Học tiếng Hán làm gì? Chủ yếu là … mất công?

Học tiếng Hán làm gì? Chủ yếu là … mất công?

Jonathan London

5-9-2016

** Học tiếng Hán làm gì? Chủ yếu là … mất công? **

Về tranh cãi ‘học tiếng Hán làm gì?’ Được biết người Việt trong nước đang cãi nhau về chữ Hán (Old Chinese Script) hơn là tiếng Trung (Modern Chinese language, Mandarin) – Song, xin góp ý ngắn gọn về vấn đề dạy học cả về tiếng Hán lẫn tiếng Trung:

Việt Nam không nên mất quá nhiều thời gian và quá nhiều công sức trong việc học cả tiếng Hán lẫn tiếng Trung.

Việc học tiếng Trung/Hán chỉ cần thiết cho những người cần…. v.d. cho những người đang hay có ý định sống ở Hoa Lục, hoặc có việc với Trung Quốc, có quan tâm sâu sắc đến lịch sử của đất nước và nhất là sự phát triển của Tiếng việt, những người buôn bán, những mục đích bảo vệ đất nước, bãi biển Đà Nẵng của Việt Nam v.v… Còn đối với những người khác, hỏi học tiếng Hán để làm gì là đúng. Học tiếng Trung làm gì, là hai câu hỏi sâu sắc.

Mặt khác, có khá nhiều lý do để không học. Trong đó, đối với tôi lý do lớn nhất và đúng nhất đó là mất công! Nghe có vẻ hoặc thực chất là quá đáng, có lẽ không nên nói thế. Xin giải thích thế này:

Khi còn đang sống ở HK cả hai nhóc trong nhà (8 tuổi và 6 tuổi) đều ‘được’ hoặc buộc phải học tiếng Trung phổ thông (TTPT – tức Mandarin) ít nhất năm tiết trong tuần. Thực ra, nếu chúng học tiếng Quảng Đông tôi sẽ yên tâm hơn vì lúc đó chúng tôi đang sống ở HK.

Mặc dù hai con của tôi học rất giỏi, đặc biệt là đứa lớn, nhưng không vì thế mà tôi buồn, còn bây giờ thì tôi rất vui vì chúng sẽ không phải học tiếng TTPT nữa.

Vì sao? Vì theo tôi, học tiếng Trung/Hán là vô cùng không hiệu quả (cả về thời gian lẫn về sự phát triển con người) … Tuy là một ngôn ngữ dù giàu truyền thống đi nữa nhưng phải nói là vô cùng mất công.

Trẻ em Việt Nam vốn đã phải mang gánh nặng lớn bởi nền giáo dục phổ thông/thêm của mình, vì vậy, thực sự là nên tập trung vào việc giáo dục trẻ em tốt đã. Nếu có vài phần trăm học sinh (hoặc có cha mẹ) muốn học tiếng Tầu thì ok.

Ở các nước nói tiếng Trung, nhất là Hoa Lục và Hồng Kông, trẻ em phải dành quá nhiều thời gian để thuộc lòng vô số chữ của một hệ thống viết vô cùng phi logic. Cách học duy nhất là học thuộc lòng.

Ừ thì biết rằng tiếng Nhật cũng khó ở chỗ đó. Ừ thì biết rằng tiếng Hán có một vị trí cốt yếu trong lịch sử ngôn ngữ học của Việt Nam.

Nhưng tôi đã thấy trực tiếp số phận của bao nhiêu trẻ em ở HK không có thời gian để nghỉ ngơi và để phát triển một cách bình thường. Con tôi có mấy bạn cuối tuần chả đi đâu cả, chỉ học chữ mà thôi. Buồn!

Ở Đông Á, hai nước Triều Tiên và Việt Nam khá là may mắn khi đã thoát khỏi hệ thống ngôn ngữ lỗi thời của Hoa Lục.

Như ta biết, Hangul của Hàn Quốc mới phát triển từ thế kỷ 16 và theo hệ thống alphabet chứ không phải là một writing system based on characters (chữ viết dựa trên ký tự). Dù ngữ pháp của tiếng Hàn không dễ nhưng ít nhất hệ thống viết cực kỳ đơn giản, dễ học. Ta có thấy một tỷ lệ lớn người Hàn Quốc học tiếng Hán không? Không.

Cụ thể, tôi đề nghị như thế này: Đừng buộc trẻ em Việt Nam học tiếng Trung hay tiếng Hán. Nếu chúng muốn học thì sẽ tạo điều kiện. Về việc làm sao dạy trong trường cấp III hay cấp II thì tôi không nói. Chỉ xin đề nghị rằng không hề có bất cứ lý do tốt nào để bắt buộc một tỷ lệ lớn trẻ em Việt Nam học tiếng Trung/Hán cả.

Nếu không đồng ý với ý kiến của mình thì o.k. Nếu dạy hay là chuyên gia về tiếng Trung/Hán thì xin đừng hiểu ý sai. Nếu đang ăn lương của Học Viện Không Tử hay có âm mưu thì tôi cũng hiểu.

Cũng sẵn sàng thừa nhận quan điểm của mình về vấn đề này là hơi quá … (ngay trong gia đình của tôi có một trong những học giả hàng đầu trên thế giới về vấn đề dạy tiếng Trung mà… )

Chỉ muốn trẻ em Việt Nam lớn lên một cách vui vẻ. Để bay và không bị bắt.

