Đất nước.

 Đất nước.

canhco

RFA

Nhân bài thơ của cô giáo Lam ở Hà Tỉnh “Đất nước mình ngộ quá phải không anh?” đang làm xúc động cộng đồng mạng, xin mạn phép làm bài thơ nhỏ, tiếp nối nguồn cảm hứng của cô.

Đất nước.

Đất nước mình không những “ngộ” đâu em

Mà phải nói là rất “ngầu” mới đúng

Từ Bắc vô Nam dân không ai cầm súng

Nhưng giết đồng bào là số một em ơi

Người ở quê tưới rau bằng thuốc lạ

Kẻ thị thành dùng hóa chất nuôi heo

Miếng thịt đỏ để mười ngày không thối

Và dân ta cứ thoải mái rao mời

Thế cho nên Vũng Áng cá chết tươi

Thì Sài Gòn chạy ra mua bằng hết

Những chiếc xe to chất đầy cá chết

Vào trong Nam làm nước mắm cho dân

Đất nước mình xem ra rất tương thân

Nhưng chuyện ấy chỉ xảy ra trong đảng

Cán bộ chở che nhau vì ăn chung một ảng

Bất kể nhân dân trắng mắt ngồi chờ

Cho tới khi dân nổi dậy bất ngờ

Thì đảng mới giả vờ…xin lỗi

Em tin đi, dân sẽ cười tha tội

Bởi đất nước mình là một lũ mau quên

Đất nước mình lây nhiễm bệnh mau quên

Nên Vũng Áng cũng chỉ là chuyện nhỏ

Hãy nhìn kỹ cả nước mình bỏ ngỏ

Tàu hay Tây bất kể, tự nhiên vào.

Đất nước mình ngầu lắm mới tự hào

Mẹ liệt sĩ ngắm tượng đài quên đói

Trẻ vùng cao ở truồng chân quên mỏi

Chạy tới trường cho kịp trống điểm danh

Đất nước mình đầy một lũ lưu manh

Lấy tiếng loa phường thay cho súng ống

Dân cứ mãi tin vào ngày mai thơ mộng

Chẳng còn bao xa nên tiếp tục chịu đòn

Đất nước mình có một lũ luồn trôn

Quỳ mọp trước cả tập đoàn quỷ đỏ

Đất nước mình cứ mỗi ngày mỗi nhỏ

Vì đất đai bị chia chát trăm lần.

Đất nước mình vậy đó, cứ lâng lâng

Như say thuốc chạy lòng vòng. . . mãi mãi.

Cánh Cò

MỘT BUỔI NÓI CHUYỆN LÝ THÚ VỀ CHÚA THÁNH LINH CỦA CHA AN TÔN NGUYỄN NGỌC SƠN – Phần 2.

MỘT BUỔI NÓI CHUYỆN LÝ THÚ VỀ CHÚA THÁNH LINH CỦA CHA AN TÔN NGUYỄN NGỌC SƠN – Phần 2.

Phan Sinh Trần

Ở trong nước thì có lẽ Tín hữu đều biết đến Cha An Tôn Nguyễn ngọc Sơn, tuy nhiên ở hải ngoại có nhiều người chưa được biết về Cha.

Ngài tốt nghiệp Giáo Hoàng Học Viện Thánh Pio X Đà Lạt, từng làm thư ký thường trực của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong mười năm (1999-2009). Nguyên giám đốc Caritas Việt Nam nhiệm kỳ 2008-2010. Nguyên Giảng viên các đại học Sư Phạm kỹ thuật, Đại học Tổng hợp, Kiến trúc tại Sài Gòn. Hiện nay Cha là cố vấn của Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình, trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Ngài cũng là phó chủ tịch Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi thành phố Sài Gòn. Cùng với các sinh hoạt bác ái từ thiện, hiện Cha đang giảng dạy về Ki Tô học, tại các chủng viện và dòng tu, học viện.

Kiến thức thực hành uyên bác của Ngài luôn đắc dụng cho Đạo và Đời nhưng điều làm cho tôi phải suy nghĩ là đức Tin sống động hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa và Mẹ Maria của Ngài làm cho Ngài trở nên một nhân chứng sống động của Lòng Thương Xót Chúa, trở thành một Tông Đồ của Chúa Giê Su, có thể đem Tin Mừng giải thoát cứu độ cho các tội nhân, nạn nhân của Ma Quỉ theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.

Dịp Tháng Ba 2016, tôi đã có dịp lần đầu tiên được gặp mặt Cha, chúng tôi đã có thiện cảm về dáng đi nhanh nhẹn của Cha với nụ cười tươi tắn trẻ trung trên môi, Ngài có sức sống, mang đầy ắp tinh thần hy vọng, tỏ ra qua tác phong hăng hái của một Linh Mục trẻ, giống như những ngày tháng vừa mới lên đường rao giảng. Đến khi tìm hiểu tiểu sử của Cha, được biết Ngài đã gần bẩy mươi tuổi thì sự thích thú lại càng tăng lên nhiều, tôi nghiệm ra được điều này, “sống trong Chúa thì tinh thần con người sẽ trẻ mãi ra thay vì già cỗi đi theo gánh nặng của ngày tháng”.

Chúng tôi xin được trích đăng lại một bài làm chứng đặc sắc của Cha cách đây mười hai năm :

(nguồn http://www.chungnhanduckito.net/doithoai/dacsanCNDK.02.htm)

RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO NGƯỜI ĐÃ KHUẤT

Nói đến truyền giáo, chúng ta thường nghĩ ngay đến những người còn sống chưa được biết Đức Kitô và đến sứ mạng loan báo Tin Mừng cho họ. Ít có ai nghĩ đến việc rao giảng Tin Mừng cho người đã khuất. Nhưng Tân Ước dạy rằng: “Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi, Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương, hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh. Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm, tức là những người xưa đã không vâng phục Thiên Chúa, trong thời Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi…” (1Pr 3,18-20). Năm Thánh Truyền giáo và tháng tưởng nhớ các linh hồn như mời gọi chúng ta thử suy nghĩ xem liệu chúng ta có thể rao giảng Tin Mừng cho những người đã khuất hay không?
Tôi xin kể lại một vài sự kiện đã gặp trong cuộc sống thường ngày để chúng ta cùng suy nghĩ về vấn đề này.

Câu chuyện mới nhất xảy ra vào ngày 5-9-2004 vừa qua. Sáng Chúa nhật, như thường lệ, sau khi dâng Thánh lễ tại nhà thờ Huyện Sĩ, một phụ nữ gặp tôi ngay trước cửa Thánh đường và xin tôi chữa cho một người bệnh sẽ được đưa từ Phan Rang vào TP. Hồ Chí Minh. Tôi đồng ý và nói sẵn sàng cầu nguyện cho bệnh nhân. Buổi chiều, vừa về đến nhà sau thánh lễ tại Nhà thờ Bàn Cờ (Q. 3), tôi gặp lại người phụ nữ ban sáng. Chị báo tin gia đình người bệnh đang nóng lòng chờ và đang cầu nguyện tại Đài Thánh Giuse bên nhà thờ Huyện Sĩ.

Vừa lên đến phòng, tôi đã thấy một đoàn rước, người cầm nến, kẻ cầm hoa, người khác cầm những lọ nước thánh… vừa hát thánh ca vừa đẩy một cô gái vào phòng. Trên cổ cô đang mang nào là dây ảnh Áo Đức Bà, tràng chuỗi Mân Côi, kèm thêm một tượng Đức Mẹ Lộ Đức có đựng nước thánh. Nhìn thấy họ, thoạt tiên, tôi cảm thấy buồn cười và quên đi những dự tính ban đầu: tôi định mặc áo dòng, đeo dây các phép (stola) và nhân Danh Chúa để trừ tà theo yêu cầu của gia đình bệnh nhân. Ông chú của bệnh nhân, cũng là người lái xe, kể với tôi:

– Con nhỏ này bị ma ám, nên la hét, vùng vẫy trên suốt quãng đường hơn 300 cây số về đến đây. Chúng con đã phải vất vả lắm mới đưa được nó lên đây.
Cô gái nhìn tôi, nét mặt hiền từ, lộ vẻ mệt mỏi.
– Con tên gì, tôi hỏi?
– Con là Maria Trần Thuỵ Phương Quỳnh, 26 tuổi, đã lập gia đình và có 1 cháu gái.
Người mẹ thêm vào:
– Từ hơn 3 tháng nay, cháu nó không ăn ngủ gì được. Chỉ cần một chút thịt, cá là nôn thốc nôn tháo. Ép lắm nó mới có thể ăn được một vài muỗng cơm trắng hay chút sữa. Lúc nào cũng kêu nhức đầu kinh khủng. Xin cha cứu con của con với!
Tôi bắt đầu cầu nguyện và xin toàn thể gia đình cùng hợp ý với tôi. Cô gái bắt đầu quằn quại, thở dốc, mắt nhắm nghiền. Cổ cứ rướn lên và nấc từng cơn như bị nghẹt thở. Thỉnh thoảng mở mắt lén nhìn tôi với ánh mắt sợ hãi, nghi ngờ. Tôi thầm xin Chúa thương cứu cô. Cô gái lại mở mắt nhìn tôi lâu hơn, ánh mắt bớt nghi ngại. Tôi nói thầm bằng ý nghĩ của mình:
– Con ơi, cha rất thương con. Cha muốn cứu con. Hãy nói cho cha biết về con. Cô gái mở mắt nhìn thẳng vào tôi, người vẫn quằn quại, thở dốc. Tôi hỏi:
– Con là ai?
– Con là Trần Đình Sang, 63 tuổi. Con chết ngày 13-12-1973.
– Con làm nghề gì và chết như thế nào?
– Con đi lính, làm trung đội trưởng, đánh trận và chết trên mảnh đất mà gia đình cô Quỳnh đang thuê để làm các bếp gaz. Con thương nó nên nhập vào nó.
– Nhưng con là người đã chết, còn Quỳnh là người đang sống, lại có chồng, có con. Khi con nhập vào cô ấy là con gây hoạ cho mình và làm khổ cho người. Càng làm khổ Quỳnh con càng mang tội và càng không thể siêu thoát. Cha rất thương con. Thứ Hai nào trong tuần, cha cũng dâng lễ cầu cho các linh hồn mồ côi. Cha xin giới thiệu với con Chúa Giêsu Kitô. Chỉ có Người mới cứu con thoát khỏi trầm luân và mang lại cho con hạnh phúc đời đời. Cha đã từng gặp những trường hợp như con và cha thấy rằng những ai tin vào Chúa Kitô đều được Người cứu thoát.
Người bệnh lắng nghe tôi nói về Đức Giêsu Kitô. Sau đó, tôi làm phép Xức dầu Bệnh nhân cho cô gái.
Theo lời kể của gia đình cô Quỳnh, họ là bổn đạo gốc, ở ngay bên cạnh nhà thờ Mẫu Tâm, hạt Xóm Chiếu. Cô gái này đã nhuốm bệnh được một năm. Gia đình đã đưa cô đi nhiều bác sĩ và nằm bệnh viện nhưng cũng không tìm ra bệnh. Có người mách bảo bệnh này do hồn ma ám ảnh nên gia đình đưa cô vào chùa Tân Long (gần nhà thờ Mẫu Tâm) để cho các vị sư cầu siêu trong 2 tuần (tuần 9 và tuần 7). Bệnh không thuyên giảm nên gia đình quyết định đưa cô ra Phan Rang theo sự mách bảo của người sui gia để gặp một thầy pháp, rồi đến cầu cứu với vị trụ trì ở am Bà Chung suốt 17 ngày, sau đó mới đến thầy pháp 75 tuổi, người Chăm, ở Phan Rang, Ninh Thuận.
Ông này đã bày cỗ bàn trong một cánh rừng vào giữa trưa, ếm bùa và đeo đầy bùa vào người cô Quỳnh, cả người chồng và đứa con. Chưa hết, thầy pháp lại vào TP.HCM để cúng tại căn nhà cô Quỳnh đang thuê. Sau đó, cả gia đình ra lại Phan Rang. Trưa thứ Bảy, ông lập bàn cúng, chém đứt đôi cây chuối và nói rằng tà ma đã bị chém đầu rồi. Tiếng la hét của người bệnh vang động núi rừng, nhưng ông Sang vẫn nói, qua miệng cô Quỳnh là ông không thể ra được, nên buổi chiều gia đình đã bỏ về Sài Gòn. Trên đường về, cô Quỳnh lại quậy phá dữ hơn nên mẹ cô đã đưa cô trở lại nhà của thầy pháp để làm phép thêm một lần nữa vào đêm hôm đó. Suốt đêm, cô Quỳnh quậy phá, la hét nên người chú đã gọi điện cho vợ mình ở Sài Gòn để xin tôi giúp đỡ vì không còn tin vào những bùa phép nữa.
– Sáng thứ Ba, ngày 7-9-2004, ngay từ lúc 6g00, cả gia đình lại kéo đến để xin tôi cầu nguyện. Sau vài phút thinh lặng, cô gái bắt đầu thở dốc và ông Sang lại hiện lên. Ông xin tôi đến làm phép nhà vì chỗ ông đang ở có nhiều linh hồn tụ về. Chỗ này trước đây là trận địa nên có nhiều người chết ở đó. Ông cho tôi biết từ 3 năm nay, gia đình cô Quỳnh thuê căn nhà này để kinh doanh. Các thợ làm công tại đây ăn nói tục tĩu, chửi thề luôn miệng nên ông muốn gia đình cô gái dọn đi nơi khác. Tôi giải thích cho ông một khi đã tin vào Chúa thì không cần ở cố định vào một nơi chốn nào. Ông hứa với tôi sẽ để yên cho cô gái và không quấy phá cô nữa. Sau khi cầu nguyện cho cô, tôi theo gia đình đến căn nhà ở số 46/5C Chu Văn An, Q. Bình Thạnh.

 MIENG BUA
Mỗi dây bùa đều có miếng chì cuốn tròn,trên ghi tên người đeo, có cuốn lá ngải bên trong

Căn nhà đầy những người thợ đang lắp ráp hàng trăm chiếc bếp gaz Rinai. Gia đình đưa tôi vào văn phòng làm việc. Tôi cầu nguyện cho cô gái. Cô lại bắt đầu thở dốc và ông Sang hiện lên và nói ông muốn ra khỏi cô gái nhưng không thể được. Tôi liền hỏi xem cô Quỳnh có đeo bùa gì không. Người nhà cho biết đã cất đi sợi dây bùa đeo ở cổ cô ngay từ sáng nay, nhưng khi tôi gặng hỏi thì người chị tháo ra thêm 5 sợi dây bùa ở 2 tay, 2 chân và bụng của bệnh nhân. Lúc này ông Sang cho biết ông cảm thấy dễ chịu hơn nhưng vẫn chưa thể xuất ra khỏi cô Quỳnh được. Ông nói với tôi: “Con đang ở lầu 3, tầng trên”. Tôi lên lầu và thấy ở trên cao có 3 hũ nhỏ, 3 bát nhang. Tôi rảy nước thánh cho tất cả các phòng. Trong khi làm phép, người chồng của cô Quỳnh, tên Tuấn, chỉ thỉnh thoảng đến ngó một chút, rồi lại bận bịu với việc buôn bán, giao hàng.

