Trần Thị Lam – Chúng ta không vô can!

Trần Thị Lam – Chúng ta không vô can!

By Uyên Nguyên

2324713552309_n

Vậy là sau bao nhiêu ngày chờ đợi, cuối cùng dù đau đớn, ta cũng phải chấp nhận một sự thật là biển đã bị đầu độc.
Chúng ta tạm bằng lòng vì thủ phạm của tội ác đã được gọi tên.
Những người thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý… rồi đây phải trả lời trước công luận và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Nhưng còn chúng ta, chúng ta có thật sự vô can?
Chúng ta đã thờ ơ với tình hình chính trị xã hội của đất nước khi nghĩ rằng mọi việc đã có Đảng và chính phủ lo.
Chúng ta nghĩ chỉ cần chăm sóc cho cái tổ của mình là đủ, những biến động ngoài cánh cửa không ảnh hưởng đến gia đình mình.
Chúng ta chỉ cần yên ổn.
Chúng ta dửng dưng trao vận mệnh của mình và con cháu mình vào tay của những kẻ tham lam và năng lực quản lý yếu kém.
Chúng ta sợ hãi đủ thứ, sợ một từ nhạy cảm, sợ cả cái bấm like với một bài viết bày tỏ quan điểm trên các trang facebook, sợ một tiếng nói thầm, sợ thể hiện chính kiến.
Chúng ta sống câm lặng như những cái bóng hoặc phù phiếm, sặc sỡ như loài côn trùng.
Chúng ta vô cảm.
Chúng ta hèn nhát.
Cho đến một ngày chúng ta hoảng sợ nhận ra rằng, mâm cơm nhà mình đã thiếu khuyết đi món ăn từ biển, hạt muối ta ăn không biết có an toàn, món rau không thể không chấm nước mắm… mùa hè ta đến biển chỉ để đứng trên bờ ngắm nhìn những con sóng.
Tai hoạ đã gõ cửa nhà tất cả chúng ta, không trừ một ai.
Chúng ta nơm nớp lo sợ cho tương lai.
Chúng ta sống trong môi trường xã hội nhưng quên mất một điều chúng ta được mẹ thiên nhiên bao bọc và nuôi dưỡng.
Khi mẹ thiên nhiên nổi giận thì không có biệt lệ cho bất kì ai.
Sự hèn nhát, sự sợ hãi, sự dửng dửng, vô cảm đã biến chúng ta thành những kẻ đồng loã với cái ác.
Chúng ta đã phản bội thiên nhiên, phản bội quê hương và cái giá chúng ta phải trả là môi trường sống của chính mình bị đầu độc, là sức khoẻ, sinh mạng, sự tồn vong của nòi giống.
Để xảy ra thảm cảnh môi trường như ngày hôm nay, tôi, bạn, tất cả chúng ta đều không vô can.

Trần Thị Lam

MẸ LÊN TRỜI

MẸ LÊN TRỜI

 GM GB Bùi Tuần

ME LEN TROI
Ngày 1.11.1950 Đức Thánh cha Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời như sau: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiêm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc.”   Đặc ân hồn xác lên trời vừa như hoa trái vinh quang của trọn vẹn cuộc đời hoàn toàn thuộc về Chúa, vừa là kết thúc và bao gồm mọi đặc ân Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Maria.  Khi tuyên dương công trạng đầy tràn của Mẹ Maria bằng việc triệu vời Mẹ về trời, Thiên Chúa đã biểu dương chính hồng ân Chúa ban cho Mẹ.  Và như vậy Thiên Chúa muốn đề cao Mẹ Maria như thành quả tuyệt vời có một không hai của ân sủng, để mọi người ở mọi thời ngợi khen Mẹ diễm phúc, và nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, chí thánh chí tôn đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả.

  1.  “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”

Bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần đã lớn tiếng tuyên xưng thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ Maria.  Thiên chức Thánh Mẫu cao cả giờ đây đang bày tỏ ra nơi chính con người thiếu nữ Maria bằng xương bằng thịt, bình thường, giản dị và khiêm nhường thẳm sâu.  Chỉ bằng việc có mặt khi đến thăm, và chỉ bằng một lời chào đơn sơ của Đức Maria, bà Êlisabét lại nhận ra thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ.  Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng cả hồn cả xác của mình.

1.1.Mẹ Thiên Chúa bằng tâm hồn

Trong khi Chúa Giêsu đang giảng thì có một người phụ nữ đã lên tiếng nói với Chúa:“Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm (Lc 11, 27).  Thuộc giới phụ nữ và trong tư cách làm mẹ, người phụ nữ ở đây cảm phục và yêu mến Chúa Giêsu bao nhiêu, thì lại muốn đề cao và hết lòng ca ngợi hồng phúc của người mẹ đã sinh ra Chúa bấy nhiêu.  Đó là cái nhìn thường tình.  Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cần phải vượt lên trên quan niệm tự nhiên mới có thể đánh giá được hồng phúc làm Mẹ của Đức Maria, và hồng phúc đó trước hết và cốt yếu là ở trong tâm hồn: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.”

Một lần kia Mẹ Maria và anh em họ hàng đến thăm Chúa Giêsu và khi nghe biết thế, Chúa Giêsu đã đề cao Mẹ Maria trong chiều sâu thẳm của thiên chức Thánh Mẫu: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8, 2).  Như vậy căn bản thiên chức Thánh Mẫu của Đức Maria, không chỉ do ngài được làm Mẹ Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người – tại tâm hồn của Mẹ đã hoàn toàn mở ra cho lời Chúa, và lời Chúa thành sự sống và lẽ sống của Mẹ.  Mẹ Maria đã cưu mang lời Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Lời trong thân xác.  Thánh Augustinô còn nhận định tư cách môn đệ nơi Đức Maria (Mẹ trong tâm hồn) trổi vượt hơn tư cách làm mẹ nơi Đức Maria (Mẹ trong thân xác).

1.2. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa

Khi Lời Thiên Chúa đã đi vào và thấm nhuần trọn vẹn tâm hồn Đức Maria tới mức sung mãn, thì Lời Thiên Chúa đi vào trong thân xác vô nhiễm của Đức Maria.  Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa theo một nghĩa trọn vẹn (cả hồn xác).  “Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người.”   Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng con người toàn diện, cả hồn lẫn xác.  Có nghĩa là hồn xác Mẹ vốn đã thuộc về Chúa, dành riêng cho một mình Chúa.  Và như vậy thân xác Mẹ không phải hư nát là dấu thuộc về trần gian cát bụi.  Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác.  Đó là điều đã được tiền định do ý định khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa khi tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể.

  1. “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới”

Trong ngày Truyền tin, Đức Maria đã thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, một lời xin vâng toàn vẹn và tuyệt hảo, bao gồm cả quá khứ, hiện tại, và tương lai.  Mẹ đã không ngừng “Xin vâng” với mọi lời Thiên Chúa đến với Mẹ từ trước đến nay.  Và giờ đây tiếng xin vâng thốt ra ngoài miệng là âm vang và kết quả của tâm hồn Mẹ đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa.  “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa” là một lời xác định rằng: từ trước đến nay và mãi mãi sau này, tôi là nữ tỳ của Chúa, hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa.  Hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa cả hồn xác trong mọi lúc, là một cách giải thích đặc ân Vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh của Mẹ Maria.
2.1. Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội

Vô nhiễm nguyên tội là không mắc tội nguyên tổ.  Có nghĩa là ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai trong lòng thân mẫu, con người (hồn xác) của Mẹ hoàn toàn đóng kín, không một kẻ hở nào cho tội lỗi và cho tất cả những gì thuộc trần gian đã bị tội lỗi làm hư thối.  Mẹ cũng hoàn toàn đóng kín với chính bản thân của mình, cái “tôi” của mình.  Đóng kín với tất cả, để Mẹ có thể trọn vẹn mở ra cho Thiên Chúa, và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi.  Đó là đặc ân Vô Nhiễm của Mẹ Maria.  Với đặc ân này, Mẹ Maria dù vẫn sống cuộc đời trần thế của một con người, Mẹ có thể qui hướng tất cả, và trọn vẹn từng chi tiết của bản thân và từng giây phút của đời sống về cho Chúa.  Nói cách khác, đặc ân Vô Nhiễm ban cho Mẹ Maria có khả năng không ngừng thuộc về Chúa cả hồn lẫn xác.  Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác để mãi mãi thuộc về Chúa.

2.2. Mẹ Maria trọn đời đồng trinh

Hội Thánh tuyên xưng Mẹ Maria trọn đời đồng trinh trước khi, đang khi, và sau khi sinh Chúa Giêsu.  Và Phụng Vụ đã giải thích như sau: “Khi Người giáng sinh, đức đồng trinh của Thánh Mẫu đã không vì thế mà bị tổn thương, nhưng đã được thánh hiến” (Lời nguyện tiến lễ, lễ chung Đức Mẹ).  Đức đồng trinh của Mẹ rất thánh không thể được nhìn theo thường tình mà phải được nhìn theo đức tin, nghĩa là như ý định nhiệm mầu và khôn ngoan của Thiên Chúa.  Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn đồng trinh trọn đời có mục đích là để con người toàn vẹn của Mẹ, cả hồn cả xác, hoàn toàn thuộc về Chúa, không sứt mẻ, không biến chất, trái tại luôn luôn nguyên tuyền và mãi mãi toàn vẹn.  Do đó khi Con Một Thiên Chúa được thụ thai và được sinh ra bởi Mẹ, thì không những không làm tổn thương hồn xác nguyên tuyền của Mẹ, mà trái tại còn làm cho hồn xác thuộc về Chúa hơn nữa.  Thuộc về Chúa trọn vẹn hồn xác nguyên tuyền, và suốt cả cuộc đời từng giây từng phút như vậy, nên việc Mẹ được Chúa đưa lên trời cả hồn cả xác là kết quả đương nhiên và hợp tình hợp lý.

Kết luận

Con đường Thánh Mẫu Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh đã đi để được lên trời cả hồn cả xác, là con đường Tin Mừng đã ghi tại: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” và “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2, 9-5).  Mẹ hằng đón nhận Lời Chúa, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, cho tới khi Lời Chúa thành máu thịt, thành hơi thở, thành sự sống cho mình.  Và lúc đó hồn xác Mẹ được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, thuộc về Chúa từ trong ra ngoài, từ đầu đến chân.
Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi tại.  Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến.

GM GB Bùi Tuần

Trung Quốc bất chấp thông lệ quốc tế ở Hoàng Sa

Trung Quốc bất chấp thông lệ quốc tế ở Hoàng Sa

Việt Hà, phóng viên RFA
2016-08-15

RFA

hoangsa.jpg

Bản đồ các đảo và bãi đá thuộc quần đảo Hoàng Sa.

 Courtesy of thiemthu62.blogspot.com

00:54/10:15

 

Báo chí trong nước mới đây dẫn nguồn tin từ Bộ Ngoại Giao cho biết phía Trung Quốc hôm 12/8 đã từ chối không cho 6 tàu cá của ngư dân Việt Nam vào tránh sóng to gió lớn ở đảo Bông Bay thuộc quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp giữa hai nước với lý do quần đảo này không thích hợp để tránh trú.

Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc từ chối các tàu thuyền của ngư dân Việt Nam đánh cá gần khu vực quần đảo Hoàng Sa vào trú bão, khiến ngư dân Việt Nam phải đối mặt với những nguy hiểm trên biển.

Hành động này của Trung Quốc bị cho là trái với thông lệ quốc tế trên biển và đi ngược với những thỏa thuận giữa hai nước. Việt Hà phỏng vấn tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên trưởng ban Biên giới chính phủ về vấn đề này. Trước hết, nhận định về hành động mới đây của Trung Quốc, tiến sĩ Trần Công Trục cho biết:

“Các bạn biết là quần đảo Hoàng Sa bao gồm một số đảo và bãi cạn, các đầm nước lặng. Bong Bay là một vị trí, một vùng có thể cho tàu thuyền vào tránh bão được. Bong Bay nằm trên một rạn san hô, giữa đó là đầm nước lặng. Ngư dân đánh cá ở đây lâu đời và họ biết được là họ có thể tránh bão ở đầm nước lặng đó. Cho nên Trung Quốc nại ra lý do là không thích hợp cho trú bão là để họ từ chối không cho người dân bị gặp nạn trên biển vào trú đậu thôi chứ không phải là lý do chính đáng.”

Hành động sai trái

Tiến sĩ Trần Công Trục: Các bạn biết là quần đảo Hoàng Sa bao gồm một số đảo và bãi cạn, các đầm nước lặng. Bông Bay là một vị trí, một vùng có thể cho tàu thuyền vào tránh bão được. Bông Bay nằm trên một rạn san hô, giữa đó là đầm nước lặng. Ngư dân đánh cá ở đây lâu đời và họ biết được là họ có thể tránh bão ở đầm nước lặng đó. Cho nên Trung Quốc nại ra lý do là không thích hợp cho trú bão là để họ từ chối không cho người dân bị gặp nạn trên biển vào trú đậu thôi chứ không phải là lý do chính đáng.

Việt Hà: Vậy theo tiến sĩ thì hành động này của Trung Quốc có trái với những thỏa thuận hay thông lệ quốc tế hay không?

Hành xử theo thông lệ quốc tế là khi người đi biển gặp nạn thì họ phải có trách nhiệm và nghĩa vụ cứu giúp nhưng họ đã làm trái với văn hóa ứng xử thông thường của người đi biển.
– Tiến sĩ Trần Công Trục

 

Tiến sĩ Trần Công Trục: Theo tôi nghĩ họ nói như vậy thì có một số điều mà chúng ta cần bình luận. Thứ nhất quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam mà họ dùng vũ lực chiếm đóng từ những năm 70 của thế kỷ trước. Đây là thuộc lãnh thổ Việt Nam mà giờ họ chiếm đóng. Người Việt đến đây làm ăn thì họ bắt bớ và có nhiều hành động thì đó là sai về pháp lý.

