ĐẤT NƯỚC MÌNH NGỘ QUÁ PHẢI KHÔNG ANH -Văn Sơn Trường phổ nhạc

YouTube player

httpv://www.youtube.com/watch?v=P81nKORV9P4&index=3&list=PLfe9JTtbGcgXUYl5EiC5_6jncQ8TM0HM7

ĐẤT NƯỚC MÌNH NGỘ QUÁ PHẢI KHÔNG ANH ?
Đất nước mình ngộ quá phải không anh
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…
Đất nước mình lạ quá phải không anh
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…
Đất nước mình buồn quá phải không anh
Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và biển thì đang chết
Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa…
Đất nước mình thương quá phải không anh
Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại
Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu…
Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu…
Thơ: TRẦN THỊ LAM – Trường PTTH chuyên Hà Tĩnh
Phổ nhạc : Phượng Mai.
Phối âm : Nhạc sĩ Trần Chí Phúc.
Trình bày: Phượng Mai – Trần Chí Phúc.
Thu âm: BL Studio

 

“Chính quyền” mọc trên cá chết, trên gạo bớt xén của dân

“Chính quyền” mọc trên cá chết, trên gạo bớt xén của dân

Gần hai tháng kể từ ngày ngư dân miền Trung phát hiện cá chết bất thường hàng loạt. Trước sự sục sôi của công luận, sự lên tiếng của nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, nhà cầm quyền không những không tích cực điều tra và công bố nguyên nhân thảm họa để an lòng dân, trái lại, còn tìm mọi cách bịt miệng dân chúng, đàn áp người tuần hành ôn hòa, dùng các mánh khóe truyền thông để kéo lái dư luận.

Ngày 14/5, trả lời báo chí về hiện tượng cá chết hàng loạt, ông Phạm Công Tạc – Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH-CN) cho biết, tính đến thời điểm ngày 26/4, các kết quả phân tích cho thấy đã đủ căn cứ khoa học để loại trừ hầu hết các nhóm nguyên nhân tự nhiên từ địa chấn, sốc nhiệt, dịch bệnh… đến nay đã xác định đây là sự cố môi trường trên diện rộng. Về mặt khoa học, việc giải quyết vừa đòi hỏi huy động liên ngành vừa yêu cầu tính chuyên sâu cao trong từng xem xét phân tích khoa học.

Nhưng, sự cố môi trường mà ông Thứ trưởng Bộ KH-CN nói tới là sự cố gì và nguyên nhân vì đâu cá chết, biển bốc mùi hôi thối, vẫn bặt vô âm tín?! Cách ông trả lời và thái độ “đọc báo cáo soạn sẵn” của ông cho thấy có vẻ như nguyên nhân cá chết đã được đảng và nhà nước đóng dấu “bí mật quốc gia”.

Trong lúc người dân, nhất là ngư dân, đang hoang mang dao động trước cuộc sống ngày càng khó khăn do bị mất việc làm, cá bán không ai mua, thì những động thái mới đây của nhà cầm quyền trong việc giải quyết thảm họa môi trường càng làm cho lòng dân phẫn nộ. Trong đó, có việc nhà cầm quyền cố tình lái câu chuyện thuần túy dân sự là cá chết, thành một vụ việc chính trị với âm mưu lật đổ chế độ để có cớ đàn áp những người dân tay không tấc sắt muốn bày tỏ lòng yêu biển cả, yêu quê hương. Chưa hết, họ còn dùng hệ thống truyền thông vu khống, mạ lỵ các trí thức, các vị lãnh đạo tôn giáo. Đài truyền hình quốc gia Việt Nam (VTV) quy chụp Thư chung mà Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh, gửi cho các thành phần dân Chúa ngày 13/5 vừa qua là “thiếu khách quan, thổi phồng, gây hoang mang và dùng những lời lẽ kích động” (?).

Không chỉ có vậy, sự vô lương đạt đến đỉnh điểm, khi nhà cầm quyền thay vì cố gắng tìm ra các giải pháp phù hợp để cứu ngư dân khỏi tình trạng bi đát hiện nay, thì lại làm một chuyện động trời là “ăn bớt gạo của ngư dân được hỗ trợ vì cá chết”.

Theo phản ánh của người dân Hà Tĩnh, tại một số địa phương, đã xuất hiện tình trạng thôn, xóm tổ chức thu tiền của các hộ gia đình được cấp gạo hỗ trợ với lý do trả tiền vận chuyển, hoặc cấp gạo nhưng không đủ số lượng quy định là 15 kg/người/tháng. Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh đã phải gửi Công văn hỏa tốc ký ngày 17/5 để chấn chỉnh tình trạng bớt xén nguồn trợ cấp cho dân nghèo, theo báo Thanh Niên.

Chuyện chính quyền ăn chặn tiền từ thiện, tiền trợ cấp người nghèo xưa nay không phải chuyện hiếm, trái lại nó vẫn đang diễn ra hằng ngày, đến nỗi bà Nguyễn Thị Doan – khi còn là Phó Chủ tịch nước đã phải thốt lên: “Người ta ăn của dân không từ cái gì nữa, từ liều vắcxin con con đến tiền chữa bệnh bảo hiểm”.

Tự nó, hành vi ăn chặn tiền từ thiện, tiền trợ cấp của người nghèo đã cực kỳ xấu xa. Đằng này, ngay giữa lúc cả thế giới đang quan tâm, cùng chia sẻ nỗi đau đớn quằn quại của ngư dân, thì nhà cầm quyền, thay vì tích cực giúp dân, cứu nước, lại đi quy chụp, vu cáo người lương thiện, ăn bớt gạo của dân… Kỳ thực không thể nói điều gì đó khác hơn, lương tâm của những vị quan chức này coi như đã chết, mùi cá chết hôi thối một lần nữa lại bốc lên ngay giữa cơ quan công quyền.

Đức Đạt Lai Lama, lãnh tụ tinh thần của người Tây Tạng, từng nói: “Cộng sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng độc, sinh sôi, nảy nở trên rác rưởi của cuộc đời”. Sự kiện chính quyền Hà Tĩnh “ăn bớt gạo của ngư dân” một lần nữa chứng minh cho điều đó.

19/5/2016

Hà Thạch

Bãi Mả

Bãi Mả

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến –

RFA

tuongnangtien's picture

tuongnangtien

Trong những câu thơ bút tre, đang lưu truyền rộng rãi ở Việt Nam, tôi thích nhất hai câu:

Tin nghe như sét đánh ngang
Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần!

Khách quan mà nói, ý thích của tôi dễ gây ngộ nhận là mình có hơi bị ác cảm với ông Hồ. Không dám đâu. Xin đừng ai nghĩ như vậy mà tội chết. Tôi khoái hai câu thơ trên chỉ vì sự duyên dáng của chính nó, thế thôi. Có những câu thơ bút tre khác nữa, cũng nói đến cái chết của ông Hồ nhưng tôi không thích mấy ─ thí dụ như:

Tin nghe như sét đánh gần
Bác Hồ đang sống từ trần chuyển sang!

Hoặc:

Vào trong hang Bác âm u
Chị em phụ nữ dở mũ ra chào!

Riêng hai vừa dẫn, theo thiển ý, đã kém duyên dáng lại thiếu phần thanh nhã. Nó diễn tả sự khinh miệt một cách sỗ sàng, của “chị em phụ nữ”, truớc vong linh của ông Hồ Chí Minh. Mà tỏ sự bất kính đối với một nguời đã khuất (cho dù họ là ai chăng nữa) là điều trái với văn hoá của dân tộc Việt, ở khắp mọi miền ─ nhất là miền nguợc, nơi mà phong tục tập quán có vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày hơn ở miền xuôi.

Nhân nhắc chuyện phong tục/tập quán của miền xuôi/ miền nguợc, tôi lại chợt nhớ cách đây không lâu, thi sĩ Trần Đăng Khoa, lúc cao hứng có tâm sự như sau:

“Vừa rồi tôi có đi Tây Nguyên dự lễ bỏ mả của gia đình ông Y Ngông Niết Đam. Nguời Eđê có một tục lệ rất đặc biệt. Khi nhà có nguời chết, gia đình con cháu hàng ngày vẫn nuôi nấng, vẫn mang cơm nuớc ra mộ, khi có điều kiện họ làm lễ bỏ mả.

Đó là bữa tiệc linh đình chia tay vĩnh viễn với nguời chết. Sau đó họ không quan tâm đến ngôi mộ ấy nữa, để linh hồn nguời chết được siêu thoát, không còn vướng víu cõi trần. Tôi cũng đã làm xong cái lễ bỏ mả cho thơ ca thời niên thiếu của tôi” [Trần Đăng Khoa, Chân Dung Và Đối Thoại (Hà Nội: Thanh Niên, 1988)].

Bỏ mả, thực ra, không phải là tập tục “rất đặc biệt” của nguời Eđê ở Tây Nguyên mà là tập tục chung ─ ở nhiều nơi ─ của nhiều nhóm nguời khác nữa. Nguời Roglai, nguời Rhadé, nguời Bahnar, nguời Djarai… ở miền Nam và miền Trung nước Việt đều có tục lệ tương tự. Hơn nửa thế kỷ trước, học giả Toan Ánh có một bài viết ngắn và rất cô đọng về tập tục này ─ xin trích dẫn một đoạn ngắn:

“Đối với nguời Roglai ─ sắc dân sống rải rác các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, và Lâm Đồng ─ lễ cúng bỏ mả có nghĩa là nguời sống từ giã nguời chết. Lễ này đuợc cử hành sau mùa gặt hái đầu tiên, tính từ ngày nguời chết qua đời. Mùa gặt hái hòan tất, mọi nguời đều rảnh rang nên lễ cúng bỏ mả làm linh đình lắm. Có giết trâu mổ bò, mới thầy cúng làm lễ cho nguời khuất rồi đãi làng nuớc. Sau lễ bỏ mả là hết, ngôi mộ không đưọc ai chăm sóc nữa.

Nguời Rhadé, đa số sinh sống tỉnh Darlac và Quảng Đức, cũng có lệ bỏ mả vào mùa gặt năm sau. Nguời nhà ra mộ khóc lóc một lần cuối rồi mộ bị bỏ hẳn. Kỷ niệm của người chết cũng chìm dần vào quên lãng.

Người Bahnar ─ sắc dân sống ở Đông Nam Kômtum, Tây Bắc Pleiku, và phía Tây Bình Định ─ cũng chỉ chăm sóc mộ phần một năm… Sau đó họ làm lễ tạ rồi san phẳng, và từ đây không còn ai ngó tới. (“Tang Lễ Của Đồng Bào Thượng” ─ nhật báo Cách Mạng Quốc Gia, Sài Gòn, ngày 1 tháng 9 năm 1963).

Trong phần kết luận của bài báo này, Toan Ánh viết như thêm: “Gần đây nhiều đồng bào Thuợng đã di cư về gần chúng ta, có lẽ rồi đây phong tục của họ sẽ bị ảnh huởng của chúng ta mà có sự biến cải. Ánh sáng văn minh đã rọi vào nuớc Việt Nam, lẽ tất nhiên sự tiến bộ của chúng ta sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của đồng bào Thượng, anh em chúng ta.”

