BÓNG GIÁO ĐƯỜNG NƠI TRẠI PHONG

BÓNG GIÁO ĐƯỜNG NƠI TRẠI PHONG

Nguyễn Thảo Nam

Ngày tôi dâng Thánh lễ tạ ơn Linh mục ở quê nhà là một ngày có những kỷ niệm in sâu.  Giữa bao nhiêu khách mời, có một nữ tu đến muộn.  Muộn vì chị ở một nơi xa.  Xa cả khoảng cách không gian, và xa cả khoảng cách tình người.  Chị sống với những người cùi ở Tây Nguyên, nơi con người ngại lui tới.  Chị không gọi họ là “cùi,” chị gọi họ là những người “phong,” để làm dịu đi thực tế của căn bịnh, và làm dịu đi cái ấn tượng về những con người kém may mắn này.

Hơn 30 năm trước, chị dạy tôi giáo lý và cách sống đạo, rồi chị sống những điều chị dạy.  Tha nhân, niềm đau khổ, tình thương, và lòng cảm thông không còn là bài giáo lý trên những trang sách.  Chị biến những trang sách bằng giấy, thành trang sách của tâm hồn.  Rời giáo xứ ấm áp tình người, để đến nơi xa xôi thiếu bước chân con người.  Những hình ảnh tưởng chừng như chỉ có trong tiểu thuyết.

Hôm nay chị ghé qua nơi giáo xứ mà chị đã phục vụ khi tuổi còn thanh xuân, để xem người học trò năm xưa dâng lễ tạ ơn.  Chị không lái xe.  Người tài xế đưa chị bằng xe Honda là một người cùi.  Chị không ngại ngồi bên anh, tình thuơng phục vụ lớn lao hơn sự sợ hãi.  Chị đã lặng lẽ ngồi bên cạnh những người cùi cả một quãng đời dài.

Chị gần họ, hiểu nỗi đau và niềm cô đơn.  Cô đơn trong tình người, và cô đơn giữa những người cùng đạo.  Chị hiểu hơn điều này khi thấy người bạn cùi cùng với chị đến gần với giáo đường hôm nay, nhưng anh thấy mình thật xa lạ.  Anh ngại đứng bên những người lành lặn, nên chọn một góc xa cho riêng mình ở phía cuối cổng giáo đường.  Anh không ngại đứng xa, vì cả cuộc đời, anh đã sống ở một góc xa ở phía cuối cổng cuộc đời.

Anh nhìn những bước chân vội vã của trẻ thơ đi về giáo đường, những chiếc áo dài thướt tha của xóm đạo, những bộ vét sang trọng của người đi tham dự lễ tạ ơn, và cả những chiếc áo dòng bóng bẩy của nhiều tu sĩ trẻ.  “Giáo hội sang trọng quá,” anh thốt lên với người nữ tu khi tan lễ.  Chị cũng tỏ ý đồng tình,  “Ừ, vui hơn ở trong trại cùi.”

Trại cùi có gần một trăm em, không kể người lớn.  Nó ở một nơi hẻo lánh của miền tây nguyên.  Mảnh đất núi đồi, thiếu thốn phương tiện.  Thiếu thốn nhất là nguồn nước, điều kiện cần thiết cho những người bịnh phong tắm rửa mỗi ngày.  Các em sinh ra không có sự chọn lựa cho số phận của mình, vậy thì làm sao có được những bước chân rộn rã như trẻ thơ xóm đạo.  Người nữ tu biết những thánh lễ nơi xóm đạo là vui, nhưng lại chọn đến ở một nơi buồn.

Chị mang hình ảnh giáo đường đến với những con người vì số phận không dám đến với giáo đường.  Trong ý nghĩa sâu xa nhất, chị là hình ảnh của giáo đường.  Thầm lặng, không rộn vang tiếng hát, không có những tà áo dài thiết tha, nhưng có nhịp thở và trái tim rung cảm của cảm thông.

Ở nhiều nơi, giáo đường không có Thánh lễ nên giáo đường trở nên trống trải.  Nhưng có Thánh lễ mà không tiếp tục lễ hy sinh trong cuộc sống thì vẫn chỉ là những nghi lễ hững hờ.  Khi Chúa Giêsu truyền dạy, “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy,” Chúa không chỉ có ý truyền cho giáo hội cử hành Thánh lễ mỗi ngày nơi bàn thờ, mà là truyền dạy sống Bí Tích Thánh Thể qua hành động như Ngài hành động: trở nên bánh và rượu để nuôi dưỡng sự sống cho thế giới.  Mỗi một nghĩa cử yêu thương là bánh, mỗi một chọn lựa hy sinh, dâng hiến là rượu.  Tình yêu trao ban và lòng hy sinh làm nên thánh lễ cuộc đời.  Người mẹ thức khuya lo lắng cho con, người cha lam lũ cho cuộc sống tươi xinh của gia đình, hay như người nữ tu hiến dâng một đời cho những con người bất hạnh, tất cả đang sống mầu nhiệm Thánh Thể. Trở nên bánh và rượu cho anh chị em mình là đang tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô.  Thánh lễ trở nên thiết thực quá, không riêng gì cho Linh mục, nhưng cho tất cả mỗi Kitô hữu, biết sống cho tha nhân.

Khi Thánh lễ Tạ Ơn Linh Mục kết thúc, người nữ tu đến chào.  Ánh mắt chị vui, long lanh, xen nỗi xúc động.  Chị nói, “Chị đến xem em dâng lễ ra sao!  Vui quá”.  Thánh lễ vui thật vì có hoa, có nến, có ca đoàn rộn vang tiếng hát, có tấp nập bước chân, có cả quay phim và tiệc mừng nữa.  Nhưng Thánh lễ vui chỉ là khởi điểm bắt đầu của hy lễ hiến tế.  Để mời gọi sống những Thánh lễ trong cuộc đời có niềm vui xen lẫn nước mắt, có hạnh phúc và đau khổ, có nhận lãnh và mất mát, được yêu thương và có cả phản bội nữa.

Tôi nói với chị, “Thánh lễ em dâng hôm nay có hoa, có nến, có rộn vang tiếng hát, và có ngàn nụ cười trên môi.  Còn thánh lễ chị dâng trong cuộc đời bên những con người đau khổ, thiếu vắng nụ cười, để nuôi dưỡng sức sống và niềm hy vọng cho một phần thân thể đau khổ của Đức Kitô, thật sự là sống trọn vẹn bí tích Thánh thể: trở nên bánh rượu cho thế giới.”

Khi nắng chiều xuống dần, chị theo xe cùng người bạn cùi trở về nơi xa xăm.  Tôi đứng nhìn bóng dáng họ khuất dần theo nắng nhạt.  Ở phía xa, lác đác ánh điện đường bắt đầu sáng.  Xe chị không dừng lại giữa phố phường sáng rực, nhưng lăn lóc qua những làng quê tĩnh lặng, mộc mạc, khuất lấp giữa núi đồi.  Chị mang Thánh Lễ và mang cả bóng Giáo đường đến với nhiều cuộc đời ngổn ngang đang sống ở nơi xa xăm nhất của tình người.  Tôi nhìn bóng dáng chị, rồi nghĩ đến Thánh Lễ đời mình.

Những năm Linh mục qua đi với nhiều Thánh lễ nơi bàn thờ, nhưng lòng vẫn mãi băn khoăn, bao giờ mình mới sống trọn vẹn mầu nhiệm Thánh thể như người nữ tu ấy.  Bao giờ mình mới trở nên bánh rượu đích thực như chính Đức Kitô để nuôi dưỡng sự sống cho thế giới?  Hiến lễ nào cũng có giây phút bắt đầu, nhưng kết thúc lời kinh lại chỉ diễn ra qua những hành động trao ban.  Cuối Thánh Lễ sáng nay, tôi nguyện thầm với Chúa:

Lạy Chúa, xin cho thánh lễ con dâng mỗi ngày giúp biến đổi nghi lễ thành hành động yêu thương.  Xin cho lời truyền của Thầy Chí Thánh “Hãy làm việc này mà nhớ đến thầy” thôi thúc chúng con hành động vì tha nhân, như hình ảnh người nữ tu hao gầy trở nên bánh rượu cho một phần nhân loại khao khát tình người.  Có khi phần nhân loại khao khát ấy lại chính là những con người cụ thể luôn hiện diện trên từng lối đi của đời con.

Nếu lễ dâng được cử hành mỗi ngày nơi giáo đường, thì hành động trao ban của chúng con cũng cần được diễn ra nơi bàn thờ của cuộc sống như một hy lễ nối dài.  Nếu được như thế, Thánh thể sẽ trở thành nguồn sức sống cho gia đình con, cho cộng đoàn, và cho cái thế giới quanh con đang cần được nuôi dưỡng bằng niềm hy vọng.  Những Thánh Lễ ấy, tuy không có tiếng hát, không có hoa, có nến, không có những bài giảng hùng hồn, nhưng lại là những Thánh Lễ mang đến sức sống cho nhiều tâm hồn.  Con không thể mang Giáo đường vào cuộc sống, nhưng xin cho con trở nên bóng giáo đường giữa lòng đời, như người nữ tu hao gầy bé nhỏ, nhưng có một trái tim có khi lớn lao hơn cả những Giáo đường lộng lẫy nhưng thiếu vắng tình thương.

Nguyễn Thảo Nam

CÂU CHUYỆN FORMOSA CÚT ĐI VÀ VĂN HÓA EM BÉ

CÂU CHUYỆN FORMOSA CÚT ĐI VÀ VĂN HÓA EM BÉ

“Kẻ giết người có khuôn mặt của bác nông dân hiền lành khi chia vườn ra hai mảnh, rau nhà, rau bán.  Kẻ giết người có khuôn mặt khổ hạnh quắc thước dân chài đem bán những con cá bị nhiễm độc làm nước mắm.  Kẻ giết người có khuôn mặt trí thức công quyền sang trọng khi bên các bàn tiệc tưng bừng chén chú chén anh kí những hợp đồng, dự án béo bở với những kẻ thải chất độc ra sông, suối, đất đai, thả chất độc lên trời và xuống Biển Đông”.

____

FB Lưu Trọng Văn

7-7-2016

Hãy cảnh giác trước thủ lĩnh đánh trống trận thúc giục nhân dân lao vào một cơn sốt yêu nước, bởi chủ nghĩa yêu nước thực sự là một thanh kiếm hai lưỡi. Nó [chủ nghĩa yêu nước] khiến máu chúng ta sôi lên, nhưng cũng đồng thời khiến tầm nhìn chúng ta thu hẹp lại… Và khi tiếng trống trận kia đạt đến đỉnh cao, khi mà máu đã sôi với thù hận, còn tâm trí đóng lại, thì vị thủ lĩnh sẽ chẳng cần tước đoạt quyền công dân nữa. Thay vào đó, chính nhân dân, đang đầy sợ hãi và mù quáng vì yêu nước, sẽ dâng hiến toàn bộ quyền của mình cho thủ lĩnh, một cách vinh dự. Tại sao ta biết như thế? Bởi ta đã từng làm như thế.

Lời của Caesar. Hàng triệu dân La Mã gục chết dưới lưỡi kiếm của ngài.

Các sách sử không phải ghi chép sử nhà Tần thì đem đốt cả đi. Trong thiên hạ ai cất giữ Kinh Thi, Kinh Thư , những sách của trăm nhà đều phải đem đốt hết. Nếu có những người dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chặt đầu bêu ngoài chợ, lấy xưa chê nay giết cả họ.

Lời của Tần Thuỷ Hoàng. Hàng triệu dân Bách Việt, Mãn, Hán …xương chất cao như núi vì cái gọi là vinh quang thống nhất thiên hạ của ngài.

Uy lực trong lịch sử tạo ra những cơn lốc về tôn giáo và chính trị từ ngàn xưa đều là uy lực của lời nói và chỉ do lời nói mà thôi… Chỉ có thể khích động quần chúng bằng uy lực của lời nói. Mọi phong trào vĩ đại đều là phong trào quần chúng, là sự bùng nổ của mê đắm và xúc cảm của con người.

Lời của Hitler.Hơn 40 triệu dân châu Âu là nạn nhân của những lời nói mà ngài khích động.

Chính trị là chiến tranh không đổ máu. Chiến tranh là chính trị đổ máu. Súng đẻ ra chính quyền.

Lời của Mao Trạch Đông.Hơn 40 triệu dân Trung Hoa phơi xác vì các cuộc cách mạng đỏ long trời lở đất của ngài.

V…V

Nếu làm phép cộng các nhà độc tài tàn bạo trên thế giới từ trước đến nay liệu nhân loại sẽ có được khuôn mặt của chúa tể độc tài, độc ác ? Nếu cộng các phát ngôn, tư tưởng của chúng chúa các bạo chúa sẽ có lời như thế nào?

Gã nghĩ, chúa tể ấy rồi sẽ xuất hiện.

Bộ mặt của nó như… thiên thần.

Vì sao?

Vì kẻ ác nhất thời đại công nghệ này sẽ là kẻ trong tích tắc huỷ diệt hàng triệu người một lúc, huỷ diệt nguồn nước, đất đai, bầu khí quyển của cả một quốc gia, cả một châu lục một lúc chỉ bởi một cái nhấp chuột hoặc một cái nhẹ nhàng ấn nút trong một căn phòng có nhiều bức tranh của các danh họa lừng danh thế giới như Levitan, Van Gogh và giữa âm thanh êm dịu bản Xô nát Ánh trăng kì diệu của Beethoven.

Còn tổng các triết lí, phát ngôn của chúa tể các bạo chúa ư?

Sau cái nhấp chuột ấy là lời chúc của một cô nàng xinh đẹp cũng như thiên thần: Chúc chàng ngủ ngon!

***

Gã đã và đang thấy gì trên quê hương của gã?

Kẻ giết người có khuôn mặt của bác nông dân hiền lành khi chia vườn ra hai mảnh, rau nhà, rau bán.

Kẻ giết người có khuôn mặt khổ hạnh quắc thước dân chài đem bán những con cá bị nhiễm độc làm nước mắm.

Kẻ giết người có khuôn mặt trí thức công quyền sang trọng khi bên các bàn tiệc tưng bừng chén chú chén anh kí những hợp đồng, dự án béo bở với những kẻ thải chất độc ra sông, suối, đất đai, thả chất độc lên trời và xuống Biển Đông.

Và cứ thế, và cứ thế…

Gã chả biết nữa ở nước gã, giữa những bạo chúa, và chúa tể của các bạo chúa trên các ngai vàng đâu đó đáng sợ hơn hay những kẻ giết người từ từ ngự trong những người thân, ngự trong …dân với khuôn mặt của dân đáng sợ hơn?

Cái chết bởi một nhát bấm nút chưa kịp đau đớn hay cái chết từ từ trong đau đớn không biết cái chết nào bi đát hơn?

Dưới giá treo cổ của phát xít Hitler nhà văn Fuxich gào lên: Hỡi Con người, hãy cảnh giác!

Dưới bản án do những người thân của gã, đồng bào của gã tự huỷ giệt lẫn nhau, có nhà văn nào của nước Việt sẽ phải gào lên: Sao quá độc ác, hỡi Con người ?

Vì sao, vì sao nên nỗi này dân tộc của gã ơi, đồng bào của gã ơi?

Ngày ấy khi Xuân ra đời,

“Ngày ấy khi Xuân ra đời,”
Một trời bình minh có lũ chim vui
Có lứa đôi, yêu nhau rồi
Hẹn rằng còn mãi không nguôi.”

(Nhạc Ngoại quốc – Lời Việt: Phạm Duy – Khúc Hát Thanh Xuân)

(1 Ti 1: 8-11)

Trần Ngọc Mười Hai

Xuân ra đời, không chỉ có mỗi ngày ấy. Lũ chim vui, có lứa đôi yêu nhau rồi, có thể cả vào lúc ấy, hôm nay và ngày mai. Tình yêu hay hạnh phúc thứ nào tốt đẹp và cần thiết hơn? Câu trả lời, sẽ hạ hồi phân giải. Nhưng, trước khi những giải và phân, ta cứ ngồi xuống mà nghe thêm câu hát tiếp, rất để đời, nổi trôi cũng không kém:

“Nhạc lắng hương xuân bồi hồi,
Như vì tình ai tiếng hát lên ngôi.
Nói với nhau, yêu nhau rồi,
Một ngày còn mới tươi môi.”

