi Trẻ ngày 25/4/2016 đăng phát biểu của ông Chu Xuân Phàm – Trưởng văn phòng Formosa tại Hà Nội trả lời phóng viên Tuổi Trẻ vào sáng 25/4/2016 về vụ cá chết hàng loạt bờ biển miền Trung Việt Nam: “Muốn bắt cá, bắt tôm hay nhà máy, cứ chọn đi! Nếu chọn cả hai thì làm thủ tướng cũng không giải quyết được…”.

Trước hết, theo lời phát biểu (xem nguyên văn trên báo Tuổi Trẻ và clip) đại diện Formosa đã chính thức thừa nhận việc xả thải của Formosa làm ảnh hưởng xấu đến môi trường biển Việt Nam.

Ai cũng biết khi thằng cướp vào nhà khổ chủ, hắn dí dao (hoặc súng) vào đầu họ và quát: “Muốn sống thì đưa tiền (vàng, kim cương) đây. Một là đưa tiền, hai là cái mạng của mày, mày chọn cái nào. Nhanh lên!”. Phát ngôn của ông Chu Xuân Phàm giống y như việc tên cướp nói với nạn nhân của nó vậy, nhưng còn tệ hơn ở chổ với tên cướp nếu chọn một điều kiện hắn đưa ra thì điều kiện còn lại có thể được đảm bảo vẹn toàn, với Formosa thì chọn điều kiện nào người dân cũng mất cả hai. Bởi lẽ, nếu chọn cá biển, tức môi trường sống, thì cái nhà máy của Formosa vẫn cứ nằm chình ình đó nhờ sự chống lưng của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam (có phép) tiếp tục gây ô nhiễm môi trường như tất cả những nhà máy của Trung Quốc khác trên toàn cõi Việt Nam; nếu chọn nhà máy thép thì trước mắt là mất biển, mà nhà máy thì vẫn là của Formosa chớ có phải của người dân Việt Nam đâu, ai được lợi chớ dân chẳng được cái gì. Coi như đằng nào dân cũng thua trắng tay trên sân nhà của mình.

Điều đáng nói kế tiếp là phát ngôn của đại diện Formosa hết sức ngang ngược, vào nhà người khác rồi đặt điều kiện bảo chủ nhà “chọn”, coi như “căn nhà” đã bị “đánh chiếm toàn bộ”, kẻ lạ đã làm chủ hoàn toàn nên mới có quyền ra lệnh giống tên cướp ở câu chuyện trên.

Còn nói rằng do nước xả là nước ngọt xả ra biển là nước mặn nên cá chết là rất vô lý, chẳng phải khu vực miền Tây Nam bộ mùa nắng nước mặn tràn vào sông làm cho sông trong đất liền trở thành nước lợ, mùa mưa nước sông lại tràn nước ngọt ra biển, nước trong sông ngọt còn nước ngoài cửa biển thì lợ, nhưng có thấy con tôm con cá nào chết hàng loạt do nước biển bị thay đổi độ mặn đâu?

Ngoài cá còn có các sinh vật biển đang sống ở đó, môi trường du lịch nữa, chớ đâu phải thí cho một số tiền để ngư dân chuyển nghề là xong? Người dân Việt Nam là chủ đất nước của mình, chớ không phải là những kẻ ăn xin.

Điều đáng lên án là cá chết trắng bờ biển như vậy mà cơ quan chức năng của phía Việt Nam không hề đem cá xét nghiệm để tìm ra nguyên nhân chết vì cái gì, hóa chất độc lại là hóa chết gì, mà cứ ngồi đó “suy luận”, thiệt là không giống ai.

Còn đau hơn khi báo Tuổi Trẻ cùng ngày tiếp tục thông tin “Ngày 25/4/2016, bà Nguyễn Thị Ngân, giám đốc Bệnh viện đa khoa khu vực Bắc Quảng Bình xác nhận bệnh viện này vừa tiếp nhận một bệnh nhân tên Lê Văn Ngẩy (46 tuổi) quê tại Khánh Hòa và khi đến bệnh viện này thì bệnh nhân Ngẩy đã tử vong”. “Theo đó, bệnh nhân Ngẩy được đưa vào bệnh viện này vào khoảng 18g45 ngày 24-4. Khi vào bệnh viện, bệnh nhân đã tắt thở.

