Chính quyền Hà Nội nên cảm ơn và xin lỗi No-U

Chính quyền Hà Nội nên cảm ơn và xin lỗi No-U

Nguyễn Khắc Mai

No-U là một nhóm thanh niên đầy nhiệt huyết và tinh thần dân tộc, yêu nước. Họ trẻ trung, hoạt bát, thông minh và nhạy cảm trước thời cuộc. Tôi cho là hơn hẳn lũ người luôn rêu rao về những cái gì là “đại cục, tiểu cục”. Khi “Tàu” cộng sản trong cơn hưng phát liền giương vây, vỗ cánh bành trướng ở Biển Đông, chiếm đảo, chiếm biển, uy hiếp Việt Nam và các nước nhỏ trong khu vực, vạch ra cái đường chữ U, còn gọi là đường lưỡi bò, hòng liếm gọn vùng biển quốc tế và vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam và các nước khác, thì họ tập họp nhau lại trong một các tên rất nghịch ngợm và “sái”, để bênh vực chủ quyền của Đất Nước, phản đối chủ trương và hành động bất lương, vô đạo, ngang ngược của Trung Quốc. Cái “sái” là theo nghĩa tiếng Việt, no u là no đòn, u trán, bươu đầu vì bị “côn đồ” được cấp phép hành hung, đàn áp. Còn theo nghĩa tiếng Anh là không chấp nhận và đấu tranh để xóa bỏ cái đường chữ U sai lầm và ngang ngược của Trung Quốc; họ là những chàng trai, cô gái rất xứng danh là tuổi trẻ của Thủ đô ngàn năm văn hiến, của Sài Gòn tài hoa và anh dũng.

Họ nhiều lần bị hành hung, bị đàn áp, bắt bớ, thật vô thiên, vô pháp, bất chấp đạo lý, luật lệ. Gần đây khi họ họp nhau đá banh, ra về, Lã Việt Dũng, một kỹ sư trẻ có tài, có tâm, có tầm, một No-U Hà Nội đã bị du côn (không biết có phải du côn không, hay là công an đội lốt) chặn đường hành hung khiến anh bị thương phải vào viện điều trị.

Giờ đây, sau khi Tòa trọng tài quốc tế PCA ra phán quyết bác bỏ “đường chữ U” do Trung Quốc xưng xưng áp đặt, chúng ta càng thấy các em No-U thật thông minh, dũng cảm, các em biết sống vô ngã, quên mình vì nghĩa lớn. Hành động của các em thật rõ chính nghĩa, chính khí của Việt Nam, luôn cảnh giác trước dã tâm của kẻ thù của Dân của Nước. Các em hơn hẳn lũ người không bao giờ nhìn xa hơn cái lỗ mồm của mình, biến thành lũ vong nô, hành xử cứ như là tay sai tiếp tay tiếp sức cho kẻ thù của Dân của Nước, đàn áp vô đạo những người yêu nước, có lương tri.

Chính quyền Hà Nội hãy thể hiện chính nghĩa của dân tộc, thể hiện mình là chính chứ không phải là tà. Một chính quyền biết tôn trọng những người có lương tri, có tinh thần yêu nước, dũng cảm, không nhỏ nhen, ích kỷ, luôn biết đặt cao những giá trị, biết hành xử đúng, tốt và đẹp, chính quyền ấy sẽ được trọng thị trong mắt của người dân, sẽ thể hiện phẩm chất văn hóa của mình.

Phải dừng ngay những hành vi côn đồ và trừng trị những kẻ nào đã ra lệnh và hành động bất lương, bất nghĩa đối với những người dân yêu nước, lương thiện, đối với các em No-U.

Tôi thành tâm mong ước chính quyền Hà Nội biết xin lỗi và biết cảm ơn những công dân tử tế của mình./.

N. K. M.

Chiến thuật trấn áp sự phản kháng trong nước

 Chiến thuật trấn áp sự phản kháng trong nước

Cảnh sát canh gác trước Tòa án Nhân dân TP HCM.

Cảnh sát canh gác trước Tòa án Nhân dân TP HCM.

VOA

Trong bài “Vietnam’s rising repression”, đăng trên tờ New Mandala mới đây, giáo sư Zachary Abuza, một nhà Đông Nam Á học, cho rằng những sự đàn áp của chính quyền Việt Nam đối với những người bất đồng chính kiến càng lúc càng gia tăng và càng lúc càng tinh vi. Ông tóm tắt những sự đàn áp ấy vào năm chiến thuật chính:

Thứ nhất, trấn áp những luật sư thường đứng ra bảo vệ và bào chữa cho những người đối kháng bị chính quyền bắt giữ và đem ra xét xử. Tiêu biểu nhất cho những luật sư này là Lê Công Định, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Đài và Võ An Đôn.

Thứ hai là sử dụng những tội danh khác, phổ biến nhất là tội danh trốn thuế, để đánh lạc hướng dư luận là ở Việt Nam không hề có tù nhân lương tâm.

Thứ ba là sử dụng công an chìm để hành hung những nhà hoạt động dân chủ và những người hay lên tiếng phê phán chế độ, kể cả các nhà báo đang tiến hành các cuộc điều tra việc công an đàn áp dân chúng. Theo tổ chức Theo dõi Nhân quyền, riêng trong năm 2014, đã có tới 14 nhà báo bị hành hung.

Thứ tư là gia tăng kiểm duyệt trên mạng lưới internet. Việt Nam được xem là quốc gia có hệ thống kiểm duyệt truyền thông khắt khe nhất thế giới.

Cuối cùng, thứ năm là tập trung bóp chết những trang blog có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng.

Theo tôi, trong năm chiến thuật được Zachary Abuza nêu lên ở trên, hai chiến thuật sau cùng có thể được gộp làm một: Trấn áp những tiếng nói đối kháng trên mạng lưới internet. Có ba hình thức trấn áp chính: Một là dựng tường lửa, đặc biệt với các trang web đặt trụ sở ở hải ngoại; hai là dùng tin tặc để tấn công các trang web thù nghịch; và ba là bắt bớ những blogger có nhiều ảnh hưởng như trường hợp của Trương Duy Nhất (2 năm tù), Phạm Viết Đào (15 tháng tù), Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh (bị bắt ngày 5 tháng 5 năm 2014, chưa xét xử) và Nguyễn Quang Lập (bị bắt và tạm giam 2 tháng, đã thả).

Ngoài các chiến thuật mà Zachary Abuza nêu trên, tôi nghĩ còn một chiến thuật khác chính quyền Việt Nam gần đây sử dụng nhiều để đàn áp những người bất đồng chính kiến: Trục xuất họ ra khỏi đất nước, chủ yếu là đẩy họ sang Mỹ. Cho đến nay, họ đã trục xuất bốn người: nhà văn Trần Khải Thanh Thuỷ (ngày 23 tháng 2 năm 2011), luật sư Cù Huy Hà Vũ (ngày 7 tháng 4 năm 2014), blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải (ngày 21 tháng 10 năm 2014) và gần đây nhất, blogger Tạ Phong Tần (ngày 19 tháng 9 năm 2015).

Việc đưa các nhà bất đồng chính kiến từ nhà tù đi thẳng sang Mỹ có ba lợi ích cho họ: Một là đáp ứng được các yêu sách từ phương Tây, chủ yếu là từ Mỹ; hai là chứng tỏ họ có tinh thần nhân đạo, và ba là để vô hiệu hoá những nhà bất đồng chính kiến ấy. Hai lợi ích đầu tương đối dễ thấy. Tôi chỉ xin phân tích lợi ích thứ ba.

Trên nguyên tắc, sống ở nước ngoài, đặc biệt tại Mỹ, các nhà bất đồng chính kiến ấy sẽ được tự do hơn. Họ muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, không ai cấm cản được họ cả. Hơn nữa, họ cũng được sự ủng hộ của nhiều người trong cộng đồng, nhờ thế, họ dễ tập hợp thành một lực lượng với những tầm vóc nhất định. Nhưng tự do cũng là một con dao hai lưỡi. Lưỡi kia của tự do là: người ta mất tư cách nạn nhân, những người bị đày ải trong lao tù của bạo chính. Mất tư cách nạn nhân, người ta cũng mất cả tư cách là anh hùng bởi anh hùng chỉ được thể hiện trong điều kiện đối diện với thử thách và đặc biệt, với sự áp bức. Sống ở hải ngoại, tự do phơi phới, không ai có thể anh hùng hơn ai được. Khái niệm anh hùng của những người bất đồng chính kiến trở thành một thuộc tính của quá khứ, một thứ vang bóng một thời. Hơn nữa, sống ở nước ngoài, người ta cũng mất cả tư cách chứng nhân; tiếng nói của họ, do đó, cũng mất sức nặng của người trong cuộc.

Nói cách khác, mất cả ba tư cách nạn nhân, anh hùng và chứng nhân, người ta mất tất cả. Họ trở thành bình thường như bao nhiêu người bình thường khác. Họ lại thua những người bình thường khác ở chỗ: Họ ra ngoại quốc muộn hơn, gặp nhiều khó khăn trong tiến trình hội nhập vào cuộc sống mới hơn, bởi vậy, với một mức độ nào đó, họ cũng mất thế giá hơn. Đó là chưa kể trong môi trường tự do ở hải ngoại, người ta rất dễ bộc lộ những sự nghi ngờ hay đố kỵ nhắm vào những người mới từ Việt Nam sang: Họ là “tay sai” hay “sứ giả” của Việt Cộng sang phá hoại cộng đồng. Trường hợp của Nguyễn Chí Thiện trước đây là một ví dụ. Lúc còn trong nước, ông là một nhà thơ anh hùng; sang Mỹ, ông chỉ còn là một nhà thơ. Không những vậy, ông còn đối diện với những tin đồn thất thiệt, trong đó, có tin đồn ông chỉ là một Nguyễn Chí Thiện… giả.

Trong bài “Chuyện Cù Huy Hà Vũ sang Mỹ” đã đăng trên blog này năm ngoái, tôi có nêu lên kinh nghiệm của nhà văn Dương Thu Hương và nhà văn Alexander Solzhenitsyn. Lúc còn ở trong nước, các tác phẩm văn học cũng như các bài viết về chính trị của Dương Thu Hương được đón nhận nhiệt liệt. Từ năm 2006, bà sang sống hẳn ở Pháp. Sống ở đâu thì Dương Thu Hương cũng vẫn là Dương Thu Dương thôi. Vẫn thông minh, sắc sảo, thẳng thắn và tài hoa. Không có gì thay đổi. Nhưng rõ ràng là sự tiếp nhận của những người chung quanh, từ cộng đồng người Việt đến cộng đồng quốc tế, đã thay đổi: Bà chỉ còn là một nhà văn chứ không phải nhà văn đối kháng nữa. Với bà, người ta hờ hững dần. Và bà cũng im lặng dần.

Mà không phải chỉ có Dương Thu Hương. Lớn hơn Dương Thu Hương rất nhiều, nhà văn Alexander Solzhenitsyn, giải Nobel văn chương năm 1970, bị trục xuất khỏi Nga vào năm 1974; và sau một thời gian ngắn sống ở Tây Đức và Thụy Sĩ, ông được mời sang Mỹ. Ông định cư ở Mỹ cho đến năm 1994, khi chế độ cộng sản đã sụp đổ tại Nga, ông mới về nước. Trong gần 20 năm ở Mỹ, Solzhenitsyn chỉ sống một cách lặng lẽ ở một địa phương khuất lánh heo hút. Trừ sự ồn ã ở vài năm đầu, sau đó, dường như người ta quên mất ông, hơn nữa, có khi còn bực bội vì ông. Một số quan điểm của ông, lúc còn nằm trong nhà tù Xô Viết, được xem là dũng cảm; lúc đã sống ở Mỹ, ngược lại, lại bị xem là cực đoan.