(Nhạc Ngoại quốc: One day when we were young)

Tình yêu hay hạnh phúc, thứ nào hay hơn ư? Này đây, một nhận định của ai đó, ký tên Lê Thuỷ viết như sau:

 Có bao giờ bạn tự hỏi bản thân điều này chưa. Tôi nghĩ rằng đôi lần trong cuộc đời bạn sẽ phải nghĩ đến, bạn chọn yêu hay chọn được hạnh phúc.

 Yêu và hạnh phúc là hai định nghĩa hoàn toàn khác biệt, yêu không có nghĩa là sẽ được hạnh phúc, và hạnh phúc cũng không có nghĩa là tình yêu. Sự so sánh này như người ta vẫn hay so sánh tình và tiền vậy, nhưng sự so sánh này quá rạch ròi, và trong bài viết này tôi không đề cập, vì tôi đang đề cập đến cảm xúc của con người, nó dễ dàng nhầm lẫn khiến ta hiểu lầm vài thứ.

 Nếu bạn là một người đang yêu, và bạn được hạnh phúc suốt quãng thời gian sau này thì đó là điều tuyệt vời vô cùng, một điều kì diệu trong cuộc sống của bạn. Nhưng mảy may bạn không được cả 2 thứ đó, vậy bạn sẽ phải cân nhắc kĩ càng, vì cuộc đời đôi khi chỉ có vài lần cơ hội, một lần tuổi trẻ, một đời người, hoặc một lần lựa chọn sẽ không có sự quay đầu hay hối tiếc.

 Nếu là tôi trước đây, khi tôi 18, đôi mươi, hoặc đến tận 25-26 tuổi, tôi vẫn tuyên thệ trung thành với bản thân rằng tôi chọn yêu thay vì chọn hạnh phúc. Vì tôi tin rằng, chỉ có tình yêu mới đủ làm tôi hạnh phúc và tự tạo ra hạnh phúc (đại loại là làm chủ hạnh phúc). Đúng là tôi hạnh phúc thật, hạnh phúc ngắn ngủi nhưng kèm theo cả khổ đau song hành. Tôi hạnh phúc chừng nào thì càng khổ đau chừng ấy. Và tôi nhận ra, người yêu tôi chưa chắc mang cho tôi hạnh phúc, và người tôi yêu, tôi chưa chắc mang cho họ hạnh phúc. Vẫn đôi lần họ bảo tôi làm họ tổn thương thay vì làm cho họ hạnh phúc. Tôi bất lực nhìn tình yêu ra đi vuột khỏi tay mình mà không thể cứu vãn.

 Bạn biết rằng trên đời này không có gì là mãi mãi, trong đó có tình yêu. Tình yêu dễ vỡ, mong manh và theo sẽ nhạt dần với những sóng gió của thời gian đem đến, muốn giữ cũng không thể giữ vì bạn không thể lường hết được điều gì sẽ xảy đến với bạn. Tôi cũng đã từng tin vào tình yêu là một điều gì đó vĩnh cửu là bất diệt. Và tôi tin vào tình yêu đó, tin vào bản thân mình, vẫn tin vào câu suốt đời suốt kiếp. Ngày đó, tôi thật ngây thơ và trong trẻo. Cô bạn ngày ấy vẫn nói với tôi rằng, tình yêu một ngày nào đó sẽ hết, không phải hôm nay thì cũng là ngày mai, và chỉ để lại những kỉ niệm lẫn khoảng trống với những tiếc nuối trống rỗng, ngoài ra chẳng còn gì hết, muốn quay lại thì đã muộn. Nên đừng bao giờ lựa chọn tình yêu khi bản thân thấy không cảm thấy hạnh phúc trong hiện tại khi đã hi sinh qua nhiều.

 Cuối cùng tình yêu hết thật, cũng không hẳn là hết mà  nó đã không như còn như mong muốn, không còn như ban đầu, cảm xúc biến đổi dần theo thời gian, và tôi biết tôi không hạnh phúc dù tôi vẫn yêu rất nhiều. Tôi vẫn lựa chọn tình yêu, nhưng sau đó một thời gian sau, tôi bắt đầu lưỡng lự, vì cơ hội không có nhiều lần. Tôi tự hỏi mình, tôi muốn yêu hay muốn cuộc đời hạnh phúc. Tôi bắt đầu suy nghĩ đến điều này.

 Tôi không hạnh phúc khi yêu, nhưng người cho tôi hạnh phúc tôi thấy thật yên ổn. Thấy cuộc đời thật nhẹ nhàng, thật bình yên. Và cuối cùng tôi chọn hạnh phúc. Tôi chọn người đàn ông cho tôi một cuộc sống tinh thần êm đềm và an tâm, và tôi thấy mình hạnh phúc. 

Bên cạnh người tôi yêu, tôi thấy đau khổ, dằn vặt, mệt mỏi. Khi mất tình yêu, thì chắc chắn bạn sẽ rơi vào một trạng thái đau khổ và trống trải của sự cô đơn. Tôi thấy mình chọn đúng. 

Cách đây 4 năm, một người bạn thân nhất của tôi đã lựa chọn một người đàn ông là cô ấy thấy yên tâm và tin tưởng thay vì chọn người mình yêu mà làm cho cô ấy luôn sống trong đau khổ lẫn bất an. Cuối cùng cô ấy có hạnh phúc hay không tôi không biết, nhưng 4 năm sau, cô ấy khuyên tôi rằng: HÃY LẤY NGƯỜI ĐÀN ÔNG LÀM CHO MÀY HẠNH PHÚC. Và bây giờ, tôi thấy hạnh phúc khi đi cùng con đường với cô ấy. Thoát khỏi sự sầu não đeo bám hằng mấy năm trời khi chọn yêu. 

Tôi không khuyên những người đã yêu, đang yêu chọn cái gì, tôi chỉ kể ra những câu chuyện về tôi để bạn có thể lựa chọn đúng đắn nhất trong cuộc đời. VÌ BẠN SỐNG LÀ SỐNG CHO CẢ CUỘC ĐỜI, KHÔNG PHẢI SỐNG TRONG MỘT KHOẢNh KHẮC NÀO ĐẤY. TÌNH YÊU CHỈ LÀ MỘT KHOẢNH KHẮC. RỒI SẼ QUA ĐI. BẠN VẪN PHẢI TIẾP TỤC CUỘC SỐNG ĐẰNG SAU ĐÓ. MÀ CUỘC SỐNG KHÔNG CHỈ CÓ TÌNH YÊU.

HẠNH PHÚC MỚI LÀ THỨ BẠN ĐEO ĐUỔI CẢ CUỘC ĐỜI.

KHÔNG CÓ TÌNH YÊU, BẠN VẪN SỐNG ĐƯỢC, NHƯNG KHÔNG CÓ NHỮNG THỨ KHÁC, TÌNH YÊU SẼ KHÔNG TỒN TẠI ĐƯỢC. VÀ KHI ĐÓ, CUỘC ĐỜI BẠN CHỈ CÒN LÀ BẤT HẠNH.

 Có thể bây giờ bạn không nhận ra chân lý này, bạn bác bỏ nó (như tôi từng bác bỏ) thì một ngày bạn sẽ ngộ ra được điều này một ngày nào đó khi bạn đi qua tình yêu.

CÒN BẠN, BẠN SẼ CHỌN GÌ?.”(Lê Thuỷ)

Chọn hạnh phúc như người viết ở trên ư? Đã chắc gì việc ấy thích-hợp với mọi người. Thôi thì, trước khi quyết định chọn-lựa, bạn và tôi ta cứ thử xem lời ca ta vừa hát, nói gì đây:

“Rồi nắm tay cùng nói vui,
Những câu êm êm không rời vai.
Rồi lả lơi, hình dáng ai,
Khuất xa biến vào nẻo khơi.
Từ đó khi xuân tái hồi,
Cho bùi ngùi thương nhớ tới xa xôi.
Nhớ tới câu thương yêu người,
Một ngày tuổi mới đôi mươi.”

(Nhạc ngoại quốc – bđd)

Vâng. Chính đó mới là trọng-tâm một quyết-định. Quyết chọn hạnh-phúc hay tình-yêu, cũng là chọn niềm vui cho đời mình. Đó là chọn và lựa của người đời hay nghệ-sĩ ở ngoài đời, cốt để vui. Thế còn nhà Đạo thì sao? Nhà Đạo chọn gì cho đời mình? Phải chăng người người chỉ chọn sống đời đi Đạo không bằng sống Đạo trong đời, mà chỉ loanh quanh chuyện nhà thờ nhà thánh suốt Chúa nhật, một ngày vui?

Thôi thì, ta thử đi vào chuyện hỏi/đáp giữa nhà Đạo và người đời sau đây. Hỏi, là hỏi rằng:

“Thưa cha.

Con có một số bạn bè/người thân đã không còn đều đặn đi lễ mỗi Chúa Nhật nữa rồi. Có người nói, họ quá bận rộn với đủ mọi công việc, có người còn phải lo cho con cái chơi thể thao với thể-dục, có người lại nói phải làm suốt 7 ngày, thì giờ đâu mà nhà thờ nhà thánh. Các câu trả lời này, khiến con thấy bất-bình, bởi khi xưa bạn bè của con đều là những người luôn sống tốt đạo đẹp đời, không khi nào bỏ bê chuyện nhà thờ hết. Vậy theo cha, con phải làm sao để giúp các vị này đây?

 Lại một lần nữa, câu hỏi của người đi Đạo thời nay vốn dĩ thực-tế, khôn-ngoan và cẩn-trọng. Thế nhưng, hỏi ai không hỏi, lại đi hỏi đấng bậc chuyên-chăm chuyện giáo-luật với phụng-vụ nhà thờ, thì đương nhiên câu trả lời, rày sẽ như sau:

“Anh/chị vừa nêu lên câu hỏi đi thẳng vào vấn-đề ngày càng quen-thuộc đáng cho mọi người ưu-tư, quan-ngại.

 Theo nghiên-cứu/khảo sát thực-hiện năm 2011, thì: chỉ mỗi 12.2% người Công giáo Úc “đi lễ” ít nhất 3 lần một tháng. Cách đây 50 năm, tỷ-lệ những người này lên đến 60%. Xem thế thì, đây không là tình-huống lành mạnh chút nào hết. Cuối cùng ra, thì Thiên-Chúa là khởi-đầu và cùng-đích của ta, Ngài đã tạo-dựng nên vũ-trụ này từ cõi hư-không. Ngài tạo-dựng ta theo ảnh-hình của Ngài, giống Ngài đến độ Ngài vẫn thương-yêu ta rất mực đến độ trở-thành người phàm rồi chết trên thập-giá hầu cứu-rỗi ta và Ngài vẫn dành chỗ cho ta trên Thiên-quốc. Ta không thể sống không có Ngài. Và, chắc chắn ta cũng không muốn chết mà không có Ngài và với Ngài…

 Vấn-đề con người ngày nay để Thánh-lễ Chúa Nhật luột mất khỏi cuộc sống thường nhật của mình, thường kéo theo sự thể là họ cũng để luột mất Thiên-Chúa ra ngoài cuộc của chính họ. Và, cuộc sống mà không có Thiên-Chúa, thật rất buồn.  

 Thật sự, Thiên-Chúa mang ánh-sáng, hy-vọng, niềm vui, tình thương-yêu và sự chín-chắn ta vẫn tìm và cần đến. Và, khi ta có con có cháu nhất là vào lúc chúng đi học ở trường Công-giáo, chúng sẽ thấy sự mâu-thuẫn giữa những điều chúng học được ở trường với lối sống ở nhà. Giả như bậc mẹ cha không có lòng hướng về chuyện đi lễ nữa, thì các vị ấy cũng phải nghĩ đến chuyện tốt của cháu con. Đưa con cháu đến nhà thờ dự thánh-lễ mỗi Chúa nhật như Ngày của Chúa là nơi cả gia-đình cùng nhau coi việc lễ lạy là chuyện ưu-tiên, thì đó là cách tốt đẹp để giúp chúng thấm-nhuần đặc-tính tín-thác, hy-vọng và thương-yêu đối với Chúa là Đấng cung-cấp nền-tảng trên đó ta xây-dựng cuộc sống của chúng.

 Ở đây, cũng nên nhớ Lời Chúa nói với các tông-đồ khi các thánh ngủ vùi ở vường Ghét-sê-ma-ni rằng: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao?” Cũng thế, ta không thể bỏ ra chỉ một giờ đồng-hồ một tuần cho Chúa khi Ngài trông nom/bảo-vệ ta và chúc lành cho ta suốt ngày 24 tiếng và suốt bảy ngày trong tuần sao? Những người trở về đi lễ thường-xuyên ngày Chúa Nhật sau một thời gian-vắng mặt ở nhà thờ, đều đặt giá-trị của việc đưa Chúa trở về với tháng ngày thời-gian có Chúa chăm sóc cho đời mình, là điều tốt.

 Trờ về để đi lễ, mọi người sẽ lại được nghe Lời Chúa qua các bài đọc, được nghe lời cố-vấn hữu-ích từ các bài giảng và được cầu nguyện cho các ý-chỉ của mình, đặc-biệt hơn, lại được rước Đức Kitô và giờ hiệp-thông rước lễ, nữa. Vậy nên, hãy làm mọi việc ta có thể làm được để giúp đỡ bạn bè người thân trải-nghiệm niềm vui ấy, đặc-biệt vào năm thánh Từ-Bi 2016 này.

 Thật ra, nếu muốn, ta vẫn có thể làm cho thánh-lễ trở-thành việc hài-hoà thích-hợp với công việc, thể-thao, thư-giãn của ta vào mọi lúc để đi lễ vào tối Thứ Bẩy hoặc ngày Chúa Nhật, nếu thấy cần. Có như thế, ta sẽ làm được việc khác-biệt, rất lớn-lao.” (X. Lm John Flader, Faith, hope and love of God – and keeping the Lord’s Day holy, Question Time, The Catholic Weekly 01/5/2016 t. 18)

               Nói cho cùng, thì: có đi nhà thờ suốt mọi ngày hay chỉ mỗi Chúa Nhật cách quãng trong tháng hoặc trong năm cũng chỉ để chứng-tỏ niềm tin, hy-vọng và lòng thương-yêu vẫn còn đó nơi người Đạo Chúa chốn dương-gian, phàm trần. Tin, yêu và hy-vọng như Đức Thày linh mục-Dòng người Úc, từng quả-quyết hôm nào ở Sydney như sau:

Xin thêm đôi ý tưởng, để bảo rằng: Phúc Âm không kể cho ta biết là cuối cùng thì đá-tảng-lấp-mồ của Đức Giêsu khi xưa đã lăn về đâu? Phải chăng, đá tảng lấp mồ ấy đã và đang lăn vào hộp Cẩm Nang Thần-học của ta và của người chứ?

 Cuối cùng thì, ta có thể trở về với vấn-đề đặt ra cách rất thực, tức: về với  tình Thương-yêu của Thiên-Chúa vẫn đề ra với các mẩu vụn cuộc đời của ta, tức: của chính ta, mà thôi.” (X. Lm Kevin O’Shea, Ơn Cứu Chuộc Nơi Ngài Chan Chứa,nxb Phương Đông 2015, tr.152)  

Nói cho cùng, là nói những lời dù mạnh-bạo nhưng thích-hợp với thời-đại, với con người ở thời này, nay ra thế.

Nói cho cùng, thì có nói nhiều cũng chẳng thể nào đổi-thay được chiều-hướng trong đó mỗi người và mọi người vẫn cứ thế. Cứ, để mình trôi theo cơn lũ cuộc đời rất phàm-trần.

Nói cho cùng, còn là nói và thực-hiện đúng chủ-trương của mình và của người. Dù, người có “đi Đạo” theo kiểu xưa cũ hay rất mới, cũng vẫn là chọn-lựa tư riêng của người và của mình, trong cõi đời thực-tế nhiễu-nhương đầy cảm-nghiệm.

Nói cho cùng, sống đời nhiều đổi-thay còn là sống cùng và sống với không chỉ mỗi người đồng Đạo, đồng thuyền mà thôi, nhưng cả với người khác Đạo và khác thuyền nữa.

Nói cho cùng, thì sống là thực-hiện những điều mình ước/muốn trong tình-huống rất thực, của đời ở đây, rất bây giờ.

