Mao: Tội phạm lớn nhất của lịch sử, hơn cả Hitler hay Stalin

Mao: Tội phạm lớn nhất của lịch sử, hơn cả Hitler hay Stalin

Mai Vân

RFI

media

Chân dung Mao Trạch Đông trước Thiên An Môn, 16/05/2016.REUTERS/Kim Kyung-Hoon

Một tấm hình của Mao Trạch Đông màu đỏ máu chiếm trọn trang bìa với hàng tựa lớn « Mao, tội phạm lớn nhất lịch sử » : Tạp chí L’Obs tuần này (18-24/08/2016) đã không ngần ngại dành hồ sơ chính cho nhân vật lãnh đạo Trung Quốc đã khiến hàng chục triệu người dân của mình bị chết oan, nhưng ngày nay vẫn được chế độ Bắc Kinh tôn thờ. Điểm độc đáo trong hồ sơ của L’Obs chính là phần so sánh « tội ác » của Mao với hai nhà độc tài khét tiếng khác là Hitler và Stalin để đi đến kết luận : kẻ đứng đầu chính là Mao Trạch Đông.

L’Obs đã dành hơn 10 trang trong cho hồ sơ Mao Trạch Đông, một mặt tổng kết di sản thực sự mà Mao để lại 40 năm sau khi qua đời, một mặt khác cũng tìm hiểu tại sao Trung Quốc ngày nay vẫn tôn thờ kẻ gây tội ác này. Bài viết nêu bối cảnh năm nay là kỷ niệm đúng 40 năm ngày người « Cầm Lái Vĩ Đại » qua đời (09/09/1976) và 50 năm Cách Mạng Văn Hóa.

Stalin và Hitler còn thua xa Mao về số người bị thiệt mạng

Trả lời phỏng vấn về tội ác của Mao, sử gia Frank Dikotter, giải thích với phóng viên của L’Obs là Mao đã lấy Stalin làm gương và không chỉ làm y như Stalin mà còn muốn vượt qua nhà độc tài Xô Viết, muốn vượt lên trên cả Lê Nin. Theo sử gia này thì Mao phải chịu trách nhiệm về cái chết của hơn 50 triệu người ở Trung Quốc.

Nếu dựa trên số người tử vong thì Mao cùng với Hitler, là hai kẻ vô địch phạm tội ác. Hitler đã gây ra cái chết của 55 triệu người, nhưng con số đó bao gồm cả nạn nhân những vụ thảm sát (người Do Thái) lẫn những người đã nằm xuống trong cuộc Thế Chiến Thứ II. Trong lúc đó, ở Trung Quốc, Mao đã gây ra số tử vong tương đương, hơn 50 triệu, thậm chí còn hơn thế : Nạn đói mà Mao đã gây nên và để kéo dài suốt 3 năm từ 1959 đến 1962 đã làm 45 triệu người chết, cộng thêm với hàng triệu người khác trong các thời kỳ bạo lực khác – ít nhất 5 triệu nữa.

Là tấm gương của Mao, nhưng Stalin vẫn còn thua xa Mao tính về số người bị hy sinh. So sánh 3 nhân vật này, Hitler, Mao và Stalin, sử gia Dikotter cho là điểm chung của họ là họ rất thông minh, không hề có cảm giác tội lỗi, có tài thao túng tuyệt đỉnh – cả con người lẫn tình thế.

Mao đã noi gương Stalin như các cuộc thanh trừng cho thấy ngay từ lúc còn chiến tranh du kích trong những năm 1930 – tháng 12/1930 700 sĩ quan nổi dậy đã bị giết, từ 1942 đến 1944, 10.000 trí thức theo ông đến Diên An bị hành quyết. Mao còn lại muốn vượt qua Stalin và cả Lê Nin, tham vọng này của Mao đã dẫn đến hai thảm họa cho Trung Quốc, bước Đại Nhảy Vọt và cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Mao thật ra muốn chứng tỏ cho thế giới thấy ông là lãnh đạo thật sự của khối xã hội chủ nghĩa, là thiên tài có tầm nhìn xa và thắng được chủ nghĩa tư bản.

Phải nói là Mao đã đưa được 1/4 nhân loại đến với chủ nghĩa xã hội. Mao đã rất hãnh diện với thành tích này.

Dùng bạo lực làm phương pháp củng cố quyền lực

Các tài liệu lưu trữ của đảng Cộng Sản Trung Quốc được cho tham khảo gần đây, cho thấy là Mao đã chọn một chính sách bạo lực thật sự và triệt để làm phương pháp củng cố quyền lực.

Một ví dụ cụ thể là cuộc cải cách ruộng đất bắt đầu ở Mãn Châu, từ năm 1947 – song song với cuộc chiến giànhchính quyền – và kết thúc năm 1952 : Với hơn một nửa nông dân làm chủ ruộng đất của họ, một phần khác thi chia nhau khai thác ruộng đất gia đình, chỉ khoảng 6% là thuê đất, không dễ dàng có đia chủ bóc lột dưới tay để nhân dân trút giận. Thế là đảng Cộng Sản đã « chế tạo ra » thành phần này, và kết quả là có 2 triệu người chết theo các báo cáo nội bộ của đảng.

Trong thời kỳ chiến tranh chống Tưởng Giới Thạch, chính sách vây hãm thành phố của các tướng lãnh của Mao – dồn binh lính, dân chúng vào nạn đói, những ai bỏ chạy bị bắn tại chỗ – để buộc đối thủ đầu hàng, đã làm hàng trăm ngàn thường dân chết như ở Trường Xuân. Phương thức này cũng được áp dụng ở các thành phố khác như Bắc Kinh, Thượng Hải…

Sau khi chiếm chính quyền, từ năm 1950, những cuộc thanh trừng tiếp diễn, Mao còn đưa ra quota về số người bị hành quyết 1/1000 hay hơn nếu cần thiết. Trong vòng một năm, có 2 triệu người bị hành quyết trước công chúng. Những cuộc thanh trừng về sau cũng không đếm xuể, cộng thêm nạn nhân nạn đói do sai lầm chính sách Đại Nhảy Vọt, cuộc Cách Mạng Văn Hóa… Mao đã để lại một hình ảnh thật đen tối.

Mao vẫn là trụ cột của chế độ Tập Cận Bình

Nhưng ngày nay Trung Quốc mặc dù đã thay đổi, hiện đại hóa, kinh tế phát triển nhảy vọt, trở nên nền kinh tế thứ nhì thế giới nhưng Mao, vẫn là một trụ cột của chế độ Tập Cận Bình.

Để chứng minh Mao vẫn ngự trị trên đời sống Trung Quốc, phóng viên của l’Obs Pierre Haski đã nêu một số ví dụ đập mắt như hình ảnh Mao vẫn hiện diện khắp nơi, từ Quảng Trường Thiên An Môn cho đến các ngôi nhà ở thôn quê, ngay cả trên một số xe taxi. Lăng của Mao ở Thiên An Môn vẫn là nơi mà dân chúng, chính khách địa phương đều viếng thăm. Bài báo cũng trích lời của con trai một người từng là nạn nhân của Mao, giải thích : Khi nghe tin Mao qua đời, ông có cảm giác như « trời đang sập xuống ». Khác với Liên Xô thời hậu Stalin, Trung Quốc đã không « gột rửa dấu ấn của Mao ».

L’Obs cũng nhắc lại vụ đấu đá tranh quyền với nhóm « tứ nhân bang », trong đó có Giang Thanh, vợ của Mao. Khi phe này bị dẹp, vào đầu năm 1981, người ta cứ tưởng rằng đó sẽ là một dịp lên án Mao, thế nhưng đã có một sự thỏa hiệp giữa phe gọi là theo chủ nghĩa Mao « mềm », bỏ bớt đi những khía cạnh thái quá, và phe theo chủ thuyết thực tiễn, đứng đầu là Đặng Tiểu Bình, đã bị Mao thanh trừng hai lần.

Rốt cuộc trong Hội Nghị Toàn Thể Ban Chấp Hành Trung Ương lần thứ 6 vào tháng 6/1981, đảng Cộng Sản Trung Quốc đánh giá như sau về thành tích và sai lầm của Mao : 70% tích cực – 30% tiêu cực. Như vậy là dẹp qua một bên những sai lầm của người Cầm Lái Vĩ Đại. Những người còn sống sót của các thảm kịch chính trị đã được phục hồi sau năm 1976, nhưng không ai đặt lại vấn đề trách nhiệm các lãnh đaọ, điều này là cấm kỵ.

Ém nhẹm tội ác của Mao để bảo vệ Đảng Cộng Sản

Sử sách thì vẫn ca ngợi Mao, người đã mang lại lòng tự hào cho một đất nước chịu ô nhục trong hơn một thế kỷ. L’Obs nhận thấy là tính toán chính trị các lãnh đạo Trung Quốc trong những năm 1980, và tiếp tục đến hôm nay, là phải duy trì sự liên tục lịch sử với thời kỳ Cách Mạng, nhưng xóa nhòa những khía cạnh tiêu cực để bảo vệ tính chính đáng của đảng Cộng Sản.

Từ 35 năm qua, hình ảnh hiền hòa của Mao Trạch Đông, « vị cha già dân tộc » vẫn được gìn giữ ở Trung Quốc, cho dù người dân không hề bị lừa và vẫn chỉ trích Mao khi nói chuyện riêng. Có điều trong thời đại mất phương hướng hiện nay trên mặt tư tưởng, và với thời gian đã xóa mờ các vết thương, người dân Trung Quốc đã tìm về người trong mắt họ đã bảo vệ người dân « bình thưòng » trước những kẻ mạnh. Nhiều người Trung Quốc cũng không hiểu tại sao người nước ngoài lại có ác cảm với Mao, xem cố lãnh đạo của họ như một kẻ độc tài ghê rợn.

Tập Cận Bình hiện nay đã sử dụng phong cách Mao, những phương thức từ thời Mao như tôn thờ cá nhân, đàn áp ly khai. Thường ngày ông vẫn mặt âu phục, thắt cà vạt, nhưng trong lễ duyệt binh thì lại mặc áo cổ Mao. Phong cách Mao này được sử dụng để củng cố quyền lực của ông.

MỘT CÂU HỎI DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI NGOÀI PHONG TRÀO DÂN CHỦ

From facebook Pham Doan Trang
MỘT CÂU HỎI DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI NGOÀI PHONG TRÀO DÂN CHỦ

Lâu nay, vẫn thường có một thể loại bài viết với tựa đề chung là “một câu hỏi dành cho phong trào dân chủ”, “câu hỏi lớn dành cho các nhà đấu tranh dân chủ”, “giải pháp nào cho công cuộc dân chủ hóa”… Tóm lại, đã từng có nhiều câu hỏi đặt ra cho những người hoạt động dân chủ, ví dụ: Làm thế nào để thu phục nhân tâm, thu hút quần chúng? Đã thực sự có kết quả và lan tỏa chưa? Đã có ảnh hưởng tới ai/cái gì chưa? v.v.

Các câu hỏi này thường chỉ được đặt ra cho các nhà dân chủ mà thôi, không đặt ra cho ai khác. Cứ như thể những người đấu tranh dân chủ ở Việt Nam đang là những chính khách chuyên nghiệp ở một xứ sở dân chủ, có thể đi lại, viết lách, vận động, thuyết phục và kêu gọi quần chúng công khai, thoải mái vậy.