Cả Solzhenitsyn lẫn Dương Thu Hương đều không phải là những người làm chính trị. Họ chỉ là những nhà văn, khi còn trong nước, được xem là đối kháng. Nhưng ngay cả khi là một nhà văn, người ta còn không được nghe, huống gì chỉ là một người hoạt động chính trị? Cơ hội để được nghe chắc chắn sẽ hiếm hoi hơn nhiều.

Bởi vậy, việc trục xuất những người bất đồng chính kiến ra khỏi nước được xem là một cách vô hiệu hoá họ. Chiến thuật này đã từng được Liên Xô sử dụng thường xuyên trong suốt thời chiến tranh lạnh.

Bây giờ đến lượt Việt Nam.

TÂM TƯ CỦA MỘT LINH MỤC TRƯỚC THỜI SỰ CỦA GIÁO HỘI

TÂM TƯ CỦA MỘT LINH MỤC TRƯỚC THỜI SỰ CỦA GIÁO HỘI

Lời người dịch: Đọc trong tập san S.J.M. tôi thấy bài của một linh mục viết về thời sự Giáo hội rất thiết thực và sâu sắc, rất đáng cho các Kitô hữu dù là giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân cùng suy tư. Xin chia sẻ với độc giả.  

Linh mục Antôn Nguyễn Mạnh Đồng Nhà Hưu Dưỡng linh mục Cần Tho

 

  1. Người ta thích dán nhãn hiệu. 

1.1 Cho Chúa Kitô.

Ôi Chúa Kitô, Chúa đẹp nhất trong con cái loài người, con yêu Chúa!

Ôi Chúa Kitô, Chúa là nạn nhân đến nỗi không còn hình tượng là người nữa và mình đầy thương tích, con yêu Chúa, ôi, con càng yêu hơn biết bao!

1.2 Cho Giáo hội.

Ôi Giáo hội trong sạch và vô nhiễm tội, Giáo hội là Hiền thê của Con chiên không tì vết, con yêu Giáo hội.

Ôi Giáo hội bị chia rẽ và bệnh tật, Giáo hội là Hiền thê của Đấng vô tội bị xé xác, con yêu Giáo hội, ôi, con càng yêu hơn biết bao!

1.3 Cho linh mục.

  • Người ta thấy tôi mặc áo dòng vải thô và họ thường hỏi tôi: Cha là người bảo thủ (toàn vẹn) phải không? Hoặc đơn giản họ nghĩ như thế.
  • Người ta biết tôi có viết trong tập san “Lửa và ánh sáng” và họ hỏi tôi: Cha là người nhóm đặc sủng phải không? Hoặc đơn giản họ nghĩ như thế.
  • Người ta biết tôi làm việc trong các khu ổ chuột ở Mỹ Latinh và ở đó họ hỏi tôi: cha là nhà thần học giải phóng phải không? Hoặc đơn giản họ nghĩ như thế. Còn tôi chỉ có một câu đáp: “Tôi cố gắng là người công giáo!” Và đó là tham vọng duy nhất của tôi.
  • Người ta tìm cách dán nhãn hiệu cho tôi, đó là họ giới hạn tôi, nhốt tôi lại, xếp loại tôi. Và dán cho cả nhiều người khác nữa với tôi.
  • Người ta đặt tôi vào một cái hộp, điều này làm đau lòng Chúa, và khi họ đặt tôi vào một cái hộp là họ đặt Thiên Chúa vào một cái hộp và họ xếp cái hộp trong tủ nếu gặp nguy khó, gặp chiến tranh, hoặc phải đói kém.
  • Thiên Chúa của tôi không phải để được bỏ vào các hộp, không phải để được dán cho các nhãn hiệu, không phải để được xây những bức tường, không phải để được xếp loại, không phải để được giới hạn!
  • Thiên Chúa của Phúc Âm mà tôi yêu là Thiên Chúa không nhãn hiệu, không tường, không giới hạn.
  • Thiên Chúa của Phúc Âm mà tôi yêu, là Thiên Chúa của tự do, Thiên Chúa sai truyền tôi luôn đi xa hơn, nâng tôi luôn lên cao hơn, yêu tôi luôn nhiều hơn.
  • Người ta mất biết bao thời giờ để nghi kị, để xét đoán, để loại trừ.

Ôi đúng vậy! đã mất đi bao thời giờ, lạy Chúa!

  1. “Những điều trông thấy …”

2.1 Ngoài kia có bao nhiều kẻ trần truồng….

  • Những bức tường của Giáo hội chúng ta có phải là những bức tường sẽ sụp xuống sau cùng không? (tường Bá Linh đã sụp năm 1989)

“Lạy cha, Con van xin Cha để chúng nên một, như Cha và Con là một …”

  • Cái áo đỏ của Chúa tôi ở đâu? Người ta đã làm cho nó thành cái áo vá chằng vá đụp!
  • Cái áo dệt liền từ trên xuống dưới của Chúa tôi ở đâu? Đó là một cái áo rách bươm, đầy những miếng vá chằng chịt!
  • Với cái tên của tôi, người ta nói với tôi: “Cha sẽ là linh mục của giới không muốn lệ thuộc!” Không đâu! Tôi muốn là linh mục của tất cả những ai muốn lệ thuộc vào Chúa Kitô.
  • Với cấp bằng của tôi, người ta nói với tôi: “Cha sẽ là linh mục của giới trí thức!” Không đâu! Tôi muốn là linh mục của Chúa Giêsu Kitô, muốn hiến thân cho mọi người!

2.2 Ngoài kia mọi người đang đói!

Tất cả anh em hãy cầm lấy mà ăn!

Tất cả anh em hãy cầm lấy mà uống!

  • Lúc bình minh, Tôi là Giêsu thích đến lối vào các công xưởng và nói với các bạn thợ: “Các bạn có biết Cha tôi luôn luôn làm việc không? Có biết Cha tôi đang làm việc với các bạn không?”
  • Buổi sáng, Tôi thích ra chợ và nói với các phụ nữ: “Các chị có biết một thứ lương thực không hư nát, một thứ lương thực ban sự sống và sự sống đời đời không?”
  • Buổi chiều, Tôi thích đến các nhà tù và nói với các tù nhân: “Các bạn có biết rằng các bạn có tự do không? Tình yêu của tôi đã đến đem các bạn ra khỏi tù đấy!”
  • Buổi chiều, Tôi còn thích đến các trường học, ở đó có các cháu gái đi dép hài và mặc áo dễ thương và Tôi nói với chúng: “Ôi, các bé gái mà Thiên Chúa yêu thương, các con có biết hạnh phúc thật là cho đi tất cả và cho đi chính bản thân không?”
  • Đêm đến, Tôi thích đi đó đây trong các điểm khiêu vũ và nói với người đến ngồi bàn với Tôi: “Bạn có biết, có gì còn hay hơn nhạc rock không? Bạn có biết rằng trái tim và thân xác được tạo dựng cho một cuộc khiêu vũ khác không?”

2.3 Ngoài kia có những trái tim đang chết.

A! Tôi yêu Giáo hội có muôn ngàn gương mặt biết chừng nào, Giáo hội là mẹ tôi có muôn mặt! Tôi yêu Giáo hội được xây móng trên Phêrô và nghiêng mình trên Gioan. Tôi yêu Giáo hội chú mắt vào Đức Maria như ánh sao và nhận ra mình rất đúng nơi Tôma.

  • Tôi nghe nói rằng giám mục của tôi theo truyền thống và giám mục giáo phận bên cạnh thuộc loại tiên tiến. Thật là kỳ cục: Tôi tưởng rằng cả hai đều là những đấng kế vị các tông đồ! Mọi điều khác còn lại chỉ có lợi cho chia rẽ.
  • Tôi nghe nói rằng báo chí Kitô giáo kích động những căng thẳng và những chia cắt. Thật là kỳ cục: tôi tin rằng một tờ báo Kitô giáo là để làm cho hiệp nhất, giống như cây thánh giá hợp nhất chiều đứng với chiều ngang.
  • Tôi nghe nói rằng có những chồi còn rất non bị đè bẹp vì nó mọc nghiêng. Thật là kỳ cục: Phải chăng chỉ cần một cọc đỡ thẳng cũng đủ? Nếu không, từ lâu vườn của tôi sẽ là sa mạc. Không còn một cây liễu, không còn một cây cẩm chướng, không còn một cây hoa hồng. Dường như các cây già cảm thấy bị đe dọa bởi các cây mới được trồng. Trong Phúc Âm của tôi, người ta gọi là sự tàn sát các trẻ con vô tội.

“Chúa sẽ không bẻ gẫy cây sậy bị giập, Chúa sẽ không dập tắt tim đèn còn leo lét, mà sẽ xét xử trong tất cả sự trung trực”.

  • Tôi nghe nói rằng các cộng đoàn tu dòng lấy trộm ơn gọi ở các giáo phận. Tôi nghe nói rằng có các giáo phận quay hướng các ơn gọi tu dòng cho lợi ích giáo phận. Tôi nghe nói rằng có những cộng đoàn lấy trộm ơn gọi của nhau và các giáo phận cũng lấy trộm ơn gọi của nhau. Thật là kỳ cục: Tôi tưởng rằng tất cả mọi người đều làm cho cùng một vườn nho!
  • Tôi nghe nói về Giáo hội của người nghèo và Giáo hội của người giàu, Giáo hội của thợ thuyền và Giáo hội của chủ nhân. Thật là kỳ cục: tôi tưởng rằng Giáo hội là cái gì khác với một nghiệp đoàn. Tôi tưởng rằng Giáo hội là nơi duy nhất mà tiền bạc không phải là một tiêu chuẩn để đánh giá, Giáo hội là nơi mà mọi người có thể nhận ra mình là anh em.
  • A! Người ta dán vào mình những nhãn hiệu….

Đó là trò chơi độc ác đối với những ai khám phá rằng cuộc sống không phải là một trò chơi! Tốt hơn là người ta xóa bỏ những cách gọi tên không được kiểm tra. Và ban đêm, người ta xây tường – Ô, đúng vậy, đúng là việc làm của ban đêm! – Đáng lẽ là khắp nơi người ta phải xây các cây cầu.

2.4 Ngoài kia có những người đang chết đuối.

  • Người ta bảo tôi: “Giáo hội phải lo cho người nghèo!” Trúng lắm: tôi khám phá rằng mọi người đều nghèo – mà tôi là người nghèo nhất.
  • Người ta bảo tôi: “Ưu tiên cho những ai khóc!” Trúng lắm: Tôi khám phá ra rằng mọi trái tim đều khóc!
  • Người ta bảo tôi: “Đừng quên những kẻ làm điều xấu!” Trúng lắm: mọi người đều là tội nhân – mà tôi là tội nhân số một.

Chúa chẳng cho mưa xuống trên người lành và trên cả người dữ sao?

  1. Tâm tư của tôi đối với Giáo hội.

3.1 Tôi yêu Giáo hội không có các giai cấp và không có các nhãn hiệu. Nhưng tôi cũng yêu Giáo hội như Giáo hội hiện đang là: có các bức tường và các nhãn hiệu. Phải chăng đó là cách tốt nhất để chữa lành Giáo hội?

3.2 Tôi yêu Giáo hội cởi mở toàn vẹn, không đe dọa, không ngờ vực, không lãnh đạm. Nhưng tôi yêu Giáo hội như Giáo hội hiện đang là: với những mánh lới và loại bỏ những sợ hãi và những chuyện gây hiếu kỳ. Phải chăng đó là cách tốt nhất để làm cho Giáo hội đẹp hơn?

3.3 Tôi yêu Giáo hội biết cảm thương đang đứng dưới chân mọi người bị đóng đinh vào thập giá. Nhưng tôi cũng yêu Giáo hội còn cứng cỏi, Giáo hội loại trừ mà không lắng nghe và không còn biết khóc với kẻ khóc nữa. Phải chăng đó là cách tốt nhất để làm cho Giáo hội mềm mỏng hơn?