Cùng vào với bệnh nhân có một số người làm cùng với anh Ngẩy tại công ty Cổ phần xây dựng và Cung ứng lao động quốc tế (Nibelc) đóng tại huyện Quảng Trạch, Quảng Bình.

Những công nhân này cho biết anh Ngẩy là thợ lặn. Hai ngày trước đó anh Ngẩy có tham gia lặn tại cảng Sơn Dương, Formosa (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) để xây dựng đê chắn sóng cho công trình này.

Khi về, anh Ngẩy thấy tức ngực, khó thở nên được đưa vào bệnh viện, sau đó thì tử vong”.

Một đồng nghiệp khác của nạn nhân Lê Văn Ngẩy là ông Nguyễn Thiếu (36 tuổi, quê Khánh Hòa), “đang là thợ lặn biển phục vụ việc xây dựng đê chắn sóng cho cảng nước sâu Sơn Dương (thuộc dự án Formosa, Hà Tĩnh)”.

Trao đổi qua điện thoại, ông Thiếu cho biết mình hiện đang làm thợ lặn thực hiện việc san lấp mặt bằng dưới đáy biển, hỗ trợ việc đổ bê tông. Kể từ ngày phát hiện cá biển chết hàng loạt, ông cùng nhiều người trong tổ lặn đều cảm thấy có dấu hiệu khác thường về sức khỏe sau mỗi ca làm việc.

“Mỗi lần lặn xong, lên bờ là cảm thấy mệt mỏi khác thường lắm. Da thì vàng hẳn lên và thấy choáng váng, tức ngực. Cứ như có thứ gì đó chạy rùng rùng trong người vậy” – ông Thiếu kể.

Báo điện tử Vietnamnet ngày 24/5/2016 cho biết thêm ngoài nạn nhân Lê Văn Ngẩy đã tử cong còn có năm đồng nghiệp khác của ông Ngẩy phải nhập viện vì tình trạng sức khỏe bất thường.

Trước đó đã có thông tin hàng loạt người ăn cá ngộ độc phải nhập viện cấp cứu, tại sao không lấy bệnh phẩm của người bệnh xét nghiệm? Bộ Y tế, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn ở đâu mà im ru bà rù vậy? Pháp y đâu sao không thấy lên tiếng? Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đâu? Hay Bộ trưởng đang bận ngửi lăng quăng? Bận hô hào dân chúng cứ ăn uống thoải mái vì “thực phẩm đều an toàn”? Hay Hội đồng giám định pháp y còn bận thưởng thức “Hậu duệ Mặt Trời” ở xứ nào, còn “hậu duệ” xứ mình mình thì… kệ mẹ nó? Hay Nguyễn Xuân Phúc còn bận “chỉ đạo” đàn áp người dân phản đối dự án của tập đoàn FLC sau khi cướp biển Thanh Hóa xong giờ kéo quân ra Quảng Bình?

Làm Thủ tướng một quốc gia mà hàng tuần sau khi xảy ra sự cố mới nói được một câu “giao UBND các tỉnh liên quan rà soát, thống kê mức độ thiệt hại và đề xuất biện pháp hỗ trợ ngư dân” thì thật là vô trách nhiệm, bất cứ ai cũng làm Thủ tướng được hết, không cần phải là đảng viên ưu tú của đảng cộng sản.