5 Nghịch lý không thể ngược đời hơn của Người Việt.

5 Nghịch lý không thể ngược đời hơn của Người Việt.

  1. Cần nhà hơn là tổ ấm

Người Việt chúng ta với tâm lý “an cư lạc nghiệp” nên luôn muốn sở hữu một căn nhà. Vì vậy, ai cũng phấn đấu kiếm tiền tậu được ngôi nhà mơ ước. Có người vay nợ để mua cho được căn nhà rồi ráng làm lụng kiếm tiền trả dần.

Có nhà rồi, chúng ta vẫn dành phần lớn thời gian ở ngoài đường chứ không phải ở nhà. Chúng ta vẫn tiếp tục ra đường “cày bừa” vất vả ngoài đường để có thể đổi nhà khác to hơn, mua sắm cho nhà nhiều vật dụng tiện nghi hơn. Lẽ nào chúng ta cần một “căn nhà” hơn là một “tổ ấm”?

  1. Đẻ con cho người giúp việc

Vợ chồng ở với nhau chỉ mong có đứa con cho vui cửa vui nhà. Cặp vợ chồng nào chẳng may vô sinh hiếm muộn thì quáng quàng đi bác sĩ Đông Tây đủ thể loại mong kiếm được mụn con. Trông mong vậy nhưng đến khi có con, chúng ta mặc nhiên giao con của mình cho người giúp việc trông nom, chăm sóc.

Việc dạy dỗ con cái cũng khoán luôn cho người giúp việc. Còn chúng ta – những người đã sinh ra những đứa trẻ thiên thần ấy thì mải mê đi làm kiếm tiền. Mỗi ngày gặp con chưa được 1, 2 tiếng đồng hồ. Vậy, chúng ta đẻ con để người giúp việc có được niềm vui nâng niu ẵm bồng chớ đâu phải cho ta?

  1. Người nghèo sang hơn người giàu

Chúng ta ở thành phố, mức sống cao, thu nhập cao nhưng mấy khi chúng ta sắm được cho cha mẹ ở quê những thứ tốt nhất. Hầu hết những gì chúng ta gửi về nông thôn là những thứ đồ cũ chúng ta không xài nữa, đã hư hỏng hoặc không hợp thời.

Ngược lại, những người “nghèo khó” ở nông thôn luôn chọn những thứ tốt nhất gửi lên cho người thành phố. Con gà béo nhất, buồng chuối to nhất, trái mít ngọt nhất… Chẳng phải dân nhà quê “chơi sang” hơn người thành phố sao?

  1. Kiếm tiền mua sức khỏe

Chúng ta muốn kiếm thật nhiều tiền, vì thế chúng ta phải làm việc thật nhiều. Làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm, tuần làm 40 giờ không đủ tranh thủ thêm cuối tuần. Hậu quả là cơ thể không một phút nghỉ ngơi khiến cho mắt mờ chân run, đầu óc mụ mị, lục phủ ngũ tạng rệu rã… phải vào bệnh viện.

Lúc đó, bao nhiêu tiền do làm lụng vất vả mà có lại đưa hết cho thầy thuốc để mua sức khoẻ. Liệu có mua được không?

  1. Thế giới ảo “thực” hơn thế giới thực

Công nghệ càng phát triển, chúng ta càng kết nối được nhiều người, khoảng cách địa lý không còn là vấn đề nữa. Ngồi một chỗ, chúng ta có thể trò chuyện với bạn bè khắp thế giới, kết nối mọi thông tin thông qua cái điện thoại bé xíu cầm trên tay. Nhiều quan hệ quá, nhiều thông tin quá nên chúng ta không còn thời gian cho quan hệ thật, đời sống thật nữa. Bữa cơm gia đình mỗi người bưng một tô ăn với một cái điện thoại.

Gặp gỡ cà phê cũng mỗi người cầm một điện thoại hí hoáy chấm quẹt, thỉnh thoảng ngước lên nhìn nhau gượng gạo cười lấy lệ rồi lại cắm cúi chấm quẹt. Thế giới ảo hấp dẫn hơn thế giới thật mất rồi!

Theo cachsong info

Bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh lễ phong thánh Mẹ Têrêsa

Bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh lễ phong thánh Mẹ Têrêsa

Ngày đăng: 04/09/2016

Dongten.net

VATICAN. Hàng ngàn khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới đã tề tựu về Quảng Trường Thánh Phêrô trong buổi lễ tôn phong hiển thánh cho mẹ Têrêsa Calcutta. Thánh lễ do Đức Thánh Cha Phanxicô chủ tế lúc 10h30 giờ địa phương, tức 15h30 giờ Việt Nam.

Thánh lễ được mở đầu với Ca nhập lễ Năm Thánh Lòng Thương Xót, tiếp đó là lời khẩn cầu của Đức Hồng Y Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, xin Đức Thánh Cha ghi tên mẹ Têrêsa vào Sổ Bộ các thánh. Tiếp đó là Kinh Cầu Các Thánh và nghi thức phong thánh cho mẹ Têrêsa.