Nay chỉ xin có một câu hỏi, duy nhất một câu thôi, dành cho những người ở ngoài phong trào dân chủ, tức là những người chưa có hoạt động nào để tạo ra hoặc thúc đẩy một sự thay đổi tích cực nào của môi trường chính trị trong nước.

Bây giờ, giả sử có hai xã hội:

– (1) Một xã hội giống hệt như Việt Nam từ năm 1986 trở về trước, tức là: Nhà nước thích làm gì thì làm, muốn ra luật gì thì ra, muốn bắt ai thì bắt, muốn tịch thu tài sản của ai thì tịch thu, muốn xử tử ai thì xử tử. Chẳng ai biết nguyên nhân, tình trạng và hậu quả các việc nhà nước làm, coi như “phải ai nấy chịu”, ai không may mà có việc dính tới “cửa quan” thì cứ tự xác định là chết thôi. Ngày đó, số lượng tử tù oan (như Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng, Lê Văn Mạnh…) chật kín nhà tù, nhưng không có chuyện thân nhân vật vã kêu oan và cộng đồng ồn ào đòi xem xét lại tiến trình điều tra và bản án như thế này, ai chết thì chết. Và, tuyệt nhiên không có một cái đám gọi là “các nhà dân chủ” như bây giờ. Bạn cứ việc im lặng mà sinh ra, lớn lên, đóng thuế nuôi cái nhà nước mà bạn chẳng biết nó đang và sắp làm gì, và cố đừng để dính dáng với nó, nếu không, phần thiệt sẽ luôn thuộc về bạn; chẳng phải đầu cũng phải tai.

– (2) Một xã hội như bây giờ, tức là: Vẫn tồn tại cái nhà nước đó, và bạn vẫn phải đóng thuế cho nó. Nhưng lại có thêm một đám gọi là “bọn dân chủ”. Bọn này rất ồn ào, to mồm, và cứng đầu cứng cổ. Gần như bạ cái gì nhà nước làm, chúng cũng phê phán, chỉ trích, và gọi đấy là “phản biện”. Chính sách gì của nhà nước, chúng cũng vặn vẹo, rồi la ó phản đối, ném đá, đến nỗi đã có nhiều người mô tả bọn chúng là cái lũ chỉ biết “auto chửi”: Chúng chửi từ vụ “vòng ngực dưới 72cm không được đi xe máy”, tới “người đi xe máy phải cầm theo giấy tờ chính chủ”, đến “CMTND phải có tên cha mẹ”, tới chuyện xử oan những Hải, Chưởng, Mạnh, tới chuyện “thay thế” cây cổ thụ tán lá xum xuê bằng cây mỡ thanh thanh, rồi chuyện nhận 500 triệu USD và tiếp tục tạo điều kiện cho Formosa làm ăn ở Việt Nam, v.v. đủ thứ. Cậy có Internet và mạng xã hội nên chúng nó bắt đầu liên kết lại, chúng nó hùa nhau “tát nước theo mưa”, chửi hội đồng Đảng và Nhà nước. Chúng nó chẳng còn coi Đảng và Bác ra cái quái gì. Đời tư của chúng thì be bét, toàn một lũ dâm đãng, trai gái lăng nhăng. Đã thế, nghe đâu chúng còn nhận tiền nước ngoài để sống phè phỡn nữa.

Chú ý là, trong cả xã hội (1) và (2), quan chức của cái nhà nước kia đều hủ bại, dâm ô như nhau, ăn tiền trong nước và nước ngoài như nhau, nhưng bạn không được chửi. Ở xã hội (1), nếu bạn chửi thì bạn chết; còn ở xã hội (2), bạn có thể nghe “bọn dân chủ” chửi thay, có gì bọn nó chết.

Ở xã hội (2), bạn vẫn phải đóng thuế nuôi nhà nước, nhưng không phải đóng một xu thuế nào cho “bọn dân chủ”. Chưa bao giờ bạn phải đóng thuế cho “các nhà dân chủ” cả.

GIỮA HAI XÃ HỘI ĐÓ, BẠN CHỌN SỐNG Ở XÃ HỘI NÀO, (1) hay (2)?

From facebook Pham Doan Trang

“Niềm tin” của Nguyễn Phú Trọng – từ Formosa đến 8 viên đạn đồng Yên Bái

“Niềm tin” của Nguyễn Phú Trọng – từ Formosa đến 8 viên đạn đồng Yên Bái

Dân Làm Báo

Vũ Đông Hà

21-8-2016

H1Vào ngày 14/8 trong đại hội vận động các đảng viên già cùng sát cánh với đương kim tổng bí thư để truy cùng diệt tận đám ruồi muỗi thuộc phe 3X, Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố “Niềm tin trong dân được củng cố và tăng lên”. Khoan nói tới niềm tin của hơn 90 triệu người dân bị đảng đem điều 4 hiến pháp ra hiếp, chỉ cần nói đến niềm tin của các đồng chí trong đảng với nhau – Niềm tin đó đã được thể hiện bằng 8 viên đạn K59 nhắm thẳng vào quân thù mà bắn vào ngày 18/8/2016 tại sào huyệt đảng hội Yên Bái.

8 viên đạn. 3 viên bắn vào bí thư tỉnh ủy. 3 viên bắn vào chủ tịch hội đồng nhân kiêm trưởng ban tổ chức tỉnh ủy. 1 viên bắn vào gáy chi cục trưởng chi cục kiểm lâm. Và 1 viên không biết bắn vào đâu đã khẳng định niềm tin của các cán bộ đảng viên cộng sản đối với nhau.

Đây không phải là “niềm tin” mới nhất. Đã có niềm tin kiểu “một đồng chí X”, “niềm tin Phạm Quý Ngọ”, “niềm tin Nguyễn Bá Thanh” và chuỗi dài những “niềm tin đồng chí” khởi đi từ triều đại Hồ Chí Minh sang đến triều đại Nguyễn Phú Trọng dẫn đến cái chết của nhiều cán bộ cao cấp cộng sản. Tất cả “niềm tin” ấy được sinh sôi nảy nở trong cái văn hóa “phê và tự phê” cùng với truyền thống “thanh trừng nội bộ” được học hỏi chu đáo từ Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình sang đến Tập Cận Bình ngày nay.

Trở lại với niềm tin của nhân dân đối với đảng mà Nguyễn Phú Trọng tự sướng trong Hội nghị gặp mặt cán bộ cấp cao nghỉ công tác, nghỉ hưu khu vực phía Nam (1)

Để có được cái cảm giác tự sướng và truyền cảm giác đến cho hàng ngũ cán bộ già nua, lão thành cắt mạng, Nguyễn Phú Trọng đã huênh hoang rằng: Thực tế công tác tổ chức – cán bộ, đối ngoại, xử lý việc gây ô nhiễm môi trường biển một số tỉnh miền Trung thời gian qua cho thấy cách làm đúng, chủ trương đúng.”

Những cách, chủ trương đó là gì?

Đó là:

– Tổng bí thư ngay lập tức thân chinh đến Formosa để “cùng là đồng chí, cùng là anh em” với thủ phạm tàn sát môi trường;

– Các quan chức kéo nhau xuống biển để mị dân biển vẫn sạch, vẫn an toàn;

– Bầy đoàn kéo nhau ăn hải sản xa vùng bị nhiễm độc và chụp hình, phỏng vấn đăng báo để lừa người dân;

– Tuyên bố nguyên nhân cá chết là do tảo nở hoa, thủy triều đỏ;

– Sau khi Formosa chính thức nhận lỗi nhưng không nhận tội thì lờ đi tất cả những hành vi, tuyên bố láo khoét trước đó;

– Nhận ngay 500 triệu bồi thường mà không cần biết những hệ quả, thiệt hại lâu dài ở mức độ nào. Trong khi đó thì đã bồi hoàn lại cho Formosa từ 722 triệu đô đến 1 tỉ 136 triệu đô (2);

– Không truy tố hình sự và vẫn để Formosa tiếp tục hoạt động, tiếp tục lén lút xả rác thải tại nhiều nơi khác nhau cho đến khi người dân phát hiện;

– Đưa Võ Kim Cự và việc cấp phép 70 năm cho Formosa nhằm đánh lạc hướng vấn đề Formosa đã gây ra thảm họa môi trường sang chuyện Formosa được hoạt động bao lâu;

– Tiếp tục che giấu mọi thông tin, dữ kiện về thảm họa môi trường trước những yêu cầu của người dân đòi nhà nước phải minh bạch thông tin;

– Từng bước, từng ngày, giảm lượng thông tin về thảm họa môi trường, về việc bồi thường cho nạn nhân và tiến đến cho “sự cố” Formosa chìm xuồng.

Đối chiếu tuyên bố khoét của Nguyễn Phú Trọng với những gì mà chế độ đã làm, người ta có thể thấy cái gọi là “niềm tin của nhân dân dành cho đảng” chỉ đến từ căn bệnh thủ dâm cố hữu của Nguyễn Phú Trọng, giống như tất cả lãnh đạo đảng cộng sản khác, và “niềm tin” này đã được bảo kê bằng một thứ mà không có nó thì đảng chỉ có đường tự sát: “Điều 4 hiến pháp”.

Niềm tin của dân đối với đảng chẳng hề có để mà củng cố.

Ngay cả niềm tin của những kẻ gọi nhau là đồng chí cũng không bao giờ hiện hữu.

Đảng cộng sản không bao giờ tồn tại bởi niềm tin của nhân dân, sống còn bởi niềm tin của các “đồng chí” với nhau. Nó chỉ có thể tiếp tục cầm quyền sau khi đã cướp chính quyền là nhờ vào những chiến dịch khủng bố như “cải cách ruộng đất”, những cuộc “phê và tự phê” lôi nhau ra tố, và những âm mưu thanh trừng lẫn nhau không bao giờ ngưng nghĩ trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.

TRỞ NGẠI LỚN NHẤT CỦA TÌNH YÊU

TRỞ NGẠI LỚN NHẤT CỦA TÌNH YÊU

Tác giả: Kilian Mc Gowan, C.P

Người dịch: LM JBM Trần Minh Cương

__._,_.___

Trở ngại lớn nhất để yêu mến Chúa là tính kiêu căng.  Vì kiêu căng là thèm muốn cho mình được trổi vượt một cách quá đáng; trong khi đó Đức Ái lại khiến ta xem Chúa là đối tượng tối thượng cho mọi cố gắng của ta.  Đang khi kiêu căng khiến ta co cụm lại với chính mình, thì Đức Ái lại gắn bó trí tuệ ta, trái tim ta, và ý chí ta với Chúa.  Vì trực tiếp chống lại điều răn thứ nhất, nên tính kiêu căng là tội lớn nhất trong tất cả mọi thứ tội.