Bây giờ, cứ mở miệng ra là đại diện Formosa một điều “nhà nước”, hai điều “nhà nước”, đủ biết Formosa đang tự đắc cười ngạo nghễ có “nhà nước” chống lưng như thế nào. Nhưng Formosa quên rằng không phải cứ “nhà nước” thì muốn làm gì thì làm, “nhà nước” làm sai thì phải sửa, phải đóng cửa nhà máy, chớ không được đem con ngáo ộp “nhà nước” ra dọa dân. Cứ vào nước khác phi cộng sản mà làm kiểu đó thử xem dân nước đó họ có để cho yên không, nhà nước của quốc gia đó mà không theo ý dân thì chỉ còn đường chạy lên trời mà ở. Chính phủ của họ cũng nhanh chóng vào cuộc ngay chớ không phải như nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam cứ ấm a ấm ớ chạy lòng vòng bên ngoài, cho cấp dưới tuyên bố vô tội vạ để kéo dài thời gian. Thái độ phản ứng chậm chạp, làm lấy có của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam khiến cho người ta bắt buộc phải đặt câu hỏi: Đất nước, môi trường sống, người dân quan trọng hơn hay nhà máy Formosa quan trọng hơn? Có gì khuất tất trong vấn đề này? Đằng sau cái giấy phép Formosa là bao nhiêu phầm trăm chia chác nên giờ phải “há miệng mắc quai”, “sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi”?

Hôm nay Formosa Vũng Áng tồn tại ngạo nghễ, ngày mai, ngày kia, tương lai Việt Nam sẽ còn rất nhiều Formosa khác “học tập theo tấm gương” mà cười ngạo nghễ trên đầu dân tộc Việt Nam.

Con đường duy nhất mà người dân Việt Nam phải chọn là tự cứu lấy mình, không phải để tên kẻ cướp vào nhà mình bắt mình phải chọn lựa, mà người dân Việt Nam phải bắt buộc Formosa chọn lựa: Một là sản xuất đảm bảo không ô nhiễm môi trường, Hai là nhổ cái nhà máy đó xéo ngay về cố quốc. Một Chính phủ không dám bảo vệ dân của mình trước thách thức của Formosa thì có xứng đáng vỗ ngực là “đại diện cho dân” nữa hay không? Người dân Việt Nam có quyền đòi hỏi một Chính phủ mà không phục vụ cho dân thì Chính phủ đó hãy cút đi.

Tạ Phong Tần

Khi Vũng Áng trở thành vũng lầy của Đảng

Khi Vũng Áng trở thành vũng lầy của Đảng

“Ông Phàm đã làm bể bí mật của Đảng vì tức tối cá nhân: tại sao cho Formosa khai thác trên vùng biển Vũng Áng mà lại cấm xả thải? Vừa muốn lấy tiền cho thuê biển lại vừa muốn có cá là…sao?  Tội nghiệp ông Phàm, tập đoàn của ông làm việc có trả tiền thuê Vũng Áng cho dân đâu mà lại bảo là họ muốn cả hai? Cái phần tiền thuê đã chạy thẳng vào túi của Đảng còn phần cá của nhân dân thì các ông không được phép đụng vào là đúng rồi còn ca cẩm gì nữa”.

____

Blog RFA

Cánh Cò

25-4-2016

Vũng Áng là cái tên từng đâm thẳng vào tim người dân Hà Tĩnh từ lâu chứ không phải mới đây, khi vụ cá chết hàng loạt bắt đầu từ ngày 6 tháng 4 tại xã Kỳ Lợi sau đó lan sang các xã Kỳ Hà, Kỳ Ninh gây phẫn nộ cho người dân khắp nước. Vũng Áng hiền lành nay chợt bùng lên như một ngọn lửa, không phải thứ lửa được tô vẽ bằng chiếc áo cách mạng, mà ngọn lửa âm ỉ bấy lâu nay gặp chất dẫn cháy đã rực lên thứ ánh sáng lương tâm, thức tỉnh người dân cả nước vốn âm thầm trước mọi nguy biến của dân tộc. Ngọn lửa Vũng Áng không bao lâu nữa sẽ đốt rụi mọi u mê mà Đảng Cộng sản Việt Nam đang cố lấp liếm che giấu những gì mà họ đã và đang làm cho người dân.

Hơn 250 cây số chiều dài dọc bờ biển 4 tỉnh duyên hải Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế đã chứng kiến hàng chục ngàn tấn cá chết tấp vào bờ. Trong khi báo chí, người dân hớt hải đi tìm nguyên nhân cũng như loan tải những thông tin cần thiết về nhà máy Formosa, nơi bị cho là xả chất thải kịch độc làm môi sinh bị hủy diệt thì Đảng Cộng sản Việt Nam được dẫn đầu bởi ông Nguyễn Phú Trọng cho thấy bất cần sinh mạng cũng như cuộc sống người dân lên tới đỉnh cao nhất của mọi đỉnh cao.