Thánh lễ được tiếp tục với Kinh Vinh Danh. Các bài đọc theo lịch phụng vụ của Giáo hội, Chúa Nhật 23 Thường Niên. Bài đọc một trích Sách Khôn Ngoan, bài đọc hai trích Thư của Thánh Phaolo Tông đồ gởi Phi-lê-môn. Sau khi bài Tin Mừng theo thánh Luca, được thầy phó tế công bố bằng hai thứ tiếng, Latinh và Hy lạp; Đức Thánh Cha bắt đầu bài giảng:

“Nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa?” (Kn 9, 13). Lời chất vấn này trong Sách Khôn Ngoan, chúng ta đã nghe ở bài đọc một. Bài đọc một trình bày cuộc sống con người như là một mầu nhiệm và chìa khóa để giải thích mầu nhiệm ấy không thuộc quyền sở hữu của ta. Luôn có hai nhân vật chính trong suốt chiều dài lịch sử: Thiên Chúa và con người. Nhiệm vụ của chúng ta là nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa và thi hành thánh ý của Người. Nhưng để thực thi thánh ý mà không có nghi ngại chần chừ, chúng ta phải tự hỏi chính mình: đâu là ý muốn của Thiên Chúa trong cuộc đời tôi?

Cũng trong Sách Khôn Ngoan, chúng ta tìm thấy câu trả lời: “Con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Ngài” (Câu 18). Để xác tín vào lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta phải tự tra vấn chính mình và biết điều gì làm đẹp lòng Chúa. Rất nhiều lần, các tiên tri đã loan báo những điều đẹp lòng Thiên Chúa. Thông điệp được loan báo ấy là một tổng hợp tuyệt vời được gói trọn trong lời diễn tả sau đây: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Hs 6, 16; Mt 9,13). Thật vậy, mỗi công việc bác ái đều làm vui lòng Thiên Chúa, vì nơi người anh em mà chúng ta giúp đỡ, ta nhận thấy gương mặt của Thiên Chúa, Đấng chưa có ai thấy được bao giờ (Ga 1, 18). Mỗi lần cúi mình xuống trước nhu cầu hay sự cần kíp của anh em là chúng ta đã cho chính Đức Giêsu được ăn, được uống; là chúng ta đã cho mặc, đã giúp đỡ và thăm viếng chính Con Thiên Chúa (Mt 25,40). Tắt một lời, chúng ta đã tiếp chạm vào da thịt của chính Đức Kitô.

Chúng ta được mời gọi để diễn tả ra bằng những hành động cụ thể những gì chúng ta đã nài xin trong cầu nguyện cũng như khi chúng ta tuyên xưng đức tin. Không gì có thể thay thế cho lòng bác ái: ai dấn thân phục vụ tha nhân, ngay cả những người không quen biết, chính là những người được Chúa yêu thương (Ga  3, 16-18; Gc 2, 14-18). Tuy nhiên, đời sống Kitô không đơn giản chỉ là giúp đỡ những ai đang thiếu thốn. Giúp đỡ người khác chắc chắn là một sự diễn tả dễ thương của tình đoàn kết nhân loại, tạo nên ích lợi ngay lập tức. Nhưng nếu chỉ như thế, việc giúp đỡ sẽ trở nên nghèo nàn, khô cằn vì thiếu nền tảng. Thế nên, nhiệm vụ mà Thiên Chúa trao cho chúng ta là một lời mời gọi đến với lòng bác ái. Trong tình bác ái, mỗi môn đệ của Đức Kitô đặt trọn cả đời sống của mình vào việc phục vụ ngõ hầu được triển nở mỗi ngày trong tình yêu mến.

Chúng ta đã nghe Tin Mừng thuật lại: “Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu” (Lc 14, 25). Ngày hôm nay, “đám người rất đông” ấy chính là một số lượng đông đảo các thiện nguyện viên, những người quy tụ nhau nơi đây trong dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót này. Anh chị em chính là đám đông ấy, đang bước theo Vị Thầy Chí Thánh và hiện thực hóa tình yêu cụ thể của Thầy cho mọi người. Tôi muốn nhắc lại với anh chị em những lời của Thánh Phaolô Tông Đồ: “Tôi rất vui mừng và lấy làm an ủi khi thấy đức bác ái của anh, bởi vì anh đã làm cho lòng trí các người trong dân thánh được phấn khởi” (Plm 7). Bao nhiêu tâm hồn đã được các thiện nguyện viên an ủi! Bao nhiêu bàn tay đưa ra đã được họ nắm lấy đỡ nâng; bao nhiêu giọt nước mắt đã được họ lau khô; bao nhiêu tình yêu mến đã được ủ ấp trong những việc phục vụ hết sức thầm lặng, khiêm nhường và vô vị lợi! Việc phục vụ cao cả ấy là tiếng nói của đức tin và là sự diễn tả lòng thương xót Thiên Chúa Cha, Đấng luôn gần gũi những ai đang thiếu thốn.