Kiêu căng là nguyên nhân căn bản của khuynh hướng biến cái tôi của mình, chứ không phải là Chúa Ki tô, thành trung tâm đời sống mình.  Vì thế, Chúa đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ mình như là dặc điểm đầu tiên của những kẻ theo Ngài.  Theo một nghĩa nào đó, sự hãm mình duy nhất mà chúng ta cần thực hiện là từ bỏ chính mình, vì cái tôi cá nhân đi ngược lại lề luật và tình yêu dành cho Chúa.  Không gì phá hoại đời sống Chúa Kitô ở trong ta bằng tính kiêu căng.
Tính kiêu căng – một thứ tà giáo

Tính kiêu căng đúng là một thứ tà giáo, vì nó lấy chính bản thân mình làm thần tượng thay vào chỗ chỉ dành cho Chúa.  Đó là sự tôn thờ quá đáng cái tôi của mình, vì nó coi cái tôi của mình như nguyên nhân đầu tiên và cũng như mục đích cuối cùng.  Nó thúc đẩy ta tìm cách khoe những điều tốt của mình ra, đồng thời giấu kín những khiếm khuyết hay thất bại của mình.  Nó cũng có thể xúi giục ta tìm cách hạ kẻ khác xuống vì sợ rằng họ sẽ làm giảm sự trổi vượt mà ta tưởng rằng mình đang có.

Nó làm ta đóng tai lại trước những lời phê bình, và đề nghị khách quan của người khác, nhưng lại thích lắng tai nghe những lời tán tụng mà nó hằng tìm kiếm.  Nó khiến ta nhắm mắt lại không thấy được những nhân đức hay tài năng của người khác đang khi tất cả mọi người đều trông thấy rành rành và thán phục, nhưng nó lại khiến ta chú ý những khuyết điểm hay thất bại dù nhỏ nhất của họ.  Bi đát hơn là nó khiến ta sống vì mình, chứ không phải vì Chúa.  Đấy đúng là một sự tôn thờ bản thân một cách sai lầm!

Tính kiêu căng biến ta thành người vong ân

Tính kiêu căng cũng biến chúng ta thành những kẻ vong ân.  Tại sao thế?  Vì cứ sợ rằng người khác sẽ không công nhận những thành công hay do tài năng và đức độ của mình.  Nên chúng ta cảm thấy rất miễn cưỡng khi phải công nhận sự thành công đó là nhờ Chúa.  Thật ra, tất cả mọi sự tốt đẹp chúng ta có được đều xuất phát từ Thiên Chúa, chỉ có một điều duy nhất trong đời sống chúng ta mà Chúa không nhúng tay vào, đó là tội lỗi của chúng ta.  Ngoài tội lỗi ra, thì có thứ gì khác chúng ta có được mà không nhận từ bàn tay Thiên Chúa không?  Tính kiêu căng dường như làm ta không nhận ra chân lý cơ bản này.

Tính kiêu căng tạo ra một tế bào ung thư trong Nhiệm Thể Chúa Kitô.  Tế bào ung thư là tế bào hoạt động theo đường lối riêng của nó, nó từ chối không làm việc chung với những tế bào lành mạnh của thân thể.  Tính kiêu căng của bất kỳ ai đều giống như bệnh ung thư luôn luôn gây tai hại cho sự sống của Nhiệm Thể Chúa Kitô, cản trở sự lưu thông của sự sống và tình yêu của Chúa Kitô là Đầu đến với các Chi Thể.

Tính kiêu căng ăn trộm vinh quang của thiên chúa

Cuối cùng, tính kiêu căng biến ta thành kẻ trộm, vì nó ăn trộm vinh quang vốn chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa mà thôi.  Theo sự an bài của Chúa Quan Phòng, mọi sự mọi việc trong đời sống chúng ta cuối cùng đều nhắm đến làm vinh danh Thiên Chúa.  Nhưng người kiêu căng lại dùng mọi cố gắng, tài năng để xây một giáo đường tôn thờ sự trổi vượt của mình.  Do đó, họ là kẻ ăn cắp quyền lực, sự khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa.

Hậu quả đáng buồn nhất của tính kiêu căng là sự tự phụ khiến cho người kiêu căng tự cho mình là rất quan trọng, quan trọng đến nỗi Chúa không thể loại họ ra khỏi nhãn quan của Ngài.  Họ nghĩ rằng họ có thể cứu vớt linh hồn mình mà không cần phải thực sự từ bỏ chính mình, và có thể lên được thiên đàng mà không cần có đức trông cậy đích thực.  Họ quên rằng họ phải đặt Chúa trong trái tim họ trước khi trái tim họ được lên đến Cõi Trời.

Chúa chống lại người kiêu căng thì có gì đáng ngạc nhiên không?  Chúa không thể giúp người kiêu căng vì họ ở ngoài tầm giúp đỡ của Chúa.  Chúa sẽ giúp họ chừng nào họ nhận ra hay cảm thấy họ cần Ngài.  Họ bắt đầu trở lại với Chúa khi nào họ thành khẩn cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi”.  Chúng ta cũng phải cầu nguyện như vậy!

Trích: Nên Thánh Trong Thời Đại Mới

Tác giả: Kilian Mc Gowan, C.P

Người dịch: LM JBM Trần Minh Cương

CẢM TÁC.

CẢM TÁC.

Tím ở chân mây , tím cả lòng
Đường xa vạn dặm , nhớ gì không
Người nơi đất khách, tôi buồn lắm
Cách trở trời mây , cách trở lòng

Thôi nhé một lần biệt cố hương
Tình xa muôn thuở vẫn còn vương
Nắng về có ấm lòng ly khách
Tôi chở mây về ủ gió sương

Nếu biết người đi dạ vấn vương
Trở trăn thao thức mỗi đêm trường
Xin ai đừng nói lời thương vội
Mây tím giăng đầy cuộc nổi trôi

Đông tới Thu tàn xa mãi thôi
Thuyền ai chở nặng khúc ly bôi
Chiều qua bến vắng dòng sông nhỏ
Lất phất mưa bay thấm đậm sầu

21 .8 .2016

Thơ bạn tặng.

From:  Kimtrong Lam
Image may contain: sky, ocean, twilight, cloud, outdoor, nature and water

CẢM HẬN

Image may contain: 1 person , outdoor

Ngoc Thuy

CẢM HẬN

_*Đất nước tôi những tượng đài ngàn tỉ
Những công trình thế kỷ… bỏ hoang vu?
Những cuộc tiệc tiền chùa… vua chúa sợ?!
Mà sao em…liều sinh mạng đến trường?!

Đất nước tôi dư nhà thơ, nhà báo
Xúm tung hô ngụy tạo, xạo, lăng nhăng…
Có ai biết những mảnh đời bất hạnh
Mái tranh nghèo từng bữa ruột thiếu ăn?!

Đất nước tôi thừa giáo sư, tiến sĩ
Làm thầy đời hô khẩu hiệu… trăng sao!
Phòng máy lạnh, xe công xài…quý tộc
Những sinh linh nầy mạng sống tựa lông bay.

Đất nước tôi có lắm điều oan khuất
Bao người nghèo, nghèo đến chết thì thôi.
Hai ổ bánh mì thành phiên tòa quái gỡ
Vạn vạn tỉ đồng… rút kinh nghiệm trơn

Viết cho em bé may mắn được cứu sống từ đống hoang tàn của chiến tranh!

Viết cho em bé may mắn được cứu sống từ đống hoang tàn của chiến tranh!

Viết-cho-em-bé-may-mắn

Em là một đứa trẻ bất hạnh vì sinh ra trong thời chiến tranh khốc liệt đang xảy ra trên quê hương mình. Mấy năm nay Syria không còn là miền đất thanh bình của em nữa. Hằng ngày làn bom lửa đạn đang tàn phá làng quê, giết hại bao người và khiến nhiều đồng bào em phải tha phương cầu thực. Hôm nay khi biết câu chuyện em may mắn được cứu sống trên đài CNN, ai cũng cảm động và yêu thương em thật nhiều!

Sau vụ đánh bom, khu làng của em biến thành đống đổ nát. Mọi thứ đều hỗn loạn kinh hoàng. Người người tháo chạy và bao nạn nhân tử vong. Em là một trong những người may mắn được cứu thoát từ cảnh kinh hoàng ấy. Nhìn em thẫn thờ vô hồn ngồi trên nghế trong phòng cứu trợ, hẳn là ai cũng nhận thấy sự tàn ác của chiến tranh. Bởi trong cuộc chiến, trẻ em dường như là thành phần đáng thương để gửi thông điệp đến nhiều người: “Chúng con cần hòa bình, cần niềm vui và cần lớn lên trong hạnh phúc!”

Dù được may mắn cứu thoát, nhưng lúc này em mơ hồ về cuộc sống hiện tại. Với thân thể nhiều thương tích máu me, em không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Em chỉ thấy mình đớn đau lắm! Với khuôn mặt bình thản đến vô hồn, em không còn thấy gia đình, người thân, tương lai và quê hương. Dẫu được nhiều cô chú chăm sóc đặc biệt, hỏi thăm ân cần nhưng vết thương thân thể lẫn tâm hồn đã in hằn trên em. Hy vọng thời gian sẽ chữa lành những vết thương của em và cuộc sống cho em lớn lên trong bình an hạnh phúc.

Em biết không, nhiều bạn chạc tuổi như em không may mắn được cứu sống. Các bạn ấy đã về nơi an nghỉ vĩnh hằng. Còn nhớ những dòng người rời bỏ Syria, lao mình ra đại dương để chạy trốn khỏi đói nghèo và bạo lực chiến tranh trong những năm qua. Trên chuyến tàu ngoái, tất cả đều bị nhấn chìm trong biển cả khiến 13 người thiệt mạng; trong đó có em Aylan Kurdi chết trôi dạt vào bãi biển.

Aylan-Kurdi

Em không biết bao giờ chiến tranh kết thúc, chẳng hay gia đình, người thân còn sống sót và chẳng biết tương lai mình sẽ ra sao!? Hóa ra chiến tranh không chỉ hủy diệt hiện tại mà còn tàn phá cả tương lai. Dẫu sao bên em vẫn còn có chúng tôi, còn nhiều người tiếp tục cho em những điều may mắn tốt lành. Cầu mong sao em có thể giữ được niềm tin và hy vọng, em nhé!

Sau cùng, là một nạn nhân bé nhỏ của một thảm họa chiến tranh, em hãy lay động lòng người để thế giới cùng nhau kiến tạo hòa bình. Rồi trước hình ảnh lúc này của em khiến cả thế giới bàng hoàng, em hãy cho con người biết thế nào là tội ác: bất công, chiến tranh, bạo tàn và vô tâm; thế nào là điều thiện: công bằng, hòa bình, hạnh phúc và tình người, em nhé!

Cầu chúc em tiếp tục nhận được may mắn và bình an!

hinh-anh

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Bao hương thơm trong lời nguyện chiều nay,

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 21 thường niên năm C 21/8/2016

                                                Tin Mừng (Lc 13: 22-30) 

Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được. 

“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: “Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!  thì ông sẽ bảo anh em: “Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến! Bấy giờ anh em mới nói: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi. Nhưng ông sẽ đáp lại: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính! 

“Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Abraham, Isaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.” Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.” 

*    *    *     *

“Bao hương thơm trong lời nguyện chiều nay,”

Lên bốc lên và ân-huệ dường bay.

Ôi! Khí-hậu lọc bao nguồn ánh-sáng.

Chưa no sao? Nhân-từ êm vô hạn,

Do bàn tay Thiên-Chúa chảy tuôn ra.

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mai Tá lược dịch.