Tôi rất quí trọng tinh thần bao dung, coi tất cả mọi nguời sống trong nuớc Việt đều là anh em đồng bào, của học giả Toan Ánh; tuy nhiên, khi quan niệm là “có lẽ rồi đây phong tục của họ sẽ bị ảnh huởng của chúng ta mà có sự biến cải” nhưng không viết thêm rằng “và nguợc lại để cùng tiến bộ” thì tôi sợ ông hơi quá tự mãn về phong tục và tập quán của văn hoá miền xuôi.

Nói cách khác, và nói một cách hơi vô lễ, tôi e là Toan Ánh có hơi ethnocentric. (Và nói thiệt tình thì tôi chưa bao giờ gặp được bất cứ một nguời Việt Nam nào, ở miền xuôi, biết tỏ ra khiêm tốn chút đỉnh về văn hoá của họ. Và đây là một thảm kịch, sẽ còn nhiều màn, của dân tộc Việt)!

Giao lưu là hệ quả tất yếu khi có sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều nền văn hoá. Xin đơn cử một thí dụ về vấn đề này, bằng cách tiếp tục câu chuyện đang bỏ dở ─ chuyện “Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần.”

Tập tục bỏ mả của nguời miền cao, tôi trộm nghĩ, có nguồn gốc từ đời sống du canh. Do sự di chuyển không ngừng để tìm đất đai canh tác mới nên cơ hội trở lại nơi chốn cũ thăm viếng mộ nguời đã khuất rất mỏng manh; do đó, người ta cần làm lễ tạ mả để bớt áy náy khi phải bỏ mồ mả nguời thân.

Với thời gian, dân số mỗi lúc một tăng nhưng đất đai thì không. Diện tích đất đai giới hạn không cho phép phương thức tác du canh tiếp tục mãi mãi. Con người phải từ dần bỏ nếp sống này và làm quen với đời sống định canh hay bán định canh nơi miền sơn cuớc.

Từ đây, tuy có nhiều cơ hội gần gũi với mồ mả của những nguời đã khuất hơn nhưng tập tục bỏ mả vẫn còn được lưu truyền. Lý do, phần vì văn hoá bao giờ cũng biến đổi chậm hơn những đổi thay trong đời sống thường nhật; phần khác, quan trọng hơn, vì lý do kinh tế.

Khi những phuơng tiện kỹ thuật để hỗ trợ cho việc sản xuất vẫn còn ở mức độ thô sơ, khi đất đai canh tác bị giới hạn, và khi nhân khẩu mỗi lúc một tăng thì việc “hàng ngày vẫn nuôi nấng, vẫn mang cơm nuớc ra mộ” cho nguời đã khuất ─ theo phong tục của người Eđê, qua lời kể của Trần Đăng Khoa ─ là một thứ lễ nghi xa xỉ không thể kéo dài; do thế, bỏ mả là một tập tục thực tế và cần thiết cho chuyện sinh tồn của những nguời còn sống.

Cũng theo Toan Ánh, qua bài báo thượng dẫn: “Lễ tạ mả có thể cử hành ngay sau khi chôn cất nếu tang chủ quá nghèo. Chôn cất xong là thôi, nguời nhà cũng như dân làng không ai nhắc nhở đến nguời quá cố nữa vì mộ đã tạ rồi.”

Tôi uớc ao sao một số những nguời dân “làng” Ba Đình (ở đất ngàn năm văn vật) học được một phần nào sự khôn ngoan và thực tế ─ về tục lệ bãi mả này ─ từ những đồng bào Eđé, Rhađé, Bahnar, Djarai… Họ sẽ ra lăng hay ra mả ông Hồ Chí Minh khóc lóc thảm thiết một lần cuối rồi… san bằng nó đi cho cả nuớc được nhờ!

Tôi còn nhớ, Báo Nhân Dân – số ra ngày 31 tháng 8 năm 1999 ─ có đi tin “Cố Vấn Đỗ Muời Thăm Bộ Tư Lệnh Bảo Vệ Lăng Hồ Chủ Tịch”. Chỉ cái tiêu đề của bản tin không thôi cũng đủ khiến cho một nguời vô tâm nhất hoá phải băn khoăn. Có cả một Bộ Tư Lệnh chỉ để bảo vệ mộ phần của một nguời đã chết à?

Nguời dân Việt sùng bái ông Hồ Chí Minh đến độ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc mà vẫn hy sinh hàng vạn lực lượng lao động chỉ để thoả mãn cái thị dục hiếu danh cho một cá nhân hay sao? Theo chỗ tôi biết, e rằng không phải vậy đâu. Chỉ qua vài câu thơ bút tre, đã dẫn, cũng đủ biết dân chúng chán ngán ông Hồ (và cái lăng thổ tả của ông ấy) đến cỡ nào rồi.

Mà đâu có riêng chi quần chúng. Hãy nghe lời ta thán của một cán bộ cộng sản, ông Hoàng Hữu Quýnh: “…cái nấm mồ của Bác quá khổng lồ, quá tốn kém. Dại dột xây to hơn cả nấm mồ của Lê-nin. Cái lăng nằm trơ trọi ở Ba Đình, trong đó chỉ có một cái xác xanh xao tái nhợt mà có đến hàng ngàn, hàng vạn con nguời cung phụng ở đó…” ( Tôi Bỏ Đảng, tập I, trích từ Minh Võ. Phản Tỉnh Phản Kháng Thực Hay Hư, California: Thông Vũ 1999).

Vì dân trí thấp, và toàn toàn là đồ mất dậy vô giáo dục, nên không ai nhìn thấu được công ơn của Bác đối với dân tộc Việt chăng? Tất cả thành tích của Hồ Chí Minh đều được thêu dệt, tuởng tượng và ghi lại thành sách bởi chính ông ta nhưng làm bộ đề tên nguời khác ─ cho nó có vẻ khách quan và khả tín. Loại “sử liệu quí báu” này được Đảng khai thác đến cùng để thần thánh hóa ông Hồ, và biến ông ta thành một thứ mộc che cho tội ác của họ.

Nó cũng được dịch ra rất nhiều ngoại ngữ để các sử gia nước ngoài có cơ hội tìm hiểu về “thân thế và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ”, một ông “Thánh Francois bưng biền” Việt Nam, nếu nói theo nguyên văn ─ một cách cuờng điệu ─ của một ông ký giả ngoại quốc nào đó.

Suốt cuộc đời ông Hồ Chí Minh chỉ chuyên xài bạc giả. Sở dĩ ông ta bịp được nhiều nguời, trong nhiều năm là nhờ vào sự đồng lõa tích cực của cả một băng đảng chuyên làm bạc giả ─ Đảng Lao Động Việt Nam.

Cái lăng của ông Hồ Chí Minh cũng chỉ là biểu tượng cho sự tôn kính giả tạo đó mà thôi. Thực chất, “dân làng Ba Đình Hà Nội” đang thờ cúng ông Hồ Chí Minh như một thứ ma xó (với hy vọng) để giữ nhà và hù doạ những nguời yếu bóng vía.

Tôi thực tình không muốn xía vô chuyện phong tục tập quán và tín nguỡng của bất nhóm nguời nào, kể cả những nguời sống bằng xác chết. Tôi sẽ thôi không nhắc nhở đến ông Hồ Chí Minh nữa, nếu những nguời “dân làng Ba Đình Hà Nội” cũng thôi dùng những đồng tiền mồ hôi nuớc mắt của đồng bào tôi vào chuyện thờ phuợng ông Hồ.

Bòn rút xuơng máu của nguời sống để cung phụng cho nguời chết là điều bất trí. Dựa hơi nguời chết để sống là chuyện bất nhân. Có cái dân tộc nào bất hạnh đến độ phải chịu sự “lãnh đạo” của một đám nguời vừa bất nhân vừa bất trí như vậy không?

Cầu nguyện cho môi trường đang bị ô nhiễm.

facebook JB Nguyễn văn Duyệt

Vào 19h30 ngày 19/5/2016. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Giám Phao lô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục giáo phận Vinh, hai giáo xứ Thuận Nghĩa và Thanh Dạ với số giáo dân đông nhì nhất Giáo Phận Vinh đã lên tiếng cầu nguyện cho môi trường đang bị ô nhiễm. Con số giáo dân xứ Thuận Nghĩa hiện nay hơn 10.000, còn giáo dân xứ Thanh Dạ hơn 12.000 giáo dân.
Nguồn fNGHE AN 6b Thanh nguyen Anton và Dung nguyen quan.

NGHE AN 1

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NGHE AN 4

NGHE AN 2

‘Một nước Việt Nam thiếu dân chủ đang chờ Tổng Thống Obama’

 ‘Một nước Việt Nam thiếu dân chủ đang chờ Tổng Thống Obama’

Tổng thống Barack Obama sẽ là tổng thống Mỹ thứ ba đến thăm Việt Nam thời hậu chiến.

Tổng thống Barack Obama sẽ là tổng thống Mỹ thứ ba đến thăm Việt Nam thời hậu chiến

 Các cuộc thăm dò trước

19.05.2016

Chuyến đi thăm Việt Nam của Tổng Thống Mỹ Barack Obama vào tuần tới hứa hẹn sẽ mở ra một chương mới trong các quan hệ Việt-Mỹ, và được coi là một sự kiện bước ngoặt diễn ra trong bối cảnh các hành động của một nước Trung Quốc đang trỗi dậy đang đẩy hai nước cựu thù lại gần với nhau hơn bao giờ hết.

Tuy nhiên, báo chí quốc tế nêu bật một số vấn đề gai góc đang tiếp tục cản trở việc nâng mối quan hệ song phương lên một tầm cao mới. “Một nước Việt Nam thiếu dân chủ đang chờ đón Tổng Thống Obama” là hàng tít đăng trên tờ The Wall St. Journal số ra hôm qua, 18/5. Bài báo lưu ý rằng chuyến đi thăm lịch sử của nhà lãnh đạo Mỹ diễn ra một ngày sau thêm một cuộc bầu cử ‘trò hề’ khác nữa ở Việt Nam.

Bài báo viết rằng giữa lúc Hà Nội đang vận động để Mỹ tháo gỡ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, dọn đường cho Việt Nam thủ đắc các hệ thống vũ khí hiện đại như các hệ thống phi đạn để củng cố các lực lượng phòng thủ biển, thì chuyến công du lịch sử của Tổng Thống Mỹ là một cơ hội “chỉ xảy ra có một lần trong một thế hệ” để Hoa Kỳ tăng sức ép đòi Việt Nam cải thiện nhân quyền và quyền công dân.