Tóm lại, tôi không yêu một người mẹ mà tôi mơ, tôi mơ một người mẹ mà tôi yêu.

From: vongtaysongnguyen

AI SẼ LÀ ÊLIA ?

 AI SẼ LÀ ÊLIA ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT,


Tĩnh tâm hay cấm phòng là những chữ trong nhà đạo chỉ về một sinh hoạt thường xuyên của Hội Thánh dành cho các Kitô hữu nhằm giúp người ta có thời gian nghỉ ngơi, khôi phục, củng cố đời sống tâm linh và định hướng cho cuộc sống. Có khi người ta dùng thời gian tĩnh tâm hay cấm phòng để suy nghĩ về một tình huống quan trọng nào đó hoặc để xin một ơn cần thiết cho chính mình. Tùy hoàn cảnh sống mà người ta chọn lựa thời điểm các cuộc tĩnh tâm và thời gian tĩnh tâm. Đối với các Tu Sĩ, tĩnh tâm trở thành một chương trình sống bắt buộc được ghi vào
khoản lề luật Dòng.

Tôi vừa tham dự tĩnh tâm cùng với một Đan Viện trong khoảng thời gian 10 ngày. Mười ngày tách biệt khỏi cuộc sống thường nhật, ẩn mình trong bầu khí tĩnh lặng, nghiêm trang và thánh thiện của đời sống đan tu đã cho tôi rất nhiều cảm nghiệm và niềm vui làm khỏe mạnh tâm hồn.

Khung cảnh tràn ngập cây xanh, không gian thoáng đãng, tiếng chim hót rộn vang mỗi sáng, những tia nắng trong lành ban mai xuyên qua cành lá, tiếng chuông chiều trầm mặc ngân vang, những bóng dáng của các Đan Sĩ ẩn hiện thấp thoáng thầm lặng, cảm giác đi chân trần trên những phiến gạch sạch sẽ đã giúp tôi tìm lại được sự nhẹ nhàng, bình an và thanh thản.

Mỗi ngày, khi bóng tối còn dày đặc không gian, khi những giọt sương đêm vừa hình thành kết tụ, khi muôn loại còn đang thiếp ngủ say, khi đồng hồ sinh học đang tiến vào khoảng thời điểm nghỉ sâu nhất, thì tiếng chuông đã đột ngột ngân vang giữa đêm vắng, một giọng nam chắc khỏe xướng lên “Nào ta hãy chúc tụng Chúa” cả Đan Viện bừng lên lời đáp “Tạ ơn Chúa”.

Ta có thể nghe thấy tiếng nhảy của đôi chân xuống sàn nhà, ánh đèn từng căn phòng bừng sáng lên, tiếng ho đầu ngày, tiếng nước chảy… Mười lăm phút sau tất cả đã có mặt ở Nhà Nguyện. Nhẹ nhàng từng chiếc bóng trong tu phục với áo khoác ngoài, các Đan Sĩ bắt đầu một ngày mới, một ngày “cầu nguyện và lao động” (Ora et Labora – châm ngôn của đời đan tu).

Tiếng chiêng thủng thỉnh ngân lên, kéo dài và vang dội, dứt tiếng chiêng, giờ kinh ban mai khởi sự. Một ngày họ dành hơn 6 tiếng cho việc cử hành Phụng Vụ thờ phượng Thiên Chúa, tất cả các giờ kinh Phụng Vụ: Kinh Ban Mai (Kinh Sáng),  Kinh Trưa Giờ Ba, Giờ Sáu và Giờ Chín, Kinh Chiều, Kinh Tối và Kinh Đêm (Kinh Sách), Thánh Lễ.

Ngoài các giờ Phụng Vụ thờ phượng, các Đan Sĩ còn có giờ suy ngẫm, giờ lần chuỗi Mai Khôi, giờ đọc sách thiêng liêng và chầu Thánh Thể. Có thể nói toàn thời gian họ dành cho việc cầu nguyện và thờ phượng Chúa. Một ngày họ lao động để mưu sinh ít giờ, ngay cả trong lao động họ cũng phải giữ luật thinh lặng những khi cần thiết.

Có một câu chuyện vui không biết có thật hay không. Một Đan Sĩ nọ lo thư viện, ông ta lấy cuốn sách bị ẩm ướt ra và đưa cho vị Đan Sĩ làm bếp, ông ra dấu bảo người bạn tu hơ cuốn sách trên lửa cho khô sách, nhưng vì giữ luật không nói nên vị kia tưởng bạn mình nhờ đốt sách, ông ta quăng cả cuốn sách vào bếp cháy tiêu!

Mỗi tuần khi thay đổi phiên làm việc, các Đan Sĩ lo làm bếp, giúp bàn ăn, lo đọc sách vào giờ cơm, họ lần lượt ra trước cộng đoàn trong Nhà Nguyện, mọi người cầu nguyện cho những vị này chu toàn trách nhiệm phục vụ của mình trong lòng yêu mến, những vị ra khỏi phiên làm việc cũng ra trước cộng đoàn xin lỗi vì những sai lầm hoặc thiếu sót trong việc bổn phận. Sứ mạng của họ là cầu nguyện cho mọi người, cho Hội Thánh, cho toàn thế giới. Bảng ghi lời xin cầu nguyện dày đặc các tờ giấy của khách thập phương đến xin ơn…

Mấy ngày nay, không gian sống ở Đan Viện Thiên An Huế dậy sóng, từ lâu rồi, nhà cầm quyền lấy nhiều mảnh đất của Đan Viện này làm khu vui chơi khai thác kinh doanh, làm thu hẹp không gian sống của Đan viện, làm mất việc lao động mưu sinh của các Đan Sĩ, phá vỡ bầu khí trầm lắng cô tịch của Đan Viện. Gần đây họ tiếp tục lấy nốt các phần đất còn lại của hơn 100Ha rừng thông sở hữu của Đan Viện từ khi thành lập.

Một đoạn video lan truyền trên mạng hình ảnh các Đan Sĩ quỳ cầu nguyện khi nhà cầm quyền hạ cây Thánh Giá biểu tượng của Kitô giáo trên đỉnh một đồi thông, trong video này có cảnh một nhân viên nhảy lên cánh phải Thánh Giá khi đã bị hạ xuống, ông ta đập vỡ cánh tay bên phải của Chúa Giêsu.

httpv://www.youtube.com/watch?v=0QtpQGj461I

Không chỉ Thiên An Huế, nói riêng về Đan Viện, nhiều Đan Viện đã bị lấy một cách thô bạo như vậy, Nhà Kín Hà Nội, Nhà Kín Thanh Hóa, Nhà Kín Bùi Chu… Sau năm 75 ở miền Nam, Đan Viện đầu tiên bị xóa sổ là Đan Viện Phước Sơn Thủ Đức, Đan Viện này ngày nay trở thành trường Cảnh Sát Nhân Dân, tên hành chánh đổi là quận 9. Hai chữ Phước Sơn còn nguyên nên có những anh cảnh sát khoe mình học ở trường Phước Sơn ra. Học ở Phước Sơn là học cầu nguyện, học yêu thương chứ không phải học để đi… cướp đất người khác !

Đúng khi ngồi viết những hàng chữ này, Kinh Sách của Hội Thánh đang suy niệm về cuộc đời và sự nghiệp của Ngôn Sứ Elia (1V 17, 1 tt. Tuần thứ 15 Thường Niên), hôm nay Thứ Tư là câu chuyện vua Akháp cướp vườn nho của Navot, vườn nho của gia tộc nhọc công khai phá, gia đình Navot chăm sóc giữ gìn. Vua Akháp đã cướp bằng cách xui người vu khống tội cho Navot, lập tòa án xử tử hình, ném đá Navot, rồi cướp vườn nho làm vườn rau !

Có lời Đức Chúa phán với ông Êlia, người Títbe, rằng: “Ngươi hãy đứng dậy, xuống gặp Akháp, vua Ítraen, ở Samari. Này, nó đang ở trong vườn nho của Navốt, vì nó đã xuống chiếm đoạt vườn nho ấy. Ngươi hãy nói với nó rằng: “Đức Chúa phán thế này: Ngươi đã giết hại, lại còn chiếm đoạt nữa ư ? ngươi hãy nói với nó, Đức Chúa phán thế này: Tại chính nơi chó đã liếm máu Navốt, thì chó cũng sẽ liếm máu ngươi” (1V 21, 17 – 19).

Ai sẽ là Elia những ngày tháng này của chúng ta ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

thứ tư 13.7.2016

Tiếng thét của môi trường trước tội lỗi và cái giá phải trả

Tiếng thét của môi trường trước tội lỗi và cái giá phải trả

 

Trong nhãn giới đức tin, người Công giáo coi trái đất là món quà quý giá của Thiên Chúa. Trái đất và môi trường thiên nhiên như là cái nôi bảo vệ sự sống, là phương tiện sinh sống và dự án mà Thiên Chúa ký thác cho con người điều khiển và có trách nhiệm sao cho:

 

Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa.

Không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19,1).

Với trí khôn và sự khéo léo Thiên Chúa ban, con người ra sức khám phá tiềm năng phong phú của trái đất, vừa biến nó trở thành những phương thế phục vụ cho đời sống của con người, vừa bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên sao cho hài hòa với sự vận hành của thiên nhiên. Với ý nghĩa đó, con người thật sự vừa là chủ, theo nghĩa là đại diện chính thức, nắm toàn quyền trên công trình sáng tạo, có quyền sở hữu trên các thành quả lao động và trí tuệ, vừa là quản lý trung tín và khôn ngoan đối với môi trường thiên nhiên mà Thiên Chúa đã trao vào tay con người. Vì thế, con người phải chứng tỏ có đủ khả năng, bản lãnh xứng với kỳ vọng của Thiên Chúa để thi hành trách nhiệm Thiên Chúa giao phó.

ô nhiễm

Hơn bao giờ hết, ngày nay con người đã thấm thía với những cách hành xử thô bạo, tham lam và ngu dốt đối với thiên nhiên, cái nôi và môi sinh duy nhất để con người sống và tồn tại. Con người không thể sống và tồn tại nếu không tôn trọng và quý mến môi trường thiên nhiên, được hiểu là tất cả các sinh vật sống trong đó, thực vật cũng như động vật, đất, nước, sông ngòi và đại dương, cũng như những trật tự vận hành nên thời tiết khí hậu của các vùng, miền khác nhau trên trái đất. Mọi kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của con người đều phải gắn liền với mối quan tâm bền vững, tránh làm tổn hại đến môi trường thiên nhiên và các sinh vật sống trong đó.

Thông điệp Laudato Si (Chăm sóc ngôi nhà chung) của Đức Phanxi cô như muốn triển khai rõ ràng, cụ thể hơn những gì Giáo Huấn Xã Hội của Giáo hội Công giáo, chương 7, bàn về Bảo vệ môi trường, ở trên bình diện quốc tế. Ngài khẩn thiết kêu gọi sự chú ý của mọi người, ra khỏi sự vô cảm, tận tâm và tận lực chung sức với nhau chữa lành những tổn thương của trái đất, nhất là gieo ý thức tôn trọng và bảo vệ môi trường thiên nhiên như vấn đề sinh tử. Ngài nói: “Chúng ta cần đến sự liên đới toàn cầu cách mới mẻ… cần đến các tài năng và đấn thân của tất cả mọi người, để làm tốt những gì con người đang lạm dụng, gây tổn thất cho sáng tạo của Thiên Chúa” (LS, số 14)

Chủ nhân ông ngu dốt, tham lam và vô trách nhiệm.

Xã hội Việt Nam hôm nay, dưới góc độ xem xét thái độ của con người đối với môi trường thiên nhiên cho thấy cơn khủng hoảng ghê rợn đang càn quét những giá trị có nguyên nhân chính yếu từ việc con người phủ nhận vai trò của Thiên Chúa là chúa tể, là đấng xét xử muôn loài và không còn yêu quý món quà thiên nhiên Thiên Chúa ban tặng.

Loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, bóp nghẹt tiếng nói của lương tâm, chỉ biết chạy theo tham vọng bất chính, bất nhân, con người phá vỡ trật tự hòa điệu do Thiên Chúa thiết lập trong vũ trụ; không tuân thủ luật lệ Thiên Chúa, lấy đó làm nguyên lý, làm chuẩn mực tuyệt đối trong mọi hành vi đối xử với tha nhân và với môi sinh; bị cuốn hút vào men say chiếm hữu và tham lam một cách ngu dốt và vô trách nhiệm, con người càng đày đọa nhau vào mọi thứ thảm họa khủng khiếp chẳng thể thoát ra.

Có thể coi đó là những thứ hình phạt giáng trên con người do sự chống cưỡng những luật hài hòa trong thiên nhiên mà Thiên Chúa đã thiết định. Hình phạt của tội lỗi giáng trên chính những kẻ phạm tội và làm liên lụy đến những người khác, đến cái nôi của sự sống. Việc khai thác có tính tận diệt các tài nguyên thiên nhiên như rừng, đất đai, thủy hải sản…đã gây ra hiệu ứng nhà kính, sa mạc hóa, bão tố, lũ lụt,… phải chăng là đòn “gậy ông đập lưng ông” của vạn vật chống lại tội lỗi con người, hối thì đã muộn?

Đã có nhiều sự phân tích và đánh giá sơ khởi về tác động môi trường, về đời sống và điều kiện kinh tế của người dân sống quanh vùng, những tác động lợi và hại, trực tiếp và gián tiếp, trước mặt và lâu dài trong thời gian qua Fomosa, khi nhà máy luyện gang thép Formosa cố ý xả thải những chất độc hại ra môi trường thiên nhiên, gây những tổn thất không thể bù đắp lại cho con người và môi trường, đặc biệt hệ sinh thái ở biển.

Theo “Thời báo Kinh tế Saigon”, với công suất ở giai đoạn 1 là 15 triệu tấn thép/ năm, Formosa sẽ thải ra môi trường: khí thải gần 36 triệu tấn/năm, nước thải các chất ô nhiễm trên 28.000 tấn/năm, chất thải rắn gần 9 triệu tấn/năm chưa qua xử lý.

Nếu tính tổng lượng phenol và xyanua trong nước thải của Formosa trước khi xử lý khoảng 120 tấn/năm hay 0,36 tấn/ngày. Như vậy, trong năm ngày nhà máy mất điện, không xử lý được nước thải, tổng lượng phenol và xyanua đã thải ra biển Vũng Áng mà Bộ TN-MT công bố là nguyên nhân chính gây ra thảm họa cá chết hàng loạt từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên – Huế trong tháng 4-2016 vừa qua, là 1,82 tấn (giả định chạy theo công suất của giai đoạn 1). “Chỉ” 1,82 tấn phenol và xyanua trong năm ngày mà phá hủy gần như toàn bộ rạn san hô trên 200 cây số bờ biển miển Trung mà có khi cần đến cả trăm năm để phục hồi, hàng triệu ngư dân miền Trung và gia đình của họ bị đẩy vào thảm cảnh bế tắc và không thể nói trước được tương lai của họ thế nào.

Nếu tính theo giấy phép xả thải mà Formosa đã được cấp với lưu lượng 45.000 mét khối/ngày, chỉ riêng với nồng độ phenol hay xyanua cho phép là 0,585 mg/l, thì tổng lượng phenol và xyanua sẽ thải ra biển Vũng Áng trong điều kiện Formosa vận hành ổn định và xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn cho phép sẽ là 17,37 tấn/năm, tức là lớn gấp 9,5 lần so với lượng thải của năm ngày gây ra thảm họa. Thử hỏi có sinh vật nào còn tồn tại và biển sẽ ra sao trong vòng 70 năm nhà máy Formosa được cấp phép hoạt động?.

Sau nước thải là khí thải. Chỉ riêng khí CO2 thải ra của Formosa đã đạt đến 34,5 triệu tấn/năm, so với tổng lượng phát thải khí nhà kính năm 2020 của tất cả các ngành sản xuất và xây dựng là 68,3 triệu tấn/năm, chiếm đến trên 50,5% tổng lượng phát thải khí nhà kính trong toàn bộ các ngành sản xuất và xây dựng tại Việt Nam! (không kể ngành công nghiệp sản xuất năng lượng), theo báo cáo dự báo phát thải khí nhà kính của Bộ TN-MT năm 2014.

Và sau đó là những thảm họa do thiên tai như hạn hán, lũ lụt xảy ra khắp cả nước trong thời gian qua với cường độ tác hại ngày càng lớn góp phần làm nghiêm trọng thêm tác động do biến đổi khí hậu đến mức nào?

Còn những chất ô nhiễm độc hại khác như, bụi và khí kim loại gần 1 triệu tấn/năm có nguy cơ rất cao gây ra các bệnh về đường hô hấp, trong đó có ung thư phổi. Khí SO2 và NOx là những khí gây ra mưa axit, làm suy giảm chất lượng đất, chất lượng nước, giảm năng suất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, cũng đạt đến lượng phát thải theo thứ tự là 33.000 tấn/năm và 34.500 tấn/năm.

Có hai điều đáng nói về QCVN 51:2013/BTNMT, đó là quy định chỉ tiêu dioxin/furan chỉ được áp dụng từ ngày 1-1-2017, và nồng độ bụi cho phép cao gấp 2-5 lần so với hướng dẫn của IFC (100 mg/Nm3 so với 20-50 mg/Nm3, trong đó IFC đề nghị áp dụng 20 mg/Nm3 khi trong bụi phát hiện có các kim loại độc hại). Dioxin, thành phần chính của chất độc màu da cam mà không lạ gì với người dân Việt Nam, là tác nhân gây chết người, ung thư và để lại nhiều di chứng về sức khỏe cho nhiều thế hệ; Dioxin/Furan là những hợp chất có độc tính cao nhất được biết trong khoa học cho đến nay.

formosa

Ngay cả bụi phát sinh từ các ống khói nhà máy liên hợp sản xuất thép có tính chất là bụi lơ lửng (SPM), trong đó hàm chứa rất nhiều các kim loại nặng độc hại khác nhau như asen, thủy ngân, cadmi, chì, niken, crôm, kẽm, mangan… Vậy thì, dioxin/furan độc hại như thế, sao chỉ yêu cầu áp dụng từ ngày 1-1-2017? Bụi lơ lửng phức tạp với nhiều kim loại nặng độc hại như thế, dựa vào đâu để cho phép thải với nồng độ quá cao so với tiêu chuẩn quốc tế?

Ngoài ra, hiện nay giấy phép xả thải chỉ mới được áp dụng cho nước thải và chất thải công nghiệp, chất thải nguy hại, còn giấy phép xả thải cho khí thải chỉ được áp dụng sau ngày 1-1-2018, theo quy định trong Nghị định số 38/2015/NĐ-CP. Với nguy cơ ô nhiễm do khí thải của Formosa Hà Tĩnh như hiện nay, rõ ràng không có lý do gì phải trì hoãn việc áp dụng giấy phép xả thải cho khí thải đến sau ngày 1-1-2018. Việc áp dụng giấy phép xả thải cho khí thải càng sớm càng tốt sẽ góp phần ngăn ngừa thảm họa môi trường do ô nhiễm không khí từ Formosa Hà Tĩnh có thể gây ra cho đồng bào miền Trung…

Chỉ có Bộ TN-MT với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp và cao nhất trong Chính phủ về các lĩnh vực môi trường, tài nguyên nước, biến đổi khí hậu… mới có thể trả lời những câu hỏi đó.

Tới hôm nay, dư luận lại “dậy sóng” một lần nữa vì có sự “cấu kết” giữa ông Lê Quang Hòa, Giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn xây dựng Quản lý môi trường đô thị Kỳ Anh và nhà máy Formosa với việc chôn lấp khỏang 100 tấn chất thải trong trang trại của ông ở phường Kỳ Trinh, thị xã Kỳ Anh, nơi rất gần nguồn nước cấp cho người dân ở đây. Chưa biết kết quả thế nào, có đúng với số liệu phân tích, thông số đo lường hay vẫn “đúng quy trình”,” ở trong ngưỡng cho phép”, có thể trồng cỏ, nuôi bò, thả dê làm nguồn thực phẩm, như việc các quan chức Đà Nẵng tắm biển, ăn hải sản khi chưa có kết quả nguyên nhân vụ cá chết, để khuyến khích người dân trước đây?

Vẫn biết điều đáng sợ nhất là con người phải ra trước tòa Thiên Chúa để trả lẽ về những gì nó đã làm. Thiên Chúa Là Đấng thi hành công lý. Người xét xử, phân định tội phúc công minh, nhưng Người còn là Cha giàu lượng thương xót, Người luôn biểu lộ tình thương ngay cả khi sửa trị lỗi lầm của con người. Điểm độc đáo của công lý của Thiên Chúa là chú trọng mục đích giáo dục để cải hóa, cứu chữa và phục hồi phẩm giá của tội nhân, chứ không nhắm vào mục tiêu trừng phạt và báo thù như công lý con người. Công cuộc hòa giải tội nhân với Thiên Chúa do Chúa Kitô thực hiện (LS, số 100) là sự phối hợp diệu kỳ giữa hai điều tưởng chừng mâu thuẫn, vì yêu thương mà không có công lý chỉ là thứ tình yêu mù quáng và công lý nếu thực thi với quả tim vô cảm là thứ công lý của hận thù

Vì vậy, việc cổ vũ và giáo dục ý thức cộng đồng chung sức bảo vệ môi trường vừa là trách nhiệm pháp lý theo nguyên tắc công ích xã hội, vừa là một sự thức tỉnh lương tâm cộng đồng đứng trước nguy cơ hủy diệt, nhưng trước hết chính là để bảo vệ phẩm giá của mình trong tư cách là chủ tể trái đất.

Việc học hỏi Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội Công giáo và Thông điệp Laudato Si của Đức Phanxi cô nhắm mục đích ấy cũng như tin tưởng khả năng con người có thể sửa chữa những lỗi lầm trong quá khứ, tài bồi thêm vẻ đẹp sự sống của trái đất và gìn giữ cho thế hệ tương lai một hành tinh xanh, một ngôi nhà chung là môi trường thiên nhiên.

13/7/2016

Jos. Ngô Văn Kha, C.Ss.R.

PHẢI CHĂNG LÒNG THƯƠNG XÓT TRONG TÔI ĐÃ CHẾT?

PHẢI CHĂNG LÒNG THƯƠNG XÓT TRONG TÔI ĐÃ CHẾT?

EYMARD An Mai Đỗ, O.Cist.    

LONG TH XOT

 

 

 

 

 

 

 

Triết gia J.P. Sartre đã khẳng định: “Tha nhân là hỏa ngục.” Dường như lời phát biểu này được thốt ra trên môi miệng của một người đang trong cơn bấn loạn và mất bình an.  Ông đã phóng chiếu cái nhìn nội tâm lên ánh mắt của tha nhân để rồi ông chỉ nhận ra tha nhân coi mình như một sự vật chẳng hơn chẳng kém.  Có thể nói, tư tưởng này phần nào đã dẫn lối cho những chủ trương sống phóng túng và bất cần sự hiện hữu của tha nhân.  Và như thế, tha nhân đang phải đối diện trong tình trạng dở sống dở chết chẳng làm tôi mủi lòng.  Phải chăng lòng thương xót trong tôi đã chết?

Chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao duy vật hưởng thụ, “chân lý bằng với chân giò”, “nhân phẩm chỉ ngang giá thực phẩm” thì đâu là bậc thang giá trị để định hướng con người thăng tiến?  Gặp một người bị nạn giữa đường, tôi dừng lại và cúi xuống ra tay thi thố lòng thương xót, nào ngờ lại bị chính nạn nhân trở mặt cướp của giữa ban ngày, hay đứng trước một cuộc ẩu đả, người này vô tay, người khác lấy máy quay phim chụp hình, mặc cho nạn nhân bị đe dọa đến tính mạng…  Đứng trước những tình cảnh bi đát đại loại như thế, Đức Phanxicô phải kêu gào nhân loại: Hãy tránh tình trạng toàn cầu hóa sự dửng dưng.  Phải chăng lòng thương xót trong tôi đã chết?

Tôi đã rảo quanh trên khắp nẻo đường dương thế để tìm những tâm hồn có lòng thương xót.  Tôi đã thấy một gã xe ôm gầy nhom đang chở một ả mua hương bán phấn trên đường X.  Bỗng thình lình gặp một chàng thiếu niên bị tai nạn dọc đường, họ quyết định cứu giúp nạn nhân.  Họ cho lên xe chở vào bệnh viện gần đó để cấp cứu.  Vì máu ra quá nhiều, người phụ nữ này đã cởi áo mình ra để băng bó vết thương nạn nhân.  Nàng đã cứu người bất chấp thân thể lõa lồ của mình.  Đến bệnh viện, y tá nghi ngờ đây là một ca “có vấn đề”, cô chần chừ và e ngại.  Một lát sau, cô đòi tiền tạm ứng để nhập viện, cả ông xe ôm và cô điếm móc tiền trong túi ra nhưng không đủ, buộc ông này phải đi cầm chiếc xe cũ kỹ tại một tiệm cầm đồ.  Ông đã cứu người bất chấp sự an toàn là chiếc xe làm phương tiện nuôi sống bản thân và gia đình.  Cả hai đang chờ tin tức mới thì được báo tin: Nạn nhân cần tiếp máu trực tiếp vì máu ra quá nhiều.  Một lần nữa cả hai lại xung phong xét nghiệm máu để có thể cứu sống nạn nhân.  Họ bất chấp mọi nguy hiểm bản thân để cứu sống người khác…  Tôi đã tìm thấy lòng cảm thương giữa một xã hội đua chen đi tìm thú vui hưởng thụ.  Phải chăng chỉ có những con người bị xã hội coi thường vì làm những việc tay chân thấp kém, hay bị xã hội sỉ nhục vì bán thân nuôi mình, những con người bị tổn thương ấy lại có một tấm lòng quảng đại?  Họ là niềm hy vọng cho những người thiện chí vì họ đã bất chấp thân thể, bất chấp sự nguy hiểm bản thân để thực thi lòng thương xót.

Thật vậy, lòng thương xót là hoa trái của tình yêu mà Thiên Chúa đặt để trong lòng con người, không thể chết.  Nó như một lớp than hồng đang tạm thời bị bao phủ bởi một lớp tro nào đó; lớp tro của nền văn hóa hưởng thụ, văn hóa sự chết hay một ý thức hệ nào đó…

Lòng thương xót là mầm thiện mà Thiên Chúa đã gieo vào lòng người; nó chỉ chết khi nào con người không còn tồn tại trên thế gian này.  Tất cả chúng ta đều được mời gọi làm cho mầm sống ấy đơm hoa kết trái trong cuộc đời để nỗi đau được vơi đi và niềm vui tăng trưởng mãi.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói: Sống trong đời sống cần có một tấm lòng để làm gì em biết không? – để gió cuốn đi…  Chúng ta cần để gió cuốn đi những lớp tro vị kỷ và để cho lòng thương xót như lớp than hồng sưởi ấm tấm lòng con người.  Nhờ đó, sự lạnh lùng băng giá, sự thờ ơ lãnh đạm, toàn cầu hóa sự dửng dưng… không còn cản bước tiến của chúng ta trên đường hành thiện, thực thi lòng thương xót.

Nếu đã xác quyết: tư tưởng dẫn đến hành động, chúng ta sẽ không để cho tư tưởng: tha nhân là hỏa ngục tồn tại trong tâm trí mình.  Mặc dù, có đôi khi nó là tiếng nói nội tâm của ta trong một quãng đời đen tối nào đó; nó cũng không được quyền làm ta ngã quỵ mà thỏa hiệp với những chủ trương thế tục.  Con người sẽ sống ra sao nếu không còn lòng thương xót?  Tha nhân không là hỏa ngục nhưng một thế giới vắng bóng lòng thương xót là hỏa ngục trần gian.  Đúng thế, Tha nhân là nạn nhân đang chờ ta thi thố lòng xót thương.

Cục than hồng của lòng thương xót có thể sưởi ấm một con tim giá lạnh và thắp sáng một cõi lòng u mê. Nhưng nó cũng có thể làm tổn thương cho ai đụng chạm vào nó.  Lòng thương xót khả dĩ chữa lành nhiều vết thương, đồng thời, có nguy cơ làm tổn thương hơn những tâm hồn tế nhị.

Lòng thương xót là quà tặng mà Thiên Chúa đã trao cho mỗi người, đòi buộc ta phải trao ban.  Tuy nhiên, trao ban cách nào là cả một nghệ thuật nếu không, chúng ta dễ ảo tưởng mình là một kẻ trên cao có quyền ban phát: đó là lòng thương hại.  Có thể nói, thi thố lòng thương xót là một nghệ thuật phát xuất từ con tim, nghĩa là nó không những đòi hỏi một thái độ thấu cảm mà còn phải hiểu lý lẽ của con tim mình mà đến với tha nhân; một người đã từng bị tổn thương dễ dàng tìm cách để băng bó những tấm lòng tan nát.  Người ấy đáng được Chúa chúc phúc: Phúc thay ai xót thương người vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

EYMARD An Mai Đỗ, O.Cist.    

Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động và hoạt động là kết quả của cầu nguyện.

Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động và hoạt động là kết quả của cầu nguyện.

Ozanan

Frédéric Ozanan, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng cuả giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là sinh viên đại học. Một hôm để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện một cách sốt sắng ở dãy ghế  đầu. Đến gần chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là  nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học.  Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông. Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẽ rụt rè, nhà bác học lên tiếng hỏi: “Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không? Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ: “ Thưa giáo sư con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép giáo sư cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin.!” Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn: “ Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi, nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm.” Chàng sinh viên liền hỏi: “ Thưa giáo sư, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không? Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời: “ Cậu ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi.”

Ampere

 

 

 

Nhà bác học Ampère

Trích Lịch Phụng Vụ Bính Thân 2016 của Đền Thánh Khiết Tâm Mẹ (trang 238-239)

NHỮNG MẪU GƯƠNG SÁNG NGỜI

NHỮNG MẪU GƯƠNG SÁNG NGỜI

Ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay cho thấy những tấm gương sống Lời Chúa trong những hoàn cảnh khác nhau: Abraham, Maria và Phaolô.

Chọn điều tốt nhất

Đức Giêsu trên đường rao giảng, ghé vào một gia đình rất quý mến Ngài.  Đó là gia đình của Martha, Maria và Lazarô.  Cô Martha lo làm đồ ăn đãi khách.  Có lẽ có cả các tông đồ cùng ở với Đức Giêsu, vì thế Martha một mình làm bếp cho mười sáu người ăn.  Với gia đình này, Đức Giêsu và các tông đồ là những vị khách quý, nên có thể đây là bữa tiệc.  Biết bao việc phải làm, thế mà Maria vẫn ngồi bên chân Đức Giêsu và nghe Ngài giảng dạy.  Chắc Martha đã ra hiệu hoặc nói với Maria giúp mình, nhưng Maria vẫn giữ lập trường: Ngồi tiếp chuyện Đức Giêsu, ngồi nghe Ngài giảng dạy.  Không thể chịu nổi nữa, Martha đã xin Đức Giêsu can thiệp: “Em con để một mình con với bao nhiêu việc, xin thầy bảo nó giúp con một tay.”

MARTHA

Theo nhiều người, Martha hoàn toàn có lý.  Cả Maria lẫn Đức Giêsu đều không được tế nhị lắm. Có lẽ Martha không chỉ trách Maria, mà trách cả Đức Giêsu như thể Đức Giêsu vô tình không để ý đến vất vả của Martha.

“Martha, chị lo lắng về nhiều chuyện quá.  Chỉ cần một điều thôi.  Maria đã chọn phần tốt nhất và không ai cướp đi được.”  Trên đời có nhiều điều có thể làm, phải chọn điều nào quan trọng và cần thiết để làm.  Trong trường hợp này, không cần phải làm nhiều món để đãi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài.  Không cần phải vất vả như vậy.  Tại sao lại phải làm nhiều món, và điều đó lại là không quan trọng (đối với Đức Giêsu), để rồi phải càm ràm oán trách người khác.  Maria đã chọn nghe Lời Chúa, và cũng sẵn sàng chấp nhận bị chị càm ràm, và cả người đời càm ràm chê trách, như thể là người lười, như thể là người không tế nhị và không biết giúp đỡ chị nữa.

Không có một bản lĩnh và một chọn lựa dứt khoát, không thể hành xử như Maria được.  Trong cuộc sống, tôi đã chọn điều gì là quan trọng?

Niềm nở ân cần tiếp đón tha nhân

“Đang ngồi hóng mát, nhìn lên Abraham thấy “ba vị” đang đứng gần.  Abraham chạy lại, cúi mình chào các vị, mời các vị khách rửa chân cho thoải mái trong một môi trường nóng bức, và dùng bữa.”  Với Abraham, đây không phải là những người quen thường gặp, thế nhưng Abraham đã tiếp đón rất ân cần tử tế.  Thái độ hiếu khách của Abraham đã làm tương quan giữa Abraham và khách trở nên rất tốt, đến độ các vị khách đã “tỏ mình” cho Abraham.

Thái độ hiếu khách của Abraham đặt vấn đề cho con người ngày nay.  Thái độ sống của tôi đối với những người tôi gặp gỡ như thế nào?  Abraham đã đón tiếp tha nhân, và cuộc đón tiếp này đã trở thành cuộc đón tiếp Thiên Chúa.  Đức Giêsu cũng đã đồng hóa mình với những người nghèo, đến độ ai đón tiếp người nghèo là đón tiếp Chúa, ai cho người nghèo ăn là cho Chúa ăn, ai đi thăm và giúp đỡ người nghèo là đi thăm và đón tiếp Chúa (Mt.25, 31tt).  Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa.

Rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô

Cả cuộc sống của Phaolô sau khi trở lại, là rao giảng, phục vụ Tin Mừng.  Ngài được gọi để được sai đi rao giảng, và Ngài đã thực hiện sứ mạng của Ngài trong mọi hoàn cảnh, bất chấp những khó khăn và nguy hiểm.  Ngài rao giảng cả khi ở trong tù, cho cả người Do Thái lẫn người ngoại, cho người đời bình thường cũng như cho những người có địa vị và thế lực.  Ngài vui ngay cả trong những khổ đau, và Ngài muốn “hoàn tất” những gì còn thiếu trong thân thể Giáo Hội.  Với Phaolô, Ngài “học no học đói,” Ngài làm tất cả để Chúa được tôn vinh hơn.

Với Phaolô, Đức Giêsu là Tin Mừng.  Đức Giêsu là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, nay được mặc khải cho con người.  Đức Giêsu Kitô là tất cả đối với Phaolô, Ngài sẵn sàng bỏ tất cả để được Đức Giêsu Kitô.

Phaolô trở thành con người tuyệt vời, nhờ thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng.  Ước gì mỗi người không mắc cỡ nhưng can đảm tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Tin Mừng.  Chính nhờ Đức Giêsu Kitô mà mỗi người Kitô hữu trở thành người tuyệt vời.

LM Phạm Thanh Liêm

Anh chị Thụ & Mai gởi

Biển Đông & Những Ông Quan Sứ

Biển Đông & Những Ông Quan Sứ

 tuongnangtien's picture

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

tuongnangtien

RFA

Mãi gần đây, tôi mới biết rằng mình với André Menras có chút tình “đồng khói.” Té ra, ổng nhận Việt Nam làm quê hương (thứ hai) cho dù đất nước này không … được dễ thương gì lắm.