Cái sai thứ hai là họ không để ngư dân Việt Nam làm ăn ở đây khi gặp tai nạn trên biển được cứu đậu. Hành xử theo thông lệ quốc tế là khi người đi biển gặp nạn thì họ phải có trách nhiệm và nghĩa vụ cứu giúp nhưng họ đã làm trái với văn hóa ứng xử thông thường của người đi biển. Đó là hành xử không tốt đẹp không được loài người hoan nghênh. Cho dù có mâu thuẫn và tranh chấp, nhưng khi người ta gặp nạn thì phải rộng lòng cứu giúp người ta.

Việt Hà: Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc từ chối không cho ngư dân Việt Nam vào trú bão ở quần đảo Hoàng Sa. Theo ông thì đâu là lý do thực sự đằng sau lý do mà họ đưa ra là Hoàng Sa không thích hợp để trú bão?

Tiến sĩ Trần Công Trục: Lần này họ không sẵn lòng cứu giúp ngư dân thì đúng như chị nói không phải là lần đầu tiên mà trước đây cũng rất nhiều lần rồi. Những ngư dân gặp nạn do thiên tai hoặc bị tàu họ húc đâm thì họ vẫn để mặc cho ngư dân chống chọi với sóng to gió lớn. Đó là điều mà mọi người không ngạc nhiên lắm. Ý của họ là không muốn có sự hiện diện của người Việt ở khu vực họ đã đánh chiếm của Việt Nam. Điều đó là mục tiêu của họ.

Ý sâu xa của họ là gì? Họ tạo nên một tình huống hết sức căng thẳng để đe dọa ngư dân hàng ngày ra đó làm ăn sinh sống từ xưa. Họ làm như vậy để tạo tình huống khó khăn, để răn đe ngư dân không ra khu vực này nữa. Về mặt pháp lý, làm như vậy họ nói họ có quyền làm chủ quần đảo này cho nên họ làm bất kỳ điều gì thuộc quyền của họ. Tất cả mọi hành động để nhằm mục đích để họ chứng tỏ trên thực tế quyền lực của họ đối với khu vực họ đánh chiếm của Việt Nam.

Triển vọng đàm phán?

Việt Hà: Mới đây Philippines và Trung Quốc đã cho thấy những tín hiệu về đàm phán giữa hai nước để giải quyết tranh chấp. Ông có hy vọng gì về việc Việt Nam và Trung Quốc có thể đàm phán và hợp tác trong việc chia sẻ ngư trường truyền thống ở Hoàng Sa như hai nước đã làm ở vịnh Bắc Bộ không?

Hai bên đã đàm phán có được đường ranh giới và có những hoạt động tuần tra chung, hợp tác cứu nạn cứu hộ với ngư dân hoặc những người hoạt động trên biển gặp nạn.
– Tiến sĩ Trần Công Trục

 

Tiến sĩ Trần Công Trục: Chuyện Việt Nam đã nhiều lần nói với Trung Quốc là cùng Trung Quốc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trong đó giải quyết bằng đàm phán, hoặc chưa giải quyết được thì có những vấn đề có thể hợp tác được như hợp tác đánh cá, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học ở những khu vực có tranh chấp. Đó là chủ trương của Việt Nam.

Tôi nghĩ Trung Quốc khó có thể đáp ứng được nguyện vọng chính đáng đó của Việt Nam cũng như của một số nước khác. Khi họ thỏa thuận đàm phán thì họ chỉ tạo ra hình ảnh là có thiện chí nhưng trong thực chất họ phải đàm phán trên điều kiện là họ phải có quyền trong đó, quyền cho phép và không cho phép theo ý muốn của họ chứ không đàm phán bình đẳng, không như chúng ta hy vọng Trung Quốc phân chia mọi lợi ích trong khu vực họ đã đánh chiếm. Tôi nghĩ cho dù có thể có tín hiệu nhưng vì lý do nào đó họ vẫn đàm phán nhưng thực chất họ dùng cái đó để khẳng định hơn nữa cái quyền mà họ nói là họ có chủ quyền trong những vùng biển thuộc yêu sách của Trung Quốc.

Việt Hà: Xin ông cho biết là giữa Việt Nam và Trung Quốc có những thỏa thuận nào trong hợp tác cứu nạn trên biển không?

Tiến sĩ Trần Công Trục: Giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng từng có những hợp tác ở vịnh Bắc Bộ chẳng hạn. Hai bên đã đàm phán có được đường ranh giới và có những hoạt động tuần tra chung, hợp tác cứu nạn cứu hộ với ngư dân hoặc những người hoạt động trên biển gặp nạn. Trong đàm phán giữa hai nước thì hai bên cũng thỏa thuận phải tính đến những giải pháp để dần dần từng bước tháo gỡ những khó khăn để đến thỏa thuận cuối cùng.

Tôi nghĩ vấn đề cứu nạn cứu hộ là lẽ thường tình và tất cả các nước trên thế giới này khi gặp hoàn cảnh đó đều cứu vớt mà không phân biệt họ là ai, vi phạm gì chăng nữa. Đó mới là ứng xử văn minh. Còn Trung Quốc làm như vậy là bất chấp thông lệ quốc tế và thỏa thuận chính trị hai bên đạt được từ trước đến nay.

Việt Hà: Xin cảm ơn tiến sĩ Trần Công Trực đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.

Cái đêm hôm ấy vận vào ngày nay.

 Cái đêm hôm ấy vận vào ngày nay.

canhco

RFA

Câu chuyện 28 năm về trước từng ám ảnh cả nước nay quay trở lại với chính cái nơi mà nó từng xảy ra. Trở lại với nội dung không sai một mảy may chỉ khác là nhân vật trẻ hơn, nghèo hơn và nhất là chung quanh nó không ai còn căm phẫn như ngày xưa, thậm chí người ta xem nó bình thường, không có gì phải ầm ĩ.

Ngày 23 tháng 1 năm 1988 báo Văn Nghệ lúc ấy do nhà văn Nguyên Ngọc coi sóc, đã đăng một bút ký của nhà văn Phùng Gia Lộc mang tên “Cái đêm hôm ấy đêm gì?” kể lại câu chuyện của một gia đình mà tác giả chứng kiến.

Lúc ấy chính quyền địa phương tỉnh Thanh Hóa có chính sách tận thu thuế của dân, bất kể nghèo cách mấy cũng phải đóng đủ số thuế mà địa phương đưa ra. Câu chuyện xoay quanh một gia đình nghèo, vì nghèo quá mà lại có một bà mẹ già gần tới ngày về với tổ tiên nên người nhà đã đóng cổ quan tài cho cụ. Trong chiếc quan tài ấy người nhà của cụ cất 70 kí thóc để sau này khi có tang ma thì mang ra sử dụng, vậy mà do không tiền đóng thuế số thóc ấy đã bị chính quyền thẳng tay lật chiếc quan tài và tịch thu bằng hết.

Câu chuyện chấn động cả nước nhưng người viết nó phải trốn chui trốn nhủi do sợ bị công an Thanh Hóa theo tới Hà Nội để bắt. Phùng Gia Lộc may có Nguyên Ngọc cất giấu mới thoát vòng truy bức của sai nha. Lạ thay bất kể dư luận kêu gào, không ai bị đem ra truy vấn vì đã làm một việc phản cách mạng như thế. Phùng Gia Lộc sau khi nổi tiếng vẫn là một nhà văn nghèo rớt mồng tơi, tiếp tục đạp xe lang thang như chưa bao giờ từng kể lại một bi kịch nơi anh ở hay đến thế. Mọi cử động được gọi là đổi mới không ra khỏi chiếc giường ngủ ọp ẹp của thời cách mạng tháng Tám, và người cổ vũ nhiệt liệt cho cái vở kịch “đổi mới” ấy lại là người đóng sầm cánh cửa hy vọng vào một cuộc thanh trừng cái ác, cái phản cách mạng đến tận đáy điển hình nhất tại Thanh Hóa: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh.

28 năm sau, cũng chính tại cái nơi mà chiếc quan tài bị lật úp lấy thóc lại xảy ra một việc tương tự.

Lần này chuyện xảy ra ban ngày, thay vì chiếc quan tài có thóc bên trong thì vật bị “cưỡng chế” là chiếc giường ngủ của hai vợ chồng một nông dân, chiếc giường là tài sản duy nhất của họ. Nhìn sai nha ào ào nhào vào tháo ra vác đi họ chỉ còn cay đắng ngồi khóc.

Theo gót Phùng Gia Lộc, hai tác giả Đào Tuy và Tuấn Nam đã tường thuật lại câu chuyện của gia đình chị Toàn một người dân ở làng Thành Liên, xã Trường Sơn, Nông Cống, Thanh Hóa. Theo chị Toàn kể lại do hết hạn đóng thuế mà hai vợ chồng chị không cách nào kiếm ra tiền, cán bộ xã làng đã kéo nhau đến tận nhà để “vận động” chị phải tìm cách nào đó hầu có tiền mà đưa cho họ.

Kể với phóng viên chị cho biết: “Họ đến đông lắm, cả trưởng làng, phó làng cùng các cán bộ ở làng. Có cả các anh công an xã nữa”, “Hai vợ chồng tôi đã khóc lóc van xin mong họ thư thư cho ít bữa nhưng không được”, chị Toàn cũng cho biết“Không tìm được cái gì đáng giá, mấy người ấy chực quay ra thì ông trưởng thôn lại lao vào. Ông ấy tháo chiếc giường mà vợ chồng cùng hai con của tôi đang nằm

Chiếc giường ấy, theo lời chị Toàn cho phóng viên biết là tài sản duy nhất mà vợ chồng chị sắm khi nên duyên chồng vợ.“Thấy trưởng làng vào tháo giường, mấy anh đội mạnh (công an viên- PV) cũng lao vào. Tất cả xúm vào tháo tung chiếc giường nhà tôi ra rồi bó lại khiêng ra nhà văn hóa của làng. Khi ấy tôi chỉ biết khóc nhưng van xin thế nào họ cũng chẳng động lòng”

Nguyễn Du, Ngô Tất Tố, kể cả Phùng Gia Lộc nếu nghe câu chuyện này ở thế kỷ 21 chắc  đành phải bẻ bút, bởi trong thời đại rực rỡ như ông Nguyễn Phú Trọng hả hê xác nhận lại xảy ra câu chuyện như thời sơ khai hơn cả phong kiến thực dân cộng lại thì hẳn là đáng ngạc nhiên lắm chứ?

Ngạc nhiên không phải vì tính “tháo vác” của cả một hệ thống chính quyền, ngay chiếc giường là vật hèn mọn nhất của một gia đình chúng cũng không từ nan. Ngạc nhiên bởi phản ứng của xã hội khi biết chuyện xảy ra ngay trong thời đại mình sống lại có phản ứng như câu chuyện của nước láng giềng Campuchia chứ không phải đang xảy ra tại Thanh Hóa, nơi từng cướp thóc dành cho người chết.

Quan tài hay giường ngủ, không vật gì chúng từ nan bởi dưới mắt của chúng, từ Bí thư Tỉnh ủy cho tới một tên xã trưởng con con lúc nào cũng muốn thị oai cho dân thấy thế nào là bạo lực cách mạng.

Bạo lực cách mạng trong trường hợp này được cả nước ngắm nghía, sờ mó, bỉu môi hay thậm chí chửi bới nhưng tiếc thay không một trí thức nào làm cho ra ngô ra khoai. Họ vẫn lang thang đâu đó trong khu vườn oang oang chữ nghĩa. Vài đại biểu Quốc hội đã về vườn vừa lên tiếng vừa run bởi không biết “bọn nó” mạnh tới đâu, không khéo chúng lại kéo tới tận nhà ném phân vào cửa.

Ngạc nhiên nhất là điều không đáng ngạc nhiên vẫn xảy ra: cả hệ thống im như gái ngồi phải cọc, bởi ra lệnh điều tra thì lại lòi ra cái nguyên nhân dẫn đến sự kiện: tận truy thu thuế.

Mà tận thu thuế thì chỉ có trung ương mới có quyền ra lệnh cho thuộc hạ trong lúc ngặt nghèo này. Kéo nó ra đấm không khéo nó lại thò cái công văn này hay nghị quyết nọ ra thì có mà gục mặt vào đâu cho hết  nhục?

Việt Cộng / Trung Cộng

Việt Cộng / Trung Cộng

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Bữa rồi, tôi nghe blogger Vũ Đông Hà kể lại chuyện sau:

HL là một sinh viên ở một tỉnh miền Tây. Trong khi bạn bè rủ nhau trở thành cô dâu Đài Loan thì HL làm đơn xin đi lao động hợp tác. Cán bộ phường là một gã côn đồ, hống hách, xem dân như cỏ rác. HL cũng không thoát khỏi hoàn cảnh đó, vừa sợ hãi, vừa căm giận, vừa phải nhịn nhục khi đến xin chữ ký. “Cuối cùng em nghiệm ra rằng em là nô lệ cho sự sợ hãi của chính em và từ đó danh dự, nhân phẩm của em đã trở thành nô lệ cho chúng nó. “

 3 năm sau, HL về nước. Những cảm nhận ở nước ngoài làm HL có một nhận thức mới về chính mình. Ngày lên phường để khai báo, cũng tên cán bộ phường đó, cũng thái độ hống hách, coi thường người dân. “Em đã đứng thẳng dậy, nhìn thẳng vào mắt nó và rất nghiêm trang nhưng rất dữ, “quạt” nó cả 10 phút không ngừng nghĩ. Anh biết gì không? Mặt mày nó tái mét, khi em dừng nói nó bối rối dữ lắm, không biết phản ứng ra sao. Cuối cùng nó lí nhí xin lỗi và bỏ tuốt vào bên trong. Từ đó đến nay, thái độ của nó đối với em khác hẳn. Em ngộ ra một điều là qua nhiều năm, tụi em vì thời thế đã tự tạo cho mình khả năng tự vệ khi bị làm khó làm dễ; ngược lại có kẻ quen tấn công người khác thì không có khả năng phản ứng khi bị tấn công vì chưa có kinh nghiệm bao giờ. Tụi nó chỉ biết núp bóng bộ đồng phục ở trên người và cái bóng của hệ thống…”

Chuyện ni cũng na ná như nội dung của hàng trăm hoạt cảnh mà tôi đã được thấy qua youtube:

– Người Đàn Bà Mạnh Mẽ Dậy Công An Cách Làm Người

– Người Phụ Nữ Khiến Ngành Công An Run Sợ

– Dân Dậy Cho Công An Về Hiến Pháp Khi Bị Công An Canh Cửa

– Phản Ứng Của Bà Giáo Về Hưu Trần Thị Thảo Sau Khi Bị CA Ngăn Chặn Không Cho Đi Biểu Tình Chống Trung Cộng Vào Sáng 17/7/2016 Tại Hà Nội

  – Người Giáo Viên Nghỉ Hưu Làm Cả Bộ Công An Lo Sợ

– Bà Mẹ Trẻ Khiến Bộ Công An Phải Run Sợ

– Cô Giáo Nghệ An Dậy Luật Cho Cảnh Sát Giao Thông

Mềm nắn rắn buông. Cái thói côn đồ xưa nay vẫn thế,  bất cứ nơi đâu, và bất kể cả là loại côn đồ đứng đường huýt còi hay côn đồ bang giao quốc tế.