Nói gì thì nói, hãy cứ nói và làm như đấng bậc hiền lành trong Đạo, ngoài từng hướng-dẫn hoặc nhủ-khuyên như thày trò nhà Đạo khi xưa còn khuyến-dụ, như sau:

“Chúng ta biết rằng Lề Luật là tốt,

nếu người ta sử dụng cho đúng cách.

Thật vậy,

Lề Luật có đó,

không phải cho người công chính,

mà là cho hạng người sống ngoài lề luật

và bất phục tùng,

vô luân và tội lỗi,

phạm thánh phạm thượng,

giết cha giết mẹ, sát nhân,

dâm dật, kê gian,

buôn người, nói dối, bội thề,

và những kẻ sống ngược với giáo lý lành mạnh.

Đó là giáo lý phù hợp với Tin Mừng

đã được giao phó cho tôi,

Tin Mừng về vinh quang của Thiên Chúa chí tôn.”

(1 Timôtê 1: 8-11)

Nói gì thì nói, hãy cứ nói theo nhạc-điệu có âm có vận, như lời thơ hoặc âm-nhạc vẫn hát rằng:

“Nhạc lắng hương xuân bồi hồi,
Như vì tình ai tiếng hát lên ngôi.
Nói với nhau, yêu nhau rồi,
Một ngày còn mới tươi môi.”

(Nhạc Ngoại quốc: One day when we were young)

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn lắng nghe

Hương Xuân bồi hồi

Để tiếng hát lên ngôi

nói với nhau yêu nhau rồi

một ngày còn mãi tươi môi

rất của Chúa. 

Ta có gì đâu ngoài trái tim,

 “Ta có gì đâu ngoài trái tim,”

Đem phơi hệ luỵ giữa thanh-thiên.

Ngờ đâu thiên-hạ vô tâm quá,

Mua vui trên những nỗi đoạn-trường.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mai Tá lược dịch.

Thiên-hạ vô-tâm quá, đâu ngờ ta còn có trái tim. Vậy mà thiên-hạ vẫn cứ ngờ và làm ngơ cảnh đoạn-trường giữa thanh-thiên ban ngày như truyện Chúa kể ở dụ-ngôn về người Samaritanô không vô-tâm trước nỗi đoạn-trường của người dưng bên vệ-đường, rất thương tâm.

Có lần, cựu thủ-tướng nước Anh là bà Margaret Thatcher đã méo mó nghề chính-trị, khi bình-luận truyện người Samaritanô nhân-hiền theo nhãn-giới chính-trị. Bà cho rằng: sở dĩ người Samaritanô làm phước làm đức là vì ông vốn dĩ là người lao-động cật-lực, năng dành-dụm tiền của, nên mới có khả-năng giúp đỡ người khác, ở vệ đường. Và, bà còn bảo: trọng-tâm của dụ-ngôn Chúa kể, là bằng chứng để bà khuyến-khích người thất-nghiệp ở nước Anh hãy hăng say làm việc cật-lực ngõ hầu tạo được an-sinh cho xã-hội.

Kể ra thì, nữ thủ-tướng này chỉ nói đúng có một phần, mà thôi. Đúng, là đúng theo tầm-nhìn méo mó của chính-trị-gia chuyên nói-dối và bẻ quặt sự thật, dù đó có là sự thật của Phúc Âm hoặc gì khác chỉ với mục-đích quyết đạt cho được điều mà cá-nhân hoặc đảng-phái của mình từng muốn thế. Thực-tế cuộc đời, lại hoàn-toàn khác. Với Tin Mừng thánh Luca, người Samari đại diện cho nhóm người ngoài Đạo, ngoài đời. Những người không có thái độ vênh vang, tự hào cho rằng mình chỉ biết có luật là luật.

Về việc tốt lành người Samaritanô ngoài Đạo làm, thánh Tôma Aquinô giải thích: hành động bác ái chính là mẹ hiền của các nhân đức. Đức bác ái, sẽ giải quyết mọi ước nguyện để giúp ta nhìn rõ những điều ta thực sự muốn làm. Người có lòng từ tâm bác ái, thấy được nhu cầu phải yêu thương mọi người. Nhu cầu ra tay giúp đỡ những ai cần mình giúp.

Truyện kể hôm nay, cho thấy có bốn loại người dính dự trong cuộc. Trước nhất là vị tư tế chuyên hành thiện, rồi đến đấng bậc Lêvi tử tế vào bậc thày, người Do Thái bị nạn, và cuối cùng là người Samari, ngoài Đạo đang đi trên đường. Có lẽ ông ta chỉ là nhà buôn đi ngang, thấy chuyện bất bình, nán lại mà giúp đỡ, thế thôi.

Kể về ông, người nghe tuyệt nhiên không biết gì về tín ngưỡng niềm tin của ông. Ở đây nữa, lý lịch, tôn giáo, và chính kiến lập trường hay ý thức hệ, không là điều hệ trọng. Chuyện hệ trọng ở đời, thật ra luôn là vấn nạn: người người ở thế gian có còn tình người nữa hay không, thôi. Và, chuyện quan trọng khác, cũng nên hỏi, là: bạn này/người kia, hoặc chính ta hôm nay, có còn lòng tốt/lòng Đạo, nữa hay không.

Đặc điểm của lòng tốt/lòng Đạo, là lòng xót thương công chính, khả dĩ giúp ta nhìn thấy mọi chuyện theo chiều hướng yêu thương, tử tế. Mọi chuyện đây, là: luật dân sự cũng như tôn giáo, đều là chuyện cần, nhưng không thể ngăn chặn công lý/lẽ phải. Không thể ngăn chặn ta xử sự cho tốt đẹp với người khác, chí ít, là người bị nạn cần giúp đỡ.

Sở dĩ người Samaritanô tuy ngoài Đạo nhưng tốt bụng, không vì ông đã làm việc cật lực nên mới có của dư của để, hầu có khả năng thực hiện những điều trái mắt ông nhìn thấy, ở dọc đường. Nhưng, sở dĩ ông có lòng tốt, là vì ông có mắt để thấy, và nhìn ra những việc nên làm. Tức, có cái nhìn đúng nghĩa.

Lòng tốt theo nhà Đạo, không là khoảnh khắc thấy vui trong lòng vì mình tốt bụng. Mà là, kinh nghiệm mình có được/tạo được, vì đã biết đến đổi thay, trong cuộc sống. Hiểu theo nghĩa này, người Samari tốt bụng sẽ là gương sáng về lòng bác ái, rất tốt. Điều này trái với lối diễn nghĩa của vị nữ lưu có thời từng làm thủ tướng nước Anh.

Truyền thống trong Đạo vẫn dạy ta, là: lòng tốt bụng/xót thương, tạo chính nghĩa, vẫn quyện vào nhau. Thánh Tôma Aquinô còn nói: lòng xót thương giúp ta biết nghe, và biết nhìn. Còn, sự công chính phải đạo kêu mời chúng ta làm việc tốt.

Người Samari thấy được những gì ông có thể làm và phải làm, nơi hiện trường ông chứng kiến. Và, ông tạm thời giúp người bị nạn và đem nạn nhân đến quán trọ để săn sóc. Ông không chỉ nhìn và thấy sự việc xảy đến thôi, nhưng còn biết phán đoán và hành động cách thức thời nữa.

Người Samari có thể đã không học luật như thầy Lêvi. Có thể, ông cũng không là người hành Đạo như các vị Tư tế, rất hiền lành. Nhưng, ông đã phá vỡ được các chấm phết vô tri, vô mộ của luật lệ trong Đạo/ngoài đời, nơi sách vở. Ông có lòng xót thương/bác ái, bằng hành động. Đặc điểm của lòng thương xót bác ái và sự công chính giúp ta nhìn thấy mọi sự, xấu cũng như tốt, một cách rõ ràng. Thấy được cả những rào cản nào không giúp ta đến với sự công chính của Chúa. Bởi, lề luật không quan trọng bằng lòng thương xót, bác ái.

Cuối cùng ra, ta có thể nói: toàn bộ mọi chương sách của Tin Mừng thánh Luca đều nhắm vào việc chuyển đổi người nhà Đạo về sự hệ trọng cần thay đổi quan điểm lập trường. Thay đổi niềm tin tưởng cá nhân khi nghĩ rằng ‘chỉ mỗi tôi và Chúa đã hợp lòng đối nghịch phàm trần’. Thay đổi, thành con người mới không chỉ mỗi ngồi suy nghĩ mà thôi; nhưng phải có hành động thiết thực, đầy xót thương, công chính.

Bằng vào dụ ngôn hôm nay, Đức Kitô đề nghị với mọi người –chí ít, là người nhà Đạo- bài học thực tế về lòng xót thương, công chính. Thương, những người ở bên trong cũng như bên ngoài nhà Đạo, đang khốn khó. Xót thương, những người đang có nhu cầu. Thương xót, giúp đỡ hết mọi người. Dù, điều đó không thấy có trong sách luật.

Truyện kể về người Samari tốt bụng, phải làm sống lại lòng bác ái/xót thương, và sự công chính vẫn có nơi người nhà Đạo. Truyện kể còn thách thức ta biết nhìn ra những ai cần được ta cưu mang, đùm bọc trên đường thực thi rao giảng Tin Mừng, của Chúa.

Hơn nữa, dụ ngôn hôm nay còn giúp ta nhớ rằng: Đức Kitô không dạy ta bài học tôn giáo cho thiểu số ưu việt được chọn. Nhưng, Ngài dạy mọi người biết cách mà sống đúng với phẩm giá con người. Nói cách khác, Ngài có kêu mời ta nhưng không để ta sống theo mẫu siêu nhân, phản tự nhiên. Nhưng, sống đích thực và trung thực với xác tín sâu xa về chính bản chất của mình. Bản chất dân con nhà Đạo.

Trong quyết-tâm làm được như Lời Ngài khuyên dạy, ta hãy cứ hiên-ngang hướng về phía trước, miệng nghêu-ngao hát lên bài ca của nghệ-sĩ trẻ ngày trước vẫn hát rằng:

“Đừng ngồi yên nghe tiếng khóc quanh mình.

            Đừng ngồi yên trên nhung gấm vô-tình, hỡi bạn thân!

            Đừng vùi lương-tri dưới gót chân.

            Đừng nhìn tha-nhân đang kêu gào chống ngục-tù xin công-bằng, đòi cơm áo.

Đừng sợ bạn ơi, hãy đứng thẳng lên, cuộc đời đang giang tay đón ta

            Bằng yêu-thương ta đi xoá ta …mọi căm hờn.”

            (Lê Hựu Hà – Bài Ca Tuổi Trẻ)

Vâng. Bằng tình thương-xót, ta không xoá tan được mọi hờn-căm, nhưng còn làm cho mọi người không còn “mua vui trên những nổi đoạn-trường” ở trần-gian. Trần-gian hôm nay, sẽ còn nhiều Samarita-nô nhân-hiền, tốt bụng không vô-tâm.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn  

Mai Tá lược dịch.

Formosa cần bồi thường 1.000 tỷ USD và đóng cửa Formosa Hà Tĩnh

Formosa cần bồi thường 1.000 tỷ USD và đóng cửa Formosa Hà Tĩnh

 TS Nguyễn Thị Hải Yến, CHLBĐ

Cơ sở khoa học tính toán thiệt hại thảm họa sinh thái tại vùng biển miền Trung Việt Nam từ thảm họa Formosa Vũng Áng: 1000 tỷ USD và không Formosa.

Cấu trúc bài viết này gồm 5 phần:

Phần 1: cung cấp thông tin về lượng và chất các hệ sinh thái biển Việt Nam, đặc biệt là ở dọc bờ biển 4 tỉnh miền Trung nơi bị ảnh hưởng trực tiếp từ thảm họa Formosa Vũng Áng. Mục đích cung cấp cho cơ sở tính toán thiệt hại;

Phần 2: cung cấp phương pháp tính toán các giá trị của các hệ sinh thái biển làm cơ sở chuyển đổi sang các giá trị thiệt hại;

Phần 3: cung cấp chi tiết tính toán thiệt hại về mặt sinh thái của các hệ sinh thái dọc bờ biển 4 tỉnh miền Trung làm cơ sở để Việt Nam yêu cầu Formosa bồi thường thiệt hại. Đồng thời cũng cung cấp thông tin để thấy rằng sự thiệt hại môi trường và tài nguyên khủng khiếp như thế nào, từ những chính sách đầu tư ngu xuẩn. Cũng là thông điệp để các nhà đầu tư đã, đang và muốn có đầu tư vào Việt Nam cần phải cẩn trọng cam kết bảo vệ môi trường thay vì lợi dụng chính quyền, qua mặt người dân;

Phần 4: cung cấp thông tin về việc sử dụng tiền cho việc đền bù, đặc biệt là công việc bảo đảm an sinh của ngườì dân và nghiên cứu khoa học nhằm phục hồi lại chức năng sinh thái của các hệ sinh thái biển;

Phần 5: kết luận và yêu cầu.

1. Phân bố và những giá trị của các hệ sinh thái biển (rừng ngập mặn, cỏ biển và san hô) của Việt Nam

1.1. Đa dạng sinh học biển Việt Nam

Vùng biển Đông Nam Á được đánh giá là vùng biển bậc nhất của của hệ sinh thái biển trên thế giới về mức độ đa dạng thành phần loài sình vật. Hình 1 bản đồ hệ số đa dạng sinh học dựa trên chỉ số Shannon’s Index (SI) (hệ số đo lường mức đa dạng về thành phần giống loài các sinh vật biển) được Tổ chức Môi trường Thế giới UNEP đánh giá và xếp loại năm 2014. Nằm giáp ngay với Philippines và gần với Indonesia, tuy nhiên, mức độ đa dạng sinh học của hệ sinh thái biển của Việt Nam lại kém hơn rất nhiều so với mức độ đa dạng sinh học của Philippines và Indonesia. Điều này là do yếu tố kiến tạo địa tầng tự nhiên. Vùng biển từ Quảng Ngãi ra tới Quảng Ninh và vùng biển Kiên Giang chỉ số SI được đánh giá từ 5,4 đến 6,5 với vùng mở rộng ra cả vùng bên ngoài quần đảo Hoàng Sa hoặc sang tới vùng biển của Campuchia. Tuy nhiên, vùng từ Quảng ngãi trở vào Vũng Tàu, chỉ số SI không thay đổi nhưng chỉ một dải hẹp sát bờ, còn lùi ra vài chục km mức độ đa dạng sinh học đã giảm xuống chỉ ở mức 4,3 đến 5.4. Đặc biệt vùng biển của vùng ĐBSCL (Đồng bằng sông Cửu Long), chỉ số SI chỉ còn đạt 3,2 đến 4.3 [1].

clip_image002Hình 1: Bản đồ biểu diễn chỉ số Shannon’s Index of Biodiversity năm 2014 (Nguồn UNEP)

1.2. Hệ sinh thái rừng ngập mặn

Việt Nam là quốc gia có đường bờ biển kéo dài dọc đất nước lên đến 3290 km. Tuy nhiên, sự phân bố và độ phủ (diện tích) cũng như năng suất sinh học của hệ sinh thái rừng ngập mặn (RNM) của Việt Nam lại rất hẹp và thấp. Hình 2. Phân bố và năng suất sinh học (NSSH) RNM chủ yếu phân bố ở vùng ĐBSCL. NSSH của RNM ở vùng ĐBSCL và vùng miền Trung từ Nghệ An đến Đà Nẵng tuy chỉ ở mức trung bình của thế giới nhưng lại là những vùng có NSSH cao của RNM Việt Nam. Vùng RNM của các tỉnh ven biển phía bắc NSSH tương đối thấp. Ở Việt Nam đã ghi nhận 35 loài chủ yếu và 40 loài tham gia rừng ngập mặn [2]. Vùng ven biển Bắc Trung Bộ (BTB), gồm 6 tỉnh (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế) có 30.974 ha đất ngập mặn, trong đó có 1.885 ha có RNM, 2.505 ha đất nuôi trồng thủy sản (NTTS), và 26.584 ha đất tiềm năng trồng RNM hoặc NTTS [3].

clip_image003Hình 2: Bản đồ phân bố và năng suất sinh học rừng ngập mặn Việt Nam năm 2014 (Nguồn: UNEP) [4].

