Vay tiền Trung Quốc làm đường cao tốc Vân Đồn-Mông Cái hay là muốn mở đường cho giặc dễ tràn vào cướp nước (1)

Vay tiền Trung Quốc làm đường cao tốc Vân Đồn-Mông Cái hay là muốn mở đường cho giặc dễ tràn vào cướp nước (1)

Đỗ Minh Tuấn

Hóa ra lại là Bộ GTVT nơi đang muối dưa ăn dần cái Dự án đường tàu cao tốc trên cao vay tiền TQ đội giá gấp ba lần mà có người đã tính ngàn năm sau tiền thu từ bán vé cũng không trả hết cả gốc và lãi. Âm mưu trấn yểm cố ý cho con đường vòng qua những chỗ linh thiêng của đất nước nơi chôn xác bọn Tàu xâm lựợc ngày xưa như khu vực Gò Đống đa, đường Nguyễn Trãi, khu mộ Kinh Dương Vương… ai cũng thấy rõ nhưng cả lũ vẫn làm ngơ vay tiếp làm con đường mới chưa cần thiết để mở đường cho giặc Trung Quốc dễ tràn vào cướp nước. Cái kế hoạch trấn lột của con cháu, mở đường đón giặc vào nhà của bọn quỷ “tư bản thân hữu” thấp thoáng dấu vết cái đường dây đưa Formosa vào Việt Nam thật trắng trợn, nhơ bẩn mà đại đa số nhân dân Việt Nam căm giận, lo âu và phỉ nhổ. Trên báo Dân trí có mục thăm dò ý kiến về dự án um sùm này đã có hơn 98% người phản đối. Vậy chúng nó cứ cố đấm ăn xôi thì dân sẽ để yên sao?

Sự tham lam coi thường lòng dân, coi thường vận mạng đất nước, coi thường tương lai con cháu của nhóm lợi ích này đã làm bẩn cả kỳ họp đầu tiên của Quốc hội, khi tạo ra tình huống giống như có kẻ ngậm nước bọt Trung Quốc nhổ vào kỳ họp mà nhân dân đang hào hứng theo dõi này. Khóa QH trước Tập Cận Bình đã nhổ nước bọt vào Micro phòng Diên Hồng, làm bẩn cả biểu tượng dân chủ rực rỡ của cha ông. Nay bọn Trung Quốc giấu mặt lại truyền nước bọt qua các nhóm tư bản thân hữu cộng sinh với chúng để bọn này nhổ vào ekip lãnh đạo mới ngay sau khi họ thực hiện lời thề nguyện thiêng liêng. Thật đáng tiếc cho sự trong trắng thiêng liêng của Nhà Quốc hội, vừa mới mở tiệc mừng tương lai hứa hẹn với ekip mới ít nhiều khác biệt đã phải dọn rác của các nhiệm kỳ trước, bàn toàn những chuyện hót phân, dọn chất độc do Formosa thải ra và chuyện có nên cho đặt tiếp phân Trung Quốc mà ekip cũ bưng vào lên bàn tiệc mới hay không?

Đ.M.T.

(Facebook Đỗ Minh Tuấn)

(1) Đầu đề do BVN đặt

1. Trung Quốc cho vay 300 triệu USD làm cao tốc: Đừng vội mừng

Liên quan khoản vay 300 triệu USD xây cao tốc Vân Đồn-Móng Cái, các bộ liên quan đều đề nghị đàm phán lại với Trung Quốc về điều kiện và lãi suất. Bởi “quả đắng” từ dự án đường sắt Cát Linh – Hà Đông vẫn còn đó. Các chuyên gia cũng cảnh báo cẩn trọng với những điều khoản đi kèm vốn vay từ Trung Quốc.

Đừng vội mừng

Ngày 31/7, trao đổi với PV Tiền phong, Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng cho biết, Bộ KH&ĐT đã có văn bản xin ý kiến các bộ, ngành liên quan về khoản vay hơn 300 triệu USD của Trung Quốc cho dự án xây cao tốc Vân Đồn – Móng Cái (Quảng Ninh).

“Khi trả lời Bộ KH&ĐT, các bộ đều thống nhất phải đàm phán lại với Trung Quốc rồi mới quyết định vay hay không, do điều kiện đưa ra trong khoản vay chưa tốt, như lãi suất còn cao, phải chỉ định thầu với nhà thầu Trung Quốc…”, ông Dũng nói.

Theo ông Dũng, số tiền 300 triệu USD mà Bộ GTVT đề xuất vay Trung Quốc nằm trong 1 hiệp định Chính phủ 2 nước ký cách đây vài năm. “Đây là khoản vay Trung Quốc đề xuất (cho Việt Nam vay), nên 2 bên đang xem xét, chủ yếu vẫn là điều kiện vay chưa thuận lợi”, ông Dũng nói thêm.

Theo người đứng đầu ngành Kế hoạch Đầu tư, những bài học từ các dự án sử dụng vốn vay Trung Quốc như đường sắt Cát Linh – Hà Đông đều để chúng ta phải cân nhắc, tính toán chuyện vay hay không.

Theo ông Dũng, các khoản vay ưu đãi nước ngoài thường kèm nhiều điều kiện, nên đôi khi giá đi vay không rẻ, nên phải tính toán cho hợp lý. “Tùy từng nhà đầu tư sẽ có các điều kiện đi kèm vốn vay, nhưng thường các nhà đầu tư đa phương (như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á – PV ) không quan tâm việc buộc nhà thầu phải là của họ, phải mua hàng hóa của họ… Nhưng nhà thầu song phương họ lại quan tâm điều này”, ông Dũng nói.

Tuy vậy, nếu sử dụng vốn vay trong nước sẽ phải chịu chi phí vay cao, dẫn tới hiệu quả đầu tư sẽ thấp, nên cũng phải cân nhắc. Vì vậy, theo ông Dũng, đi vay phải đảm bảo hài hòa lợi ích người đi vay và cho vay, giảm thiểu những điều kiện đi kèm và minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, giảm chi phí không hợp lý.

Trong phần trả lời Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính cho rằng, các khoản vay ưu đãi của Trung Quốc đều có ràng buộc, như phải sử dụng nhà thầu, công nghệ, máy móc, thiết bị Trung Quốc. Trong khi đó, đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc là dự án đầu tư phát triển có nguồn thu trực tiếp.

clip_image001

Tuyến đường sắt Cát Linh – Hà Đông (Hà Nội) là bài học lớn về vốn ưu đãi Trung Quốc. Ảnh: Phạm Thanh

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/dau-tu/318604/trung-quoc-cho-vay-300-trieu-usd-lam-cao-toc-dung-voi-mung.html

2. Vay Trung Quốc 7.000 tỷ làm cao tốc: Tránh ‘vết xe đổ’ đường sắt Cát Linh-Hà Đông

Việc quyết định có vay của đối tác Trung Quốc trong dự án đường cao tốc Vân Đồn – Móng Cái (Quảng Ninh) hay không đang được cân nhắc và đàm phán.

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, việc quyết định có vay của đối tác Trung Quốc số tiền 300 triệu USD, tương đương 7.000 tỷ đồng trong dự án xây dựng cao tốc Vân Đồn – Móng Cái (Quảng Ninh) hay không đang được cân nhắc và đàm phán.

Theo đó, nội dung đàm phán chủ yếu nhằm thay đổi điều kiện vay thuận lợi hơn, như mức lãi suất vay thấp hơn và bỏ chỉ định cho nhà thầu Trung Quốc.

clip_image002

Đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông dùng vốn ODA Trung Quốc

Trước thực tế, vay vốn ưu đãi Trung Quốc thường đi kèm rất nhiều điều kiện, nếu tính cộng những điều kiện này thậm chí giá đi vay không hề rẻ, trao đổi với báo chí Bộ trưởng Dũng cho rằng, điều kiện đi kèm vốn vay ưu đãi tùy nhà đầu tư.

Cụ thể, có nhà đầu tư đa phương không quan tâm việc buộc nhà thầu phải là của họ, phải mua hàng hóa vật tư của họ nhưng nhà thầu song phương lại quan tâm đến điều này. Do đó, vấn đề cần hài hòa lợi ích người đi vay và cho vay để giảm thiểu những rủi ro đi kèm nếu có.

“Trong dự án này, chúng ta đang cố gắng đàm phán không chỉ định thầu là nhà thầu Trung Quốc, tất cả phải đấu thầu công khai. Đạt được điều kiện này thì sẽ tăng hiệu quả của dự án”, Bộ trưởng Dũng cho hay.

Hiện, các chuyên gia kinh tế cũng đưa ra nhiều lưu ý liên quan đến đề xuất này từ phía Trung Quốc chủ yếu liên quan đến hiệu quả dự án, vấn đề lãi suất và đặt vấn đề phía Trung Quốc liệu có chỉ định thầu, dây dưa, đội vốn dự án,…

Theo chuyên gia kinh tế, TS. Đinh Thế Hiển, trước khi đề cập đến nguồn vốn 300 triệu USD thì vấn đề cần xem dự án cao tốc Vân Đồn – Móng Cái có quan trọng hơn các dự án khác hay không, nếu con đường chưa thật cần thiết và làm vì có vốn vay điều này sẽ khiến ngân sách trở nên căng thẳng hơn.

clip_image003

Từ trái qua: TS. Lê Đăng Doanh, TS. Đinh Thế Hiển, TS. Lưu Bích Hồ

“Có rất nhiều con đường làm ra vì có nguồn vốn làm nhưng nguồn vốn ở đâu thì cũng đưa về nợ ngân sách cũng là nợ, có nhiều con đường ở miền Bắc rơi vào tình huống này, đầu tư quá nhiều nhưng không hiệu quả”, ông Hiển nói.

Cũng theo vị chuyên gia này, nhập siêu từ Trung Quốc trong bối cảnh tái cấu trúc thương mại thì đẩy mạnh thương mại với Trung Quốc là chưa cần thiết trong khi tại phía Nam, nhiều hạ tầng như tại Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên đầu tư chưa đạt, thiếu các con đường có động lực kết nối. Do đó, theo ông trong bối cảnh ngân sách khó khăn, cao tốc Vân Đồn – Móng Cái nên để lại sau tập trung vốn đầu tư các con đường trọng điểm phía Nam.

Ông Hiển cũng thẳng thắn chỉ ra những nhược điểm của các dự án vốn vay Trung Quốc, không được giám sát chặt chẽ như WB, IMF… từ đó khiến khoản vay không đưa đến đúng công trình, các nước không thấy hiệu quả nên đã “dị ứng”.

Ở Việt Nam, ông cũng cho rằng có quan điểm là không nên vay Trung Quốc do quản lý khoản vay không minh bạch, khác với khoản vay thương mại thuận mua vừa bán, rõ ràng và không có yếu tố gì khác và phía vay được chủ động sử dụng.

TS. Hiển cũng chia sẻ, tại Việt Nam, hầu hết các dự án vốn vay Trung Quốc đều đội vốn công trình và kéo dài thời gian. “Chưa thấy dự án nào vốn vay Trung Quốc, nhà thầu Trung Quốc mà trọn vẹn, hoàn thành đúng tiến độ, hiệu quả mà thường đội vốn, kéo dài. Hầu hết các khoản vay đều kèm theo các điều kiện thi công, nhà thầu Trung Quốc”, ông Hiển nói.

Đồng quan điểm, TS. Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) cũng cho biết, nếu vay ưu đãi Trung Quốc, Việt Nam có thể phải chấp nhận phương án thi công, thiết kế, nhân công, nhà thầu Trung Quốc.

“Không ngoại trừ trường hợp phía Trung Quốc cho vay không đủ tiền, dây dưa đội vốn công trình, chẳng hạn như đối với dự án đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông”, ông Doanh cảnh báo.

Cũng dẫn bài học đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông, theo TS. Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), không áp dụng điều kiện thực hiện dự án theo hình thức hợp đồng EPC với nhà thầu Trung Quốc. “Đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông là một bài học, về tình trạng đội vốn, nhà thầu Trung Quốc quyết định toàn bộ”, ông nói.

(Theo Bizlive)

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/dau-tu/318560/vay-trung-quoc-7-000-ty-lam-cao-toc-tranh-vet-xe-do-duong-sat-cat-linh-ha-dong.html

Lại vay tiền của giặc, dọn đường cho cướp!

Lại vay tiền của giặc, dọn đường cho cướp!