Hương thơm ân-huệ từ nay Chúa vẫn tuôn chảy nơi  lời nguyện. Hương thơm lời nguyện vào buổi sớm, hay lúc chiều hôm rất tối muộn, vẫn cứ dâng Ngài. Dâng lên Ngài, ý-nguyện các thánh đề-nghị trong trình-thuật lịch-sử, nói hôm nay.

Trình thuật hôm nay, thánh Luca không chỉ kể về tiệc, về tình mà còn về Vương Quốc Nước Trời. Chính đó, là mục tiêu mà mọi con dân nhà Đạo đều nhắm tới. Về tiệc  hôm nay, nhóm Pharisêu vẫn muốn xem Đức Chúa làm những gì, vào ngày Sabát. Và, Chúa có lẽ đã bị chỉ trích, vào lúc Ngài mở lời.

Lời Ngài mở, không nhằm đối đáp với bọn người xấu chỉ muốn hỏi xem Ngài có những hành vi chống lại lề luật, không thôi. Lời Ngài, là về dụ ngôn với những ảnh hình, rất thực tế. Thực tế như sự thực đang diễn ra trước mắt gồm các thực khách đến dự. Và một thực tế khác, là: Đức Chúa vẫn ngồi cùng bàn với đủ mọi hạng người: từ kẻ giàu sang quyền thế, đến người nghèo hèn, tội phạm. Ngài đến với hết mọi người. Ngài đến như giọt nắng giọt mưa đổ tưới trên đầu mọi thần dân.

Lời Ngài nói bằng dụ ngôn, nhằm đáp ứng lề lối mà thực khách thời đó vẫn hành xử, khi vào tiệc.

“Họ chỉ muốn chọn chỗ nhất mà ngồi.” (Lc 14: 7)

Thời buổi này, các buổi tiệc do quan “lớn” khoản đãi, đều có định chỗ trước cho khách ngồi vẫn là chuyện thực tế, rất ý nhị. Các đấng bậc có vai vế quan trọng được xếp chỗ gần chủ nhà. Có tiệc, chủ nhà còn định chỗ bằng cách để thẻ bìa có đề tên.

Lời Ngài tỏ bày hôm nay, đảo lộn mọi trật tự của đời thường. Đức Chúa vẫn thường khuyên dạy:

Khi được mời đi ăn, thì đừng ngồi vào chỗ nhất”.

Làm như thế, kẻ bon chen cạy cục sẽ không tránh khỏi tình trạng khó xử. Và, đôi lúc cảm thấy phẩm giá con người bị xuống thấp. Nếu làm theo đề nghị của Ngài, chắc cũng có người sẽ coi đó như hành động dưới cơ, thiếu tự tin. Tình cảnh này được coi như một tai ương giao tế đến bất ngờ.

Nhưng ở đây, khi Đức Giêsu kể dụ ngôn, Ngài không cố ý khuyên ta nên hành xử hoàn toàn từng chữ, theo nghĩa đen.

Điều Ngài muốn khuyên nhủ, chỉ là: ở Vương Quốc Nước Trời, việc chọn chỗ nhất nơi bàn tiệc là chuyện không nên, dễ gây hiểu lầm. Bởi lẽ, ý nghĩa và tinh thần của Vương Quốc Nước Trời không qui vào vị thế xã hội. Thứ đời phàm lúc nào cũng đổi thay. Với nhà Đạo, chuyện quan trọng chỉ nằm ở chỗ: làm sao duy trì được tương quan giữa chúng ta với Chúa, và với mọi người cho tốt đẹp.

Đừng quá bận tâm đến vị thế chỗ ngồi hoặc thứ bậc, địa vị hoặc yếu tố sắc tộc, tôn giáo, nghề nghiệp hoặc giai cấp. Vị thế đích thực trong tương quan với Chúa, không thể cân đo đong đếm bằng nghề nghiệp, chức tước hoặc danh xưng. Nhưng, bằng độ sâu độ dài của tình yêu. Bằng  quyết tâm phục vụ Chúa qua giao tế với người đời, sống quanh ta.

Điều quan trọng khác, không phải là: hỏi xem mọi người nghĩ thế nào về mình? Vẫn coi mình là ai? Đối xử với mình như thế nào? Nhưng, là dựa vào mức độ chăm sóc tỏ bày tình thương yêu của ta đến người khác. Đến cả những người dưng khác họ, nữa.

Thái độ và lối hành xử mà Đức Chúa vẫn khuyên mọi người nên có, lại được củng cố thêm bằng lời thư thánh Phaolô gửi cho giáo đoàn Do Thái, rất rõ ràng:

“Anh chị em đã lên núi Sion, tới thành đô Thiên Chúa”(Dt 12: 22).

Đoạn cuối truyện kể trình thuật hôm nay, Đức Chúa hướng thẳng về phía người thủ lãnh nhóm Pharisêu mà bảo họ:

“Khi các ông đãi khách ăn trưa ăn tối, thì đừng mời bạn bè,hay bà con láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại các ông”. (Lc 14: 12)

Thời buổi này, lời khuyên của Đức chúa có thể áp dụng cho các vị có chức, có tiền. Cả trong nhà Đạo, lẫn ở ngoài đời ta chỉ nên mời những người nghèo khó, hoặc thân cô thế cô. Những người không có khả năng tham dự bất cứ bữa tiệc nào dù linh đình hay thanh bạch. Chỉ nên mời mọc những người không có khả năng mời trở lại. Hoặc, những người không có ý định mua chuộc, hay tham ô, nhũng lạm. Tức, họ chẳng làm gì có sức có quyền để ta nhờ vả, thăng tiến bản thân trong thang cấp cầm quyền.

Điều mà trình thuật hôm nay muốn nói đến, là: hãy hoạt động để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Xã hội mang hình vòng cung, hay quả cầu. Trong vòng cung quả cầu ấy, không ai ở quá cao. Cũng chẳng có người ở nơi rốt hết. Tức, mọi người đều có quyền lợi đồng đều, như nhau. Mọi người đều ở vị thế tương đối khá, để có thể san bớt cho những người còn thiếu thốn, nợ nần. Và, nếu đặt một bàn tròn ở giữa, thì mọi người đều có thể với tay chung phần, dự tiệc vui không thua kém ai. Bữa tiệc mà trong đó mọi người đều ngang phần.

Đó là Nước Trời ở trần gian. Có lẽ, sẽ có người cho rằng: đây là chuyện viển vông, không tưởng. Chỉ là chuyện viển vông, nếu nghĩ rằng chuyện ấy sẽ xảy đến ngày một ngày hai. Hoặc, vào thế hệ kế tiếp. Thế nhưng, xã hội như thế là Nước Trời đích thực, ta có thể bắt đầu trước nhất với mái ấm gia đình mình. Sau đó, lan tỏa ra từng nhóm nhỏ mà ta đang sinh hoạt, chung sống. Cộng đoàn giáo xứ tại địa phương là ví dụ rất cụ thể cho xã hội ấy. Một Nước Trời ở trần gian. Một xã hội có thể thực hiện được.

Vào Tiệc Thánh, ta vẫn thực hiện điều này khi san sẻ bánh và rượu đã thành Mình Máu Chúa. San sẻ thực phẩm nuôi sống linh hồn và cũng san sẻ chuyện trò tâm giao với nhau bên bàn tiệc của lòng mến, rất agapè.

Vào thời giáo hội tiên khởi, cộng đoàn các thánh vẫn làm như thế. Và ngày hôm nay, ở nhiều nơi trong các giáo xứ, người đồng Đạo chúng ta vẫn sống như thế. Đó chính là điều Chúa muốn mọi người thực hiện. Ai làm rồi, cứ thế tiếp tục.

Đó là thực trạng của Hội thánh hôm nay. Đó chính là Nước Trời ở đây và bây giờ, là tình huống rất Đạo. Là bữa tiệc rất phải lẽ. Hợp với Đạo. Đạo của Chúa. Đạo làm người. 

Lm Richard Leonard sj biên-soạn  –

Mai Tá lược dịch.

Giọt nước mắt thương con, con ngủ mẹ mừng,

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 21 mùa thường niên C 21/8/2016 

“Giọt nước mắt thương con, con ngủ mẹ mừng,”
“Giọt nước mắt thương sông, ấp ủ rêu rong.
Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm.
Giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong.”

(Trịnh Công Sơn – Nước mắt cho quê hương)

 Trần Ngọc Mười Hai

Video Khánh Ly https://www.youtube.com/watch?v=DQy-rmCmphU

 httpv://www.youtube.com/watch?v=DQy-rmCmphU

(Mt 10: 34-36) 

Nếu như “quê hương” mà bạn hát ở đây là Nước Trời trong đó mọi người trên thế-giới đang nhỏ những giọt nước mắt thương-yêu, thì sao? Và, giả như “giọt nước mắt” mà mọi người đang nhỏ từng giọt và từng giọt, thì bạn đọc và bầy tôi đây, ta nghĩ sao về điều ấy?

Vâng. Nước mắt nhỏ giọt cho bất cứ ai, khóc cho quê hương nào đi nữa, thì người Tây/người Tầu hoặc dân ta vẫn cứ tiếp-tục nhỏ hoài/nhỏ mãi, như ca-từ còn hát tiếp ở bên dưới:

“Giọt nước mắt thương mây, mây ngủ trên ngàn
Giọt nước mắt thương cây, cây ngả trên non
Giọt nước mắt thương anh, khô giòng máu châu thân
Giọt nước mắt quê hương, ôi còn chảy miên man.

Ôi! giòng nước mắt chảy hoài
Giòng nước mắt đời đời
Giọt nước mắt thương ai

Ôi giòng nước mắt trong tim
Chảy lai láng vào hồn
Nửa đêm gọi đến mình”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Vâng. Những giọt nước mắt như thế, vẫn còn nhỏ ở đây đó xuống mọi miền trên quê hương Nước Trời ở trần-gian, thôi. Cũng mới đây, hôm 27/7/2016 ở trời Tây bên ấy, chốn “Phú-Lăng-xa” đất miền rất Pháp Quốc, nhà Đạo mình lại đã nhỏ thêm nhiều giọt nước mắt còn nóng hổi cho vị linh-mục cao-niên bị giết chết ngay trong nhà thờ ở miền Bắc nước này.

Vâng. Nước mắt và nước mũi nhiều người vẫn nhỏ mãi không ngừng, chí ít là những người cùng thờ Thiên-Chúa nhưng khác phái lại cứ báng-bổ/kình-chống nhau, để rồi dẫn đưa nhau về cõi chết, rất buồn bực.

Vâng. Hôm nay ở chốn miền cùng cực phía Nam bên này, lại cũng thấy những người và người vẫn kình-chống nhau chỉ vì khác nhau điều gì đó. Khác, về niềm tin đi Đạo. Khác, hệ-cấp trên/dưới, khác cả hình-thức tổ-chức, lẫn cung-cách đối-xử với nhau và cho nhau, không còn mang tính đích-thật của chọn lựa ban đầu, nữa.

Vâng. Hôm nay đây, người người lại cứ nhân-danh điều này/chuyện nọ để ra tay hành-xử cách nào đó không còn mang tính từ-bi/hỷ-xả như nguồn-gốc của đạo-giáo mình chủ-trương.