– Sáng thứ Tư, ngày 8-9-2004, lễ Sinh nhật Đức Maria. Ngay từ sớm, gia đình bệnh nhân lại đến và ông Sang hiện lên xin tôi cầu nguyện. Ông kể cho tôi mọi việc xảy ra nơi gia đình cô Quỳnh, khi họ đi cầu siêu, đến cầu cứu với các thầy pháp như thế nào và ông nói: “Tất cả những người đó không thể bắt được con, buộc con ra khỏi cô Quỳnh”. Tôi giải thích cho ông về công cuộc cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Đột ngột, ông xin phép và quỳ mọp xuống đất, gập đầu lạy trước bức ảnh Đức Giêsu khổ lớn treo trên tường nhiều lần và nói: “Lạy Chúa, con tin Chúa. Con tin Chúa Ba Ngôi. Xin Chúa tha tội cho con. Xin Chúa cứu thoát con”.
Cùng lúc đó, ông xin phép ẩn đi và cô Quỳnh hồi tỉnh, nét mặt cô tươi tỉnh trở lại. Nhưng chưa đầy 5 phút sau, ông lại nhập vào cô Quỳnh, nhăn mặt lắc đầu và nói: “Con còn nhiều vướng mắc nên không đi được”. Và ông cứ nài nỉ tôi nhớ cầu nguyện luôn cho ông. Tôi hứa coi ông là người thân và sẽ cầu nguyện hằng ngày cho tới khi ông được giải thoát. Lúc đó, ông mới đứng dậy, bắt tay từ giã và ẩn đi.
Buổi tối, khi về đến nhà, tôi nghe gia đình cô Quỳnh nói qua máy nhắn tin: gia đình cám ơn tôi vì tâm thần cô đã ổn định, ăn được thịt cá bình thường. Tuy nhiên, lúc 20g30, tôi lại nhận được điện thoại khẩn cấp:
– Cha ơi, xin cha cứu con Quỳnh, nó đang bị hành hạ khổ sở lắm.
Tôi rất ngạc nhiên vì vừa nghe lời nhắn chỉ trước đó vài phút. Người chị tên Nguyệt giải thích:
– Thằng Tuấn, chồng con Quỳnh, đâu có tin. Trưa nay, nó thử cho con Quỳnh ăn gan chó để xem có phải con Quỳnh bị bùa ngải hay không. Thế là ông Sang vật con Quỳnh rất dữ tợn. Thằng Tuấn vội đưa vợ lên ông thầy pháp ở Bình Dương, nhưng chữa không được; rồi đưa về Đức Mẹ Bình Triệu để cầu nguyện cũng không xong. Xin cha cứu gia đình chúng con.
Tôi nén giận trả lời:
– Như thế là gia đình chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Nếu gia đình muốn tôi cầu nguyện, xin đưa cả người chồng lên cùng với cô Quỳnh.
9g00 tối hôm đó, cả gia đình lại kéo đến. Mỗi người kể lại việc xảy ra. Ông Sang lại xuất hiện, chỉ thẳng vào mặt người chồng đang buồn bã với chiếc mũ đội trên đầu từ lúc vào đến giờ:
– Thằng Tuấn này, nó đâu có tin. Nó cho con Quỳnh ăn gan chó nên tôi hành hạ vợ nó cho nó biết mặt.
– Nhưng cô Quỳnh đâu có tội gì mà ông hành hạ người ta. Ai làm người nấy chịu, tôi nói lại.
– Cha biết không, bà mẹ con Quỳnh này cũng chẳng tin Chúa bao nhiêu. Có đạo mà đâu chịu đi lễ, đi nhà thờ. Còn ông chồng bà ta thì theo bè bạn uống rượu say xỉn, chơi bời…
Ông Sang lần lượt kể tội của những người đang hiện diện. Tôi an ủi họ:
– Tôi thật tình không biết những điều này. Tất cả chúng ta đều là những người bất toàn và tội lỗi. Có lẽ, Chúa ban cho ta dịp này để nhìn lại mình và thay đổi đời sống. Việc linh hồn ông Sang nhập vào cô Quỳnh, xét về một phương diện nào đó, là một ơn phúc cho gia đình để ăn năn trở lại và cảm nghiệm được tình thương của Chúa hơn. Đây cũng là một ân phúc cho ông Sang vì Chúa muốn cứu vớt ông.

Tôi đặt tay trên đầu cầu nguyện cho ông, cho cô Quỳnh. Sau đó, ông ẩn đi. Cô Quỳnh lại trở nên tươi tỉnh và âu yếm ôm hôn đứa con mình. Tôi nhận thấy khi ông Sang xuất hiện, đứa con gái 5 tuổi của cô Quỳnh đến cầm tay mẹ nó lôi kéo, nhưng cô Quỳnh lúc đó hoàn toàn lãnh đạm, coi như không có nó bên cạnh.

 DAY BUA
Các dây bùa trên người cô Quỳnh, chồng và em gái

Lúc này, anh Tuấn mới bỏ mũ ra. Tôi thấy đầu anh cạo trọc, anh hối hận và nói với gia đình rằng mình sẽ đi học giáo lý và theo đạo vì đã chứng kiến tận mắt quyền năng của Chúa nơi người vợ, khi cô Quỳnh lên gặp tôi. Dù quậy phá rất dữ tợn lúc ở nhà nhưng khi đến đây, cô lại là một người rất hiền lành. Còn ông Sang thì hiện lên nói chuyện rất lễ độ. Anh đã tự tay tháo sợi dây bùa do ông thầy người Chăm ban cho trước đây, kèm theo 3 sợi dây đeo ở cổ vợ, con và người em gái. Như thế, tổng cộng tất cả là 9 sợi dây bùa.
Gia đình xin tôi làm phép những chai nước cho cô Quỳnh uống, sau đó cả nhà ra về lúc 10g00 đêm.
Sáng ngày 9-9-2004, lúc 6g00, gia đình lại đến vì ông Sang ngỏ ý muốn tôi cầu nguyện cho ông mỗi ngày. Ông hiện lên, chào và lần đầu tiên cười với tôi. Tôi hỏi ông tại sao mỗi lần nói chuyện, ông như bị nghẹn ở cổ và cứ phải rướn người lên như vậy. Ông trả lời:
– Thưa cha, con bị bắn vào cổ nên khi thở hơi cuối cùng rất đau đớn và khó khăn.
– Hôm nay, ông muốn tôi làm gì cho ông?
– Xin cha đặt tên thánh cho con.
Nước mắt tôi chực trào ra khi nghe lời yêu cầu này. Tôi nhớ đến hình thức rửa tội bằng “lửa”, bằng lòng ao ước, bằng tình yêu và lời tuyên xưng đối với Đức Kitô của những người không biết Người, nhưng lại sống theo chân lý của Người vì Người là “Sự Thật và là Sự Sống”. Tôi giới thiệu với ông các vị thánh: Giuse, Phêrô, Phaolô và Antôn. Ông xin nhận tên Thánh Giuse.
– Vậy từ nay con là Giuse Trần Đình Sang.
– Vâng, cám ơn cha.
– Cha sẽ dâng lễ cầu cho con ngày mai. Cha sẽ nói với các nữ tu để cầu nguyện nhiều cho con.
– Cha ơi, xin cha chữa bệnh cho con Quỳnh vì con ở lâu trong đó nên nó đau và lạnh lắm.
– Được rồi, con yên tâm, cha sẽ chữa cho Quỳnh.
– Cha ơi, con muốn ra khỏi Quỳnh lắm nhưng chưa được, nhưng con không làm hại nó nữa đâu. Nó ăn được, ngủ được rồi. Cha bảo thằng Tuấn phải thương con Quỳnh, bảo cha mẹ nó phải biết thương yêu, hoà thuận với nhau vì con Quỳnh rất khổ tâm vì chuyện này…
– Bây giờ, cha sẽ cầu nguyện cho con.
Tôi đặt tay trên đầu, đọc mấy kinh quen thuộc như Kinh Xin ơn Chúa Thánh Thần, Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh. Ông Sang chào từ biệt tôi. Cô Quỳnh lắc nhẹ đầu và trở về lại con người bình thường. Cô tươi cười kể lại cho tôi nghe khi ông nhập vào cô, bắt cô hút thuốc liên miên, cứ vài phút một điếu, lại còn chửi thề luôn miệng. Buồn cười nhất là khi cô em ruột, tên Vi, thay mẹ canh chừng chị vẫn bị ông Sang gọi ra, bật quẹt đốt thuốc, dù cô đã trốn sau cánh cửa, cô run tay đến nỗi bật mãi không được. Khi ông bắt đầu đến với tôi, ngày Chủ nhật vừa qua, cô Quỳnh không còn bị ông thôi thúc hút thuốc và ăn nói tục tằn nữa.
Thứ Bảy, ngày 11-9-2004, 6g15, gia đình cô Quỳnh lại đến. Ông Sang hiện lên và lần này ông cho biết cuộc sống trước đây của ông: ông học xong lớp 12, đi lính. Tôi tiếp tục cầu nguyện cho ông. Ông xin tôi chữa lưng và ngực cho cô Quỳnh. Sau khi ông ẩn đi, tôi hỏi cô Quỳnh về bệnh trạng, cô cho biết lưng và ngực rất đau, cổ cứng nhắc. Tôi cầu nguyện, thoa dầu và cầm thánh giá áp vào chỗ đau. Cô cho biết như có một luồng khí nóng, rất dễ chịu truyền vào mình và cảm nhận được hình ảnh của Chúa Giêsu đầu đội mão gai ẩn hiện trong mình.

Hôm sau, Chủ nhật 24 Mùa Thường Niên, ngày 12-9-2004, cả gia đình cô Quỳnh cùng đến tham dự thánh lễ lúc 6g30 sáng tại Nhà thờ Chợ Đũi (Huyện Sĩ), Q.1. Bài đọc 1 của sách Xuất hành 32, 7-11 kể tội dân Israel thờ lạy con bò vàng và bài Tin mừng theo thánh Luca 15, 1-32 nói về lòng thương xót Chúa. Tôi đã kể chuyện xảy ra với gia đình cô Quỳnh cho cộng đồng dân Chúa trong bài giảng như một thí dụ về việc thờ lạy ngẫu tượng, tìm đến bùa ngải, phù phép và việc Chúa cứu chữa cô Quỳnh để biểu lộ lòng thương xót của Người. Kết thúc bài giảng, hai chị em Quỳnh và Nguyệt đứng lên chào cộng đoàn như những nhân chứng sống. Nhiều người trong thánh đường đã bật khóc vì cảm động.
Sau thánh lễ, cả gia đình cô Quỳnh tụ tập bên nhà tôi. Ông Sang lại hiện lên và lần đầu tiên ông nói với tôi là ông sẽ tự động ra đi mà Quỳnh không hay biết. Tôi hỏi ông tại sao lại ở trong cô Quỳnh mà không thể thoát ra được dù ông rất muốn. Ông cho biết lần ở Phan Rang khi ông thầy pháp người Chăm trừ tà, ông có lo sợ và la hét dữ lắm, nhưng nhất định không ra. Trước đây ông chỉ ám bên ngoài cô Quỳnh, nhưng chỉ từ chiều ngày thứ bảy, khi cô Quỳnh có một lúc đã thất vọng và mất niềm tin vào Chúa, cùng với bà mẹ, cô đã yêu cầu quay ngược đầu xe để trở lại nhà ông thầy người Chăm. Chính lúc đó, ông liền nhập sâu vào tâm hồn cô Quỳnh và không ra nổi. Tôi đã ghi nhận điểm này và nói riêng với cô Quỳnh để cô chuẩn bị xưng tội, hoà giải với Chúa.
Ngày thứ Tư, 15-9-2004, lúc 18g, cả gia đình cô Quỳnh lại đến. Ông Sang xin gặp riêng tôi để yêu cầu một số việc. Ông kể cho tôi nghe về tình trạng sống của cô Quỳnh, từ cha mẹ, các chị em, chồng Quỳnh đến cả bà cô đi theo và xin tôi lựa lời khuyên nhủ họ. Ông nói mình dạo này nhập vào Quỳnh khó lắm chứ không còn dễ như trước và báo rằng mình sắp ra khỏi Quỳnh thật sự. Tôi đã lựa lời khuyên nhủ từng người trong gia đình Quỳnh thay ông. Cũng chiều hôm đó, một bà cụ trong xóm Đạo họ Chợ Đũi dẫn người con trai (là công nhân tải điện) khoảng 36 tuổi đến xin chữa bệnh. Anh kể khi sang Nhà Bè chôn các cột điện, anh đã nhặt được xương của người chết. Anh vừa nói giỡn vừa lấy xương gõ vào cột điện mới trồng, rồi đem vứt xuống ao gần đó. Khi trở về nhà, anh có những triệu chứng bất thường, ban đêm không thể nào chợp mắt, luôn bị nỗi sợ ám ảnh và nhiều lần muốn tự tử. Tôi đã cho anh ngồi chung với gia đình Quỳnh. Khi mọi người ra khỏi phòng, tôi hỏi ông Sang về tình trạng bệnh tật của người thanh niên đó, ông nói anh này đang bị hồn người chết ám ảnh. Tôi đã cầu nguyện cho ông Sang, cô Quỳnh và cả người thanh niên này. Mọi người an tâm ra về và hẹn chiều hôm sau lên gặp tôi lần nữa.
18 giờ ngày thứ năm, 16-9-2004, cô Quỳnh cùng mẹ, chị và hai mẹ con cậu thanh niên hôm trước đến gặp tôi. Tôi đã nhắc Quỳnh về lý do tại sao ông Sang đã nhập sâu vào trái tim cô và kêu gọi mọi người ý thức về tội lỗi đã xúc phạm đến Chúa. Hai mẹ con Quỳnh và người thanh niên xin được xưng tội. Tôi mời tất cả vào nhà nguyện để giải tội, sau đó, tôi lấy sách nghi thức rửa tội cho người lớn, làm nghi thức xức dầu trừ tà cho họ sau khi họ tuyên xưng đức tin. Tất cả đều nhận thấy sức mạnh kỳ diệu của Chúa tác động lên thân xác và tâm hồn mình. Tôi để ý thấy hôm đó là ngày đầu tiên ông Sang không hiện lên nói chuyện với tôi, tất cả mọi hành động đều do Quỳnh thực hiện.
Anh thanh niên rơm rớm nước mắt nói với tôi: “Cha ơi, con cảm thấy mình hoàn toàn khoẻ mạnh và tỉnh táo. Sau khi con xưng tội và được xức dầu trừ tà, con thấy tâm trí mình sáng suốt, đầu óc nhẹ nhàng khác hẳn trước đây”. Bà mẹ già cám ơn tôi rối rít khiến tôi phải nhắc bà cám ơn Chúa và luôn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn, nhất là các linh hồn mồ côi mà con bà cũng như nhiều người bằng cách này hay cách khác đã xúc phạm đến họ.

Thứ sáu, ngày 17-9-2004, lúc 18 giờ, cả gia đình Quỳnh lên cám ơn tôi. Bà mẹ Quỳnh cho biết người con trai ông thầy pháp người Chăm ở Phan Rang vào Sài Gòn nói rằng “ông già” của anh đã cúng tổ và chắc sẽ bỏ nghề.
Ngày 21-9-2004, tôi đã gọi điện trực tiếp cho ông thầy người Chăm. Ông rất vui khi biết tin cô Quỳnh và gia đình được Chúa chữa lành. Ông ngỏ ý với tôi hãy cùng ông xin Chúa cứu đời.
Hiện nay, cuộc sống gia đình cô Quỳnh đã đổi khác. Cả gia đình sống đạo đức hơn và tối nào cũng cùng nhau đọc kinh chung. Anh Tuấn, chồng Quỳnh, dù chưa theo đạo cũng tích cực tham gia. Ông bố Quỳnh bớt nhậu hơn trước và luôn cố gắng về kịp giờ kinh tối của gia đình. Bà mẹ Quỳnh không dấu được niềm vui: “Gia đình chúng con tạ ơn Chúa vì Người đã thương cứu chúng con. Không có Người cứu chữa, chắc giờ này mộ con Quỳnh đã xanh cỏ rồi. Nhớ lại, chúng con thấy thời gian trước thật kinh hoàng. Suốt mấy tháng liền, cả nhà không ai dám bỏ riêng con Quỳnh lấy một giây cho dù là đêm hay ngày vì lúc nào ông Sang cũng giục nó chết để bắt hồn nó”. Người em tên Vi thì nhớ lại: “Bố con thương chị Quỳnh đến nỗi khi thấy chị ấy bị như vậy đã vào nhà tắm và khóc hu hu như một đứa trẻ. Con nhớ mãi cảnh bật lửa châm thuốc cho ông Sang, mặt chị con lúc đó ngầu lắm, lại luôn miệng nói tục và chửi thề”.

KẾT LUẬN:
Khi nghe câu chuyện này, có lẽ nhiều người sẽ cho rằng đây là câu chuyện hoang đường, mang dáng dấp của sự mê tín và có thể gây hiểu lầm. Tuy nhiên, đây chỉ một trong những câu chuyện có thật mà tôi muốn chia sẻ để bạn đọc và nhất là các nhà thần học giải đáp cho chúng tôi những thắc mắc xoay quanh những vấn đề như:
1. Trong xã hội Việt Nam hôm nay, bùa ngải, thư yểm là chuyện có thật, nhất là nơi những người buôn bán, như ta từng nghe nói: “ngậm ngải tìm trầm” hay “bùa yêu” của một vài người thỉnh về…
2. Theo niềm tin chung của người tín hữu Công giáo, các linh hồn sau khi chết sẽ ra trước toà Chúa phán xét để rồi hoặc sẽ lên thiên đàng, vào luyện ngục hay xuống hoả ngục. Vậy phải giải thích như thế nào về những linh hồn vất vưởng như ông Giuse Trần Đình Sang và các bạn bè của ông?
3. Ma quỷ có thể tác động vào những người vô tội và nhập vào họ để gây nên bệnh tật, đau đớn bất kể tự do và ý muốn của người bị nhập?…

Trong khi đó theo niềm tin Kitô giáo, “ma” có thể được hiểu là linh hồn người đã khuất, chưa được siêu thoát, cần lời cầu nguyện và sự hy sinh của người còn sống, còn “quỷ” là những thiên thần sa ngã hay linh hồn của những người chết đã hoàn toàn từ chối và cắt đứt sự thông hiệp với Thiên Chúa. Như thế, chúng ta vẫn có thể tiếp tục cứu thoát ma là những người đã khuất bằng việc rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu cho họ như Người đã thể hiện trong cái chết của mình.
Thư 1Pr 3, 19-22 nói rõ: vì Đức Kitô chết cho mọi người, nên mọi người đều có thể được cứu độ bằng những cách thế không ai có thể ngờ được. Hơn nữa, vì Đức Kitô là Đấng “phán xét kẻ sống và kẻ chết”, mà tiêu chuẩn để phán xét là Tin Mừng, nên trước đó, kẻ chết cũng cần được nghe công bố Tin Mừng (x. 1Pr 4, 5-6; x. F. Gomez, Kitô học, Chương Đức Giêsu xuống ngục tổ tông, Tập II, tr. 135tt).
Đức Kitô rao giảng Tin Mừng cho cả kẻ chết có nghĩa là Người đã hoàn tất sứ mạng cứu độ đối với mọi người. Những người đã chết cũng cần được “rửa tội” bằng cách tuyên xưng lòng tin và tình yêu đối với Đức Kitô. Do đó, vào thời các Kitô hữu thế hệ đầu tiên, ở Côrintô chẳng hạn, người ta đã có nghi thức chịu phép rửa thay cho kẻ chết (x. 1 Cr 15, 29). Hành động của ông Sang hay những linh hồn khác đã khiến tôi nhớ đến sứ mạng phải truyền giáo cho cả những người đã khuất. Như thế có lẽ ta không nên nói trừ ma, diệt quỷ mà phải cứu ma, trừ quỷ theo nghĩa Kitô giáo chăng?