Hồ Cương Quyết được công luận biết đến như là người đặc biệt quan tâm đến vấn đề Biển Đông, qua bộ phim Hoàng Sa Việt Nam Nỗi Đau Mất Mát. Tác phẩm này, tiếc thay, bị “tẩy chay có tổ chức” theo như lời than phiền của chính tác giả:

… bộ phim này đã chịu cảnh tẩy chay có tổ chức, sự tẩy chay vẫn đang tiếp tục tiến hành bởi những đại diện của nước Việt Nam ở  nước ngoài và những dây truyền lực của họ là những “Hội người Việt.”

André Menras Hồ Cương Quyết còn cho biết thêm một sự việc rất đáng phàn nàn khác nữa, liên quan đến bộ phim của mình, khi ông đến làm việc với Đại Sứ Quán Việt Nam Tại Nước Cộng Hoà Séc:

“Chính tôi đã thấy tòa đại sứ trống trơn không có người Việt Nam nào khi tôi đến đó xưng danh hẳn hoi và mời ông đại sứ hoặc một ai đó đại diện đi thay ông. Rõ ràng là đã có sự chờ đợi chuyến thăm tòa đại sứ của tôi, là việc tôi đã cẩn thận báo tin trong các cuộc thảo luận trước đó…

Một cô gái Séc đón tôi từ cửa vào. Cô nàng hoàn toàn bối rối lúng túng khi có nhiệm vụ truyền đạt lại cho tôi cái thông điệp siêu thực rằng: ‘đại sứ không có ở đây, và trong tòa đại sứ không có viên chức người Việt Nam nào cả’…

Vị đại sứ đã cư xử một cách lô gich đúng như hình ảnh cái Quyền lực đã bắt các thành viên của nó phải theo: vắng mặt, hoàn toàn vắng mặt ở nước ngoài trên địa hạt truyền thông, nhằm khẳng định chủ quyền đất nước mình.  Họ chỉ ở đó để quốc tế hóa … sự im tiếng.”

Những ông quan sứ Trung Hoa lại khác. Họ làm việc đàng hoàng và cần mẫn hơn nhiều – theo như tường trình củaRebecca Bailey (BBC News) vào hôm 10 tháng 7 năm 2016:

“Trong bối cảnh Tòa Trọng tài Thường trực sắp ra phán quyết về việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trong khu vực tranh chấp tại Biển Đông, các đại sứ Trung Quốc đã viết hàng loạt bài trên các báo nước ngoài suốt vài tháng qua.

Phán quyết của vụ Philippines kiện được nhiều người trông đợi sẽ không có lợi cho Trung Quốc, nhưng cũng không ngăn được các đại sứ nước này cố gắng thuyết phục thế giới là Trung Quốc đã đúng…

Vậy vấn đề ở đây là gì? Cuối cùng thì, công việc của một đại sứ vẫn là tuyên truyền về lợi ích quốc gia khi ở nước ngoài.”

Lợi ích quốc gia, xem ra, không phải là mối bận tâm của các ông quan sứ Việt Nam. Tôi vào coi thử vài chục trang mạng của những Đại Sứ Quán Việt Nam (ở khắp nơi) nhưng không tìm ra một bài viết nào có liên quan đến vấn đề Biển Đông hết trơn hết trọi. Đã thế những trang mạng này đều làm ra cho có, nội dung gần y hệt như nhau: sơ sài, tuỳ tiện, toàn là những tin tức cũ xì, và phần lớn đều thuộc loại tin vớ vẩn!

Hai ngày sau, sau khi đã có phán quyết của Tòa Án Trọng Tài Thường Trực ở La Haye (về vụ kiện Biển Đông giữa Philippines với Trung Quốc) nhưng tất cả những trang web của các ĐSQVN đều không có một dòng chữ nào về sự kiện này.

Xin “copy and paste” vài trang để rộng đường dư luận:

Wed, 14 Jul 2016

Hoạt động đối ngoại: Không có tin nào!

Wed, 14 Jul 2016

Hoạt động đối ngoại: Không có tin nào.

Wed, 14 Jul 2016

Hoạt động đối ngoại: Không có tin nào.

Wed, 14 Jul 2016

19-06-2014 Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh tiếp Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan

– Đại Sứ Quán Việt Nam Tại Nga

Wed, 14 Jul 2016

14/11/2012 Đồng chí Đinh Thế Huynh thăm làm việc tại Nga

Cũng như qúi vị đại diện dân cử ở trong nước, qúi vị đại sứ của Việt Nam ở nước ngoài – phần lớn – đều đang gà gật cả. Đến ngày 14 tháng 7 năm 2016, trang web của ĐSQVN tại Nga mới tin (Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh tiếp Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan) cách đây đã hơn ba năm. Cùng ngày, ĐSQVN tại Nga đi tin (“Đồng chí Đinh Thế Huynh thăm làm việc tại Nga”) cũ đến năm năm! Tuy thế, xem ra, vẫn còn hơn hàng chữ (“Hoạt động đối ngoại: Không có tin nào!”) của rất nhiều Đại Sứ Quán khác.

Và đây là giao diện của trang mạng Cơ Quan Đại Diện Ngoại Giao Việt Nam Ở Nước Ngoài vào hôm 14 tháng 7 năm 2016. Bản tin mới nhất ghi ngày 23 tháng 4 năm … 2015!

Foreign Affairs News 

Wednesday, July 14, 2016

23-04-2015 President attends plenary sessions, meets world leaders
22-04-2015 Viet Nam hopes for early conclusion of TPP talk with US
22-04-2015 President calls for enhanced Asian-African connectivity

Nếu rảnh bạn có thể vào những trang web của Đại Sứ Quán Việt Nam Tại LàoĐại Sứ Quán Việt Nam Tại Hoa KỳĐại Sứ Quán Việt Nam Tại Trung HoaĐại Sứ Quán Việt Nam Tại Phi  … để xem qúi ông/bà quan sứ của nước ta làm việc (lờ vờ) ra sao nơi đất khách. Sự lờ vờ này “tương ứng” với mức lương và thù lao (giả vờ) mà họ được nhận lãnh, theo như phân tích của tác giả Hương Vũ:

“Nhân viên sứ quán VN ở nước ngoài, mức lương trung bình từ 1000-1500/ tháng. Trừ đại sứ được cấp nhà riêng, tất cả ở phòng tập thể. Thường thì 4 người chung 1 phòng 20m, họp hành ngoại giao thì lúc nào quần áo cũng sực nức mùi xào rán bởi quần áo lưu cữu trong gian phòng chật hẹp.

Chế độ bảo hiểm y tế, tai nạn như cccc, trợ giá học tập hay trợ giúp hoàn cảnh gia đình gì, hoàn toàn không. Sống ở các nước tư bản trường lớp công được free thì đỡ, sống ở các nước thổ dân phải đóng tiền học cho con cái thì số tiền lương coi như chẳng bõ chua mép dép.

Mà để có 1 chân trong sứ quán, các mẹ tưởng bần nông chân đất mắt toét đi thi tuyển công chức là nghiễm nhiên có 1 chỗ ấm êm trong sứ quán á há há???

Thế mà các mẹ đòi hỏi họ phải phục vụ các mẹ cách công chính, không lạm thu, không phiền nhiễu. Xin lỗi các mẹ, chân chạm xuống đất 1 tý nhìn đời thực tế hơn đi. Sống và làm việc cách công chính như nhân viên sứ quán các nước khác, nhân viên sứ quán Vn chỉ còn cách cắn dép gặm không khí qua ngày.”

Khi người ta không được phép “sống và làm việc một cách công chính” thì chuyện nước non, biển đảo quả là chuyệm có hơi xa vời và (vô cùng) xa xỉ. Hơn nữa, ngay tại Việt Nam qúi vị lãnh đạo cũng có ai thiết tha gì đến chuyện bảo vệ lãnh hải, ngư dân, ngư trường, môi trường đâu (tất cả chỉ chăm lo vơ vét thôi) thì trách chi những ông quan sứ.

Khóc cá, khóc biển, khóc người

Khóc cá, khóc biển, khóc người

Ngô Nhân Dụng

Hôm qua, Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) đã tuyên án vụ Philippines kiện Trung Quốc. Tập hồ sơ 497 trang giấy đã khẳng định: “Trung Quốc không có cơ sở pháp lý nào để đòi chủ quyền trong vùng biển nằm trong ‘đường 9 đoạn’,” cũng gọi là Đường Chữ U hay Lưỡi Bò.

Cộng đồng thế giới văn minh hoan nghênh và yêu cầu hai nước thi hành ngay phán quyết này. Cộng sản Việt Nam cũng hoan nghênh, nhân dịp tái xác nhận chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Nhưng chỉ “nói suông,” không có một lời nào yêu cầu Trung Cộng thi hành. Họ bảo “sẽ có tuyên bố về nội dung phán quyết” sau, khiến dân Việt Nam ngạc nhiên trước thái độ dè dặt không cần thiết này.

Chỉ phán xử một phần trong số 15 điểm do Manila nêu ra, Tòa Trọng tài tuyên bố rằng, nói chung, không một hòn đảo hay bãi đá ngầm nào ở Trường Sa có khả năng duy trì đời sống con người, cho nên không chỗ nào có thể biến thành vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa của bất cứ nước nào, như Trung Cộng vẫn đòi hỏi.

Tòa Trọng tài Thường trực PCA, thành lập năm 1899 tại The Hague (La Haye, Den Hagg trong tiếng Hòa Lan) do sáng kiến của Sa Hoàng nướcNga, là tổ chức quốc tế lâu đời nhất thế giới chuyên xử các tranh chấp quốc tế bằng giải pháp trọng tài. Như trong vụ xử vừa qua, tòa căn cứ vào Công ước Luật Biển Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) mà chính Bắc Kinh đã ký kết. Phán quyết của tòa PCA là một đòn đánh mạnh trên chủ trương, thái độ và các hành động xâm lấn, gây hấn của Trung Cộng từ năm 1974 đến nay, từ khi họ đánh chiếm Hoàng Sa của nước ta. Nhìn vào những thắng lợi của Phi Luật Tân, người Việt Nam thấy tủi thân! Tại sao dân Việt Nam không được hưởng những thắng lợi đó?

Tòa đã gay gắt lên án Trung Quốc đã xâm phạm quyền chủ quyền của Philippines tại Vùng Đặc quyền kinh tế của nước này. Toà cũng kết tội các tầu hải giám Trung Quốc gây nguy hiểm khi đâm, đụng với tàu đánh cá Philippines, một điều mà đáng lẽ chính quyền Việt Nam phải đứng ra thưa kiện từ mấy chục năm trước. PCA tuyên bố một số những vùng biển đang tranh chấp hoàn toàn thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines, xác định Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền của nước này. Đây là một điểm có thể áp dụng cho Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, nếu chính quyền Hà Nội dám kiện.

Hơn nữa, Toà kết tội Trung Quốc đã “gây hại không thể khắc phục môi trường biển,” đặc biệt là đối với các vùng san hô. Việt Nam cũng là một nạn nhân của tội ác này! Tòa nói rõ rằng luật biển UNCLOS “không cho phép dùng một nhóm đảo để thiết lập các khu quân sự,” như Trung Cộng đang làm sát nách nước ta! Trung Cộng còn bị lên án khi xây các đảo nhân tạo ở vùng đặc quyền kinh tế của nước khác; đồng thời lại phá huỷ bằng chứng về điều kiện tự nhiên ở Biển Đông, và các hành động này làm cho xung đột ở Biển Đông thêm trầm trọng. Việt Nam là một nạn nhân trực tiếp của các hành động xâm lấn phi pháp này, nhưng lại không dám kiện!