Đúng thật thế. Hôm nay và có thể cả mai ngày, người người lại cũng chưa giải quyết được những xung-khắc do có khác-biệt về Đạo và đời; cả ý-thức-hệ lẫn đạo-đức/chức-năng… nay cũng khác.

Vâng. Vì có khác-biệt này/nọ ở nhiều địa-hạt, nên khi sự xấu xảy đến, lại có tình-huống chất đầy nước mắt như ca-từ hát thêm, ở bên dưới :

“Giọt nước mắt thương chim, chim bỏ xa rừng.
Giọt nước mắt thương đêm, đêm đẩy xe tang.
Giọt nước mắt thương em, trên vận nước điêu linh.
Giọt nước mắt không tên, xin để lại quê hương.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Khác-biệt đến độ, đã phải nhỏ những giọt nước mắt không tên để “thương em, thương vận nước điêu-linh”,thương đạo-giáo lình-xình nhiều tranh-chấp, vẫn là “Giọt nước mắt thương dân, đêm đẩy xe tang”, rất làng nhàng.

Vâng. Giọt nước mắt ấy, cứ nhỏ mãi khi có nguồn tin cũng rất “tức” gửi về từ chốn miền nhà Đạo rất Nước Trời, những hỏi rằng:

“Có chăng mối đe-doạ khủng-khiếp cho nền an-ninh thế-giới? Phải chăng đe-doạ ấy là từ ISIS ? 

Câu hỏi này, được đưa ra từ tháng 11 năm 2015 trên trang mạng MercatorNet, rất phổ-biến. Thế nhưng, trước đó từ tháng Bẩy/2015, Chánh Văn Phòng Hỗn Hợp của Hoa-Kỳ là Hải-quân Thiếu-tướng Joseph Dunford cũng từng đưa câu trả lời tương-tự gửi đến Quốc-Hội trả lời rằng: mối đe-doạ không lai ai khác ngoài Nước Nga.

Thế, Trung-Quốc thì sao? Và, Bắc Hàn nữa? Cả hai nước này, lâu nay, vẫn bị mọi người coi là mối đe-doa thật cho Tây Phương. Văn-minh Phương Tây luôn đối đầu với các “đe-doạ thực-sự” cả từ thay-đổi khí-hậu cho đến các hành-tinh nhỏ, từ nạn-dịch toàn cầu đến sự thông-minh nhân-tạo và cả chiến-tranh hạt-nhân, nữa. Đại-học Cambridge ở Anh đã nhận được đầy-đủ tài-trợ để lập nên Trung-tâm Nghiên-cứu về Nguy-cơ đích-thực hầu báo-động mọi người về các mối nguy-hiểm của các ngành Kỹ-thuật mới. Chừng như ta đã bị quấn chặt để biến các tai-hoạ nhỏ thành nguy-cơ hiện-hữu đối với con người. Có lẽ vì thế mà bộ phim “Zombie” và các bi-kịch thành chuyện bình dị ở đời… 

Thành thử, cũng không nên tỏ ra quá nhát gan hoặc ngây thơ đến độ phải lưu-ý đến việc chính-phủ Obama kêu-gọi đừng tỏ ra hãi sợ đối với Nhà Nước Hồi-giáo (IS) sau ngày Thứ Sáu 13 vừa rồi ở Paris . Tổng-thống Obama có nói: “Họ là một mớ các sát-nhân được giới truyền-thông xã-hội hỗ-trợ. Chuyện này cũng không kém ‘nguy-hiểm’, nhưng lối sống của ta lại mạnh hơn thế. Ta có nhiều thứ để đưa ra đề-nghị mà giải-quyết…” Và rồi, Phó Tổng thống Hoa-kỳ Joe Biden còn nhấn mạnh: “ ISIS không là mối đe-doạ cho sự sống còn của Nước Mỹ bao giờ hết…” (X. Michael Cook “Is ISIS an existential threat?” MercatorNet 23/11/2015)

Nói về “mối đe-doạ cho sự sống còn của thế-giới” phải chăng phát-xuất từ đạo Hồi? Theo kiểu của chính-trị-gia. Còn, quan-điểm chính rất công-khai của nhà Đạo mình về mối “đe-doạ” này, được Đức Phanxicô bày tỏ trong cuộc phỏng-vấn trên chuyến bày từ Krakow Ba-Lan về Rôma hôm 31/7/2016, như sau:

“Hỏi: Người Công giáo chúng ta đã bị cú “sốc” sau vụ sát-hại dã-man Linh-mục Hamel. Cha nói chúng con rằng tất cả mọi tôn-giáo đều kiến-tìm hòa bình, nhưng Linh mục Hamel bị giết dưới danh-nghĩa Hồi giáo. Tại sao cha không bao giờ nhắc đến Hồi giáo khi nói về chủ nghĩa khủng bố? 

Đáp: Cha không thích nói về bạo-lực Hồi-giáo, bởi ngày nào cha cũng thấy xảy ra bạo-lực mỗi khi điểm-báo ở Ý, đọc thấy chuyện ai đó giết bạn gái hay mẹ vợ, và đó là bạo-lực của những người Công-giáo đã rửa tội. Nếu Cha nói về bạo-lực Hồi-giáo, thì Cha cũng phải nói về bạo-lực Công-giáo nữa chứ?

Không phải người Hồi-giáo nào cũng tàn-bạo hết. Nó như món salad trộn hoa quả, đều có cái này cái kia. Và anh chị em thấy có những người tàn-bạo trong các tôn giáo khác nhau. Chỉ một điều chắc-chắn mà thôi, là luôn có một nhóm nhỏ gồm những người cực-đoan trong tất cả mọi tôn-giáo. Chúng ta cũng có những người cực-đoan/tàn-bạo như thế. Và, khi những người cực-đoan đi xa hơn đến độ tra tay giết người, có thể bằng miệng lưỡi mình, không phải Cha mà là tông-đồ Giacôbê đã nói vậy. Người ta cũng có thể giết người bằng gươm bằng giáo; thế nên thật không đúng chút nào khi đồng-hoá Hồi-giáo với bạo-lực. 

Cha từng đàm-đạo dài giờ với một giáo-chủ ở Đại học Al Azhar, họ tìm-kiếm hòa-bình và thông-hiểu nhiều chuyện. Sứ-thần tòa-thánh ở nước châu Phi nọ từng bảo với Cha rằng: ở thủ đô nước ông, có người luôn xếp hàng để đi qua cửa thánh, rồi có một số đi xưng tội. Nhưng hầu hết đều đi thẳng đến bàn thờ để cầu nguyện với Đức Mẹ; và đó là những người Hồi-giáo muốn mừng Năm Toàn xá. Khi đến Trung Phi, Cha có đi thăm một cộng-đồng Hồi-giáo, và vị Giáo-chủ Hồi-giáo ở đó cũng lên xe ngồi chung với Cha. Chung sống hòa-bình là chuyện có thể thực-hiện được. 

Nhưng các nhóm tàn-bạo cực-đoan có tồn tại không lại là chuyện khác. Cha tự hỏi vì sao nhiều người trẻ của chúng ta sống an-thân ổn-định, lại bị cướp mất đi lý-tưởng sống, đến độ họ đã chạy theo thuốc phiện, bia rượu, hoặc thậm chí đi đầu quân cho nhóm khủng bố, nữa. Đúng. Chúng ta có thể nói: ISIS là một nhà nước Hồi giáo, và đặc tính của ISIS là bạo-lực, bởi nó khoe với ta toàn những chuyện giết người. Nhưng, đây chỉ là một nhóm nhỏ, anh chị em không thể, không đúng, và cũng quan-niệm không thật lòng khi gọi Hồi-giáo là những người có đức tin khủng bố.’ 

Hỏi: Ngoài việc cầu nguyện và đối thoại ra, ta còn có sang-kiến cụ thể nào để đương đầu với bạo lực Hồi giáo không? 

Đáp: Chủ nghĩa khủng-bố có mặt ở khắp nơi, chỉ cần nghĩ đến chủ-nghĩa khủng-bố bộ lạc ở một vài nước châu Phi thôi cũng sẽ thấy. Chủ-nghĩa khủng-bố lớn lên khi không họ có chọn-lựa nào khác. Và giờ đây, Cha sẽ nói về chuyện có vẻ đầy những hiểm họa gây cho thế-giới. Khi anh chị em biến “thần tài” thành trọng-tâm kinh tế thế giới, chứ không phải con người, thì đó là hình-dạng đầu-tiên của chủ-nghĩa khủng-bố. Anh chị em đã xóa đi nét vẻ nguy-nga của tạo-vật, và thay vào đó, đặt tiền bạc vào vị-trí trọng tâm. Đây là cơ sở tiên-quyết của chủ-nghĩa khủng-bố. Anh chị em cứ nghĩ về chuyện ấy cho nhiều rồi sẽ thấy…’ (X. Phỏng-vấn Đức Phanxicô trên chuyến bay trở về Rôma hôm 31/7/2016, theophanxicovn.net)

Lời Đức Phanxico6 quả cũng rất thẳng-thắn, mạnh-bạo, nhất là trong tình-huống có nhiều khủng-bố/bạo-động đang diễn ra. Tuy vậy, dù Cha hoặc con ở nhà Đạo, có nói mạnh-bạo thế nào đi nữa cũng sẽ không thay-đổi được tình-hình an-ninh/an-toàn trên thế-giới được. An-ninh/an-toàn cuộc đời với người nhà Đạo, có lẽ sẽ nằm ở chỗ khác, ở lập-trường khác vẫn âm-thầm chứ không ầm-ĩ, như ta tưởng. Đó, có lẽ là ý-tưởng của bạn đọc nọ sau khi suy-tư rất nhiều về kết-quả của kinh Lạy Cha áp-dụng cho mọi người ở đời. Chí ít, là đời đi Đạo, lại sẽ diễn-tả cách nhẹ-nhàng hơn, như sau:

“Ðể đọc kinh Lạy Cha mà không lừa dối Chúa và tự lừa dối mình:

Bạn đừng thưa “Chúng con”…
nếu bạn sống cau-có trong ích kỷ.
Bạn đừng gọi Ngài là “Cha”
nếu mọi ngày bạn không sống như người con.
Bạn đừng kêu Ngài là “Ðấng ngự trên Trời”
nếu bạn luôn nhắm toàn những chuyện dưới đất.

Bạn đừng nói “Xin cho Danh Cha cả sáng”
nếu bạn không kính-trọng từng con người.
Bạn đừng nói “Xin cho Nước Cha trị đến”
nếu bạn lầm-tưởng nó với những tham-vọng của riêng bạn.
Bạn đừng nói “Xin cho Ý Cha được thể hiện”
nếu như bạn không chấp-nhận thử-thách xuất tự nó.
Bạn cũng đừng thưa “Dưới đất cũng như trên Trời”
nếu bạn chỉ lo nhìn lên trời mà không thấy ai khác chung quanh bạn.
Bạn đừng nói “Cho chúng con” nếu bạn không cho người khác điều bạn có.