CTV Danlambao – Bộ Giao thông Vận tải đang dự định sẽ vay Trung cộng 300 triệu USD để xây dựng đường cao tốc Vân Đồn – Móng Cái dài 96 km. Dự tính này đang được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị với Bộ Tài chính đàm phán với Trung cộng về mức lãi và điều kiện vay trong đó có điều kiện phải là nhà thầu Trung Cộng được chỉ định thực hiện dự án.
Khi được hỏi tại sao nhà nước không tìm nguồn vốn nội địa thì ông Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết vay vốn trong nước thì sẽ phải chịu chi phí vay cao.
Câu hỏi cần được đặt ra là tại sao Trung cộng đổ tiền cho vay với lãi xuất rẻ vào các công trình xây dựng của Việt Nam.
Câu trả lời là Trung Quốc muốn cho vay xây dựng cao tốc Vân Đồn – Móng Cái để dùng tuyến đường này và cảng Vân Đồn vận tải hàng hóa nhập vào Việt Nam. Tức là Trung cộng cho Việt Nam mượn tiền nhưng nhà thầu họ xây dựng, vừa tạo công ăn việc làm cho dân Tàu, thu nhập đến từ tiền Việt Nam vay của chính họ, vừa lấy lại tiền cho vay sau này, vừa tiêu thụ những nguyên vật liệu dư thừa và vừa sử dụng công trình này cho nhu cầu thương mại của họ.
Quan trọng hơn cả là Vân Đồn là địa điểm chiến lược về kinh tế, quốc phòng của vùng biển sát cạnh với Trung cộng:
Từ đó một câu hỏi khác cũng nổi lên: tại sao đảng và nhà nước cứ tiếp tục quay sang kẻ xâm lược để kéo họ vào những dự án xây dựng của Việt Nam?
Câu hỏi này chỉ có Nguyễn Phú Trọng và các thành viên Bộ Chính trị đảng CSVN mới có thể trả lời chính xác.
Khi được hỏi tại sao nhà nước không tìm nguồn vốn nước ngoài (không là Trung cộng) thì cũng Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết là thường đi kèm rất nhiều điều kiện.
Ông không cho biết những điều kiện đó là gì, có khó khăn và bất lợi cho Việt Nam như điều kiện phải sử dụng nhà thầu, công nghệ, máy móc, thiết bị của Trung Quốc mà Bắc Kinh luôn dùng nó làm “chỉ nam” cho mọi cuộc vay nợ từ trước đến nay?
Được biết đây không phải là lần đầu tiên Bộ GTVT đề xuất vay tiền Trung cộng để thực hiện dự án. Từ đầu năm 2016, chính Đinh La Thăng lúc ấy trong vai trò bộ trưởng đã có công văn gửi Thủ tướng bấy giờ là Nguyễn Tấn Dũng để xin chấp thuận: “Bộ Giao thông vận tải đề nghị Thủ tướng chấp thuận chuyển thầm quyền quyết định đầu tư và vận động vay vốn ODA Trung Quốc để thực hiện đầu tư đoạn tuyến đường cao tốc Vân Đồn – Móng Cái từ UBND tỉnh Quảng Ninh về Bộ Giao thông vận tải theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản 2529/VPCP-HTQT ngày 25/11/2015 nêu trên, Bộ Giao thông vận tải sẽ phối hợp với UBND Quảng Ninh trong quá trình triển khai thực hiện đầu tư đoạn tuyến này”.
Cho nên, không cần biết ai là thủ tướng, bộ trưởng, bộ chính trị cũ hay mới, tuyến đường Việt-Tàu và sứ mệnh mượn tiền của giặc để xây nhà cho giặc sử dụng vẫn được tiếp tục theo đúng sự nghiệp mà chủ tịch Hồ Quang phát huy.
30.07.2016

CẨN TRỌNG KHI SỬ DỤNG TIỀN CỦA

CẨN TRỌNG KHI SỬ DỤNG TIỀN CỦA

CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN, C

(Gv 1,2 ; 2,21-23; Cl 3,1-5.9-11; Lc 12,13-21)

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Đã từ lâu đời, nơi xã hội loài người, con người luôn coi trọng đồng tiền. Đồng tiền nhiều khi đóng vai trò quyết định thành công hay thất bại… chẳng thế mà người ta thường nói:

“Đồng tiền là tiên là phật

Là sức bật của con người

Là nụ cười của tuổi trẻ

Là sức khỏe của tuổi già

Là cái đà danh vọng

Là cái lọng che thân

Là cán cân công lý…!”.

Và còn có những người mạnh miệng hơn khi tuyên bố rằng: “Có tiền mua tiên cũng được”.

Tuy nhiên, phụng vụ Lời Chúa hôm nay chỉ ra sự giới hạn của đồng tiền. Đồng thời cũng dạy cho chúng ta bài học về cách sử dụng tiền của sao cho hợp lý, để nó không chỉ có ích cho cuộc sống, mà còn có lợi cho phần hồn và ơn cứu chuộc.

  1. Thái độ của con người về tiền bạc

Khi diễn tả tâm lý của con người về sự quý chuộng đồng tiền, người ta đã đúc kết qua một câu nói: “Đồng tiền liền khúc ruột”.

Bởi vậy, nhiều người đã dành cả một cuộc đời cặm cụi kiếm tiền, tìm mọi cách để giữ tiền và không chịu rời bỏ đồng tiền. Khi phải sử dụng hay mất mát, họ cảm thấy như mất đi một phần cuộc sống, chẳng khác gì: “Của đau con xót”.

Thực ra, việc kiếm tiền và giữ tiền tự bản chất không xấu. Tuy nhiên, sử dụng tiền làm sao cho hợp lý mới là điều đáng lưu tâm.

Đáng buồn thay, trong thực trạng xã hội hiện thời, người ta coi trọng đồng tiền đến độ tôn thờ nó như ông chủ. Họ sẵn sàng sử dụng đồng tiền để làm cho cán cân công lý bị lệch chuẩn cũng như đổi trắng thành đen…

Thật vậy:

Đồng tiền không phấn không hồ,

                              Đồng tiền khéo điểm, khéo tô mặt người”.

Chính vì lẽ đó, mà thi sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thốt lên một cách chua chát:

Nếu không điều lợi khôn thành dại,

                                      Đã có đồng tiền dở cũng hay”.

Nếu sử dụng đồng tiền cho tốt thì nó sẽ trở thành tên đầy tớ trung thành, còn nếu sử dụng sai, nó sẽ là ông chủ bất nhân và lẽ đương nhiên, ta trở thành nô lệ cho nó.

Kinh nghiệm cuộc sống của mỗi người đã dạy cho chúng ta bài học về đồng tiền. Thật vậy, đồng tiền nó cũng có thể trang điểm cho chúng ta vinh quang, danh dự và giúp chúng ta trở thành con người có nhân nghĩa với anh chị em đồng loại. Nhưng ngược lại, đồng tiền nó cũng nhấn chìm chúng ta xuống tận bùn đen và nó tước hết tất cả những gì là danh thơm tiếng tốt nơi mỗi người nếu đặt để chúng sai vị trí!

  1. Thái độ và lời dạy của Đức Giêsu về tiền bạc 

Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cho thấy thái độ của Đức Giêsu về vấn đề tiền bạc và làm toát lên lời dạy của Ngài cho người đương thời biết sự giới hạn của đồng tiền.

Câu chuyện được khỏi đi từ việc có hai anh em đến nhờ Ngài phân chia tài sản, bởi lẽ, trước mắt họ, Đức Giêsu là một bậc thầy rabbi có uy tín trong dân, nên việc nhờ Ngài phân chia tài sản là điều cần thiết.

Tuy nhiên, trước lời đề nghị này, Đức Giêsu đã thẳng thắn từ chối vai trò trung gian. Ngài từ chối, không phải vì Ngài thờ ơ, lạnh lùng với thực trạng cuộc sống của hai anh em này. Nhưng qua đó, Ngài muốn khẳng định rằng: sứ vụ Thiên Sai của Ngài không phải là để làm những chuyện như thế, mà là loan báo ơn cứu độ và phần rỗi của con người. Vì thế, Ngài đã trả lời khi được đề nghị: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người  xử kiện hay chia gia tài cho các anh”?.

Nhân dịp thuận lợi này, Đức Giêsu đã dạy cho hai anh em này bài học: hãy tránh xa mọi thứ tham lam, bởi lẽ những của cải chiếm dụng được sẽ không đảm bảo cho được sống đời đời. Vì thế, đừng cậy dựa vào chúng quá lẽ.

Như một sự chứng minh, Đức Giêsu đã kể cho họ nghe dụ ngôn nhà phú hộ giàu có, nhưng đã không biết sử dụng tiền của cách chính đáng và hữu ích.

Lý do, ông phú hộ này khi có tiền của dư thừa, đã chè chén say sưa, xây dựng đền đài kho lẫm khổng lồ; ăn chơi phung phí, không hề nghĩ đến việc chia sẻ cho người nghèo và mưu cầu sự sống mai sau, tức là phần hồn. Ông ta coi những thứ đó như là một thứ đảm bảo cho cuộc sống của ông. Vì thế, ông ta đã ngủ mê trên sự giàu có, nhưng thực ra, đến ngày tận cùng, sự giàu có đó đã tố cáo ông và làm cho ông trắng tay.

Kết thúc câu chuyện, Đức Giêsu đưa ra giả thiết: “Đêm nay người ta sẽ đến đòi linh hồn ngươi” thì lúc đó: “Những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai”?.

  1. Thái độ của người Kitô hữu về việc sử dụng tiền bạc 

Lời cảnh tỉnh trên của Đức Giêsu đã là một sự cảnh báo cho mỗi người chúng ta hôm nay.

Vì thế, với tư cách là Kitô hữu, chúng ta phải chọn sao cho trọn. Tức là trước khi lựa chọn, chúng ta hãy xét đến sự ưu tiên.

Sách Giảng Viên trong bài đọc I đã đưa ra lời nhắc nhở: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”.

Sang bài đọc II, thánh Phaolô tiếp nối tư tưởng đó để khuyên bảo tín hữu của ngài khi đã trở nên thụ tạo mới, mặc lấy Đức Kitô và thuộc về Ngài qua Bí tích Rửa Tội, thì: “Hãy hướng lòng trí  về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.

Và, như một sự mặc khải, Đức Giêsu đã chỉ dạy thật rõ ràng: “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”.

Nhưng oái oăm thay! Nhiều người trong chúng ta không mảy may đến những lời cảch báo trên, mà ngược lại, chúng ta đã thượng tôn đồng tiền đến độ tôn thờ chúng. Coi chúng như gia tài. Giữ chúng như kho báu. Nên đã tìm mọi thủ đoạn để chụp giật được đồng tiền, đôi khi bán rẻ cả lương tâm để có được đồng tiền. Khi có nó, chúng ta đã phung phí cách thỏa thích nơi các cuộc ăn nhậu vô bổ, hút chích cũng như những việc làm bất chính khác…!

Trước những thái độ trên, hẳn là chúng ta đã đi vào vết xe đổ của nhà phú hộ ngu ngốc trong bài Tin Mừng hôm nay.

Sứ điệp Lời Chúa dạy chúng ta rằng:

Nhiều tiền lắm bạc không phải là tội hay xấu xa, nếu đồng tiền được làm ra bởi công khó của mình. Mặt khác, giàu có mà biết sử dụng đúng mục đích thì thật là hữu ích không chỉ cho phần xác, mà còn cả phần hồn. Vì thế, giàu có trước mặt Thiên Chúa không hệ tại ở đồng tiền, mà là ở cách sử dụng đồng tiền.

Cần nhớ rằng: “Chúng ta đã chẳng mang gì vào trong thế gian, và chúng ta cũng không thể mang bất cứ cái gì ra khỏi đó” (1Tm 6,7).

Vì thế, đừng bám víu quá lẽ vào tiền bạc, mà hãy: “Sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,33), đó là sự sẻ chia cho người nghèo.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: chỉ có sự cho đi thì mới là gia tài của chúng con. Bởi vì khi nằm xuống, những gì chúng con đang có, cũng phải trả lại cho đời. Những gì thuộc về chúng con thì từ nay không còn nữa. Chỉ những gì đã cho đi vì lòng mến thì mới thuộc về chúng con và nó sẽ theo chúng con đến trước tòa phán xét để bênh vực chúng con mà thôi. Amen.

Tác giả:  Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

NGƯỜI KHÔNG NHÌN LẠI

NGƯỜI KHÔNG NHÌN LẠI

Cha Mark Link, S.J.

Chủ đề: “Bí quyết để không nhìn lại là hướng về Đức Giêsu”

Vào năm 1924, ông Eric Liddell là lực sĩ chạy bộ 100 thước nhanh nhất nước Anh. Ai ai cũng tin rằng ông sẽ giựt huy chương vàng Thế Vận Hội ở Balê vào năm đó. Nhưng đột nhiên có vấn đề làm xôn xao dư luận.

Khi chương trình Thế Vận Hội được quảng bá, cuộc chạy đua 100 thước lại xảy ra vào ngày Chúa Nhật. Với ông Eric, giới răn “giữ ngày Chúa Nhật thánh thiện” có nghĩa ông không được chạy đua vào ngày Chúa Nhật. Ông thật buồn.Vào năm 1924, ông Eric Liddell là lực sĩ chạy bộ 100 thước nhanh nhất nước Anh. Ai ai cũng tin rằng ông sẽ giựt huy chương vàng Thế Vận Hội ở Balê vào năm đó. Nhưng đột nhiên có vấn đề làm xôn xao dư luận.

Khi tin đồn khắp nơi là ông Eric sẽ không dự cuộc đua 100 thước, bao nhiêu áp lực đổ lên ông. Ngay cả Hoàng Tử xứ Wales cũng cố can thiệp vào lương tâm của ông. Khi ông quyết định từ chối tham dự cuộc đua, báo chí Anh quốc gọi ông là kẻ phản quốc. Nhưng ông Eric vẫn từ chối không muốn đi ngược với điều ông tin tưởng.

Ông gặp các huấn luyện viên và đề nghị một toán lực sĩ sẽ thay ông chạy đua 100 thước. Còn ông sẽ tham dự cuộc đua 400 thước, dù rằng chưa bao giờ trong đời ông tham dự loại này.

Để rút ngắn câu chuyện, không những ông Eric đã đoạt huy chương vàng cuộc đua 400 thước mà toàn đội của ông cũng đoạt huy chương vàng cuộc đua 100 thước. Thay vì chỉ được một huy chương vàng, các lực sĩ chạy đua của nước Anh đã đoạt được hai huy chương vàng.

Một vài năm sau Thế Vận Hội, ông Erich làm thế giới ngạc nhiên khi ông tình nguyện sang Trung Quốc truyền giáo. Sau đó, người yêu của ông cùng tham gia với ông. Họ kết hôn và có được ba người con xinh đẹp.