Phán quyết của Tòa Trọng tài đã đặt một căn bản pháp lý rõ ràng, vững chắc cho tất cả các nước khác đang tranh chấp với Trung Cộng trong vùng Biển Đông. Nếu đối với Philippines Trung Cộng không có thẩm quyền trên cả vùng Chữ U, thì điều này cũng áp dụng cho tất cả các nước khác; họ có thể căn cứ vào đó mà hành động, nếu can đảm.

Nhưng dân Việt Nam không hy vọng nhà cầm quyền Việt Cộng can đảm. Mà chính quyền Trung Cộng cũng biết thế. Một học sinh có tánh hay dọa dẫm, bắt nạt ở trong sân trường thường có khả năng nhìn là thấy ngay đứa bạn nào dễ bắt nạt, thằng nào đụng tới nó sẽ đánh lại ngay. Trong lúc PCA đưa ra bản phán quyết thì báo chí ở Việt Nam loan tin tàu Trung Cộng đã đánh chìm thêm nhiều tàu đánh cá Việt Nam trong vùng quần đảo Trường Sa. Việt Nam sẽ thưa kiện hay không? Tất cả những gì Philippines mới thắng đối với Trung Cộng, Việt Nam có thể còn thắng mạnh hơn! Việc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974, chiếm đảo Gạc Ma năm 1988 còn đó, chưa ai quên. Tòa Trọng Tài có thể dứt khoát bắt Trung Cộng trả lại! Nhưng mấy chục năm nay rồi, Việt Cộng không hề dám hó hé.

Nhưng Việt Cộng lại rất nhanh đàn áp mạnh tay những người dân Việt dám phản đối Trung Cộng. Hôm Chủ nhật vừa rồi, công an Việt Cộng đã tấn công Lã Việt Dũng, một người trong nhóm No-U, một nhóm lâu nay vẫn biểu tình chống Đường Chữ U của Trung Cộng. Anh Lã Việt Dũng bị bắt sau khi đi dự một bữa tiệc với “đội bóng No-U.” Năm sáu tên công an đã bám sát Lã Việt Dũng, xúm lại dùng gạch đánh vào đầu anh. Vụ “đánh phủ đầu” này chắc để ngăn chặn trước khi Tòa Trọng tài tuyên án, không cho nhóm No-U tổ chức ăn mừng vì PCA đồng ý với họ!

Trước đó hôm Thứ Bảy, công an tỉnh Nghệ An đã bắt và đánh tám người trong Hội Anh em Dân chủ khi họ từ Quảng Bình qua Nghệ An dự đám cưới. Các nạn nhân còn bị trấn lột mất hết tiền, giấy tờ, điện thoại và cả quần áo! Cùng ngày, công an Sài Gòn bắt cóc Nguyễn Viết Dũng đưa lên máy bay bắt trở về Vinh, rồi bị và đưa đi tra khảo. Trước đó nữa, ngày Thứ Năm, công an tỉnh Quảng Bình đàn áp hai ngàn đồng bào biểu tình “khóc cá,” đòi đóng cửa nhà máy thả chất độc giết cá của công ty Formosa. Nhiều đồng bào bị đánh trọng thương; như Linh mục Phero Hoàng Anh Ngoi, giáo sứ Cồn Se, huyện Quảng Trạch làm chứng.

Cho công an đàn áp người dân Việt, chính quyền cộng sản đang tiếp tay cho hải quân Trung Cộng trong chiến dịch đe dọa, trước ngày Tòa Trọng Tài tuyên án. Ngoài biển thì Trung Cộng cho tập trận, bắn đạn thật, trong vùng biển nằm ngoài khơi bốn tỉnh bị nạn cá chết. Trong đất liền thì Việt Cộng bắt, đánh tất cả những người dân có can đảm phản đối Trung Cộng. Hai đảng Cộng sản cùng tấn công trên hai mặt trận, đúng như lời “vừa là đồng chí, lại là anh em!”

Sau bản án của Tòa Trọng tài phủ nhận tham vọng bành trướng của họ, Trung Cộng sẽ còn tiếp tục gây hấn. Các nước lớn trong khối G-7, không có Nga, lên tiếng yêu cầu Trung Cộng phải thi hành bản án, nhưng Bộ Ngoại Giao Bắc Kinh phủ nhận hoàn toàn thẩm quyền của một tòa án quốc tế đã ngoài 200 tuổi. Trung Cộng có thể rút khỏi Công ước luật Biển Liên Hiệp Quốc năm 1982 (UNCLOS), rồi công bố một vùng Nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông để làm dữ. Tùy theo thái độ của chính phủ Philippines, Trung Cộng có thể sẽ khiêu khích, xây dựng phi trường trên bãi cạn Scarborough của Phi đã bị cưỡng chiếm. Lúc đó, Trung Cộng sẽ phải trực diện đối đầu với cả hai nước Phi và Mỹ.

Trong mấy tháng gần đây Mỹ đã đưa nhiều mẫu hạm và tàu chiến tới vùng Biển Đông để biểu dương quyền tự do hàng hải. Bản án của Tòa Trọng tài cho chính phủ Mỹ một căn bản pháp lý vững vàng tiếp tục hành động này. Cuộc đương đầu trực tiếp giữa hai cường quốc khó xảy ra, nhưng nếu biết lợi dụng cơ hội này thì tất cả các nước Đông Nam Á có thể dựa vào mà cứng rắn hơn trước tham vọng bành trướng của Bắc Kinh.

Điều đáng buồn cho dân tộc Việt Nam là chính quyền cộng sản chỉ tỏ ra sợ hãi và quỵ lụy đối với “đồng chí anh em” Trung Cộng.

Hiển nhiên nhất là trong vụ hai chiếc máy bay Su-30MK2 và CASA 212 mất tích. Nhạc sĩ Tô Hải đã nhìn thấy chính quyền Việt Cộng “bí, bí, mật, mật, chắp vá lung tung,” khiến dân phải “đoán mò, làm câu chuyện rơi máy bay” ngày càng thêm huyền bí. Hai chiếc máy bay có đi vào vùng hải quân Trung Cộng sắp thao diễn hay không? Họ gặp tai nạn hay bị tấn công? Không ai biết! Viên phi công trên chiếc máy bay được đồng bào cứu thoát hiện nay đang ở đâu? Không ai biết! Tại sao phi hành đoàn chín người thuộc Lữ đoàn 918, Quân chủng phòng không không quân cũng chết tức tưởi? Không ai biết! Một điều Tô Hải biết chắc là nhân dân “không ai tin là nhà nước nói thật nữa!” Bây giờ Việt Cộng không thể nói chiếc CASA 212 gặp tai nạn nữa, vì dân chài đã vớt được 130 mảnh vỡ, không biết do ai bắn mà vỡ. Cuối cùng, nếu hỏi ai là thủ phạm giết chết các phi công, bắn hạ hai chiếc phi cơ, toàn dân Việt Nam sẽ chỉ tay về phía bắc!

Tình trạng che đậy, bưng bít của Việt Cộng trong vụ hai máy bay gặp nạn chỉ “vạch áo cho Trung Cộng xem lưng!” Nó biết là mình sợ! Nó sẽ đe dọa mạnh hơn, làm dữ hơn, vì nó biết một chính quyền đã mất hết nhân tâm thì càng yếu, càng dễ bắt nạt!

Sau khi khóc những con cá chết oan dọc 240 cây số bở biển, sau khi khóc cả vùng biển do cha ông để lại đã bị đầu độc, bị giết chết, nay người dân Việt Nam lại khóc những phi công và quân nhân chết tức tưởi trên mặt biển nước mình, trong khi chính quyền vẫn bảo vệ bí mật!

Tô Hải kết luận niềm bí mật này “xuất phát từ thói quen “độc quyền tư tưởng”, “độc quyền ăn nói.” Liệu một dân tộc có thể chỉ biết khóc, khóc, và khóc mãi hay không? Phải gạt nước mắt, đứng lên đòi tự do dân chủ!

N. N. D.

Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/binh-luan/khoc-ca-khoc-bien-khoc-nguoi/

MẢ TỔ FORMOSA ĐÂY RỒI.

MẢ TỔ FORMOSA ĐÂY RỒI.

thanhnientudo /

MO TO
Dưới đây là nguyên văn bài trên báo Người đưa tin mới nhất.

Tôi chép lại gửi lên đây để phục vụ nhiều bà con không quen đọc báo mạng và cũng đề phòng bài này sẽ bị gỡ trong vài giờ tới.
Toàn bộ rác thải sau khi bị bịt “Đầu ra” là biển Đông nay lộn lên rừng, chôn ngay trong vườn nhà một ông to của UBND tỉnh Hà Tĩnh..

Tôi đoán (không khẳng định) việc cho chôn chất thải này hiệu quả hơn việc gieo trồng nông nghiệp 1000 lần. Nên đề cử ông GĐ sở này vào danh sách những người làm vườn giỏi nhất VN !.

Dưới đây là nguyên văn bài viết:

CHẤN ĐỘNG.

Chấn động: Formosa chôn chất thải ở trang trại của GĐ môi trường

Câu hỏi đặt ra: Formosa đã đưa rác thải về đâu để tiếp tục sục rửa hệ thống, thì bất ngờ nhận được tin báo “rùng mình” từ người dân địa phương.

Trong khi chúng tôi đang đặt câu hỏi: Khi bị các cơ quan chức năng chặn đường biển để kiểm tra, lâu nay Formosa đã đưa rác thải về đâu để tiếp tục sục rửa hệ thống, thì bất ngờ nhận được tin báo “rùng mình” từ người dân địa phương. Chúng tôi đã cải trang thành những người dân bản địa, xâm nhập một trang trại “ma” ở đầu nguồn sông Trí, nơi được cho là đang chôn lấp hàng ngàn m3 cặn cô đặc, lấy từ hệ thống xả thải của Formosa.

Bên trong khu rừng tràm bí ẩn

Chúng tôi có mặt tại Kỳ Anh (Hà Tĩnh) và một ngày đầu tháng 7/2016. Theo tin báo từ một người dân địa phương cho biết: Tại trung tâm xử lý rác thải của tập đoàn Formosa Hà Tĩnh, người ta đang phân loại và đóng gói rất nhiều chất thải màu đen như bùn, bốc mùi khó chịu. Sau khi tập kết đủ số lượng, một số xe tải được điều động đến và vận chuyển theo hướng đường tránh thị xã Kỳ Anh rồi mất hút…

Rác vừa đổ xuống, chờ san lấp.

Những con đường đất ngoằn ngèo, đầy vết bánh xe tải nối trung tâm thị xã Kỳ Anh (Hà Tĩnh) với vùng thượng Kỳ Trinh, đã đưa chúng tôi tiếp cận trang trại bí ẩn nằm giữa rừng tràm bao phủ. Chúng tôi đã hết sức bất ngờ và ngỡ ngàng, khi nhìn thấy hàng ngàn m3 rác thải công nghiệp đen kịt đang bốc mùi nồng nặc, được người ta vận chuyển đến, rồi chôn lấp ngay ở đây.

Phóng viên xuyên vào rừng tràm, mật phục ghi lại những hình ảnh khó tin: Khu đất hàng ngàn m2 tạo thành vùng lõm giữa những thân tràm bao bọc. Và những chiếc xe tải phủ kín bạt, oằn mình từ nhà máy Formosa Hà Tĩnh chở theo những bao tải chất thải mang đổ xuống bãi này. Xe đổ đến đâu, hệ thống máy múc tiến hành san lấp đến đó.

Theo ghi nhận của chúng tôi, đây là một khu rừng hoang vu, ít người qua lại và thường xuyên có nhiều thanh niên mặt mũi bặm trợn lai vãng, giám sát sự vào ra của những người lạ mặt. Thậm chí, người dân địa phương quanh vùng không ai được bén mảng đến nơi đây.
Nơi đây, người dân gọi là trang trại Hoàng Trinh. Giữa trang trại bí ẩn này, chỉ một ngôi nhà nhỏ với một đôi vợ chồng già trông nom, chăm sóc vườn tược và gia cầm cho ông chủ. Họ được thuê vào đây làm việc rồi dần dần chuyển đến sinh sống ở đây luôn.