1.3. Hệ sinh thái cỏ biển

Khác với các loài rong biển là thực vật bậc thấp. Cỏ biển là những thực vật bậc cao, tổ chức cơ thể phân chia thành thân rễ lá. Hệ sinh thái cỏ biển thường phân bố rất rải rác nơi nền đáy cát, hoặc cát với rất ít bùn, nhiều ánh sáng. Cỏ biển phân bố ở vùng nước sâu thường không quá 6 m. Thành phần loài cỏ biền rất ít. Hình 3 cho thấy ở vùng biển đa dạng nhất Philippines chỉ đạt 12-15 loài. Ở vùng biển Bắc Trung Bộ của Việt Nam số loài chỉ đạt ở mức 3-6, vùng từ Phú Yên đến Ninh Thuận thành phần loài có thể tăng lên đến 7-9. Trong khi đó vùng bờ biển của ĐBSCL nơi biển đục do phù xa nhiều không là môi trường thích hợp cho những loài cỏ biển sống đáy cần nhiều ánh sáng để quang hợp phát triển. Ở Việt Nam đã tìm được 16 loài cỏ biển. Diện tích cỏ biển tại 4 tỉnh miền Trung nơi bị ảnh hưởng trực tiếp từ thảm họa Formosa Vũng Áng là 2.170 ha (Bảng 1)

Bảng 1: Diện tích cỏ biển phân bố ở vùng biển 4 tỉnh miền Trung Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng [5].

clip_image005

clip_image007

Hình 3: phân bố (năm 2015) và mức độ đa dạng thành phần loài (năm 2003) của hệ sinh thái cỏ biển ở Việt Nam (Nguồn: UNEP) [6].

1.4. Hệ sinh thái san hô

Hệ sinh thái san hô, đó là một hệ sinh thái đặc thù, ở đó san hô là những loài động vật phát triển nên một nền đáy đá, đá vôi, là động vật nhưng các loài san hô đều phải sống cộng sinh với các loài tảo (ngoại trừ các loài san hô sừng phát triển ở các vùng biển sâu). Chính vì thế, hệ sinh thái san hô thường phân bố ở những vùng biển có độ sâu không quá 30 m, nơi cường độ ánh sáng trong nước có thể đáp ứng như cầu quang hợp của các loài tảo sống cộng sinh. Hình 4 biểu diễn sự phân bố của san hô ở biển Việt Nam và ở 4 tỉnh miền Trung từ Nghệ An đến Đà Nẵng [7].

clip_image009Hình 4: Phân bố của hệ sinh thái san hô ở vùng biển Việt Nam và 4 tỉnh miền Trung năm 2015 (Nguồn: UNEP)

Theo số liệu của UNEP thì tổng diện tích phân bố của san hô toàn cầu là 284.300 km2. Indonesia và Philippines là hai quốc gia có diện tích san hô lớn nhất khoảng hơn 20.000 km2. Trong đó Việt Nam đứng ở vị trí 35 về diện tích san hô trên thế giới, với tổng diện tích là 1270 km2 so với Indonesia và Philippines. Trung Quốc đứng thứ 31 với diện tích là 1510 km2 [8].

Vùng biển Việt Nam tập trung khoảng 340 loài san hô trong tổng số 800 loài của thế giới, phân bố rộng rãi từ Bắc tới Nam. Rạn san hô biển tập trung với mật độ cao ở vùng biển Nha Trang, Trường Sa, Hoàng Sa, biển Hòn Mun-Khánh Hòa. Sống cùng với hệ sinh thái này là trên 2000 loài sinh vật đáy và cá trong đó khoảng 400 loài cá san hô cùng nhiều hải sản có giá trị kinh tế cao như tôm hùm, bào ngư, trai ngọc, hải sâm… Ở Vịnh Hạ Long, phát hiện được 205 loài san hô cứng, 27 loài san hô mềm. Ở Côn Đảo, có 219 loài san hô, tập trung thành khu vực lớn kèm theo 160 loài cá san hô [9].

Cùng với hai hệ sinh thái RNM và cỏ biển, hệ sinh thái san hô đóng góp giá trị kinh tế cao nhất hành tinh về giá trị sinh thái. Nếu quản lý tốt 1 km2 hệ sinh thái san hô hàng năm có thể cung cấp 15 tấn cá và các loại đặc hải sản. Giá trị sinh thái và giá trị về đa dạng sinh học của hệ sinh thái san hô (TEEB = the Economisc of Ecosystems and Biodieversity) là khoảng 1.25 USD/ha/năm từ dịch vụ du lịch, bảo vệ đới bờ, bảo vệ sinh học và nguồn lợi thủy sản [10].

2. Phương pháp đánh giá các giá trị kinh tế của các hệ sinh thái biển

Một nghiên cứu tổng kết đánh giá những giá trị sinh thái của 9 hệ sinh thái đặc biệt toàn cầu dưới sự kết hợp giữa các trường đại học đến từ Mỹ, Anh, Châu Âu và các tổ chức Liên Qiệp Quốc như UNEP và Viện Nghiên cứu Tài nguyên môi trường của Châu Âu năm 2012 đăng trên tạp chí Ecosystem Service, Elsevier [11]. Dựa vào kết quả của 320 nghiên cứu cho 300 điểm nghiên cứu cứu trên toàn cầu, với bốn nhóm thông số của 22 thông số (Bảng 2) và chi tiết hóa thành 90 thông số cụ thể để đo lường giá trị sinh thái của 10 loại hình sinh thái.

Bảng 2: Các nhóm và thông số đánh giá giá trị

clip_image011

10 loại hình sinh thái đặc trưng được tổng kết từ 300 điểm nghiên cứu bao gồm: 1) Vùng biển xa bờ = open sea (14); 2) Hệ sinh thái san hô = coral reefs (94); 3) Hệ sinh thái ven bờ = coastal systems (28); 4) Hệ sinh thái đất ngập nước ven biển = coastal wetlands (139); 5) Hệ sinh thái đất ngập nước ngọt = inland wetlands (168); 6) Hệ sinh thái sông hồ = Rivers and lakes (15); 7) Hệ sinh thái rừng nhiệt đới = tropical forest (96); 8) Hệ sinh thái rừng ôn đới = temperate forest (58); 9) Hệ sinh thái rừng gỗ = woodlands (21); 10) Hệ sinh thái đồng cỏ = grass lands (32). Các giá trị trung bình, lớn nhât và nhỏ nhất của mỗi loại hình sinh thái biểu diễn ở Bảng 3. Bốn hệ sinh thái trong khung màu đỏ là các hệ sinh thái biển. Sẽ được sử dụng để thảo luận và tính toán cho Phần 3 áp dụng cho đánh giá thiệt hại của thảm họa Formosa Vũng Áng.

Bảng 3: Giá trị sinh thái của 10 loại hình sinh thái (USD/ha/năm tính vào thời điểm giá USD năm 2007)

clip_image013

Việc tính toán này được tính theo các tỷ số để cần bằng tôi đa giữa các vùng miền, giữa các hệ sinh thái, và được qui đổi từ tiền địa phương ra đồng Đô la tại thời điểm năm 2007.

Như vậy:

Hệ sinh thái vùng biển xa bờ có tổng số giá trị kinh tế là 491 USD/ha/năm, thấp nhất trong 4 hệ sinh thái biển và ven bờ. Trong đó có giá trị tổng và các giá trị cho các nhóm thông số từ 1 đến 4 là: 491 USD = 102 + 65 + 5 + 315 USD.

Hệ sinh thái san hô có giá trị vượt lên rất nhiều so với các hệ sinh thái khác. Trong đó tổng giá trị và lần lượt các giá trị đóng góp cho các nhóm thông số từ 1 đến 4 là: 352.249 USD = 55.724 + 171.478 + 16.210 + 108.837 USD.

Hệ sinh thái ven bờ có giá trị tổng và các giá trị cho các nhóm thông số là: 28.917 USD = 2.396 + 25.847 + 375 + 300 USD.

Hệ sinh thái đất ngập nước ven bờ có giá trị tổng và các giá trị cho các nhóm thông số là: 193.845 USD = 2.998 + 175.515 + 17.138 + 2.193 USD

Kết quả chi tiết giá trị đóng góp của mỗi loại hình sinh thái ứng với mỗi thông số của 4 nhóm thông số và 22 thông số chi tiết với giá trị trung bình. Đây là bảng dữ liệu thuyết phục để sử dụng tính toán cho thảm họa Formosa Vũng Áng thiệt hại lên các hệ sinh thái ven biển 4 tỉnh miền Trung, và cũng là cơ sở tính toán phân phối tiền đền bù cho người dân, cũng như tiền lưu trữ cho an sinh xã hội liên quan đến sự mất mát cho đến khi phục hồi của các hệ sinh thái này. Đa dạng sinh học và mức độ phân bố của các hệ sinh thái biển Việt Nam hầu hết đều nằm ở ngưỡng trung bình so với thế giới. Vì thế giá trị trung bình ở Bảng 4 là thuyết phục áp dụng cho thực tế ở Việt Nam.

Bảng 4: Tính toán chi tiết giá trị sinh thái cho mỗi 22 thông số của mười loại hình sinh thái (USD/ha/năm)

clip_image015

3. Tính toán thiệt hại sinh thái do thảm họa Formosa Vũng Áng

Theo thông báo của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà ngày 30 tháng 6 về thảm họa Formosa Vũng Áng, thì tổng thiệt hại diện tích san là 400 ha, chiếm 50% diện tích san hô phân bố ở 4 tỉnh miền Trung bị ảnh hưởng. Mặc dù ông Trần Hồng Hà cùng quan chức Chính phủ cho rằng hệ sinh thái RNM không bị ảnh hưởng và không tính hệ sinh thái cỏ biển trong khu vực. Nhưng kết quả người dân cho biết nhiều nơi RNM bị chết. Vì thế trong bài này việc tính toán được dựa trên diện tích thống kê của các báo cáo khoa học trong nước.

Vùng biển xa bờ, tại thời điểm này chưa có đánh giá về ảnh hưởng của chất thải Formosa đến vùng biển xa bờ.

Hệ sinh thái san hô: 400 ha san hô đã bị chết, tại thời điểm chính quyền Hà Nội điều tra, tháng 5 và tháng 6 năm 2016. Tuy nhiên, việc đánh giá ảnh hưởng lên hệ sinh thái san hô sẽ còn phải tiếp tục. Những chỗ san hô chết hiện nay là do nồng độ quá cao của độc tố, chết do sốc. Nhưng dư lượng của chất độc vẫn còn tồn dư nhiều trong trầm tích đáy và rất nhiều hấp thụ vào những khoang cơ thể của san hô. Chỉ cần một lượng rất nhỏ [độc tố này – BVN] san hô sẽ âm thầm chết. Việc đánh giá ảnh hưởng của độc tố từ xả thải của Fomosa xảy ra hồi đầu tháng 4 năm 2016 cần phải tiến hành lên hàng chục năm. Việc tính toán thiệt hại ở bài viết này đối với hệ sinh thái san hô mới chỉ dừng lại ở mức thiệt hại trước mắt. Dựa vào thông tin Phần 2, 1 ha san hô một năm cung cấp 352.249 USD = 55.724 + 171.478 + 16.210 + 108.837 theo 4 nhóm thông số đánh giá ở trên ta sẽ có kết quả áp dụng cho 400 ha, san hô bị phá hủy do thảm họa Formosa Vũng Áng và áp dụng cho 50 năm với hy vọng sự phục hồi của hệ sinh thái san hô, kết quả thu được như ở Bảng 5.

Hệ sinh thái ven bờ, chỉ môi trường ven bờ nói chung. Với 20 hải lý (= 37,04 km) chiều ngang tính từ bờ biển ra. Vùng ảnh hưởng mà độc tố đã quét dọc theo bờ biển 4 tỉnh miền Trung là 250 km. Như vậy tổng diện tích vùng ven bờ cũng là hệ sinh thái ven bờ là 30,04 km (rộng) × 250 km (dài) = 9.260 km2 (=926.000 ha). Tính toán cho mặt nước, thì tổng diện tích mặt nước sẽ là 926.000 ha. Và với hệ sinh thái ven bờ có giá trị tổng và các giá trị cho các nhóm thông số là: 28.917 USD = 2.396 + 25.847 + 375 + 300 USD. Vì dòng hải lưu và biển mở, nên trường hợp này tính toán áp dụng cho 1 năm. Kết quả ở mục 3.1 Bảng 5. Tuy nhiên, ảnh hưởng vùng này đối với hệ sinh thái nền đáy sẽ được trù đi diện tích cỏ biển là 2.170 ha, và 800 ha san hô, và cũng áp dụng cho ít nhất là 30 năm (cơ sở từ thảm họa Minamita). Ta có kết quả thiệt hại đối với hệ sinh thái ven biển từ thảm họa Formosa Vũng Áng như mục 3.2 Bảng 5.

Ở Bảng 1, ta có 2.170 ha hệ sinh thái cỏ biển nằm trong vùng bị tàn phá bởi thảm họa Formosa Vũng Áng. Với kết quả từ Phần 2: Hệ sinh thái đất ngập nước ven bờ có giá trị tổng và các giá trị cho các nhóm thông số là: 193.845 USD = 2.998 + 175.515 + 17.138 + 2.193 USD. Và cũng áp dụng cho 30 năm (cơ sở từ thảm họa Minamita). Ta có kết quả như ở Bảng 5.

Ở mục 1.2, ta có có 30.974 ha đất ngập mặn nằm trong vủng Bắc Trung Bộ, trong đó có 1.885 ha có RNM, 2.505 ha đất nuôi trồng thủy sản (NTTS), và 26.584 ha đất chưa sử dụng. Và cũng áp dụng với hệ sinh thái đất ngập nước ven bờ, và 30 năm như tình toán cho cỏ biển. Ta sẽ có kết quả lần lượt cho giá trị thiệt hại lên RNM, đất NTTS và đất chưa sử dụng như mục 4.2, 4.3 và 4.4 Bảng 5 như sau.

Bảng 5. Thiệt hại sinh thái của thảm họa Formosa Vũng Áng lên hệ sinh thái biển đọc 4 tỉnh miền Trung (đơn vị: USD)

clip_image017

Ghi chú: (NA: không áp dụng)

4. Sử dụng và quản lý tiền đền bù

Theo phương pháp tính toán như ở Phần 2 và kết quả ở Bảng 5, thì:

4.1. Sử dụng

+ Số tiền thiệt hại hơn 70 tỷ USD ở cột (1) Bảng 5, là những giá trị được tính bằng những giá trị hàng hóa, có giá cả trực tiếp ở thị trường (direct market values). Phần này chính là nguồn tài nguyên phục vụ trực tiếp cho những người dân có những hoạt động liên quan đến đánh bắt và tiêu thụ các sản phẩm do đánh bắt từ biển ít nhất 50 năm, nghĩa là 3 thế hệ người Việt phải tối thiểu đam bảo cuộc sống cũng gia đình như việc học hành của con cái. Phần này bổ sung cho phần tính toán của luật sư Lê Văn Luân và Trịnh Mộc Thường [12, 13]. Một phần sẽ được dùng chi trả cho việc nghiên cứu phục hồi nguồn dược liệu và phục hồi nguồn gene từ môi trường biển.

Trong khi đó số thiệt hại ở các cột (2) (3) (4) là những giá trị không trực tiếp từ thị trường (indirect maker values), nó mang nặng giá trị chức năng phục vụ của các hệ sinh thái.

+ Số tiền thiệt hại hơn 889 tỷ USD ở cột (2) Bảng 5, chính là sự thiệt hại vì mất đi qui luật tự nhiên về chức năng cân bằng sinh thái. Nghĩa là sau khi bị thảm họa, các hệ sinh thái biển này không còn chức năng tự nhiên của nó. Khoản thiệt hại này chiến gần hết số tiền thiệt hại. Số tiền thiệt hại này sẽ được dùng trong các hoạt động nghiên cứu và xây dựng cho mục đích phục hồi các chức năng tự nhiên của các hệ sinh thái.

+ Số tiền thiệt hại hơn 27 tỷ USD ở cột (3) Bảng 5, chính là số sự thiệt hại do các sinh vật mất đi vùng sinh sản, và sâu xa hơn là mất đi nguồn gene khi quá trình sinh sản đã bị ảnh hưởng. Số tiền này sẽ được sử dụng trong các nghiên cứu phục hồi các bãi sinh sản và vườn ươm sinh thái dưới đáy biển.