Cứ mỗi lần nhìn thấy phản ứng quyết liệt của một phụ nữ VN trước sự đe doạ của cường quyền, và thái độ bối rối/lo ngại (rồi) lẳng lặng rút lui của đám nhân viên công lực là tôi lại nhớ ngay đến bức ảnh ông Vương Nghị, chụp chung với bà Aung San Suu Kyi, vào ngày 5 tháng 4 năm 2016.

Hôm ấy, theo tường thuật của tờ The Global New Light of Myanmar thì ngài Ngoại Trưởng của nước lớn (bỗng) xụi lơ. Nói năng mềm mỏng và hoà nhã chưa từng thấy:

Mr Wang Yi said Myanmar has seen change in internal affairs but China’s friendly relations with Myanmar have remained unchanged, pledging that China would not interfere in the internal affairs of Myanmar. China supports the choice of the Myanmar people and I hope Myanmar will find itself on the right path in conformity with the country’s reality.”

(Ông Vương Nghị phát biểu rằng, Miến Điện đã có những đổi thay trong nội bộ của mình, nhưng quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc và Miến Điện vẫn không thay đổi. Ông cam kết Trung Quốc sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của Miến Điện. “Trung Quốc ủng hộ sự chọn lựa của nhân dân Miến Điện và tôi hy vọng, Miến Điện sẽ thấy mình đang đi trên con đường đúng đắn, phù hợp với hiện thực của đất nước.” Bản dịch Bùi Xuân Bách).

Ngoại Trưởng Trung Cộng & Ngoại Trưởng Miến Điện. Ảnh: MNA

Chớ chuyện gì đã khiến cho ông Vương Nghị phải lật đật bay từ Bắc Kinh qua Nay Pyi Taw để chúc mừng tân chính phủ Miến Điện, với những lời lẽ hoà nhã và tình cảm (chứa chan) như thế?

Lý do, giản dị, chỉ vì Miến Điện đã tỏ thái độ cứng rắn và cương quyết với Tầu:

– Chính phủ Miến Điện từ chối dự án thủy điện Myitsone hơn 3 tỷ USD … là một “cái tát” đối với Trung Quốc

–  Miến Điện tuyên án chung thân khổ sai 153 công dân Trung Quốc

– Chiến đấu cơ Myanmar ném bom lãnh thổ Trung Quốc, 4 người chết

Thử tưởng tượng nếu Việt Cộng cũng dám bầy tỏ một thái độ quyết liệt tương tự (đình chỉ việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên, đóng cửa nhà máy Formosa ở Hà Tĩnh, khởi kiện Trung Cộng ra toà án quốc tế vì những hoạt động bất hợp pháp ở biển Đông, bắt giữ và truy tố những chủ tầu lạ thường xuyên xâm nhập lãnh hải và gây rối cho ngư dân Việt Nam … ) thì chuyện gì sẽ xẩy ra?

Những kẻ nắm quyền lãnh đạo hiện nay (chắc chắn) sẽ được sự ủng hộ của người dân, cùng sự hổ trợ và nể trọng của quốc tế – kể cả Trung Cộng. Nhưng đám Việt Cộng đời nào dám thế, vì thế nên Trung Cộng mới có thế “được chân lân đầu,” và vừa doạ “sẽ dậy lại cho Việt Nam một bài học” nữa – theo như bản tin của VOA, nghe được vào hôm 1 tháng 8 năm 2016.

Trước lời đe doạ trắng trợn và xấc xược này, phát ngôn viên của bộ ngoại giao Việt Nam, ông Lê Hải Bình, đã “đáp trả” bằng một … lời đề nghị:

“Đề nghị Trung Quốc không đe doạ bằng bạo lực!”

Lê Hải Bình – Ảnh Tuổi Trẻ

Đúng là mặt trơ trán bóng. Thiệt chán mớ đời! Sao mà yếu xìu vậy, cha nội?

Thái độ cầu an của Việt Cộng giải thích được, phần nào, câu hỏi (đã nêu) của độc giả Dân Quê:

Trung quốc có biên giới với hàng chục chục nước, có nước rất nhỏ bé, dân số chỉ có chưa đầy một triệu dân như Bhutan. Vậy mà Trung quốc không làm gì được, trong khi đó thì Trung quốc chỉ bắt nạt ta, chèn ép dân tộc ta. Sao thế?

Trăng với sao gì? Hèn hạ đến thế mà không bị bị bắt thì mới là chuyện lạ. Đời vẫn vốn không nương người thất thế mà Việt Cộng lại lựa thế qùi nên bị bợp tai và đá đít là lẽ tất nhiên.

Chỉ có điều cần minh định là không thể đồng nhất sự hung hãn của Đảng Cộng Sản Trung Hoa và sự bạc nhược của Đảng Cộng Sản Việt Nam với dân Tầu và dân Việt. Hai cái đảng ôn dịch này không có đủ tính chính danh và chính đáng để đại diện cho bất cứ ai ngoài chính chúng nó.

Có dân tộc nào mà ưa chuộng chiến tranh? Dân Tầu chả có lý do gì để hiếu chiến. Dân Việt Nam cũng thế. Tuy thế, dân tộc này chưa bao giờ ngại ngần trong việc chống lại ngoại xâm.

Người nhạc sĩ xưa và sáng tác của ngày nay

Người nhạc sĩ xưa và sáng tác của ngày nay

Cát Linh, phóng viên RFA
2016-08-14

trucho-630.jpg

Nhạc sĩ Trúc Hồ trả lời phỏng vấn Đài Á Châu Tự Do.

 RFA

00:00/00:00

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Khi người nhạc sĩ sáng tác, nhạc phẩm của họ ảnh hưởng rất nhiều từ chính thời đại họ sống. Chính vì vậy, âm nhạc Việt Nam đã có những ca khúc tiền chiến bất hủ về một xã hội qua nhiều biến động của thời cuộc, những bản nhạc tình thơ mộng, lãng mạn gắn liền với những cách trở vì cuộc chiến.

Rồi mấy mươi năm sau, cũng chính những nhạc sĩ ấy, ở một nơi rất xa quê hương, họ tiếp tục sáng tác, nhưng đó là những sáng tác trăn trở về một Việt Nam đang có nhiều câu hỏi.

Từ một bài thơ

“Đất nước mình ngộ quá phải không anh
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…

Đất nước mình lạ quá phải không anh
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…”

Tôi ghi nhận: “Hào khí” của tuổi trẻ VN, can đảm viết lên những lời thơ mang tính “tự trào”, thách thức với chế độ bạo quyền Cộng sản Việt Nam.
– Nhạc sĩ Trần Duy Đức

Trần Duy Đức, người chuyên chắp cánh cho những tứ thơ của Mai Thảo, Du Tử Lê, Ngô Tịnh Yên nay lại trăn trở khi tình cờ “nghe” cô giáo Trần Thị Lam ở Hà Tĩnh đặt ra một câu hỏi trong câu trả lời, “Đất nước mình ngộ quá phải không anh?”

“Tôi nhận được bài thơ Đất nước mình ngộ quá phải không anh hơi muộn (01/05/2016) từ email của 1 người bạn gửi cho, và phổ nhạc trong thời gian ngồi chờ hẹn Trần Thái Hoà ghé thăm để cùng nhau đi ăn tối. Sau khi phổ nhạc xong, mới hay trên YouTube có hàng chục nhạc sĩ đã phổ nhạc. Nhưng “lỡ” phổ nhạc bài thơ này rồi, thì thôi, cũng gọi là chút lòng ngậm ngùi nghĩ về đất nước mình… Tuy nhiên, tự an ủi mình 1 điều: Đã giữ được trọn vẹn nguyên bản của bài thơ, chỉ thêm thắt vài chữ “vô thưởng vô phạt”: Ôi, và, thì, mà… như chút gia vị cho món ăn thêm mặn mà…”

Trần Duy Đức đã từng dạo lên tiếng cổ cầm Koto trong Khúc mưa sầu, từng viết lên những ca khúc mang dáng dấp nhân sinh, đã nhìn thấy tiếng khóc của đứa bé 4 ngàn năm chưa chịu lớn qua lời trần tình của cô giáo Trần Thị Lam.

Hơn thế nữa, ông còn nghe thấy tiếng kêu gào của những ngư dân Việt Nam đang bị tước mất đi nguồn sống.

Từ đó, ông nghe thấy tiếng vọng từ một người trai trẻ trong mình đang cất lên tiếng nói của thế hệ thanh niên Việt Nam (VN).

“Khi làm công việc chuyển nhạc vào bài thơ này, điều đầu tiên tôi ghi nhận: “Hào khí” của tuổi trẻ VN, can đảm viết lên những lời thơ mang tính “tự trào”, thách thức với chế độ bạo quyền Cộng sản Việt Nam; ẩn chứa sự “khích tướng” đối với người dân trong nước: “…Trước những bất công mà không dám kêu đòi!” (Ôi tôi yêu biết bao và kỳ vọng biết mấy những người tuổi trẻ VN trong nước…)

Từ nỗi niềm ấy, Trần Duy Đức Nên đã cố gắng dẫn dắt dòng nhạc của mình kết hợp với 3 niềm cảm xúc: Hùng, Bi, Hài, chuyển sang những chuỗi âm thanh kết nối, phù hợp với từng ý nghĩa, tâm tình của từng chữ, từng câu, từng vần của bài thơ vào ca khúc, như lời thúc dục tuổi trẻ VN  đứng lên, dấn thân cho Tổ Quốc…

Tiếng hát Trần Thái Hoà đã cùng với Trần Duy Đức gửi đến tuổi trẻ Việt Nam tiếng gọi ấy.

“Tôi cảm kích, trân quý ở Trần Thái Hòa một tấm lòng của người tuổi trẻ VN hải ngoại, ước muốn “tiếp lửa” với những người tuổi trẻ trong nước.”

Cho đến Biển Đông

Có lẽ những người nghe nhạc Việt Nam không ai không biết đến nhạc sĩ Song Ngọc, tác giả của ca khúc Tiễn đưa nổi tiếng. Ông còn được biết đến với tên Hàn Sinh của ca khúc “Xin gọi nhau là cố nhân”, Hoàng Ngọc Ân của ca khúc Định mệnh.

DatNuocMinhNgoQua.jpg

Bản phổ nhạc của nhạc sĩ Trần Duy Đức từ bài thơ Đất nước mình ngộ quá phải không anh của cô giáo Trần Thị Lam. Courtesy of phonuipleiku.org

Những bản tình ca diễm lệ, những cuộc tình ‘Định mệnh’, những ước mơ về chuyến bay đêm thời trai trẻ của Song Ngọc được nhường chỗ cho nhịp điệu oai hùng, tiếng nói của dân tộc Việt Nam con Rồng cháu Tiên, về một Trường Sa, Hoàng Sa của “tổ tiên bao ngàn năm gầy dựng cơ đồ”.

“Biển Đông dậy sóng

Tàu giặc xâm lấn

Muôn triệu người Việt Nam yêu nước

Quyết một lòng bảo vệ non sông

Đây Hoàng Sa, đây Trường Sa của tổ tiên ta

Bao ngàn năm gầy dựng cơ đồ

Con cháu thề cùng chống xâm lăng…” (Biển Đông dậy sóng)

Sau hơn 40 năm rời quê hương và hơn nửa đời người dành cho sáng tác, một ngày nọ, nét đẹp hào phóng, lãng mạn trong các ca khúc của ông hoá thành tiếng gọi hào hùng của biển Đông đang dậy sóng.

“Tôi viết Biển Đông dậy sóng trong tâm trạng của một người đang nhìn về quê hương mình và bất lực…”

Và ‘Con đường Việt Nam’

Song Ngọc, Trần Duy Đức là nhạc sĩ của những bản tình ca lãng mạn, ru lòng người bằng những câu chuyện nhẹ nhàng, bay bổng. Thế nhưng, sau mấy mươi năm, cũng chính bằng âm nhạc, họ nói lên tiếng nói của một dân tộc. Họ trăn trở nhìn về Biển Đông, họ ưu tư trước câu hỏi về một đất nước bốn ngàn năm chưa chịu lớn.

Vì sao? Vì bên trong đất nước ấy, có những người đang bị lao tù vì quê hương, vì đồng bào

“Trong bóng tối trại giam, nơi cầm tù những người có tội.
Nhưng trớ trêu tình đời – có những người đi tù vì quê hương.
Bao người vì yêu nước vẫn dấn thân dẫu ngục tù đọa đầy,
dẫu chông gai để còn có ngày mai,
vẫn hiên ngang bước đường dài miệt mài.
Đi lao tù vì đồng bào, vì quê hương…” (Con đường Việt Nam)

Tôi viết Biển Đông dậy sóng trong tâm trạng của một người đang nhìn về quê hương mình và bất lực.
– Nhạc sĩ Song Ngọc

Con đường Việt Nam là tác phẩm do một tù nhân lương tâm trong nước sáng tác và chính nhạc sĩ Trúc Hồ hoà âm, dành tặng riêng cho người tù lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức.

Và người thể hiện ca khúc này, ca sĩ Thế Sơn đã thật sự chạm vào tận sâu trái tim của người Việt.

Rất nhiều những sáng tác của nhạc sĩ Trúc Hồ đã vượt đại dương để về có mặt bên cạnh người trong nước, những người đấu tranh cho một Con đường Việt Nam. Những ca khúc ấy như ngọn lửa truyền cho mọi người sức mạnh, cho mọi người biết rằng “Đã đến lúc”.