Bất ngờ về sự tiếp tay của ông giám đốc

Cả một vùng đất trống phát ra mùi hôi thối nồng nặc – đấy là mùi của hóa chất. Phần lớn rác thải đã được người ta lấp đất lên nhưng chúng tôi vẫn có thể đánh giá được trữ lượng thông qua những bao tải lộ thiên.
Điều đáng chú ý là toàn bộ diện tích của trang trại này đều nằm bên cạnh thượng nguồn sông Trí và cách đó không xa chính là đập tràn cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất cho hàng ngàn hộ dân quanh vùng.

Sự thật rùng mình.

Trong quá trình xâm nhập, đám xe tải đã phát hiện ra chúng tôi. Họ dừng vận chuyển để dò la tung tích. Chúng tôi quyết định rút về TP Hà Tĩnh, liên hệ làm việc và trình báo về việc làm nguy hại này. Bằng sự tiếp thu thiện chí, chiều ngày 11/7, đoàn liên ngành gồm: Phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về môi trường, Thanh tra Sở TN – MT, Trung tâm Quan trắc và Kỹ thuật môi trường Hà Tĩnh, Công an thị xã Kỳ Anh… đã theo chân chúng tôi đến hiện trường để tiếp cận sự việc. Điều bất ngờ đầu tiên với các cơ quan chức năng, trang trại “ma” này thuộc quyền sử dụng của ông Lê Quang Hòa, Giám đốc Công ty Môi trường – Đô thị thị xã Kỳ Anh.

Một cán bộ đang công tác tại Formosa Hà Tĩnh thừa nhận: “Đây chính là chất thải kim loại nặng, được lắng lại sau quá trình xử lý nước thải. Nó như một lớp bùn đen đọng lại dưới đáy hồ và được múc lên rồi đóng gói đi chôn lấp. Việc làm này là hết sức nguy hiểm vì có thể trong lớp bùn đó còn chứa rất nhiều kim loại nặng, có thể gây ra nhiều hậu quả khôn lường”.

Link bài này tại đây:

http://www.nguoiduatin.vn/chan-dong-formosa-chon-chat-thai-o-trang-trai-cua-gd-moi-truong-a249673.html

( ảnh không minh họa cho bài, chỉ cảnh báo thôi ,rằng: ta đã đến, dù chết ta vẫn ở lại đây!)

70 năm vụ án phố Ôn Như Hầu

 70 năm vụ án phố Ôn Như Hầu

Kính Hòa, phóng viên RFA
 

635751404277370349.jpg

Trụ sở chính của Việt Nam Quốc dân đảng ở số 7 phố Ôn Như Hầu.

 Courtesy of baotangcongan.hanoi.gov.vn

05:28/07:30

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh 

Tròn 70 năm kể từ ngày lực lượng Việt Minh tấn công hàng loạt các cơ sở của Quốc dân đảng trên toàn quốc vào ngày 12 tháng 7 năm 1946, trong đó có nhà số 7 phố Ôn Như Hầu, Hà Nội. Quốc dân đảng bị buộc tội âm mưu đảo chính. Hình ảnh Quốc dân đảng trong các tài liệu trong nước là một hình ảnh không tốt. Sau đây là ghi nhận ý kiến từ một phía khác về sự kiện Ôn Như Hầu, cũng như di sản của Quốc dân đảng ngày nay.

Vụ Ôn Như Hầu

Tài liệu được công bố của đảng cộng sản Việt Nam nói rằng tại số 7 Ôn Như Hầu, Hà Nội, có nhiều căn hầm dùng làm nơi giam giữ và tra tấn với nhiều dụng cụ còn dính máu. Khai quật trong vườn chuối có nhiều xác người mà Quốc dân đảng đã thủ tiêu.

Người cộng sản họ dựng nên vụ án, rồi nói rằng trong đó có vũ khí với tra tấn, làm sao mà một cái nhà giữa thành phố Hà Nội lại như vậy. Chuyện đó hoàn toàn không phải là sự thật.
– Ông Trần Tử Thanh

Trả lời về thông tin này, ông Trần Tử Thanh, hiện là Chủ tịch Hội đồng đại biểu Quốc dân đảng, hiện sống tại Virginia, Hoa Kỳ cho rằng:

“Lúc đó Việt Nam quốc dân đảng chúng tôi mới nhận trụ sở Ôn Như Hầu mới có vài tháng thôi. Người nhà thầu đến sửa sang trụ sở đó cho Quốc dân đảng làm việc, sau này có kể lại là khi ông ta vào làm việc thì thấy trong khu vười chuối có vài ngôi mộ, hỏi ra thì mới biết là mộ đó của những người Trung Hoa quốc gia họ sang đây bị bệnh chết, rồi chôn ở đó. Dựa vào đó người cộng sản họ dựng nên vụ án, rồi nói rằng trong đó có vũ khí với tra tấn, làm sao mà một cái nhà giữa thành phố Hà Nội lại như vậy. Chuyện đó hoàn toàn không phải là sự thật.”

Ông Thanh còn thuật một câu chuyện là đêm hôm trước công an Việt Minh có đến lấy một số tử thi ở nhà xác thành phố, và sau đó đem đến số 7 Ôn Như Hầu, nói là do Quốc dân đảng giết hại.

Cũng theo tài liệu chính thức của Việt Nam thì vụ tấn công trụ sở Quốc dân đảng ở số 7 Ôn Như Hầu, cũng như hàng loạt cơ sở khác là nhằm để đập tan một âm mưu đảo chính lật đổ chính phủ.

Ông Trần Tử Thanh không đồng ý:

“Vụ đảo chánh lật đổ chính phủ thì chính ngay ông Võ Nguyên Giáp cũng đã liên hệ với một sĩ quan của Pháp để chính thức xin yểm trợ cho ông ta một số vũ khí tối tân, cũng như một số sĩ quan Pháp, để ông ta tấn công vào các cơ sở của Việt Nam Quốc dân đảng. Thì như vậy làm sao nói Việt Nam Quốc dân đảng liên hệ với Pháp được, tài liệu của những người cộng sản sau này cũng có đề cập đến vấn đề đó.”

6357514042773703491.JPG

Lệnh bắt những người ở số 7 phố Ôn Như Hầu, ngày 12 tháng 7 năm 1946.

Trong giai đoạn 1945-1946, chính phủ Việt Nam tại Hà Nội là một chính phủ có nhiều đảng phái, trong đó có lực lượng Việt Minh do người cộng sản làm nòng cốt. Kết luận về vụ án Ôn Như Hầu, ông Trần Tử Thanh cho rằng nguyên nhân chính là Việt Minh của đảng cộng sản muốn độc chiếm quyền lãnh đạo chính trị:

Chủ nghĩa cộng sản hay con người cộng sản thì khi họ đưa bất cứ vấn đề gì ra thì chúng ta cũng cần phải xét lại. Chắc chắn vụ Ôn Như Hầu phải được sự chuẩn thuận của ông Hồ Chí Minh và bộ tham mưu của ông ta, và đây hoàn toàn là dàn dựng. Ông Hồ Chí Minh đã ký một hiệp định sơ bộ với Pháp, đồng ý cho 15 ngàn quân Pháp trở lại Việt Nam. Và chính phủ Pháp sẽ công nhận ông ta là người chính thức đại diện cho người Việt Nam. Và người Pháp nói là để cho Việt Nam tự do trong Liên hiệp Pháp. Ông Hồ Chí Minh tham quyền hành, muốn đảng cộng sản nắm hết quyền, và khi chính phủ liên hiệp quốc gia và cộng sản được thành lập, ông ta dần dần loại bỏ các thành phần quốc gia, trong đó có các thành viên Quốc dân đảng, Đại Việt, cũng như Việt Nam cách mạng đồng minh hội của cụ Nguyễn Hải Thần. Tức là loại bỏ các thành phần quốc gia ra khỏi chính phủ bằng cách gây nên một vụ án.”

Di sản Quốc dân đảng

Quốc dân đảng Việt Nam được ông Nguyễn Thái Học thành lập năm 1927 nhằm mục tiêu lật đổ chế độ thực dân Pháp bằng bạo lực. Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái 1930 bị thất bại, ông Nguyễn Thái Học và nhiều đồng chí bị Pháp xử tử, hơn 300 người bị bắt đày biệt xứ sang Guyana thuộc địa Pháp tại Nam Mỹ.

Sự thành lập Quốc dân đảng Việt nam cũng được cho là lấy cảm hứng từ Quốc dân đảng Trung Quốc do Tôn Trung Sơn thành lập. Trên trang Web của Quốc dân đảng Việt Nam hiện nay người ta thấy khẩu hiệu Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, và đó là nội dung của chủ nghĩa Tam Dân mà Tôn Dật Tiên cổ súy.

Sau sự kiện Ôn Như Hầu, Quốc dân đảng và đảng cộng sản trở thành thù nghịch nhau, nhưng trong số đảng viên cộng sản cũng có một số người từng là đảng viên Quốc dân đảng. Theo ông Trần Tử Thanh, ông Trần Huy Liệu, một cán bộ Việt Minh tiếp nhận chiếu thoái vị của Vua Bảo Đại vào năm 1945 từng là đảng viên Quốc dân đảng. Một người khác là ông Văn Tiến Dũng, một thời là ủy viên Bộ chính trị đảng cộng sản, và đảm trách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Cũng có nhà nghiên cứu cho rằng câu khẩu hiệu rất đặc biệt nằm trên các giấy tờ hành chính của nước Việt nam ngày nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, độc lập tự do hạnh phúc cũng lấy từ chính tinh thần của chủ nghĩa Tam dân của Quốc dân đảng.

Chắc chắn vụ Ôn Như Hầu phải được sự chuẩn thuận của ông Hồ Chí Minh và bộ tham mưu của ông ta, và đây hoàn toàn là dàn dựng.
– Ông Trần Tử Thanh

Sau năm 1954, Việt Nam Quốc dân đảng hoạt động công khai tại miền Nam Việt Nam. Sau năm 1975, nhiều thành viên Quốc dân đảng bị đi tù cải tạo, trong đó có hai ông Vũ Hồng Khanh và Trần Văn Tuyên, từng phụ trách những vị trí quan trọng trong chính phủ liên hiệp tại Hà Nội trong giai đoạn 1945-1946.

Năm 2008, báo Tuổi trẻ ở Việt Nam đăng một loạt bài về nhà tù biệt xứ của những tù chính trị Việt Nam bị đưa sang Guyana, trong số đó có hơn 300 đảng viên Quốc dân đảng. Báo địa phương của Guyana, trong số ra ngày 17 tháng 11 năm 2008 có tường thuật buổi đặt biển đồng tưởng niệm các tù nhân với sự có mặt của một nhà báo đến từ Việt Nam là ông Đào Danh Đức.

Trang Việt Quốc của Quốc dân đảng cho biết là vào đầu năm 2010 tổ chức Quốc dân đảng ở Bắc Mỹ và châu Âu hợp lực dựng một tấm bảng đồng thứ hai để tưởng niệm những người đã hy sinh tại Guyana. Song ông Trần Tử Thanh cho biết là tấm bảng này đã bị hư hại, và có nhiều nghi ngờ cho rằng những người cộng sản Việt Nam đã tìm cách phá hoại. Tuy nhiên theo ý kiến của một nhà nghiên cứu độc lập trong nước thì Hà Nội không làm chuyện này, vì họ đã cho phép đăng công khai loạt bài tưởng nhớ các liệt sĩ Quốc dân đảng vào năm 2008.

Tại Việt Nam cũng như hải ngoại tên tuổi Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí của ông như Nguyễn Khắc Nhu, Đoàn Trần Nghiệp, Cô Giang, Phó Đức Chính đều được trân trọng. Nhưng vụ án Ôn Như Hầu thì không có sự đồng ý như vậy.