+ Số tiền thiệt hại hơn 12 tỷ USD ở cột (4) Bảng 5, chính là số tiền thiệt hại đối với các dịch vụ du lịch và liên quan du lịch biển, và các nhu cầu về giải trí nghệ thuật liên quan biển. Một phần số tiền này sẽ được sử dụng để chi trả cho các hoạt động du lịch biển, và các dịch vụ phục phụ du lịch kèm theo. Một phần số tiền này sẽ được sử dụng cho các hoạt động nhằm duy trì và phát triển các loại hình nghệ thuật liên quan đến biển.

4.2. Quản lý

– Số tiền này sẽ được quản lý bằng một ủy ban độc lập do dân bầu ra, thành phần là những người đại diện của những nhóm bị tổn thương bao gồm cả các ngư dân, nhà khoa học, nhà nghệ thuật…

– Nhóm đại diện quản lý đại diện này phải xây dựng lộ trình và kế hoạch sử dụng số tiền này và các hoạt động đảm bảo an sinh và phục hồi sinh thái cho chặng đường 30 và 50 năm.

– Tất cả mọi hoạt động của ủy ban này cùng việc sử dụng số tiền này phải được trưng cầu và giám sát của người dân.

5. Kết luận và yêu cầu

– Áp dụng 50 năm phục hồi của san hô và 30 năm phục hồi của các hệ sinh thái cỏ biển, RNM (chủ yếu là nền đáy) thìtổng thiệt hại qui ra USD sẽ là 1.000.553.486.297 (1000 tỷ USD) không bao gồm tiền nạo hút cải tạo môi trường. Yêu cầu chính quyền Hà Nội cung cấp báo cáo điều tra chi tiết để các nhà khoa học đánh giá độ tin cậy về thông báo kết quả của chính quyền. Nếu không người dân có quyền đòi Formosa bồi thường như tính toán trong bài viết này. Và quan trọng là KHÔNG FORMOSA.

– Việc áp dụng 30 năm cho sự phục hồi đối với các hệ sinh thái cỏ biển, RNM, vùng ven biển và đất ngập nước khác, là dựa trên cơ sở dữ liệu từ thảm họa thủy ngân ở Vinh Minamita. Mức thiệt hại này sẽ giảm đi theo số năm, tùy thuộc vào mức độ hút nạo đáy biển rửa tấy chất độc mà Formosa thực hiện.

Yêu cầu chính quyền Hà Nội cung cấp tên theo danh thức hóa học của gần 300 loại hóa chất mà Formosa nhập và sử dụng. Từ đó sẽ giúp người dân và các nhà khoa học giám sát việc tẩy rửa chất độc mà Formosa sẽ thực hiện.

– Bản tính toán này được dựa trên mức tái tạo của hệ sinh thái san hô là 50 năm, và với diện tích 400 ha. Tuy nhiên, thực tế việc chính quyền Hà Nội kết luận chỉ 400 ha san hô bị ảnh hưởng là không thỏa đáng. Những mảng san hô chưa bị chết trắng đang đứng đó đã không còn chức năng sinh thái nữa, chúng có thể sẽ chết dần mòn trong tương lai.

– Việc bỏ qua thiệt hại về RNM và hệ sinh thái cỏ biển cũng như các hệ sinh thái khác, càng chứng tỏ chính quyền Hà Nội không thực tâm trong việc kiềm soát xả thải của Formosa cũng như việc bảo về tài nguyên thiên nhiên của VN.

N.T.H.Y.

__________

Chú thích:

[1] http://data.unep-wcmc.org/

[2] (http://de.slideshare.net/NinhHuong/rng-ngp-mn)

[3] http://xttm.agroviet.gov.vn/Site/vi-vn/76/tapchi/141/145/824/Default.aspx

[4] http://data.unep-wcmc.org/datasets/39

[5] http://lrc.tnu.edu.vn/upload/collection/brief/46439_842015103129hesinhthaicobien.pdf.

[6] http://data.unep-wcmc.org/datasets/9

[7] http://data.unep-wcmc.org/datasets/1

[8] http://coral.unep.ch/Coral_Reefs_files/reef%20area%20by%20country%20.jpg

[9] http://www.biendong.net/the-gioi-dai-duong/tai-nguyen-bien/1366-tim-hiu-h-sinh-thai-rn-san-ho.html

[10] http://coral.unep.ch/Coral_Reefs.html

[11] http://ac.els-cdn.com/S2212041612000101/1-s2.0-S2212041612000101-main.pdf?_tid=8e95a3cc-41b5-11e6-9be1-00000aab0f02&acdnat=1467616051_aac27473c311f348bf70cf7bb9040a6b.

[12] và [13] https://anhbasam.wordpress.com/2016/07/03/8999-uoc-tinh-mot-phan-thiet-hai-kinh-te-do-formosa-gay-ra/

Nguồn : https://anhbasam.wordpress.com/2016/07/05/9022-formosa-can-boi-thuong-1-000-ty-usd-va-dong-cua-formosa-ha-tinh/

Ác mộng

Ác mộng

Nguyễn Tiến Dân

7-7-2016

Ở xứ Cù lần, có một lão nông, họ Tập. Tham và ác, nổi tiếng. Ngứa mắt, là lão đánh người – Không thích, là có thể, giết người ta như ngóe. Dòng tộc, cũng chẳng từ. Riêng cái khoản ngu, lão vô đối thủ. Ngu lâu – dốt bền. Ngu từ đời này, sang đời khác và chưa hề có dấu hiệu, sẽ hạ nhiệt. Quê lão, “chó ăn đá – gà ăn sỏi”. Thu hoạch, thất thường – Đói, triền miên. Đã thế: chồng, rượu chè – vợ, cờ bạc – con, nghiện ngập. Lấy đâu ra, của ăn – của để. Nghèo, kiết xác. Nhưng cả nhà, vẫn thường xuyên đi vay nặng lãi, để ăn chơi. Ăn, tàn bạo – chơi, ngông cuồng. Đã thế, ăn và chơi cái gì, cũng phải, “xứng tầm khu vực và thế giới”. Quí ai, lão đem mấy hòn đá ra, đục sơ – đẽo vội, làm thành tượng. Sau đó, đặt cùng đường. Thiếu chỗ trang trọng, cầu ao và chuồng lợn, cũng có thể được huy động, để đặt những “hình nhân thế mạng” đó.

Ra ngoài đường, mắt la – mày lét. Nhìn thấy của cải và tiền bạc của thiên hạ, là tối mắt lại. Từ cha tới con – từ vợ tới chồng, đông đàn – dài lũ, gọi nhau kéo đến. Quanh ra – quanh vào, bằng mọi cách, phải lừa đảo và ăn cướp cho bằng được, mới thôi. Đã nghèo, lại còn vô giáo dục. Cho nên, ai cũng chỉ nghĩ đến mình và chỉ nghĩ đến tiền. Họ, giành giật nhau miếng ăn và đánh nhau vỡ đầu, chỉ vì chỗ ở. Việc chung, chẳng ai ngó ngàng.

Đẻ con ra, không cho chúng đi học. Nhưng lại mơ, chúng sẽ có tiền bạc và danh vọng, Vì thế, dùng Kim Ngân, để đặt tên cho con gái. Với mong muốn, nó sẽ có nhiều vàng bạc làm của hồi môn. Để, dễ lấy chồng – Đặt tên cho con trai, là Phú Trọng. Với mong muốn, sau này, nó vừa giàu sang, vừa phú quí. Tam khoanh – tứ đốm, chỉ dám mạnh bạo xó nhà. Bước chân ra khỏi cửa, so vai – rụt cổ, hèn đến mức, không thể hèn hơn. Nhưng, vẫn chọn những cái tên Hùng – Dũng, để đặt cho con của mình. Hy vọng hão huyền, “cái áo, sẽ làm nên thày tu” – cái tên, sẽ giúp chúng, đổi đời (!). Những lúc nông nhàn, cả nhà xúm vào đan lờ. Rồi, treo lên ngọn cây đa cuối làng. Để, đơm cá. Dân gian, vì thế, tránh xa các con của chàng. Họ, gắn thêm cái biệt danh “lờ”, vào sau tên của mỗi đứa. Cho khỏi lẫn, với Thiên hạ. Tỷ như, Trọng lờ.

Hùng – Dũng – Sang – Trọng, tuy là 4 anh em ruột thịt. Nhưng, chúng tranh nhau ăn, như chó và chỉ bằng mặt, chứ chẳng bằng lòng với nhau, bao giờ.

Trong 4 anh em, Trọng lờ, là thằng tinh ranh nhất. Mắt lờ đờ, nhưng mũi thính hơn chó. Làm thợ xây, cho đến gần chót đời. Nhưng, nó không xây hoàn chỉnh được, bất cứ 1 cái gì. Cho dù, đó chỉ là, cái chuồng gà. Bù lại, những trò đá cá – lăn dưa và những mánh mung của bọn ma cà bông – ma cà chớp, nơi đầu đường – xó chợ, nó thạo lắm. Nó biết, gia tài lớn nhất của cả nhà, là cái quyển Sổ đỏ, mà bố nó, đang nắm trong tay và anh em nó, đừng có hòng, xơ múi gì ở đó. Nó nung nấu quyết tâm: Triệt cho bằng hết, cùng 1 lúc, cả bố mẹ, lẫn 3 thằng em. Để, giành lấy quyển Sổ đỏ đó. Một ngày kia, nó nghĩ ra 1 kế.

Nó mang rượu thịt, sang kết nghĩa anh em, với thằng Hoa du côn. Trùm băng đảng, ở cái làng, có tên là Thành Đô. Vừa khéo, thằng Hoa kia, cũng đang tính kế, thôn tính nhà nó. Lưu manh, gặp kẻ cướp. Chúng quấn nhau, như vợ chồng sam. Thằng Hoa nhận lời, sẽ cho nhân sâm, à quên, nhân-ngôn (Trong chữ Hán, hai chữ nhân  và ngôn ghép lại thành chữ tín  ; nhân- ngôn, ám chỉ thạch tín), vào giếng nước ăn của nhà Trọng. Đổi lại, thằng Hoa, sẽ được chia một phần, miếng đất hương hỏa nhà Trọng. Với công thức: “16+4”. Tan cuộc, thằng Hoa, y kế và y ước, thi hành. Bố mẹ Trọng lờ, dùng nước giếng ấy, bị ngộ độc và lăn đùng ra chết. Ba đứa em, nhất định, không chịu uống. Trọng sai con, vật ngửa 3 chú ra, rồi đổ nước vào mồm. Ba chú, giẫy đành đạch. Rồi theo nhau, về với ông bà – ông vải. Vật nuôi, dùng nước giếng ấy, ngẹo đầu – ngẹo cổ, mà chết. Cây trồng, tưới nước giếng ấy, thối gốc – trốc rễ, mà chết. Khiến cho, chuồng nhà Trọng lờ, bị bỏ không – ruộng nhà Trọng lờ, bị bỏ hóa. Cả nhà Trọng lờ, vô kế sinh nhai. Chẳng ai, còn thiết tha với ruộng vườn. Ai cũng muốn, bỏ đi biệt xứ. Kết quả, trên cả mức trông đợi. Cả thằng Hoa lẫn thằng Trọng, đều “múa tay trong bị”. Chúng hẹn nhau, sau lễ thất tuần của ông bà Tập, sẽ chia, “chiến lợi phẩm”. Trọng lờ còn muốn, dạm bán nốt cho thằng Hoa, cái phần còn lại của mình.

Thất tuần của bố mẹ, Trọng lờ, vay nóng của thằng Hoa, để làm rềnh rang và linh đình. Rạp, bắc từ đầu làng, tới cuối xã – Cỗ bàn, cùng với ruồi nhặng, ê hề. Chỗ này, là các bà già, với áo tứ thân, ngồi bổ trầu và nghe quan họ – Chỗ kia, các chú choai choai, mồ hôi nhễ nhại, quay cuồng trong tiếng nhạc Disco tưng bừng – Kèn tây, thi thanh cùng sáo nhị. Hàng Tổng và hàng Huyện, kéo đến chật ních. Ai cũng muốn xem, Trọng lờ, “báo Hiếu” cho bố mẹ nó, như thế nào. Trong cái đám đông ấy, chẳng thể thiếu, thằng Hoa và con vợ mắt lác của nó. Chúng, cũng mang lễ sang cúng bái và tiện thể, hỏi thằng Trọng, định bán nốt phần còn lại của mình, với giá bao nhiêu. Nhưng, vừa đặt lễ lên ban thờ, chưa kịp khấn vái, nó chợt giật nảy mình: Trong cái đám khói hương nghi ngút, nó và những người dự lễ, nhìn rõ mồn một, Bao công hiện về. Cạnh đó, là ông bà Tập. Nó sợ đến mức, ngã khuỵu xuống. Nó biết, giờ phán quyết, đã tới.

Lần đầu tiên trong đời, nó mở miệng, xin lỗi nạn nhân. Có bao nhiêu tiền lẻ trong túi, nó lập cập, móc ra bằng hết, để trên ban thờ của 2 ông bà. Coi như, đền bù cho những tội lỗi, mà nó đã cố ý gây ra. Về sự cố, đã bỏ thuốc độc, vào giếng nước nhà ông bà Tập, nó vừa khóc lóc – vừa thanh minh:

– Chủ mưu, là thằng Trọng. Tôi, chỉ là kẻ thừa hành. Tội tôi, nhẹ hều. Tôi chỉ bỏ thuốc độc vào giếng. Đâu có múc nước đó, đổ vào mồm nạn nhân. Chính nạn nhân, tự giết mình. Bởi, không uống nước đó, họ đâu có chết. Tương tự, vật nuôi – cây trồng chết, cũng chính bởi người nhà của ông bà Tập, dùng nước giếng ấy, mà gây ra. Đâu có bàn tay trực tiếp của tôi. Tóm lại, tôi chỉ nhận tội, đầu độc cái giếng nước, nhà ông bà Tập. Suy cho cùng, cái giếng nước ấy, chỉ là vật vô tri – vô giác. Tôi không có tội, gây ra những cái chết của nhà họ và không nhận tội “hủy hoại môi trường” nhà họ. Chính vì, những lẽ đó: Tôi chỉ có trách nhiệm, đền bù, cho việc tẩy độc cái giếng và “hỗ trợ”, cho thằng Trọng lờ, chuyển nghề. Thợ xây như nó, vất vả quá. Dùng tiền đền bù của tôi, sau “ba bảy – hai mốt ngày”, nó sẽ lột xác, để trở thành… Kiến trúc sư. Chuyên đi thiết kế chuồng xí, cho cái loài chó – lợn. Lĩnh vực ấy, chưa có ai làm. Một mình – một chợ, tha hồ mà phát tài. Ăn trắng – mặc trơn, sung sướng trọn đời. Xin Bao Công, mở lượng hải hà, mà tha bổng. Và, xin ngài làm chứng, bắt gia đình nhà thằng Trọng y ước, mà chia đất cho tôi.

Đến lượt, thằng Trọng. Mắt nó, đảo như rang lạc. Nó xiêu vẹo, tiến đến gần cái ban thờ. Việc đầu tiên, nó vươn tay, quơ hết số tiền mà thằng Hoa vừa đặt lên đó, cho vào túi. Đoạn, nhổ nước bọt vào ngón tay, rồi chấm lên mắt. Sau đó, nỉ non:

– Thưa Bao Công, thưa bố mẹ, cùng toàn thể chư vị. Tập Phú Trọng tôi, tuy thất học, nhưng hiểu câu, “một lời nói, một đọi máu” của giới giang hồ. Tôi mà không chia đất cho thằng Hoa, cả nhà tôi, sẽ sạch sành sanh, không còn 1 mống. Cái nhà này, ở vào thế “cù địa”. Nơi giáp giới của nhiều Quốc gia. Ai đến trước, sẽ dễ dàng, khống chế được cả Thiên hạ. Thế đất, đẹp như thế. Đương nhiên, bị nhiều kẻ nhòm ngó. Thằng Hoa, hay chú Sam mũi lõ, cũng đều muốn độc chiếm. Không trước – thì sau, nhà ta, cũng phải bán. Ai bán được và bán cho ai, với cái giá cao hơn, người ấy tài. Tuy bất tài và thất Đức, nhưng bán cho thẳng Hoa, tôi vẫn còn giữ lại được 4 phần gia sản của Tổ tiên. 16 phần còn lại, nhường cho nó. Đó là cái giá, để giữ “môi trường Hòa bình và Hữu nghị”. Giúp tôi, có được sự “ổn định về chính trị”, để hưởng trọn vẹn, cả 4 phần kia. Mà, không phải chia cho bất cứ 1 ai trong dòng tộc. 4 phần đó, nếu nhường nốt, vợ chồng thằng Hoa, cam kết: Sẽ nuôi không, cả lò – cả ổ nhà tôi. Cái giá ấy, rất hời. Xin đừng lên án tôi, “mại gia cầu vinh”. Tôi thề, không bao giờ, táng tận lương tâm, để làm cái việc đó. Đơn giản, tầm của tôi, chỉ biết mại gia để mà ăn chơi. Chứ nào có biết, vinh – nhục, nó là cái gì. Lên án tôi, trong cuộc mua bán – đổi chác này, thì dễ. Nhưng, hãy chìa bàn tay của quí vị, ra trước mặt và hãy nhìn vào đó: Chúng ta, rặt 1 lũ mặt ngay – tay đờ. Chơi với chú Sam mũi lõ, chú ấy bắt chúng ta, phải tự làm lấy mà ăn. Có mà, bỏ mẹ.