Nhưng sứ mạng này hiện nay thuộc về ai?
Bộ Giáo luật mới, năm 1983, điều 1172 xác định:
Tiết 1: “Không ai có thể trừ tà cách hợp pháp cho những người bị quỷ ám, nếu không được Bản Quyền địa phương ban phép đặc biệt và minh nhiên.
Tiết 2: Bản Quyền địa phương chỉ được ban phép này cho linh mục nào đạo đức, có kiến thức, khôn ngoan cũng như có đời sống vẹn toàn”.


Người Kitô hữu vượt qua thái độ mê tín như một sự tin tưởng mù quáng vào các thần thánh, ma quỷ để xác định rằng: việc ma nhập, quỷ ám là một sự kiện có thật được Kinh Thánh nhiều lần nhắc đến và chính Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỷ để cứu chữa những người bất hạnh ở Capharnaum (x. Mc 1, 21-28; Lc 4, 31-37), ở Gađara (x. Mt 8, 28-34; Mc 5, 1-20), ở Tyrô (x. Mc 7, 24-30). Hơn nữa, nhiều khi việc ma nhập quỷ ám tạo nên bệnh tật, nên khi xua được ma, trừ được quỷ thì người bệnh được khoẻ mạnh (x. Mt 9, 32-34; 12, 22-45; Mc 9, 14-29; Lc 13, 10-17…).
Đức Giêsu giao sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ cho Giáo Hội, cho tất cả các môn đệ của Người và việc trừ quỷ là một dấu hiệu chỉ quyền năng cứu độ của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ… Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ và nếu họ đặt tay trên những người bệnh thì những người này sẽ được mạnh khoẻ… Còn các tông đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16, 15-20; x. Mt 28, 18-20).
Các tông đồ và các tín hữu thời Giáo hội sơ khai nói về tác động của ma quỷ, của Satan trong thế giới để nhắc nhở người tín hữu phải chiến thắng tội lỗi và quỷ dữ (x. Ep 2, 1-2; 6, 11-16; 2 Tx 2, 7.11; 2 Cr 4, 4; Gl 5, 17; Rm 7, 23-24; 16, 20)…

Xin Chúa cho chúng con biết tin nhận rằng, ngoài Chúa ra thì không thần nào, thánh nào có thể cứu rỗi chúng con. Xin Chúa mở mắt cho chúng con được thấy Tin Mừng cứu rỗi của Chúa quí giá dường nào cho đời sống chúng con. Tin mừng đó cần được minh chứng cho Anh Em Lương Dân qua niềm hy vọng tuyệt vời và vinh quang quyền năng mà Chúa tỏ ra trong chính đời sống, trong lời cầu nguyện của chúng con những người đã lãnh nhận bí tích làm con Chúa và được lưu lại, vui sống trong Thần Khí Chúa.

Việt Nam: thiên đường ô nhiễm

Việt Nam: thiên đường ô nhiễm

adminbasam

Môi trường nhiễm độc đưa đến vô vàn các vấn đề về sức khoẻ, và khi một người cha, một bà mẹ mắc bệnh thì khó lòng tin rằng con cái của họ sẽ được học đến nơi đến chốn. Một thế hệ thất học. Một thế hệ không tương lai. Thế hệ này tiếp thế hệ khác, không tương lai. Một thế hệ không tương lai kéo theo một xã hội chất chứa tệ nạn, suy đồi, một miếng ngon cho các tổ chức tội phạm. Không, xin đừng mơ ước về một tương lai sánh vai với cường quốc năm châu“.

____

Nguyễn Hoàng Phố

4-5-2016

Trong bài viết: Việt nam đang đối diện với khủng bố chất độc hay đang là một bãi rác công nghiệp?, tôi có đặt câu hỏi về chức năng giám sát môi trường của chính quyền Việt nam đối với Formosa Hà Tĩnh. Hôm nay tôi đã có câu trả lời, từ báo Người đô thị:

Trao đổi với Người Đô Thị, TS Ngô Đức Lâm, nguyên cục trưởng Cục Công nghệ an toàn và môi trường, bộ Công thương rằng: Nhà nước phải có hệ thống độc lập kiểm tra, tuy nhiên lại không có với trường hợp Formosa. Thực tế hiện nay, sở Tài nguyên môi trường Hà Tĩnh không tự đi lấy mẫu và tự kiểm tra Formosa, mà mẫu đó lại do Formosa đưa cho sở đi phân tích. Như vậy là hoàn toàn không khách quan, và thiếu trách nhiệm. Thứ 2, sở Tài nguyên môi trường là cơ quan nhà nước thì phải độc lập, nhưng sở lại đi hợp đồng với Formosa để kiểm tra, tức là mang lại kinh tế cho nhau, như vậy là không đúng quy định Nhà nước, là vừa đá bóng vừa thổi còi”.

Một câu trả lời đắng ngắt.

Cũng trong bài viết trên, tôi nói rằng nếu nhà cầm quyền VN cho phép Formosa Hà tĩnh nằm ngoài luật pháp Việt Nam thì điều đó đồng nghĩa với việc đặt cược số phận của thế hệ tương lai của Việt Nam vào trong tay một tập đoàn đã từng gây ra khủng bố chất độc tại quốc gia láng giềng.

Phẫn uất và đau đớn.

Tôi cứ hy vọng giả thiết của mình sai, rằng nhà cầm quyền VN không tạo ra một thiên đường ô nhiễm (pollution haven) cho tập đoàn khủng bố chất độc Formosa. Trong thiên đường ô nhiễm này, tập đoàn khủng bố chất độc Formosa tuỳ tiện làm bất cứ điều gì mà luật pháp về môi trường ở ‘chính quốc’ không cho phép. Một phần cơ thể của Việt Nam đã bị cắt đứt đành đoạn. Một phần của Việt Nam đã trở thành một nhượng địa, cho thuê với cái giá rẻ mạt: Formosa thuê của VN 3.300 ha đất, trong thời hạn 70 năm với giá 96 tỷ đồng cho cả thời gian thuê, tính trung bình 42 đồng/m2/năm.  Khốc hại hơn, cái phần máu thịt bị cắt này còn gây ra băng hoại cho phần còn lại của Việt Nam. So với nước Việt Nam thời thuộc địa Pháp, thì nhượng địa này, nói đúng hơn là ‘thuộc địa’ này, là một địa ngục, và phần Việt Nam còn lại là bên bờ của địa ngục.

Vũng Áng-Formosa Hà tĩnh sẽ đi vào sách vở kinh tế học như là một bằng chứng khẳng định giả thiết về thiên đường ô nhiễm (pollution haven hypothesis).  Trong kinh tế học hiện đại giả thiết này dùng để chỉ khả năng các tập đoàn ở các nước giàu dùng vốn đầu tư trực tiếp để di chuyển các ngành công nghiệp ‘bẩn’ từ ‘chính quốc’ sang các nước ‘thuộc địa’,  nơi luật pháp về môi trường lỏng lẻo, thậm chí không tồn tại, và cho dù có luật thì với bộ máy công quyền tham nhũng các công ty này vẫn dễ dàng bỏ qua. Bi đát là phần thắng thuộc về các tập đoàn, còn phần thua thuộc về người dân ‘thuộc địa’.  Thua vĩnh viễn.

Có ba chỉ số cho thấy có thiên đường ô nhiễm hay không: (1) sự dịch chuyển công nghiệp bẩn sang ‘thuộc địa’, (2) khủng bố chất độc một cách hợp pháp, theo luật của ‘thuộc địa’, và cuối cùng là (3) sự tận thu đến cạn kiệt tài nguyên của thuộc địa. Và ba chỉ số này liên quan đến lý do phần thua thuộc về dân ‘thuộc địa’. Thua vĩnh viễn.

Thứ nhất, luật pháp lỏng lẻo về môi trường, và bộ máy công quyền tham nhũng của chính quyền ‘thuộc địa’ đã giúp tăng lợi nhuận cho các nhà máy gây hại môi trường vì không phải chi phí cho việc giải quyết hậu quả. Người chịu hậu quả, người dân thuộc địa phải gánh chịu: Môi trường nhiễm độc đưa đến vô vàn các vấn đề về sức khoẻ, và khi một người cha, một bà mẹ mắc bệnh thì khó lòng tin rằng con cái của họ sẽ được học đến nơi đến chốn. Một thế hệ thất học. Một thế hệ không tương lai. Thế hệ này tiếp thế hệ khác, không tương lai. Một thế hệ không tương lai kéo theo một xã hội chất chứa tệ nạn, suy đồi, một miếng ngon cho các tổ chức tội phạm. Không, xin đừng mơ ước về một tương lai sánh vai với cường quốc năm châu.

Lý do thứ hai, đó cũng là đối tượng quan tâm của công ước Basel về môi trường: các tập đoàn chuyên chở chất độc từ ‘chính quốc’ sang chôn lấp ở ‘thuộc địa’. Không thể thuyết phục một người có lý trí rằng trong số những hóa chất được thải từ ống ngầm Formosa Hà tĩnh không có những chất thải độc được vận chuyển từ ‘chính quốc’ sang. Dân ‘thuộc địa’ thua đã rõ ràng: khủng hoảng cá biển chết hàng loạt cả tháng qua đủ để biến hàng trăm ngàn gia đình ngư dân khốn đốn. Nhưng không phải chỉ ngư dân. Cả toàn xã hội đang khốn đốn, dĩ nhiên trừ những quan chức có ‘điều kiện’. Cuộc khủng hoảng này sẽ không dừng ở đây, chừng nào còn Formosa Hà tĩnh thì án tử cho cộng đồng vẫn còn treo trên đầu.

Khác với cuộc khủng hoảng do vụ khủng bố chất độc gây ra ở thành phố Sihanouk, cuộc khủng hoảng này không có tên gọi, bởi vì cái ác đã được kẻ thủ ác thực hiện một cách hợp pháp, hay nói đúng hơn là hợp pháp theo luật của ‘thuộc địa’, bởi vì cái chết đến thầm lặng, ai biết khi nào người nào sẽ đột ngột chết, một khi chất độc đi vào cơ thể qua con cá, củ khoai, hơi thở, và bởi vì kẻ bị giết không thể kêu đòi công lý trong bộ khung luật pháp ‘thuộc địa’. Dân ‘thuộc địa’ đang bị đẩy xuống địa ngục, không có chuông gọi hồn, không có tên tuổi, không có kẻ thủ ác bị nguyền rủa, kết tội.

Lý do thứ ba là dân thuộc địa sẽ bị vắt kiệt sạch nguồn tài nguyên không thể tái sinh (non-renewable natural resources), đất đá, nước, khoáng sản… Lòng tham vô độ của các tập đoàn chính quốc, được sự hỗ trợ của luật pháp  ‘thuộc địa’, và quan chức ‘thuộc địa’ sẽ ngấu nghiến tất cả những gì chúng có thể để biến thành lợi nhuận. Cái còn lại của người dân thuộc địa là một vùng đất bỏ đi, wasteland, vì họ chẳng qua cũng chỉ là những sinh linh bỏ đi, wastebeings.

Trong thuật ngữ luật pháp có từ kẻ tòng phạm. Xin cho tôi biết kẻ tòng phạm là ai.

_____

Tham khảo: Levinson, Arik; M. Scott Taylor (2008). “Unmasking the Pollution Haven Effect”. International Economic Review 49 (1): 223–54

Cá biển chết ở Việt Nam: Hệ lụy có thể kéo dài 50 năm

Cá biển chết ở Việt Nam: Hệ lụy có thể kéo dài 50 năm

 adminbasam

RFI

Khánh Bình

4-5-2016

Người dân Hà Nội biểu tình ngày 01/52016 kêu gọi bảo vệ biển sau vụ cá chết hàng loạt tại vùng biển miền Trung Việt Nam. REUTERS/Kham

Khi nước biển bị ô nhiễm nặng, hậu quả nghiêm trọng là điều khó tránh vì: thứ nhất, khó cô lập vùng ô nhiễm, thứ hai, các phân tích của mẫu được thu thập dễ bị sai lệch, và thứ ba, chuỗi thức ăn tự nhiên trong vùng như chim, động-thực vật dưới biển bị lây nhiễm. Cuối cùng là ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, nhất là ung thư. Nếu có những độc chất không thể hòa tan, quá trình luân chuyển và hậu quả có thể kéo dài đến 50 năm, theo đánh giá của một chuyên gia Pháp, ông Jean Hetzel, khi trả lời phỏng vấn RFI.

Vụ cá biển chết hàng loạt ở bốn tỉnh miền trung Việt nam cho đến nay vẫn chưa có kết luận chính thức, dù đã sau gần một tháng. Giả thuyết được đưa ra nhiều nhất là nguồn nước bị nhiễm độc do nước thải công nghiệp. Công ty Formosa ở khu công nghiệp Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh được cho là nghi phạm chính.

Vụ việc có thể coi là một thảm họa môi trường và đã tạo nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ của người dân Việt nam, cũng như thu hút sự quan tâm của truyền thông quốc tế. Đứng về góc độ chuyên môn, một chuyên gia lâu năm trong lĩnh vực môi trường của Pháp đã có những chia sẻ với RFI Việt ngữ khi được thông tin về vụ việc. Ông Jean HETZEL, hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực môi trường và phát triển bền vững, hiện là chủ tịch công ty tư vấn JOHANSON International và đã tham gia xử lý các thảm họa môi trường như vụ Sandoz-sông Rhin năm 1986.

RFI : Xin chào ông Jean Hetzel, trước hết ông đánh giá như thế nào về vụ cá chết hàng loạt bị nghi là do ô nhiễm ở vùng biển miền trung Việt nam ?

Jean Hetzel : Vâng xin chào, tôi thấy đây là một vụ ô nhiễm nghiêm trọng. Đã rất lâu rồi tôi mới biết một vụ ô nhiễm môi trường như vậy, trải dài khoảng 200 km. Vụ việc xảy ra ở vùng biển thì khá hiếm vì hiện tượng này thường xảy ra ở các vùng sông. Rõ ràng đây là một cú sốc vì cá chết phơi bụng nhiều. Cũng không được quên các loài rong, tảo là nguồn thức ăn của cá, khi không chịu nổi chất gây ô nhiễm cũng sẽ chết.

Cú sốc này lớn vì hậu quả có thể là ngắn và trung hạn nhưng cũng có thể là dài hạn, tùy thuộc vào các chất bị thải ra, có thể từ 2 đến 50 năm. Những chất có thể hòa tan trong nước thì 2-3 năm, nhưng những chất kỵ nước thì nó sẽ còn tồn tại và tiếp tục chu trình luân chuyển.

RFI: Đứng ở góc độ chuyên môn, thì theo ông khi vụ việc vừa xảy ra, nên xử lý như thế nào ?

Jean Hetzel : Thường thì với trường hợp như thế này thì lập tức phải thu thập mẫu vật, như là xác loài vật chết, các loài chim trong vùng, tảo biển. Phải thực hiện biện pháp bảo vệ khẩn cấp như là dừng các hoạt động liên quan ngành thủy hải sản, dừng đánh bắt ở những vùng lân cận. Khó khăn lớn đối với Việt nam là vụ việc xảy ra ở biển, rất khó dừng ô nhiễm ở biển vì nó lan nhanh xuống các tầng nước, khi xuống tầng nước sâu thì khó tìm được dấu vết.

RFI : Ông có thể chia sẻ một kinh nghiệm của mình ?

Jean Hetzel : Ở Pháp thì cũng có những vụ ô nhiễm nguồn nước. Tôi đã tham gia xử lý 3 vụ ô nhiễm lớn, nhất là vụ Sandoz ở sông Rhin 1986, vụ ô nhiễm rất lớn, ảnh hưởng đến các kênh trong vùng, lan ra biển phía Bắc, như vậy trải rộng qua Thụy Sỹ, Pháp, Đức và Hà Lan. Người ta đã phải theo dõi hơn 5 năm để chắc rằng ô nhiễm đã được giải quyết, mà các chất ô nhiễm ở đây thuộc nhóm đơn giản. Nếu các chất phức tạp hơn thì thời gian chắc phải nhiều hơn.