Tác giả Stuart Rollo thuộc Đại học Sydney chuyên tường trình về vấn đề an ninh quốc tế, nhận định rằng bằng cách gắn liền nhân quyền với việc thắt chặt các quan hệ an ninh và quốc phòng với Việt Nam, Hoa Kỳ có thể chứng minh rằng Mỹ sẵn sàng không những hậu thuẫn Việt Nam nâng cấp khả năng chiến đấu trước sự bành trướng của Trung Quốc, mà cùng lúc, ủng hộ nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh của họ để đòi các quyền dân sự và chính trị.

Tổng Thống Obama tới Việt Nam vào ngày thứ Hai 23/5, 1 ngày sau khi cử tri Việt Nam trên cả nước đi bầu đại biểu Quốc hội khóa XIV, và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021, trong một cuộc bầu cử bị Bộ Ngoại giao Mỹ đánh giá là “không tự do mà cũng không công bằng”.

Trong một quốc hội gồm 500 ghế, chỉ có 4 ghế là thuộc các đại biểu độc lập, không do Đảng Cộng sản Việt Nam đề cử. Theo tác giả, thì mặc dù Hiến Pháp Việt Nam cho phép mọi công dân được ra ứng cử, họ phải trải qua một tiến trình chọn lựa tiền bầu cử bị Đảng Cộng sản thao túng, có thể loại trừ họ qua những thủ tục hành chánh mập mờ.

Bài báo nhắc tới trường hợp ca sĩ Mai Khôi, một trong những người tự ra ứng cử, đã bị loại trừ một cách bất công dựa trên những lời tố cáo mập mờ của những người trong tổ dân phố, nhiều người cô chưa từng gặp bao giờ. Nhiều ứng cử viên độc lập khác cũng tố cáo rằng họ đã bị loại sau khi “bị đấu tố”.

Cô Mai Khôi đã mời Tổng Thống Obama đến gặp một nhóm ứng cử viên độc lập bị loại trong các trường hợp tương tự, để thảo luận về những cách người Mỹ có thể giúp hối thúc cải thiện các quyền dân chủ ở Việt Nam.

Các cuộc thăm dò do công ty Pew thực hiện năm 2015 cho thấy 78% người Việt Nam có quan điểm tích cực về Hoa Kỳ, một con số đáng kinh ngạc xét lịch sử xung đột giữa hai bên.

Các quan hệ Việt-Mỹ đã được đào sâu và đa dạng hóa trong những năm từ khi bình thường hoá bang giao về mặt chính trị.

Tổng Thống Obama sẽ trở thành tổng thống Mỹ thứ ba tới thăm Việt Nam thời hậu chiến, sau Tổng Thống Bill Clinton năm 2000, và Tổng Thống George W. Bush năm 2006.

Trong những vấn đề khác sẽ được đề cập đến ngoài Hiệp định Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương TPP, có phần chắc Mỹ sẽ đề nghị giúp Việt Nam đối phó với nạn hạn hán do biến đổi khí hậu gây ra ở Lưu vực Sông Mê Kông.

Giáo dục cũng là một lĩnh vực chủ yếu mà cả hai nước đều quan tâm, với sự thành lập của Đại học Fullbright ở Việt Nam, viện đại học tư nhân, vô vụ lợi dầu tiên của Mỹ tại Việt Nam. Bộ Ngoại giao Mỹ đã cam kết 20 triệu đôla cho dự án này.

Theo Wsj, Economictimes, Forbes.

Liên Minh Việt – Mỹ, không thể khác!

Liên Minh Việt – Mỹ, không thể khác!

Sau khi oanh tạc Hà Nội bằng hoả lực chiến lược, từ căn cứ tên lửa Quảng Tây và căn cứ hải quân Du Lâm, đủ để cắt đứt mọi liên lạc giữa Hà Nội với các quân khu, hơn 2 triệu bộ binh Trung Quốc, ém sẵn từ hàng trăm km đường hầm, âm thầm chuẩn bị từ sau cuộc chiến 1979, dọc suốt 1640 km biên giới phía Bắc, chỉ trong vòng 3 tiếng, sẽ tràn ngập lãnh thổ. Biển Đông bị cách ly. Tầu ngầm sẽ khép kín vịnh Bắc bộ từ căn cứ Du Lâm tới Vũng Áng. Hoành Sơn bị kiểm soát. Toàn bộ Tây Nguyên bị khống chế. Trong vòng ba ngày, toàn bộ miền bắc Việt Nam từ Nam Hà Tĩnh trở lên lọt hoàn toàn vào tay Trung Quốc. Không một sức mạnh nào kịp can thiệp. Không một lực lượng nào có thể đảo ngược tình huống. Trung Quốc sẽ tuyên bố với thế giới rằng Trung Quốc thu hồi lãnh thổ chủ quyền theo Hiệp định Pháp Thanh năm 1885, biên giới nước cộng hoà Nhân Dân Trung Hoa kéo xuống tới dãy Hoành Sơn, Hà Tĩnh.

____

Bùi Quang Vơm

19-5-2016

H11- Đồng bằng sông Cửu Long đã khô kiệt. Nhiễm mặn theo những con sông đã lấn sâu vào đất liền 90 km. Gần 90% lúa và hoa mầu trên toàn bộ đồng bằng sẽ mất trắng. Hơn 20 triệu con người đang bị đói và khát từng ngày. Việt Nam đang từ quốc gia đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, đang có nguy cơ phải nhập gạo cứu đói. Nền đất tiếp tục lún sụt, ngày càng xuống thấp. Nước biển thâm nhập ngày càng sâu trong nội địa. Hơn 10% đất trồng lúa của cả nước sẽ trở thành đất phi canh tác. Hơn 20 triệu con người đang bị đe dọa không còn nguồn sống. Sẽ có cuộc di tản hướng tới các thành phố. Sẽ có bất ổn và rối loạn.

Đồng bằng sông Cửu Long đã chết. Không ai, không có biện pháp nào cứu vãn được ngoài Trung Quốc. Chỉ có cách xả đủ nước cho sông Mê kông, chỉ có cách trả lại lượng phù sa và lượng cát như trước đây mới cứu được nạn khô kiệt, mới làm cho đất toàn bộ đồng bằng ngừng lún sụt, và mới cứu được nạn xâm mặn từ biển.

Giáo sư Marvin Ott, từ trường Johns Hopkins ở Hoa Kỳ, nói: “Các con đập trên dòng Mekong có ý nghĩa chiến lược vì chúng cho phép Trung Quốc quyền lực quyết định sự sống hay cái chết với các nền kinh tế ở hạ nguồn trên cả vùng Đông Nam Á lục địa“.

Với 8 con đập khổng lồ đã xây, 5 con đập đang xây, và 7 con đập khác nằm trong kế hoạch sẽ tiếp tục xây trên suốt chiều dài 2.200 km sông Lan Thương thuộc địa phận Trung Quốc, lưu lượng nước sông Mêkông sẽ bị chặn lại trên đất Trung Quốc, dòng chảy trên dòng sông Mê kông hòan toàn do các đập nước của Trung Quốc đóng hay mở quyết định. Đồng bằng sông Cửu Long có thể sống hay chết hòan toàn phụ thuộc vào ý chí của những người nắm quyền ra lệnh Trung Quốc.

2- Đảo Chữ Thập có đường băng dài 3.250m m là đảo nhân tạo lớn nhất khu vực Trường Sa do Trung Quốc kiểm soát, một đường băng dài 2644m trên đảo đá Vành Khăn, nếu so với Trường sa lớn, thủ đô của huyện đảoTrường sa Việt Nam, có chiều dài toàn đảo chưa đến 600m, đường băng không qúa 500m, với tiềm lực quân sự vượt rất xa Việt Nam trên toàn bộ bảy hòn đảo nhân tạo được bồi đắp, cơi nới, khả năng khống chế và kiểm soát toàn bộ khu vực Trường sa là không thể chối cãi. Trong tình huống chiến sự xảy ra, Việt nam lập tức mất quyền kiểm soát đối với đảo Trường Sa lớn ngay sau một loạt hoả lực áp đảo đầu tiên, tất cả những gì Việt Nam có thể kháng cự không kéo dài quá một giờ. Những đảo đá và những nhà giàn còn lại, Trung Quốc không phải mất thêm súng đạn. Cùng với tên lửa chiến lược và tầu ngầm hạt nhân của căn cứ hải quân Du Lâm trên đảo Hải Nam, vòng cung Hoàng Sa và Trường Sa sẽ kiểm soát toàn bộ biển Đông.

Thực chất thì đến thời điểm này, Hoàng sa của Việt Nam đã mất hẳn, Trường Sa không có cách gì giữ được. Biển sát bờ thì chất thải từ các khu công nghiệp từ Quảng Ninh, Hải Phòng xuống Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế có thể sẽ được sử dụng cho mục đích xâm lược, sẽ đầu độc cá chết và môi trường sống của con người bất cứ lúc nào, gây hoảng sợ, tạo ra rối loạn xã hội. Biển xa bờ thì Trung Quốc chặn suốt vòng cung Hoàng Sa và Trường Sa bằng tàu tuần duyên sẵn sàng bắt giữ và tịch thu ngư cụ, phạt tiền, bằng lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương. Việt Nam đã trở thành quốc gia không có biển.

3- Đất chết, biển mất, nội địa khắp các vùng hiểm yếu trên cả nước, người Trung quốc chiếm giữ dưới danh nghĩa đầu tư 50 năm, 70 năm. Nếu kết hợp với khu vực Vũng Áng, Hà Tĩnh, Khu nghỉ dưỡng trên đèo Hải Vân, Hội An, Đà Nẵng, khu du lịch Thưà thiên Huế của các chủ đầu tư do chính quyền Trung Quốc trá hình quản lý, cùng với vùng Tây nguyên với Bôxít Nhân cơ và Tân Rai, thì toàn bộ miền Bắc Việt Nam bị cô lập và cách ly hòan toàn.

Sau khi oanh tạc Hà Nội bằng hoả lực chiến lược, từ căn cứ tên lửa Quảng Tây và căn cứ hải quân Du Lâm, đủ để cắt đứt mọi liên lạc giữa Hà Nội với các quân khu, hơn 2 triệu bộ binh Trung Quốc, ém sẵn từ hàng trăm km đường hầm, âm thầm chuẩn bị từ sau cuộc chiến 1979, dọc suốt 1640 km biên giới phía Bắc, chỉ trong vòng 3 tiếng, sẽ tràn ngập lãnh thổ. Biển Đông bị cách ly. Tầu ngầm sẽ khép kín vịnh Bắc bộ từ căn cứ Du Lâm tới Vũng Áng. Hoành Sơn bị kiểm soát. Toàn bộ Tây Nguyên bị khống chế. Trong vòng ba ngày, toàn bộ miền bắc Việt Nam từ Nam Hà Tĩnh trở lên lọt hòan toàn vào tay Trung Quốc. Không một sức mạnh nào kịp can thiệp. Không một lực lượng nào có thể đảo ngược tình huống. Trung Quốc sẽ tuyên bố với thế giới rằng Trung Quốc thu hồi lãnh thổ chủ quyền theo Hiệp định Pháp Thanh năm 1885, biên giới nước cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa kéo xuống tới dãy Hoành Sơn, Hà Tĩnh.