Bước theo Giêsu là một việc hết sức nghiêm túc và đồng thời cũng rất vui tươi; đòi hỏi chiều sâu và lòng can đảm để nhận thấy Vị Thầy Chí Thánh nơi những người nghèo khổ nhất và bắt tay vào việc phục vụ họ. Chính vì điều này, các thiện nguyện viên sẵn sàng phục vụ những người rốt hết và những ai đang thiếu thốt nhất vì tình yêu của Đức Giêsu. Họ không mong chờ những lời cám ơn hay phần thưởng đáp đền. Họ sẵn sàng từ bỏ tất cả vì họ đã khám phá ra tình yêu đích thực. Giống như Thiên Chúa đã bước đến gặp gặp gỡ tôi, đã cúi xuống bên tôi trong những lúc tôi khó khăn thiếu thốn; thì chính tôi cũng phải bước đến gặp Ngài và cúi xuống bên những ai đang mất niềm tin tưởng hay đang sống như thể Thiên Chúa không tồn tại. Tôi phải cúi xuống bên những bạn trẻ không tìm thấy lý tưởng hay giá trị của cuộc sống; cúi xuống bên những gia đình đang gặp khủng hoảng, bên những người bệnh tật và những ai trong cảnh tù đày; cúi xuống bên những người di cư, tị nạn, bên những ai yếu đuối và không được bảo vệ chở che cả về tinh thần lẫn thể xác; cúi xuống bên những trẻ em bị bỏ rơi, bên những người già bị lãng quên trong cô độc. Khắp mọi nơi đều có những bàn tay chìa ra kêu xin sự giúp đỡ để họ được đứng thẳng trên đôi chân của mình. Chính vì thế, sự hiện hữu của chúng ta và sự hiện hữu của Giáo hội phải là sự hiện hữu để duy trì và trao ban niềm hy vọng cho mọi người. Và điều này gợi nhớ lại cách sống động chính bàn tay đỡ nâng của Thiên Chúa trên cuộc đời tôi khi tôi té ngã.

Mẹ Têrêsa, trong suốt cuộc đời, đã là thừa tác viên phân phát quảng đại lòng thương xót của Thiên Chúa. Mẹ luôn sẵn sàng với tất cả mọi người ngang qua việc đón tiếp và bảo vệ sự sống con người, từ những trẻ em không được sinh ra tới những người bị bỏ rơi và loại trừ. Mẹ đã dấn thân trong việc bảo vệ sự sống và không ngừng tuyên bố rằng “những trẻ em chưa được sinh ra chính là những người yếu ớt, mong manh nhất, nhỏ bé nhất và nghèo túng nhất”. Mẹ đã cúi xuống bên những người kiệt sức, bị bỏ mặc chết bên vệ đường. Mẹ nhận ra phẩm giá cao quý mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ. Mẹ tha thiết nói với những người cầm quyền trên thế giới để họ có thể nhận ra tội lỗi của mình trước những tội ác của nghèo đói do chính họ gây ra. Đối với mẹ, lòng thương xót là “muối” khiến cho mỗi việc mẹ làm thêm đậm đà hương vị, và là “ánh sáng” chiếu soi những nơi tối tăm trong cuộc đời của những ai không còn nước mắt nữa mà khóc thương cho sự nghèo nàn và đau khổ.

Sứ mạng của mẹ là ở những vùng ngoại biên của các thành phố và điều ấy vẫn tồn tại trong thời đại chúng ta hôm nay như một chứng tích hùng hồn về sự gần gũi của Thiên Chúa đối với những ai nghèo khổ nhất. Hôm nay tôi gửi gắm hình ảnh đầy biểu trưng này về người phụ nữ và về đời sống hánh hiến cho toàn thể những thiện nguyện viên trên khắp thế giới: Mẹ là gương mẫu của anh chị em về sự thánh thiện! Tôi nghĩ rằng có lẽ chúng ta cảm thấy không quen khi gọi mẹ là thánh Têrêsa. Bởi vì, sự thánh thiện của mẹ quá gần gũi với chúng ta nên chúng ta vẫn muốn gọi mẹ là mẹ Têrêsa hơn.

Người lao công không biết mệt mỏi này của lòng thương xót giúp chúng ta ngày càng hiểu hơn rằng tiêu chuẩn hành động duy nhất đó là tình yêu nhưng không, thoát khỏi mọi ý thức hệ và mọi ràng buộc. Tình yêu ấy được thông truyền đến tất cả mọi người mà không hề có sự phân biệt nào về ngôn ngữ, văn hóa, chủng tộc hay tôn giáo. Mẹ Têrêsa thích nói rằng: “Có lẽ tôi không nói ngôn ngữ của họ, nhưng tôi có thể cười.” Chúng ta hãy ôm ấp vào trái tim nụ cười của mẹ và chúng ta hãy trao nụ cười ấy cho tất cả những ai chúng ta gặp gỡ trong suốt hành trình đời ta, đặc biệt là những người đang sầu khổ. Bằng cách đó, chúng ta sẽ mở rộng chân trời của niềm vui và hy vọng cho tất cả những ai đang chán nản, đang cần sự thấu hiểu và cảm thông.”

Chuyển dịch từ Ý ngữ: Vũ Đức Anh Phương SJ

Vượt Qua Bế Tắc Trong Cuộc Sống

Vượt Qua Bế Tắc Trong Cuộc Sống

Dongten.net

DEP DOI

Cuộc sống không phải là con đường bằng phẳng, không phải lúc nào cũng như ta mong đợi. Cuộc sống luôn có những gập ghềnh, gấp khúc, đó là một hành trình đầy chông gai, thử thách…

Cuộc sống luôn công bằng, chẳng cho ai tất cả cũng chẳng lấy hết của ai thứ gì… Cuộc sống là vô vàn những điều biến động, đôi lúc gặp những trở ngại khiến ta buồn chán, tuyệt vọng, rơi vào trạng thái bế tắc, có lúc tưởng không còn tìm ra được cách giải quyết, muốn buông xuôi tất cả…

Có ai sống cả đời suôn sẻ mà chưa từng một lần cảm thấy bế tắc? Chuyện gì rồi cũng có cách giả quyết của riêng nó.