RFI: Theo ông vì sao vấn đề môi trường ngày càng được quan tâm nhiều hơn?

Jean Hetzel : Có nhiều lý do. Trước tiên là người dân được giáo dục tốt hơn. Người ta nhận biết rằng vấn đề ô nhiễm môi trường, nhất là các chất nguy hiểm, gây nguy hại cho sức khỏe. Người ta đầu tư hàng tỷ đô la để nâng cao sức khỏe, nhưng ô nhiễm có thể gây ra cái chết, ảnh hưởng đến cân bằng sinh thái, tác động đến chuỗi thực phẩm, ung thư v.v.. Những hậu quả do ô nhiễm được biết vì vậy người ta cố gắng hạn chế và giảm ô nhiễm.

Vấn đề ô nhiễm quan trọng vì trong 50 năm qua, chúng ta làm nghiên cứu rất nhiều về môi trường, vì vậy có nhiều bằng chứng khoa học. Những đối thoại/yêu cầu về môi trường ngày càng nhiều, nhất là từ các tổ chức phi chính phủ, đòi các cơ quan nhà nước có những giải pháp phù hợp. Ở Pháp có chính sách riêng về nước (gồm những hoạt động hướng dẫn và kiểm tra nguồn nước, chất lượng nước, những người có trách nhiệm kiểm tra), về môi trường như là cảnh sát môi trường/cảnh sát nước.

RFI: Hiện nay có nhiều chủ đầu tư công nghiệp không muốn tăng chi phí môi trường, họ cho là tốn kém. Theo ông thì điều này có ảnh hưởng như thế nào?

Jean Hetzel : Đương nhiên là có chi phí, nhưng không nhiều so với mạng sống của con người. Chi phí trung bình so với tổng đầu tư nhà máy từ 5%-15% tuỳ trường hợp nhưng hiếm khi đạt mức cao nhất, vì mức cao nhất là dành cho những trường hợp yêu cầu gắt gao, như trong lĩnh vực hạt nhân. Chi phí đầu tư cho môi trường phải được tính là nếu không đầu tư thì sẽ bị mất thị phần, các tập đoàn lớn ngày càng nhạy cảm với vấn đề này nếu bị người tiêu dùng đưa vào danh sách đen. Vì vậy cần đầu tư ngay từ đầu để tránh những thiệt hại về hình ảnh và thị phần.

RFI: Ở những nước phát triển, như Pháp chẳng hạn, vì sao việc bảo vệ môi trường rất được ưu tiên ?

Jean Hetzel : Trước tiên là cần có cảnh sát môi trường, để môi trường được bảo vệ tốt nhất có thể. Đó là về phía chính phủ. Nhưng quan trọng hơn vẫn là hành động của người dân. Cụ thể là hoạt động ở quy mô địa phương của các hội đoàn độc lập, như hội những người đánh cá, hội những người đi săn v.v.., cũng như các tổ chức phi chính phủ, vì các tổ chức này có chuyên môn để thúc đẩy chuyện này.

Cũng cần sự bổ sung của giới công nghiệp, vì có những công ty chuyên xử lý, giảm ô nhiễm, ví dụ như ở Pháp có những công ty hàng đầu về vấn đề này. Và ngày càng nhiều thông tin được cung cấp bởi giới công nghiệp khi họ tham gia cùng các hội đoàn trong ban điều hành. Phía cơ quan quản lý nhà nước sẽ dễ dàng ban hành các quy định hơn khi có sự đồng thuận giữa người dân, các ngành công nghiệp sản xuất và các hội đoàn, ONG. Cần hành động và cần bảo vệ môi trường.

hát khúc ca yêu đời cho người vui.

 Chuyện phiếm đọc trong tuần sau lễ Chúa Về Trời 08-5-2016 

“Cầm tay ta hát,

hát khúc ca yêu đời cho người vui.”
Với tình ta chan chứa,

bao la trong bước đi trên đường đời.”

(Văn Phụng – Vui đời Nghệ Sĩ)

(Thư 1 Tim 2: 7-12)

 Trần Ngọc Mười Hai

Nay hướng về, buổi diễn-trình kỷ-niệm 10 năm “Hát Cho Nhau” ở Sydney vào giữa năm 2016, hát sĩ họ Vũ vui vẻ hát các câu ca/điệu nhạc rất “Vui đời nghệ sĩ”, ai cũng thấy có cái gì đó đã và đang reo vui trong lòng người rất nghệ-sĩ, lại khiến người nghe nhung-nhớ rất nhiều điều. Có một điều, khiến bần đạo nhớ nhiều nhất, lại cũng là câu nói hoặc ca-từ này/khác, có thể làm người hát và người nghe “Vui Đời Nghệ Sĩ”, hoặc “đau đớn can tràng”, đến suốt đời.

Nhớ nhiều hơn cả, lại là ca-từ thân-thương được bạn đạo hát thêm, như sau:

 “Ơ kia! chàng thi sĩ

đang miên man đi tìm bao vần thơ.
Ơ kìa! nàng ca sĩ

đang say sưa cung đàn cho đời mơ.
Tính tính tang tang tình

lời thơ và ý nhạc
Thắm thiết gieo cho người

một ý niệm yêu đời
Còn chi vui hơn đời nghệ sĩ chúng ta?
Nguồn vui phơi phới

trên đôi môi xinh hồng bên ngàn hoa.
Chứ dù mưa hay nắng

ta vui ca bên nhau bao lời thơ.”

(Văn Phụng – bđd)

Vâng. Đúng thế. “Dù mưa hay nắng, ta vui ca bên nhau bao lời thơ” để nhớ mà sống cho vui đời.

Vâng. Cứ “vui ca lên nào anh em ơi”! Ca cho nhiều, dù mưa hay nắng, rồi ra chắc chắn lời ca của ta cũng sẽ thành thơ/thành nhạc, rất vui đời.

Vâng. Đúng thế và sẽ còn đúng hơn thế nữa, nếu lời giảng/sẻ chia ở nhà thờ không còn những câu hỏi “chĩa xuống” bạn đạo là người nghe ở ghế dưới có những câu hỏi rất khó trả lời. Bởi, giảng-giải lời Chúa hay còn gọi là “chia sẻ (chứ không phải là “băm xẻ”) Lời Ngài” đâu là lời hỏi han hoặc hỏi/đáp tự bao giờ mà sao bạn trẻ đấng “lờ-mờ” (lm) lại cứ hỏi thay vì giảng!

Cứ hỏi han hoặc hỏi/đáp mãi, khiến bần đạo lại nhớ câu chuyện tiếu-lâm chay, từng giúp bần đạo từ nay chỉ dám mở miệng có chừng mực, như sau:

“Có ông khách nọ tới hàng bán chim chóc, tức những chim không chọc và thú nuôi trong nhà. Bà bán chim ra tiếp bèn quảng cáo hết lời rằng: chim bà nói được nhiều thứ tiếng, rất trôi chảy.

Ông khách thấy hay hay, bèn hỏi một con chim rất đẹp bằng tiếng Pháp:

-Comment allez-vous?”

Chim trả lời ngay lập tức:

-C,a va bien, merci.”

Ông khách lại hỏi tiếp bằng tiếng nước khác:

-How are you?

Chim đẹp lại đáp gọn:

-I’m fine, thank you.

Ông khách quay sang hỏi tiếng Tây Ban Nha của người Mễ:

-Como estas?

Không chút do dự, Chim ta trả lời liền:

-Muy bien.

Ông khách thấy vậy bèn hỏi thử bằng tiếng Việt:

-Mày khoẻ không?

Chim ta trả lời nhiều quá, thấy mệt bèn lên tiếng:

-Ấy ấy! Ông hỏi gì mà lắm thế, chim đây biết đâu mà trả lời trả vốn chứ!”

Ấy đấy! Thực tế cuộc đời người, có nhiều thứ/nhiều sự do từ cái miệng của con người cứ hay hỏi-han và/hoặc thích hỏi/đáp ngoài nhà thờ, khiến cho người và mình không mấy vui như ca-từ nhạc-bản “Vui đời nghệ-sĩ” đến như thế!

Đấy kìa! Thực-tại đời đi Đạo và sống Đạo trong đời, cũng có nhiều sự/việc không mấy dễ hiểu và dễ chịu như nhiều người tưởng hoặc nghĩ. Nghĩ hoặc tưởng, nhiều lúc không đúng sự thật. Trong Đạo-vào-đời, có nhiều sự/việc xảy ra ở đây đó, mới đây thôi như :

“Nhật-báo The Guardian ở Anh, mới đây có tường-trình về sự-việc xảy ra ở Bàn Quỳ Nhà Thờ, bằng một khảo-sát/nghiên-cứu về “lòng sốt-sắng giữ đạo” ở nhiều nơi trên thế-giới (khoảng 84 nước) và gửi các tôn-giáo khác nhau, cả về giới-tính.

 Theo tường-trình này, vấn-đề “Cách-biệt Giới-tính trong Tôn-giáo”, thì: hầu hết nữ-giới lại có lòng sốt-sắng/đạo-đức nhiều hơn phái nam. Có đến 83.4% nữ-giới trên khắp thế-giới được định-danh là thuộc nhóm/phái có lòng tin, trong khi đó thì phái nam chỉ có mỗi 79/9% như thế mà thôi…

 Về chuyện những người được liệt chung vào cùng nhóm/phái có tín-ngưỡng và đến nơi thờ-phượng sinh-hoạt đạo-giáo, thì nữ-giới Đạo Chúa đến nhà thờ đông hơn nam-nhân. Tuy nhiên, với người Hồi-giáo và Do-thái-giáo chính-tông, thì phái nam đến hội-đường hoặc đền-thờ nhiều hơn nữ-giới do luật đạo phán/bảo như thế. Về cầu nguyện, thì nữ-giới cũng làm thế mỗi ngày ít là một lần nhiều hơn nam-nhân.

 Trong số 84 quốc-gia nhận được khảo-sát, chỉ có nước Israel có tỷ-lệ nam-nhân mỗi ngày cầu nguyện nhiều hơn nữ-giới. Khảo-sát trên cho biết: ở Mỹ, có 64% nữ-giới và 47% nam-nhân bảo rằng họ đọc kinh cầu nguyện mỗi ngày. Trong khi tại Pháp, con số tương đương chỉ tính được là 15% nữ-giới và 9% nam-nhân làm được thế…” (Xem Marcus Roberts, Women are more religiously devout than men, MercatorNet 05/4/2016)

Xét việc xảy ra trong đời đi Đạo mà lại tỏ-lộ như thế không biết có đúng thật hay không? Thật ra thì, có thật hay không, điều đó cũng khó biết. Phần đông mọi người chỉ biết một điều, là: khi xưa làm người đi Đạo, thật không dễ. Chí ít là làm thân nữ-phụ mà lại muốn giữ Đạo cho tốt/lành, chắc cũng phải nhớ lời dặn-dò của đấng thánh mọi thời là Phaolô, từng chỉ thị như sau:

“Vậy tôi muốn rằng

người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào,

tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện,

không giận hờn, không xung khắc.
Cũng thế,

tôi muốn người đàn bà phải ăn mặc đoan trang,

đồ trang điểm phải kín đáo, giản dị:

không phải là những kiểu tóc cầu kỳ,

vàng bạc, ngọc trai hay quần áo đắt tiền,

nhưng là những việc lành;

như thế mới thích hợp

với những người đàn bà xưng mình có lòng đạo đức.

Khi nghe lời dạy dỗ,

đàn bà phải thinh lặng và hết lòng phục tùng.

Tôi không cho phép đàn bà giảng dạy,

hay thống trị đàn ông,

trái lại họ phải thinh lặng…”

(1 Tim 2: 7-12)

Đành rằng, muốn giữ Đạo Chúa rất Công-giáo, thì phải như thế. Thế nhưng, đó là chuyện thời xa xưa. Chứ, thời nay mà bàn-bạc hoặc bàn-luận như thế, bọn trẻ nghe thấy chắc khó tin, hoặc khó hiểu. Bởi, giới trẻ bây giờ (ít ra là ở ngpoại-quốc) đâu có “huởn” để đặt những vấn-đề lỉnh-kỉnh như thế mà làm gì!

Đám “trẻ-người-non-dạ” ngày nay, vẫn thường đặt nặng những chuyện gì đó “ra tiền” hoặc “có lợi” về vật-chất, sức khoẻ thôi. Trẻ-người-non-dạ rất nhiều đám, hôm nay chỉ đề ra các vấn-đề đại-loại muốn vấn-nạn bà con đi Đạo bằng những hỏi-han hoặc hỏi/đáp như thể bảo, rằng:

“Lại có vấn-đề lịch-sử Giáo-hội chuyên kình-chống người Do-thái-giáo để cứ thế mà khai-thác nhiều thứ mình muốn làm. Đướng-lối sống rất báng-bổ này, vẫn cứ tồn tại ở Trung Đông và nhiều nơi trên thế-giới, suốt nhiều thời. Và, nay thì những người như thế trong Giáo-hội nhiều nơi vẫn sử-dụng Kinh Sách cách đều đều theo xu-hướng củng-cố chuyện báng-bổ… 

Thêm vào vấn-đề Đồng-tính luyến-ái và kình-chống người Do-thái-giáo, lại có cả chuyện nữ-giới bị đối-xử chèn-ép, rất không đẹp trong lịch-sử Giáo-Hội được gọi là thánh. Hiện có hai Giáo-hội Đạo Chúa lớn nhất thế-giới, là: Đạo Công-giáo La Mã và truyền-thống Chính-thống-giáo liên-tục chối-bỏ việc truyền-chức linh-mục cho nữ-giới.

 Và nhiều giáo-hội Thệ-phản thủ-cựu, cũng tiếp-tục tranh-cãi nhau về điều mà họ gọi là “Tư-cách Thủ-trưởng”, có ý nói: với tư-cách là phái yếu, nữ-giới sẽ không bao giờ có quyền-hành gì trên nam-nhân, hết…

 Tính-chất tiêu-cực đáng sợ ấy lại đã tấn-kích mọi chương-trình kế-hoạch-hoá gia-đình để rồi kéo theo sau tác-động tai-hại lên môi-sinh đặc biệt là vấn-đề nạn nhân-mãn, tất cả đều có gốc-nguồn từ quyền-uy của Kinh Sách ngõ hầu tạo tính-chất tiêu-cực lên niềm tin của người đi Đạo. 

Tiếng nói của Kitô-hữu trong thế-giới ta sống vẫn tiếp-tục sử-dụng ngôn-ngữ khác nhau để bộc-lộ không gì khác ngoài tính kiêu-căng/tự-mãn đối với đạo khác để rồi coi tín-đồ của bất cứ đạo nào khác với mình là đối-tượng rất xứng-hợp không phải để đối-thoại mà để chiêu-dụ họ quay trở về với Đạo mình.

 Động-thái này thường được củng-cố bằng việc trích-dẫn các lý lẽ rút từ Kinh Sách để bảo rằng truyền-thống đặc-trưng trong đạo mình sở-đắc tính chắc-chắn rút từ Thiên-Chúa-là-Sự-thật mà chỉ nhìn thoáng lúc ban đầu đã thấy đó là niềm tin mù-quáng, về sau chắc chắn trở thành động cơ thúc-đẩy một bách-hại tôn-giáo.

 Đó là những gì mà tôi mạo-muội gọi tên là “Các Bản-văn rất Đáng sợ ở Kinh Sách”, nhưng sau đổi lại thành “Các Lỗi Phạm của Thánh Kinh”…  (X. TGm John Shelby Spong, The Sins of Scripture, HarperCollinsPublishers 2005, tr. ix-xvi)

Trong đời người, nhiều lúc thấy cái miệng làm hại cái thân của ta và của người, khiến ta và người điêu đứng/tức bực, chỉ vì câu nào đó, giống hệt truyện kể ở bên dưới để minh-hoạ, như sau:

“Ngày nọ, tôi đi qua một cửa hàng mua sắm, người không đông lắm, có một nhóm người tập trung ở quầy tính tiền. Tôi tiến về phía trước, nhìn thấy một cô gái trẻ ăn mặc chỉnh tề đứng đầu tiên, cô gái quét thẻ nhiều lần, thế nhưng chiếc máy dường như lần nào cũng “cự tuyệt” cô gái. 

Có vẻ như đó là một thẻ phúc lợi”, người đàn ông phía sau tôi lẩm bẩm: “Trẻ, khỏe mạnh như thế, mà lại dựa vào phúc lợi để sống, tại sao không như người trẻ khác tìm việc làm đi?”

 Cô gái trẻ quay đầu lại theo tiếng nói, ánh mắt cô như muốn tìm xem đó là ai. “Đúng, chính là tôi nói đó”, người đàn ông phía sau tôi chỉ tay vào chính mình.