Sau đó Thế Chiến II xảy ra, khi nước Nhật tham dự cuộc chiến, ông Eric đưa gia đình sang Gia Nã Đại. Sau đó không lâu, Nhật xâm lăng Trung Quốc. Ông Eric bị bắt và bị đưa vào trại tập trung của Nhật. Ở đây ông tiếp tục sứ vụ, làm việc với các tù binh khác.

Một vài năm sau, ông từ trần một cách anh hùng trong trại tù.

Sau cái chết của ông, vợ ông nhận được rất nhiều lá thư nói về cử chỉ anh hùng của ông Eric khi ở trong trại. Trong các thư khác, có hai người viết là nhờ ông Eric mà họ đã không tự tử.

Vào năm 1980 có người muốn thực hiện cuốn phim về ông Eric và Thế Vận Hội 1924. Khi vợ ông nghe được, lúc ấy bà đang sống ở Toronto, bà nói, “Có ai để ý đến một biến cố xảy ra đã quá lâu về một người không muốn chạy đua vào ngày Chúa Nhật chỉ vì đức tin Kitô Giáo?”

Kết quả không ngờ là cả hàng triệu người muốn lưu ý. Cuốn phim, được gọi làChariots of Fire, không chỉ phá kỷ lục số vé bán mà còn chiếm Giải Academy năm 1982.

Câu chuyện của ông Eric Liddell cho thấy khía cạnh tích cực của lời Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay. Chúa Giêsu nói:

Ai bắt đầu cầy cấy mà còn nhìn lại thì không phục vụ cho Nước Trời.”

Ông Eric Liddel không bao giờ nhìn lại. Một khi ông đã quyết định theo Chúa Giêsu, ông luôn nhìn tới trước. Ông không bao giờ nhìn lại, ngay cả khi phải đương đầu với áp lực của quần chúng. Ông không bao giờ nhìn lại ngay cả khi bị gọi là kẻ phản quốc.

Bí quyết nào giúp ông Eric can đảm không bao giờ nhìn lại?

Bí quyết nào giúp ông trung thành với Chúa Giêsu, ngay cả khi phải đương đầu với sự chống đối trùm lấp?

Bí quyết này nằm trong sự nhận xét của bà quả phụ Eric khi được tờ Toronto Star phỏng vấn. Nói về ông Erich, bà cho biết, “Ông ta luôn luôn dùng giờ phút đầu tiên, thật sớm của một ngày để đọc Kinh Thánh, cầu nguyện và hoạch định chương trình trong ngày.”

Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự can đảm của ông Eric. Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự trung thành của ông đối với Chúa Giêsu. Ông Erich Liddell là một người siêng cầu nguyện. Ông đã có thể luôn cầm lấy cái cầy và không nhìn lại đằng sau vì mỗi sáng ông đều gặp Chúa Giêsu trong sự cầu nguyện.

Vào năm 1982, cùng năm cuốn phim Chariots of Fire được Giải Academy, có một bài báo đăng trong tờ Reader’s Digest. Bài này nói về một giám đốc quảng cáo người Công Giáo, dù rất thành công, bà vẫn cảm thấy cuộc đời trống rỗng.

Một sáng kia, trong cuộc họp với ông cố vấn về tiếp thị, bà đề cập đến sự trống rỗng này.

Ông cố vấn hỏi, “Bà có muốn lấp đầy nó không?” “Dĩ nhiên là có,” bà trả lời. Ông nhìn thẳng vào mắt bà và nói, “Hãy bắt đầu mỗi ngày với một giờ cầu nguyện.”

Bà nhìn ông và nói, “Này ông Don, ông không đùa đấy chứ. Nếu tôi làm như vậy thì còn thời giờ đâu để nghỉ ngơi.” Ông mỉm cười và nói, “Đó cũng là điều mà tôi đã nói cách đây 20 năm.” Sau đó ông nói thêm vài điều khiến bà phải suy nghĩ. Ông nói, “Bà chỉ muốn Thiên Chúa phải phù hợp với chương trình của bà. Thật ra, bà phải thay đổi cuộc đời bà theo chương trình của Thiên Chúa.”

Bà rời cuộc họp trong sự bối rối. Mỗi sáng bắt đầu bằng sự cầu nguyện sao? Mỗi sáng bắt đầu bằng một giờ đồng hồ cầu nguyện sao? Tuyệt đối không thắc mắc!

Dù vậy, vào sáng hôm sau bà đã thi hành đúng như vậy. Và kể từ đó trở đi bà luôn luôn cầu nguyện vào sáng sớm.

Bà thú nhận là lúc đầu điều đó không dễ. Có những sáng bà cảm thấy bình an và vui sướng. Nhưng cũng có những sáng bà chẳng thấy gì ngoài sự buồn chán. Và chính những sáng mệt mỏi này bà nhớ lại những điều mà ông cố vấn tiếp thị đã nói: “Có những lần khi tâm trí bà không muốn đi vào cung thánh của Thiên Chúa. Đó là khi bà phí một giờ đồng hồ trong phòng chờ đợi Thiên Chúa. Tuy nhiên, bà vẫn cố ở đó, và Thiên Chúa quý trọng sự cố gắng của bà. Điều quan trọng là lời hứa.”

Câu chuyện của ông Eric Liddell và bà giám đốc quảng cáo đã thách đố chúng ta. Chúng ta không thể chỉ nghe qua những câu chuyện này và không cảm thấy một tiếng nói bên trong mời gọi chúng ta thi hành điều gì đó tương tự trong đời sống chúng ta.

Nếu chúng ta có khó khăn khi phải để ý đến Chúa Giêsu, nếu chúng ta có khó khăn nắm chặt cái cầy và đừng nhìn lại đằng sau, nếu chúng ta cảm thấy cuộc đời trống rỗng, có lẽ chúng ta phải nghĩ đến lời hứa hằng ngày với Chúa Giêsu.

Lời hứa đó phải là gì? Không ai có thể trả lời câu hỏi đó cho chúng ta. Chúng ta phải tự trả lời. Nhưng chúng ta phải thi hành điều gì đó. Như ông cố vấn tiếp thị đã nói, “Điều quan trọng là lời hứa.”

Hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin dạy con biết quảng đại.
Xin dạy con biết phục vụ Chúa cách xứng đáng;
biết cho đi mà không quan tâm đến giá cả;
biết tranh đấu mà không để ý đến thương tích;
biết cần cù mà không tìm sự an nhàn;
biết lao nhọc và không tìm phần thưởng,
ngoại trừ được biết là con đang thi hành thánh ý Chúa
.”

THẾ HỆ BÁNH MÌ KẸP

sandwich generation

Tôi ra đời giữa hai cuộc chiến, giữa một trăm năm đô-hộ giặc Tây và hai mươi năm nội-chiến từng ngày. Sau đó, tôi được đi du-học và tôi đã sống “vô tư lự” bên trời Âu sung-túc trong khi khói lửa vẫn ngập trời nơi quê nhà.

Giờ đây, bom đạn đã ngừng tiếng nhưng một lần nữa, gia-đình tôi đã phải cuốn gói rời bỏ quê-hương và mấy triệu người Việt-Nam bỗng nhiên phải sống tản mác trên toàn thế-giới như những cây bị bật rễ, ở những chốn dung-thân như Mỹ, Gia-Nã-Đại, Pháp, Úc…

EXODUS

 Phần mất mát vần còn đó, nguyên vẹn, ít ra đối với bố mẹ chúng tôi và chúng tôi, thế-hệ đầu của những người di-dân. Một thế-hệ “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi”, lơ lửng giữa không-gian quê hương, chơi vơi giữa thời-gian thế-hệ, lạc lõng trong tâm-tư văn hoá.  Một thế-hệ “bánh mì kẹp”.

Kẹp giữa hai quê-hương

flags-globe

Những người di-dân này, ngày hôm nay mang sổ thông-hành Mỹ, Pháp, Úc… nhưng vẫn chỉ là Mỹ (Pháp, Úc…) giấy, phần đông tiếng Mỹ (Pháp, Úc…) vẫn còn ba-xí ba-tú, miệng vẫn hôi mùi nước mắm chứ không hôi hamburger hay camembert, vẫn không có bạn bè Mỹ (Pháp, Úc…) mà chỉ sống quanh-quẩn với nhau, tụ-tập nơi những thương-xá, chợ búa Á-Đông, hay rủ nhau “party”, ăn uống, karaoke với nhau.
Những người Mỹ (Pháp, Úc…) gốc Việt này đã đi tìm một nơi nương-tựa để sống “tạm-bợ” nơi xứ người mà trong thâm-tâm còn cố tưởng-tượng như mình đang sống ở quê nhà, và lúc nào có dịp, có phương-tiện là lại vù về Việt-Nam, một số để “hưởng-thụ”, nhưng phần lớn vẫn vì nhớ nhà.

Tôi không nhớ ai đã có nói:  “Ma patrie, c’est là où je suis heureux”
(Quê-hương tôi là nơi chốn nào tôi sống hạnh-phúc)

GOC RE

Tôi muốn tin ông lắm, tôi cũng muốn tự an-ủi mình lắm, nhưng tiếng gọi của cội-nguồn réo rắt lắm, ông ơi. Tôi cứ ngỡ quê-hương là nơi chôn nhau, cắt rốn, là nguồn, là cội, là gốc, là rễ cơ mà ?
Ở hải-ngoại, đương-nhiên chúng tôi được tự-do, phần đông được ăn sung, mặc sướng, đủ tiền mua nhà, chăm lo cho con cái ăn học, đi shopping hay du-ngoạn đây đó… Đời sống này, nhiều đồng-bào ta nơi quê nhà mong mỏi có được, và tôi thừa hiểu chúng tôi « hạnh phúc » hơn rất nhiều người lắm. Tôi không dám than thân, trách phận hay phân-bì với ai cả, chẳng qua nơi đây, tôi chỉ nói lên tâm-sự u-uẩn những người tha-hương chúng tôi mà thôi.
Nhất là trong trường-hợp tôi, hiện đang mang hai quốc-tịch Pháp và Mỹ, sống bên Mỹ nhưng tim vẫn còn « vọng Nam », tâm vẫn còn hướng về Pháp, đôi khi vẫn nhớ về khung trời Bỉ Quốc. Những nơi tôi đã sống, làm sao tôi có thể xóa quên được ?
Quê-hương như người mẹ đã bụng đau, dạ chửa cho tôi ra đời, nuôi-nấng, dậy-dỗ tôi nên người, và quê-hương thứ hai, thứ ba là những bà mẹ đã mở rộng vòng tay, đón-nhận tôi khi tôi không còn chỗ đứng dưới ánh mặt trời.
Ơn-nghĩa này, chúng tôi không quên (từ ngày sang Mỹ, năm 1975, bố mẹ tôi năm nào cũng gửi chút quà giáng-sinh cho gia-đình ông sĩ-quan Mỹ đã giúp nhà tôi sang Mỹ, và sau khi bố tôi mất, mẹ tôi vẫn tiếp-tục gửi, mặc dù người ân-nhân này đã mấy lần đề-nghị nên thôi gửi quà).
Tôi cảm quí những bà « mẹ nuôi » lắm, tôi lại càng xót-thương Mẹ Việt-Nam, quê-hương đau-khổ. Ôi, quê-hương tôi đâu ? Mỹ, Pháp, Úc… ? Hay vẫn là Việt-Nam muôn thuở ?

Kẹp giữa hai nền Văn-hoá

Ngày hôm nay, tôi đã lục-tuần nhưng tôi đã chỉ được sống ở quê nhà có mười tám năm. (Tôi đã mất mát quá nhiều rồi.)

Bao nhiêu năm tháng sống bên Pháp, bên Bỉ, đã rèn đúc tôi với một lối suy-luận, một cách ăn nói, một cách cư-xử xã-giao, một nền văn-hoá mà tôi hãnh-diện mang bên cạnh văn-hoá của mình, Qua bao năm tháng đó, tiếng Pháp đã dần-dà trở thành tiếng tôi thông-dụng nhất, ngay cả để diễn-tả những tâm-trạng sâu-thẳm nhất của mình.
Tuy nhiên, bao nhiêu năm tháng đó chỉ có thể thấm vào cái vỏ bên ngoài, chỉ có thể thay đổi hình-dạng và cử-chỉ của tôi, chỉ có thể tạo nơi tôi những sở-thích ăn mặc, đi đứng, nói chuyện, chỉ có thể tạc lên cái “Tôi” bên ngoài.
Tất cả những năm tháng đó không hề thay đổi nước da hay sắc tóc tôi (tóc tôi chỉ có thể bạc trắng với thời-gian), không hề lay-chuyển âm-điệu tiếng mẹ đẻ của tôi, không hề làm suy-sút kho-tàng văn-hoá tổ-tiên tôi hay nền giáo-dục bố mẹ tôi.
Nước Pháp đã ban thêm cho tôi một nền văn-hoá, nhưng không hề thay-thế nền văn-hoá của tôi.