“Không phải người dân trong nước mà tất cả người Việt Nam trên toàn thế giới đều nhìn về Việt Nam với một nỗi buồn đau lo lắng không biết Việt Nam mình sẽ thế nào. Khi ngồi máy bay đi công tác sang Úc, có một bức hình chụp biểu tình ở Sài Gòn, nhiều người giương cao biểu ngữ, rồi nghe được bài giảng của Đức giáo hoàng trong đó có câu ‘bước vào nấm mồ của dối trá, của hận thù, bất công’. Từ đó, anh có cảm xúc và viết xong ca khúc ‘Đã đến lúc’ vào ngày 5 tháng 5 vừa qua.” (Trích: Phóng sự đặc biệt của SBTN)

“Đã đến lúc đứng lên công bằng

Người VIệt Nam  suốt đời cùng nhịp chân tiến lên

Vì quê hương vì Tổ quốc Việt Nam.”

3 x 8 = 23, vì sao?

3 x 8 = 23, vì sao?

Nhan Uyên ham học hỏi, tính tình tốt bụng, là một đệ tử đắc ý của Khổng Tử.

Một ngày nọ, trên đường đi làm việc, Nhan Uyên thấy một đám đông ồn ào trước cửa tiệm vải. Anh bước đến hỏi mới biết là đang có tranh chấp giữa người mua và người bán vải.

Chỉ nghe người mua hét lớn: “Ba nhân tám là 23, sao ông cứ đòi ta 24 đồng?”

Nhan Uyên đến trước mặt người mua, lễ phép nói: “Vị đại ca này, ba nhân tám là 24, sao có thể là 23 được? Anh tính sai rồi, không nên cãi lộn ầm ĩ nữa”.

Người mua không phục, chỉ thẳng mặt Nhan Uyên nói:“Ai cần ngươi phân xử hay sao? Ngươi biết tính toán sao? Muốn phân xử chỉ có cách tìm Khổng phu tử, đúng hay sai hãy để ông ấy định đoạt! Đi, ta hãy tìm ông ấy để phân xử!”

Nhan Uyên đáp: “Được. Nếu Khổng phu tử nói anh sai, vậy xử lý sao?”

Người mua nói: “Nếu ta sai, hãy lấy đầu ta. Nhà ngươi sai thì sao?”

Nhan Uyên trả lời: “Nếu tôi sai, tôi sẽ từ quan”. Hai người đánh cuộc với nhau như thế, cũng đã tìm gặp được Khổng Tử.

Khổng Tử và Nhan Uyên

Khổng Tử hỏi rõ tình huống, rồi quay sang Nhan Uyên cười nói: “Ba nhân tám là 23 đó! Nhan Uyên, con thua rồi, lấy mũ quan xuống đem cho người ta đi!”

Nhan Uyên trước giờ chưa bao giờ cãi lại sư phụ. Nghe Khổng Tử nói mình sai, anh đành tháo mũ xuống giao cho người mua kia nhưng trong lòng không phục. Người mua nhận mũ, đắc ý rời đi.

Nhan Uyên cho rằng Khổng Tử già rồi đâm ra hồ đồ, liền không muốn ở lại học tập Khổng Tử nữa. Ngày hôm sau, Nhan Uyên quay lại lấy cớ nhà có việc muốn xin nghỉ học… Khổng Tử rất rõ tâm tư Nhan Uyên, nhưng không nói gì, chỉ gật đầu đồng ý.
Trước khi đi, Nhan Uyên quay lại cáo biệt Khổng Tử. Khổng Tử muốn Nhan Uyên trở về nhà bình an, cũng dặn dò hai câu: “Ngàn năm cổ thụ không náu thân, sát nhân không rõ chớ động thủ”.

Nhan Uyên đáp lại một câu: “Con xin ghi nhớ”, rồi rời đi.

Trên đường về, gió thổi mây dâng, sấm rung chớp giật, trời muốn đổ mưa to. Nhan Uyên tiến đến một cây đại thụ mục rỗng bên ven đường, muốn tránh mưa. Anh đột nhiên nhớ lại lời Khổng Tử đã nói: “Ngàn năm cổ thụ không náu thân”

Nghĩ thầm, sư đồ nhất tràng, anh nghe theo lời sư phụ, tránh xa khỏi cái cây rỗng. Vừa rời đi không xa thì nghe một tiếng sấm, sét đã đánh tan cây cổ thụ kia. Nhan Uyên kinh ngạc: “Câu đầu sư phụ nói đã ứng nghiệm sao! Chẳng lẽ ta còn có thể sát nhân ư?”

Khi về tới nhà thì trời cũng đã khuya. Không muốn kinh động người nhà, Nhan Uyên dùng bảo kiếm mang theo bên người để đẩy chốt cửa phòng nơi thê tử của anh đang ngủ.

Đến bên giường, sờ lại thấy hai người nằm hai bên giường. Nhan Uyên vô cùng tức giận, giơ kiếm định chém, lại nghĩ đến câu nói thứ hai của Khổng Tử: “Sát nhân không rõ chớ động thủ”, bèn đốt đèn lên xem, hóa ra một người là thê tử, người kia là muội muội của anh.

Ngày hôm sau, Nhan Uyên quay trở lại, thấy Khổng Tử liền quỳ xuống nói: “Sư phụ, hai câu người nói đã cứu ba người là con, vợ con và muội muội của con đó! Sao người lại biết trước chuyện sẽ xảy ra vậy?”

Nhan Uyên cảm thấy kính phục thầy sâu sắc, cũng đã biết được ẩn ý của Khổng Tử. Khổng Tử đỡ Nhan Uyên dậy và nói: “Ngày hôm qua thời tiết khô nóng, đoán chừng sẽ có cơn dông, nên ta nhắc nhở con: “ngàn năm cổ thụ không ai náu thân”, con lại mang khí bực trong người, trên thân đeo bảo kiếm, cho nên ta khuyên con “sát nhân không rõ chớ động thủ”!”

Nhan Uyên vừa vái lạy vừa nói: “Sư phụ liệu sự như thần, đệ tử mười phần kính nể!”

Khổng Tử lại nói tiếp: “Ta biết rõ con xin phép về nhà nghỉ là mượn cớ, thật ra cho rằng ta đã già nên hồ đồ rồi, không muốn học ta nữa. Con nghĩ xem, ta nói 3 nhân 8 bằng 23 là đúng, con thua, bất quá là thua cái mũ quan kia, nếu ta nói 3 nhân 8 bằng 24 mới đúng, người mua kia thua, đây là một mạng người đó! Vậy con nói xem, chức vị quan trọng hay mạng người quan trọng hơn?”

Nhan Uyên bỗng giật mình tỉnh ngộ, quỳ gối trước mặt Khổng Tử mà thưa: “Sư phụ trọng đại nghĩa coi nhẹ tiểu tiết, đệ t còn tưởng rằng Sư phụ vì lớn tuổi mà thiếu minh mẫn, đệ tử hổ thẹn vạn phần!”

Từ đó về sau, bất luận Khổng Tử đi đến đâu, Nhan Uyên theo đến đó không rời sư phụ…

Câu chuyện này gợi cho tôi nhớ tới ca từ trong một bài hát tuyệt vời của Khắc Lý Lâm: 

  “Nếu như mất đi bạn, được cả thế giới cũng để làm gì?”

– Tranh cãi với khách hàng. Bạn thắng rồi. Khách mất đi.
– Tranh cãi với đồng nghiệp. Bạn thắng rồi. Đoàn đội tiêu tan.
– Tranh cãi với người nhà. Bạn thắng rồi. Tình thân biến mất.
– Tranh cãi với bạn hữu. Bạn thắng rồi. Bạn hữu dần xa.
– Tranh cãi với vợ / chồng. Bạn thắng rồi. Tình cảm nhạt phai.
– Tranh cãi với bất kỳ ai. Bạn thắng rồi thì sao??? Thắng có nghĩa là bạn THUA???

Hãy tranh cãi, tranh đấu với chính bản thân. Nếu tự thắng Bản thân sẽ trở thành người: Từ Bi, Khiêm Tốn, Bao Dung Độ Lượng… thì lúc đó bạn mới thật sự THẮNG”.

From: Michelle Bùi & Nguyễn Kim Bằng

Trời reo nắng thì chim reo tiếng sang

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 20 thường niên năm C 14/8/2016

                        Tin Mừng (Lc12: 49-53)

Hôm ấy Đức Giêsu nói với các môn đồ rằng: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!

 Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao?

Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba.53 Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng.”

* * * * * *

 “Trời reo nắng thì chim reo tiếng sang”

Xuân có hồng thì tôi có tình tôi.

Tiếc nhau chi, mai mốt đã xa rồi.

Xa là chết, hãy tặng tình lúc sống.

Chớ chia rẽ, dễ gì ta gặp mộng,

Những giòng đời muôn kiếp đã chia trôi.”

(Dẫn từ thơ Xuân Diệu)

Nói giống nhà thơ: xa là chết. Chết về tinh-thần. Chết, cả về thể xác. Nhưng, dẫu có chết như thế nào đi nữa, tình mình đâu đã hết. Tình chỉ hết, khi người mình cứ thế rẽ chia như nghịch lý/nghịch thường Chúa vẫn nói, mãi lâu nay.

Lời Chúa nói hôm nay, thoạt nghe như có vẻ mâu-thuẫn, khó khăn. Khó, nhưng nên nhớ trình-thuật Tin Mừng luôn được thần-hứng như kinh-nghiệm sống của cộng-đoàn các kẻ tin. Cụ-thể hơn, nội-dung Lời Chúa hôm nay nói về việc vẫn có rẽ chia trong cộng đoàn dân Chúa. Chí ít, là cộng-đoàn gia-đình tình-thương, vẫn vui sống. Tin Mừng Lời Chúa cũng nói đến Lửa mà Chúa đem đến cho trái đất. Lửa đây, nên hiểu như yếu-tố rẽ chia chăng?

Lửa ở đây, trước tiên không phải là thứ lửa của dịch hành đốt phá rừng nhiệt-đới, mỗi mùa khô. Lửa đây, là sức nóng bừng bừng; là, ánh sáng và là yếu-tố gột rửa những thanh-thoát. Lửa gột tẩy Chúa gửi đến, vẫn cháy bừng nơi bụi rậm xưa Môsê đã nhìn thấy, và là lửa gột tẩy cháy nóng từng cột và từng cột vốn tháp-tùng chúng dân  chốn sa-mạc lưu-đày. Lửa, mà Chúa nói còn mang hình lưỡi với khí thế bừng bừng ngày Thánh Thần đến, rất tâm-giao.

Và, Lửa lại là tình-yêu nóng cháy Chúa đến với môn-đệ, với Hội-thánh, với tất cả mỗi người chúng ta. Lửa của Ngài, dù không ở dạng đốt phá hoặc mang hình-hài tẩy xoá, vẫn là lửa ngọn lung-linh đưa dẫn con người về với đổi thay, giải-thoát.

Tin Mừng hôm nay, nhắc lại sự rẽ chia ngày Chúa đến. Đây, là khẳng-định dễ kích-động tranh-luận, làm sống lại các xung-đột bên trong tôn-giáo cùng tin vào một Chúa, vào thần-linh. Như, Do-thái-giáo và đạo Hồi ở Trung Đông; như Công giáo, Chính thống-giáo lẫn đạo Hồi ở Nam Tư; hoặc tệ hơn nữa, như Ấn giáo Hồi giáo và Thiên Chúa giáo ở Ấn-Độ.

Thoạt nhìn, tưởng chừng như Tin Mừng nhắc là những gì đi ngược lại điều Chúa nói trong Bài Giảng Trên Núi; hoặc, buổi Tiệc Tạ Từ trước ngày Ngài chịu nạn, và khác hẳn bức thư tâm-tình thánh Phao-lô gửi giáo-đoàn Ê-phê-sô. Xét cho cùng, đây không là sấm Trạng hoặc mặc-khải nào đó tỏ-bày ý-định của Chúa ở trên cao. Mà, chỉ là văn-phong miêu-tả kinh-nghiệm rất thực mà Giáo-hội thời xưa sống. Thánh Luca hôm nay chỉ muốn viết lại Lời Ngài nói ngay từ đầu, áp-dụng cho hôm nay.

Hiện nay, ở nhiều nước trên thế-giới, nhiều cá-nhân riêng rẽ cũng như các cộng-đoàn theo chân Chúa vẫn bị coi là mối đe-doạ lớn đối với các chính-quyền trần-gian như nhiều nhóm quyền-lực ở trần-gian cũng như tôn-giáo khác đã hành-xử như thế. Cụ-thể như, vào thế-kỷ thứ 20, có những chế-độ độc-tài vẫn muốn chia-rẽ, bách-hại khối Công-giáo, chỉ vì những người anh em này cứ đoàn-kết chung lưng thành một lực-lượng để giúp nhau sống niềm tin của mình.

Với các chính-phủ này, dân con Đạo Chúa vẫn là bè nhóm đáng ngờ vực gây nhiều hãi sợ. Cụ thể hơn, có lần Stalin dám nhạo bang hỏi Đức Giáo Hoàng thời đó: “Phía các ông được bao nhiêu sư-đoàn?” Kể ra thì, họ hãi sợ người Công-giáo thật cũng phải. Bởi, con dân nhà Đạo dù chẳng dùng đến sung đạn chỉ cậy vào niềm tin thôi cũng đã làm sụp đổ cả khối chính-trị ở Đông Âu.

Ngược giòng lịch-sử đạo-giáo, người người đều thấy có quá nhiều tín-hữu Đức Kitô và gia-đình họ chịu khổ-hình chỉ vì quyết tuân theo đường-lối hy-sinh bác ái Chúa dạy. Bằng chứng là, biết bao vị thánh đã hy-sinh tánh-mạng để bảo-vệ đức tin. Từ đó, sống Đạo theo đúng Tin Mừng dạy còn khó hơn nhiều. Và vì thế, con số các vị tử-đạo ngày nay có thể còn nhiều hơn các thế-kỷ trước.