4- Đó là một nguy cơ, một âm mưu được Trung Quốc chuẩn bị từ rất lâu và thực hiện từng bước, không còn ai nghi ngờ, nhưng không thể ngăn chặn. Một câu hỏi được đặt ra với mỗi người dân Việt, là phải làm gì, làm như thế nào hay ngồi nhìn đất nước từng tí một đang mất dần từng ngày vào tay Trung Quốc? Với tiềm lực quân sự không bằng một phần hai mươi, Việt Nam không thể tự bảo vệ. Nếu phải hy sinh phát triển kinh tế, giành hết phần ngân sách quá sức cho quốc phòng, thì Việt Nam chỉ vài năm cũng sẽ chết do tự sụp đổ. Việt Nam cần hòa bình, Việt Nam muốn có hòa bình và của cải tài lực tập trung cho phát triển kinh tế, để nhanh chóng thành một quốc gia hùng cường. Nhưng Việt Nam cần một sức mạnh hạt nhân, một sức mạnh quân sự đủ để răn đe và đối diện với sức mạnh dã tâm của Trung Quốc. Như Nhật Bản, như Nam Hàn, như Đài Loan, và như Philipinnes, không có con đường nào khác là liên minh với Mỹ. Và cũng vì có Mỹ, có sự có mặt của Mỹ trong quan hệ với Việt Nam, với vai trò người bảo vệ tự do trên toàn thế giới mà chiến tranh xâm lược còn chưa diễn ra, còn phải chờ thời.

– Ngày 2/9/1945, ngay sau Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh, diễn văn tiếp theo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Mỹ là nước dân chủ, không có tham vọng về đất đai mà lại có công nhất trong việc đánh bại kẻ thù của ta… nên ta coi Mỹ như một người bạn tốt”, theo tư liệu Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Tập 1 (1945—1955), NXB Chính trị Quốc gia.

– Trải bao thăng trầm trong quan hệ đầy khó khăn giữa hai nước, ông John Kerry không che dấu sự xúc động: “Không ai có thể tưởng tượng nổi Hoa Kỳ và Việt Nam bắt tay cùng mười quốc gia khác để đạt được một cơ hội giao thương vô giá”, ông nói về Hiệp định TPP như thế.

– Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden khi chủ trì tiệc chiêu đãi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng , đã lẩy hai câu Kiều đầy ý nghĩa, chân thành như hai người thân quen:

“Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”.

– Người Mỹ đã sẵn sàng, chỉ còn đợi một thiện chí, một quyết tâm từ phía Việt Nam, để dứt khoát đi cùng đường vì một nền hòa bình, ổn định cho khu vực, vì một nền tự do hàng hải phục vụ lợi ích của mỗi quốc gia, vì một thế giới bình đẳng, tôn trọng chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải phù hợp với luật pháp quốc tế, chống lại một cách hiệu quả mọi ý đồ và hành vi bành trướng nước lớn, tham lam và ích kỷ, trong quan hệ quốc tế.

5- Trước một Trung Quốc không che đậy dã tâm xâm lược và bành trướng lãnh thổ. Trước một Trung Quốc luôn chủ trương một chính sách thù địch với toàn bộ phần còn lại của thế giới, thèm khát mộng bá chủ siêu cường, Việt Nam không thể cứ giữ quan điểm làm bạn với tất cả. Trong khi Trung Quốc cố thủ chủ trương đối đầu và giành giật ngôi bá chủ thế giới với Mỹ, nếu lệnh cấm vận vũ khí sát thương được dỡ bỏ, những vũ khí tối tân mà Mỹ giúp Việt Nam, có khả năng lọt vào tay Trung Quốc thông qua cơ chế láng giềng hữu nghị Trung – Việt. Đấy là điều không thể chấp nhận đối với lợi ích của Mỹ.

6- Một chính phủ Việt Nam chưa thực sự dân chủ, quyền quyết định tối cao vẫn nằm trong tay một số ít nhà lãnh đạo, đó là nguy cơ rủi ro, là tính bất ổn định, tính dễ thay đổi, khó đoán trước của chính sách, là điều không phù hợp đối với một Hiệp định An ninh cao cấp luôn mang tính nhạy cảm. Vì vậy, cho dù không thay đổi thể chế chính trị, lập trường chính trị không thể không dứt khoát giữa hòa bình, phát triển và sinh mệnh quốc gia. Cho dù thể chế chính trị có thể khác biệt, nhưng bạn và thù là lập trường phải được thống nhất. Không thể cùng lúc là bạn với tất cả các phía đối kháng. Không đối đầu với bất cứ ai, không là kẻ thù của ai, nhưng bạn thì không thể là với tất cả. Với truyền thống nhân văn 4000 năm, người Việt Nam yêu tự do và trân trọng tự do của mọi dân tộc. Chính phủ Việt Nam cam kết thả ngay lập tức, vô điều kiện và triệt để các tù nhân chính trị, từng bước khắc phục tình trạng cảnh sát hoá chế độ hiện tại, cùng với các cải cách theo hướng dân chủ khác.

7- Việt Nam là một nước yêu hòa bình. Việt nam không chủ trương gây chiến tranh với bất cứ ai. Việt Nam không liên minh với người này để chống người khác. Việt Nam không liên minh với bất kỳ nước nào để chống lại nước thứ ba, nhưng Việt Nam có quyền và Việt Nam cần liên minh với những sức mạnh chính đáng để tự bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia. Trước nguy cơ mất chủ quyền biển đảo và nguy cơ mất nước vào tay chủ nghĩa bành trướng, Việt Nam cần một Hiệp định an ninh chung với Mỹ. Đó là một nhu cầu thiết yếu và phù hợp với hoàn cảnh và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam.

8- Mỹ là nước không có tham vọng lãnh thổ và không có truyền thống xâm lược và nô dịch dân tộc khác. Nước Mỹ có lợi ích gắn với chủ quyền của từng dân tộc và tự do trên toàn thế giới. Nước Mỹ là nước duy nhất hiện nay quan tâm và tự chịu trách nhiệm với nền hòa bình ổn định vì phát triển và thịnh vượng của mỗi nước. Nước Mỹ hiện là nước duy nhất trên thế giới có mối quan tâm và tự có trách nhiệm bảo vệ tự do toàn cầu. Nước Mỹ là quốc gia duy nhất có sức mạnh kinh tế và quốc phòng đủ để trấn áp mọi tham vọng phi lý, mọi hành vi vi phạm luật pháp quốc tế.

9- Trung Quốc biết điều đó. Trung quốc biết rất rõ rằng Mỹ là người duy nhất và đang là người nguy hiểm nhất đối với âm mưu độc chiếm biển Đông của Trung Quốc. Một Hiệp định An ninh chung giữa Việt Nam và Mỹ sẽ là lưỡi gươm cắt đứt cái lưỡi bò tham vọng ngông cuồng nhưng ngu dốt của Trung Quốc. Bằng các thủ đoạn, vừa tung con bài hữu nghị láng giềng vừa uy hiếp trừng phạt kinh tế, vừa chặn nước gây hạn và nạn đói cho đồng bằng sông Cửu Long, vừa cho Formosa và thuyền đánh cá thả, xả hóa chất độc làm chết cá suốt bờ biển bốn tỉnh miền Trung, vừa đe dọa bằng âm mưu gây bạo loạn lật đổ chế độ nếu theo Mỹ. Nhưng Trung Quốc đã sai. Cách xử sự thâm độc và hèn hạ đã làm thức tỉnh những cái đầu còn lú lẫn cuối cùng trong những nhà lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam, đẩy những người này tới quyết tâm nhượng bộ Mỹ để đạt bằng được một Hiệp định hợp tác toàn diện thực sự với chính phủ Mỹ, bắt đầu bằng việc dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương.

9- Mỹ tuyên bố dỡ bõ lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam và cam kết hỗ trợ Việt Nam trong cố gắng bảo vệ chủ quyền chính đáng và hợp pháp của mình.

10- Dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương biểu hiện lòng tin chiến lược giữa hai nước cựu thù Việt – Mỹ, là cản trở cuối cùng để hai nước tiến tới Hiệp định đối tác toàn diện, tạo điều kiện để hai nước phát triển đồng đều các mối quan hệ tương quan, tiến tới nhất thể hoá các khác biệt về thể chế chính trị và các đặc điểm về nhân quyền.

11- Chúng ta không chống nhân dân Trung Quốc. Nhưng một chính sách gắn kết với Trung Quốc chỉ có thể thực hiện với một Trung Quốc dân chủ, ủng hộ hòa bình, tôn trọng chủ quyền của quốc gia láng giềng. Chúng ta sẽ cùng nhân loại và cùng nhân dân Trung Quốc đấu tranh để Trung Quốc trở thành một siêu cường dân chủ, giàu có và xứng đáng. Chủ nghĩa bành trướng lãnh thổ lạc hậu, chủ nghĩa Đại Hán ích kỷ sẽ bị tiêu diệt cùng với sự hoàn thiện nền dân chủ và chủ nghĩa nhân văn hiện đại. Người Việt Nam và người Trung quốc sẽ sống mãi trong một nền hòa bình thịnh vượng chung. Cương giới lãnh địa sẽ không còn là giới hạn ngăn cách hai dân tộc rất gần nhau về truyền thống văn hóa và cũng như những gắn kết với các dân tộc Bách Việt anh em. Không có độc đảng, không có chủ nghĩa Mác, chỉ có quyền tự do, hòa bình và thịnh vượng.

12- Việt Nam quyết tâm bằng mọi giá liên minh với Mỹ và cùng với Mỹ từng bước hoàn thiện đưa quan hệ hai nước thành mẫu mực cho mối quan hệ nhân văn hiện đại.

‘Sống chết mặc bay!’

‘Sống chết mặc bay!’
Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

“Sống chết mặc bay!” là truyện ngắn đầu tay và nổi tiếng nhất của nhà văn Phạm Duy Tốn, in trên báo Nam Phong vào Tháng Mười Hai, 1918, mô tả hai hình ảnh tương phản một của những người nông dân vất vả, hoảng hốt trước cảnh đê vỡ, vì mưa to gió lớn vào lúc nửa đêm, còn nhà cầm quyền địa phương đang dở chơi ván tổ tôm trong căn phòng ấm cúng, kẻ hầu người hạ, mặc kệ số phận dân đen.

Những con cá chết trên bãi biển miền Trung Việt Nam. (Hình: STR/AFP/Getty Images)

Hoạt cảnh ấy, gần cả một thế kỷ sau, trên đất nước khổ đau, khốn nạn này lại xẩy ra. Tình trạng thảm họa vì biển thấm độc, sinh vật ở biển chết trôi dạt vào bờ, nghêu sò ốc hến cũng nằm phơi mình há miệng, đến chim trời cũng chung số phận chết khô, và dân chúng, ăn cá cũng tử vong, mà ngư dân sống nhờ đại dương cũng đang chết dần chết mòn, và tất yếu là chết… đói, tương lai là mang bị gậy vào đất liền đi ăn xin. Nhưng cho đến giờ này những nhà lãnh đạo, cai trị dân vẫn chưa tìm ra nguyên nhân, đang tìm cách chống đỡ cho Formosa.