Nhưng có lẽ đó cũng là nỗi khổ-tâm của tôi, nỗi khổ-tâm của những người di-dân trong thế-hệ đầu? Cây cối làm sao sống thiếu gốc rễ? Con người ta làm sao sống thiếu cội nguồn? Làm sao tôi có thể vui sướng bên ngoài khi bên trong trống vắng?
Tôi có thể thích pot-au-feu hay bouillabaisse nhưng bao giờ tôi cũng vẫn thèm một tô phở đặc-biệt, tái-nạm-gầu-gân-sách-sụn.
Tôi có thể mê một chai Saint Emilion hay một chai Volnay nhưng tôi vẫn nhớ hương-vị mấy chai la-ve “33” của “Brasseries et Glacières d’Indochine” (BGI).
Tôi có thể viết tiếng Pháp giỏi hơn người Pháp trung-bình, nhưng tim tôi bao giờ cũng rung-động khi tôi được đánh dấu hỏi, dấu ngã.
Tôi có thể thích xem phim “action” Mỹ hay nghe Claude Barzotti hát nhưng tôi vẫn thích xem phim bộ… Đại-Hàn (Việt-Nam tôi làm gì có phim hay?), nhưng tôi vẫn thấy thấm-thía hơn khi tôi nghe nhạc Việt, tôi vẫn truyền-cảm hơn khi hát tiếng Việt.
Tôi có thể ngoảnh lại nhìn một cô đầm tóc vàng, mắt xanh nhưng tôi chỉ có thể hạnh-phúc với người đàn bà gọi tôi bằng “Mình ơi!”.

VAN HOA DAN TOC

 Chỉ vì đó là văn-hoá dân-tộc nằm trong máu, trong xương-tủy tôi, vì đó là giáo-dục bố mẹ, ông bà tôi đã truyền lại cho tôi, vì đó là vết-tích của mấy ngàn năm lịch-sử.
Chỉ vì tôi là người Việt-Nam.
Kẹp giữa hai nền văn-hoá. Kẹp giữa hai thế-hệ

Bố mẹ chúng chúng tôi và chúng tôi cùng một làn sóng di-cư (cho dù trong số chúng tôi có những người đã đi trước) nhưng hai điều khổ-tâm cũng có điều khác-biệt.
Quả thật vậy, chúng tôi vẫn cùng một nền văn-hoá với bố mẹ, cùng một nền giáo-dục do cha ông truyền lại. Bố mẹ chúng tôi vẫn được sống với chúng tôi như lúc còn ở Việt-Nam, với nền-tảng Phật-Lão-Khổng, cùng một nhân-sinh quan, cùng một đạo làm người. Chúng tôi vẫn nói tiếng Việt với bố mẹ, tiếp-tục yêu thương, kính-nể bố mẹ, để tiếp-tục lưu-truyền phong-tục, tập quán.
Trong khi chúng tôi giờ bắt-buộc phải chấp-nhận văn-hoá con cháu chúng tôi như một văn-hoá ít nhiều là ngoại-Việt.

CITIZEN SHIP
Vì sự lưu-truyền đó sẽ gián-đoạn từ đây. Con cái chúng tôi đã bắt-đầu nói một thứ tiếng khác và những điều chúng tôi cố-gắng răn-dậy con cái khó lọt qua được màng-lưới thế-giới bên ngoài.
Tôi đã được chứng-kiến một cảnh-tượng mà tôi không bao giờ quên được. Hôm đó, một người bạn có tổ-chức một buổi tiệc họp mặt với hơn sáu mươi bạn hữu để ăn uống, hát hò, nhẩy đầm.
Về khuya, chúng tôi tạm ngưng chương-trình để ăn một bát cháo gà cho ấm bụng và lấy sức chơi tiếp. Lúc đó, đứa con trai chủ nhà từ trên lầu đi xuống với mấy đứa bạn, bật máy truyền-hình lên và nằm xem, ngay giữa sàn nhẩy. Chúng tôi đã bị “chiếm đất” và đợi một lúc, không thấy tình-hình biến-chuyển, quan-khách lần-lượt xin kiếu-từ.
Tôi á-khẩu. Làm sao tôi có thể tưởng-tượng được cảnh này, với nền giáo-dục của tôi? Hôm đó, tôi đã chợt hiểu nền “độc-tài” của con trẻ trong cái quốc-gia tự-do nhất thế-giới này. Nhưng điều tôi phân-vân nhất là trong tình-trạng đó, hai vị chủ nhà, nghĩa là bố mẹ cậu trai trẻ đó, không hề lên tiếng can-thiệp, hầu như làm ngơ, không nhìn thấy điều gì cả.

Trong khi tôi, đầu đã bạc phơ mà mỗi lần sang thăm nhà, Mẹ bảo tôi cạo râu hay đi cắt tóc là tôi vui vẻ làm ngay, chỉ để vâng lời Mẹ, để cho Mẹ vui. Ngược lại, bên Mỹ này, con gái mới mười lăm tuổi đã đánh mắt, thoa son đi học, bố mẹ nói gì được khi trong trường, bạn bè chung quanh đều như vậy, vả lại có thầy bà nào cấm cản đâu? Bên này, con cháu đi xâm mình (tattoo) hay đục vòng sắt vào môi, vào mắt (piercing) thì bố mẹ nào, ông bà nào ngăn cản được?
Nhà chúng tôi lúc trước không giầu có gì nên không bao giờ dám phí-phạm bất cứ gì, ăn cơm phải vét sạch từng hạt, trong khi con trẻ bên này lấy cho đầy đĩa nhưng không ngần-ngại đổ tuốt nửa đĩa thức ăn khi chúng cảm thấy no.

Tôi đã tận mắt thấy những bố mẹ phải khóc tức-tưởi khi bị lũ con xúm vào “mắng”. Ngày nay, bố mẹ nào dám đánh con mà không sợ chúng nó gọi “911”?
“Trời làm một trận lăng-nhăng, ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông”. Ngày nay, thế-giới đảo lộn và chúng tôi đi lộn đầu, để con cái trèo đầu, trèo cổ thôi.
Lúc trước còn ở bên Pháp, tôi vẫn cố gắng mỗi năm lấy máy bay sang thăm bố mẹ, và giờ đây sống bên Mỹ, tôi vẫn đi thăm Mẹ (vì không cùng tiểu bang) và ngoài ra, còn phải đi Pháp thăm con.
Hoá ra, chúng tôi ở trên thì lo cho bố mẹ, ở dưới thì lo cho con cái (ở bất cứ tuổi nào); ở trên thì bị bố mẹ mắng, ở dưới thì bị con trách !?!
Kẹp giữa hai thế-hệ.

Xung-đột cả thế-hệ lẫn văn-hoá

Nói như vậy không phải để trách mắng con cái. Đâu phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó không nói được tiếng mẹ đẻ? Đâu phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó sinh sống tại hải-ngoại? Đâu phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó hoà mình với môi-trường bên ngoài nhiều hơn là với môi-trường gia-đình (nhất là trong cái tuổi thành-niên này)?

CULTURE

Tôi đã có nghe những đứa trẻ nói với bố mẹ: “Bố mẹ đừng trông mong chúng con trở thành người Việt. Văn-hoá của bố mẹ không phải là văn-hoá của chúng con. Chúng con là người Mỹ!” Phũ-phàng thay, đau lòng thay, nhưng chúng nó làm sao hiểu được văn-hoá chúng ta khi chúng nó sống trong một thế-giới mà nền-tảng là “tự-do” và “đồng đô-la”? Làm sao chúng nó có thể nghe lời bố mẹ trong khi sự-thật bên ngoài hầu như khác hẳn?

Có lẽ chính chúng nó có lý. Bổn-phận cha mẹ là giúp con cái thành công cuộc đời chúng nó chứ không phải cuộc đời cha mẹ, giúp chúng nó thành-công ngoài đời, trong môi-trường chúng nó đang sống chứ không phải môi-trường bố mẹ chúng đã sống. Sống ở đâu mà không theo văn-hoá nơi đó thì chỉ có thất bại, mà đâu có cha mẹ nào muốn con mình thất-bại khi ra đời, cho nên đành ngậm cay, nuốt đắng mà thôi.

Đây không phải chỉ là vấn-đề xung-đột thế-hệ (thời-điểm nào chả có vấn-đề này, cho dù không “gây cấn” như vậy), mà còn rắc-rối thêm vấn-đề xung-đột văn-hoá nữa. Làm sao bố mẹ và con cái có thể hiểu nhau và chấp-nhận nhau khi đôi bên không cùng một nền-tảng, cùng những đặc-quan, cùng một nhân-sinh-quan?

Nỗi buồn u-uẩn

Dĩ nhiên tôi không dám vơ đũa cả nắm, không dám nói gia-đình Việt-Nam bên hải-ngoại nào cũng như trên, nhưng có lẽ phần đông là như thế (?)
Nói lên vài điểm cho dễ hiểu, nhưng vấn-đề không giản-dị như vậy và tôi không có khả-năng phân-tích nhiều hơn.
Dù sao đi nữa, đây cũng chỉ là nỗi buồn u-uẩn, ám ảnh tôi từ bao lâu nay, trong mối liên-hệ với tâm-hồn, với văn-hoá, với gốc rễ của mình.
Tôi không tức-giận, không chua chát. Tôi chỉ cảm thấy buồn, tôi không luyến-tiếc quá-khứ, chỉ là tôi cảm thấy buồn.
Vướng mắc giữa hai quê-hương, giữa hai nền văn-hoá, giữa hai thế-hệ, chúng tôi là một thế-hệ “bánh mì kẹp” (đôi khi còn là “bánh bao” nữa). Ngoảnh nhìn lại chỉ còn kỷ-niệm, nhìn về đàng trước thì tương-lai đã bít kín.

subway sandwich
Nhưng thôi, đã biết là mình vướng mắc, là mình “chấp ngã” (như lời Phật dậy) thì chỉ còn có nước “phá chấp”, nghĩa là “buông”, là chấp-nhận.
Vả lại, cha mẹ chúng tôi không có vấn-đề này, con cháu chúng tôi không có vấn-đề này, chỉ có chúng tôi mới có vấn-đề này. Ngày nào cái thế-hệ chúng tôi đi hết rồi thì vấn-đề này sẽ không còn ai bàn đến nữa.
Chúng tôi chỉ là một giai-đoạn chuyển-tiếp, một thế-hệ bị mất mát, bị hy-sinh để dân-tộc di-dân chúng tôi có thể lật qua một trang sử mới. 
Để đời sau, con cháu chúng tôi có hy-vọng thành-công trên đất người, đi tiếp con đường mà chúng tôi đã không đi hết.

sandwich generation

Được như vậy, chúng tôi cũng sẽ mãn-nguyện lắm rồi.
Xin cảm-ơn Trời Phật, xin cảm-ơn phúc-đức ông bà.

Chủ Tiệm Tạp Hoá

Chủ Tiệm Tạp Hoá

Đây là chuyện tôi nghe:

Có thầy tu nọ sống đời tu hành rất mực thánh thiện.  Không kể những lúc bắt buộc phải nhín chút thời gian dành cho các sinh hoạt cần thiết của đời thường, thầy luôn cố gắng thu xếp tối đa thời gian trong ngày để cầu nguyện, tụng kinh, ngồi thiền, v.v… Thế rồi khuya hôm nọ, sau khi xong cữ thiền giờ Tý, thầy đi ngủ và mơ thấy mình dự một buổi tiệc lớn gồm toàn những bậc đạo cao đức trọng.  Trong lúc chủ tiệc chưa ra tiếp khách, mọi người lần lượt được rước tới bàn ăn rất to và dài.  Ai cũng có chỗ ngồi trang trọng theo đúng thứ bậc vì chủ tiệc đã gắn sẵn trên mặt bàn những tấm thẻ nhỏ ghi họ tên từng thực khách.  Thầy thấy mình được vinh dự xếp ngồi gần chủ tiệc, nhưng ở vị trí thứ nhì.  Vị trí thứ nhất dành cho người bán tạp hóa ở khu phố không xa nơi thầy cư trú.

Đầu óc thầy hầu như không còn chỗ nào trống trải cho các tà niệm sái quấy có thể thừa cơ len lỏi vào.  Sau nhiều năm dài tu hành tinh nghiêm, cẩn mật như thế, thầy thấy mãn nguyện trước sự tiến bộ tâm linh.

Sáng hôm sau, thầy tìm tới tiệm tạp hóa, lựa một góc và nhẫn nại đứng quan sát rất lâu.  Tiệm không lớn lắm nhưng lúc nào cũng có khách hàng vào ra nườm nượp. Chủ tiệm chẳng hở tay bán hàng, thu tiền, thối tiền… vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười, nói năng hòa nhã… Tuyệt nhiên không thấy chủ tiệm có cử chỉ, động tác đặc biệt gì tỏ ra ông đang tĩnh tâm hay cầu nguyện.

Nhân một lúc ngớt khách, thầy bước tới chào chủ tiệm và kể lại giấc mơ kỳ lạ.  Chủ tiệm ôn tồn nói:“Tôi cần chiết dầu ăn từ cái thùng hai mươi lít ra hai mươi cái chai xếp sẵn ở góc kia.  Xin thầy giúp một tay, đừng để chai nào đầy quá hay vơi quá, đừng làm sánh dầu ra ngoài chai nhớp nháp; lát nữa sẽ tiếp tục câu chuyện của thầy.”

Thầy chiết dầu vừa xong thì đúng lúc chủ tiệm được ngơi tay bán hàng., ông ta bước tới hỏi: “Nãy giờ cắm cúi lo chiết dầu ra chai, trong đầu thầy có giây phút nào nhớ nghĩ tới Trời tới Phật không?”

Thầy bẽn lẽn: “Tôi làm không quen, ráng tập trung rót dầu vào từng chai theo đúng yêu cầu của ông, mệt toát mồ hôi, do đó chẳng được phút giây nào rảnh trí mà nhớ nghĩ tới Phật Trời!”