“Hãy biến nghịch cảnh thành cơ hội giúp bạn đạt được những điều tốt đẹp hơn” (Willie Jolley).

VUOT QUA

Khi gặp bế tắc, bạn hãy học cách vượt qua vì không ai sống thay cho cuộc đời của chính bạn cả mà bạn phải thực sự sống cuộc đời của mình. Vượt qua được bế tắc, thử thách đồng nghĩa với việc bạn chiến thắng chính bản thân mình, thấy mình trưởng thành hơn. Bạn sẽ thấy những bế tắc chẳng có gì đáng sợ chỉ cần bạn biết cách vượt qua.

Hãy vẽ bức tranh cuộc đời bạn bằng sắc màu tươi sáng thay cho bức tranh ảm đạm, u tối mà bạn đang gặp phải, đang gánh chịu vì thế giới này vẫn thật đẹp, nỗi buồn phiền rồi sẽ bay đi thôi.

Ba cách đơn giản dưới đây sẽ giúp bạn từng bước vượt qua bế tắc gặp phải trong cuộc sống, hãy cùng nghiền ngẫm, bạn sẽ thấy thật thú vị, hữu ích.

  1. Học cách bình tĩnh

Mọi việc đều có cách giải quyết, vấn đề là bạn phải sáng suốt, phải thật bình tĩnh để suy xét, nhìn nhận lại vấn đề, nguyên nhân xuất phát từ đâu. Chuyện đã xảy ra rồi, có nôn nóng, hoảng loạn cũng không giải quyết được, vì vậy hãy pha cho mình một cốc nước, chậm rãi suy nghĩ, bình tâm xem mình sai ở chỗ nào, tại sao lại xảy ra chuyện này chứ đừng ngồi đó chỉ trích hay “than thân trách phận”. Việc bình tĩnh sẽ giúp bạn đưa bản thân về trạng thái cân bằng, từ đó bạn có thể tự mình tháo gỡ từng nút thắc trong vấn đề đang gặp phải, bạn sẽ thấy sự việc “không quá khó khăn như mình nghĩ”.

  1. Loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực và nghĩ tới những điều tốt đẹp

Rơi vào bế tắc, bạn phải có nghị lực vươn lên bởi đây không phải là lúc để bạn chùn bước hay rơi vào vòng luẩn quẩn mà không biết phải làm gì. Hãy nhớ rằng “thất bại là mẹ thành công”. Cuộc sống luôn chuyển động vì thế đừng từ bỏ, buông xuôi, hãy lập cho mình một kế hoạch, đặt ra mục tiêu cần phải làm gì ở bước kế tiếp. Cuốn vào công việc, xóa những suy nghĩ tiêu cực và luôn nghĩ về những điều tốt lành sắp đến, bạn sẽ thấy cuộc sống dễ thở hơn nhiều.

  1. Học cách mỉm cười mỗi ngày

Dẫu cuộc sống của bạn đang có quá nhiều thứ để lo toan, dẫu đôi vai đang oằn nặng vì nhiều thứ thì cũng nên mỉm cười để đứng vững. “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”, cười để có động lực, có niềm tin để vượt qua, cười để biết rằng cuộc đời này vẫn còn nhiều điều để ta yêu, ta quý. Những lúc bế tắc chỉ cần bạn mỉm cười, vững tin vượt qua, bế tắc sẽ không là vấn đề quá quan trọng nữa.

Cần có cái nhìn lạc quan hơn để vượt qua bế tắc, bước tiếp, bạn nhé!

nghethuatsong.org

Ngày Độc lập, dân Việt vẫn mơ độc lập

Ngày Độc lập, dân Việt vẫn mơ độc lập

VOA

Trà Mi

3-9-2016

Lễ diễu binh, diễu hành mừng 70 năm Cách mạng Tháng 8 và Quốc khánh 2/9 ở Hà Nội, 2/9/2015. Ảnh: AP

Việt Nam hôm nay kỷ niệm 71 năm Ngày Quốc khánh, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Truyền thông nhà nước đăng bài viết của Chủ tịch nước Trần Đại Quang nhân Lễ Độc lập năm nay kêu gọi phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước yêu cầu mới.

Ông Quang nói sức mạnh của đảng nằm ở mối quan hệ gắn bó với nhân dân. Ông thúc giục “mọi chủ trương, đường lối, chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước phải hợp với lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của người dân” và, vẫn theo lời ông, phải “đi vào cuộc sống.”

Phát biểu được đưa ra trong lúc ngày càng xuất hiện nhiều chỉ trích và kêu gọi nhà cầm quyền lắng nghe tiếng nói và nguyện vọng của người dân để thực hiện những cải cách sâu rộng, cụ thể về nhiều mặt từ kinh tế, chính trị, đến đời sống xã hội và chính sách bảo vệ chủ quyền giữa những vấn nạn về tham nhũng, tai tiếng về nhân quyền của Việt Nam và mối đe dọa từ Trung Quốc.