Bạn đừng nói “Hôm nay”
nếu như bạn chỉ hối-tiếc quá-khứ hoặc chỉ đeo-đuổi tương lai nào khác, tốt hơn thế.
Bạn đừng nói “Lương thực hằng ngày”
nếu bạn không chạnh lòng thương những người đang đói khát.
Bạn cũng đừng “Xin tha tội cho chúng con”
nếu bạn không thấy lỗi của chính mình với tha nhân.
Bạn đừng nói “Như chúng con cũng tha kẻ có lỗi với chúng con”
nếu bạn chậm trễ không tha-thứ cho kẻ đã xúc-phạm bạn.
Bạn đừng nói “Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”,
nếu bạn không sẵn-sàng chống lại sự dữ ấy.
Bạn đừng kết thúc bằng lời “Amen”
nếu bạn không trân-trọng những điều ghi trên đây ở Kinh Lạy Cha.”

(Sưu-tầm trên Facebook)

Và, nói đến và nói về an-ninh/an-toàn trong đời người, theo tâm-tưởng của nhà Đạo mình, cũng rất đúng với có thể là như thế. Nhưng, với người thường ở đời, có lẽ nên nói theo truyện kể, thì thích-hợp hơn.

Nhưng trước khi nói bằng truyện kể rất cụ-thể, tưởng cũng nên đi vào vườn hoa Lời Vàng của bậc thánh-hiền để có được những “cột/mốc” suy-tư, rồi đem áp-dụng cho đời mình. Một trong các Lời Vàng ấy gặp được ở sách Tin Mừng sau:

“Anh em đừng tưởng

Thầy đến đem bình-an cho trái đất;

Thầy đến không phải để đem bình-an,

nhưng để đem gươm giáo.

Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ

giữa con trai với cha,

giữa con gái với mẹ,

giữa con dâu với mẹ chồng.

Kẻ thù của mình chính là người nhà.”

(Mt 10: 34-36)

Kẻ thù của mình là chính mình, như ai đó từng hát những câu như: “Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai!” Phạm Duy – Kẻ thù ta).

Vâng. Chính thế. Kẻ thù là chính mình mà giết nó đi thì cái “mình” đâu còn nữa mà nói chuyện an-ninh với an-toàn. Đó, là chưa đổ tội cho người Hồi-giáo cực-đoan, bạo-loạn để đòi giết, hoặc tố-khổ.

Kẻ thù ta, hay kẻ thù của nền an-ninh/an-toàn trên thế-giới, chính là chính-sách/chiến-thuật của ai đó, hoặc sức mạnh hùng-hổ nào đây từng dấy lên cốt tạo sự bất-ổn trong mọi sự để còn khống-chế với cầm cân nảy mực, quyết thực-hiện cho bằng được.

Kẻ thù ta, hôm nay, chắc-chắn không phải và không bao giờ là thế-lực Hồi-giáo-khủng-bố hoặc mãnh-lực của ác-thần/sự-dữ hiện-thân nơi ai đó, bên ngoài con người mình.

Nhận-định thế rồi, nay mời bạn và mời tôi ta đi vào vùng trời truyện kể để minh-hoạ cho lập-trường sống rất dễ dàng.

Nếu để ý, người đọc sẽ nhận ra rằng: cả hai truyện kể chẳng đi sâu/đi sát gì đề-tài ta bàn-luận, nhưng nếu nghĩ “trệch” khi bảo rằng: mọi chuyện trên đời xảy ra có lợi cho nền an-ninh/an-toàn của đời người hay không là tuỳ góc cạnh mình nhìn mà thôi. Nhìn theo góc cạnh ấy rồi, mình và người sẽ nhận ra một hay nhiều nhân-sinh-quan cuộc đời rất khác biệt. Thôi, xin mời bạn/mời tôi, ta bắt đầu kể:

“Truyện rằng: 

Ở nước Mỹ, trong một cửa hàng bách hóa, bởi trời đột nhiên đổ cơn mưa lớn, một bà lão ăn mặc giản dị, khắp người ướt sũng đi vào tránh mưa, gần như toàn bộ nhân viên bán hàng đều không muốn để mắt đến bà lão này. Có một chàng trai rất thành kính nói với bà rằng:

“Chào bà, tôi có thể giúp gì cho bà đây?”

Bà lão cảm thấy mượn chỗ của người khác để tránh mưa, trong lòng cũng có chút khó chịu, liền muốn mua một vài món đồ, nhưng đi vòng quanh mãi mà không biết mua gì nữa. Chàng trai này nhìn thấy liền nói với bà lão rằng:

“Bà không cần cảm thấy khó xử! Tôi đã để một chiếc ghế ở trước cửa, bà cứ yên tâm ngồi ở đó là được rồi.” 

Sau hai tiếng đồng hồ thì mưa đã tạnh, bà lão xin danh thiếp của chàng trai này rồi đi mất. Mấy tháng sau, chàng trai này đã được một cơ hội hiếm có, chính là được chỉ định làm đại biểu cho công ty bách hóa này đàm phán nghiệp vụ với công ty gia tộc lớn khác, lợi nhuận rất lớn. Về sau mới biết là bà lão đó đã cho cậu một cơ hội này, hơn nữa bà lão này không phải ai khác, mà chính là mẹ của “Vua Thép” Carnegie tỷ phú của nước Mỹ. 

Thế là, chàng trai này từ đây đã thuận buồm xuôi gió, một bước lên mây, trở thành trợ thủ đắc lực của “Vua Thép” Carnegie, đồng thời cũng là một trong số nhân vật trọng yếu giàu có bậc nhất, địa vị chỉ đứng sau Carnegie mà thôi.

 – Chẳng cần lời ngon tiếng ngọt, chỉ cần chân thành là tốt rồi;      

– Chẳng cần thề non hẹn biển, chỉ cần thật sự làm được là tốt rồi; 

– Chẳng cần oán trách lẫn nhau, chỉ cần hai bên hiểu nhau là tốt rồi;   

 – Chẳng cần ngờ vực lẫn nhau, chỉ cần tin tưởng lẫn nhau là tốt rồi; 

– Chẳng cần phải tức giận cả ngày, chỉ cần hiểu được bao dung là tốt rồi; 

– Chẳng cần gắn bó chẳng rời, chỉ cần trong lòng có nhau là tốt rồi. 

Giữa người với người, điều cần nhất chính là một tấm lòng chân thành kia vậy!

(Tiểu Thiện, dịch từ Cmoney.tw (VIETSTAR MEDIA) 

Và câu truyện kể thứ hai cũng dễ nể, như sau này:

“Lão là người duy nhất phải chăm lo từng “miếng ăn giấc ngủ” cho bà ở nhà nữa. Người chồng già nua này đang hãnh diện với công việc. Chăm sóc người vợ không còn một chút khả năng, nói đúng hơn là một “gánh nặng” đối với cách nghĩ của người khác. Riêng tôi, mọi dịp gặp hai vợ chồng này trên chuyến xe buýt, chưa bao giờ tôi thấy người chồng ra vẻ bực dọc bên chiếc xe lăn.

Có điều lão nói hơi nhiều!

Khi chiếc xe lăn được cột yên vào vị trí chỉ định, là lúc lão bắt chuyện ngay với người khác. Lão nói đủ thứ chuyện. Ai cũng nhận ra chút gì đó hưng phấn,vui vẻ, niềm hạnh phúc quá dễ dàng bắt gặp trên gương mặt xương xẩu , khô khốc kia. Phẩm chất một người chồng tận tụy, chung thủy đang thể hiện qua sự phục vụ cho một bà lão, khó tánh, hay gắt gỏng, do không còn một khả năng di chuyển, phải ngồi mãi trên chiếc xe lăn.

Người ta còn thêm một cảm nghĩ rằng: lão phục vụ người vợ, là niềm vui duy nhất,không thể thiếu và dường như lão “cần vậy” là đằng khác. Vui vẻ trên xe với mọi người; thỉnh thoảng lão cúi thấp, nho nhỏ nói vài câu với bà như “dỗ dành đứa trẻ”. Giọng ngọt ngào, mơn trớn. Hai hàm râu bên má lão rung rung theo lời nói, đôi khi tôi cảm thấy động lòng.

-Ước gì mình có một ít tính “kiên trì và chịu đựng” như lão! 

Có thể tôi sai, có phần xúc phạm với lão, giá như lão biết rằng tôi dùng hai chữ “chịu đựng”.

Hai vợ chồng đó hay xuống xe vào nửa đường, gần downtown San Jose . Bà tiếp tục càu nhàu ngay khi xuống trạm. Tôi ngoái theo nhìn. Dáng lão vừa đẩy xe cho vợ đi nhanh vừa chỉ trỏ như làm trò “con rối” cho bà vui. 

Mùa xuân năm nay, cũng trên chuyến xe 64 này tôi thấy vắng hình bóng vợ chồng kia cùng chiếc xe lăn. Bỗng một hôm, có một ông già lên xe. Sau vài phút để ý, tôi nhận ngay chính là lão già năm ngoái. 

Nhưng lần này lão lên xe một mình. Khuôn mặt ông già năm nay co rúm nhiều hơn. Màu râu nay bạc hơn, rậm rạp, lởm chởm đến mức độ “gớm ghiếc”! Hai con mắt ti hí đen thẩm, như một vũ trụ đen tối, sâu thẳm, càng khó đoán ông đang nhìn ai? 

Tôi nhận ra lưng lão gù hơn trước. Tay xách thêm một cái túi cũ mèm đựng những thứ lỉnh kỉnh, lão ngồi co ro đằng góc xa của dãy ghế trống do toán học sinh vừa xuống. Lão thỉnh thoảng nói lẩm bẩm, không ai nghe. Thỉnh thoảng lão húng hắng ho; có khi lão cố gắng dằn cơn ho lại sợ phiền lòng người khác.

Tôi cầm lòng không được:
-Chào ông , ông còn nhớ tôi không?

Lão ngẩng lên một lát:
– À…à! tôi nhớ anh… anh hay đi vè downtown; tôi thuờng gặp mà.

Tôi có cảm giác thân mật hơn khi lão nhận ra mình.
Ngần ngừ ít giây, tôi đánh bạo hỏi:
-thế thì vợ ông đâu?
Lão chợt chỉ ngón tay lên trời:
-bà ấy mất rồi.
-Ô! xin chia buồn cùng ông.
-Bà ấy ra đi ngay mùa Christmas năm ngoái anh à.
Tôi an ủi:
-Tôi tin bà lên thiên đường rồi ông ạ.

Bắt chước ông ta, tôi vừa nói vừa chỉ ngón tay lên trời. Bỗng lão chợt vui, đôi mắt như sáng hơn, rồi lại đưa ngón tay lên trời thêm lần nữa. Có điều tôi tin, ông già này hiện đang sống cô độc. Lão từng vui với công việc là người tự nguyện đẩy xe và săn sóc vợ. Giờ người vợ bệnh hoạn kia bỏ lão một mình để “lên thiên đường ” trước, thì sao lão tránh được buồn rầu và suy sụp?

Hôm nay tôi là người duy nhất bắt chuyện với lão. Trong tiếng ho kia, lão tự biết thân phận ngồi chỗ nào xa, kín đáo, để khỏi khó chịu cho ai. Tôi chào lão, nắm chặt song vịn sát trần, bước lui ít bước để khỏi làm phiền lão. 