 Cô gái trẻ đỏ bừng mặt, nước mắt cứ thể chảy xuống, cô ném cái thẻ đi, rồi chạy nhanh ra khỏi cửa hàng, và rất nhanh chóng biến mất trong cái nhìn soi mói của mọi người. Vài phút sau, một thanh niên bước vào cửa hàng, cậu đi vào cửa hàng hỏi cô thu ngân rằng có biết cô gái kia đâu không, thu ngân cửa hàng nói rằng cô ấy đã quăng thẻ rồi chạy đi rồi. 

-Tôi là bạn của cô ấy, đã xảy ra chuyện gì vậy ạ?”, cậu thanh niên lo lắng hỏi. Người đàn ông phía sau tôi nói: “Tôi không may nói ra những lời ngủ xuẩn, mỉa mai cô ấy dùng thẻ phúc lợi, đáng lẽ tôi không nên nói ra, thật xin lỗi!”

 -Ôi, hỏng bét rồi. Hoàn cảnh cô ấy rất đáng thương, anh trai cô đã bị giết chết ở Afghanistan hai năm trước, để lại đằng sau ba đứa em. Cô ấy chỉ 21 tuổi mà phải lo cuộc sống cho 3 đứa em. Thật không ngờ, hôm nay lại xảy ra việc thế này”, người thanh niên lo lắng không yên.

 -Đây là những món hàng cô bé kia mua sao?”, người đàn ông phía sau tôi hỏi thu ngân.

-Đúng ạ, nhưng tiếc là thẻ của cô ấy không sử dụng được”, thu ngân nói.

 Trong cửa hàng bỗng nhiên trở nên im lặng.

-Cậu chắc chắn biết cô gái đó ở đâu chứ?”, người đàn ông hỏi cậu thanh niên trẻ, rồi ông chen lên phía trước, lấy ra thẻ tín dụng của mình đưa cho thu ngân: “Lấy thẻ của tôi tính tiền đi”.

 Thu-ngân-viên nhận thẻ và bắt đầu tính tiền những mặt hàng cô gái đã mua.

-Đợi một chút”, người đàn ông quay người lấy một hộp sữa bò bỏ vào trong túi đồ của cô gái.

-Chúng ta nên giúp đỡ ba đứa bé kia nhiều hơn một chút chứ”, một người phụ nữ đi tới, đem một con gà bỏ vào túi của cô gái, sau đó mọi người lặng lẽ lấy đồ của mình bỏ vào túi đồ của cô gái.

-Chú, cảm ơn chú! Chú là một người tốt, chàng thanh niên nói.

 Dù cho chính mắt bạn nhìn thấy, nhưng có lẽ chân tướng sự việc có thể không phải là như vậy. Như lời một triết gia người Hy Lạp từng nói: “Mỹ đức lớn nhất mà nhân loại cần phải học chính là khống chế được cái miệng của chính mình”.

 Lan man một luận-phiếm lai-rai/dài dài, thì như thế. Như thế, tức: chỉ tản-mạn hoặc mạn-đàm “lấy lệ” chứ không nhằm mục-đích thuyết-phục ai cả, đó là ý chính hôm nay bần đạo đây muốn bày-tỏ để bà con mình thông cảm.

Thông-cảm rồi, ta sẽ “cứ thế” mà mạn đàm thêm dăm ba phút nữa với những chuyện phiếm/tiếu-lâm chay/mặn cho qua ngày đoạn tháng, rất thường tình. Rào trước đón sau thế rồi, nay mời bạn/mời tôi, ta đi vào vùng trời truyện kể “vui đời nghệ-sĩ” với những đoản-khúc lăng-nhăng, ngăn-ngắn rất làm vì như sau:

“Một ông béo phì, không có thì giờ thể dục, bèn đi bác sĩ khám xin thuốc giảm cân. Bác sĩ cho lọ thuốc màu hồng, dặn uống mỗi tối trước khi đi ngủ.


Uống thuốc đều đặn mỗi đêm, cứ đi ngủ là ông lại mơ thấy lạc vô hoang đảo, trên đảo có bầy tiên nữ không mặc đồ, ông bèn rượt bắt, nhưng chẳng bao giờ bắt được. Cứ rượt bắt lòng vòng trên đảo như vậy suốt đêm đến sáng. Thức dậy hai chân mỏi nhừ, mồ hôi vã ra, thở hổn hển. Đêm nào cũng rượt bắt, cũng mỏi nhừ. Ba tháng sau sút cả chục ký.

 Ông bạn thân nghe mách vậy cũng tới ông bác sĩ đó khám, xin thuốc để làm ốm bớt. Bác sĩ cho lọ thuốc màu xám, dặn uống mỗi tối. Uống thuốc đều đặn, đêm nào ông này lại cũng mơ thấy lạc vô hoang đảo, trên đảo có đám thổ dân ăn thịt người. Bị thổ dân rượt, ông chạy trối chết, suýt bị tóm trúng mấy lần, nhưng rồi lại thoát. Cứ chạy trốn quýnh quáng lòng vòng trên đảo suốt đêm đến sáng.

 Thức dậy hai chân mỏi nhừ, mồ hôi vã ra, thở hổn hển. Đêm nào cũng chạy trốn, cũng mỏi nhừ. Ba tháng sau sút cả chục ký. Nhưng ông này bực lắm, đi bác sĩ khiếu nại:

 -Tại sao bạn tui cũng khám chỗ bác sĩ thì lại có giấc mơ đẹp, còn giấc mơ của tui hãi quá. Chưa kể thỉnh thoảng còn suýt bị thổ dân tóm được nữa chứ, có bực không nào! Bác sĩ thủng thỉnh đưa giấy tờ ra giải thích:

-Bạn anh khám trả tiền mặt, còn anh thì xài thẻ “Medicare” hoặc “MediAid”, sao bì được!” (Trích truyện kể chuyển trên mạng rất mỗi ngày)

Kể thế rồi, nay lại muốn mời tôi và mời bạn, ta “cứ thế” cất cao bài hát “Vui Đời Nghệ Sĩ” của nghệ-nhân âm-nhạc rất Văn Phụng có những ca-từ đầy thúc-giục làm kết-đoạn mà về nhà, như sau:

“Cầm tay ta hát,

hát khúc ca yêu đời cho người vui.
Với tình ta chan chứa,

bao la trong bước đi trên đường đời.

Ơ kìa! chàng thi sĩ

đang miên man đi tìm bao vần thơ.
Ơ kìa! nàng ca sĩ

đang say sưa cung đàn cho đời mơ.
Tính tính tang tang tình lời thơ và ý nhạc,
Thắm thiết gieo cho người một ý niệm yêu đời
Còn chi vui hơn đời nghệ sĩ chúng ta?
Nguồn vui phơi phới

trên đôi môi xinh hồng bên ngàn hoa.
Chứ dù mưa hay nắng

ta vui ca bên nhau bao lời thơ.”

(Văn Phụng – bđd) 

 Trần Ngọc Mười Hai

Cũng có nhiều phút giây

Rất Vui đời Nghệ sĩ

Nhưng không nhiều. 

Đôi lòng cũng ấm như xuân ấm,

 Suy Tư Tin Mừng Lễ Chúa Về Trời năm C 01/5/2016

                                                 Tin Mừng: (Lc 24: 46-53)

Khi ấy Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và nói:

“Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”

Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.

      “Mai sáng mai, trời cao rộng quá,”

           Gió căng hơi, và nhạc lên mây.

                                                          Đôi lòng cũng ấm như xuân ấm,

                                                           Chỉ có ao xuân trắng trẻo thay.”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

            Mai Tá lược dịch.

Xuân, nhạc và gió mai sáng mai, toàn những biểu-tưởng diễn-tả biến-cố Chúa về trời. Chúa về trời, đâu nào giống “nhạc lên mây”.

Chúa về trời, là Ngài về với Cha, với Thiên Chúa. Như đã thấy trong phụng vụ thánh lễ, hôm nay. Về trời, thoạt nhìn ta cứ tưởng như có một nghịch lý nào đó, về thời gian, giữa sách Công vụ và Tin Mừng của cùng một tác giả, là thánh Luca. Tin Mừng, nay thuật lại biến cố xảy đến với các tông đồ tại phòng họp, ở trên cao.

Sự kiện này xảy đến, chỉ khi hai môn đệ đi Emmaus về đến. Đó là Chủ nhật Chúa Sống lại, khi môn đệ tập họp ở Bêthania, một làng nhỏ ngoài Yêrusalem. Cũng từ giây phút này, Chúa được cất nhắc về trời. Phải chăng, như vậy là, việc Chúa Thăng Thiên xảy đến vào Chủ nhật, ngày Chúa Sống lại ư?

Mặt khác, điều mà thánh sử Luca mô tả ở sách Công Vụ, là sự kiện Đức Giêsu tỏ lộ cho thấy: Ngài vẫn hoạt động như người Thầy Chí Thánh ở giữa các tông đồ, sau khổ nạn. Theo Kinh thánh, suốt 40 ngày ròng, Đức Chúa tiếp tục hiện diện ở với các tông đồ, là để rao giảng về Nước Trời.

Và, cũng theo Kinh Sách, sáu tuần lễ sau ngày Ngài Sống Lại, Chúa mới về cùng Cha. Như thế, có vấn nạn hỏi rằng: trình thuật nào mới thực chính xác?

Ở đây, có lẽ ta cũng nên qui chiếu về mầu nhiệm thăng thiên về với Cha qua sự kiện diễn ra trong ngày Thứ Sáu Thánh, Chúa chịu nạn. Tin Mừng hôm ấy, Cha có nói:”Thầy sẽ được cất nhắc lên cao, và Thầy sẽ đem theo mọi thứ, theo với Thầy.”

Cụm từ “cất nhắc lên cao” ở đây, có thể hiểu cùng một kiểu như “cất nhắc lên” thập tự. Hoặc, “nâng nhấc” về với cuộc sống mới  với vinh quang của Cha. Bởi lẽ, cũng từ trên cao nơi thập tự ấy, lúc Ngài bỏ mình, Chúa quay về phía kẻ trộm “rày tử tế” và nói với anh: “Hôm nay, anh sẽ cùng Tôi về chốn Thiên cung.” (Lc 23: 43)

Có lẽ, ta cũng chẳng nên bận tâm thắc mắc mà làm gì, về sự khác biệt giữa hai trình thuật, ở Tân Ước. Bởi, sứ điệp quan trọng mà thánh sử Luca muốn gửi đến người đọc, chỉ mỗi là: hãy cẩn thận khi đọc và chú giải các trình thuật trong Kinh thánh, nhất thứ sau ngày Chúa Sống Lại.

Đọc kinh thánh, không nên hiểu từng chữ, rất nghĩa đen. Cũng đừng nên giống các vị cao niên không bỏ được tâm trạng “nệ cổ” khi dạy giáo lý/sách phần, hay vướng mắc. Điều quan trọng, không phải là những gì đã viết trong Sách thánh; mà là: hãy tìm ra ý nghĩa đậm sâu nơi mặc khải Chúa muốn ta biết và hiểu.

Vấn đề hôm nay, là: ta áp dụng thế nào ý niệm của sự kiện “Về với Cha”, cho cuộc sống của chính mình?  Về với Cha, không nên hiểu theo nghĩa rất đen và từng chữ, như bay bổng lâng lâng nơi không gian cao vút ấy.

Bằng không, người người sẽ hỏi: cao cỡ nào? Mấy tầng mây, đây? Thăng thiên về trời, có là vinh thăng chốn thiên đình, ở đâu đó? Ở bên trên vùng trời cao thấp, đất Giêrusalem? Và, thiên đường là ở nơi nào? Sao các phi hành gia tìm mãi, mà không thấy?

Nói tóm lại, toàn bộ Mầu nhiệm Vượt Qua, Thương Khó, Nỗi chết của Đức Kitô mà mầu nhiệm Phục sinh quang vinh, cũng như Thăng Thiên và Hiện Xuống, đều tạo một thực tế ta không thể nào khám phá bằng thời gian và không gian, được. Nhưng, ta chỉ hiểu được các huyền nhiệm ấy bằng niềm tin và thương yêu, mà thôi.

Vào Thứ Sáu Thánh Chúa Chịu Nạn, ta bảo Đức Giê-su thực sự đã chết. Và, vào Lễ Phục Sinh ta còn nói: Ngài vẫn sống đó rất vinh quang, thì Lễ Chúa Về Trời, ta còn phải thêm: Đức Giêsu-Phục-Sinh-hiện-vẫn-sống, Ngài đang ở với Cha, trong vinh hiển. Ở đây cũng thế, nếu không có niềm tin và yêu, ta sẽ chẳng hiểu được sự kiện Thăng Thiên

Ở nhà Đạo hôm nay, người người đều hiểu rằng: Đức Giêsu khi Ngài giã từ con dân đồ đệ ở khắp nơi chấm dứt tình trạng mang nặng hình hài thể xác, thì Ngài kỳ vọng mọi người sẽ thực hiện sứ vụ Ngài giao ban. Sứ vụ ấy, chẳng nặng nhọc gì cho cam. Cũng chỉ là: làm những việc Ngài đã từng làm. Làm cho người em bé bỏng chốn nghèo hèn, cùng khốn. Có thực hiện được sứ vụ như thế, mới thấy và mới hiểu được mầu nhiệm thăng thiên về trời mà Ngài nhất quyết.

Tuy nhiên, điều trước tiên Chúa muốn đồ đệ của Ngài làm, là: hãy về lại với Giêrusalem. Lưu lại ở đó chờ ngày Thánh Thần Chúa hiện đến với mọi người. Ngày đó, là ngày mà mọi người sẽ được thanh tẩy bằng Thần Khí. Ngày, mà dân con đồ đệ của Đức Chúa được giao cho trọng trách thực thi sứ vụ nối tiếp công việc của Chúa, rất cấp bách.

Như Chúa từng khẳng định: vào những ngày như hôm nay, dân con đồ đệ Chúa hiểu biết rất ít về sứ vụ Ngài từng bộc lộ. Và, có làm thế, mới chứng tỏ được niềm tin-yêu, ta có với Ngài. Có lẽ cũng vì lý do đó, mà dân con đồ đệ Ngài khi trước vẫn cứ hỏi: “Thưa Thầy, có phải nay là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?

Hỏi như thế, khác nào bảo: ở gần Thầy đến như thế, mà sao các thánh vẫn còn ôm ấp giấc mộng thời ban đầu? Giấc mộng, là ảo vọng về một quốc gia nào đó, rất không tưởng. Trớ trêu thay, câu trả lời vẫn cứ là: đúng đấy. Nhưng, đúng ở đây, vẫn không phải như ý của Chúa, hằng cho biết.

Bởi, sau khi lãnh nhận Thần Khí Chúa, các thánh đều đã trở nên môn đệ mang tính rất “người”. Cũng hăng say không kém. Vẫn quyết tâm khởi sự thực hiện Vương Quốc Nước Trời, không chỉ cho người Do Thái hoặc ở Giêrusalem hay Giuđêa mà thôi.

Nhưng, cả vào thời kết tận của trái đất. Không ràng buộc bằng thời gian hoặc không gian. Còn gì đẹp bằng, tình trạng dân con đồ đệ của Chúa nay thấy được Vương Quốc Nước Trời, đã thể hiện. Ở đây. Bây giờ.

Đó là sứ vụ của mọi người. Những người mang danh Kitô-khác. Tức, những vị đang quyết tâm thực thi điều Chúa dạy, là: dựng xây Nước Trời ở trần gian, bằng việc yêu thương có hy sinh. Yêu và thương, như Thầy đã yêu thương mình.

Chứ không còn đứng đó mà nhìn như ở sách Công vụ: “Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn về phía người ra đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng cạnh, và nói: Hỡi các bạn người Galilê, sao còn đứng trân trân đó mà nhìn trời? Đức Giê-su đây, Đấng vừa rời các bạn và được cất về với Thiên Chúa là Cha, sẽ lại đến cũng một kiểu như các bạn thấy đó, Ngài ra đi.” (CV 1: 10-11).

Ngài về với Cha, việc còn lại cho ta sẽ chẳng là “đứng đó mà nhìn trời” chiêm ngắm cảnh Ngài ra đi. Nhưng, hãy về với Giêrusalem, tức với thực tế cuộc đời, để thực hiện Lời Ngài căn dặn. Và, khi đã thực hiện Lời rồi, chắc chắn Nước Trời sẽ đến với mọi người. Với dân con đồ đệ của Chúa, nơi nhà Đạo. Và ở cả bên ngoài, nữa.

Lm Richard Leonard sj

            Mai Tá lược dịch.

HIỆP NHẤT TRONG YÊU THƯƠNG

HIỆP NHẤT TRONG YÊU THƯƠNG

Hiep nhat Trong Y T

“Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con để họ nên một như chúng ta… con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17:11-20)

Đã hơn hai ngàn năm rồi, lời nguyện của Thầy Giêsu Chí Thánh vẫn còn vang vọng cho đến ngày hôm nay.  Giêsu ngày xưa đã cầu xin cho các môn đệ và những ai tin vào Ngài được ơn hiệp nhất nên một trong tình yêu.  Nếu đặt mình trong bầu khí của bữa tiệc ly hôm ấy, chắc hẳn chúng ta sẽ hiểu được lòng của Giêsu hơn, hiểu được khao khát của Ngài hơn.  Hiểu được vì sao lúc này lòng Ngài lại hướng trọn về các môn đệ thân yêu và cả chúng ta nữa, dù Ngài đang phải đối diện với bao cam go và thách đố khi chuẩn bị đi vào cuộc thương khó.  Hiệp nhất là một ơn thật cao quý.