Cá chết hôm nay thì mai đây có thể sẽ được phục hồi bằng hàng tỷ con cá khác theo quy luật sinh tồn của tạo hóa, nhưng cái quan trọng trong biến cố này là hàng loạt các vấn đề như cây kim lâu ngày trong bọc lòi ra cắm sâu vào tay người dân, nhức nhối âm ỉ trước một chính quyền vô trách nhiệm, táng tận lương tâm từ lời nói tới việc làm của bọn tự xưng là đày tớ.

Ngày 22 tháng 4, người đày tớ số má nhất là Nguyễn Phú Trọng vẫn lầm lì như mọi lần, dắt một đoàn đày tớ cộm cán tới thăm và làm việc tại Hà Tĩnh, Vũng Áng nơi đang xảy ra vụ cá chết hàng loạt bắt đầu từ ngày 6 tháng 4 tức là 16 ngày trước. Ông Trọng tới không phải để tìm hiểu vụ cá chết mà để kiểm tra mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, khu dân cư mẫu nông thôn mới và tiến độ dự án Formosa.

Báo chí tường trình vụ này mà không có lấy một lời quan tâm của ông Trọng về diễn biến cá đang chết đầy các bờ biển được xem do nhà máy Vũng Áng xả chất thải vào biển gây ra sự cố. Ông Trọng cùng với phái đoàn Đảng của ông ngày hôm sau tiếp tục quan tâm tới một ông tổ cộng sản khác là Hà Huy Tập để ăn mừng ngày sinh thứ 110 của ông cố Tổng này.

Một lần nữa, các ông Nguyễn Phú Trọng, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Văn An, Nguyễn Sinh Hùng ngồi ngây dại trong hội trường, mắt mở to nhìn băng trôn đỏ thắm khắp phòng mà không một lời nhắc nhở cái màu đỏ phủ khắp mọi nơi tại Hà Tĩnh, Vũng Áng cùng các tỉnh miền trung khác. Màu đỏ ấy không phải là màu cờ cộng sản mà là máu cùng nước mắt nhân dân.

Người tại chỗ không thể sinh sống bằng nghể cá còn kẻ ở nơi khác thì nhìn vào đó để thấy rằng tương lai u ám của một Việt Nam bị lệ thuộc quá sâu nặng vào đồng tiền, vào yếu tố nước ngoài do Đảng đang áp đặt lên đất nước mà hệ lụy đầu tiên là mất chủ quyền không cần che dấu.

Những ai bi quan cho rằng nước đã mất vào tay ngoại bang nay có dịp chứng minh lập luận của họ một cách thuyết phục. Chủ quyền quốc gia đã rơi khỏi bàn tay chính phủ, nơi dại diện cho dân chúng, và điều này được báo chí công khai tường thuật không cần lạng lách. Cụ thể nhất là ông Phạm Khánh Ly, vụ phó Vụ Nuôi trồng thủy sản thuộc Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn nói với báo chí rằng phái đoàn của ông không được phép vào Vũng Áng để điều tra vì Khu công nghiệp Vũng Áng có yếu tố nước ngoài nên muốn vào phải có giấy phép của trung ương.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã công khai bảo kê cho tập đoàn Formosa bằng các rào cản hành chánh núp dưới hình thức bảo vệ đầu tư nước ngoài thay vì bảo vệ quyền lợi và an ninh quốc gia.

Bên trong dãy hàng rào kiên cố ấy Formosa còn được bảo vệ bởi một thứ quyền lực kiên cố hơn đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã cho phép Formosa làm nhiều điều vượt khỏi mọi quy tắc thông thường của một đất nước có chủ quyền bởi vì Đảng tự cho mình là đất nước. Cầm tay Formosa chỉ cho tập đoàn này cách vượt thoát mọi con mắt người dân bằng hàng rào sắt chưa đủ, Đảng đã trói tay luôn những cán bộ ăn lương nhà nước thực hành nhiệm vụ của mình vì một lý do rất đơn giản: Formosa trả lương cho Đảng để bảo vệ nó.