Báo chí đã tìm ra công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh, thuộc khu kinh tế Vũng Áng, đã nhập về 300 tấn chất cực độc để sử dụng thời gian qua rồi thải ra biển, hàng ngày xả lượng nước khổng lồ ra đáy biển bằng đường ngầm qua đường ống chìm dài tới 1.5 km. Trong khi đó quan chức nhà nước cho là đường ống xả nước ấy có giấy phép, đúng quy trình mà không nhắc gì đến chuyện Formosa thải ra biển những hóa chất gì! Phải có thế lực nào che chắn, một công ty ngoại quốc lại có thể nói thẳng vào mặt người dân nước Việt: “Chọn một trong hai thứ, sắt thép hoặc cá tôm!” Sắt thép nào chưa thấy, chỉ toàn nhập từ Tàu, mà người dân Việt đã dở sống dở chết!

Nước Việt Nam có bờ biển dài hơn 3,000 km, đáng lẽ phải là một thiên đường của ngư phủ nước Việt, nhưng từ ngày có đảng về, ngư dân bắt đầu có một đời sống tủi nhục. Ngư dân đánh cá trong hải phận Việt Nam bị Trung Cộng bắn chết, bắt bớ, đốt tàu, thậm chí trong nhiều tấm ảnh ghi lại, ngư dân Việt phải chấp tay lạy bọn Tàu, mà đảng vẫn kiêng dè, “sống chết mặc bay,” không dám can thiệp, không dám cả chuyện gọi đích danh cái đất nước khốn nạn ấy, cho nên chữ “tàu lạ” mới có trong chữ nghĩa Việt Nam.

Sao đảng Cộng Sản Việt Nam lại hèn hạ đến thế, đụng đến hai chữ Trung Quốc như đụng đến mồ mả, dòng họ của Bộ Chính Trị nhà nó. Nếu không vậy, sao Việt Khang, Đinh Nguyên Khang, Điếu Cày, Lư Văn Bảy… và hàng nghìn người bày tỏ thái độ chống Trung Cộng bị bắt, bị cầm tù vì tội “tuyên truyền, chống phá nhà nước.” Thì ra đảng đã đồng hóa nhà nước Tàu và nhà nước ta làm một.

Chính quyền Cộng Sản Việt Nam trong chính sách mỵ dân luôn luôn rêu rao đảng là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân,” nhưng thật tình đảng đang lo quyền lợi của đảng, vì không có chỗ dựa vào thành trì Trung Cộng, thì đảng đã chết toi từ lâu. Cộng Sản Việt Nam mượn súng đạn của Tàu để củng cố quyền lực. Cho nên Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh mới phát biểu: “Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc!” Vậy ra là y lo mất lòng Trung Quốc, chứ không hề nghĩ đến số phận đất nước!

Về chuyện tôm cá, thì trong cuộc họp báo của thứ trưởng Bộ Tài Nguyên-Môi Trường, khi phóng viên đặt vấn đề “tài nguyên môi trường Thừa Thiên-Huế, chỗ có hàng loạt bè cá bị chết, họ có nói là trong nước kiểm nghiệm có cả kim loại nặng như là crom…,” nghĩa là chưa đụng gì đến cái tên Formosa, thì “đầy tớ nhân dân” Võ Tuấn Nhân đã sợ hãi, líu lưỡi: “Không, không, để cho anh nói hết. Nói riêng với em, đừng hỏi câu đó, hỏi câu đó tổn hại cho đất nước của mình. Nhá!” Đất nước đã tổn thương hằng chục năm nay rồi, không phải vì một câu hỏi đụng chạm quyền lợi của nhà cầm quyền Hà Nội, tức là quyền lợi của Formosa.

Trong khi thợ lặn Vũng Áng bị chết, dân chúng ăn cá dạt vào bờ cả gia đình bị ngộ độc qua đời, thì vẫn có một nhóm “Lê Lai cứu chúa,” như Đặng Ngọc Sơn, phó chủ tịch tỉnh Nghệ Tĩnh, dám nói: “Những loại hải sản như mực, tôm, cua cá vẫn đang sống thì người dân có thể ăn được. Ngoài ra, người dân cũng có thể yên tâm tắm biển ở các vùng biển này.”

Trong khi cả nước than khóc vì biển đang bị đầu độc, trong đó có biển Thừa Thiên-Huế, ngư dân đang đói, cố đô vẫn tưng bừng khai mạc Festival Huế, và ông Nguyễn Dung, trưởng ban tổ chức, tuyên bố: “Hiện tượng cá chết không ảnh hưởng đến Festival Huế!” thể hiện cái tinh thần “sống chết mặc bay” của những “đầy tớ nhân dân,” và ông cũng cho hay, tỉnh cam kết bảo đảm thực phẩm an toàn phục vụ du khách và can đảm nói rằng: “Nếu ai bị ngộ độc thực phẩm, tôi sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm!” Không biết ông lấy cái gì ra để bảo đảm, tiền của thu từ nhân dân, chức vụ của ông… Từ trước đến nay Cộng Sản Việt Nam chưa bao giờ nhận lỗi của mình, mà cái lỗi nặng nhất là tham vọng cướp chính quyền, nướng hàng triệu thanh niên miền Bắc vào lò lửa bom đạn chiến tranh, để đưa đến một đất nước hôm nay, nợ nần, tụt hậu và đạo lý suy đồi!

Mới đây thôi, khi cá đã chết đầy biển, ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN, đi thăm công trình nhà máy thép Sơn Dương, Vũng Áng, hoàn toàn không dám đề cập đến nguyên nhân thảm họa đang xảy ra, vẫn không có một tiếng nói nào về tình trạng ô nhiễm Biển Đông, cũng không quan tâm thăm hỏi gì đến ngư dân. Đặc khu Vũng Áng đã được chính thức xem như là một vùng “đất tư” của Trung Cộng tại Việt Nam từ ngày 14 Tháng Bảy, 2014. Chính phủ CSVN đã ký khế ước với chủ tịch Formosa, đầu tư $97 tỷ và cho thuê vùng đất này trong 70 năm. Tiền đầu tư là $97 tỷ, tiền cho thuê đất 70 năm là bao nhiêu? Thông lệ “bôi trơn” và “lại quả” dành cho Bộ Chính Trị là bao nhiêu? Chúng ta chưa nói đến những công trình đầu tư, cho thuê mẫu đất, bao nhiêu mẫu rừng khác trên toàn cõi Việt Nam, và đầu não lãnh bao nhiêu %. Chín năm làm thủ tướng, ông Nguyễn Tấn Dũng kiếm được bao nhiêu tiền?

“Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi!” thì ăn làm sao, nói làm sao bây giờ.

Dân tộc Việt Nam là dân tộc vô phúc nhất, từ ngày nhân dân nhận chịu thảm họa Cộng Sản cho tới giờ.

Bài học Minamata

Bài học Minamata

Tác giả: Nguyên Mẫn

KD: Đọc bài này thấy lo sợ cho Vũng Áng, cho người dân Việt chúng ta. Nếu sắt thép sản xuất ra mà dân tộc toàn đau ốm vì ô nhiễm thực phẩm và môi trường thì sắt thép đó để làm gì? Chính quyền Hà Tĩnh hẳn sẽ đi vào lịch sử đất nước với cái “dấu đen” 

Ngày chủ nhật, 1 tháng 5 năm 2016, thành phố Minamata đã làm lễ tưởng niệm các nạn nhân của chứng bệnh nhiễm độc thủy ngân Minamata, và kỷ niệm 60 năm ngày chứng bệnh này được chính thức công nhận (1).

Minamata nguyên là một làng nhỏ, thành lập vào cuối thế kỷ 19, cạnh vịnh Minamata, phía tây của đảo Kyushu, miền nam nước Nhật.  Dân chúng sinh sống bằng nghề nông và đánh cá.  Đến năm 1907, dân làng với hy vọng được hòa nhập vào tiến trình phát triển công nghiêp của nước Nhật vào thời kỳ ấy, đã thuyết phục công ty Chisso lập nhà máy tại làng. Chisso, thoạt đầu, là một công ty chuyên sản xuất phân bón và carbide, dần dần phát triển thành một công ty hóa dầu và plastic.

Ngay từ đầu Chisso đã không xử lý chất thải công nghiệp xả vào vịnh Minamata, gây thiệt hại cho khu vực đánh cá. Cá chết nổi trên vịnh Minamata ngày càng nhiều và lượng cá đánh bắt giảm đi rõ rệt. Nhưng chủ trương của Chisso là thà bồi thường cho ngư dân Minamata vẫn có lợi hơn là áp dụng các kỹ thuật bảo vệ môi sinh. Từ năm 1932, Chisso bắt đầu chế tạo hóa chất acetaldehyde để sản xuất plastics. Hóa chất này được chế tạo với hợp chất trong đó có thủy ngân (mercury), và thủy ngân cũng được Chisso thải vào vịnh Minamata. Sau thế chiến thứ hai, Chisso nhanh chóng khôi phục lại khu nhà máy ở Minamata, tiếp tục sản xuất acetaldehyde. Đến năm 1953 Chisso đã thành công chế tạo DOP, một chất dẻo dùng cho việc sản xuất PVC.  Số lượng mercury dùng trong qui trình sản xuất PVC ngày càng tăng, hệ quả là vịnh Minamata bị ô nhiễm bởi hợp chất này ngày càng nặng nề.

Thủy ngân khi ở trong môi trường sông nước đã dần dà biến thành hợp chất hữu cơ vô cùng độc hại: methylmercury. Chất hữu cơ này khi được hấp thụ đã tích lũy dần trong các lớp trong hệ sinh vật.  Sinh vật càng cao trong hệ thì lượng methylmercury tích lũy càng nhiều.  Sau cùng, sinh vật cao nhất trong hệ, con người, khi tiêu thụ cá tôm đánh bắt trong vịnh, đã tích lũy trong cơ thể một lượng lớn methylmercury.

Mehtylmercury, một khi được hấp thụ, dễ dàng vượt các tuyến phòng thủ của cơ thể để tấn công bộ não, hủy hoại hệ thần kinh. Đến năm 1956 tác hại của methylmercury mới được dân Minamata phát hiện.