Chủ tiệm cười hiền: “Nếu thầy bận bịu buôn bán như tôi cả ngày, lu bu quanh năm suốt tháng, thì tâm thầy ắt xa Trời xa Phật mịt mù luôn! Tôi không có phước lớn để được rảnh rang chuyên lo tu hành như thầy. Tôi chỉ ráng tập thành thói quen cho tâm tôi lúc nào cũng nhớ Trời nhớ Phật… Khi bán hàng cho khách tôi nguyện không để ai phải phiền lòng vì bị cân non đong thiếu, khi chiều chuộng khách hàng tôi nguyện không để ai mích lòng vì thấy tôi thiên vị, gặp khách hàng xấu tính, tôi nói cười nhã nhặn, thầm nhắc nhở:  “Thánh Thần giả dạng thường dân tới thử thách mình đây.” Tôi tu như vậy đó, thưa thầy.

Ngoại trừ những bậc tu hành đã được huấn luyện và có khả năng cũng như có thời gian để chiêm niệm, hầu hết chúng ta như bị cuốn lốc theo chiều sinh hoạt của thế gian.  Tham dự thánh lễ, đi tĩnh tâm, họp nhau cầu nguyện thì cũng chỉ thu gọn trong một thời gian giới hạn nào đó để tâm tình chúng ta được kết hiệp với Chúa, hướng lòng trí lên Đấng tạo dựng ca khen, chúc tụng ngài…  Người Kitô hữu thời nay cần có một tâm hồn thanh vắng giữa bao tiếng động ồn ào của xã hội.

Như người chủ tiệm tạp hoá trên đây bận rộn suốt ngày nhưng ông vẫn chiếm chỗ cao quý nhất trong bàn tiệc của Thượng Đế chỉ vì ông biết cách cầu nguyện trong hành động bình thường hàng ngày

Thánh Têrêsa Hài-đồng-Giêsu nói:  “Đối với tôi, cầu nguyện là sự hứng khởi của tâm hồn, là cái nhìn đơn sơ hướng về trời, là lời kinh tri ân và yêu mến giữa cơn thử thách cũng như lúc hân hoan.”  (trích Tự truyện ‘Một Tâm Hồn’).

Thánh Têrêsa Avila nói:  Khi các chị em ở trong bếp thì chính Chúa sẽ nhẩy nhót trên các soong chảo…”

Ước gì người Kitô hữu cũng biết chiêm trong hành động để chúng ta sống trong Chúa và Chúa sống trong chúng ta.        

Sưu Tầm và Tổng Hợp          

From: KittyThiênKim 

Ôm tiền ra ngoại quốc, cuộc tháo chạy mới ở Việt Nam

Ôm tiền ra ngoại quốc, cuộc tháo chạy mới ở Việt Nam

Nguoi-viet.com

Tập đoàn Kinh Đô đã bán phần lớn cổ phiếu cho nước ngoài. (Hình: Văn Lang/Người Việt)

Tập đoàn Kinh Đô đã bán phần lớn cổ phiếu cho nước ngoài. (Hình: Văn Lang/Người Việt)

Văn Lang/Người Việt

SÀI GÒN (NV) – Cái thời mà người ta nói “Cái cột đèn có chân mà đi được nó cũng đi,” tuy đã xa, nhưng bây giờ Việt Nam đang bắt đầu một cuộc tháo chạy khác.

Đầu tiên phải kể tới sự triệt thoái vốn của các công ty “đại gia” tư nhân, cũng như nhà nước. Các doanh nghiệp tư nhân của người Hoa vùng Chợ Lớn. Dưới chính thể cộng sản, họ bị “chà” đi, “xát”lại không biết bao nhiêu lần. Cho tới khi, tập đoàn bánh kẹo Kinh Đô, vốn xuất thân từ một lò bánh của gia đình, vươn lên thống lĩnh hoàn toàn thị trường Việt Nam. Nó trở thành niềm tự hào của người Hoa, trong giai đoạn làm ăn sau thời “mở cửa.”

Nhưng trong năm 2015, tập đoàn Kinh Đô đã bán tới 80% cổ phần cho tập đoàn Mondele’z International có trụ sở chính nằm tại Hoa Kỳ. Và cũng theo lời của một doanh nhân người Hoa, trong tương lai, cuộc triệt thoái vốn có thể lên tới… 97%.

Vị doanh nhân người Hoa này, lắc đầu ngao ngán, cho biết: “Khi Kinh Đô đã bán cho nước ngoài, thì khó có doanh nghiệp Việt Nam nào còn có thể trụ lại được.”

Hàng loạt công ty tư nhân Việt Nam “phất” lên sau mở cửa. Nay hoặc đã phá sản, hoặc đang đứng trên bờ vực của sự phá sản,với số nợ chồng chất trong ngân hàng. Một số ít còn lại,lặng lẽ âm thầm bán công ty (hoặc đa số cổ phần) cho các công ty nước ngoài.

Người Thái Lan, tuy không ồn ào, nhưng đã mua hầu hết các siêu thị ở Sài Gòn. Và cũng đã lên tiếng sẵn sàng mua lại tập đoàn bia Sài Gòn, niềm tự hào còn sót lại của người Việt.

Trong bối cảnh đó, nhà nước Việt Nam ra quyết định triệt thoái vốn khỏi các tập đoàn mà lâu nay nhà nước là “ông chủ,” tức nắm từ 51% cổ phiếu trở lên.

Trong số danh sách triệt thoái vốn của nhà nước, có cả những tập đoàn lâu nay vốn là “con gà đẻ trứng vàng” cho ngân sách.

Hai cái tên “cộm cán” trong đợt rút vốn này phải kể tới tập đoàn sữa Vinamilk và tập đoàn Viễn Thông FPT (FPT Telecom).

Câu hỏi đặt ra là, tại sao lúc này nhà nước lại rút vốn? Mà lại khuyến khích bán cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài để thu ngoại tệ. Như Vinamilk được khuyến cáo là sẵn sàng để nước ngoài sở hữu 100% cổ phiếu.

Phải chăng nhà nước cộng sản đang cần tiền để trả nợ công (vay của nước ngoài) đã tới thời kỳ phải đáo hạn? Hay là do sức ép đã cam kết khi gia nhập WTO và hiệp định TPP sắp tới?

Nhưng câu trả lời nghiêng về phía cả doanh nghiệp nhà nước lẫn tư nhân ở Việt Nam, đều thấy họ không có khả năng cạnh tranh khi thị trường mở ra thực sự. Nên “khôn hồn” là bán trước, trong khi còn được giá hơn là để phá sản, mất trắng. Tư nhân vẫn tiếp tục điều hành công ty cho ông chủ nước ngoài. Nhà nước thì chỉ việc thâu thuế công ty mới, không quan tâm sợ nó phá sản như khi nhà nước vẫn quản lý.

Nhưng cuộc triệt thoái vốn của phe nhà nước gặp cản trở, vì Bộ Tài Chánh, cũng như Tổng Công Ty Đầu Tư và Kinh Doanh Vốn Nhà Nước (SCIC – State Capital and Investment Corporation) nơi được giao việc quản lý các tập đoàn trên, nay lại được giao việc thoái vốn. Nhất định không chịu nhả miếng “mồi ngon” ra.

Một lo ngại khác, là lợi ích phe nhóm, sẽ định giá cổ phiếu thấp hơn thị trường nhiều lần. Sau đó mua bán, giao dịch “nội bộ” lòng vòng với nhau, bán tài sản quốc gia, thực chất là chia tài sản – mồ hôi, nước mắt, xương máu của nhân dân, cho những nhóm tư bản thân hữu, bọn tư bản đỏ.

Một cuộc tháo chạy khác,là các công ty khởi nghiệp của giới trẻ có học thức ở Việt Nam trong lãnh vực IT và kinh doanh Internet đều chạy qua Singapore. Vì ở đó họ được hưởng chính sách ưu đãi. Còn về thủ tục thì họ chỉ mất có một ngày, trong khi ở Việt Nam phải mất từ 6 tháng tới 1 năm .Chưa kể các khoản “bôi trơn.”

Khi các doanh nhân tháo chạy

Diễn biến mới nhất, một cựu CEO của tập đoàn FPT, đã đem gia đình vợ con đi định cư ở Hoa Kỳ theo diện EB-5.

Theo như bà Kim Hạnh, cựu tổng biên tập báo Tuổi Trẻ cho biết là hiện có một làn sóng người ra đi theo diện EB-5.

Bà Kim Hạnh đồng thời là người trong nhóm sáng lập tờ Sài Gòn Tiếp Thị, từng giữ chức Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại thành phố và hiện nay, điều hành tổ chức tư nhân mang tên “Trung Tâm Nghiên Cứu Kinh Doanh và Hỗ Trợ Doanh Nghiệp” quy tụ nhiều CEO đã thành danh ở Sài Gòn và miền Nam nói chung và cũng là người thường xuyên tiếp xúc với giới doanh nhân.

EB-5 là chương trình đầu tư để nhận thẻ xanh ở Hoa Kỳ.

Trụ sở của tập đoàn sữa Vinamilk tại Phú Mỹ Hưng, quận 7, Sài Gòn. (Hình: Văn Lang/Người Việt)

Trụ sở của tập đoàn sữa Vinamilk tại Phú Mỹ Hưng, quận 7, Sài Gòn. (Hình: Văn Lang/Người Việt)

Có hai mức đầu tư để có thẻ xanh. Mức 500 ngàn Mỹ kim là đầu tư được chỉ định và mức 1 triệu Mỹ kim (không chỉ định). Tối thiểu phải tạo ra việc làm cho 10 người bản địa, được cấp thẻ xanh trong 2 năm, và sau hai năm “tái thẩm” công việc đầu tư hiệu quả tạo công việc lâu dài cho người bản địa sẽ được cấp thẻ xanh… lâu dài.

Tiền đầu tư theo diện EB-5 chỉ cần chứng minh là hợp pháp. Nhưng không phân biệt là tiền đầu tư của cá nhân hay nhà nước. Vì vậy, khá nhiều quan chức Việt Nam và Trung cộng tận dụng tiền đầu tư của công ty nhà nước để tháo chạy sang Hoa Kỳ.

Một doanh nhân trẻ trong làn sóng ra đi diện EB-5,viết trên Facebook cho biết là một du học sinh, trở về nước kinh doanh và thành đạt. Dù thừa nhận là được hưởng “ơn mưa móc” từ chế độ. Nhưng anh ta vẫn quyết dắt gia đình, vợ con ra đi, chỉ vì không muốn con cái của mình suốt đời phải sống trong sự dối trá!

Trong một diễn tiến khác,mới đây quốc hội cộng sản Việt Nam đã bãi miễn tư cách của một nữ đại biểu đương nhiệm. Vì bà này đã dùng tiền đầu tư vào đảo quốc Malta để kiếm quốc tịch Malta. Một cách để lo… tương lai cho mình và con cái sau này.

Theo một thống kê chưa đầy đủ, thì trong năm 2014 chỉ có 6,418 trường hợp đi định cư ở nước ngoài theo diện đầu tư. Thì trong năm 2015,con số đi định cư bằng tiền đầu tư đã tăng vọt lên tới 17,662 trường hợp.

Cũng theo một thống kê, thì trong vòng 5 năm (2008-2013), số tiền từ Việt Nam “đội nón” ra đi là 33 tỷ Mỹ kim. Trong đó có tiền đầu tư để được định cư ở nước ngoài và tiền cho du học sinh một đi không trở lại.

Một doanh nhân trẻ trong làn sóng ra đi, cho rằng nhà nước Việt Nam đang “chảy máu” không chỉ rất nhiều tiền. Mà quan trọng hơn cả là nguồn nhân tài đầy nhiệt huyết kinh doanh cũng đang lần lượt ra đi.

Điều đó giống như sân khấu về khuya, mà còn chỉ toàn đào kép già nua bệnh hoạn. Khán giả ngáp dài, trong khi nhà đèn lại “rung chuông” cảnh báo sắp tới giờ… cúp điện.

Trung Quốc đe dọa chiến tranh ở Biển Đông

Trung Quốc đe dọa chiến tranh ở Biển Đông

 

000_D78JS.jpg

Tàu Trung Quốc trong cuộc diễn tập cấp cứu ở Biển Đông gần Tam Sa, tỉnh Hải Nam về phía nam của Trung Quốc. Ảnh chụp ngày 14 tháng bảy năm 2016.

 AFP PHOTO

Trung Quốc tiếp tục khẳng định chủ quyền lịch sử ở Trường Sa và Hoàng Sa, đồng thời đang cân nhắc áp lực đến từ phía quân đội là phải có phản ứng mạnh mẽ, kể cả việc không ngần ngại đối đầu với chiến tranh.

Đó là nội dung những bản tin được các hãng thông tấn nước ngoài gửi đi từ Bắc Kinh ngày hôm qua, nói về phản ứng mới nhất của Trung Quốc trước những căng thẳng đang xảy ra ở Biển Đông, đặc biệt sau khi Trọng Tài Thường Trực Quốc Tế ra phán quyết nói rõ Bắc Kinh không có chủ quyền lịch sử lẫn pháp lý ở vùng biển đảo mà họ tự nhận là của mình.

Bằng mọi giá

Bản tin của hãng thông tấn AP cho biết tối Chủ Nhật vừa rồi khi tham dự buổi chiêu đãi tổ chức tại Bắc Kinh để chào mừng 89 năm ngày thành lập quân đội Trung Quốc, Tướng Thường Vạn Toàn, Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Quốc nói rằng nhân dân và quân đội Trung Quốc cương quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải, bảo vệ an ninh và quyền lợi của quốc gia.

Vị Tướng Bộ Trưởng Quốc Phòng nói với những người có mặt trong buổi tiếp tân là chủ quyền và quyền lợi của Hoa Lục sẽ được bảo vệ bằng mọi giá.