Dù có tử vì đạo hay không, sứ-điệp mà tín-hữu Đức Kitô đưa ra, luôn là chủ-trương bất bạo-động. Tín-hữu Đức Kitô quyết một lòng mang tình yêu, lòng thương xót, niềm an-ủi hài-hoà đến với hết mọi người, bất kể họ là Do-thái hay Hy-Lạp, nô-lệ hay tự-do, nam hoặc nữ, và bản-chất người Kitô-hữu luôn luôn bất bạo-động. Sứ-điệp làm nhân-chứng cho Tình-yêu Chúa vẫn luôn thách-thức đánh thẳng vào những bất-công tham ô, kỳ-thị, lạm-dụng, bất lương. Và, vào cả những ai xúc phạm đến phẩm-giá con người nữa.

Và, vai-trò của người rao-truyền Lời Chúa, vẫn luôn là “làm hoà với những người khốn-khổ gây khó với những người chỉ biết ăn chơi, hưởng-lạc. Khi Hội-thánh Chúa đã quyết-tâm rao-giảng và sống đúng như Tin Mừng Ngài dạy, thì mọi tranh-chấp rẽ chia vẫn là chuyện khó tránh. Hội-thánh chẳng bao giờ muốn có tranh-chấp, rẽ chia. Và, dân con nhà Đạo chẳng bao giờ có ý-định phân-ly rẽ đám một ai.

Nói cho cùng, tôn-giáo không chia rẽ. Chỉ có phe nhóm giả-dạng tôn-giáo hoặc giáo-phái tà-đạo mới tính chuyện phân rẽ. Các tôn-giáo này luôn đề-cập đến trang-thái “nó và ta” hoặc lúc nào cũng nghĩ “phe ta và phe nó”. Đạo đích-thật, không khi nào chia rẽ cũng chẳng tạo khổ đau cho bất cứ ai. Chỉ những người tự cho là giáo-dân ngoan đạo hoặc giáo-phái “chính-thống” có lẽ là người gây chia rẽ. Vì, chính họ luôn vỗ ngực tự-hào là mình chính quy, đạo-đức. Mình giữ đầy-đủ luật-lệ, và chỉ mình mình mới là người làm đúng. Còn lại, mọi người khác đều đi trật đường rầy, đều lạc đạo, cấp-tiến. Và cuối cùng, những kẻ chủ-trương chia rẽ chính là ngư ông hưởng lợi.

Tóm lại, Đạo của Chúa không chia rẽ, nhưng luôn bảo-vệ sự thật. Luôn rao truyền sự công-chính. Lúc nào cũng quyết bảo-vệ phảm-giá và sự tự-do của con người. Chủ-trương ấy, đường-lối kia dĩ nhiên sẽ kéo theo nhiều đối-kháng, tị nạnh. Chính vì thế, mới có quả-quyết của Chúa nơi hiến-chương được ban-bố khi Ngài khởi-đầu cuộc đời rao-giảng : “Phúc cho ai bị bách-hại vì Tin Mừng.” Hiến-chương tuy hơi lạ nhưng là hiến-pháp luôn có sự thật song-hành.

Chung vui Tiệc Thánh hôm nay,ta cảm tạ và biết ơn các vị thánh đã xả-thân để bảo-vệ sự sống. Bảo-vệ lối sống có niềm tin và yêu thương. Cảm-tạ và biết ơn các đấng bậc đã chiến-đấu cho sự thật. Cho, công-bằng và lẽ phải. Các ngài chiến-đấu để duy-trì phẩm-giá con người và bảo-tồn tự-do làm con cái Chúa. Đó, là quyền của họ. Và, cũng là bổn-phận làm nhân-chứng cho Tình Yêu của Chúa.

Thành thử, với gương lành Đức Kitô, Đấng từng là đối-tượng của nhiều khích-bác, bạo-động, ta được khích-lệ duy-trì bảo vệ sự đoàn-kết và an-bình nội-tâm. Một an-bình chỉ có Đức Ki-tô và đường-lối Ngài dạy mới giúp ta vững tâm tiến-bước.

Trong hân-hoan tiến bước theo chân Chúa, ta hãy cùng bầu bạn hãy hát vang bài ca bừng sáng thuở nào cho thêm nhựa sống mới. Bừng sáng lên, để không ai phải hãi-sợ lửa ngọn rẽ chia, nhưng vui mừng tiếp đón ngọn Lửa tin yêu kết-đoàn mà Chúa sáng soi, cho hết mọi người. Với lửa ấm cúng ngọt ngào ấy ta sẽ biết “tặng tình lúc còn sống”, dù “Giòng đời muôn kiếp chia trôi”.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn  –

Mai Tá lược dịch.

“Chiều hôm qua lang thang trên đường,

Chiều hôm qua lang thang trên đường,

Hoàng hôn xuống chiều thắm muôn hương.

Chiều hôm qua mình tôi bâng khuân,

Có mùa thu về tơ vàng vương vương.”

Video Thu vàng – Thanh Lan   HTTPS://www.youtube.com/watch?v=S-GYqew9WH8

Có ngâm thơ và hát nhạc, cũng chỉ để nói lên rằng: “Xuân có hồng, thì tôi có tình tôi” không chia rẽ, cũng chẳng xa vời nhiều kiếp. Dù có lang thang trên đường đời muôn lối rất “bâng khuâng” “vương vương nhiều tơ vàng” nhiều mùa thu.

Thế đó, là tình-tự xin được gửi đến người anh, người chị ở Nước Trời Hội thánh, rất hôm nay.

Mai Tá

từ Sydney luôn hướng về Hội thánh ở đây, hôm nay.

www.giadinhanphong.com

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 20 mùa thường niên C 14/8/2016

Chiều hôm qua lang thang trên đường,

Hoàng hôn xuống chiều thắm muôn hương.

Chiều hôm qua mình tôi bang khuân,

Có mùa thu về tơ vàng vương vương.”

(Cung Tiến – Thu Vàng)

(1Cor 2: 1-3)

 Trần Ngọc Mười Hai

 Thu vàng – Lá vàng – Hoàng hôn xuống! Chao ôi, là ảnh-hình của AI đó có hôn-hoàng một cuộc đời, đầy mùa thu. Lang thang – Bâng khuâng – Vẫn một mình! Ối chà, là cảnh-tình của tôi đây vẫn một mình “có mùa thu về, tơ vang hiu hắt, rất vương vương”.

Vâng. Thu Vàng, với trời thơ là như thế.

Vâng. Tơ vàng, với đời nhà Đạo, đôi lúc cũng như vậy. Như thế và như vậy, cũng “bâng khuâng”, “hiu-hắt”, rất “não-nề” một đường đời. Đời, của đấng bậc ở trên cao tít có những chiều nghe lá vàng não nề rơi như thế không?

Câu hỏi đại-loại như thế và như vậy, vẫn được gióng lên với dân con Đão Chúa sống đời này, khắp muôn nơi. Hỏi thì hỏi, chứ câu trả lời đâu nào giống ý/lời nhạc-bản mà người nghệ-sĩ còn hát tiếp! Nay, xin bạn và xin tôi, at lại nghe tiếp những lời nhè nhẹ ở câu ca được các nghệ-sĩ “cây nhà lá vườn” hát ở quán nhạc “Hát Cho Nhau Nghe” hôm 2/7/2016 kỷ-niệm 10 năm Ra mắt, vẫn hát rằng:

“Mùa Thu vàng tới, là mùa lá vang rơi.

Và, lá vang rơi, khi tình Thu vừa khơi.

Nhặt là vang rơi xem mùa lá còn tươi.

Nghe chừng như đây màu tê-tái.”

(Cung Tiến – bđd)

Vâng. Cứ như thế và như vậy, lại là tình-tự của bần-đạo bầy tôi đây khi “lang thang trên đường” lại cứ nhớ đến những tình-huống ở Đạo Chúa có nhiều sự-kiện bắt mọi người phải suy-tư. Suy và xét trong chốn riêng-tư, bầy tôi đây đã bắt chụp được một vài tư-tưởng nảy-sinh từ đâu đó chốn nhà Đạo và ngoài đời cũng rất “thơ” nhưng không “mộng”. Thơ mộng chăng, chỉ thấy trên giấy bút, có giòng thơ và nét nhạc còn hát mãi, những lời tình buồn như sau:

“Chiều hôm qua lang thang trên đường,

Nhớ, nhớ buồn buồn với chán-chường.

Chiều hôm nay, trời nhiều mây vương,

Có mùa Thu vang bao nhiêu là thương.”

(Cung Tiến – bđd)

Vâng. Suy và xét trong chốn riêng-tư hạn hẹp hay ngoài đời rộng khắp, cứ dẫn đưa người đọc như bần đạo đây vào chốn miền trầm-lắng có tiếng giọng hoặc going chảy đầy ắp những tư-tưởng để at tha hồ mà xem xét cùng tư-lự như sau:

Suy và xét, là xét những điều được đấng bậc vị vọng chốn cao tít, vừa tâm-tình ở nhà Đạo hôm rồi, với những lời dầy đặc một âm-hưởng, mà rằng:

“Cha đau lòng khi thấy trong giáo xứ có một lịch trình làm việc để rồi sau giờ làm việc quy định, thì không còn linh mục, không phó tế, không giáo dân …’

 Khi thốt lên những lời này trong buổi Toàn xá cho Phó tế, Đức Giáo hoàng Phanxicô chắc chắn không nói đến những cơ cấu làm việc hiệu quả có thể bảo đảm phục vụ ‘không ngừng’ cho mọi tín hữu. Ngài cũng không hẳn mong muốn một thế hệ linh mục biến đổi gene, có thể không ăn không ngủ để làm việc mục vụ mọi giờ cả ngày lẫn đêm, hay nói cách khác là 24/7. Đặc biệt ở phương Tây, tuổi trung bình của các linh mục Công giáo đang ngày càng tăng, con số cũng ít hơn, và càng khó để duy trì số lượng giáo xứ như hiện thời.

 Điều mà Giám mục thành Roma muốn nhắc nhở chúng ta là, làm giám mục, linh mục và phó tế, không phải là một nghề nghiệp hay một công việc với lịch trình làm việc cố định. Mà làm linh mục, phải là sứ mạng và phục vụ, dâng về Thiên Chúa bằng cách phục vụ dân Ngài. Sống giữa dân Chúa.

 Đây là lý do vì sao Đức Phanxicô nhắc nhở các mục tử phải học cách tách mình khỏi những lịch trình, họ phải sẵn sàng để phá ngang sự nghỉ ngơi mà họ xứng đáng có được, bỏ qua một phút thư thái hay đọc một quyển sách, để gặp người đang gõ cửa nhà xứ, người đến để xin giúp đỡ, tìm sự an ủi, tìm lời khuyên. Bởi chính sự chào đón này, sự gặp gỡ, sự sẵn sàng lắng nghe, phục vụ những người tìm đến ngoài giờ, làm cho người mục tử trở nên độc nhất vô nhị, khác biệt hẳn với bất kỳ cái gọi là nghề nghiệp nào.

 Do đó, những ai nghĩ rằng Đức Phanxicô mong muốn đua nở những sáng kiến hay hoạt động tự phát trong giáo hội để làm tiếp thị cho đạo, thì họ hoàn toàn lầm to rồi. Không cần phải thêm bất kỳ hoạt động mới nào, cũng như không cần những chiến lược tiếp thị để gặp được những người đang túng thiếu về vật chất lẫn tinh thần.

 Vài ngày trước đó, nói chuyện với các giám mục Ý, Đức Phanxicô đã nói rằng, ‘với nhiều hy-vọng và an ủi …hãy trở nên người lân cận với từng người, chia sẻ với sự hắt hủi và đau khổ của họ. Từ bỏ những tự quyết của mình, không còn một lịch trình cần phải bám chặt, nhưng mỗi sáng ký thác thời gian cho Chúa để tự do gặp gỡ và để mọi người gặp gỡ mình. Như thế, các linh mục của chúng ta không quan liêu cũng không phải là một viên chức giấu mặt trong hệ thống, linh mục không được thánh hiến để làm điều hành, cũng không phải làm việc với động lực một tiêu chuẩn hữu hiệu.

 Mà là một người nô bộc của sự sống, người bước đi cùng với tâm hồn và nhịp đập của người nghèo, đồng thời được phong phú hóa nhờ họ. Con người của hòa bình và hòa giải, một dấu chỉ và khí cụ của sự ân cần của Thiên Chúa, chăm chú lan truyền sự tốt lành với lòng nhiệt tâm. Một con người không chỉ dễ tìm, mà còn biết cách tìm thấy những người đang cần mình.” (Andrea Tornielli, Vatican Insider, J.B. Thái Hòa chuyển dịch)

Giòng tin tức ở trên đã chính-thức đi vào một nhận-định, đại để thì như thế. Giòng chảy phản-hồi riêng-tư nhiều ứng-xử, có lẽ rồi ra cũng không giống nhiều như vậy. Giống như thế và không giống nhiều như vậy, vẫn là hai mặt của cùng một sự thật ở đời và trong đời. Sự thật, như thể bầy tôi đây đang suy-tư hoặc chỉ tư-lự về nhiều tình-huống có những câu hỏi hoặc giòng chảy đầy khúc-mắc về chuyện đạo, chuyện đời đã khiến bạn đạo cùng tôi phải lao mình vào chốn truyền-thông/báo đài để lùng tìm câu đáp trả.

Và lời nhắn-nhủ của Đức Phanxicô phải chăng chỉ để nhắc-nhở các đấng bậc mục-tử nhớ ba lời khấn-hứa lúc thụ-phong chức-vụ hoặc sống đời sĩ-tử của Dòng tu, là: Khó-nghèo, khiết-tịnh và tuân-phục. Lời nhắc-nhở đây có thể cũng là lời nhắn với tất cả con dân trong Đạo, cả đến tín-hữu và giáo-dân nói chung, cốt để mọi người đừng quên cố-lõi của Đạo luôn nhắc nhở về Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu, vẫn rất mực. Nhắc và nhở, mọi người đừng quên lý-tưởng sống đúng chức-năng/ơn gọi của mọi người dù ở vai-trò nào đi nữa.