Anh Nguyễn Đình Hà, một nhà hoạt động trẻ tại Hà Nội, chia sẻ cảm xúc nhân ngày Quốc khánh năm nay:

“Trong tiêu đề của Việt Nam rằng ‘Độc lập-Tự do-Hạnh phúc’, cả ba điều đó tại Việt Nam hiện nay gần như không đạt được điều nào cả. Quyền tự do của công dân thì bị xâm phạm. Độc lập của đất nước thì không thật sự toàn vẹn vì lãnh thổ bị xâm chiếm, kinh tế bị lệ thuộc nước ngoài. Còn về hạnh phúc thì đời sống người dân cơ cực-đau khổ, đặc biệt là người dân ở các tỉnh miền Trung hiện nay do thảm họa môi trường. Đời sống dân hết sức khó khăn mà chính quyền không có sự quan tâm đúng mức, cần thiết.”

Từ Sài Gòn, nhà thơ Đỗ Trung Quân, một trí thức trong giới văn nghệ sĩ được nhiều người biết đến, nói Lễ Độc lập đối với phần lớn dân chúng nhìn chung chỉ là một ngày nghỉ, không mấy ai háo hức chờ đón trong ý nghĩa thiêng liêng của nó:

“Đối với tôi, ngày hôm nay như là một ngày bình thường. Chính quyền vẫn làm những buổi kỷ niệm tưng bừng. Còn người dân đa phần coi đây là một ngày được nghỉ để đi du lịch, thư giãn, giải trí. Trong tình hình đất nước như thế này, với bao nhiêu biến cố từ biển đảo cho đến vấn đề Formosa thì tinh thần người dân bị tổn thương, cuộc sống của họ bị ảnh hưởng. Lễ lạc phải đi kèm với một cuộc sống sung túc thì người ta mới đón nhận được. Còn bây giờ, trong hoàn cảnh này, người dân Hà Tĩnh vẫn xuống đường và họ vẫn bị đàn áp. Như thế, rất khó có một tâm trạng ‘vui chung’. Các vấn nạn xảy ra cho xã hội như thế, người dân không hoàn toàn tập trung vào lễ lạc được.”

Trong cảm xúc chia sẻ trên Facebook, anh Paulus Lê Sơn, một nhà hoạt động trẻ ở Nghệ An, viết rằng:

“Độc lập ơi độc lập,
Sao tên người cứ mãi xa xôi
Dân nước Nam bao giờ mới thấy
Dân chủ tự do như mấy anh Tây.”

Và anh kết thúc bài viết của mình với dòng thơ: “Ngày độc lập sao ta vẫn mơ độc lập?”

Nhà thơ Đỗ Trung Quân chia sẻ với hoài bão này:

“Đó không phải là tâm trạng của một tác giả đâu. Tôi cũng mơ như thế đấy. Tôi mơ một cái độc lập thật sự, chúng ta có một chủ quyền thật sự. Chiến tranh đã quá lâu rồi, lệ thuộc quá nhiều rồi.”

Người bạn trẻ tên Hà ở Hà Nội tiếp lời:

“Em mong muốn trong tương lai, đất nước mình được thật sự dân chủ, phát triển; người dân được thật sự độc lập, tự do, hạnh phúc, chứ không chỉ là những khẩu hiệu. Mọi mặt ở đây đều gắn liền với vấn đề chính trị. Phải dựa trên cải cách về chính trị. Chính quyền phải tôn trọng quyền tự do-dân chủ của người dân. Nền kinh tế phải được là kinh tế thị trường không có sự định hướng xã hội chủ nghĩa gì cả vì hiện nay nền kinh tế Việt Nam bị rối loạn bởi sự định hướng rất sai trái và quản lý không hiệu quả. Về mặt xã hội thì bị băng hoại bởi thực trạng giáo dục. Đạo bây giờ còn bị suy thoái. Em mong muốn những khẩu hiệu [độc lập-tự do-hạnh phúc] đó phải được thực hiện dựa trên những cải cách kinh tế, chính trị, xã hội.”

Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945 nhấn mạnh đến một nước Việt Nam “độc lập-tự do-hạnh phúc”, sáu chữ vàng mở đầu các văn bản hành chánh chính thống và là tôn chỉ trong các khẩu hiệu tuyên truyền của đảng Cộng sản cầm quyền.

Sở Thái Bình không khuyến khích nông dân tự sản xuất điện, Nhật Bản nhanh tay hốt ngay hàng nóng!

Sở Thái Bình không khuyến khích nông dân tự sản xuất điện, Nhật Bản nhanh tay hốt ngay hàng nóng!

Chủ nhân chiếc lò đốt triệt để rác thải và tạo ra điện năng cho biết đã dỡ bỏ chiếc lò chỉ vì bị Sở KHCN Thái Bình cấm chế tạo.Ngay lập tức, các chuyên gia Nhật Bản đánh hơi được mùicông nghệ và nhảy vào đề nghị hợp tác. Chuyên gia Nhật cho biết nếu ông Bùi Khắc Kiên không được khuyến khích sáng chế tại Việt Nam, họ sẵn sàng mời ông sang Nhật Bản làm việc.
Bảo làm sao công nghệ của Việt Nam cứ mãi ì ạch.

Sở Thái Bình không khuyến khích nông dân tự sản xuất điện, Nhật Bản nhanh tay hốt ngay hàng nóng!

Sở Thái Bình không khuyến khích nông dân tự sản xuất điện, Nhật Bản nhanh tay hốt ngay hàng nóng!