Trong bản tin cũng nói về buổi chiêu đãi này, Tân Hoa Xã cho hay ông Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Quốc cũng nói rằng Hoa Lục chẳng bao giờ sợ chiến tranh, nhưng chắc chắn mong muốn thấy hòa bình.

Bản tin của AP cũng cho hay Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Quốc chính là người chủ trương cải tạo các bãi đá, xây dựng căn cứ và phi trường ở những hòn đảo nằm trong vùng 9 đoạn, còn được gọi là vùng lưỡi bò, mà Trung Quốc tự vẽ ra và nói chủ quyền thuộc về họ.

Vẫn theo AP, Tướng Thường Vạn Toàn còn là người rất thân cận với lãnh tụ Tập Cận Bình, sẵn sàng ủng hộ chính sách cứng rắn nếu ông Tập muốn thực hiện trong cuộc tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.

Sẵn sàng phản ứng mạnh với Mỹ

Trong bản tin cũng đánh đi từ Bắc Kinh, hãng thông tấn Reuters trích dẫn những nguồn tin thân cận với giới lãnh đạo và quân đội Trung Quốc nói rằng hiện có xu hướng muốn phản ứng mạnh hơn với Hoa Kỳ và các nước đồng minh của Mỹ trong khu vực, bất chấp chuyện va chạm quân sự có thể xảy ra.

httpv://www.youtube.com/watch?v=98IiLrDz6NQ#t=169

Một trong những nguồn tin này nói với hãng thông tấn Reuters rằng quân đội Trung Quốc đã sẵn sàng để “đánh sặc mồm” những nước đang gây khó khăn cho Hoa Lục, tương tự như hồi 1979 lãnh tụ Đặng Tiểu Bình đã ra lệnh mở cuộc chiến với Việt Nam.

Cũng theo Reuters, mặc dù có xu hướng muốn phản ứng mạnh như vừa nói trong quan ngũ, nhưng các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải cân nhắc rất kỹ trước khi đưa ra quyết định.

Một nhà ngoại giao đang làm việc tại Bắc Kinh cho rằng điều Trung Quốc lo ngại là sẽ gặp phản ứng mạnh của thế giới, một nguồn tin khác lại nói với hãng thông tấn Reuters là hải quân Trung Quốc không đủ sức để đối đầu với hải quân Hoa Kỳ.

Nguồn tin này nói thêm nếu chiến tranh bùng nổ thì chính người dân Hoa Lục sẽ bị thiệt thòi, do đó, chiến tranh là điều khó có thể xảy ra.

Dựng vùng nhận dạng phòng không

Những bản tin mà chúng tôi ghi nhận được trong ngày hôm nay không nói lãnh đạo chính quyền và quân đội Bắc Kinh sẽ quyết định như thế nào.

Reuters cho hay khi được hỏi liệu quân đội có thể thúc đẩy các nhà lãnh đạo đảng và chính phủ phải có phản ứng mạnh hơn ở Biển Đông hay không, phát ngôn viên Dương Vũ Quân của Bộ Quốc Phòng Trung Quốc chỉ nói là quân đội sẵn sàng bảo vệ chủ quyền và quyền lợi lãnh hải bằng mọi giá.

Ông này cũng nói là Trung Quốc luôn luôn góp phần xây dựng ổn định và hòa bình, nhưng đồng thời sẵn sàng đối phó với mọi đe dọa và thử thách.

Vẫn theo Reuters, có thể Bắc Kinh sẽ loan báo dựng vùng nhận dạng phòng không tại Biển Đông, đặt những hệ thống hỏa tiễn và máy bay ném bom có khả năng bắn hạ những mục tiêu ở Philippines và Việt Nam, đồng thời tiếp tục thực hiện những cuộc tập trận ở Biển Đông, trong vùng biển mà Bắc Kinh tự nhận là có chủ quyền.

Reuters trích dẫn một nguồn tin thân cận với thành phần lãnh đạo đảng ở Bắc Kinh, nói thêm rằng giới lãnh đạo Trung Quốc tin rằng hải quân Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hiện diện tại Biển Đông, nên chuyện va chạm có thể xảy ra.

Mỹ sẽ không ngồi yên

Bản tin cũng trích dẫn lời một nhà ngoại giao đang làm việc tại Bắc Kinh cho rằng từ giờ đến tháng Chín tình hình sẽ yên ắng, vì Trung Quốc không muốn tạo căng thẳng trước khi tổ chức Thượng Đỉnh G-20 tại Hàng Châu, nhưng có thể Bắc Kinh sẽ có quyết định hay hành động nào đó trong khoảng thời gian sau ngày thượng đỉnh G-20 kết thúc và trước đầu tháng 11/2016, là thời điểm bầu cử tổng thống Mỹ.

Nhà ngoại giao không nêu tên này nói thêm Trung Quốc sẽ sai lầm nếu nghĩ rằng Hoa Kỳ ngồi yên, không có phản ứng đáp trả.

Cũng xin nhắc lại theo quan điểm của Hoa Kỳ, phán quyết mà Tòa Trọng Tài Quốc Tế mới đưa ra hồi tuần trước có giá trị pháp lý, đòi hỏi các nước can dự vào vụ tranh chấp chủ quyền phải tôn trọng.

Washington cũng xem phán quyết này là một dấu mốc quan trọng, giúp các nước ngồi lại để cùng giải quyết cuộc tranh chấp.

Ngoài ra, hồi tuần trước Hoa Kỳ còn cử Bà Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Susan Rice sang Bắc Kinh, kêu gọi Trung Quốc và các nước liên can không nên có những hành động hay tuyên bố có thể tạo thêm căng thẳng.

Đó cũng là điều Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đưa ra ở Vientaine, khi có mặt dự hội nghị ASEAN mở rộng.

Vì sao học sinh Việt Nam “tỵ nạn giáo dục” tại Mỹ ngày càng tăng?

httpv://www.youtube.com/watch?v=wO9rAZXz3E4

Vì sao học sinh Việt Nam “tỵ nạn giáo dục” tại Mỹ ngày càng tăng?

Khi nói đến giáo dục là nói đến hệ thống giá trị, nói cách khác là giải đáp câu hỏi “ta muốn đào tạo con em ta thành loại người gì?”. Sự kiện phụ huynh trong nước tìm mọi cách để cho con em du học cho thấy họ không chấp nhận con em họ trở thành loại người mà đảng cộng sản muốn. Ở Mỹ, giáo dục là để phát triển con người toàn diện. Học sinh được đào tạo để suy nghĩ cho chính mình, để có niềm và tự hào thực hiện ước mơ của mình, để ý thức được chỗ đứng của mình trong xã hội, và để có đầu óc phê phán về hiện tình xã hội. Những giá trị đó, giáo dục của cộng sản Việt Nam không hề có.

From SBTN

Anh chị Thụ & Mai gởi

Hiểm họa Trung Cộng và bài học Tây Tạng

Hiểm họa Trung Cộng và bài học Tây Tạng

Trần Trung Đạo (Danlambao) – Việt Nam chỉ hơn Tây Tạng một điểm duy nhất là còn thời gian dù rất ngắn để quyết định số phận của mình. Chọn lựa của dân tộc Việt Nam hôm nay, do đó, là chọn lựa giữa tiếp tục sống dưới chế độ độc tài CS để rồi mất nước, hay dân chủ hóa, hiện đại hóa nhanh chóng để có thể ngăn chặn được bước chân Trung Cộng. Nếu chỉ biết nhịn nhục, cúi đầu, một ngày không xa họa diệt vong sẽ tới. Đến lúc đó, đừng oán trách chi ai, đừng đỗ thừa cho ai khác, ngoài oán trách, đỗ thừa cho sự ươn hèn, nhu nhược của chính mình…

*

Hôm nay, ít ra một nửa của học viện Larung Gar nổi tiếng thế giới đang bị phá hủy. Dù che giấu dưới bất cứ lý do gì, thực chất của việc phá hủy cũng chỉ nhằm xóa bỏ nền văn hóa lâu đời của Tây Tạng. Chính sách đồng hóa Tây Tạng không chỉ bắt đầu mới đây mà từ năm 1950 khi Trung Cộng xua quân chiếm đóng nước này.

Giống như các chế độ CS khác, chế độ CS tại Trung Quốc nói chung và Tây Tạng nói riêng tồn tại nhờ vào hai phương tiện được thực hiện song song và có tác dụng hỗ tương: trấn áp bằng bạo lực và tẩy não bằng tuyên truyền.

Hơn nửa thế kỷ trôi qua, dân tộc nhỏ nhoi nhưng được xem như là “mái che” của thế giới với đỉnh Mt Everest cao 8,848 mét đang chịu đựng dưới chính sách trấn áp khắc nghiệt của Trung Cộng, nhất là tại các nhà tù.

Nếu nhà tù San Quentin được xây ở Tây Tạng

Đại sư Chagdud Tulku là một bậc cao tăng của Phật Giáo Tây Tạng. Trước khi viên tịch vào năm 2002, ngài được thỉnh giảng tại nhiều trường đại học danh tiếng ở Mỹ và Châu Âu. Đại sư rất được trọng vọng và những lớp giảng của ngài có hàng ngàn người tham dự. Tuy nhiên, ngài không quan tâm đến số đông hay danh dự dành riêng cho ngài nhưng sẵn lòng đi đến bất cứ nơi nào cần sự có mặt của mình dù nơi đó là một khu biệt giam dành cho tử tù và dù chỉ để làm lễ thọ giới cho một tù nhân. Nơi ngài đến là nhà tù San Quentin, tiểu bang California và người được ngài quy y là tử tù Jay Master đang thọ án tử hình. Nghi thức diễn ra ngay tại phòng thăm viếng của nhà tù vào năm 1989.

Như Jay Master kể lại trong blog của anh. Hôm đó, đại sư Chagdud Tulku đến nhà tù San Quentin rất sớm. Ngài ngồi im. Những ngón tay nâu đậm đầy vết nhăn đang lặng lẽ lần tràng hạt. Đôi mắt ngài như đang chiêm nghiệm những gì đang xảy ra chung quanh. Vạt áo tràng với những nút màu xám phủ dài trên sàn phòng đợi rất ồn ào với đủ hạng người đang chờ giờ thăm viếng thân nhân. Có người bực dọc lớn tiếng vì chờ đợi quá lâu.

Để làm dịu không khí, đại sư Chagdud Tulku chia sẻ với mọi người một câu chuyện cũng về nhà tù, không phải San Quentin ở Mỹ mà một “San Quentin” trên quê hương Tây Tạng của ngài. Trong nhà tù ở Tây Tạng, tù nhân bị đày đọa thảm khốc và chịu đựng hình phạt nặng nề hơn tù nhân ở Mỹ nhiều.

Đại sư Chagdud Tulku kể rằng người Trung Quốc bắt tù nhân Tây Tạng đào một hố thật sâu. Cái hố sâu đó chính là nhà tù. Những người tù Tây Tạng sống, ăn ở và phơi bày thân thể dưới cả nắng mưa như thế cho đến chết. Ngay cả sau khi chết đi, tù nhân cũng bị chôn trong lòng hố sâu đó. Ngài kể rằng ở Tây Tạng có sáu mươi ngàn tù nhân bị giam giữ trong tình cảnh đau thương đó.

Nhân loại kết án Hitler, Pol Pot. Dĩ nhiên những ác nhân kia xứng đáng với mọi lời nguyền rủa của người đời. Nhưng nếu so sánh phương pháp giết người bằng lò hơi ngạt của Hitler hay bằng cuốc xẻng đánh vào đầu của Pol Pot, phương pháp của Trung Cộng còn tàn ác gấp nhiều lần. Tù nhân Tây Tạng chết lâu hơn, chết dần mòn hơn trong đói khát, nắng mưa, bịnh hoạn, lở loét, thối rữa và thân xác cuối cùng cũng bị chôn vùi dưới đáy hầm sâu.

Nhưng đó chỉ là một trong hàng trăm phương pháp đọa đày mà dân tộc Tây Tạng đã và đang chịu đựng sau “Nổi dậy Lhasa” vào tháng Ba, 1959 bị dập tắt.

Không giống như thập niên 1950 khi tội ác của Trung Cộng còn được dễ dàng che giấu, trong thời đại tin học ngày nay, những cảnh đàn áp dã man đã được tiết lộ ra ngoài bằng hình ảnh và cả phim ảnh. Thế giới bàng hoàng khi chứng kiến cảnh công an Trung Cộng đánh đập các nhà sư hay thường dân Tây Tạng không một phương tiện gì để tự vệ hay kéo lê lết họ trong máu me trên đường phố Lhasa.

Cách phản kháng tuyệt vọng nhưng phổ biến nhất của tu sĩ và nhân dân Tây Tạng là tự thiêu để gây tiếng vang trước dư luận quốc tế. Chỉ trong vòng sáu năm từ tháng 2 năm 2009 đến tháng 4 năm 2015 đã có 138 tu sĩ và thường dân Tây Tạng tự thiêu tại nhiều nơi để phản đối chính sách diệt chủng của nhà cầm quyền Trung Cộng. Riêng năm 2012 đã có 86 vụ tự thiêu. Ngọn lửa được thắp lên bằng xương thịt dường như chưa đủ sáng lương tâm loài người và đêm đen Tây Tạng.

Quan điểm “chủ quyền lịch sử” của Trung Cộng đối với Tây Tạng

Dù là văn hóa, lịch sử hay lãnh thổ, quan điểm chung của Trung Cộng là nơi nào các triều đại Trung Hoa từng đô hộ nơi đó thuộc về Trung Hoa. Đó là lý do một học giả Trung Cộng năm 1996 đã từng tuyên bố ở Hong Kong rằng trống đồng Đông Sơn là của Trung Hoa chứ không phải của Việt Nam vì trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn Việt Nam thuộc Trung Hoa.