Nhắc và nhở, của đấng bậc ở chốn trên cao tít-mù-tắp của nhà Đạo, còn làm bạn và tôi, ta nhớ và nghĩ đến đấng bậc khác cũng có vai-trò mục-tử chuyên chăn dắt người dấn bước theo chân mình sống đạo làm người, nhưng khác Đạo, bằng những lời vàng sau đây:

Trên đời này, 
+ Có 2 thứ bạn nên tiết kiệm, đó là sức khỏe và lời hứa.
+ Có 2 thứ bạn phải cho đi, đó là tri thức và lòng tốt.
+ Có 2 thứ bạn phải thay đổi, đó là bản thân và nhận thức.
+ Có 2 thứ bạn phải giữ gìn, đó là niềm tin và nhân cách.
+ Có 2 thứ bạn phải trân trọng, đó là gia đình và hiện tại.
+ Có 2 thứ bạn phải tự mình thực hiện, đó là lao động và chịu trách nhiệm về việc mình làm.
+ Có 2 thứ bạn phải lãng quên, đó là đau thương và hận thù.
+ Có 2 thứ bạn phải khắc ghi, là công ơn Mẹ Cha và sự giúp đỡ của người khác.
+ Có 2 thứ bạn buộc phải có để là người thành công, đó là đam mê và lòng kiên trì.
+ Có 2 thứ bạn không được làm, đó là hãm hại người khác và phản bội lòng tin.
+ Có 2 thứ bạn phải bảo vệ, đó là danh tín và lẽ phải.
+ Có 2 thứ bạn phải chấp nhận, là cái chết và sự khác biệt.
+ Có 2 thứ bạn phải kiểm soát, đó là bản năng và cảm xúc.
+ Có 2 thứ bạn phải tránh xa, đó là cám dỗ và sự ích kỷ.
+ Có 2 thứ bạn luôn phải xử dụng mà đừng hà tiện, là tiền bạc và kinh nghiệm.
+ Có 2 thứ bạn không được sợ sệt, là cái ác và sống thật.
+ Có 2 thứ bạn phải nuôi dưỡng, là tình yêu và sự bao dung.
+ Có 2 thứ mà bạn cần phải đạt được trong cuộc sống, đó là thành đạt và hạnh phúc.
+ Có 2 thứ bạn phải luôn sẵn sàng, đó là khó khăn và ngày mai.
Và, có 2 thứ mình nên ghi nhớ, là thực hiện những điều trên cho thật tốt trong cuộc sống hàng ngày.

Làm gì thì làm. Sống sao thì sống. Có sống theo cung cách cùa giáo-dân bình-thường ở dưới trướng hoặc sống chức-năng phục-vụ cộng-đoàn của mình qua tư-cách một mục-tử, vẫn là sống như lời căn dặn của mục-tử ngoài Đạo rất đạo-hạnh, rất như thế.

Sống sao thì sống. Sống có chất-lượng của người đạo-hạnh, trong đời vẫn có rất nhiều thứ cần gìn giữ, nhưng còn tuỳ. Tuỳ bạn, tuỳ tôi, ta cần sống sao để mọi người còn biết mà nhớ cùng bắt chước.

Thế đó, còn là đề-nghị thân thương của người viết họ Nguyễn tên thị Bích nay kể lể, ở bên dưới:

“Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! 

Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết:

-Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.

Bà biết Quang đã đặt mua vé máy bay hơn hai tuần trước nên chuyện mưa bão hoàn toàn là do “ý trời”. Hôm Quang gọi điện thoại báo tin sẽ sang thăm và ở chơi gần một tuần lễ, bà thật vui mừng và không tin vào tai mình, nhưng vẫn thấy lo lo trong lòng nên đã hỏi lại:

-Lần này con qua thăm má lâu vậy mà sao lại đi có một mình vậy con?

Quang hiểu ý má nên nói ngay để bà yên tâm:

-Hè này ba má vợ con từ Việt Nam sang thăm và ở chơi với tụi con trong vòng ba tháng.

Họ đã ở nhà con được sáu tuần rồi, giờ đây muốn đi thăm bà con ở những tiểu bang khác. Nhân tiện mấy đứa nhỏ được nghỉ hè nên vợ con sẽ dắt chúng đi chơi cùng ông bà Ngoại. Con nghĩ đây là dịp hay nhất để sang “hủ hỉ” với má ít hôm để má đỡ buồn!

Bà có tất cả ba người con. Quang là anh cả và cũng là đứa quan tâm đến bà nhất nhưng ông trời cũng khá trớ trêu nên hai mẹ con gần như lúc nào cũng sống xa nhau. Hồi nó mới 13 tuổi đã phải theo ba xuống tàu vượt biên. Gần mười năm sau hai má con mới gặp lại thì nó đã trưởng thành và thường xuyên phải đi công tác xa nhà hai người cũng ít có dịp sống cạnh nhau. Nó là đứa vất vả với gia đình nhiều nhất và cũng là đứa có hiếu nhất trong mấy anh em. Ngay từ những ngày mới đặt chân lên nước Mỹ nó đã đi bỏ báo, chạy bàn làm đủ thứ việc để kiếm tiền phụ giúp ba lo cho má và hai em còn kẹt ở lại Việt Nam . 

Rồi đến khi xong lớp mười hai thay vì vào Đại Học thì nó lại quyết định theo khóa đào tạo chuyên viên kỷ thuật hai năm để sớm ra trường kiếm việc làm phụ giúp ba bảo lãnh một nữa gia đình sang Mỹ đoàn tụ. Phải chờ đến khi nhà cửa đã ổn định, các em đã vào đại học hết nó mới chịu quay lại trường để lấy bằng Kỹ-Sư Xây-Dựng.

Hai đứa em nó thì may mắn hơn thằng anh rất nhiều vì không phải nếm mùi “vượt biên” và lúc nào cũng có mẹ bên cạnh chăm sóc. Có lẻ chính vì thế mà tụi nó không có những đức tính chịu thương, chịu khó như anh của chúng. Con gái lớn của bà sau khi xong trung học thì vào Y Khoa rồi tốt nghiệp Bác Sĩ một cách khá dễ dàng, nó ra trường hai năm sau thì kết hôn với anh chàng Mỹ trắng lớn hơn vài tuổi và cùng học chuyên ngành Giải-Phẫu. Cuộc sống của hai vợ chồng nó cũng khá hạnh phúc. Bà mừng cho con gái của mình.

Riêng thằng Út sau khi xong Đại Học ngành Tài Chính đã về đầu quân cho một hãng xe hơi khá nổi tiếng trong vùng. Làm được vài năm thì nó kết hôn với một cô Việt Nam vốn thuộc dòng danh gia quý tộc từ trước năm 1975 tại Sàigòn. Vợ chồng nó cũng khá đầm ấm. Bà cũng mừng cho thằng Út của mình.

Tuy nhiên, điều lo lắng nhất của vợ chồng bà là Quang đã ngoài ba mươi tuổi mà vẫn chưa chịu cưới vợ. Thấy ba má cứ hối thúc chuyện vợ con thì nó bảo:

-Má ơi! Mấy cô Việt Nam lớn lên bên này nhìn cao lắm con với không tới nổi đâu, còn mấy nàng người Mỹ thì lại không phù hợp với tính cách của con. Chắc ba má còn lâu lắm mới có “cháu Nội đích tôn” để ẵm bồng!

Ấy vậy mà chỉ vài năm sau đó khi nhà máy chuyển sang làm việc ở Florida thì Quang tình cờ quen với một cô du học sinh Việt Nam mới ra trường và đang đến hãng nó xin việc. Hai đứa quen nhau, yêu nhau và tiến đến hôn nhân như là một duyên phận được sắp xếp từ kiếp nào! Bà cũng mừng cho tụi nó quá!

Có thể nói đây là khoảng thời gian viên mãn nhất của gia đình bà khi con cái đã lớn, đều thành đạt và có cuộc sống khá ổn định. Sau những chia cắt, mất mát, hy sinh giờ đây vợ chồng bà đã có thể mỉm cười khi thấy thành quả của mình gieo trồng bấy lâu nay đã sinh quả ngọt. 

Nhưng rồi tai ương hoạn nạn bỗng đổ xuống cho gia đình bà một cách bất thình lình! 

Mười năm trước chồng bà được phát hiện có khối u trong trong não. Bệnh trạng của ông biến chuyển quá nhanh và ông đã ra đi chỉ trong vòng vài tháng sau đó. Ông mất quá bất ngờ khiến cho bà thật sự bị hụt-hẫng, biết bao dự tính mà hai vợ chồng bà đã phát thảo cho tuổi già của hai người đành phải bỏ dở dang. Năm đó bà mới 62, vẫn còn đi làm part-time nhưng vì tinh thần và sức khỏe quá suy sụp nên các con đã khuyên thôi má hãy về hưu sớm đi, tụi con đủ khả năng lo cho má mà. Bà cũng không thể nào làm khác hơn vì thấy sức khỏe của mình ngày càng xuống dốc trầm trọng!

Khi chồng mất rồi bà mới cảm nhận hết nổi trơ trọi trên đời. Bốn mươi hai năm cùng sánh bước bên nhau, tuy có một khoảng thời gian chia cắt nhưng họ vẫn luôn tin tưởng sẽ có ngày trùng phùng.

Giờ đây chỉ còn lại một mình bà lủi thủi ra vào trong căn nhà trống, bà bắt đầu thấy sợ bóng đêm, sợ một mình, sợ ngày dài và sợ cả đêm thâu. Bác sĩ cho biết bà đang bị trầm cảm nặng, trước mắt cần phải thay đổi môi trường sống thì mới mong thuyên giảm.

Ba đứa con họp lại bàn với nhau sẽ đưa má về ở với ai? Trước tiên vợ chồng Quang có mời bà sang ở với tụi nó, bà cũng muốn lắm nhưng ngặt một nổi nó cứ đi công tác xa nhà luôn nên bà ở lại Cali vẫn hay hơn. Dẫu sao bên này bà vẫn còn hai đứa con và đám cháu Nội, Ngoại. Nhưng giữa đứa con gái và thằng Út bà sẽ chọn ai? Nhất định bà không muốn sẽ trở thành người-nước-ngoài khi sống trong gia đình của con gái mình, tụi nó nói toàn tiếng Mỹ, làm sao bà có thể hoà nhập được. Cuối cùng bà quyết định về ở với thằng Út, vợ nó đang mang bầu đứa thứ hai bà nghĩ mình sẽ có thể “hụ hợ” chúng trông chừng đám cháu nội sau này.

Nghĩ như thế nên bà quyết định bán căn nhà bốn phòng ngủ của mình để đưa tiền cho thằng Út mượn-vốn-làm-ăn. Với số tiền của bà cộng thêm tiền của ba má vợ, tiền vay ngân hàng và tiền dành dụm của hai vợ chồng nó bấy lâu nay cũng tạm đủ cho thằng Út “ra riêng” mở một đại lý bán xe khá khang trang. Đồng thời từ ngôi nhà nhỏ ba phòng ngủ hai vợ chồng nó đã mua một căn nhà trên núi thật tráng lệ.

Lúc còn sống trong căn nhà nhỏ mỗi ngày bà còn thấy thằng Út, nhưng từ khi dọn sang nhà mới bà hầu như không thấy mặt con mình đâu nữa cả. Nó đang bơi trong cả núi công việc nên làm sao có thời gian dành cho bà! Thêm vào đó căn nhà rộng lớn thênh thang quá, nó dường như kéo tình mẹ con của bà ngày càng xa thêm. Khi thằng Út đi làm về thì bà đã an giấc, vào buổi sáng lúc bà đang lui cui lo điểm tâm sáng cho cả nhà thì nó từ trên lầu đi xuống tai vẫn áp vào cái điện thoại, nó đưa tay vẫy vẫy như chào bà rồi đi thẳng vào garage lấy xe đến chỗ làm.

Chỉ vào dịp cuối tuần thì thằng Út mới nghỉ trọn vẹn ở nhà vào ngày Chúa Nhật. Đây là lúc nó dành thời gian cho vợ con của nó! Thường gia đình nó hay đi chơi cả ngày, khi về đến nhà thì vợ chồng con cái kéo nhau lên lầu, sau khi hỏi thăm bà vài câu xã giao lấy lệ. Mùa hè gia đình nó đi chơi xa có khi một hay hai tuần mới về.

Bà ở nhà bơ vơ, buồn tủi, đơn độc. Lúc đó bà chỉ biết khóc thầm một mình với mây trời, hoa lá và chim chóc trong vườn.Còn đứa con gái của bà thì cũng không khá hơn em nó chút nào. Từ ngày bà dọn về sống với thằng Út nó chỉ ghé thăm bà “năm khi, mười họa” lấy cớ bây giờ má ở xa quá và cao quá con phải lái xe cả tiếng đồng hồ mới đến nơi. Nó luôn than thở rằng lúc này con phải vừa đi dạy, vừa làm việc trong bệnh viện nên bận lắm má à! Bà chỉ biết cười buồn mà chẳng nói được lời nào!

Khoảng thời gian này niềm vui hiếm hoi nhất của bà là mỗi lần Quang về thăm. Đó là dịp duy nhất mà gia đình cùng sum họp bên nhau. Trong một lần cả nhà đang quây quần bên bàn ăn thì bà buông đũa nhìn từng đứa con của mình rồi chậm rãi nói:

-Má xin các con hãy giúp má thực hiện ước nguyện cuối cùng của đời mình.

Mọi người bỗng im lặng và đổ dồn ánh mắt về phía bà. Quang hỏi bà với giọng khá ôn tồn:

-Chuyện gì vậy má. Má hãy nói cho mấy anh em tụi con biết ngay đi.

Bà cười buồn và chậm rãi nói:

-Má muốn vào Nursing Home ở con à! Má nghĩ trong đó sẽ tốt cho má và tốt cho cả … các con nữa. Từ nay các con không phải lo lắng nhiều cho má như trước!

Quang im lặng suy nghĩ vài giây rồi ngẩng lên nhìn hai đứa em. Chúng nó đang cuối mặt lẫn tránh ánh mắt của anh. Quang đã hiểu ra tất cả rồi và bằng giọng khá điềm tĩnh, anh nói:

-Ngày mai chúng con sẽ chở má đi chọn Viện Dưỡng Lão. Nếu má thấy ưng ý cái nào nhất thì tụi con sẽ thu xếp cho má vào ở ngay trước khi gia đình con về lại Florida . Con hứa trong thời gian tới sẽ bay qua thăm má thường xuyên hơn.