Đầu tiên là hiện tượng nhiều con mèo trong thành phố đột nhiên “nhảy múa” (2) một cách điên dại rồi lao mình xuống vịnh. Tháng năm 1956, bốn nạn nhân của một chứng bệnh lạ lùng được đưa đến bệnh viện thành phố. Họ có cùng những triệu chứng như co giật dữ dội, tay chân và môi bị tê dại, liên tục rơi vào tình trạng điên dại, rồi bị hôn mê vĩnh viễn. Cuối cùng, sau một cơn sốt cao, họ chết. Giới y tế thành phố khám phá ra rằng, đây không phải là những nạn nhân đầu tiên mà đã có gần 20 người ở các làng chài quanh vịnh đã chết với những triệu chứng tương tự.  Nhiều trẻ sơ sinh khi ra đời sau đó đã nhiễm chứng bệnh này, chân tay co quắp, hệ thân kinh bị hủy hoại từ khi còn trong bụng mẹ. Mẫu số chung của những nạn nhân này, và kể cả những con mèo đã tự tử, là đã ăn cá đánh bắt trong vịnh.

Dựa vào đó, những nhà điều tra đã suy ra rằng, cá bị nhiễm độc từ chất thải của Chisso xả vào vịnh. Lẽ dĩ nhiên Chisso chối bỏ lời kết tội này và tiếp tục công việc sản xuất. Đến năm 1958 Chisso lại chuyển địa điểm xả chất thải từ vịnh Minamata sang sông Minamata. Sông này chảy ngang thị trấn Hachimon. Chỉ vài tháng sau những triệu chứng của căn bệnh lạ lùng lại xuất hiện ở vùng Hachimon. Cứ thế chứng bệnh Minamata đã lan truyền đến những vùng lân cận một cách nhanh chóng (4).

Mặc dầu Chisso luôn luôn chối bỏ là đã thải mercury vào sông nước và từ chối hợp tác với các nhà điều tra, nhóm điều tra y học thuộc đại học Kumamoto ở Kyushu, vào tháng 7 năm 1959, đã đưa ra kết luận tạm thời là cá vùng vịnh Minamata đã nhiễm methylmercury (thủy ngân hữu cơ) từ chất thải của nhà máy Chisso. Phân tích chất thải ra vịnh của Chisso cũng như kết quả giảo nghiệm các nạn nhân chứng bệnh Minamata đều cho thấy sự hiện diện của methylmercury ở nồng độ cao.

Chisso phản ứng dữ dội, đưa ra bản báo cáo riêng phủ nhận những kết luận của nhóm đại hoc Kumamoto. Chính quyền Nhật bản cắt đứt tài trợ cho nhóm nghiên cứu y học đại học Kumamoto. Bộ trưởng Công Nghiệp và Thương Mại Quốc Tế, Ikeda Hayato (Thủ tướng Nhật, 1960-1964), chỉ trích việc công bố kết luận về chất thủy ngân hữu cơ của nhóm nghiên cứu đại học Kumamoto, cho rằng đó là nguyên do gây ra xung đột xã hội.

Không còn có thể đánh cá để bán hay để ăn, mất đi cơ sở kinh tế của cuộc sống, một số dân chài đã phải bỏ xứ tha phương cầu thực. Năm 1959 ngư dân Minamata bắt đầu phản đối Chisso, đòi bồi thường thiệt hại. Chisso từ chối bồi thường, viện lý là không có chứng cớ liên kết chứng bệnh với hoạt động sản xuất của nhà máy, chỉ đồng ý cho các nạn nhân còn sống sót một số tiền nhỏ gọi là để cảm thông.

Tháng 11 năm 1959, 4,000 ngư dân vùng vịnh tụ họp đòi quốc hội Nhật kiểm tra vùng bị ô nhiễm. Trên đường về, họ xông vào trụ sở công ty, đập phá dụng cụ văn phòng. Mặc dầu cuộc nỗi loạn của ngư dân bị chỉ trích nhưng chính sự kiện này đã lôi cuốn được sự chú ý của giới truyền thông khắp nước. Sau hơn ba năm, kể từ ngày được phát hiện, chứng bệnh Minamata đã được dân chúng khắp nước Nhật biết đến. Chisso đồng ý bồi thường cho các nạn nhân còn sống hay đã chết với số tiền nhỏ bé (5).  Và Chisso tiếp tục thải thủy ngân vào vùng vịnh cho đến năm 1968 thì ngưng, lý do là thủy ngân không còn cần cho qui trình sản xuất acetaldehyde nữa!

Nhưng cuộc đấu tranh của nạn nhân chứng bệnh Minamata vẫn tiếp tục. Năm 1969 bệnh nhân kiện Chisso đòi bồi thường. Các bệnh nhân và những người ủng hộ họ đã dấy lên phong trào mỗi người mua một cổ phiếu duy nhất để tham gia các cuộc họp thường niên của Chisso. Chisso đối phó bằng cách thuê yakuza (mafia Nhật) để hù dọa, trấn áp các cổ đông này. Trong kỳ họp thường niên ngày 28 tháng 11 năm 1970, Chisso đã ngăn không cho hàng ngàn cổ đông này vào phòng họp bằng cách cho yakuza làm cổ đông và chiếm phòng họp. Cuộc họp kết thúc sau 5 phút, các dự thảo đều được chấp thuận nhanh chóng.

Sau đó các nạn nhân vẫn tiếp tục kiện Chisso và cả chính quyền trung ương và địa phương. Năm 2010 chính quyền Nhật Bản buộc phải can dự, sắp xếp cho những nạn nhân, không được xác nhận mắc bênh Minamata (6) và không nằm trong các vụ kiện chính quyền và Chisso, được bồi thường.  Năm 2014, tòa án khu Kunamoto ra lệnh cho nhà nước, chính quyện Kunamoto và Chisso bồi thường cho ba nạn nhân, không có xác nhận bệnh Minamata, đã kiện họ.  Các bị cáo chối bỏ trách nhiệm về luận cứ là nguyên đơn đã mắc bệnh Minamata do nhiễm thủy ngân.

Minamata là trường hợp ô nhiễm công nghiệp đầu tiên được biết đến. Chứng bệnh Minamata là chứng bệnh do ô nhiễm môi trường đầu tiên được công nhận. Cho đến thế kỷ 21, bài học Minamata cho thấy, ở Minamata cũng như nhiều nơi khác trên thế giới, người ta vẫn còn sẵn sàng hy sinh quyền lợi con ngưởi để đổi lấy lợi ích kinh tế.  Tuy nhiên, qua kinh nghiệm đắng cay của Minamata, nước Nhật đã học được nhiều bài học bổ ích. Các tổ chức xã hội dân sự gây áp lực buộc chính quyền Nhật lập các cơ quan bảo vệ môi trường, thông qua nhiều đạo luật bảo vệ môi sinh. Các tổ chức thương mại và kỹ nghệ đổ vốn đầu tư vào kỹ thuật sạch (clean technology).  Nhật bản được công nhận là quốc gia có nhiều biện pháp chống ô nhiễm chặt chẽ nhất thế giới.

Bây giờ thành phố Minamata là niềm hãnh diện chung của dân cư trong vùng. Năm 1997 Vịnh Minamata được công nhận là vùng môi sinh an toàn, mọi lệnh cấm đánh bắt và tiêu thụ cá được bãi bỏ. Năm 1999 Minamata được chứng nhận tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14001. Đầu thế kỷ 21, năm 2001, Minamata được công nhận là thành phố Sinh Thái (Eco-Town) của Nhật bản. Năm 2008 chính phủ trung ương Nhật bản chỉ định Minamata là thành phô sinh thái kiểu mẫu. Tháng 10 năm 2013, dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc, một qui ước nhằm bảo vệ sức khỏe con người và môi trường đối với  hiểm họa của thủy ngân và hợp chất thủy ngân đã được trên 140 nước ký kết, trong đó có Việt Nam.  Qui ước này mang tên “Qui Ước Minamata về Thủy Ngân”.

Như đã đề cập ở đầu bài, Minamata vừa kỷ niệm 60 năm ngày chứng bệnh Minamata được công nhận. 60 năm sau, năm 2076, mong ước chúng ta không phải làm lễ tưởng niệm cho nạn nhân của vụ ô nhiễm Vũng Áng!

___

Chú thích

  1. Ngày 1 tháng 5 năm 1956 đánh dấu ngày cơ quan y tế địa phương công nhận bệnh Minamata là do ô nhiễm từ chất thải công nghiệp. Mãi đến năm 1968, 12 năm sau ngày bệnh được phát hiện, chính phủ Nhật mới công nhận chứng bệnh này là do sự hủy diệt môi trường.
  2. Dân chúng thoạt đầu, khi chỉ quan sát được triệu chứng kỳ lạ của mèo, đã gọi đây là căn bệnh “sốt mèo-nhảy-múa”.
  3. William Eugene Smith (1918-1978), phóng viên nhiếp ảnh nổi tiếng của Hoa Kỳ chuyên về các đề tài nhân bản. Tháng 6 năm 1972 tạp chí Life đã đăng bộ ảnh nạn nhân Minamata, trong đó bức ảnh trên được xem đã góp phần không nhỏ trong việc phổ biến thảm họa ô nhiễm môi trường đến toàn thế giới. Công ty Chisso, muốn Smith ngưng phổ biến bộ ảnh này, đã thuệ Yakuza, giả dạng làm nhân viên công ty, hành hung ông này. Ông bị thương nặng, thị giác của một mắt bị suy giảm hẳn.
  4. Năm 1965 bệnh Minamata lại xuất hiện tại Niigata dọc theo sông Agano. Thủ phạm lần này là một công ty của Showa Denko, cũng dùng thủy ngân trong qui trình sản xuất.
  5. Năm 1959 Chisso trả cho mỗi nạn nhân đã tử vong 300,000 yen (US$ 830) 100,000 yen (US$ 278) cho nạn nhân còn sống sót.
  6. Có hơn 17,000 người trong vùng Kumamoto và Kagoshima đã nộp đơn xin chứng nhận nhiễm bệnh Minamata. Chỉ có 2,264 người được chính quyền công nhận, 10,353 người khác được xem đủ tư cách để nhận tiền bồi thường của công ty Chisso.

Tài liệu tham khảo

1/ Jun Ui, Jun  “Chapter- 4 Minamata Disease”

http://archive.unu.edu/unupress/unupbooks/uu35ie/uu35ie0c.htm

2/ Minamata Disease Municipal Museum “Ten Things To Know About Minamata Disese”, translated by Timothy S. Geotge and Jane George.

3/ Allchin, Douglas “The Poisoning of Minamata”, https://www1.umn.edu/ships/ethics/minamata.htm.

4/ “Minamata, Kumamoto”, Wikipedia article,   https://en.wikipedia.org/wiki/Minamata,_Kumamoto#cite_note-Ministry_of_Environment.2C_Japan-6

Cá chết trắng kênh Nhiêu Lộc ở Sài Gòn

 Cá chết trắng kênh Nhiêu Lộc ở Sài Gòn

Cá chết trắng kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè ngày 17/5/2016. (Ảnh chụp từ trang Dantri).

Cá chết trắng kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè ngày 17/5/2016. (Ảnh chụp từ trang Dantri).

17.05.2016

Cá chết với số lượng nhiều bất thường hôm 17/5 trên kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè ở Sài Gòn, trong khi Bí thư Đinh La Thăng tuyên bố “không chấp nhận lợi dụng cá chết để kích động, gây rối”.