Hiệp nhất không phải là làm cho mọi người đều có cùng một quan điểm, một suy nghĩ, và tất cả đều khoác lên mình một bộ đồng phục giống nhau.  Thực tế, chúng ta rất khác biệt nhau.  Dù cùng một màu da, cùng một văn hóa, và cùng một ngôn ngữ; nhưng chúng ta được Chúa dựng nên với những nét độc đáo riêng biệt và với kế hoạch rất riêng Chúa dành cho cho cuộc đời mỗi người.  Khoa học cũng cho thấy rằng khả năng giống hệt nhau giữa những con người được sinh ra chỉ còn là 1 trên 70 vạn tỷ (1/7.1013).  So với khoảng 7 tỉ người trên thế giới hiện nay, khả năng có ai đó giống mình thì rất xa vời.

Hiệp nhất là nên một giữa những khác biệt.  Hiệp nhất như một bức tranh mang nhiều màu sắc khác nhau nhưng vẫn hài hòa với nhau và cùng diễn tả một ý nghĩa hay một chủ đề nào đó, như một bản hòa tấu du dương gồm các nốt nhạc cao thấp, mạnh nhẹ khác nhau chứ không phải là tiếng còi tàu một cung hú lên inh ỏi.  Chúng ta có thể trở nên hiệp nhất nhờ biết mình đều là con cái cái Chúa, đều mang nơi mình hình ảnh của Ngài.  Khi hiệp nhất chúng ta ta được ở trong tình yêu của Giêsu, và cũng là ở trong tình yêu của Chúa Cha.

Tình yêu được nhắc đến như điểm quy chiếu, điểm nối kết tất cả.  Không thể nói đến hiệp nhất nếu không có tình yêu.  Nếu yêu mến và gắn kết với Giêsu một cách thực sự, thì cũng sẽ yêu thương và gắn kết với nhau.  Nhờ tình yêu, cũng sẽ khiêm tốn để cảm thông và chấp nhận nhau.  Cũng sẽ cùng nhau nghĩ đến lợi ích lớn hơn thay vì chỉ loay hoay với những tính toán nhỏ mọn của riêng mình.  Và khi ấy sẽ có hiệp nhất và bình an.  Giêsu là cây nho, chúng ta là cành nho, cành nào không gắn liền với cây thì sẽ bị khô héo và tách rời, hiệp nhất hệ tại cành nho liên kết với cây nho.  Để hiệp nhất cần có một tình yêu rất riêng với Giêsu.  Giêsu phải là trung tâm cho đời sống của mình.

Ước mong nhờ lời cầu nguyện của Giêsu ngày xưa, bạn và tôi cũng nghe thấy một lời mời nào đó cho chính mình, và cũng biết mau mắn đáp lại.  Để rồi chính mình nghiệm thấy niềm vui của sự hiệp nhất và bình an khi được ở trong Chúa là Đấng nhân từ đầy yêu thương.

***************************************

Lạy Chúa Giêsu, trong một thế giới chỉ thích đề cao cái tôi và thích nghĩ đến ích lợi cá nhân.
Xin cho chúng con trở nên đơn sơ và nhỏ bé, biết quên mình nghĩ đến anh em.
Trong một thế giới đầy lừa lọc và gian dối.
Xin cho con dám sống chân thật như Chúa dù phải gặp nhiều thách đố gian truân.
Cuối cùng xin cho chúng con luôn biết chọn Chúa là trên hết và trước hết trong cuộc đời con, để khi gắn kết với Chúa, con được cũng được gắn kết với anh em,
khi hiệp nhất với Chúa, con cũng được hiệp nhất với anh em,
và tất cả chúng con được nên một trong tình yêu như Chúa hằng ước mong.  Amen.
Khánh Duy, S.J

5 CÁI ĐỪNG VỀ CUỘC ĐỜI

 5 CÁI ĐỪNG VỀ CUỘC ĐỜI

Con người muốn được sống hạnh phúc, thanh thản mà trong tâm lại vẫn cứ ôm giữ các loại tâm tranh đấu, oán hận thì vĩnh viễn không thể nào đạt được. Hãy ghi nhớ 5 thứ “đừng” sau đây để cuộc sống không phải vướng bận điều gì nữa!

CÁI ĐỪNG THỨ NHẤT: CÔ TIÊN ĐỪNG KEO KIỆT

Tiền khi sinh chẳng mang theo đến, khi tử chẳng mang theo đi. Sức khỏe mới là thứ quan trọng hơn nhiều, có sức khỏe thì mới có tất cả.

Trong dân gian có câu nói: “Không sợ kiếm ít tiền, chỉ sợ chết sớm”. Có sức khỏe thì ngại gì không kiếm được tiền. Vì sức khỏe, khi nào cần chi tiêu thì hãy chi tiêu, có tiền đừng keo kiệt.

CÁI ĐỪNG THỨ HAI: CÓ PHÚC ĐỨNG CHỜ ĐỢI
Con cháu đều có phúc của con cháu, đừng quá vì con cháu mà biến mình thành thân trâu ngựa. Nên tranh thủ thời gian hưởng thụ cuộc sống, đừng vì con cháu mà làm việc quá sức, làm cố quá là sát thủ nguy hiểm nhất của sức khỏe.

Con cháu đều có phúc của con cháu, đừng quá vì con cháu mà biến mình thành thân trâu ngựa.

CÁI ĐỪNG THỨ BA: CÓ TÌNH YÊU ĐỪNG BUÔNG BỎ

Cuộc đời thật ngắn ngủi, tình yêu lại không dễ tìm kiếm, cho dù yêu hay được yêu đều là duyên phận, đều nên đón nhận, ngày hôm nay bạn buông bỏ, thì kiếp này nó sẽ không bao giờ đến với bạn nữa.

CÁI ĐỪNG THỨ TƯ :TỨC GIẬN ĐÙNG ĐỀ TRONG LÒNG

Trong cuộc đời, ai cũng có thể phải gặp những chuyện khó khăn hay không vừa ý, đừng nên vì thế mà “nộ khí xung thiên”. Tức giận là tồn tại khách quan, không nên giữ ở trong lòng, nín thở thì khí sẽ ứ tắc, khí ứ tắc thì sẽ sinh bệnh.

Gặp phải những sự việc khiến ta tức giận, hãy tìm người để khai thông nó, thổ lộ ra hết, như vậy sẽ gỡ bỏ nó nhanh hơn, nội tâm sẽ yên bình trở lại.
Bạn bè chính là công cụ “thông tức khí” tốt nhất, cũng là nguồn động lực, khích lệ tinh thần, tiếp thêm sức mạnh tốt nhất cho bạn.

Hãy làm cho mỗi ngày trong cuộc đời của bạn là một ngày vui sống.

 

CÁI ĐỪNG THỨ NĂM: CÓ THÙ HẬN ĐỪNG GHI NHỚ

Lòng dạ khoáng đạt, dùng thiện lương nhân ái để đối đãi, không để ý những chuyện nhỏ, gạt bỏ ân oán, cũng không để thù hận trong lòng. Hãy làm cho mỗi ngày trong cuộc đời của bạn là một ngày vui sống.

Người xưa sống được trường thọ vì họ có “tam bất thức”, chính là không cần biết 3 điều, không quan tâm ân oán, không quan tâm tuổi tác, không quan tâm bệnh tật.

Hãy rèn luyện những điều này để sống thật vui vẻ nhé!

Anh chị Thụ & Mai gởi

Dân Thái Lan phát hoảng với cách khách du lịch Trung Quốc ăn tôm

Dân Thái Lan phát hoảng với cách khách du lịch Trung Quốc ăn tôm
Những năm gần đây, số lượng khách du lịch Trung Quốc đến Thái Lan ngày một tăng mạnh, gây không ít phiền hà, bực dọc cho người dân địa phương. Mới đây, hình ảnh chen lấn lấy tôm để ăn trong một buổi buffet đã làm rúng động cộng đồng mạng.
http://2.i.baomoi.xdn.vn/16/03/20/255/18923200/1_39403.jpg
Khách du lịch Trung Quốc hốt tôm khi ăn ở Thái Lan.
Có thể bạn quan tâm
Trên trang Shanghaiist vừa cập nhật một đoạn video đang gây sốt trên mạng xã hội. Cụ thể, đoạn video này đã quay lại một cảnh tượng khủng khiếp khi những du khách Trung Quốc chen lấn, xô đẩy lẫn nhau chỉ để tranh giành xúc tôm.
Sự việc này xảy ra tại bữa tiệc buffet được tổ chức trong một khách sạn ở TP Chiang Mai, Thái Lan. Những du khách này không chỉ lấy những đĩa tôm và thức ăn đầy ắp, lãng phí, mà còn có hành vi tranh đồ ăn với nhau.
http://2.i.baomoi.xdn.vn/16/03/20/255/18923200/2_79380.jpg
Bàn ăn đầy ắp tôm vừa “tranh được”
Ngay sau khi đoạn video được đăng tải lên mạng xã hội, nó đã được lan truyền một cách nhanh chóng.
Hầu hết cư dân mạng đều tỏ thái độ bất bình, lên tiếng phê phán hành động thiếu văn hóa của nhóm du khách này.
http://2.i.baomoi.xdn.vn/16/03/20/255/18923200/3_77487.jpg
“Bãi chiến trường” còn lại với hàng tá thức ăn thừa
http://2.i.baomoi.xdn.vn/16/03/20/255/18923200/4_93470.jpg
Một “bãi chiến trường” khác mà khách Trung Quốc bỏ lại
Đây không phải là lần đầu tiên bắt gặp những hành vi xấu xí của các du khách Trung Quốc khi ra nước ngoài tham quan, du lịch.
Truyền thông tại nhiều nước cũng từng nhiều lần đưa tin về những hành động thiếu lịch sự của nhiều nhóm khách đến từ Trung Quốc.

 

VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO TRƯỚC HIỆN TÌNH ĐẤT NƯỚC

VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO TRƯỚC HIỆN TÌNH ĐẤT NƯỚC

(Bài nói chuyện của Đức Cha  Vincent Nguyễn Văn Long, Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Melbourne, Úc Châu, trong Đêm Tưởng Niệm Tháng Tư Đen, do Quỹ Yểm Trợ Đấu Tranh cho Nhân Quyền Việt Nam, tổ chức tại nhà hàng Seafood Palace, thành phố Westminster, California, ngày thứ Năm 28 tháng 4 năm 2016.)

Kính thưa quý vị đại diện lãnh đạo các tôn giáo, các tổ chức và quý đồng bào,

Hôm nay, tôi rất hân hạnh được đến Thủ Đô của người Việt tỵ nạn trên thế giới, một nơi tuy không phải là quê cha đất tổ của chúng ta, nhưng nó mang đầy sắc thái của một tổ ấm của đàn chim Việt đang tản mác khắp bốn phương trời. Với cái tên Sài Gòn nhỏ, với những lá cờ vàng ba sọc đỏ tung bay ngạo nghễ, với những sinh hoạt văn hóa truyền thống và lịch sử trong một môi trường dân chủ, tự do, pháp quyền, đây không chỉ là nơi “đất lành chim đậu” hay là một điểm son của một nước siêu cường Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.

Trong hoàn cảnh quê hương chúng ta bị thể chế cộng sản độc tài đảng trị làm băng hoại về mọi mặt,  đây cũng là nơi bảo trì và phát triển văn hóa, lịch sử và truyền thống tinh túy của cha ông chúng ta. Nơi đây chúng ta không đóng khung, không quên nguồn gốc, không an phận trong tâm trạng tha phương cầu thực mà thực hiện trách nhiệm thiêng liêng với đồng bào quốc nội và với tiền đồ dân tộc. Nơi đây, chúng ta –những người tỵ nạn cộng sản, những con dân nước Việt còn trăn trở cho hiện tình đất nước– cùng nhau thực hiện giấc mơ chưa thành của những người đã hy sinh cho tổ quốc. Giấc mơ đó là gì thưa quý vị và đồng bào? Đó là ngày khải hoàn của công lý, của sự thật, của sự nhân bản, của những giá trị Chân-Thiện-Mỹ trên quê hương. Đó là ngày chiến thắng của ánh sáng trên tối tăm, sự lành trên sự dữ, chí nhân trên cường bạo và đại nghĩa trên hung tàn. Đó là ngày cánh chung của chế độ Cộng Sản và ngày quang phục của một Việt Nam thực sự độc lập, dân chủ và vững mạnh trước những thử thách mới. Bao lâu còn bị cai trị bởi chế độ cộng sản, quê hương chúng ta sẽ mãi mãi còn bị băng hoại và bế tắc toàn diện.

Tôn giáo và chính trị:

Tôn giáo và chính trị là hai thực thể mà nhiều người cho là không được trộn lẫn hay phải tách rời. Có nhiều người Công Giáo rất quảng đại với các dự án tình thương ở Việt Nam, xây nhà thờ, nhà xứ, Trung tâm Hành Hương v..v… nhưng họ lại rất dị ứng với các vấn đề Nhân Quyền và Công Lý. Họ có thể cho 5,3 ngàn cho giáo xứ này, dòng tu nọ ở Việt Nam. Còn mua một cái vé số $10.00 để ủng hộ cho Tù Nhân Lương Tâm thì họ đắn đo ngại ngùng. Họ cho rằng đó là làm chính trị! Thế thì Chúa Giêsu có làm chính trị hay không khi Ngài thực thi sứ mạng cứu thế: “Thần trí Chúa.. giải thoát cho kẻ bị giam cầm, đòi tự do cho kẻ bị áp bức…”?

Nhưng không ai, kể cả những người tu hành như tôi, có thể dửng dưng với những vấn nạn xã hội do sự lãnh đạo hay thể chế chính trị gây ra. Chúng ta không thể sống đạo tức là tìm những điều hay lẽ phải mà lại không quan tâm tới sự dữ và sự bất công đang tràn lan trên quê hương. Chúng ta không thể yêu Thiên Chúa mà lại không để ý tới tiếng kêu than của dân oan. Trước khi làm người Công Giáo, trước khi làm giám mục, tôi là người Việt Nam; tôi chịu ơn những anh hùng hào kiệt đã hy sinh cho tiền đồ dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử. Tôi chịu ơn những chíên sỹ Việt Nam Cộng Hòa đã bảo vệ tự do cho tôi. Tôi chịu ơn những thuyền nhân đã không may mắn như tôi, nhưng cũng chính vì những cái chết thương tâm của họ mà thế giới tự do đã đón nhận những người tỵ nạn cộng sản còn sống sót như tôi.Tôi không thể không trăn trở với hiện tình đất nước; tôi không thể không nhắm mắt làm ngơ với hệ thống chính trị lỗi thời là chế độ cộng sản đang làm cho đất nước băng hoại hoàn toàn.  Trên huy hiệu giám mục của tôi có lá cờ VNCH trải ngang như làn sóng trên nền xanh là đại dương. Tôi không thể bỏ quên quá khứ và căn tính tị nạn của mình. Tôi không ngần ngại khẳng định lập trường của mình là: không bao giờ tách lìa lý tưởng một Việt Nam phi cộng sản và một Việt Nam nhân bản ra khỏi sứ mạng giám mục của tôi.

Năm 1982 khi về quê hương mình còn đang sống dưới chế độ cộng sản, ĐGH Gioan Phaolô II đã mạnh dạn công bố trong Thánh Lễ đại trào: “Anh chị em thân mến. Dù đời sống của người Ba Lan khó khăn thế nào, chúng ta cung đừng nản lòng tranh đấu cho công lý và sự thật, cho tự do và nhân phẩm của con người.” Điều này  đã cho chúng ta thấy rằng, tranh đấu cho công lý và sự thật, cho tự do và nhân phẩm không phải là việc làm của những kẻ muốn chính trị hóa tôn giáo mà là bổn phận ‘nhp th hóa’ Tin Mừng và ‘Kitô hóa’ môi trường của chúng ta. Nếu chúng ta chỉ giữ đạo trong nhà thờ hay chùa chiền, nếu chúng ta chỉ đóng khung tôn giáo trong những vấn đề siêu nhiên mà hoàn toàn vô cảm với những vui mừng và hy vọng, những sợ hãi và lo âu của đồng loại, thì phải chăng tôn giáo chỉ là thứ thuốc phiện ru ngủ chúng ta như lời Karl Marx? Đây cũng là chiêu bài của cộng sản. Họ muốn tôn giáo chỉ là thứ thuốc phiện ru ngủ dân chúng. Họ muốn biến tôn giáo trở thành một công cụ của chế độ và phục vụ sự độc quyền chính trị của họ.