Sáng hôm sau thằng Út lấy cớ có hẹn với khách hàng và cô con gái của bà bảo phải trực bệnh viện nên cả hai không thể đi cùng. Chỉ có vợ chồng Quang dẫn bà đi chọn Nursing Home. Mặc cho Quang nài nỉ khuyên bà hãy chọn một nơi “cao cấp” chút để ở nhưng bà nhất định từ chối. Cuối cùng bà đã vào sống trong Viện Dưỡng Lão này vì thấy không khí và cách phục vụ của mọi người khá chu đáo, thân thiện. Nhưng điều quan trọng nhất khiến bà đưa ra quyết định này là vì nó nằm ở khoảng giữa và không xa nhà của hai đứa con là bao, cũng tiện đường cho tụi nó có đi đâu thì dễ dàng tấp vô thăm bà.

Những suy tính của bà tưởng sẽ khả thi nhưng suốt thời gian hơn ba năm bà sống trong Viện Dưỡng Lão cho đến nay thằng Út chỉ đến thăm bà đếm chưa đủ trên mười đầu ngón tay. Lý do nó đưa ra chính đáng quá mà, má ơi dạo này con mới mở thêm một cái chi nhánh bán xe nữa ở tiểu bang khác nên phải bay đi bay về như con thoi. Mỗi lần nó đến thăm bà chừng độ nữa tiếng là tối đa nhưng nó nói chuyện với bà thì ít mà nói với cái điện thoại của nó thì nhiều. Bà đâm ra mang mặc cảm làm phiền nó, nên có lần bà đã bảo:

-Chừng nào con có thời gian rãnh rỗi thì thu xếp vô thăm má. Má ở trong này cũng tốt lắm, các Bác Sĩ, Y Tá và nhân viên đều rất tận tình, chu đáo. Con cứ yên tâm mà lo công việc của mình.

Thế là sau này nó chỉ nhắn tin “thăm” bà trên điện thoại là chủ yếu. Vậy cũng tốt cho nó và cả cho bà. Bà khỏi phải mong ngóng và chờ đợi những lần nó đến thăm và nếu vì lý do gì đó nó không đến được thì bà sẽ không phải buồn suốt mấy ngày liền. Thêm một điều nữa là từ ngày dọn vào đây sống bà không hề thấy bóng dáng của con dâu và ba đứa cháu Nội đâu cả. Bà nhớ ba đứa cháu của mình nhiều lắm vì bà cũng đã từng gần gũi, chăm sóc chúng suốt năm năm trời rồi còn gì. Sau này bà mới biết rằng hai vợ chồng thằng Út không muốn dẫn con vô đây thăm bà Nội vì sợ môi trường sống của người già sẽ dễ lây bệnh cho tụi nhỏ!

Con gái của bà thì cũng không hơn gì em nó. Lúc trước nó hay tạt vô thăm bà trên đường đi làm về nhưng cũng chỉ là vài tháng một lần, mà lần nào nó cũng đều than rằng lúc này con bận dữ lắm vì sắp tới Mark và Ben sẽ vào Đại Học, tụi con đang cật lực kiếm tiền để chuẩn bị cho hai anh em nó vào Harvard hay Yale. Tính sơ sơ chi phí của hai đứa sau bốn năm cũng cỡ nữa triệu đô la là ít. Đây cũng là một lý do chính đáng nó đưa ra khi không thể vào thăm bà thường-xuyên-như-trước. Bà chỉ nuốt nước mắt vào lòng.

Nhớ mới ngày nào lúc ba mẹ con còn ở lại Việt Nam, khi chồng và con trai còn ở đảo, mỗi ngày bà phải đi buôn bán nên thường gửi con cho hàng xóm ngó chừng dùm. Chiều nào về tới nhà cũng thấy hai chị em nó mếu máo đứng chờ; hôm nào bà nghỉ bán thì tụi nó mừng lắm, xúm-xít bên má không rời nữa bước. Giờ đây mọi việc đã khác xưa rồi! Các con nay đã lớn. Bà thì đã già. Tụi nó cần gì ở bà nữa chứ!

Càng nghĩ bà càng thương cho thằng Quang. Cứ mỗi buổi chiều sau khi ra khỏi hãng là nó gọi nói chuyện với bà suốt đoạn đường lái xe về nhà. Rồi thì cách vài tháng là nó bay sang thăm bà một lần, nếu là dịp lễ thì nó đi với vợ con, thường thì nó bay sang một mình ở chơi với bà từ chiều Thứ Sáu đến chiều Chúa Nhật thì về, để sáng thứ hai đi làm sớm. Hai mẹ con tuy xa nhưng cũng thật gần. Nó là niềm an ủi duy nhất mà bà có được ở tuồi gần đất xa trời này.

Vào sống trong Viện Dưỡng Lão lâu ngày bà càng thấy thương cho những người đồng cảnh ngộ như mình. Cho dù họ là Trắng, Đen, Vàng hay… “pha trộn” thì họ và bà cũng đều có chung một nổi buồn của tuổi già như nhau.

Ở trong này, mỗi khi ai đó có con cái sắp sửa vô thăm là dễ biết lắm. Họ sẽ chộn rộn chàng ràng suốt từ mấy hôm trước. Họ nói năng huyên thuyên, cười đùa luôn miệng. Đó là dịp cho họ lôi những bộ cánh lâu ngày được cất kỷ trong tủ ra mặc thử, đi tới đi lui ngắm nhìn mình trong gương, như sắp chuẩn bị đi dự giải Oscar. Thiết nghĩ vào thời điểm 50 hay 60 năm trước thì buổi hẹn hò đầu tiên của họ chắc cũng chỉ hân hoan và hạnh phúc đến thế là cùng!

Có lần một bà Mỹ Trắng sống cạnh phòng bà sang khoe rằng ngày mai con trai của bà ấy sẽ đến thăm và chở đi xem phim vì là Sinh Nhật 80 tuổi của bà. Nhiều người đã đến chúc mừng cho bà mẹ hạnh phúc này. Tới ngày hẹn, bà mẹ đó đã dậy thật sớm, ngồi trang điểm hàng giờ thật cẩn thận trước gương và thay bộ đầm mới nhất chưa một lần mặc qua rồi chờ con trai đến đón. Thời gian chậm rãi trôi qua một giờ, hai giờ… cho đến bốn, năm giờ đồng hồ sau bà vẫn không thấy bóng dáng con mình đâu cả. Bà sốt ruột gọi cho nó nhưng điện thoại đã tắt mất rồi!

Cuối cùng, một nhân viên của Nursing Home với vẻ mặt đầy ái ngại đã mang đến trao cho bà một bó hoa thật lớn, thật đẹp và một tấm thiệp với biết bao lời lẽ thật hoa mỹ. Lý do con bà không đến được vì có công việc đột xuất vào giờ chót và anh ta hứa sẽ đến thăm mẹ vào một-dịp-khác.

Bà mẹ đáng thương kia đã ôm bó hoa và chết lặng trong lòng. Không ai dám bước đến để an ủi bà một lời nào cả. Bà lẳng lặng ôm bó hoa vô phòng mình, lẳng lặng đặt nó lên giường và sáng hôm sau bà đã lẳng lặng ra đi với chiếc áo đầm mới tinh còn mặc trên người.

Người mẹ tội nghiệp kia cũng mang một chứng bệnh tim như bà, cũng có một đứa con bận rộn như hai đứa con của bà. Tuy nhiên, sức chịu đựng của bà xem chừng tốt hơn người mẹ kia vì con gái và thằng Út cũng đã từng thất hứa với bà khá nhiều lần!!! Cũng từ sau cái chết của bà-hàng-xóm mọi người đã cảnh báo với nhau rằng không được tin bất kỳ lời hứa hão nào cả, dù cho đó là lời hứa của núm ruột mà mình đã đẻ ra! 

Mải lo suy nghĩ miên man mà bà quên khuấy rằng mưa ngoài trời đã tạnh từ bao giờ. Ngó nhìn đồng hồ. Ôi chao trễ quá rồi! Quang có nói khoảng ba giờ máy bay sẽ đáp xuống, con đi hành lý rất gọn nhẹ nên sẽ ra mướn xe liền; chắc trễ lắm là năm giờ con sẽ đến chỗ của má. Bây giờ đã gần tám giờ tối rồi nhưng vì mùa hè nên trời vẫn còn sáng, bà nghĩ chuyến bay của con mình chắc đã tạm hoãn ở đâu đó và có lẽ nó cũng sắp đến rồi. Bà nhìn ra cửa sổ lần nữa, những tia nắng yếu ớt bắt đầu chiếu xuyên qua các đám mây đen còn lãng đãng trên cao. Từng mảng bầu trời trong xanh dần xuất hiện sau gần một ngày lẫn trốn biệt tăm.

Trong niềm vui mừng khôn tả bà lục trong ngăn kéo lấy thỏi son đã lâu ngày không dùng tới, bà cầm nó lên định tô phớt hồng đôi môi của mình thì mắt bà bỗng vô tình dừng lại ở cái TV đang treo trên tường. Tiếng cô xướng ngôn viên đang thông báo trong mục Breaking News cho hay chiếc máy bay mang số 707 của hãng hàng không XXX đến từ Florida đã gặp tai nạn khi đáp xuống đường băng tại phi trường Los Angeles vào lúc 3:10pm chiều hôm nay do thời tiết quá xấu. Một nhân viên của phi hành đoàn và vài hành khách đã bị thương nặng, những nạn nhân đã được đưa vào bệnh viện hiện trong tình trạng khá nguy kịch. Mọi chi tiết sẽ được thông báo sau.

Thỏi son trong tay bà rơi ngay xuống đất. Bà thấy như mọi thứ đều tối sầm lại. Ngay khi lúc đó bà nghe ngực mình đau khủng khiếp như không còn đủ hơi sức để thở. Bà cũng không còn kiểm soát được tứ chi của mình nữa nên đành để nó đổ quỵ xuống sàn nhà. Trong giây phút giữa đôi bờ sanh tử bà bỗng nghe tiếng con trai của mình gào lên thản thốt: “Má ơi! Con đây nè má!” Bà cố nhướng mắt lên nhìn gương mặt thân yêu của con mình lần sau cuối, mỉm môi cười đầy mãn nguyện với nó, rồi thanh thản từ từ khép mắt lại.

Một chiều mưa bão trong Nursing Home có một người mẹ đã vĩnh viễn ra đi và có một đứa con đã vĩnh viễn mất mẹ!

Chuyện bình thường cũng như bao chuyện bình thường khác đã xảy ra trên thế gian! Người ta đến cuộc đời này với những hạnh phúc, những khổ đau rất riêng và cũng rất chung để rồi lần lượt ra đi sớm hay muộn, trước hay sau … không trừ một ai! Kiếp người vốn dĩ chỉ là duyên hợp. Chỉ là vô thường!” (Nguyễn Bích Thủy, Một Kiếp Phù sinh)

Nói gì thì nói. Sống sao thì sống. Sống, nhưng vẫn nói và làm thật đúng “đạo làm người” và “Đạo” của người có niềm tin vào Đạo Chúa, cùng đạo làm người, hãy nghe lời đấng thánh hiền-lành từng khuyên nhủ:

“Khi tôi đến với anh chị em,

tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu

mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa.

Vì hồi còn ở giữa anh chị em,

tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô,

mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá.

Vì thế, khi đến với anh chị em,

tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy.

Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn,

nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa.

Có vậy, đức tin của anh chị em

mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm,

nhưng dựa vào quyền năng của Thiên-Chúa.”

(1 Cor 2: 1-5)

Cũng rất đúng. Nếu cứ cậy vào quyền-năng hoặc phù-phép do mình tạo ra, chắc cũng chẳng có ai còn nghĩ tới Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu hằng đùm bọc giùm-giúp hết mọi người, mời được thế.

Thế đó, là trọng-tâm của giòng phiếm rất hôm nay, xin được gửi đến với bạn và với tôi, trong cõi này.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và những tháng ngày

Thường suy-nghĩ rất lung

Là như thế.

Chuyên gia Phạm Chi Lan: “Formosa đã đóng góp được gì?”

 Chuyên gia Phạm Chi Lan: “Formosa đã đóng góp được gì?”

Đất Việt

13-8-2016

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan đặt câu hỏi: "Rốt cuộc Formosa đã đóng góp được gì cho Việt Nam mà được hưởng ưu đãi và hoàn thuế số tiền lớn đến mức như vậy?"

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan đặt câu hỏi: “Rốt cuộc Formosa đã đóng góp được gì cho Việt Nam mà được hưởng ưu đãi và hoàn thuế số tiền lớn đến mức như vậy?”

“Rốt cuộc Formosa đã đóng góp được gì cho Việt Nam mà được hưởng ưu đãi và hoàn thuế số tiền lớn đến mức như vậy”.

Đó là câu hỏi được chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan đặt ra với Đất Việt khi nói về việc Cục thuế Hà Tĩnh giải quyết hoàn thuế VAT cho Formosa Hà Tĩnh số tiền lên tới 13.483,4 tỷ đồng.

PV: Trong  báo cáo vừa trình Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế cho biết, từ năm 2014 đến tháng 5/2016, Cục Thuế tỉnh Hà Tĩnh đã giải quyết hoàn thuế GTGT cho Formosa Hà Tĩnh 13.483,4 tỷ đồng (trong đó có 1.459,4 tỷ đồng ghi thu ngân sách, ghi chi hoàn thuế).

Đáng chú ý, trong các giải pháp hỗ trợ về thuế GTGT đối với các doanh nghiệp bị thiệt hại trong sự kiện trên, riêng Formosa được hoàn thuế GTGT nhập khẩu theo hình thức ghi thu-ghi chi trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày cơ quan hải quan xác nhận thông quan và xác định số thuế GTGT nhập khẩu phải nộp phát sinh.

Bà có bất ngờ trước việc Formosa Hà Tĩnh được hoàn thuế một số tiền lớn như vậy không? Theo bà, đây có phải là minh chứng cho việc các doanh nghiệp FDI đang được hưởng quá nhiều ưu đãi?