 

Với sáng chế lò đốt có khả năng đốt triệt để rác thải ở nhiệt độ cao và dùng nhiệt năng để phát điện, đã có công ty của Nhật quan tâm.’ name=’description

Khi được hỏi về cách làm khoa học của người Nhật Bản, ông Nakayama cho biết: “Tại Nhật Bản, không chỉ có các chương trình hỗ trợ các nhà khoa học nghiên cứu mà có rất nhiều chương trình, cuộc thi nhằm khuyến khích sự sáng tạo của nhân dân. Mỗi sáng chế của người dân đều được một hội đồng có trách nhiệm thẩm tra tính ứng dụng và tạo điều kiện tốt nhất để họ tiếp tục phát huy sáng tạo của mình.”

Có thể thấy rằng, để có một nền khoa học phát triển như hiện nay, người Nhật Bản đã có cách làm rất khác với Việt Nam. Bởi để giúp được ông Bùi Khắc Kiên đi đăng ký bản quyền, đoàn công tác của Bộ Khoa học Công nghệ cũng phải năm lần bảy lượt tới địa phương để tìm hiểu, trong khi Sở KHCN Thái Bình đã nhanh chóng cấm đoán người dân sáng chế mà không tìm hiểu cái hay, cái dở của họ, tính ứng dụng ra sao.
Khi được hỏi về cách làm khoa học của người Nhật Bản, ông Nakayama cho biết: “Tại Nhật Bản, không chỉ có các chương trình hỗ trợ các nhà khoa học nghiên cứu mà có rất nhiều chương trình, cuộc thi nhằm khuyến khích sự sáng tạo của nhân dân. Mỗi sáng chế của người dân đều được một hội đồng có trách nhiệm thẩm tra tính ứng dụng và tạo điều kiện tốt nhất để họ tiếp tục phát huy sáng tạo của mình.”

Xem thêm: 

Thảm cảnh lò đốt rác phát điện: Người Nhật thấy “ngọc”

Căn phòng nơi Mẹ Tê-rê-sa qua đời

Căn phòng nơi Mẹ Tê-rê-sa qua đời

Dongten.net

httpv://www.youtube.com/watch?v=He5h–gc6DU

Tại trung tâm thành phố Calcutta nhộn nhịp, người ta thấy một ngôi nhà màu xám tao nhã “Mother House” (Nhà Mẹ). Đó là nơi Mẹ Tê-rê-sa Calcutta đã gieo trồng những hạt mầm cho Dòng Thừa Sai Bác Ái vào tháng 2 năm 1953.

Nơi đây, Mẹ Tê-rê-sa đã sống, đã cầu nguyện và làm việc cho đến khi nhắm mắt xuôi tay vào năm 1997. Cũng nơi này, thân thể mẹ được đặt trong một ngôi mộ rộng lớn nhưng kín đáo. Ngày nay, mỗi năm có tới hàng triệu tín hữu tới đây thăm viếng.

Căn phòng nhỏ của Mẹ Tê-rê-sa cách đó khoảng chừng một bước chân với vài vật dụng của mẹ bên trong căn phòng.

Chính tại nơi ở khiêm nhường này và trên chiếc giường này, Mẹ Tê-rê-sa đã qua đời lúc 21:30 ngày 5 tháng 9 năm 1997.

Các chị em có mặt bên giường mẹ lúc đó nói rằng trong những khoảnh khắc cuối đời, mẹ nhìn chăm chú vào thánh giá và vòng mạo gai đặt bên cạnh bức hình khuôn mặt Thánh của Đức Giê-su.

SƠ NATHALIE

Người chăm sóc trẻ em tại Nirmala Shishu Bhavan, Calcutta

Đối với tôi, đó là một nơi đầy cảm hứng, nơi đó tôi thấy được sự hiện diện và sự thánh thiện của Mẹ Tê-rê-sa. Một điều tôi kinh nghiệm được là, ngay cả lúc sáng sớm, Mẹ có mặt ở nhà nguyện trước chúng tôi. Mẹ ở đó trước khi giờ cầu nguyện buổi sáng bắt đầu.”

“Nirmal Hriday,” nghĩa là Ngôi Nhà Trái tim Tinh tuyền, là nhà tế bần dành cho những người bệnh tật, nghèo túng và những người trong cơn nguy tử. Đó cũng là ngôi nhà đầu tiên Mẹ Tê-rê-sa thành lập vào năm 1952. Ngày nay, ngôi nhà ấy cưu mang hơn 100 người mắc bệnh nan y.

SUNITA KUMARI

Người phát ngôn của hội Bà mẹ từ thiện

Mẹ Tê-rê-sa nói: ‘Sunita, sao con không ghé thăm ngôi nhà dành cho những người đang trong cơn hấp hối?’ Tôi trả lời mẹ: ‘Con không nghĩ rằng mình có đủ can đảm và con cũng không dám gặp mặt họ.’ Mẹ nói với tôi: ‘Không, mẹ sẽ đích thân đưa con đi.’ Sau đó, mẹ đưa tôi đi và trên đường tới đó, mẹ chuẩn bị tâm lý cho tôi. Mẹ nói: ‘Nếu con bước vào đó với một nụ cười, con sẽ thấy mọi người cũng mỉm cười với con.’ Và đó là những gì đã xảy ra.”