Công lý xã hội dưới ánh sáng Phúc Âm:

Phúc Âm và đời sống không thể tách lìa nhau; tôn giáo và chính trị không thể không liên hệ với nhau. Vai trò ngôn sứ của Giáo hội đòi buộc người tín hữu ở mỗi bậc và mỗi hoàn cảnh phải tranh đấu cho một xã hội phản ảnh Vương Quốc của Thiên Chúa.

Thực thế, truyền thống công lý xã hội trong Kinh Thánh là bằng chứng hùng hồn về sự nhập thế của các giá trị siêu nhiên vào đời sống tự nhiên của con người. Ơn cứu độ không chỉ có nghĩa là một sự giải thoát của linh hồn và đời sống vĩnh hằng trên Thiên Quốc mà là sự giải thoát con người toàn diện. Ngay trên cõi đời này và ngay trong xã hội này, con người được mời gọi để sống cuộc sống sung mãn với Thiên Chúa và tha nhân. Do đó, sống đức tin và sống thánh thiện không chỉ có một chiều dọc, tức là thờ phượng kính mến Chúa. Sống đức tin và sống thánh thiện không thể tách lìa khỏi tiến trình công lý hóa xã hội và phong phú hóa đời sống con người.

Tiên tri Isaiah đã định nghĩa cho chúng ta thế nào là giữ đạo, đó là “phá v xing xích của bn ác nhân, ct đi gánh nng của k lm than, gii thoát cho k bị áp bc và phá tan mi gông xing” (Isaiah 58:6). Đức Kitô đi đến đâu cũng quan tâm đến người cùng khốn trong xã hội. Ngài đứng về bên những người nghèo hèn, bị áp bức, bắt bớ, thiệt thòi và bất công. Ngài lên án những người dùng quyền lực, địa vị và ảnh hưởng của mình để làm tổn thương, triệt hạ người khác và khuynh đảo xã hội.

Quan hệ giữa Công giáo và cộng sản qua những giai đoạn lịch sử:

Một số quý vị lớn tuổi ở đây chắc đã từng trải qua thời kỳ Việt Minh vào những năm sau Đệ Nhị Thế Chiến. Ở Bắc Việt, Đức Giám Mục Lê Hữu Từ, đã có thời lập ra khu Bùi Chu – Phát Diệm tự trị với cả những đội vũ trang Tự vệ Công giáo, chống lại chính quyền Việt Minh do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo. Đối với ngài cũng như rất nhiều giám mục miền Bắc trong thời kỳ đó đã không ngần ngại dấn thân cho quê hương và có thể nói vượt qua cái ranh giới thông thường của đạo và đời, tôn giáo và chính trị. Hôm nay, tôi không có ý hoài niệm về một quá khứ mà nhiều người trong thế hệ cha anh rất tự hào về giáo hội Việt Nam; tôi càng không có ý cổ võ một con đường chống đối bạo động dù đối với chế độ vong bản phi nhân. Tuy nhiên, khi lấy cuộc sống sung mãn làm mục đích, chúng ta không thể mặc nhiên để sự ác hoành hành khống chế xã hội. Sự ác này không những thể hiện nơi cá nhân hay đoàn thể. Tôi cho rằng sự ác lớn nhất đang hoành hành trên đất nước chúng ta hôm nay chính là tà quyền và hệ thống chính trị đưa con người vào chỗ bế tắc. Tôi cho rằng chỉ có một Việt Nam hết nô lệ bởi ý thức hệ cộng sản, hết trói buộc bởi cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh, hết bị xiềng xích bởi định hướng xã hội chủ nghĩa thì mới có thể vươn mình đứng dậy.

Tôi mở ngoặc ở đây để nói về những lời phát biểu được coi là rất đột phá của một số đại biểu tại quốc hội cộng sản Việt Nam (Trương Trọng Nghĩa, Dương Trung Quốc). Họ dám mạnh dạn lên tiếng về tình trạng không an toàn về pháp lý, các quyền tự do dân chủ không bảo đảm đầy đủ và lo sợ ở đất nước bị lệ thuộc.  Thế nhưng, cả những đại biểu phản tỉnh này vẫn còn trong cái vòng luẩn quẩn của chủ nghĩa xã hội. Họ chưa có can đảm để nói lên cái cội rễ của sự bế tắc toàn diện, thậm chí còn thần thánh hóa ông Hồ Chí Minh: Bao lâu còn bị nô lệ bởi ý thức hệ cộng sản, bấy lâu đất nước sẽ không có lối thoát. Chỉ khi không còn cái quái thai do Hồ Chí Minh sinh ra và đảng cộng sản tiếp tục nuôi dưỡng thì dân tộc ta mới ra khỏi cơn ác mộng.

Trong cuốn “Chứng từ của một giám mục” mà các bác trong nhóm “Diễn Đàn Giáo Dân” đã xuất bản năm 2009, người đọc có cảm tưởng tìm được một đóa hoa sen tinh khiết lừng lững vươn lên giữa bùn lầy nhơ bẩn. Sống qua những biến cố hải hùng nhất khi Việt Minh cướp chính quyền, thanh trừng nội bộ, cải cách ruộng đất, chủ trương bạo động cách mạng, di cư 54, xâm lăng miền nam v..v.. Gíam Mục Lê Khắc Trọng luôn có cái nhìn sâu sắc để nhận biết hư thật trong cái chế độ gỉa dối tuyên truyền. Quan trọng hơn nữa, ngài luôn giữ vững lập trường không thỏa hiệp và không nhượng bộ trước những âm mưu khống chế và lợi dụng tôn giáo của cộng sản. Thái độ dứt khóat của ngài về cái tổ chức tiền nhân của “Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo” là một điều tiêu biểu.

Những năm gần đây, tiếp theo chính sách đổi mới của đảng CSVN, một phong trào tô điểm cho chế độ với những nới lỏng về kinh tế, tôn giáo, du lịch v.v.. được tuyên truyền rầm rộ. Thực tế là như thế nào? Đó chỉ là một sự đổi mới giả tạo, một kiểu sơn phết bên ngoài trong khi cả hệ thống chính trị như căn nhà đã mục nát từ bên trong cái nền tảng của nó.

Theo chính sách đổi mới nửa vời này, cái tôn giáo cũng đã được hưởng một số tự do “xin cho” của chế độ. Vì thế, gần đây chùa chiền, nhà thờ, dòng tu, trung tâm hành hương v.v.. cứ như trăm hoa đua nở trên khắp nước. Thậm chí có những nơi người dân sống thật cơ cực nhưng nơi thờ phượng thì vẫn sang trọng. Nếu là một du khách từ Úc hay Mỹ thăm Việt Nam, họ sẽ ngạc nhiên khi thấy các nhà thờ hay chùa chiền xây lên với mức kỉ lục. Những khu công giáo di cư như ở Hố Nai Gia Kiệm, người ta có cảm tưởng là có một phong trào xây và tu bổ nhà thờ. Lại nữa, họ sẽ thấy các sinh hoạt tôn giáo như rước sách, lễ hội, hành hương v.v.. thật đông đúc năng động. Có nhiều đấng bậc còn chế diễu những ai chỉ trích chế độ là chúng ta phải cám ơn cộng sản vì họ đã làm ơn cho giáo hội.

Tôi không có ý chỉ trích việc xây cất sửa sang nơi thờ phượng. Tôi cũng không phê bình việc tổ chức các lễ hội hay rước sách trọng thể. Nhưng nếu chúng ta chỉ đo lường sự năng động của Giáo Hội qua những sinh hoạt thuần tuý tôn giáo thì tôi e rằng đó là một sự thẩm định phiếm diện. Truyền thống đức tin Công Giáo luôn gắn liền với công bình xã hội, nhân phẩm con người, lợi ích chung và các giá trị căn bản. Nếu chúng ta có nhiều nhà thờ, nhiều người đi lễ, nhiều linh mục tu sĩ, nhiều lễ hội v.v.. mà chưa làm muối men cho tiến trình công lý hoá cho xã hội, chưa dấn thân trong việc phục hồi nhân phẩm con người, lợi ích chung và các gía trị căn bản thì tôi cho rằng chúng ta chưa thực hiện đầy đủ vai trò làm lương tri của xã hội.

Tôn giáo là lương tri của xã h̉ội hay là công cụ của chế độ?

Lịch sử Việt Nam qua nhiều thời đại đã minh chứng được sự dấn thân của người tín hữu thuộc mọi thành phần giáo hội vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Thế nhưng trong xã hội toàn trị, sự ru ngủ lương tri của giáo hội đã trở thành một hiện tượng phổ biến nằm trong chính sách công cụ hóa tôn giáo của ta quyền cộng sản. Các cụm từ như tôn giáo và dân tộc,’ ‘tt đời đẹp đạo,’ giáo dân tt công dân tt,’ kính Chúa yêu nước‘đồng hành cùng dân tộc đã trở thành những viên thuốc an thần để ru ngủ lương tri và vô hiệu hóa vai trò ngôn sứ của giáo hội. Tại La Vang năm 2010 Phó Thủ Tướng Nguyễn Thiện Nhân đã ban huấn từ cho cả các giám mục Việt Nam về việc mà ông gọi là “đồng hành cùng dân tộc.” Bằng chiêu bài đồng hóa đảng với dân tộc họ biến lòng yêu nước thành yêu đảng và chống đảng là chống lại dân tộc. Điều đáng buồn là liều thuốc an thần này đang làm ru ngủ và làm vô cảm lương tri của nhiều người Việt Nam, kể cả người tín hữu. Đồng hành cùng dân tộc không thể là đồng hành cùng chế độ, nhất là khi chế độ đó đang đưa dân tộc vào chỗ diệt vong.

Quý vị thân mến,

Nhưng tôi nghĩ rằng nếu tôn giáo mà mất vai trò ngôn sứ thì nó bị thuần hóa và trở thành công cụ của chế độ. Lúc đó, chúng ta không còn là tiếng kêu trong hoang địa như ông Gioan Tẩy Giả nữa mà sẽ là tiếng xèng kêu inh ỏi (1Cor 13:1). Thánh Phaolô nói là nếu tôi làm được nhiều điều cao trọng mà không có đức ái thì tôi chỉ là chiếc thùng rỗng kêu to. Điều này có thể áp dụng vào việc chúng ta chu toàn sứ mạng Phúc Âm. Nếu Giáo Hội chưa dấn thân trong việc phục hồi nhân phẩm con người, lợi ích chung và các gía trị căn bản, nhất là trong một xã hội không tôn trọng nhân quyền như tại Việt Nam, thì có phải chúng ta chỉ là tiếng xèng kêu inh ỏi hay không?

Gần đây tại Việt Nam, có phong trào xây cất các trung tâm hành hương và các trung tâm sinh hoạt của các địa phận và dòng tu. Riêng tại Xuân Lộc, giáo phận đã mua được hàng trăm mẫu đất và một chương trình kiến thiết đồ sộ đang được tiến hành. Được biết giáo phận lớn nhất nước này có hy vọng Trung Tâm Núi Cúi sẽ là nơi tiếp đón ĐGH Phanxicô một khi ngài được đảng CSVN cho phép đến. Tôi chắc chắn rằng nếu đặt chân tới VN, ĐGH sẽ được tiếp đón một cách vô cùng long trong. Thế giới bên ngoài sẽ nhìn thấy một hình ảnh một giáo hội công giáo hơn cả nhiều nước bên tây phương về con số giáo dân, linh mục, tu sĩ và về những biểu hiện đức tin bề ngoài. Đó sẽ là một hình ảnh để chế độ cs có thể tuyên truyền về chính sách tự do tôn giáo của họ. Thế nhưng nếu chúng ta đo lường vai trò giáo hội theo tiêu chuẩn phúc âm, tức là ảnh hưởng của giáo hội như men dậy bột, như đèn sáng trong đêm tối, như tiếng nói sự thật giữa sự gỉa dối thì tự hỏi sứ mạng đó đang được chu toàn như thế nào. Nếu chúng ta có đội ngũ linh mục tu sĩ đông đảo, có nhà thờ to, chùa đẹp, Trung Tâm hành hương hoành tráng…nhưng với cái giá là bị vô hiệu hóa vai trò làm lương tri xã hội, làm người đồng hành với người sầu khổ, bênh vực dân oan, quan tâm tới kẻ chịu bất công, đóng góp vào tiến trình công lý hoá xã hội v..v..  thì còn ý nghĩa gì?

Tôi cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội vị Cha Chung luôn quan tâm đến những người bị bỏ rơi, nhất là những nạn nhân của bất công.Trong tông huấn mang tựa đề “Niềm vui của Tin Mừng”,  Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng “tôi muốn một Giáo Hội bị thương tích, đau đớn và lấm bùn vì đã dám dấn thân xuống đường thay vì một Giáo Hội ẩn mình sau một lớp bình phong của kinh kệ, lễ nghi và lề luật mà xa lìa những tâm hồn đổ nát”. Tôi cho rằng đây là một lời hiệu triệu và một sự thách thức cho Giáo Hội Việt Nam để chúng ta ẩn mình trong những cơ sở vật chất hoành tráng mà quên đi sứ mạng đồng hành với những người bị ức hiếp trong lộ trình đấu tranh cho công lý.

Cách đây 30 năm Đức Hồng Y Giacobe Sin ở Phi Luật Tân đã dẫn hơn 1 triệu giáo dân xuống đường trong cuộc “cách mạng Hoa Mân Côi”. Sở dĩ gọi như hế là vì những người biểu tình chỉ cầm trong tay có tràng hạt! Họ đọc kinh, ca hát và đồng thời kêu gọi Tổng Thống Fidel Marcos từ chức vì sự bế tắc chính trị trong nước. Ông Fidel Marcos đã bị lật đổ vì sức mạnh quần chúng (people power). Nhưng xét cho cùng, sự sai trái của ông Marcos không thể so sánh với những tội ác tầy trời của Cộng sản Việt Nam.

Một chút nữa đây, chúng ta sẽ cùng xem qua một vài hình ảnh nói lên tội ác tầy trời của Cộng Sản. Từ cải cách ruộng đất cho đến di cư 54, từ Tết Mậu Thân cho đến mùa hè đỏ lửa 72, từ biến cố 30-4.75 cho đến cuộc vượt bên vô tiền khoáng hậu. Những năm gần đây, một cuộc dàn xếp trao đổi mờ ám giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam và quan thầy Trung Cộng đã diễn ra. Hậu quả là Đảng CSVN được bảo vệ quyền lực và bổng lộc để đổi lại sự mất chủ quyền cho Trung Cộng và khống chế toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, môi trường, quân sự, quốc phòng. Biến cố ô nhiễm tại Vũng Áng gây tổn thất sinh thái và ảnh hưởng độc hại cho hàng triệu người tại các tỉnh ven biển miền Trung là tiêu biểu cho sự trao đổi mờ ám này. Đây có phải là biến cố “tức nước vỡ bờ” và cơ hội để người dân Việt Nam vượt qua sự sợ hãi hay không? Cô giáo Trần thị Lam ở Hà Tĩnh đã viết lên một bài thơ thật ai oán:

Đất nước mình ngộ quá phải không anh?
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…

Đất nước mình lạ quá phải không anh?
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…

Đất nước mình buồn quá phải không anh?
Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và biển thì đang chết
Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa…

Đất nước mình thương quá phải không anh?
Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại
Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu…

Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh?
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu…

Giáo Hội Phi Luât Tân đã mạnh dạn nhập vào cuộc khi chính phủ độc tài Marcos ban hành lệnh thiết quân luật và triệt hạ các đối thủ chính trị. Giáo Hội Việt Nam có thể đứng ngoài lề khi đất nước đang đứng trước bờ vụng thẳm của sự diệt vong. Muốn phục hưng đất nước, chúng ta không thể làm ngơ với hệ thống chính trị tha hóa, chúng ta không thể cắt bỏ cái bưới ung thư là chế độ Cộng Sản. Tôi dám khẳng định là chúng ta không thể yêu nước mà không chống Cộng và diệt Cộng vì ý thức hệ Cộng Sản chính là căn nguyên và cỗi rẽ của mọi bế tắc, mọi băng hoại mà người dân ta đang gánh chịu.

Kính thưa qúy khách và đồng bào,

Lịch sử sẽ đào thải những gì không còn thích hợp. Dù có ngoan cố cưỡng lại, không ai có thể ngăn cản thế lực của lịch sử, cũng như không chính thể nào có thể làm ngược lòng dân mà tồn tại. Chúng ta hãy can đảm dấn thân cho tương lai của chúng ta và con cháu chúng ta, chúng ta hãy góp một bàn tay khai thông những bế tắc hầu cùng với toàn thể dân tộc mở ra một kỷ nguyên mới cho quê hương Việt Nam. Hãy VƯỢT QUA MỌI SỢ HÃI. Hãy  liên kết thành sức mạnh để phá tan xiềng xích của sự bạo tàn, dối trá và gian ác là chế độ cộng sản. Hãy cùng nhau khai thông dòng sông lịch sử để nó được chảy và làm tươi mát phì nhiêu cho đất Việt thân yêu. Xin Thiên Chúa chúc lành và kiện toàn cho mọi hy sinh và nỗ lực của chúng ta, người con dân của tổ quốc trong và ngoài nước đang khát khao và tranh đấu cho công lý. Hãy vững tin tiến về bình minh mới, ngày mùa gặt mới của quê hương, vì “người đi gieo trong đau thương sẽ về giữa vui cười”.