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: Tôi thật sự rất ngạc nhiên khi biết thông tin này. Lúc đầu, Formosa được miễn và hoàn thuế hơn 13.000 tỷ đồng. Sau đó Tổng cục Thuế đã trừ đi những cái Formosa bị phạt và còn hơn 10. 000 tỷ đồng hoàn thuế VAT.

Hơn 10.000 tỷ đồng nếu tính vào thời giá cuối năm 2014, đầu năm 2015 thì nó tương đương với 500 triệu USD. Có nghĩa là chúng ta đã cho họ 500 triệu USD từ trước.

Người ta không thể không so sánh, việc vi phạm của Formosa, cả một tội tày đình như thế, cam kết bồi thường 500 triệu USD nhưng đến nay họ mới chỉ bồi thường có 1 nửa số tiền. Thế mà tiền miễn hoàn thuế nhà nước trả cho Formosa lại đúng bằng số tiền doanh nghiệp này phải bồi thường cho ngư dân 4 tỉnh miền Trung sau sự cố môi trường.

Con số đó thật sự  rất phản cảm được đưa ra vào một thời điểm mà cả xã hội vẫn đang sục sôi về Formosa. Chính phủ vẫn còn hứa phải làm tiếp, Bộ TNMT hứa hết tháng 8 này sẽ công bố mức nguy hại tầng đáy biển như  thế nào và biện pháp để khắc phục. Còn đối với người dân bị thiệt hại, cuộc sống của họ còn gặp khó khăn, ảnh hưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Từ trường hợp của Formosa có thể thấy rằng chúng ta đang dành quá nhiều những ưu đãi cho doanh nghiệp FDI. Rốt cuộc Formosa đã đóng góp được gì cho Việt Nam mà được hưởng ưu đãi đến mức như vậy?

Nếu so sánh giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam thì thấy vô cùng tội nghiệp cho doanh nghiệp trong nước. Chỉ cần chậm nộp thuế một chút là bị truy thu, bị phạt tới nơi tới chốn. Không ai buông cho doanh nghiệp trong nước, dù chỉ là một lỗi sơ suất nhỏ, lỗi chứng từ thì cũng bị phạt rất nặng.

PV: Từ trường hợp của Formosa , có ý kiến cho rằng Việt Nam rải thảm đỏ để thu hút đầu tư FDI nhưng cuối cùng chúng ta chẳng nhận được gì nhiều mà vô hình chung gây mất công bằng, ép chết doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Bà có đồng tình với một mức độ nào đó với nhận định trên hay không? Theo bà, Formosa có phải là trường hợp cá biệt không hay còn nhiều ông lớn FDI khác cũng được hưởng lợi từ những ưu đãi này?

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: Thực tế đúng là như vậy.

Việc chúng ta ưu đãi quá mức cho Formosa với quy mô lớn như vậy đã làm bật các nhà đầu tư đàng hoàng, uy tín ra. Dù vốn làm cùng ngành nhưng họ không thể nào có được điều kiện như Formosa nên buộc phải rút lui. Việc này tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh ngay giữa những doanh nghiệp nước ngoài với nhau. Và với trường hợp của Formosa, chúng ta đã nhận được một nhà đầu tư tồi. Tất cả thiết bị công nghệ là của Trung Quốc. Đằng sau Formosa , nhà thầu chính của họ là công ty MCC của Trung Quốc.

Đối với doanh nghiệp trong nước thì những ưu đãi với Formosa đã tràn lấn doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp thép của chúng ta thường xuyên kêu ca rằng nhà nước cho quá nhiều doanh nghiệp nước ngoài mới vào, gây nên sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường.  Với những cơ chế thuế và ưu đãi dành cho nước ngoài như vậy, sẽ càng gây thêm sức ép và sự thua thiệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở trong nước.

Thực tế thời gian qua, không chỉ mình Formosa mà nhiều doanh nghiệp FDI khác cũng nhận được những ưu đãi trên. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp FDI nào cũng xấu xí. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài hoạt động vẫn rất tốt và có uy tín, được đánh giá cao.

LM Đặng Hữu Nam: Hiến pháp không cấm thì chúng tôi được phép biểu tình

LM Đặng Hữu Nam: Hiến pháp không cấm thì chúng tôi được phép biểu tình.

Hòa Ái, phóng viên RFA

RFA
 

AMTV1.jpg

Giáo phận Vinh với Một Ngày Vì Môi Trường hôm 7/8/2016.

 Photo courtesy of tiengdanvietmedia.com

03:32/07:27

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Vào hôm Chủ nhật, mùng 7 tháng 8, cộng đoàn giáo dân thuộc giáo phận Vinh hưởng ứng lời kêu gọi “Một ngày vì môi trường” của Ủy ban Công lý và Hòa Bình giáo phận Vinh. Hòa Ái có cuộc trao đổi với Linh mục Đặng Hữu Nam, quản xứ giáo xứ Phú Yên, là một trong những người tổ chức sự kiện này với lời khẳng định cộng đoàn giáo dân Vinh sẽ tiếp tục hoạt động vì môi trường.

Hòa Ái: Hòa Ái xin phép kính chào Linh mục Đặng Hữu Nam. Trước hết, kính nhờ Linh mục chia sẻ về tinh thần tham gia “Một ngày vì môi trường” của giáo dân thuộc giáo phận Vinh vào Chủ Nhật, mùng 7 tháng 8 vừa qua.

Linh mục Đặng Hữu Nam: Vào Chủ Nhật, ngày 7 tháng 8 vừa qua, với lời kêu gọi của Ban Công lý và Hòa Bình của giáo phận Vinh và của Đức Giám mục giáo phận PhaoLô Nguyễn Thái Hợp thì tất cả mợi người trong giáo phận cũng như tất cả giáo xứ rất là hồ hởi và người ta sẵn sàng xuống đường, sống và hành động cho một ngày vì môi trường rất rầm rộ.

Tất cả giáo xứ đã tổ chức dâng thánh lễ, thắp nến cầu nguyện và dọn vệ sinh môi trường sống của mình và người ta đã tổ chức những cuộc tuần hành ở một số nơi, xuống đường biểu tình để sống vì môi trường, kêu gọi bảo vệ môi trường, phản đối Formosa xả thải chất độc và chôn chất độc hại hủy diệt môi trường tại Việt Nam cũng như kêu gọi mọi người ý thức về việc bảo vệ môi trường sống của mình.

Hòa Ái: Thưa Linh mục, qua sinh hoạt của giáo dân ở Vinh trong “Một ngày vì môi trường”, Linh mục có nghe những chia sẻ hay thông điệp nào từ các giáo xứ khác khắp Việt Nam rằng tinh thần này được lan tỏa hay không?

Với tôi hay với bất cứ ai, Hiến pháp  không cấm thì có nghĩa rằng người dân được phép làm. Vì thế chúng tôi được phép biểu tình.
– Linh mục Đặng Hữu Nam

 Linh mục Đặng Hữu Nam: Không chỉ riêng gì giáo phận Vinh mà hầu hết các giáo xứ trên dải đất Việt Nam, họ đều hưởng ứng “Ngày vì môi trường” với giáo phận Vinh và hiệp thông với giáo phận Vinh bằng những thánh lễ và các cuộc thắp nến cầu nguyện và hiệp thông với giáo phận Vinh trong “Ngày vì môi trường” để cầu nguyện cho các nạn nhân của môi trường cũng như góp phần của mình vào việc bảo vệ môi trường sống.

Đặc biệt là có một số tôn giáo bạn cũng gửi những lời ngợi khen và lời cảm ơn đến giáo phận Vinh vì đã có sáng kiến tổ chức “Ngày vì môi trường”; hay một số nhà đấu tranh và các tổ chức xã hội dân sự, họ cảm thấy rất hãnh diện và ngưỡng mộ vì sáng kiến của giáo phận Vinh và họ chia sẻ rằng đó cũng là bài học cho họ vì họ cũng muốn làm cho tinh thần đó và hành động đó được nhân lên trong khắp Việt Nam để con người sống vì môi trường với những hành động thiết thực hơn.

Không có đàn áp

Hòa Ái: Trở lại với sinh hoạt trong ngày Chủ Nhật vừa rồi, bên cạnh số lượng giáo dân tham gia lên đến hàng ngàn người thì cũng có sự xuất hiện của hàng ngàn cảnh sát, an ninh, lực lượng cơ động. Giới quan sát cho rằng đây là một dấu hiệu tích cực bởi vì không thấy có sự can thiệp thô bạo nào. Linh mục nhận định như thế nào, thưa Linh mục?

Linh mục Đặng Hữu Nam: Với bản thân tôi nhận định rằng nếu chúng ta xét về hiện tượng thì so với các cuộc biểu tình ở Hà Nội, Sài Gòn bị nhà cầm quyền đàn áp thì chúng ta thấy đây có một sự biến chuyển tích cực. Nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng sẽ thấy khía cạnh mặt trái của vấn đề. Bởi vì vào ngày Chủ Nhật vừa qua, chúng ta cũng thấy riêng việc xuống đường biểu tình phản đối Formosa và kêu gọi bảo vệ môi trường thì có hơn 10 ngàn người ở giáo phận Vinh xuống đường biểu tình như vậy. Về tương quan lực lượng, chắc chắn rằng chính quyền hành xử một cách khôn ngoan khi không có sự đàn áp xảy ra.

Với bản thân tôi nhận định rằng nếu chúng ta xét về hiện tượng thì so với các cuộc biểu tình ở Hà Nội, Sài Gòn bị nhà cầm quyền đàn áp thì chúng ta thấy đây có một sự biến chuyển tích cực.
– Linh mục Đặng Hữu Nam

 Tôi là người không phải chủ trương bạo động và chúng tôi quyết tình, quyết chí không sử dụng đến bạo lực nhưng chúng ta cũng có thể nhận định rằng phải chăng Nhà nước Việt Nam cũng nhìn đến tương quan lực lượng và sẽ nhìn đến hậu quả nặng nề hơn khi xảy ra các cuộc đàn áp thì liệu sẽ gây phẫn nộ không chỉ riêng hơn 500 ngàn tín hữu của giáo phận Vinh mà còn rất nhiều người trên thế giới và trong nước nữa. Đặc biệt trong thời đại đa chiều thông tin, người ta sẽ tìm đến sự thật và vì thế cũng sẽ lộ ra mặt trái của nhà cầm quyền Việt Nam.  Do đó đây là cách khôn ngoan trong cách hành xử của nhà cầm quyền.

Tuy nhiên với bản thân tôi là một linh mục, một người đấu tranh bất bạo động thì tôi cũng có quyền hy vọng và cũng mời gọi tất cả mỗi người chúng ta có quyền để hy vọng rằng đó cũng là một sự biến chuyển tích cực trong nhận thức của những người cầm quyền tại Việt Nam. Khi thay đổi nhận thức thì họ sẽ thay đổi cả hành động và thay đổi cả cách sống. Đó là điều chúng ta cần và đó là điều chúng ta có quyền để hy vọng một sự tốt đẹp hơn nơi đất nước Việt Nam của chúng ta.

Chính quyền với Luật biểu tình

Hòa Ái: Hòa Ái cũng xin được hỏi thăm về vụ việc Linh mục bị giới chức Hà Nội câu lưu hôm mùng 4 tháng 8 và bị cáo buộc là người tổ chức các cuộc biểu tình. Linh mục có thể kể lại Linh mục đã nói gì với họ về cáo buộc này cũng như phản ứng của họ ra sao?

Linh mục Đặng Hữu Nam: Có lẽ mục đích chính của cuộc làm việc của Bộ Công An đối với tôi là những việc tôi đã làm, đang làm và sẽ làm, đó là những cuộc biểu tình do tôi tổ chức tại giáo phận Vinh để bảo vệ môi trường và bảo vệ đất nước.

Họ bảo rằng đó là sai luật vì chưa có Luật Biểu tình. Tôi cho họ biết rằng họ đã nhầm về Luật Biểu tình. Bởi vì nếu chúng ta nói đất nước của chúng ta là một đất nước hành pháp thì chắc chắn chúng ta phải tôn trọng pháp luật. Luật Biểu tình mà Quốc Hội đang nợ dân bao nhiêu năm qua vẫn chưa có thì chúng ta phải hiểu cho rõ và cho đúng là Luật Biểu tình để hướng dẫn người biểu tình trong thủ tục như thế nào cũng như các cơ quan chức năng phải giải quyết như thế nào với nguyện vọng của những người biểu tình. Nhưng, Hiến pháp là hình thức pháp luật cao nhất tại Việt Nam nên chúng ta phải tôn trọng Hiến pháp đó.

Đặc biệt là có một số tôn giáo bạn cũng gửi những lời ngợi khen và lời cảm ơn đến giáo phận Vinh vì đã có sáng kiến tổ chức “Ngày vì môi trường”.
– Linh mục Đặng Hữu Nam

Với tôi hay với bất cứ ai, Hiến pháp không cấm thì có nghĩa rằng người dân được phép làm. Vì thế chúng tôi được phép biểu tình. Thậm chí tôi chưa coi đó là biểu tình bởi vì chúng tôi tổ chức dâng lễ cầu nguyện, cầu nguyện cho quốc thái dân an, cầu nguyện cho công lý và hòa bình, cầu nguyện cho giới chức lãnh đạo của các cấp chính quyền Việt Nam trong đó có cả các vị nữa. Việc chúng tôi biểu tình hay làm điều như các anh nói không phải là phá nhà nước vì chúng tôi bảo vệ nhà nước, chúng tôi là những người yêu nước thật sự.

Họ cũng đưa ra các câu hỏi thăm dò cũng như không muốn tôi tiếp tục các việc đó nhưng tôi tuyên bố với họ “Điều gì luật pháp không cấm thì tôi sẽ làm”. Và tôi tuyên bố với các anh rằng tôi tiếp tục sẽ làm và sẽ còn làm nhiều hơn nữa với mức độ sẽ lớn hơn những gì tôi đã làm.  Và điều đó tôi đã thực hiện vào đúng ngày Chủ Nhật vừa qua trong ngày sống vì môi trường với lời mời gọi của giáo phận Vinh, bề trên của tôi.

Hòa Ái: Cảm ơn thời gian của Linh mục Đặng Hữu Nam dành chia sẻ với thính giả của đài Á Châu Tự Do.