Quan điểm bá quyền hoang tưởng và ngang ngược của Trung Cộng đi ngược với các nguyên tắc về chủ quyền của thế giới. Napoleon từng là vua không chỉ của Pháp mà còn của cả một phần lớn châu Âu trong đầu thế kỷ 19 nhưng ngày nay không một học giả Pháp nào cho rằng Ý, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ v.v… phải thuộc vào nước Pháp.

Nhân Dân Nhật Báo tóm tắt quan điểm của Trung Cộng đối với vấn đề Tây Tạng trong bình luận vào tháng 4, 2008: “Trong hơn 700 năm, chính phủ trung ương Trung Hoa đã liên tục thực hiện chủ quyền của Trung Hoa tại Tây Tạng và Tây Tạng chưa bao giờ là một nước độc lập. Không một chính phủ nào trên thế giới thừa nhận Tây Tạng… Kể từ khi giải phóng hòa bình năm 1951, Tây Tạng đã tiến hành các thay đổi xã hội sâu sắc bao gồm các cải cách dân chủ, mở cửa và đạt được các tiến bộ xã hội đáng kể”.

Không ai chối cãi trước 1950 Tây Tạng còn là một nước nghèo, lạc hậu về kinh tế, tuổi thọ thấp, thiếu thốn các phương tiện giao thông nhưng đó không phải là lý do để Trung Cộng xua 40 ngàn quân xâm lược một quốc gia mà quân đội chỉ có 4 ngàn.

Lý luận của Trung Cộng là lý luận của kẻ cướp

Những lời ngụy biện của thực dân đỏ Trung Cộng trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay không khác gì cách giải thích “đến để khai hóa” mà thực dân trắng Âu châu đã dùng với các nước Á châu và Phi châu từ thế kỷ thứ 15.

Từ nhiều ngàn năm trước, Tây Tạng đã là một dân tộc có một nền văn hóa cao, thuần nhất với các giá trị độc đáo riêng tồn tại song song bên cạnh các nền văn hóa khác. Các triều đại Tây Tạng ra đời từ thế kỷ thứ nhất sau công nguyên và vào thế kỷ thứ bảy đã xây dựng nên một quốc gia hùng mạnh với lãnh thổ trải rộng qua nhiều quốc gia vùng Trung Á, kể cả một phần của Trung Hoa. Nhiều trăm năm Tây Tạng đã là một nước hoàn toàn độc lập. Dĩ nhiên, giống như hoàn cảnh các nước nhỏ khác trong vùng, khi yếu kém Tây Tạng lại phải chịu lệ thuộc vào các nước mạnh không chỉ Trung Hoa mà có khi còn bị ảnh hưởng bởi Mông Cổ hay Nepal.

Các dân tộc, dù lớn bao nhiêu, trong lịch sử ít ra cũng một lần bị ảnh hưởng bởi ngoại bang nhưng không phải vì thế mà quốc gia đó thuộc về ngoại bang. Giống như lịch sử đầy hy sinh xương máu đã diễn ra tại Việt Nam suốt hàng ngàn năm, chặng đường bị lệ thuộc vào Trung Hoa của Tây Tạng cũng được đánh dấu bằng những cuộc nổi dậy anh hùng của các thế hệ Tây Tạng. Bởi vì trong máu huyết, Tây Tạng chưa bao giờ là một phần của Trung Hoa trước đây hay Trung Cộng ngày nay.

Sự sụp đổ của nhà Thanh là cơ hội để nhân dân Tây Tạng phục hồi toàn bộ chủ quyền đất nước chứ không phải đó chỉ là lần đầu tiên dân Tây Tạng vốn đã thuộc Trung Hoa bỗng dưng đứng lên đòi độc lập.

Và từ 1913, Tây Tạng là một quốc gia có chủ quyền, độc lập, có ngôn ngữ riêng, chính phủ riêng, hệ thống tư pháp riêng, bưu điện riêng, đơn vị tiền tệ riêng, hộ chiếu quốc tế riêng. Hộ chiếu do chính phủ Tây Tạng cấp năm 1947 được các quốc gia lớn như Ấn Độ, Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Thụy Sĩ, Iraq, Hong Kong chấp nhận và đóng dấu cho phép thông hành.

Theo công pháp quốc tế, một quốc gia sẽ không chuẩn y và đóng dấu vào chiếu khán do chính phủ của một quốc gia khác cấp nếu không thừa nhận chính phủ của quốc gia đó. Khi đóng dấu thông hành, các cường quốc Anh, Mỹ, Ấn, Pháp, Ý trong thực tế đã thừa nhận vai trò lãnh đạo của chính phủ Tây Tạng. Việc công nhận hay chưa công nhận trong bang giao chỉ là thủ tục ngoại giao, nhất là trong giai đoạn từ 1913 đến 1950 Tây Tạng vẫn chưa được quốc tế biết nhiều và cả thế giới phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt.

Trung Cộng tự hào là nước lớn nhưng không có nghĩa được mọi quốc gia công nhận họ. Mỹ không công nhận Trung Cộng mãi tới 1972 và chậm hơn nữa cho tới tháng 10, 1990 Singapore mới công nhận Trung Cộng. Ngay cả hiện nay vẫn có đến 21 quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc không công nhận Trung Cộng.

Tây Tạng có đủ bốn tiêu chuẩn quốc tế để xác định một quốc gia gồm chủ quyền, chính phủ, lãnh thổ và dân số, trong lúc Trung Cộng không đưa một lý do gì, một chứng minh gì ngoài “chủ quyền lịch sử” mà họ luôn bám vào trong mọi cuộc tranh chấp lãnh thổ.

Trung Cộng viện lý do “Tây Tạng đã là một phần của Trung Quốc suốt bảy trăm năm”. Bảy trăm năm thì sao? Bảy trăm năm tại Tây Tạng hay một ngàn năm tại Việt Nam cũng chỉ là thời kỳ đô hộ, cưỡng chiếm và cai trị bằng sắt máu. Thời gian đó không có giá trị gì một khi dân tộc bị trị đủ mạnh để đứng lên giành độc lập.

Chính sách xóa bỏ Tây Tạng của Trung Cộng được thực hiện bằng hai cách, (1) diệt chủng văn hóa qua việc tàn phá chùa chiền, bôi nhọ đức Đạt Lai Lạt Ma, buộc Hoa Ngữ là ngôn ngữ chính thức, học sinh phải học lịch sử từ quan điểm Trung Cộng, và (2) đồng hóa chủng tộc qua việc định cư ồ ạt người Hán vào Tây Tạng, tập trung nền kinh tế Tây Tạng trong tay người Hán. Chính Mao Trạch Đông trong Tuyển Tập Mao Trạch Đông xuất bản có hiệu đính năm 1987, đã thừa nhận cho tới năm 1952 cũng “không có một người Hán nào ở Tây Tạng” nhưng hiện nay số người Hán tại Tây Tạng đông hơn chính người Tây Tạng.

Bài học cho Việt Nam

Ngoại trừ những buổi tiếp xúc đức Đạt Lai Lạt Ma một cách không chính thức của các tổng thống Mỹ hay một hai lá thư phê bình cách đối xử nặng tay của nhà cầm quyền Trung Cộng, chưa một lãnh đạo cường quốc nào có một biện pháp tích cực và hữu hiệu để ngăn chặn lưỡi đao Trung Cộng.

Đơn giản bởi vì Tây Tạng không có những mỏ dầu khí lớn như Iraq, không có những mỏ kim cương lớn như Nam Phi và cũng không giữ vị trí chiến lược như Thổ Nhĩ Kỳ. Các quốc gia Tây Phương không thể hy sinh các quyền lợi vật chất quá lớn với Trung Cộng chỉ để bảo vệ các giá trị tinh thần cho một nước nhỏ xa xôi. Cuộc đấu tranh, đầu tiên cho đến cuối cùng, vẫn là tranh đấu bằng máu xương, hy sinh và chịu đựng của dân tộc Tây Tạng.

Đối với trường hợp Việt Nam, không cần phải phân tích nhiều mà chỉ thay chữ Tây Tạng bằng chữ Việt Nam trong bài viết, sẽ thấy một viễn ảnh Việt Nam đen tối hiện ra.

Tập Cận Bình đang gấp rút xây dựng các căn cứ quân sự và dân sự trên Biển Đông nhằm mở rộng vòng đai an ninh và sự hiện diện ngoài lục địa. Nếu họ Tập thành công, Việt Nam có khả năng nằm bên trong “không gian sinh tồn” của Trung Cộng và đặt các cường quốc vào thế đã rồi như trường hợp Hitler chiếm Áo vào tháng Ba, 1938 trước sự làm ngơ của Anh và Pháp.

Việt Nam chỉ hơn Tây Tạng một điểm duy nhất là còn thời gian dù rất ngắn để quyết định số phận của mình. Chọn lựa của dân tộc Việt Nam hôm nay, do đó, là chọn lựa giữa tiếp tục sống dưới chế độ độc tài CS để rồi mất nước, hay dân chủ hóa, hiện đại hóa nhanh chóng để có thể ngăn chặn được bước chân Trung Cộng. Nếu chỉ biết nhịn nhục, cúi đầu, một ngày không xa họa diệt vong sẽ tới. Đến lúc đó, đừng oán trách chi ai, đừng đỗ thừa cho ai khác, ngoài oán trách, đỗ thừa cho sự ươn hèn, nhu nhược của chính mình.

30.07.2016

Trần Trung Đạo

danlambaovn.blogspot.com

Nga đối diện với một tương lai đen tối – Có cách nào để thoát ra không?

Nga đối diện với một tương lai đen tối – Có cách nào để thoát ra không?

Tác giả: David Satter

Dịch giả: Phạm Đức Duy & Lê Minh Nguyên

31-7-2016

Lời dịch giả: Đây là một đoạn trích ra từ cuốn sách mới của nhà nghiên cứu David Satter, “The Less You Know, the Better You Sleep: Russia’s Road to Terrorism and Dictatorship Under Yeltsin and Putin” (Bạn biết càng ít, bạn ngủ càng ngon: Con đường đưa nước Nga đến khủng bố và độc tài dưới thời Yeltsin và Putin).

Tương lai tốt nhất cho nước Nga là loại bỏ chế độ Putin bằng một cuộc bầu cử tự do và công bằng. Nhưng gần như việc này sẽ không thể xảy ra. Chỉ khi nào có một cuộc nổi dậy rất lớn từ bên dưới, đội ngũ an ninh và quân đội trở nên thờ ơ với việc bảo vệ chế độ, nhóm lãnh đạo đương thời bị phân chia để ít nhất một phần trong số họ đứng về phía quần chúng thì mới lật đổ được chế độ Putin.

[Lê Minh Nguyên: Do hệ thống chính trị được thiết kế từ ban đầu là không thể thay đổi, trừ khi bị sụp đổ, Cộng Sản Việt Nam cũng tương tự, không muốn và không có khả năng thay đổi qua dân chủ pháp trị. Sự thay đổi thực sự nếu có ở VN là do dân chúng đứng lên mà ra, với sự trung lập của lực lượng đàn áp và một mảng của Đảng tách ra đứng cùng quần chúng].

Trong những trường hợp này, điều quan trọng cần được nhấn mạnh đến là những lời hiệu triệu (the banners) mà từ đó một cuộc cách mạng dân chủ sẽ xảy ra. Cái mà nước Nga cần là một ý thức (consciousness), có khả năng hướng dẫn một phong trào quần chúng để tiến đến sự cam kết cho các giá trị phổ quát.

Khuynh hướng của Nga sử dụng con nguời (individual) như vật liệu sổi (raw material) để thực hiện những tham vọng của nhà nước đã ăn sâu bắt rễ vào tâm lý quốc gia, nó đã giúp cho sự chiến thắng của chủ nghĩa cộng sản và sau đó nó định vị cho chủ nghĩa tư bản không luật pháp, để rồi ngày nay dẫn đến một quốc gia tội phạm.

Để xây dựng việc tôn trọng con người như nền tảng cho một sự bắt đầu mới, nước Nga cần phải có một cái nhìn chân thật vào quá khứ của chính mình. Nga đã thất bại trong việc đối diện với sự thật về các tội ác của chế độ cộng sản, nhưng có lẽ càng cấp bách hơn nữa cho nước Nga là sự đối mặt với những tội ác xảy ra sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ. Điển hình là thảm sát tại tháp truyền hình Ostankino vào năm 1993, pháo kích vào Nhà Trắng Nga, tình trạng đạo tặc trong quá trình tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh, các cuộc đánh bom những chung cư năm 1999, việc bao vây tấn công Nhà hát Moscow năm 2002, bao vây tấn công trường học Beslan năm 2004, dùng phóng xạ đầu độc Alexander Litvinenko ở London, những vụ ám sát Anna Polikovskaya, Sergei Yuschenkov, Yuri Shchekochikhin, Paul Klebnikov, Natalya Estemirova và Boris Nemtsov.

[LMN: CSVN cũng như Nga, sử dụng con người như đồ vật thí nghiệm cho sự nắm quyền bằng mọi giá của Đảng. Những vụ giết dân tập thể Tết Mậu Thân ở Huế năm 1968, Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, đầu độc phóng xạ Nguyễn Bá Thanh, ám hại Nguyễn Hữu Thắng (Cục trưởng Cục đường sắt VN), Dương Văn Đầy, ĐS Đinh Bá Thi, tướng Thi Văn Tám, thượng tướng Nguyễn Khắc Nghiên… Hiện nay, tuy giữ Mác-Lê làm bình phong để nắm quyền, CSVN đang theo chủ nghĩa tư bản không luật pháp, cướp ngày là quan của chế độ đạo tặc].