Báo chí trong nước đưa tin, nhiều loại cá nổi xếp lớp trên mặt kênh sau cơn mưa lớn hôm qua.

Tin cho hay, cơ quan phụ trách môi trường đô thị đã cử người xuống để vớt cá mang đi, nhưng đến trưa nay vẫn không gom hết.

Người dân cho biết các nhân viên này sau đó đã “rải hóa chất được cho là nhằm làm sạch nguồn nước”.

Truyền thông nhà nước dẫn lời ông Trần Đình Hà, Chi cục trưởng Quản lý, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, cho biết, nguyên nhân cá chết “có thể do mưa lớn đẩy nước bẩn từ trong cống, khu dân cư ra kênh khiến nguồn nước bị ô nhiễm”.

Cơ quan của ông Hà cũng đã khuyến cáo người dân không “nên vớt cá chết để ăn vì có thể chúng nhiễm độc, ảnh hưởng đến sức khoẻ”.

Đây không phải lần đầu tiên kênh Nhiêu Lộc xuất hiện tình trạng cá chết. Năm ngoái, cũng xảy ra một vụ việc tương tự.

Trong khi đó, vụ cá chết hàng loạt ở miền trung vẫn tiếp tục gây chia rẽ dư luận.

Trong một cuộc họp tiếp xúc cử tri mới đây, Bí thư thành ủy TP HCM Đinh La Thăng cho rằng “cần phải có thời gian công bố nguyên nhân cá chết và không chấp nhận việc lợi dụng điều này để kích động, gây rối”.

Ông Thăng được báo chí trích lời nói rằng một số người lợi dụng vụ cá chết ở miền Trung để thực hiện cuộc “Cách mạng cá”.

Đài Truyền hình Việt Nam cùng nhiều cơ quan truyền thông do nhà nước quản lý mới đây cũng đã đồng loạt đổ lỗi cho tổ chức Việt Tân “xúi giục” người dân xuống đường.

Ông Đỗ Hoàng Điềm, Chủ tịch Đảng Việt Tân, từng nói với VOA Việt Ngữ rằng các cuộc tuần hành vì môi trường ở Việt Nam “là quyền và nghĩa vụ chung của mọi người”.

Ông nói thêm: “Trên tinh thần đó, nhiều người, anh chị em đảng Việt Tân ở trong nước cũng tham gia vào cùng với đồng bào để đi biểu tình”.

Một số cuộc tuần hành ở nhiều nơi tại Việt Nam hôm 15/5 không thể diễn ra như dự kiến.

AI LÀ KẺ GÂY KÍCH ĐỘNG: ĐỨC CHA PHAOLÔ HAY CHÍNH VTV1?

Facebook: Tin Mừng Cho Người Nghèo

DUC CHA

‪#‎GNsP – “Giám mục Vinh đã ra bản Thư Chung diễn tả sự việc một cách thiếu khách quan, thổi phồng gây hoang mang và dùng những lời lẽ kích động giáo dân ..” là những nhận định của Đài Truyền hình VTV1 về “ thảm họa ô nhiễm môi trường Biển tại miền Trung ” của Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp .

Có câu “Bút sa Gà chết ” với ý nói người viết phải chịu trách nhiệm về những điều đã mình viết. Vì đó là bằng chứng tốt nhất để người khác trích dẫn cho nhận định của họ về bài viết của mình . Như vậy nếu cho rằng “bản Thư Chung diễn tả sự việc một cách thiếu khách quan, thổi phồng gây hoang mang và dùng những lời lẽ kích động giáo dân ..” thì Đài VTV1 phải trưng dẫn được những câu chữ cụ thể trong Thư Chung chứ không thể quy chụp một cách chung chung.

Đoạn đầu của bản Thư Chung nêu lên thực trạng “thảm họa ô nhiễm môi trường biển” và nêu lên sự “hoảng loạn, bần cùng là những khốn khổ mà người dân đang nếm trải” là đã “diễn tả sự việc thiếu khách quan”? Hay là sự thật còn thê thảm hơn những gì Thư Chung đã nêu? “Chất thải có chứa độc tố kim loại thải ra từ khu công nghiệp” cũng là một sự thật đã và đang xảy ra tại Vũng Áng . Vậy thì nếu như có “nhiều người đinh ninh rằng đó là nguyên nhân thảm họa trên” thì có gì là “thiếu khách quan” ? .

Đoạn tiếp theo , Thư Chung nêu lên “hậu quả của nhiễm độc kim loại nặng đối với sức khỏe con người” không chỉ trong hiện tại và ngay cả thế hệ mai sau là để “thổi phồng và gây hoang mang” cho dư luận sao? Trong khi chỉ cần một cái nhấp chuột, ai cũng có thể kiểm chứng được thông tin này tại các nước trên thế giới, cụ thể là thảm họa vịnh Minamata tại Nhật Bản .

Khi được phóng viêc Trần Hiếu – Phụ Nữ Việt Nam hỏi : “Ông đánh giá thế nào về cách xử lý của cơ quan chức năng trong thời gian qua”.
PGS.TS Nguyễn Duy Thịnh – Viện Công nghệ Sinh học và Thực phẩm, Đại học Bách Khoa HN đáp :
Tôi cho rằng cơ quan chức năng xử lý lòng vòng, phản ứng chậm và có nhiều khuất tất”. Ông nói tiếp : “Tôi mà được giao làm vụ này. Chắc chắn chỉ trong một ngày tôi sẽ tìm ra”.

Như vậy, việc Thư Chung viết rằng “ … đã hơn một tháng qua, các nhà chức trách vẫn tránh né việc công bố nguyên nhân và thủ phạm gây ra thảm họa này” sao gọi là “gây hoang mang” trong khi các nhà khoa học cũng như dư luận xã hội đều lên tiếng về “phản ứng chậm và nhiều khuất tất” vể cách xử lý của các cơ quan chức năng trước “tầm mức nguy hiểm to lớn của thảm họa” ?

Và nếu cho rằng Thư Chung lên tiếng về “việc khuyến khích dân chúng tiêu thụ hải sản” là thiếu căn cứ khoa học” là một cách “ thổi phồng, gây hoang mang” thì VTV1 lại mâu thuẫn với nhận định của chính mình. Bởi lẽ trong khi các cơ quan hữu trách còn chưa chính thức công bố nguyên nhân gây cá chết thì căn cứ vào đâu chính quyền khuyến khích người dân cứ tiếp tục ăn cá và tắm biển?

Ngay cả khi Thư Chung nêu lên sự “khó hiểu khi nhà cầm quyền lại nặng tay đàn áp những người biểu tình ôn hòa đòi trả lại môi trường trong sạch cho người dân” thì ai ai cũng dễ dàng kiểm chứng thực trạng này trên tất cả các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội.

Nghĩa là , Thư Chung không “diễn tả” hay “thổi phồng” thêm điều gì ngoài những gì đã và đang xảy ra trong thực tế để gây “hoang mang” , dẫn dắt dư luận.

Đoạn tiếp theo, Thư Chung nhắc đến thông điệp Laudato Si của Đức Thánh Cha Phanxico với lời trích “Chúng ta không thể dửng dưng trước bất cứ điều gì của trái đất”. Đồng thời cũng nêu lên lời dạy của Công Đồng Vaticano II, Gaudium et Spes, số 1 : “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và âu lo của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ cũng là vui mừng và hy vọng , ưu sầu và lo âu của người môn đệ Chúa” , để thấy rằng tất cả những gì đã được nêu ở phần trên của Thư Chung đều được viết, được xây dựng trên nền tảng là giáo huấn của Hội Thánh.

Phần cuối cùng của Thư Chung, Đức Cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp thiết tha kêu gọi các tín hữu “hãy thể hiện căn tính Kitô hữu của mình, có trách nhiệm với quê hương đất nước và các thế hệ tương lai, đồng thời hiệp thông với những người đang là nạn nhân của thảm họa ô nhiễm môi trường ” , và có lẽ lời kêu gọi mọi người hãy : “Thực hiện quyền công dân được Hiến Pháp, pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế quy định; thể hiện một cách ôn hòa quyền đòi hỏi sự minh bạch trong việc điều hành đất nước; cũng như xử lý thảm họa và buộc những kẻ đã gây ra phải bị xét xử đúng với công lý “ , là những “lời lẽ kích động giáo dân” mà Đài VTV1 đã nhận định . Trong khi việc biểu tình trong ôn hòa là một trong những quyền công dân được Hiến Pháp, pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế quy định. Và thực tế, đáp lại lời kêu gọi của Thư Chung, nhiều linh mục và giáo dân đã thực hiện những cuộc tuần hành với một thái độ rất ôn hòa, không hề có chút “ kích động” nào cả.

Sự việc của Đức Cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp hôm nay khiến chúng ta không thể không nhớ đến một vị chủ chăn khác cũng là nạn nhân của truyền thông Cộng Sản : Đức Tổng Giám Mục Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt. Lúc bấy giờ, Trên các phương tiện truyền thông đại chúng, mọi người được nghe phát ngôn của Tổng Giám Mục Hà Nội – Ngô Quang Kiệt, với một đoạn trích không đầy đủ: “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái Hộ chiếu Việt Nam” Dư luận buộc phải hiểu là Ông Ngô Quang Kiệt cảm thấy nhục vì phải mang quốc tịch Việt Nam, là công dân nước CHXHCNVN, cộng thêm thủ thuật bài trí một diễn đàn ném đá công khai của báo giới, thế là TGM Ngô Quang Kiệt nghiễm nhiên trở thành một cái đích rất tốt cho những trận mưa đá về các loại tội danh như : phản bội Tổ Quốc, miệt thị , xúc phạm nơi sinh ra mình , xuyên tạc sự thật , kích động giáo dân, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự quốc gia, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, coi thường Pháp luật và không xứng đáng là người dân Việt Nam…

Cũng thế ngày nay, theo nhận định của VTV1 , Thư Chung của Đức Cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp là một trong những “bình luận mang tính quy kết, suy đoán một chiều về nguyên nhân sự cố , dẫn dắt dư luận theo hướng nguyên nhân đã rõ , chính quyền đang tìm cách bao che. Đây là thủ đoạn hướng lái dư luận biến sự cố ngoài ý muốn trở thành cái cớ chống phá, công kích chính quyền …”

Tưởng cũng nên nhắc lại vụ việc dàn dựng clip “ Cây Chổi quét rau” cũng do Đài Truyền Hình Việt Nam thực hiện cho thấy việc truyền thông sai sự thật vốn không phải là điều hiếm xảy ra của giới truyền thông trong xã hội ngày nay.