Thằng Hoa kia, bỏ thuốc độc, định giết hết cả nhà ta. Về lí, “sát nhân giả tử” (giết người, phải đền mạng). Nhưng do cảnh giác cao độ, nên tôi vẫn còn sống nhăn – sống nhở. Nhà ta, chưa bị tuyệt diệt. Vả lại, thằng Hoa đã nhận lỗi và đã đền bù xứng đáng. Từ xưa đến nay, cả họ Tập nhà mình, ai ai cũng có lòng nhân nghĩa– khoan dung – độ lượng. Chúng ta, chỉ đánh người chạy đi. Chúng ta, quyết không đánh kẻ chạy lại. Cho dù, mục đích chạy lại của chúng, là ăn cướp hay giết người. Người chết, thì cũng đã chết rồi. Bao Công có giết thêm 2 chúng tôi, cũng chẳng thể, làm cho bố mẹ – anh em – gà chó… nhà chúng tôi sống lại. Với tất cả những lí lẽ đó, xin Bao Công tha chết cho chúng tôi. Và, xin chứng thực, cho cái hợp đồng, mua bán – đổi chác của chúng tôi.

Nghe, chuyện thằng Trọng nói – Nhìn, việc thằng Trọng làm: Bao Công, uất nghẹn. Ngài, cho ông bà Tập, nói lời cuối. Cả đám Hiếu, nín lặng.

Ông bà Tập, luống cuống. Ngồi ở đây, nhưng tâm trí của họ, còn để ở tận đẩu – tận đâu. Cờ bạc, là nghiệp chướng của họ. Xuống Âm phủ, vẫn không thể dứt ra được. Mọi ý nghĩ, chỉ hướng về số tiền lô đề, mà họ đang nợ đầm đìa và đám chủ nợ, đang vây quanh, bắt phải trả. Liếc xuống, thấy thằng Trọng, nhấm nháy ra hiệu, sẽ tắc tế vàng mã cho ông bà. Thế là, quên hết. Cả hai, quỳ xuống. Xin Bao công, tha chết cho thằng Trọng. Với cớ, nó là thằng cùng đinh duy nhất còn lại, để lo việc cúng tế cho ông bà. Tiện thể, xin tha nốt cho thằng Hoa du côn. Với cớ, không có nó, thằng Trọng, lấy cứt mà đổ vào mồm. Cuối cùng, xin Bao Công, nói với Diêm vương, mỗi ngày, mở Xổ số, 2 đận.

Bao Công lắc đầu: “Ti tiện, đến chết, vẫn là đồ ti tiện”. Đoạn, Ngài quay xuống, phủ dụ đám đông:

– Ngồi trên Thiên đình, nhưng hàng ngày, ta vẫn nghe đài và đọc báo của nhà Sản, ở xứ Cù lần. Có lần, ta nghe 1 thằng mặt dầy, nói rằng: “Sống nghèo – hèn, trong công bằng – yên bình. Vạn lần tốt hơn giàu sang – phú quí, trong bon chen và hỗn loạn”. Nghèo – hèn, khoan nói. Ta cứ tưởng, ít ra, các người cũng được sống trong yên bình. Bởi vậy, từ lâu, không đáo qua đây. Hôm nay, vô tình ghé qua, ta mới biết, sự thực, không phải là như vậy. Ta đã nhìn thấy: trong đám dân chúng, ai cũng bị dán băng keo vào mồm. Đó, là cái giá phải trả, để có được, cái gọi là “yên bình”. Ta, xấu hổ thay, cho cái sự hèn hạ của các ngươi. Môi trường sống của các ngươi, đã bị nhiễm độc toàn diện và nặng nề. Các người, sắp chết cả nút đến nơi. Thế mà, vẫn nghe lời phỉnh phờ của thằng Trọng: im lặng, để giữ “sự ổn định chính trị”. Sao không biết bảo nhau, đập chết, hai cái thằng súc sinh đó đi. Cùng lắm, cũng phải biết, tự gỡ cái băng keo ở mồm ra. Rồi, đem cái nỗi oan ức này, kêu đến Cửu trùng? Bây giờ, ta sẽ thay các ngươi, đem 2 thằng Trời đánh – Thánh vật này, về phủ Khai Phong. Để, điều tra. Các người yên tâm, ta sẽ không điều tra trong “ba vạn – chính nghìn” ngày, như bọn nhà Sản, nơi Hạ giới đâu. Ngay ngày mai, ta sẽ đem chúng, ra sân vận đông Hàng Chiếu. Để, xét xử công khai. Cửa, ta mở tự do. Các người, rủ nhau đến, mà dự. Đến đó, các người, sẽ chứng kiến Chân lý: “lưới Trời lồng lộng – thưa mà khó lọt”. Tiện thể, ai có oan ức gì, gửi đơn cho Công Tôn Sách. Ta sẽ cứu xét luôn, cả thể.

Nghe thế, cả đám đông ào lên. Thoáng cái, Công Tôn Sách, đã bị đẩy đi, tít tận đằng nào. Gớm, yên bình gì, mà lắm oan khiên đến thế. Mình cũng muốn nhảy lên, để gửi đơn. Khốn nỗi, người thì bé – tính lại ngờ nghệch. Bởi thế, bị giẫm đạp tơi bời và bị đấm đá túi bụi.

Đau qua, mở choàng mắt ra. Trước mặt mình, là Sư tử. Mắt sáng quắc – tóc dựng ngược. Mụ thượng cẳng chân – hạ cẳng tay, đánh mình không thương tiếc. Vừa đánh – vừa la hét, như đang lên cơn điên. Mụ tóm tóc, hỏi mình: “Tối qua, lão đã mua thuốc liều chính hiệu, ở tiệm nào?”. Té ra, trong cơn mơ, mình đã đạp nàng, văng ra khỏi giường.

Đành phải thanh minh, bằng cách, kể lại giấc mơ. Kể thì dứt, nhưng chuyện, nào đã hết. Nàng tức giận, hỏi mình:

– Tóm lại, lão có gửi được đơn của nhà mình, hay không?

– Cậu đánh tớ, như đập mẹt. Đau quá, phải tỉnh. Tỉnh rồi, sao gửi được nữa?

Sư tử vồn vã:

– Thế thì, “anh ơi hãy ngủ, em hầu quạt cho”. Mơ tiếp đi, rồi nhớ chen thật lực vào. Đứa nào cản đường, anh cứ đánh bỏ mẹ nó đi. Tội vạ đâu, anh chịu nhé. Em, ứ chịu thay anh. Và, nhớ cho kĩ, câu này: Không gửi được đơn, đừng về.

Trời đất – Quỷ thần ơi! Lười nhác như mình, mà được ngủ tiếp, thì thích lắm. Nhưng, tỉnh dậy, mà nói rằng, “không tìm thấy Bao Công”, có mà no đòn.

Trở đi, mắc núi – trở lại, mắc sông. Ai ơi, cứu mình với.

Nguyễn Tiến Dân

Tạm trú tại: 544 đường Láng – quận Đống đa – Hà nội

Điện thoại: 0168-50-56-430

BÀI HỌC TRỰC QUAN VỀ LÒNG YÊU THƯƠNG

BÀI HỌC TRỰC QUAN VỀ LÒNG YÊU THƯƠNG

LM Inhaxiô Trần Ngà

Tại một khúc đường vắng trên con đường từ Giê-ru-sa-lem đến Giê-ri-cô có một khách bộ hành bị trọng thương đang quằn quại rên siết.  Khúc đường nầy xưa nay vẫn thường xảy ra những vụ cướp của giết người nghiêm trọng.  Hẳn đây lại là một nạn nhân khác do bọn cướp gây ra.

Một hy vọng loé lên trong đầu óc nạn nhân khi anh ta thoáng thấy có một khách bộ hành đang tiến lại gần.  Khi người bộ hành gần đến, niềm hy vọng càng dâng cao vì đây là một vị Tư Tế.  Ngài vốn thông làu lề luật yêu thương, chắc chắn ngài sẽ đoái thương cứu chữa anh ta.  Nhưng rồi vị Tư Tế cố tình rảo bước cho nhanh, lánh qua một bên mà đi thẳng, để mặc anh nằm đó.

Một lát sau, có một thầy Lê-vi đi qua, vị nầy đảo mắt nhìn nạn nhân rên siết, nhưng rồi cũng vội vàng rảo bước cho nhanh, có lẽ ông ta sợ rằng bọn cướp còn lảng vảng đâu đây, sẽ trấn lột hết những gì ông ta mang trên mình và sẽ đánh đập ông nhừ tử như người khốn khổ kia.  Thôi, khôn hồn thì rảo bước cho nhanh, mau qua khỏi nơi nguy hiểm nầy.

Cuối cùng, có tiếng lừa lộp cộp đâu đây vọng lại, rồi vị khách đi đường thứ ba xuất hiện. Đây là người dân Sa-ma-ri.  Chẳng hy vọng gì nơi hạng người như thế, hạng người xưa nay vẫn mang tiếng là quân lạc đạo chẳng ra gì.

Thế nhưng, người Sa-ma-ri nầy lại cho lừa dừng lại, bước xuống cúi mình trên nạn nhân, cảm thương thân phận người xấu số.  Ông mở hành trang lấy rượu rửa sạch vết thương, lấy dầu xoa bóp những nơi bầm tím, rồi vực nạn nhân lên lừa của mình, quay trở về quán trọ.  Đến nơi, ông lo liệu cơm cháo thuốc men, săn sóc nạn nhân như lo cho người thân yêu của mình.  Sáng hôm sau, vì công việc gấp rút đòi buộc, ông phải vội lên đường; nhưng trước khi ra đi, ông trao tiền cho chủ quán và dặn dò: “Xin ông lo chăm sóc người nầy giùm tôi cho chu đáo, còn tốn phí thêm bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ hoàn lại cho ông”.

***********************************

Điều tuyệt vời nơi con người nhân ái nầy là đức tính sẵn sàng phục vụ.  Phục vụ tức thời không so đo tính toán.  Phục vụ bất cứ lúc nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Đang lúc phải đi về Giê-ri-cô cho nhanh trước khi trời tối, mà phải dừng lại tại một nơi không ngờ trước, bày tỏ tình thương mến một nạn nhân xa lạ bằng những chăm sóc hết sức ân cần chu đáo, bất chấp hiểm nguy cho tính mạng mình, chấp nhận mất mát thời giờ, tiền của, đành để cho vợ con chờ đợi sốt ruột ở nhà, gác bỏ qua bên bao nhiêu công việc cấp bách… thì đây quả là một con người hy sinh cao thượng hiếm có.

Bài dụ ngôn về người Sa-ma-ri nhân lành nầy đáng được xem là tinh hoa của lề luật, là cốt tuỷ của nền luân lý ki-tô giáo, là minh họa hay nhất cho lề luật yêu thương, là tấm gương soi cho tất cả những người con cái Chúa.

Giữ luật yêu thương không chỉ là tâm niệm luật ấy trong lòng đêm ngày như những kinh sư và biệt phái.  Giữ luật yêu thương không phải là lặp lại luật ấy trên môi, đeo câu luật yêu thương trên tay, trên trán hay dán lên khung cửa ra vào như những người Do Thái xưa kia thường làm.

Nhưng giữ luật yêu thương chủ yếu là cúi xuống trên những mảnh đời bất hạnh để ủi an chăm sóc, là chia cơm sẻ áo, là trở thành người tôi tớ phục vụ tha nhân bất cứ khi nào họ cần.

***********************************

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa là bậc Thầy khôn ngoan lỗi lạc.  Qua bài Tin Mừng nầy, Chúa dạy chúng con  một bài học trực quan rất sinh động về yêu thương: Yêu thương là cúi xuống chăm sóc người bất hạnh bất cứ lúc nào, bất kể nơi nào, như người Sa-ma-ri đã thực hiện.

Xin ban thêm cho chúng con đức tin và lòng yêu mến.  Tin Chúa hiện diện nơi mọi người, đặc biệt là nơi những người cùng khổ và đem hết khả năng để phục vụ và yêu mến họ, vì khi thực hành như thế là chúng con đang làm cho chính Chúa.

LM Inhaxiô Trần Ngà

Anh chị Thụ & Mai gởi

LỜI CỦA TRÁI TIM…

LỜI CỦA TRÁI TIM…

Những đứa trẻ sống giữa những người phê phán thì học lên án.

Những đứa trẻ sống trong bầu không khí thù địch thì hay đánh nhau.

Những đứa trẻ sống trong sự hãi hùng thì học được thói sợ sệt.

Những đứa trẻ sống trong cảnh đau xót thì học được sự đồng cảm.

Những đứa trẻ sống trong bầu không khí đố kỵ thì học được thế nào là tham vọng.

Những đứa trẻ sống trong bầu không khí khoan dung thì học được sự nhẫn nại.

Những đứa trẻ sống giữa những nguồn động viên thì học được lòng tin.

Những đứa trẻ sống giữa những lời khen tặng đúng lúc thì học đánh giá cao những gì bao quanh chúng.

Những đứa trẻ sống trong niềm tự hào thì học được cách phấn đấu.

Những đứa trẻ sống trong sự san sẻ thì học để trở nên hào hiệp.

Những đứa trẻ sống trong sự trung thực và sự công minh thì học được chân lý và lẽ công bằng.

Những đứa trẻ sống trong hạnh phúc thì học được rằng thế giới là nơi tốt đẹp để sống.

S.T.

NHỮNG ĐÒI HỎI THIẾT YẾU ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ TRƯỞNG THÀNH

 NHỮNG ĐÒI HỎI THIẾT YẾU ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ TRƯỞNG THÀNH

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Trong quyển tiểu sửcủa mình, Morris West cho rằng, ở một độ tuổi nhất định nào đó của cuộc đời, tự điển tâm linh của chúng ta đơn giản chỉ còn ba câu: Cám ơn!  Cám ơn!  Cám ơn!  Ông đúng nếu chúng ta hiểu trọn vẹn thế nào là sống với tấm lòng biết ơn.  Biết ơn là đức hạnh cao nhất, là nền tảng cho các thứ hạnh khác, kể cả tình yêu.  Và nó còn đồng nghĩa với thánh thiện.