(Chu Tất Tiến ghi lại.)

Anh chị Thụ & Mai gởi

Để cứu mình và cứu đồng bào ruột thịt

Tram cuu Thu Tuong “NGUYEN TAN DUNG”

PHẢI ĐÓNG CỬA NGAY, KHÔNG CHỈ TẬP ĐOÀN THÉP FORMOSA HÀ TĨNH MÀ CÒN NHIỀU NƠI KHÁC NỮA !

Bs. Hồ Hải Posted on: 2016-05-03

Mấy hôm nay thông tin ô nhiễm môi trường biển miền Trung Việt Nam tràn về, hết tôm cá chết, đến người ngộ độc và chết. Tôi đã có bài viết nhân dân Việt Nam hãy kiện tập đoàn Formosa ra tòa án quốc tế, nếu chính phủ Việt Nam không kiện, buộc bồi thường, và đóng cửa tập đoàn này, vì đã vi phạm luật tài nguyên môi trường của Việt Nam và của Công ước thế giới về bảo vệ môi trường vừa được ký kết tại trụ sở Liên Hiệp Quốc của 171 nước thành viên vào ngày 22/4/2016.

Song song với việc này, tôi tìm hiểu về xuất thân, cơ cấu, và cách họ làm việc tại dự án khu công nghiệp Vũng Áng, Hà Tĩnh như thế nào?

Ít ai để ý thông tin ngao chết từ tháng 12/2015, chỉ khi cá chết mới chú ý Formosa Hà Tĩnh!

FORMOSA HÀ TĨNH XUẤT THÂN MỜ ÁM

Điều đầu tiên khi tìm hiểu tôi thấy xuất hiện cái tên: Ha Tinh Formosa (Cayman) Limited. Tôi không rõ lắm, nhưng cái tên Cayman trong ngoặc đơn làm cho bất kỳ ai đã từng làm ăn cũng có thể liên tưởng đến một Offshore Company – dạng công ty giống như hồ sơ Panama – lập ra ở thiên đường trốn thuế của quần đảo Cayman thuộc Vương Quốc Anh. Điều này cũng đã được báo CAFEF xác tín. Nó được thành lập ngày 12/6/2008 tại Cayman.Tập đoàn CSC của Đài Loan – China Steel Corporation of Taiwan – nắm giữ 19% cổ phần.

Một thông tin khác từ trang Steel First đưa ngày 04/10/2013 thì Formosa Petrochemical Corp (FPC), một công ty con của tập đoàn Đài Loan Formosa Plastics Group, đã giảm cổ phần của mình tại Việt Nam ở Formosa Hà Tĩnh Steel Corp xuống còn 14,75% từ con số đầu tư ban đầu là 21,25%. Nhưng mọi thông tin bí mật không được cho phép tiết lộ từ các thành viên của Formosa Hà Tĩnh Steel Corp.

Ngày 30/7/2015, Tập đoàn JFE Steel Corporation của Nhật Bản ra thông báo, họ sẽ đầu tư vào Formosa Hà Tĩnh Steel Corp 5%. Và cơ cấu thành phần của nó như sau:

Tổng công ty Formosa Hà Tĩnh Steel (VSATTP)

Địa điểm: Khu kinh tế Vũng Áng, Huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam
Thành lập: 2008
Chủ tịch: Chen, Yuan Cheng
Kinh doanh: Tích hợp sản xuất thép
Vốn điều lệ: 4,5 tỷ USD
Cổ đông: Hiện tại: FPG của FPC: 95%, China Steel Corporation của Đài Loan: 5%
Kế hoạch: FPG 70%, China Steel Corporation 25% và JFE Steel 5%
Nhân viên: 6466 (kế hoạch cho giai đoạn đầu của dự án)
Đầu tư: 10,5 tỷ USD (kế hoạch cho giai đoạn đầu của dự án)
Cơ sở vật chất theo quy hoạch: lò Coke, Nhà máy nghiền bột sắt, hai lò nung cao, cơ sở sản xuất thép, nhà máy cán nóng, thép thanh / máy cán que sợi và máy phát điện.

Đến đây chúng ta thấy 3 chủ đầu tư chiến lược của Formosa Hà Tĩnh là: Tổng công ty thép Đài Loan: 25%, Công ty con của FPC là FPG: 70% và Tập đoàn thép JFE Nhật Bản 5%. Nhưng có một thông tin gốc từ Quần đảo Caymen đưa ra là, mọi giao dịch buôn bán cổ phiếu của Formosa Hà Tĩnh đều diễn ra ở đây thông qua nhà trung gian Alibaba của Jack Ma ở Trung Hoa lục địa theo dạng IPO!

Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam cần phải điều tra kỹ càng gồm:

  1. Formosa Hà Tĩnh có văn phòng đặt ở Quần đảo Cayman, Vương quốc Anh.
    2. Việc chuyển nhượng cổ đông chiến lược do Alibaba thực hiện dạng IPO ở đảo Cayman rất bí ẩn.
    3. Liệu khi Việt Nam cấp phép hồ sơ cho Foprmosa Hà Tĩnh có phù hợp với luật đầu tư của mình không?

DIỄN BIẾN TRẦM TRỌNG CỦA CÁ CHẾT Ở BIỂN ĐÔNG

Ca chet BIEN DONG

Khoảng cách bể biển từ Hà Tĩnh vào Đà Nẵng 418km chỉ mất 2 tuần nhiễm độc biển theo dòng thủy lưu, chỉ 6 tuần nữa sẽ nhiễm độc đến mũi Cà Mau!

Cho tới hôm nay, sau cuộc họp báo của Formosa Hà Tĩnh thực hiện chiều ngày 26/4/2016, họ vẫn khẳng định họ không gây ô nhiễm môi trường biển, và họ không liên quan gì đến vụ cá biển chết trên chiều dài 250km từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế. Nhưng sáng nay, 27/4/2016, theo dòng thủy lưu, cá biển đã chết đến bờ biển Đà Nẵng dài 418km – theo bản đồ của Google Map.

Chiều nay, 27/4/2016, bộ tài nguyên môi trường sẽ trả lời kết quả vì sao cá chết và người chết ở biển miền Trung. Nhưng tin đưa 14:36′ chiều nay là Hủy họp báo về nguyên nhân cá chết ở miền Trung, do đâu? Do các cơ quan thẩm định của đảng cầm quyền kém năng lực hay do lệnh của thiên triều phương Bắc? Lời tuyên thệ nhậm chức của quốc hội, chủ tịch nước và thủ tướng còn chưa đầy tháng, nhưng họ bỏ đi đâu?

Lúc này, hơn lúc nào hết, người dân Việt thấm thía chân lý: “Ngay cả độc lập tự do cũng mua được bằng tiền, dù chúng không có gì quý bằng”. Và một chân lý khác của cố tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” đời đời không thay đổi!

Chỉ trong nửa tháng qua, cá chết đã lan rộng trên 418km, thì khoảng cách bờ biển từ Đà Nẵng đến Cà Mau là 1242km, chỉ mất khoảng 6 tuần! Nếu tính thời gian lan tỏa cá chết từ Hà Tĩnh đến Mũi Cà Mau thì chỉ trong 8 tuần, kể từ ngày dân phát hiện cách đây 2 tuần. Toàn bộ bờ biển Việt Nam trở thành bờ biển chết. Cuộc chết này diễn ra đúng dịp 30/4/2016 cũng ngần ấy thời gian 55 ngày đêm, mà không chỉ chết cá, mà cả con người.

THIỆT HẠI LÀ DIỆT VONG VÀ NỘI CHIẾN

Biển chết thì Việt Nam không chỉ thiệt hại về ngư trường, mà con thiệt hại rất nhiều ngành liên quan chỉ vì một số tiền giá trị 10.5 tỷ đô la của dự án Formosa Hà Tĩnh Steel Corp.

Đầu tiên là toàn bộ thu nhập hàng tỷ đô la do ngư dân đánh bắt, nuôi trồng hải sản mỗi năm đem về. Theo báo cáo năm 2015 chỉ riêng ngành xuất khẩu hải sản đã mang về cho Việt Nam 6.72 tỷ đô la! Chưa kể, tiêu thụ nội địa, và đảng cộng sản vẫn rêu rao rằng, ngư dân bảo vệ biển đảo quê hương, chứ không phải quân đội bảo vệ.

Thứ hai là, ngành du lịch cả nước sẽ chết, một ngành công nghiệp không khói, không gây ô nhiễm chết đi. Tốc độ tăng trưởng ngành du lịch trong 10 năm qua đã tăng gấp 6 lần. Tổng thu du lịch năm 2015 theo báo cáo của tổng cục du lịch ngày 30/12/2015 là 338.000 tỷ đồng tương đương hơn 15 tỷ đô la.

  Thứ ba là, ngộ độc toàn dân vì ăn thực phẩm biển và tắm biển không thể tính bằng tiền khi di chứng nó để lại bệnh tật, dị tật bẩm sinh cho những thế hệ tiếp theo. Tấm gương của Nhật Bản về bệnh Minamata do ngộ độc thủy ngân từ việc súc rửa đường ống của Tập đooàn Chisso vào năm 1956! Nhưng ở Formosa Hà Tĩnh Corp không biết có bao nhiêu kim loại nặng ngoài thủy ngân?

Dân Hà Tĩnh: Chúng tôi đánh bắt cá gần bờ không còn ai thu mua nữa!

Thứ tư của thiệt hại có thể dẫn đến bạo loạn xã hội là tình trạng thất nghiệp của ngành nuôi trồng đánh bắt hải sản trong cả nước, và ngành du lịch gây ra. Trong khi, Formosa Hà Tĩnh Corp chỉ có thể giải quyết công ăn việc làm không tới 5000 lao động Việt Nam.

Chỉ tính riêng ngành du lịch đến năm 2010 đã giải quyết 1.472.000 lao động, và đến năm 2015 bổ sung thêm 620.000 lao động mới, vị chi là giải quyết công ăn việc làm 2.092.000 lao động. Cũng chỉ tính riêng ngành nuôi trồng thủy sản và đánh bắt cá năm 2014 của Tổng cục thống kê đã có đến 7.989.700 người làm nghề đánh bắt cá chưa kể hơn 100 ngàn lồng bè với 1.053.900 hecta nuôi trồng thủy sản của bà con nông dân trên khắp cả nước.

Thứ năm của thiệt hại là, khi hơn 10 triệu lao động kia thất nghiệp sẽ kéo theo những ngành nghề khác như ảnh hưởng trực tiếp là nhà hàng khách sạn có kinh doanh đồ hải sản, và các ngành liên đới bị giảm sút vì sức mua trong dân giảm. Như vậy cần khu công nghiệp thép Formosa Hà Tĩnh hay cần biển như ông giám đốc đối ngoại của Formosa đã nói thì quá rõ.

Tôi cho rằng ông Chu Xuân Phàm là người tốt, ông đã giúp cho chính quyền và nhân dân Việt Nam sáng mắt ra khi phải hy sinh dân tộc và tổ quốc cho 10.5 tỷ đô la kiếm ăn của nhóm lợi ích, là điều không thể chấp nhận được! Ông đã dạy chúng ta một bài học cần phải làm gì, và hãy bỏ nó khi chưa muộn. Cảm ơn ông.

KHÔNG CHỈ CÓ FORMOSA

Tết âm lịch 2016 vừa rồi, tôi về thăm lại Daklak, và được biết thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Daknong, nơi mà các khu công nghiệp Bauxite Tây Nguyên Tân Rai và Nhơn Cơ đã làm ô nhiễm mạch nước ngầm. Dân Gia Nghĩa bây giờ không dám uống nước từ giếng nước, mà phải mua nước từ Ban Mê Thuột về để uống. Người dân có khả năng phải đưa con em mình từ Gia Nghĩa di cư đến thành phố hoặc địa phương khác sinh sống và học tập.

        Nạn hạn hán và ngập mặn ở miền Tây Nam Bộ năm nay và hạn hán miền Trung đang diễn ra không chỉ là El Nino, mà còn là hậu quả của kế hoạch phát triển sai lầm của đảng cầm quyền bằng mọi giá phát triển nước ta là một nước công nghiệp hiện đại đến năm 2030 mà không có một tầm nhìn và trách nhiệm vĩ mô cho đất nước và dân tộc.

LỜI KHUYÊN CỦA MỘT THẦY THUỐC

Ngay từ bây giờ, toàn bộ người dân sống trên lãnh thổ Việt Nam cần làm gấp những việc sau:

  1. Ngay bây giờ, di chuyển từ miền Trung vào Nam ở nếu có điều kiện.
  2. Dự trữ gạo, mắm, muối, khô hải thủy sản dùng ít nhất cho 6 tháng.
  3. Ngưng sử dụng thực phẩm biển và nuôi trồng hải sản sau khi Formosa Hà Tĩnh Steel Corp đóng cửa ít nhất 6 tháng.
  4. Phụ nữ mang thai chấm dứt dùng thủy hải sản bắt đầu từ hôm nay đến sau khi sinh nở và Formosa Hà Tĩnh Steel Corp đóng cửa ít nhất 6 tháng.

Hãy tự bảo vệ mình bằng cách:

  1. Không ăn đồ biển.
    2. Không đi du lịch miền biển, trước mắt là 30/4/2016 ở nhà tránh bệnh.

KẾT

Cuối ngày 25/4/2016 vừa qua, tôi rất hy vọng khi ông tân thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu khẩn trương xử lý nghiêm vụ cá chết ở miền Trung. Nhưng vẫn chưa đủ, cần phải rà sóat tất cả các khu công nghiệp mà các vua địa phương đã quy hoạch thiếu tầm nhìn trong 10 năm qua, mà hủy bỏ nó không thương tiếc. Riêng Formosa Hà Tĩnh Corp là buộc họ phải đền bù và đóng cửa ngay khi có chứng cứ pháp lý khi vẫn còn chưa muộn. Nếu không, dân tộc này sẽ đổ máu một lần nữa là điều không tránh khỏi.

Cuộc di dân những tử thi cá lần này là một cuộc chết của dân tộc Việt không khác 55 ngày đêm của sự cố 30/4/1975. 41 năm sau khi giành được miền Nam, năm nay đảng cộng sản cầm quyền đưa dân tộc vào một “cuộc chết” khác bằng độc dược cũng bằng khoảng thời gian giành lấy một miền Nam đang đứng đầu Đông Nam Châu Á, rồi đưa nó về bùn nhơ tăm tối và hủy diệt miền Nam chỉ vì tiền cho nhóm lợi ích của đảng.

71 năm ở miền Bắc, và 41 năm ở miền Nam dân Việt sống trong một bầu không khí độc lập tự do nửa vời dưới sự áp đặt của kẻ ngooại bang phương Bắc đã quá đủ để nhấn chìm dân tộc Việt đi đến họa diệt vong không xa nữa. Tôi viết bài này để chính quyền và người dãn hãy chọn lựa: Diệt vong hay là sống? Kẻ thù của dân tộc Việt là ai? Hành động hay là chết?

Nếu đảng cầm quyền không làm thì nhân dân Việt Nam phải làm. Tôi kêu gọi tất cả ai là đồng bào Việt trên toàn thế giới hãy ký vào thỉnh nguyện thư theo link sau:

Code:

https://petitions.whitehouse.gov/petition/help-vietnamese-people-prevent-environmental-disaster-ha-tinh-province-central-vietnam

Mọi thông tin cá nhân mà mọi người ký được website bảo mật không làm tổn hại đến bất kỳ ai.

Việc làm này của các bạn sẽ giúp chúng ta sống còn hoặc là chính phủ Việt cộng chọn thép hoặc chọn dân tộc, cũng như kêu gọi quốc hội Hoa Kỳ hãy ngưng quyết định hoặc loại Việt Nam ra khỏi TPP. Nếu không chúng ta sẽ chết, con cháu chúng ta sẽ tàn tật muôn đời, dân tộc ta sẽ bị diệt chủng!

Các bạn chỉ cần click vào link, bên tay phải màn hình sẽ có 4 ô:

  1. First Name: Điền tên mình vào.
    2. Last Name: Điền họ mình vào.
    3. Email Address: Điền địa chỉ email mình vào.
    4. Sau đó click chuột vào ô: Sign Now.
    5. Cuối cùng, vào email của mình và confirm một email từ nhà trắng gửi cho bạn bằng cách click vào dòng: “Confirm your signature by clicking here.” Và chia sẻ link này cho mọi người mà bạn quen biết.100.000 chữ ký trong vòng 30 ngày sẽ là điều cần thiết phải có. Hãy chia sẻ link này và hãy ký tên. Mọi thông tin được website bảo mật không làm tổn hại đến bất kỳ ai. Xin cảm ơn.

Sài Gòn, 16h11′ ngày thứ Tư, 27/4/2016

(Bs. Hồ Hải)