Tuy nhiên, trong một thời đại được mệnh danh là thời đại của truyền thông và thông tin thì không khó khăn gì để mọi người có thể tiếp cận được sự thực của các vấn đề. Dù vậy, những nạn nhân của một nền truyền thông thiếu đạo đức vẫn phải chịu những thiệt thòi, mất mát và đau khổ. Đặc biệt, khi nạn nhân đó là những vị chủ chăn, những ngôn sứ của Đức Kitô trong thời đại hôm nay. Nhưng có lẽ khi dám lên tiếng cho công lý và sự thật, các Ngài đã sẵn sàng đón nhận sự chống đối, vu khống, triệt hạ. “Là ngôn sứ, ông phải chết. Không hẳn là chết thân thể, nhưng là sự chết dần chết mòn do bắt bớ, hành xích và lên án. Đó là thân phận ngôn sứ. Và chỉ khi dám chết như hạt lúa mì, vị ngôn sứ mới trổ sinh nhiều bông hạt như Lời Đức Kitô đã dạy những ai dám bước theo Người” ( Vi Sương, GNsP ).

Trong một xã hội có quá nhiều sự giả dối thì “có sao nói vậy” chắc chắn sẽ phải chịu nhiều thiệt thòi. Xin cho mỗi người trong chúng ta chấp nhận lội ngược dòng để lên tiếng bảo vệ sự thật vì Chúa Giêsu cũng dạy rằng : “ Sự thật sẽ giải phóng các con” (Jn 8:31-32). Và xin mượn câu Kinh Thánh : “NẾU TÔI NÓI SAI THÌ SAI CHỖ NÀO? NẾU TÔI NÓI ĐÚNG THÌ SAO ÔNG LẠI ĐÁNH TÔI? ” để thưa cùng Đài Truyền Hình Việt Nam về những nhận định của họ về Thư Chung của Đức Cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp .

Điền Phương Thảo

Vùng lên hay cúi xuống?

Vùng lên hay cúi xuống?

FB Trang Nhung Nguyễn

17-5-2016

Vẫn là lời kể của cô gái bị công an bắt vào Trung tâm Hỗ trợ Xã hội và bị giữ tại đây hơn một ngày chỉ vì chụp hình hôm 15/5. Đây là một câu chuyện về sự bất khuất.

VÙNG LÊN HAY CÚI XUỐNG?

Trên đời này có một loại cam kết là: tôi hứa sẽ xoá tất cả ảnh có liên quan đến đám đông tụ tập biểu tình tại bất cứ đâu trong bất kì hoàn cảnh nào. Điều này do tôi hoàn toàn tự nguyện, không hề chịu bất cứ sự ép buộc nào. Tôi cam đoan sẽ chịu mọi trách nhiệm pháp lý nếu hình ảnh do tôi chụp được phát tán trên phương tiện thông tin đại chúng. (Kí tên…)

Tôi buộc phải làm tất cả những gì chính quyền địa phương yêu cầu, dù nó trái với sự thật, trái lương tâm và bất đồng trong suy nghĩ. Nghĩ mình thân thấp cổ bé họng, “thứ dân” sẽ được sống cuộc sống của thứ dân, nhưng nếu tôi chống lại, “điêu dân” sẽ phải trả giá nặng nề cùng dòng họ! Tôi không biết mình cúi đầu trước họ thì tôi có nhu nhược, yếu hèn quá không? Khi mà những người cứng rắn chống lại họ phải trả cái giá quá đắt cho bản thân và gia đình.

Tôi hữu duyên biết được anh T, quê Long An, bị bắt, đánh, nhốt, tra tấn bằng nắm đấm, dùi cui và roi điện tại trung tâm bảo trợ cái gì đó.

Những ghi chép về các anh hùng dân tộc bất khuất tôi đã đọc nhiều, nhưng chứng kiến người thật việc thật trước mắt tôi muốn quỳ xuống cảm phục anh. Lại mong anh đừng cố chống đối họ, khi áo anh rách bươm, máu nhuốm loang lổ, dấu ấn chiếc đồng hồ in trên cổ tay anh, máu đã khô tự bao giờ… Vậy mà trong mắt anh, tôi thấy một niềm tin bất diệt bừng sáng, anh tin đến một ngày dân tộc này hoàn toàn vĩnh viễn không còn cảnh như hôm nay! Đổi lại những câu chất vấn, anh nhận được những trận đòn chí mạng, tiếng roi điện lốp bốp vang lên, dáng anh xiêu vẹo rồi, mà khí chất không sụt giảm… Đến hôm nay anh vẫn chưa được thả, tôi có thể tưởng tượng được những chuyện anh đang trải qua, nhưng tôi giúp anh bằng cách nào khi thân tôi còn chưa xong?

Vùng lên thì bị đạp xuống, còn cúi xuống như tôi thì bị chà đạp! Ai hãy cho tôi biết: Tôi phải làm gì để lấy lại Quyền Con Người của đồng bào mình? Làm gì để những mất mát, đau đớn, tủi hờn, căm giận của những người có tâm với xã hội này được buông xuống đây? Phải làm gì để mỗi người mỗi tối trước khi đi ngủ không còn lo lắng điều gì và mỗi sáng thức dậy không phải thở dài? Khi tôi phải ẩn thân, phải cúi xuống thu liễm cảm xúc và giấu đi nước mắt, tôi chỉ làm được có vậy. Nhưng tôi biết, vẫn còn các bạn!

____

Tuấn Khanh

17-5-2016

Một bạn tên Thành vừa cho biết về Trại TTHTXH 463 Nơ Trang Long như sau:

Em ra khỏi TTHTXH Nơ Trang Long khoảng 2h30 sáng 16/5, trước lúc em về thì em nhớ có 8 người bị đưa vào trong khu vực riêng. Một anh vừa xuống xem bus đã bị 1 đám CA lôi vào rất dã man, 1 cô trung niên sau khoảng 2 tiếng ở ngoài “không hợp tác”, đã bị 4 đứa học viên nữ ở đó lôi vào trong (tầm khoảng 22h và sau đó thỉnh thoảng nghe cô la …) em đoán cô là người SG.

Tầm khoảng 1h sáng thì chúng đưa 6 người ở tỉnh vào trong (trong đó có 1 anh rất kiên cường, anh mặc áo sơ mi trắng bị đánh rách cả phần lưng áo và mặt bị bầm, 1 chị ở Tiền Giang áo trắng quần đỏ, nón đỏ…) Ngoài ra em còn nhớ được 1 anh 37 tuổi ở Củ Chi (tóc anh bạc trắng).

Em thấy 1 thằng cơ động đem 2 cây gậy chích điện vào trong và sau đó có nghe tiếng gậy phóng điện. Tầm khoảng 1h thì có 1 nhóm gần 20 người bị bắt đưa vào (chúng hung hăng với nhóm này hơn nhóm đầu tiên lúc em bị đưa vào), có lẽ vì lúc này ở đây ko còn đông người nữa …

Đó là những gì em nhớ được trước lúc em bị đưa về CA Phường, hiện giờ thì điện thoại của em vẫn còn đang bị giữ (chúng hẹn em ngày mai lên CA phường Phạm Ngũ Lão để làm việc) …. Giờ giấc có thể em nhớ không chính xác (chênh lệch khoảng nửa tiếng).

Bí thư Thăng cảnh báo ‘cách mạng cá’

Bí thư Thăng cảnh báo ‘cách mạng cá’

  
Một số người biểu tình cáo buộc họ bị tấn công bằng nhiều cách hôm 8/5

Bí thư TP Hồ Chí Minh Đinh La Thăng tuyên bố không chấp nhận “lợi dụng cá chết để kích động, gây rối” nhằm làm “cách mạng cá”, theo truyền thông Việt Nam.

Trang VnExpress dẫn lời ông Thăng nói như vậy tại buổi nói chuyện với Sư đoàn bộ binh 9 và dẫn thêm:

“Chúng ta không che giấu nguyên nhân cá chết, các nhà khoa học Việt Nam phải phối hợp với các nhà khoa học quốc tế điều tra rõ ràng và công bố công khai cho người dân biết.

“Tuy nhiên, cần phải có thời gian, không thể nóng vội.”

Các cuộc xuống đường và tọa kháng, có lúc lên tới hàng ngàn người tham gia, đã diễn ra trong ba ngày Chủ nhật vừa qua và có cáo buộc lực lượng an ninh đã dùng những người mặc thường phục ngăn cản và trấn áp.

Ông Đinh La Thăng đã không lên tiếng ngay sau cuộc biểu tình đông đảo và nhiều va chạm nhất hôm 8/5.

Báo Tuổi Trẻ ngày 9/5 vẫn dẫn lời ông yêu cầu phải “rà soát tất cả tiệm cầm đồ”.

Nhưng vài ngày sau dường như vị bí thư đã thấy cần phải gửi thông điệp cứng rắn tới những người có ý định xuống đường.

Hôm 15/5/2016, báo Thanh Niên đưa tin ông Đinh La Thăng cùng một số ứng cử viên Đại biểu Quốc hội khóa 14 đã tiếp xúc với cử tri ở huyện Hóc Môn, TP HCM và nói: “Cùng với việc quản lý chặt, xử lý nghiêm những kẻ đưa thông tin kích động, người dân cần phải cảnh giác với những thông tin bôi nhọ, lợi dụng việc bảo vệ môi trường, biển đảo để kích động biểu tình, âm mưu lật đổ Đảng và Nhà nước, làm rối ren tình hình kinh tế, xã hội.”

‘Trấn áp không đúng pháp luật’

Trước đó, trong chương trình tọa đàm bàn tròn thứ Năm hôm 12/5 của BBC, cựu Đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Thuyết cho rằng cả hai lãnh đạo của Hà Nội và TP HCM có thể đã chịu sự chỉ đạo của cấp trên trong các diễn biến được cho là mạnh tay và cứng rắn với các cuộc biểu tình nhân vụ cá chết hàng loạt.

Giáo sư Thuyết nói: “Tôi cho rằng để xảy ra vụ việc ở Formosa, vụ việc cá chết hàng loạt ở miền Trung, và điều tra chậm, công bố các nguyên nhân chậm, xử lý chậm, thì đấy là trách nhiệm của cấp cao nhất là Chính phủ.

“Còn việc xảy ra các việc trấn áp một cách rất mạnh tay và không đúng pháp luật đối với người dân ở hai thành phố thì chắc chắn là hai vị đứng đầu của hai thành phố không thể thoái thác trách nhiệm.

“Nhưng tôi hiểu ở đây có thể có những chỉ đạo ở cấp cao hơn cả hai ông đứng đầu thành phố. Nhưng tôi muốn nói như thế này, đã là người đứng đầu thành phố, thì mình phải có chủ kiến và mình phải chịu trách nhiệm, sẵn sàng chịu trách nhiệm về chủ kiến của mình.”

Ông Thuyết nhắc lại việc cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, khi còn là Chủ tịch TP HCM sau năm 1975 đã “dám sử dụng quan chức cao cấp của chính quyền cũ” bất chấp quan điểm “hẹp hòi” của Việt Nam khi đó.

Giáo sư Thuyết nói thêm: “Ông ấy sẵn sàng bị kỷ luật vì việc sử dụng người như thế nhưng nhận thức của ông đã vượt lên suy nghĩ của nhiều người ở thời đại mà ông sống và ông quyết làm việc ấy vì lợi ích chung của đất nước.”