Biết ơn không chỉ là điều xác định sự thánh thiện, mà còn xác định cả sự trưởng thành.  Chúng ta trưởng thành khi đạt đến mức độ biết sống biết ơn.  Nhưng điều gì sẽ cho chúng ta được như thế?  Điều gì cho chúng ta một sự trưởng thành nhân bản sâu sắc hơn?  Tôi muốn nêu ra đây mười đòi hỏi chính yếu cả trong sự trưởng thành nhân bản lẫn trưởng thành Kitô giáo:

  1. Sẵn sàng đảm nhận hơn nữa những phức tạp đời sống với lòng cảm thông: Trong cuộc sống, có rất ít điều trắng đen hoặc đơn giản là xấu tốt rõ ràng, kể cả trong tâm hồn và động cơ của chúng ta.  Sự trưởng thành làm cho chúng ta nhìn nhận, thông hiểu và chấp nhận sự phức tạp này với lòng cảm thông để, như Chúa Giêsu, chúng ta khóc những giọt nước mắt thông hiểu cho những đô hội hỗn loạn và những tâm hồn phức tạp của chính chúng ta.
  2. Ghen tương, giận dữ, chua cay, thù ghét phải được biến đổi, không ăn miếng trả miếng. Bất kỳ nỗi đau hay áp lực nào không được biến đổi, thì chúng sẽ được chúng ta lan truyền tiếp.  Khi đối diện với ghen tương, giận dữ, chua cay, thù ghét, chúng ta phải như người lọc nước, giữ độc tố bên trong, chỉ để cho giòng nước tinh khiết chảy ra ngoài, chứ đừng làm như sợi dây điện, cứ để điện năng xuyên qua mà không lọc.
  3. Hãy mềm dẻo chịu đựng hơn là để tâm hồn chai cứng: Chịu đựng và khiêm nhường luôn có trong chúng ta, nhưng cách chúng ta đáp trả, tha thứ hay chua cay, sẽ định rõ mức độ trưởng thành và chân tướng của chúng ta.  Đây có lẽ là phép thử cao nhất cho đạo đức của chúng ta: Liệu lòng khiêm tốn của tôi sẽ làm mềm dịu hay chai cứng tâm hồn tôi đây?
  4. Tha thứ: Đến cuối cùng, chỉ có một điều kiện để được vào thiên đàng (cũng như để sống trong cộng đồng nhân loại), chính là sự tha thứ.  Có lẽ trong nửa sau cuộc đời mình, việc khiến chúng ta phải đấu tranh nhiều nhất chính là hành động tha thứ: Tha thứ cho những ai đã làm chúng ta tổn thương, tha thứ cho bản thân vì những khiếm khuyết, và tha thứ cho Thiên Chúa vì dường như Ngài đã bất công để chúng ta kiệt lực khi đối diện với thế giới này.  Trong tất cả, đòi hỏi đạo đức lớn nhất chính là đừng để mình chết đi với một tâm hồn chua cay và bất dung.
  5. Sống biết ơn: Là một vị thánh nghĩa là được kích động bởi lòng biết ơn, không hơn không kém. Đừng để ai lừa mình với tư tưởng cho rằng lòng sốt sắng với chân lý, với giáo hội, và ngay cả với Thiên Chúa có thể cao hơn hay ít ra cũng ngang với đòi hỏi không nhân nhượng là chúng ta phải luôn luôn biết sống trong tâm tình biết ơn.  Thánh thiện là sống biết ơn.  Không có lòng biết ơn, chúng ta sẽ thấy mình đang làm những điều đúng cho những động cơ sai lầm.
  6. Chúc phúc hơn là chúc dữ: Chúng ta trưởng thành khi chúng ta khẳng định mình bằng điều mà chúng ta hướng đến hơn là điều mà chúng ta chống lại và đặc biệt sự trưởng thành của chúng ta được đánh dấu khi chúng ta, như Chúa Giêsu, biết tìm đến tha nhân và nhìn họ với cặp mắt chúc lành (“Xin Chúa chúc lành cho bạn!”) hơn là chúc dữ (“Bạn nghĩ bạn là ai vậy”?)  Có khả năng khen ngợi hơn là phê phán là dấu hiệu cho thấy mức độ trưởng thành của mỗi người.
  7. Sống minh bạch và lương thiện: Chúng ta không bình thường khi khư khư ôm giữ các bí mật bệnh hoạn nhất của mình, nhưng chúng ta sẽ sống lành mạnh khi chúng ta sống lương thiện.  Như Martin Luther đã từng nói, chúng ta cần “phạm tội một cách dũng cảm và chân thật.”  Sự trưởng thành không có nghĩa là chúng ta trở nên hoàn hảo hay vô tội, nhưng có nghĩa là chúng ta sống chân thật.
  8. Cầu nguyện bằng cảm xúc lẫn theo nghi thức: Nguồn năng lượng chúng ta cần để cho mình sống trong lòng biết ơn và tha thứ không nằm ở sức mạnh của ý chí nhưng ở ân sủng và cộng đoàn.  Chúng ta được vậy là nhờ cầu nguyện.  Chúng ta trưởng thành khi biết mình bất lực và biết nhờ đến sức mạnh Thiên Chúa, cũng như khi biết cầu nguyện với tha thân để cho toàn thế giới cũng sẽ cầu nguyện như vậy.
  9. Mở rộng vòng tay hơn bao giờ hết: Chúng ta trưởng thành khi định nghĩa được ai là gia đình mình (Ai là anh chị em tôi?) theo một cách đại kết, liên tôn, không phân biệt tư tưởng, không kỳ thị.  Chúng ta chỉ trưởng thành khi biết thương xót như Thiên Chúa giàu lòng thương xót, mặt trời chiếu cho cả người mình thích và không thích.  Đến một lúc, chúng ta phải thay thế các áp phích cổ động yêu thương bằng những cái chậu cái khăn để cùng tắm chung một dòng nước.
  10. Hãy ở đúng vị thế của mình, và để Thiên Chúa bảo vệ bạn:  Xét tận cùng, tất cả chúng ta đều yếu ớt, chỉ nhờ vào may rủi, và vô vọng, không bảo vệ những người chúng ta yêu mến, và cả chính chúng ta nữa.  Chúng ta không thể bảo đảm sự sống, an toàn, ơn cứu rỗi, hay sự tha thứ cho chính mình hay cho những người mình yêu thương.  Sự trưởng thành dựa trên việc chấp nhận sự thật này hơn là cứ mãi lo lắng về nó.  Chúng ta chỉ có thể làm hết sức mình, bất kể quãng đời nào, vị thế nào, giới hạn hay khiếm khuyết của mình, và tin rằng như vậy là đủ, tin rằng nếu chúng ta ngã xuống nơi chiến điểm của mình, trong chân thật, trong khi đang làm nhiệm vụ được giao, thì chính Thiên Chúa sẽ lo cho phần còn lại.

Thiên Chúa là một bậc cha mẹ yêu thương vô vàn, tràn đầy thông hiểu, và hoàn toàn cảm thông. Chúng ta trưởng thành và tự do thoát khỏi những lo lắng sai lầm, khi chúng ta hiểu được và tin tưởng sự thật đó.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

. FORMOSA: SAO CÁC NGƯỜI NHAM HIỂM và TÀN ĐỘC VỚI ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM NHƯ VẬY?

FORMOSA: SAO CÁC NGƯỜI NHAM HIỂM và TÀN ĐỘC VỚI ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM NHƯ VẬY?

Bùi Văn Bồng

Lời ngỏ gửi Lãnh đạo Tập đoàn FORMOSA: SAO CÁC NGƯỜI NHAM HIỂM và TÀN ĐỘC VỚI ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM NHƯ VẬY?

Nguyễn Đăng Quang

7-7-2016

H1Nhân dân Việt Nam ta, đặc biệt là ngư dân Hà Tĩnh, chẳng đợi đến buổi họp báo Chính phủ chiều 30/6/2016 mới biết thủ phạm gây ra thảm hoạ cá chết, biển chết ở biển miền Trung, mà ngay từ đầu tháng 4/2016, họ đã xác định chính các ngươi là nguyên nhân và thủ ác của thảm hoạ này! Người dân còn khẳng định cá chết suốt dọc trên 200 km bờ biển 4 tỉnh miền Trung không chỉ là cái đích mà nhà ngươi nhắm đến, mà đấy chỉ là khúc dạo đầu thử nghiệm cho kể hoạch diệt chủng mà các ngươi sẽ làm trong thời gian tới đối với dân tộc và đất nước này!

Ấy vậy, tại buổi họp báo cũng như trong các văn bản liên quan, bọn các ngươi đều đạo đức giả, chỉ thú nhận qua loa. Thảm hoạ môi trường biển miền Trung vô cùng nguy hiểm và trầm trọng như vậy mà các ngươi chỉ gọi đó là “sự cố” môi trường, đổ cho các nhà thầu phụ ẩn danh, rồi nói lời xin lỗi và cam kết bỏ ra 500 triệu USD để “bồi thường” thiệt hại cho “sự cố” này mà thôi! Sao các ngươi trơ tráo quá vậy? Các ngươi tưởng thế là êm xuôi hay sao? Người dân Việt Nam đã đọc văn bản lời xin lỗi của các ngươi, nhưng chưa có văn bản pháp lý (Thỏa thuận hoặc Hợp đồng) bằng giấy trắng, mực đen, dấu đỏ, trong đó nêu cụ thể các chi tiết, điều kiện, các bước bồi thường như các mục chi trả, cách thức và thời gian bồi thường, v.v…

Các ngươi xưa nay nổi tiếng là gian hùng, thớ lợ và luôn tìm cách “đi đêm” với bất cứ kẻ nào. Thế giới đều đã biết và luôn cảnh giác với các ngươi! Do vậy, ta yêu cầu các người phải công khai văn bản này cho công luận và mọi bên liên quan, đặc biệt là các ngư dân miền Trung là những nạn nhân trực tiếp của thảm họa này, được biết. Đây không chỉ là đòi hỏi của dư luận, mà đây là bổn phận và trách nhiệm pháp lý mà các ngươi đương nhiên phải tuân thủ! Các ngươi phải công bố mọi văn bản đã thỏa thuận với nhau về việc bồi thường này! Điều đó sẽ tốt không chỉ cho các ngươi mà còn tốt cho cả Chính phủ Việt Nam ta nữa! Nếu không, ta xin nói thẳng, cái kịch bản cúi đầu xin lỗi và cam kết bồi hoàn 500 triệu USD công bố trong buổi họp báo 30/6/2016 không phải là cao kiến, là thượng sách gì đâu mà là một kịch bản rất tồi, rất trơ trẽn và hạ sách của các ngươi và đồng bọn mà thôi!

Nhân đây ta cũng nói để các ngươi biết là việc Chính phủ Việt Nam chấp nhận lời xin lỗi và đồng ý nhận số tiền 500 triệu USD bồi thường của các ngươi trong khi chưa điều tra, thống kê đầy đủ các thiệt hại của người dân về vật chất, tinh thần, sức khỏe và cả sinh mạng nữa, và cũng chưa điều tra thống kê các tổn thất về kinh tế và du lịch biển, cũng như các chi phí cho việc tẩy sạch môi trường, khôi phục (hoàn nguyên) sinh thái vùng đáy biển,v.v… là một sự vội vàng đáng tiếc! Song người dân có thể thông cảm với quyết định này, nhưng nếu các người không biết điều, tiếp tục lợi dụng sự khoan dung của người khác, thì nhân dân ta sẽ không tha thứ cho bọn các ngươi đâu! Ngay cả việc các ngươi chưa bị tuyên phạt, chưa bị tạm đình chỉ hoạt động cũng như chưa bị khởi tố hình sự cũng là một ưu ái và nhân nhượng không nhỏ của Chính phủ mặc dù người dân không đồng tình!

Mọi người đều biết: Huỷ hoại môi trường là một tội danh nghiêm trọng trong mọi Bộ Luật Hình sự của các quốc gia trên thế giới. Huỷ hoại môi trường đến mức gây ra thảm hoạ môi sinh, làm ngưng trệ cuộc sống của con người trên một vùng rộng lớn suốt dọc 200km bờ biển 4 tỉnh miền Trung (có thợ lặn đã chết vì lặn xuống vùng nước thải độc, nhiều ngư dân phải cấp cứu vì bị trúng độc do ăn phải tôm, cá, mực bị nhiễm độc), làm cho môi trường sống của hàng triệu người bị đe dọa trầm trọng trong hàng chục năm! Đó không chỉ là tội ác đơn thuần mà là tội ác diệt chủng, là tội ác chống lại loài người!

Thảm hoạ cá chết chỉ là phần nổi của tảng băng chìm tội ác mà các ngươi đã gây ra đối với ngư dân 4 tỉnh miền Trung. Cái phần chìm rất lớn của tảng băng tội ác này chính là sự nguy hại cho cuộc sống sau này: Đó là nền tảng sự sống, hệ sinh thái trong lòng và dưới đáy biển mà các ngươi vừa huỷ diệt sẽ để lại hậu quả và di chứng kéo dài ít nhất là hàng chục năm cho đến nửa thế kỷ, sẽ rất khó hồi phục! Tội ác này các ngươi đã gây ra có thể nói là “trời không dung, biển không tha” đâu!

Ta nghe nói, bọn ngươi đã bị các cơ quan chức năng Việt Nam xác định là thủ phạm gây thảm hoạ cá chết, biển chết ngay từ cuối tháng 4/2016, nhưng vì nhiều lý do tế nhị khác nhau – chủ quan cũng như khách quan – nên đã không thể công bố sớm cho đến khi có được một kịch bản khả dĩ mà các bên liên hệ có thể chấp nhận được! Như vậy đã đủ nhân từ với các ngươi chưa? Trước đó, các ngươi còn trịch thượng, thông qua kẻ phát ngôn, ngang ngược và hỗn hào thách thức nhân dân và Thủ tướng Việt Nam là: Chỉ có thể chọn CÁ hoặc THÉP! Các người đã nhận được câu trả lời đanh thép là dân chọn CÁ SẠCH và MÔI TRƯỜNG SẠCH, chứ không chọn THÉP!  Nếu các ngươi thú nhận tội lỗi ngay từ đầu, công khai nhận trách nhiệm, không đổ tội cho khách quan, sẽ giúp cho Chính phủ đỡ bối rối và lúng túng, tránh được những sự việc đáng tiếc và không dễ quên giữa chính quyền và người dân trong 3 tháng căng thẳng này, ta tin rằng mọi chuyện có thể đã khác, chắc sẽ “lành” hơn cho các ngươi cũng như các bên liên hệ!

Ta thực sự không hiểu lý do tại sao Formosa Plastics các ngươi nổi tiếng là tập đoàn kinh doanh vô luân, sẵn sàng làm bất cứ điều gì để đạt lợi nhuận tối đa, là kẻ nổi danh đầu độc môi trường sinh thái, bị cả thế giới xua đuổi và bị nguyền rủa ngay tại chính quê hương, đất nước các ngươi, lại được rước về đây để thực thi kế sách đầu độc dân tộc này? Phải chăng các ngươi ỷ thế của kẻ lắm của, nhiều tiền, bỏ ra chút ít để mua những kẻ tham nhũng bản địa táng tận lương tâm, trong người không còn dòng máu con Lạc, cháu Hồng nào, để có được những ưu đãi đủ thứ:  Từ địa điểm dự án (Vũng Áng-Sơn Dương) có vị trí chiến lược rất nhạy cảm về quân sự, cho đến thời hạn đầu tư vượt khung lên đến 70 năm, từ giá thuê đất rẻ mạt cho đến mức thuế quan cực thấp,v.v… , tất cả đều vượt ngoài khuôn khổ pháp lý. Các ngươi tưởng thế là có thể yên tâm che mắt được thế gian sao?  Ai chứ người dân Việt Nam thừa tỉnh táo và cảnh giác đối với các ngươi, không bao giờ cho các ngươi và bọn tay sai thực hiện kế sách nham hiểm mà bọn ngươi ấp ủ xưa nay!

Ta thẳng thắn khuyên các ngươi: Hãy tự nguyện rời bỏ và mang theo mọi ý đồ tội ác của các ngươi khỏi xứ sở này đi vì ở đây không một ai hoan nghênh các ngươi cả, ngoại trừ bọn quan tham, bọn bán nước hại dân! Chừng nào các ngươi có mặt trên đất nước này thì nguy cơ dân tộc Việt Nam ta bị các ngươi đầu độc luôn luôn hiện hữu, môi trường sống và biển sạch rồi sẽ sớm bị các ngươi bức tử một lần nữa! Ta cũng thừa biết, tội ác này không dễ thực hiện nếu các ngươi không có sự tiếp tay, bao che, đồng lõa của bọn quan chức bản địa xấu xa, có chức có quyền! Vịêc này, nhân dân ta sẽ tính sổ sau với chúng. Nhưng lúc này nếu các ngươi công bố danh sách tên tuổi, chức vụ, bằng chứng cụ thể bọn này thì sẽ là tình tiết giảm nhẹ tội lỗi cho các ngươi sau này!