Với 97 tỷ cho phép khai thác trong vòng 70 năm, Formosa bấm chặt cặp môi của Đảng bằng đồng tiền rẻ mạt nhưng Đàng vẫn cúc cung tận tụy bảo vệ nó thì người dân có quyền nghĩ đến một đáp án khác: Phải chăng ông Trọng đã lĩnh cả gói lương hưu do Formosa cấp để đích thân tới Vũng Áng chỉ đạo cho người dân tại đây không nên lo lắng về cái họa Formosa?

Vũng Áng, sau gần một tháng tang thương, sáng hôm nay màu trởi trở nên trong veo đến kỳ lạ. Trong veo vì tấm màn bí ẩn xả chất độc vào biển nay đã được vén lên bởi chính người trong cuộc. Nhân vật trong cuộc ấy có lẽ không hiểu lắm cung cách của Đảng Cộng sản Việt Nam làm từ gần trăm năm qua đó là không nói tới, không bình luận và không xác nhận hay phủ nhận việc của nó làm.

Ông Chu Xuân Phàm – Giám đốc đối ngoại Công ty Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh đã phạm sai lầm nghiêm trọng vì qua mặt “đối tác” của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Trả lời kênh truyền hình VTC News rằng Hà Tĩnh “không thể được cả hai nên phải lựa chọn, hoặc là nhà máy thép, hoặc là cá tôm”.

Chỉ bằng ấy chữ, ông Chu Xuân Phàm đã làm rơi chiếc mặt nạ dày cộm của Đảng Cộng sản Việt Nam, qua đó người dân thấy rằng Formosa là nơi xả chất thải hủy diệt môi sinh biển là có thật, và cái có thật thứ hai là Đảng đang âm thầm ra sức bao biện cho sự thật này bằng các công bố lững lờ sai trái.

Chỉ một ngày trước khi Chu Xuân Phàm lỡ miệng, ông Võ Tuấn Nhân, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cung cấp thông tin liên quan đến đường ống xả thải nhằm đánh tan nghi vấn là tập đoàn này lắp đặt đường ống xả bất hợp pháp. Ông Tuấn xác nhận “Đường ống xả thải của phía Formosa đi ra biển là được các Bộ ngành cấp phép, chứ không phải là đường ống được lắp đặt lén lút. Trước khi xả thải ra biển, phía Formosa đều phải tuân thủ các quy trình xử lý chất thải một cách chặt chẽ”

Cùng lúc, dàn đồng ca của các tỉnh có cá chết được Đảng cầm cây gậy chỉ huy lên tiếng với lập luận rằng: đã bước đầu xác định cá chết không phải là do dịch bệnh, cũng không phải do nguồn nước bị ô nhiễm. Đến nay tình trạng cá chết đã giảm. Các thông số về môi trường phân tích như nhiệt độ, pH, độ mặn… đều nằm trong giới hạn cho phép.

Ông Phàm đã làm bể bí mật của Đảng vì tức tối cá nhân: tại sao cho Formosa khai thác trên vùng biển Vũng Áng mà lại cấm xả thải? Vừa muốn lấy tiền cho thuê biển lại vừa muốn có cá là…sao?

Tội nghiệp ông Phàm, tập đoàn của ông làm việc có trả tiền thuê Vũng Áng cho dân đâu mà lại bảo là họ muốn cả hai? Cái phần tiền thuê đã chạy thẳng vào túi của Đảng còn phần cá của nhân dân thì các ông không được phép đụng vào là đúng rồi còn ca cẩm gì nữa.

Đóng bài viết này lại, lần đầu tiên không còn buồn như hàng trăm bài viết trước đây. Ít ra dân tôi cũng he hé được đôi mắt của họ một chút để thấy rằng đất nước hôm nay không còn của họ nữa, vậy thì việc gì lại nghe theo cái Đảng đã dâng hiến chủ quyền quốc gia cho ngoại bang, nhất là trong cái cảnh mà Vũng Áng đang trở thành vũng lầy của Đảng?