Chiếc xe hàng ngày vẫn đón vài người tật nguyền đi xe lăn như người vợ quá cố của lão. Có những người già, những đứa bé, bị bệnh đi xe lăn. Anh tài xế vẫn kiên trì làm công việc thuờng nhật là móc dây an toàn cho từng người khách bệnh hoạn này khỏi chao chạnh lúc xe chạy. Giờ lão là ngườ “hết nhiệm vụ”. Người thân yêu nhất kia đã vĩnh viễn chia ra đi. Lão là người “ở lại” trên cõi trần này buồn nhiều hơn vui. Giờ con người này thật sự cô độc, trong một xã hội không có thứ văn hoá “tam đại, tứ đại đồng đường”. Bà lão còn sống, lão là người chăm sóc. Nay bà lão ra đi, để lão một mình trơ trọi, không ai săn sóc, không ai ở kề. 

Lão lại tiếp tục húng hắng ho, tiếp tục che miệng hay cúi gầm xuống lẩm bẩm nói một mình. Có thể ông già đang tâm sự với bà trong chốn vô hình nào chăng?

Nửa đường, ông già xuống xe. Cái túi đựng thức ăn của lão chợt lộ lên hàng chữ “Cơ Quan Cứu Tế CITY TEAM San Jose”; bên trong chắc hẳn là một số đồ hộp thức ăn cấp phát cho người nghèo. 

Chiếc xe tiếp tục chạy. Tôi ngoái lại nhìn , hình bóng con người cô đơn kia lảo đảo bước về huớng khác để lại cái bảng hiệu ngừng xe bơ vơ bên đường.” (Đinh Hoa Lư)

Kể như thế, cốt bảo rằng: an-ninh/an-toàn trong đời người cũng đều tuỳ tâm-trạng của người đời khi sống với người và với chính mình. Đó, cũng là đôi điều xin được đến bạn, đến tôi hôm nay và trong những ngày sắp tới của đời mình.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những ngày

Cứ suy-nghĩ nhiều

Về Hồi-giáo, bạo-lực và sự tàn-bạo

trong tâm-khảm của chính mình.

Nghĩ ngợi về vụ đồng chí giết nhau ở Yên Bái

 Nghĩ ngợi về vụ đồng chí giết nhau ở Yên Bái

Nguyễn Thông

19-8-2016

– Vụ nổ súng ở Yên Bái 3 khiến cán bộ chết sẽ còn rất nhiều điều để nói để viết. Tôi cạn nghĩ dân chúng nếu bàn thì nên có cả ý (trí) lẫn tình (tâm). Thôi thì người chết rồi, dù có là cán bộ đi chăng nữa, đừng sẵn ghét cán bộ mà nói nhời nặng nhẹ, cho hồn người chết đi được dễ dàng, trong cái tháng đặc âm khí này.

Nhưng ở góc độ khác, với người sống, tôi thấy các vị cấp cao xử lý vụ việc (gọi là xử lý khủng hoảng) lần này có nhiều tiến bộ: nhanh, khá kịp thời, cởi mở. Tuy nhiên, ban đầu có điều không hay, cần lên án. Báo Pháp luật VN (phapluatplus) đã nhanh nhất có thông tin, chỉ sau hai mươi phút xảy ra vụ việc, rất đáng nể. Ngay sau đó, có lệnh cấm thông tin, bắt báo Pháp luật phải rút xuống, theo cái thói xử lý cấm đoán xưa nay.

Bài báo đã bị rút, gây nhiều tò mò, hoang mang. Hơn một tiếng đồng hồ sau, các báo mới được lần lượt đăng tin. Để truy ra kẻ nào ban cái lệnh cấm đoán đó không khó. Cần xử lý cho nghiêm, không thể để dạng như vậy chui vào bộ máy lãnh đạo, quản lý nhà nước để làm bậy, dù viện bất cứ lý do gì.

– Cái lý không phải của người Mèo. Bà Phạm Thị Thanh Trà, Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái trong cuộc họp báo vừa xảy ra (chiều 18.8) đã nhầm lẫn nghiêm trọng. Không những bà cố tình né tránh nguyên nhân “tổ chức cán bộ” (mà chính ông trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy cũng bị bắn chết đã chứng minh điều ấy), bà còn nói “Điều quan trọng nhất lúc này, đó là ổn định tư tưởng của đông đảo bà con các dân tộc Yên Bái; nhanh chóng sớm ổn định tư tưởng để người dân tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị của địa phương”.

Đối tượng cần ổn định nhất là nội bộ đảng của bà, là đội ngũ cán bộ, chứ không phải dân. Dân chúng không hoang mang bởi xưa nay họ chấp nhận ông bà nào cai trị thì cũng vậy. Ngoài ra, tưởng bà nói mau chóng để làm gì, hóa ra để dân “tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị” thì quả thật tôi chịu thua cái lý của bà, không lúc nào tha cho dân lấy một phút.

Tôi mà là ông Huynh, ông Thưởng, chắc tôi phải nát óc khi có không ít người dân vốn hiền lành chất phác lại tỏ ra dửng dưng (tôi chỉ nói ở mức độ “hiền” nhất) trước cái chết của cán bộ to trong bộ máy cai trị của các ông. Họ còn hát “tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới” như dự báo một điều gì ghê gớm lắm, đã gần lắm.

Thế thì, hãy chú ý đến cán bộ, chứ không phải đến dân, các ông ạ. Ăn ở ra sao, mà lòng dân như vậy.

– Nói mãi cũng chả hết, chắc phải có một bài cho đầu đuôi. Nhưng rõ ràng chuyện đồng chí Đỗ Cường Minh – Chi cục trưởng Kiểm lâm bắn chết đồng chí Phạm Duy Cường – Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Ngô Ngọc Tuấn – Chủ tịch HĐND tỉnh Yên Bái đã nói lên rằng khi cái ung nhọt tình đồng chí bị vỡ thì nó kinh khủng hơn rất nhiều so với những mụn nhọt của dân (kiểu đánh chết kẻ trộm chó chẳng hạn). Ngày xưa những vụ tàn hại nhau ở cấp cao thế (không phải là ít) có thể giấu được, chứ bây giờ nó văng tóe loe, ai cũng thấy là rất kinh khủng, ngoài sức tưởng tượng. Chả biết bác Cả có cám cảnh than thở trước sự thực này, mấy bữa nay chẳng thấy nói gì.

– Còn khá nhiều tỉnh chuẩn bị họp HĐND, phen này thì cứ phải kiểm tra cho kỹ, cái ngoáy tai cũng không cho đem vào. Tỉnh nào mà chả chứa đầy xung đột âm ỉ, cứ ép nhau cho lắm thì tức nước vỡ bờ, rồi lại tinh dững Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ, Bá Kiến chọi nhau.

Làm cán bộ thời này quả là một nghề nguy hiểm, nhất là cán bộ đảng, chết như chơi.

CỨ CỬA HẸP MÀ ĐI ĐỂ VÀO

 CỨ CỬA HẸP MÀ ĐI ĐỂ VÀO

Tác giả:  Huệ Minh

Ở đời, người ta vẫn thường nói với nhau : “Cái gì không mua được bằng tiền thì mua được bằng rất nhiều tiền !”

Dù muốn dù không thì cái thực tế ê chề này nó vẫn đúng bởi đơn giản con người dù mạnh, dù lớn, dù khỏe cỡ nào đi chăng nữa cũng khó đứng vững trước sức mạnh của đồng tiền. Đồng tiền không chỉ mua được nhiều thứ mà nó có một sức mạnh có thể phá tất cả các cửa mà người ta muốn vào.

Là người dân, ta vẫn thường quen với các thủ tục hành chính mà người ta cũng hay đùa “hành là chính”. Đúng như vậy, để có một tờ giấy nào đó thì người dân phải đi qua các cửa. Là một bệnh nhân, khá kinh nghiệm về chuyện qua các cửa. Nếu vào các bệnh viện hay các cơ quan mà không quen biết hay không có tiền thì sẽ chậm chạp biết là dường nào. Khi đó, muốn qua các cửa dù hẹp cỡ nào đi chăng nữa thì chỉ cần xì tiền ra là có thể qua được hết.

Đời là như vậy, xã hội trần thế là như vậy nhưng Thiên Đàng, Nước Trời lại là khác. Cửa vào Thiên Đàng như Chúa Giêsu nói ngày hôm nay muốn vào thì phải qua cửa hẹp. Cửa ở trần gian có thể mua bằng quyền, bằng tiền hay người ta gọi là nhất thân nhì thế nhưng cửa Thiên Đàng thì đừng trông mong. Dù có tiền, dù có quyền đi chăng nữa cũng không thể nào qua được. Cửa này phải qua bằng nẻo đường duy nhất là tự lực cánh sinh của mỗi người và như Chúa nói cửa hẹp nên phải phấn đấu để mà vào. Phấn đấu này, chiến đấu này không phải chiến đấu với người khác mà là chiến đấu với chính bản thân mình.

Và, người ta cũng thường hay nói chiến thắng ai cũng được, chiến thắng cái bên ngoài thì dễ nhưng chiến thắng chính bản thân của mình không phải là chuyện đơn giản. Tề gia – trị quốc – bình thiên hạ. Muốn tề gia thì phải tề chính cái bản thân của mình trước đã.

Với thao thức được cứu độ, ta thấy có kẻ hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” Phải nói rằng ta phải thán phục người này bởi lẽ người này vẫn có một nỗi lòng canh cánh về ơn cứu độ.

Nhìn lại xã hội, tôn giáo thời Chúa Giêsu, ta vẫn thấy man mác một cảm thức tôn giáo, một tâm thức được cứu độ. Chính vì lẽ đó nên người ta mới hỏi Chúa Giêsu.

Ngày hôm nay, thật tình mà nói, cảm thức về tôn giáo, cảm thức về ơn cứu độ dường như nó nhạt nhòa ngay trong chính những người có đạo và thậm chí lãnh đạo tôn giáo nữa. Nói ra xem có vẻ đụng chạm nhưng trong thực tế thì không thể nào phủ nhận được một sự thật phũ phàng như thế này.

Giữa một thế giới vật chất là hàng đầu, hưởng thụ là hàng thứ nhất thì xem ra ơn cứu độ bị nhạt nhòa, xem nhẹ và thậm chí chẳng cần quan tâm.

Có một thực tế nói ra có thể đụng chạm nhưng cũng phải nói rằng đó là khi nhìn vào những gia đình giàu có, gia đình có địa vị một chút thì các đấng các bậc thường xuyên lui tới hơn. Và, kèm theo đó là những bữa tiệc xem ra hoành tráng và chúc tụng nhau. Còn những người nghèo thì dường như gia đình của họ chẳng bao giờ thấy bóng dáng của một vị mục tử, của các đấng các bậc trong Giáo Hội.

Nhiều gia đình khá giả không ngần ngại khoe những tấm hình lẽ ra không cần khoe về những tấm hình chung với những bậc vị vọng, có khi những tấm hình đó được ghi lại nơi những bàn tiệc sang trọng.

Dù muốn dù không, dù lấp liếm, dù che đậy nhưng các đấng khó có thể trả lời được sự hiện diện của mình nơi những gia đìng giàu có.

Tôi đã từng chứng kiến một người phụ nữ tạm gọi là quyền lực, bà có số tất cả các đấng các bậc và có thể gọi bất cứ lúc nào ngay trong khi các linh mục muốn gặp hay phone cho các vị chủ chăn còn e ngại ! Vì sao mà lại lộng như vậy ? Không cần nói nhiều thì ai ai cũng biết nguyên nhân là vì sao ?