Trong số những tội ác này, quan trọng nhất là những vụ đánh bom các chung cư năm 1999. Những vụ đánh bom ở Moscow, Buinaksk và Volgodonsk là hậu quả của nước Nga tội phạm dưới thời Boris Yeltsin và là chìa khóa để Putin nổi lên nắm quyền. Người ta có thể lập luận rằng không có chứng cớ về tội lỗi của Yeltsin và Putin trong các vụ đánh bom này. Điều này đúng, nhưng chỉ đúng trong ý nghĩa là khi có một toà án công lý (độc lập) xử và công bố ra như vậy cho kẻ bị truy tố phạm tội. Chế độ Putin đã không bao giờ đối mặt với một tòa án của luật pháp như thế, do bởi chính họ kiểm soát tiến trình pháp lý và ở trong vị trí thu thập rồi giấu diếm các bằng chứng. Toàn bộ các chứng cớ của hoạt cảnh (circumstantial evidence) – nó không giống như chứng cớ trực tiếp (direct evidence) vì không thể nào giả tạo ra được – cho ra một bức tranh tội lỗi của chế độ một cách hết sức thuyết phục, mà nếu đây là một vụ án hình sự cá nhân, kết quả tội lỗi sẽ rất rõ ràng và không thể chối cãi.

Cho đến nay, chế độ đã ngăn chận ba nỗ lực để tiến hành cuộc điều tra độc lập về các vụ đánh bom những chung cư, cũng như ngăn chận điều tra các vụ ám sát những cá nhân đã cố gắng điều tra độc lập các vụ đánh bom trên, điều này cho thấy sự nghi can chạy tội của chế độ. Nếu chính quyền muốn bác bỏ những cáo buộc về việc họ tham gia vào các vụ đánh bom chung cư, họ lẽ ra nên công bố các bằng chứng quan trọng cho các cuộc điều tra độc lập, đặc biệt là những quả bom đã được đặt dưới hầm của tòa nhà Ryazan và bị cơ quan an ninh FSB tịch thu và giấu kín (sequestered), (không cho điều tra) vi phạm trực tiếp pháp luật về bí mật nhà nước.

Nga hiện nay đối mặt với một tương lai đen tối. Ðiều cấp thiết nhất cho nước Nga là một ủy ban điều tra sự thật, giống như Ủy ban về Sự thật và Hòa giải của Nam Phi, ngõ hầu có thể điều tra một cách khách quan những tội ác thời hậu cộng sản và công bố kết quả với nhân dân Nga. Nhiều tội ác thật là khủng khiếp, nên sự nhận thức về bản chất thật sự của chúng sẽ rất quan trọng trong việc xây dựng một xã hội dân chủ mới.

[LMN: VN hiện nay cũng đang đối mặt với một tương lai đen tối, nhiều tội ác thật là khủng khiếp đã xảy ra, chính quyền càng ngày càng có hiện tượng biến VN trở thành một quốc gia tội phạm, văn hoá lành mạnh đã bị phá nát, mua quan bán chức để đạo tặc tài nguyên quốc gia và hút máu đồng bào. Đảng đang đi con đường tội phạm của Nga và dân muốn đi con đường dân chủ của Ukraine].

Trong trường hợp Nga có thể bắt chước được các kinh nghiệm của Ukraine trong việc lật đổ một chế độ tội phạm, thì việc triệu tập một Quốc Hội Lập Hiến mới, có khả năng soạn ra một hiến pháp, cao cả đặc định (enshrining) việc phân chia quyền lực, sẽ là một điều hết sức cần thiết. Nga chưa bao giờ phục hồi lại được từ sự dẹp bỏ Quốc Hội Lập Hiến hồi Tháng Giêng năm 1918; do vậy mà cấu trúc chính trị ở Nga đã luôn luôn được sử dụng như những công cụ cho sự chuyên quyền (arbitrary power).

Người dân Nga có tư tưởng dân chủ có lẽ chiếm không quá 10-15 phần trăm dân số, nhưng kinh nghiệm của thời kỳ Đổi Mới và Tái Cấu Trúc (perestroika) cho thấy rằng họ có thể hướng dẫn hàng triệu người khác theo cùng. Tuy nhiên, để làm được điều này, họ sẽ cần phải đối mặt với sự thật về kinh nghiệm “dân chủ” hậu Xô Viết tại Nga (dân chủ giả). Có làm như thế thì mới giúp cho đất nước được thực sự trong sáng. Các lực lượng dân chủ mới có thể phá vỡ được lịch sử bi thảm của nước Nga và tạo nền tảng cho tương lai của đất nước. Họ chỉ cần tập trung vào giá trị của con người và để cho sự thật dẫn dắt họ.

Tác giả: Ông David Satter là nhà báo Mỹ và là chuyên gia về Nga, Liên Xô, Đông Âu. Ông là tác giả các cuốn sách và các bài báo về sự suy tàn và sụp đổ của Liên Xô và sự nổi lên của nước Nga tội phạm hậu Xô viết. Ông Satter bị chính quyền Putin trục xuất khỏi Nga tháng 12/2013. Ông là thành viên cao cấp của Viện Nghiên Cứu Hudson và là thành viên của Viện Chính sách đối ngoại, Trường Nghiên cứu quốc tế cao cấp, Đại học Johns Hopkins (SAIS).

Lễ Hội & Quốc Hội- S.T.T.D Tưởng năng Tiến

Lễ Hội & Quốc Hội

S.T.T.D Tưởng năng Tiến

RFA

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Tôi thì may mắn không dính dáng gì đến đám ma cô và  đĩ điếm nhưng lại phải sống tha phương cầu thực cũng gần cả đời người. Lê la và lê lết rất nhiều nơi nhưng  không thấy đâu lại có lắm thứ lễ lạt như ở quê mình:

  • Lễ Đón Nhận Danh Hiệu Anh Hùng
  • Lễ Đón Nhận Danh Hiệu Đoạt Chuẩn Quốc Gia
  • Lễ Trao Tặng Vinh Dự Nhà Nước
  • Lễ Trao Tặng Dụng Cụ Cho Học Sinh Nghèo
  • Lễ Trao Tặng Huy Hiệu Đảng
  • Lễ Đón Nhận Bằng Khen
  • Lễ Tôn Vinh Doanh Nghiệp Xuất Sắc & Doanh Nhân Tiêu Biểu
  • Lễ Tôn Vinh Thương Hiệu Phát Triển Bền Vững
  • Lễ Tiếp Nhận Cán Bộ Chuyên Trách Về Công Tác
  • Lễ Tiếp Nhận Thiết Bị Phòng Thí Nghiệm
  • Lễ Vinh Danh Các Doanh Nghiệp Du Lịch Hàng Đầu
  • Lễ Vinh Danh Báo Cáo Thường Niên Tốt

Mới đây, L.S Lê Công Định còn cho biết thêm một thứ nghi lễ mới (Lễ Trao Giấy Chứng Nhận Chấp Hành Xong Án Phạt Quản Chế) chưa từng có trong lịch sử nước nhà:

Sáng hôm qua 6/2/2016, tôi đến trụ sở Công an phường lúc 8 giờ, trình diện lần cuối theo án lệnh quản chế từ 3 năm nay… Buổi trình diện diễn ra nhanh chóng rồi chuyển ngay sang phần quan trọng hơn, đó là lễ trao Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt quản chế cho tôi...

Thành phần tham dự, ngoài tôi, còn có ông Chủ tịch phường, ông Chủ tịch Mặt trận tổ quốc phường, hai nhân viên an ninh thuộc Công an TPHCM, một nhân viên an ninh thuộc Công an quận 7 TPHCM, một cảnh sát khu vực và một đại diện Cơ quan thi hành án quận 7. Tại Việt Nam, các cơ quan thi hành án là bộ phận của ngành công an… Buổi lễ được ghi hình trực tiếp bởi nhân viên an ninh thuộc Công an TPHCM …

Thiệt là thầy chạy!

Lễ lạt tuy nhiều nhưng không lắm bằng hội hè, đình đám. Theo nhà văn Võ Thị Hảo thì “cả nước có hơn có hơn 8000 lễ hội” (tám ngàn, tôi ghi thêm cho rõ, tnt) nên “không thể thống kê hết số người bị thương, đổ máu hoặc ngất xỉu ngay trong một mùa hội và qua vài năm gần đây.”

Bữa rộn ràng và hoạt náo nhất (vào hôm 22 tháng 5 năm 2016 vừa qua) may thay không có ai bị thương hay đổ máu. Báo chí nhà nước mệnh danh đây là Ngày Hội Lớn Của Non Sông:

Riêng tại Bắc Kạn, ngoài cờ, hoa, biểu ngữ, tranh cổ động … Đoàn Nghệ Thuật Dân Tộc Tỉnh còn có một chương trình biểu diễn nghệ thuật đặc biệt (Như Có Bác Giữa Ngày Hội Non Sông) nữa!

Nguồn ảnh:backantv

Thiệt là tưng bừng, náo nhiệt, hết biết luôn. Sau cái ngày Hội Của Non Sông linh đình này, báo Báo Công An Nhân Dân hân hoan tường thuật:

“Hội đồng Bầu cử Quốc gia cho biết, theo báo cáo ban đầu của  63 tỉnh, thành phố, đến hết 19h cùng ngày đã có 98,77%, tương đương khoảng 65 triệu cử tri cả nước đã đi bỏ phiếu.”

Cùng lúc, Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân long trọng tuyên bố: “Ngày 22/5 thực sự là ngày hội lớn của toàn dân.” Ô, như thế thì cái gọi là ngày hội non sông (“thực sự”) lại là ngày bầu cử. Đúng là “làm xiếc ngôn từ.” Nghe mà ớn chè đậu!

Té ra Ngày Hội Non Sông vừa qua chỉ là một ngày hội giả, do nhà nước “thiết kế” để tạo ra một cuộc bầu bán giả, và một cái quốc hội cũng giả luôn. Chỉ có khoản chi phí là thật, và vô cùng tốn kém, theo nhận xét của tác giả Mạc Văn Trang – vào hôm 21 tháng 5 năm 2016:

Vậy Đảng công bố luôn danh sách các đại biểu Đảng đã chọn xong, cho dân biết. Thế có phải nhanh, gọn, minh bạch, thật thà, tiết kiệm hơn không!

Ai cũng biết là vậy, lại còn cứ tuyên truyền giả tạo, đóng kịch làm gì! Nào là Bầu cử là “Ngày Hội non sông”, “Lá phiếu là Trái tim của cử tri”, “Lá phiếu của cử trị sẽ chọn ra người tài đức”, đi bầu là “Quyền và Nghĩa vụ thiêng liêng của công dân”; nào là “toàn dân nô nức”, nào là “cảnh giác các thế lực thù địch phá hoại”; nào là cờ, đèn, kèn trống, loa đài khẩu hiệu rợp trời, nào loa đọc suốt ngày, nào truyền hình trực tiếp….

Tốn kém đến 3.500 tỉ đồng và bao nhiêu sức người, sức của; bao nhiêu là long trọng, bao nhiêu là hoa mĩ, bao nhiêu là phô trương… chỉ để làm một việc … không cần thiết.

TX Kỳ Anh lộng lẫy trước ngày hội lớn. Ảnh chú thích: baohatinh

Hơn sáu mươi năm trước, vào ngày 30 tháng 10 năm 1956, tại Hội Nghị Mặt Trận Trung Ương, L.S. Nguyễn Mạnh Tườngcũng đã đưa ra một nhận định (gần) tương tự:

“Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua chính sách mà thôi… với vai trò yếu ớt hiện thời quyền dân chủ của quần chúng không được thực hiện.”

Thảo nào mà Lê Phú Khải phải kêu trời: “Tôi đã phải sống với ‘con điếm’ ấy cả đời người.” Sức chịu đựng của  nhà văn chúng ta quả là bền bỉ. Và đây là đức tính chung của cả dân tộc Việt, chứ nào có phải riêng ai.

Hơn sáu mươi năm qua, dường như, chỉ có ba công dân Việt Nam không đủ nhẫn nại trước cái trò (“bầu bán”) đĩ điếm này thôi – theo như tường thuật (chắc có thêm hơi nhiều mắm muối) của báo Người Lao Động:

“… năm 2005, Huỳnh Ngọc Tuấn không chịu tham gia Bầu cử Quốc hội khóa XII, khi tổ công tác đến nhà vận động đi bầu cử thì Tuấn và gia đình lăng mạ, chửi bới, xúc phạm. Mới đây, trong đợt bầu cử của năm 2011, Tuấn cùng con gái là Huỳnh Thục Vy và con trai Huỳnh Trọng Hiếu tiếp tục ‘không’ tham gia bầu cử Quốc hội khóa XIII và Bầu cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016. Ngoài ra, ba cha con Tuấn còn lấy thẻ cử tri ghi vào dòng chữ “NO!

Ba cha con ông Tuấn ghi chữ “NO” vào thẻ cử tri và chụp ảnh đưa lên mạng để bôi nhọ cuộc bầu cử Quốc hội. Ảnh & chú thích: Báo NLĐ

Nếu vỏn vẹn chỉ có ba chữ “NO” trong số hơn sáu chục triệu thẻ cử tri thì sợ rằng dân tộc Việt còn phải sống với “con điếm” này lâu, phải vài “đời người” (nữa) không chừng!