Các ngươi đừng tưởng bỏ ra 500 triệu USD là có thể xóa sạch mọi tội ác các ngươi đã gây ra. Số tiền đó có thể làm hài lòng ai đó, chứ quyết không lừa dối được các ngư dân là nạn nhân nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung! Cho đến nay, tổng thiệt hại về mặt vật chất và tinh thần của hơn 1 triệu ngư dân 4 tỉnh miền Trung đã có ai thống kê đầy đủ đâu? Ta e rằng 500 triệu USD kia không đủ kinh phí cho riêng việc tảy sạch môi trường biển miền Trung chứ đừng nói đến việc bồi thường thiệt hại cho trên 1 triệu ngư dân đâu? Số tiền 500 triệu USD này nghe đâu các ngươi còn tính cả cho kinh phí “hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho hơn 1 triệu ngư dân 4 tỉnh miền Trung và gia đình của họ”, trong đó có việc “ưu tiên cho bà con ngư dân đi xuất khẩu lao động ”!? Các ngươi thật là nham hiểm cùng cực! Các ngươi đã đẩy đuổi được gần 3.000 người dân ở Sơn Dương – Vũng Áng đi rồi, nay còn định lợi dụng thảm họa này sẽ “hốt” luôn cả 1 triệu ngư dân 4 tỉnh miền Trung vĩnh viễn rời xa ngư trường để các ngươi dễ bề thao túng, làm chủ vùng biển chiến lược này của đất nước ta ư? Nếu mưu kế quỷ quyệt này thành công, Nhà nước ta sẽ lấy ai đây để thay thế “những cột mốc chủ quyền di động trên biển” nhằm bảo vệ ngư trường truyền thống và biên cương biển đảo của Tổ quốc Việt Nam ta đây? Tội ác đầu độc môi trường biển miền Trung đã chưa đủ mức “trời không dung, biển không tha” hay sao mà các ngươi còn dùng quỷ kế “ dùng người Việt đuổi người Việt” để dễ bề cướp nước ta trắng trợn như vậy? Các ngươi thực sự là những kẻ nham hiểm và tàn độc đến cùng cực đối với đất nước này!

Mặc dù các người đã quá tàn độc với dân tộc ta, nhưng vì “đại cục”, ta muốn đưa ra lời khuyên thẳng thắn là các ngươi hãy sớm tự nguyện cuốn xéo khỏi đất nước này trước khi qua muộn, nếu không các ngươi sẽ phải gánh chịu những rủi ro và khả năng hiện hữu như sau:

1 – Trước mắt, Cục Thuế tỉnh Hà Tĩnh và Tổng cục Thuế-Bộ Tài chính sẽ sớm tiến hành truy thu tất cả các khoản thuế mà các ngươi còn thiếu hoặc chây ỳ chưa chịu nạp. Ta nghe nói con số này có thể lên tới hàng ngàn tỷ VNĐ!  Ấy là chưa nói đến khả năng họ sẽ khởi kiện các ngươi ra tòa vì tội “trốn thuế”, vì họ đã có đầy đủ bằng chứng trong hồ sơ!

2 – Sau đó các ngươi chắc chắn sẽ phải đối mặt với vụ kiện dân sự tập thể mà nguyên đơn là các nạn nhân là ngư dân 4 tỉnh miền Trung. Họ sẽ đòi bồi thường thiệt hại vật chất, tinh thần, sức khỏe và tính mạng do tội ác các ngươi đã gây ra mà các ngươi đã thừa nhận (trong văn bản xin lỗi nhân dân VN ngày 28/6/2016!). Tòa sẽ căn cứ vào mức thiệt hại thực tế của các nạn nhân để đưa ra mức bồi thường. Ta tin rằng, riêng mức bồi thường dân sự này chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều, chứ không phải chỉ là mức 500 triệu USD mà các ngươi đã thỏa thuận khống và trọn gói kia đâu!

3- Và rồi tiếp theo sau đó các ngươi sẽ phải đương đầu với khả năng (ta dùng từ khả năng, nhưng ta tin chắc đây là hiện thực) sẽ có những hội đoàn và cá nhân Việt Nam yêu cầu khởi tố hình sự các ngươi trước các Tòa án Việt Nam và nếu các ngươi né được ở đây thì Tòa Hình sự ở Đài Loan hoặc một Tòa Hình sự quốc tế khác sẽ thụ lý các đơn kiện này! Hẳn các ngươi sẽ thừa biết hậu quả sẽ như thế nào nếu luật pháp xử lý hình sự tội ác này! Các ngươi sẽ không chỉ phải bồi thường mà các ngươi sẽ còn bị phạt vạ một số tiền không nhỏ vì đã gây ra tội ác thảm họa môi trường, các ngươi sẽ phải bỏ ra không phải là 500 triệu USD mà chắc chắn sẽ gấp hàng chục lần số tiền đó để khắc phục hậu quả, hoàn nguyên môi trường biển!  Hơn nữa, và đây là điều quan trọng, rồi trong số các ngươi sẽ có kẻ lĩnh án tù, tập đoàn FORMOSA sẽ bị buộc phải ngừng hoạt động hoặc đóng cửa vĩnh viễn, lúc đó hẳn các ngươi sẽ lâm vào vũng lầy phá sản!

Các ngươi đừng tưởng có thể dễ “chạy” để khỏi bị khởi tố hình sự bằng túi tiền của các ngươi đâu. Vì nếu các cơ quan tư pháp có chức năng tố tụng không chịu khởi tố hình sự các ngươi thì chính họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì tội cố ý bỏ lọt tội phạm vì đã “Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội” theo quy định tại Điều 294 Bộ luật Hình sự năm 1999 và tại Điều 369 Bộ luật Hình sự năm 2015. Ta thiết nghĩ trên đời chẳng có mấy ai vì nhân đạo hay lý do nào đó mà chạy tội cho thủ phạm để rồi chính mình sẽ bị truy tố và phải ngồi tù thay cho thủ phạm đâu! Do vậy các ngươi đừng có đắc thắng và vội ảo tưởng!

Trên là vài lời ngỏ của cá nhân người viết gửi Ban lãnh đạo Tập đoàn Formosa Plastics ở Đài Loan, ở Trung Quốc lục địa cũng như ở Việt Nam. Ta mong các ngươi nghiêm túc lắng nghe và thật sự phục thiện, sớm hồi tâm và hối cải!

Hà Nội, ngày 7/7/2016.

Suy nghĩ bên đèn đỏ ở Nara

Suy nghĩ bên đèn đỏ ở Nara

Trần Trung Đạo (Danlambao) – …Những hiện tượng bất nhân, độc ác giữa người và người đang thấy tại Việt Nam chỉ là quả chứ không phải là cây và do đó hái dăm trái thối hay thậm chí hái hết trái trên cây đi nữa sang mùa khác chúng sẽ được sinh ra. Tội ác sẽ không bao giờ xóa được khi các nguyên nhân gây ra tội ác vẫn còn tồn tại. 

Và nguyên nhân chính của mọi thảm trạng trên đất nước ngày nay là cơ chế độc tài CS. Do đó, thay đổi mà Việt Nam cần là thay đổi cơ chế CS đang thống trị Việt Nam bằng một chế độ tự do dân chủ làm tiền đề cho công cuộc phục hưng toàn diện Việt Nam…
*

Hai tuần trước trên đường từ cố đô Nara về lại Kyoto, chiếc xe bus du lịch dừng trước đèn đỏ của một ngã tư. Một toán học sinh Nhật khoảng lớp sáu hay lớp bảy băng qua đường. Nhật Bản đang vào mùa hè và học sinh còn nghỉ học nhưng các em hình như đang trở về từ một sinh hoạt tập thể nên đều mặc đồng phục áo trắng quần xanh.

Đèn bắt đầu chớp. Ba em cuối cùng trong toán cố vượt theo bạn dù tiếng chuông trên trụ đèn đã báo sắp hết giờ dành cho người đi bộ. Dĩ nhiên xe bus tiếp tục dừng để các em đi qua hết. Ba em cuối cùng băng nhanh qua đường nhưng thay vì chạy theo cùng các bạn, các em dừng lại, sắp hàng ngang nghiêm chỉnh hướng về phía xe bus và cúi gập người xuống để xin lỗi và cám ơn anh tài xế.

Nhìn học sinh Nhật, người viết chợt nhớ thế hệ mình ngày xưa. Học trò miền Nam được dạy không chỉ cúi đầu thôi mà còn vòng tay để chào, cám ơn hay xin lỗi các bậc trưởng thượng. Trên đường, khi gặp một đám tang đi qua, chúng tôi được dạy phải đứng nghiêm trang và dở mũ xuống nếu đội mũ, cúi đầu kính tiễn biệt người quá cố cho đến khi xe tang qua hẳn mới tiếp tục đi. Khi thầy hay cô vào lớp, chúng tôi được dạy cả lớp phải đứng dậy chào và chờ cho đến khi thầy hay cô ngồi xuống, chúng tôi mới được ngồi. Khi có người lớn tuổi đến nhà, chúng tôi được dạy phải vòng tay cúi chào thưa theo đúng thứ bậc so với cha hay so với mẹ. Dù đang đi đâu, khi nghe tiếng Quốc Ca cất lên, từ một trại lính hay một công sở nào đó, chúng tôi được dạy phải đứng lại nghiêm chỉnh để chào cho đến khi bài Quốc Ca chấm dứt. Mỗi sáng thứ Hai trên bảng đen trong lớp học bao giờ cũng bắt đầu bằng một câu châm ngôn đầu tuần thắm đậm tình dân tộc như “uống nước nhớ nguồn”, “ăn trái nhớ kẻ trồng cây” hay tương tự và chúng tôi được dạy phải dành vài phút đầu tuần để học về ý nghĩa của câu châm ngôn đó. Trong giờ Công Dân Giáo Dục, chúng tôi được dạy trung thành với tổ quốc Việt Nam chứ không phải với riêng một đảng phái nào. Trên tường của trường Trần Quý Cáp ở Hội An nơi người viết học và hầu hết trường trung học, tiểu học ở miền Nam đều có hàng chữ chạy dài “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”. Và rất nhiều lễ nghi, phép tắc đạo lý đáng quý, đáng giữ gìn khác.

Hôm trước, Nguyễn Hồng Quốc, một bạn học lớp đệ Tam (lớp 10) ở Trung Học Trần Quý Cáp kể lại trên Facebook “Qua Trần Trung Đạo mình có được thông tin về thầy Phan Đình Trừng sau 44 năm không gặp, thầy dạy sử và công dân mình thời trung học đệ nhị cấp, thầy có giọng nói hùng hồn đầy tự tin nghe thầy giảng bài thật thú vị… năm Đệ Tam vào giờ công dân thầy kêu mình lên dò bài, thầy đặt trên bàn lá Quốc kỳ thầy bắt mình tay phải đặt lên lá cờ, tay trái đặt lên ngực đọc lời tuyên thệ “Tôi là công dân VNCH nguyện tuyệt đối trung thành với Tổ quốc Xin thề. Xin thề”. Mình đọc thật to và dõng dạc được thầy cho 20 điểm trên 20… Thấm thoát đã 44 năm rồi từ một đứa học trò hồn nhiên vô tư ngày nào giờ đây tóc đã hoa râm”. 

Câu chuyện rất bình thường của 44 năm trước nhưng kể lại cho các thế hệ hôm nay nghe giống như chuyện cổ tích.

Miền Nam phải chịu đựng chiến tranh và tàn phá nhưng vẫn cố gắng hết sức để duy trì và phát huy các giá trị nhân bản trong chừng mực còn phát huy được. Từ những hố hầm bom đạn, bông hoa tự do dân chủ vẫn cố nở ra, vẫn cố vươn lên. Nhựa nguyên nuôi dưỡng thân cây non đó là Hiến pháp VNCH.

Hiến pháp VNCH do chủ tịch Quốc hội Lập hiến Phan Khắc Sửu ký ngày 18 tháng 3 năm 1967 ghi rõ: “Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể cộng hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân chủ trong công bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.” 

Những yếu tố nào làm cho người Nhật ngày nay được nhân loại khắp năm châu kính nể?

Câu trả lời dễ dàng và nhanh chóng mà ai cũng có thể đáp là nhờ nền tảng văn hóa Nhật. Thật ra câu trả lời đó chỉ đúng một phần. Nền văn hóa của một đất nước chỉ xứng đáng được kính trọng khi nền văn hóa đó không chỉ là kết tụ giá trị văn hóa riêng của dân tộc mà còn phải phù hợp với giá trị văn minh chung của thời đại.

Không ai phủ nhận Đức là quốc gia có nền văn hóa cao nhất tại Châu Âu. Trước năm 1945, Đức là một trong ba quốc gia được nhiều giải Nobel nhất. Bao nhiêu triết gia, khoa học gia, văn sĩ, thi sĩ nổi tiếng thế giới đã sinh ra ở Đức. Nhưng chế độ Quốc Xã Hitler do chính nhân dân Đức bầu lên lại là một trong vài kẻ giết người tàn bạo nhất trong lịch sử loài người và chà đạp lên mọi giá trị văn minh của nhân loại.

Nhật Bản trước năm 1945 cũng vậy. Nhật Bản có giá trị văn hóa cao, một dân tộc có kỷ luật nghiêm khắc nhưng không phải là một nước văn minh nhân bản. Bước chân của đạo quân Nhật đi qua cũng để lại những điêu tàn, thảm khốc từ Mãn Châu, sang Triều Tiên, xuống Mã Lai, Singapore, Việt Nam không khác gì vó ngựa của đạo quân Mông Cổ đi qua trong nhiều trăm năm trước. Cơ quan mật vụ Nhật tại Singapore tàn sát khoảng 50 ngàn người dân Singapore một cách không phân biệt. Chính sách đồng hóa thay tên đổi họ đối với Triều Tiên là một bằng chứng tội ác khó quên. Nạn đói tại Việt Nam năm 1945 với hàng triệu đồng bào miền Bắc chết thảm thương một phần là do chính sách ác độc tịch thu thóc để nuôi ngựa của quân đội Nhật.

Do đó, câu trả lời chính xác, chính hiến pháp dân chủ 1946 đã làm cho nước Nhật hoàn toàn thay đổi, giúp cho người Nhật biết kính trọng con người, không chỉ riêng con người Nhật như trước đây, và tôn trọng luật pháp mà chính họ đặt ra.

Phần nhập đề của Hiến Pháp 1946 khẳng định chính phủ do dân và vì dân của Nhật Bản sẽ hợp tác hòa bình với tất cả các quốc gia trên thế giới trong ánh sáng tự do dân chủ, đặt chủ quyền của nhân dân làm căn bản cho hiến pháp và kính trọng sâu sắc của Nhật về quyền của con người được sống trong tự do và không sợ hãi. Tóm lại, cơ chế chính trị thời đại chuyên chở trong Hiến Pháp Nhật 1946 hội nhập hài hòa với văn hóa Nhật và làm cho dân tộc Nhật khác đi trong nhãn quan thế giới.

Việt Nam cần thay đổi gì? 

Con thuyền Việt Nam đang phải chở một cơ chế chính trị độc tài, lạc hậu về mọi mặt so với đà tiến của văn minh nhân loại, một nền giáo dục hủy diệt mọi khả năng sáng tạo, một xã hội tham nhũng thối nát trong đó giới lãnh đạo thờ ơ trước đòi hỏi bức thiết của nhân dân và nhân dân không có niềm tin nơi giới lãnh đạo.

Việt Nam cần thay đổi. Ai cũng có thể đồng ý như vậy, nhưng thay đổi gì trước? Đổi mới kinh tế? Cải cách giáo dục? Chống tham nhũng? Nới lỏng chính trị? Không. Một mảnh ván, một lớp sơn không làm chiếc thuyền chạy nhanh hơn.

Như người viết đã viết trong bài trước, những hiện tượng bất nhân, độc ác giữa người và người đang thấy tại Việt Nam chỉ là quả chứ không phải là cây và do đó hái dăm trái thối hay thậm chí hái hết trái trên cây đi nữa sang mùa khác chúng sẽ được sinh ra. Tội ác sẽ không bao giờ xóa được khi các nguyên nhân gây ra tội ác vẫn còn tồn tại.

Và nguyên nhân chính của mọi thảm trạng trên đất nước ngày nay là cơ chế độc tài CS. Do đó, thay đổi mà Việt Nam cần là thay đổi cơ chế CS đang thống trị Việt Nam bằng một chế độ tự do dân chủ làm tiền đề cho công cuộc phục hưng toàn diện Việt Nam.

07.07.2016

Trần Trung Đạo

danlambaovn.blogspot.com