Và, chính các vị chủ chăn làm luật đã đạp lên luật khi giỗ của mẹ một vị nhà giàu có đến 8 giám mục và ngoài 100 linh mục ! Trong khi đó,  đau đớn lòng mà nói những người nghèo thì đừng có mơ thấy hình dáng của các đấng.

Có người tự hào rằng quen gần hết các đấng trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Có người tự hào khoe rằng thích mời cha nào là cha đó phải đến nhà !!!??? Sự hiện diện như vậy dựa vào lý do nào ắt hẳn mọi người đã hiểu vì thật dễ hiểu. Nhà nghèo như nhà của tôi thì dù có nằm mơ 3 giấc cũng không thấy bóng dáng sự hiện diện của các đấng.

Chính vì thế, nhiều người đã lầm tưởng rằng nhà nào có các đấng hay đến, lễ nào các đấng đồng tế đông là người thân của mình sẽ được phần phước như người đời thường nghĩ. Nhưng không, trước mặt Chúa là phải vào cái cửa hẹp mới được vào chứ không phải chuyện là chết xong nhiều cha đồng tế là lên thiên đàng.

Nhiều người đã bé cái lầm khi nhìn và suy nghĩ rằng cửa thiên đàng sẽ rộng mở cho những người có quyền và có tiền. Người đời thì nghĩ vậy nhưng điều kiện vào Nước Trời của Chúa lại chính là sự hãm mình, là sự khổ chế bước theo Đức Kitô trên con đường thập giá.

Ngày hôm nay, người ta tục hóa đời tu, tục hóa tôn giáo để rồi cảm thức vào Thiên Đàng, cảm thức ơn cứu độ không còn nữa. Chính vì xem thường giá trị cứu độ nên rồi người ta ầu ơ ví dầu với việc đạo nghĩa, với việc tham dự Thánh Lễ, các bí tích.

Còn nhớ thời bao cấp, thời khó khăn thì nhiều nơi như Kỳ Đồng, Bình Triệu, Đền Thánh Martino Ba Chuông … tấp nập người đến đó để học giáo lý, để tìm hiểu, bồi đắp thêm kiến thức và bồi bổ đức tin. Nhưng rồi, dường như thời buổi kinh tế khá ổn người ta không bận tâm đến Giáo Lý, đến đức tin nữa. Có chăng đến những nơi đó để xin xỏ mà thôi.

Ngày hôm nay, người ta không còn cảm thức đức tin để không còn phấn đấu để bước vào cửa hẹp nữa. Chính vì đi theo chủ nghĩa tương đối cũng như lý luận rằng sao cũng được để rồi người ta không còn thao thức, không còn bận tâm cửa hẹp nữa.

Đó là quan niệm chung chung, đó là quan niệm tự do của mỗi người nhưng chúng ta nên chăng nhìn lại cuộc đời của chúng ta. Chúa Giêsu hơn một lần nói với chúng ta : “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì ?”. Câu nói đó dường như vẫn còn đâu đó văng vẳng bên tai của ta để nhắc nhớ ta rằng khi ta nằm xuống cuộc đời ta chẳng còn gì cả, còn chăng là ơn cứu độ, còn chăng là Nước Trời mà ta phải phấn đấu để bước vào.

Trang Tin Mừng ngày hôm nay nhắc nhớ phận người chúng ta và đặc biệt nhắc nhớ thái độ sống, tâm tình sống của chúng ta trước ngưỡng cửa Thiên Đàng. Thiên Chúa vẫn mở ngỏ, Thiên Chúa vẫn để cho ta tự do bước vào hay không và ta nên nhớ cửa vào vẫn là cửa hẹp.

Nhớ lại hình ảnh của các cửa trong Kinh Thành Cố Đô Huế, ta thấy các cửa đều hẹp để rồi ai muốn qua đó mà trước giờ đóng cửa hay sát giờ đóng cửa thì mọi người phải chạy và tranh thủ ép mình để được vào bởi cánh cửa rất hẹp. Muốn qua đó, con người phải bỏ lại những thứ cồng kềnh bên mình.

Cũng vậy, muốn vào Thiên Đàng, ta phải thao thức, phải có tâm thức hướng lòng về Thiên Đàng để rồi từ đó ta vất bỏ cái tôi nặng nề của ta, cái lòng hận thù, tham sân si của ta. Khi và chỉ khi tâm hồn ta thanh thoát, nhẹ nhõm thì ta mới có thể bước vào và qua cửa hẹp như Chúa mời gọi mà thôi.

Và rồi nhìn lại mình, ta vẫn thấy ta là con người mỏng dòn và yếu đuối, ta lại xin Chúa thêm ơn cho ta nhất là ơn can đảm để ta từ bỏ những gì vướng víu ạnh ta như cái tôi, cái tính nóng nảy, cái tính ương ương dở dở của ta để ta thanh thoát bước vào cửa hẹp và vào Thiên Đàng như Chúa mời gọi.

Tác giả:  Huệ Minh

CHUYỆN NHÂN GIAN

CHUYỆN NHÂN GIAN

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Theo bản tin của Vatican (news.va  được Tìn Mừng cho Người Nghèo (GNsP) dịch lại, thứ năm 11.8.2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã dùng bữa trưa với 21 người tỵ nạn Syria tại khu Nhà Khách Santa Marta. Trong bữa ăn trưa, cả người lớn và trẻ em đều có dịp được trò chuyện với Papa Phanxicô về cuộc sống họ mới khởi sự tại Ý. Những người tỵ nạn này hiện đang sống ở Roma và được cộng đoàn Thánh Egidio bảo trợ. Trong dịp Đức Phanxicô viếng thăm hòn đảo Lesbos vào ngày 16.4.2016 ( ảnh chụp ), ngài đã mang họ về Roma cùng với ngài. Nhóm đầu tiên đã đến Roma với ngài trên cùng chiếc bay dành riêng cho Giáo Tông, còn nhóm thứ hai đến Roma sau đó, vào giữa tháng 6 theo đề nghị của ngài.

Một lần nữa qua hình ảnh của một vị Giáo Tông, chứ không phải là một vị “Giáo Hoàng” như lâu nay vẫn quen gọi sai, chúng ta học được bài học yêu thương, đơn sơ, bình dị và chân tình rất cụ thể của một vị Cha chung như cách mọi người gọi ngài là Papa, Pape, Pope… Kể từ ngày nhận sứ vụ ngai tòa Phêrô, Papa Phanxicô đã có những chọn lựa cung cách sống gần gũi với mọi người, đặc biệt người nghèo, để nói lên tinh thần của Phúc Âm là Tin Mừng cho người nghèo.


Như chúng ta biết, vị Giáo Tông này đã không vào biệt điện dành riêng cho ngài nhưng đã sống ở nhà nghỉ Santa Marta. Từ đó ngài có dịp sống chung với những người cư trú tại đây, sinh hoạt với những người giúp việc, rồi mỗi sáng nếu không đi đâu, ngài sẽ dâng Thánh Lễ với họ, giảng dạy Lời Chúa cho họ. Không tách biệt với cộng đồng, Papa Phanxicô di chuyển đến văn phòng làm việc bằng chuyến xe buýt chung với các nhân viên của Vatican.

Với các phương tiện truyền thông hiện đại, vô tình ống kính đã ghi lại hình ảnh cổ tay áo của Papa Phanxicô đã bị sờn vải trong chuyến viếng thăm Mehico. Chắc chắn với cương vị của ngài, chuyện thay một chiếc áo mới chẳng phải là xa vời không với tới, thậm chí đó là chuyện quá nhỏ, nhưng vị Giáo Tông này đã sống một cách giản dị ngay cả trong những điều nhỏ nhặt nhất.

Chiếc cặp cầm tay trong mọi cuộc di chuyển đã là một hình ảnh trong chuỗi những hình ảnh đánh động mọi người. Tự tay ngài cầm lấy vật dụng cá nhân, mặc dầu ở cương vị của mình, có thể nhờ một tùy viên mang giúp.

Địa chỉ năng lui tới thăm viếng và cử hành Thánh Lễ của Papa lại là nhà tù, chứ không phải Đại Giáo Đường với đông đảo quần chúng, với cờ hoa rợp trời, kèn đồng vang dội. Đó là một ngôi nhà của tội nhân, với những căn phòng đơn sơ mộc mạc được canh gác nghiêm ngặt, ở đó ngài gặp gỡ những kẻ phạm pháp, những kẻ hèn mọn bị khinh miệt và tách biệt khỏi xã hội con người. Ngài đến đấy với tâm tình “mỗi khi bước qua ngưỡng cửa nhà tù, tôi ý thức chính mình là tội nhân, nơi đây phải là chỗ dành cho mình, nhưng Chúa thương tôi, tôi đến đây để tạ ơn Chúa và chia sẻ với những người ngồi tù thay tôi”, ngài đã trả lời như vậy khi được hỏi về lý do tại sao lại hay viếng thăm nhà tù.

Và nhiều hành động với cung cách sống như vậy nữa nơi vị Giáo Tông của thời đại này. Không cần nói nhiều chúng ta đều biết, thế gian đã chọn lựa khác ngài, chọn sự vinh quang, hưởng thụ, sang trọng cho có đẳng cấp, họ không chọn phục vụ, không chọn khó nghèo đơn sơ, không chọn gần gũi cộng đồng, đặc biệt là người nghèo khi họ có quyền có chức, cho dẫu chính họ xuất thân từ hạng người nghèo khổ. Cứ nhìn vào cuộc sống của các quan chức ở Việt Nam sẽ thấy rất rõ, chức và quyền cộng với tinh thần thế tục đã gây biết bao đau khổ cho người khác, đặc biệt là người nghèo. Trên các phương tiện truyền thông, vụ bắn chết viên Bí thư Tỉnh Ủy và Chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Yên Bái vào ngày 18.8 vừa qua đã góp thêm những hình ảnh phơi bày sự tệ hại của tinh thần thế tục.

Đó là thế gian, đó là những người từ chối hoặc không có dịp tiếp cận Tin Mừng, nhưng chúng ta thì sao ? Hàng ngày chúng ta nghe đọc Lời Chúa, hằng ngày chúng ta lên tòa giảng, lên lớp giáo lý nói Lời Chúa, chúng ta chọn cung cách sống như thế nào ? Hãy nhìn vào những trang thiết bị, những cơ sở vật chất, những phương tiện di chuyển, những cách xử dụng phòng ốc, những chọn lựa trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta chọn điều gì ? Tu Viện hay pháo đài khi chúng ta xây dựng tường rào ? Tu Viện hay khách sạn khi chúng ta chọn lựa kiểu dáng và vật liệu xây dựng ? Nơi ở của những người tự đánh giá là “con cáo có hang, con chim có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu” hay biệt điện dành riêng cho ông hoàng bà chúa ?

Đừng tiếp tay với thế gian vốn đã quá gian xảo và lọc lừa, trước mặt Chúa chúng ta hãy thật lòng tự vấn lương tâm, thực hành sám hối và thay đổi cách sống trước khi những tai họa sẽ giáng xuống trên đầu chúng ta, nếu cứ… “đi lại làm điếm” với thế gian này.

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

19.8.2016