Dù được đón nhận trên toàn thế giới, nhưng Mẹ Tê-rê-sa đã phải đối diện với nhiều thách đố khi bắt đầu sứ mạng của mình.

ĐỨC HỒNG Y OSWALD GRACIAS

Tổng Giám mục Bombay (Ấn Độ)

Mẹ giữ vững quan điểm theo cách đơn giản của mình và mẹ nói: Thưa Đức Tổng, con không được học về kinh tế và tài chính. Những gì con biết chính là cuốn Kinh Thánh và trong Kinh Thánh, Đức Giê-su nói rằng Cha trên trời lo cho cả những con chim, đếm từng sợi tóc trên đầu của bạn. Vì thế, con chắc chắn rằng Cha trên trời cũng sẽ lo lắng cho những người nghèo của con. Dựa trên nền tảng ấy, con tiến lên thực thi sứ mạng và mọi sự đều tốt đẹp, không có khó khăn gì.”

Năm 1955, mẹ thành lập “Nirmala Sishu Bhavan,” tức là Ngôi nhà Trẻ em. Ngôi nhà này dành cho những trẻ em đường phố bị bỏ rơi, cách ‘Mother House’ (Nhà Mẹ) khoảng 500 mét.  Được đánh động bởi kinh nghiệm thiện nguyện, Sơ Joan of Arc đã gia nhập dòng của Mẹ Tê-rê-sa và hiện đang chăm sóc những trẻ em mắc bệnh nan y.

SƠ JOAN OF ARC

Nirmala Shishu Bhavan, Calcutta

Lúc đó, mẹ đã già và chúng tôi không chắc mẹ sẽ sống được bao lâu nữa, nhưng mẹ không bao giờ tính toán sự hy sinh. Mẹ luôn có khuynh hướng quảng đại với người khác.”

Với nhiều người ở Ấn Độ, “Maa” của họ, nghĩa là “Mẹ” theo tiếng Hindi, đã luôn là một vị thánh. Và bây giờ, vị Thánh của Những Người Bần Cùng chính thức được Giáo Hội tuyên phong. Người ta không thể không nhớ lại lời của Mẹ Tê-rê-sa khi mẹ nói, “Tôi sẽ dâng hiến cho Giáo Hội các vị thánh.”

Chuyển ngữ: Quang Khanh, S.J

Nguồn: Rome Reports 03-09-2016

Bệnh Minamata

Bệnh Minamata

BINH MINAMATA

 

 

 

 

 

 

 

Bệnh Minamata – Wikipedia tiếng Việt

Minamata disease – Wikipedia, the free encyclopedia

Vịnh Minamata, xinh đẹp thuộc tỉnh Kumamoto (Nhật Bản), nơi xảy ra thảm họa môi trường Minamata -30KM- vào năm 1950; do nhiễm hóa chất từ Công ty Chisso thải ra, chưa bằng 50% so sánh với FORMOSA,- 128KM.-

Người NHẬT tận lực ngay lập tức vét đáy biển? làm trong sạch môi trường. Tai sao vét đáy biển?

Vì rằng, mỗi khi có sóng ngầm, lớp trầm tích độc hại đang lắng đọng, nằm yên dưới đáy sẽ trỗi dậy, cuộn lên trên bề mặt mà khi “trời trong, biển lặng”, chúng ta cứ tưởng là biển sạch.

Lúc bấy giờ, với sự lao động miệt mài, chăm chỉ & đầy ý chí, họ đã MẤT 23 NĂM ĐỂ ĐÁNH BẮT, TIÊU HỦY HẾT SỐ CÁ ĐÃ NHIỄM ĐỘC, ĐỒNG THỜI MẤT 14 NĂM RÒNG RÃ ĐỂ NẠO VÉT, XỬ LÝ SỐ BÙN NHIỄM ĐỘC dưới lòng vịnh Minamata với kinh phí lên tới 48,5 tỉ yên. Họ đã dùng tàu hút trầm tích đáy biển, lấy chất độc xyanua & phenol ra khỏi biển.

Thế nhưng, ngày ấy, với sự thận trọng trong cách xử lý chất độc, đất nước Nhật đã không ngăn cản được bệnh Minamata, một căn bệnh khủng khiếp nhất của mọi thời đại.

Máu của những người tắm biển, ăn cá & các sinh vật vỏ cứng từ vịnh Minamata đã bị nhiễm xyanua & phenol nhưng họ không hề hay biết.

Và một thời gian không lâu, người dân của thành phố Minamata thơ mộng, xinh đẹp thuộc tỉnh Kumamoto (Nhật Bản) bỗng phát bệnh, tay, chân bị liệt, run lẩy bẩy, tai điếc, mắt mờ, nói lắp bắp, rú lên đau đớn vì co thắt. Những đứa trẻ sơ sinh bắt đầu bị liệt não, điếc, mù, đầu nhỏ, sống thoi thóp trong què quặt & dị dạng.

Thảm họa biển nhiễm độc tại vịnh Minamata đã đi vào lịch sử như một vết hằn đau đớn & khủng khiếp nhất của nhân loại.

MINAMATA 4

MINAMATA 2

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

MINAMATA 3

MINAMATA 1

THIÊN SỨ CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

THIÊN SỨ CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

 TRẦM THIÊN THU

Chúa Nhật 4.9.2016, Giáo Hội Công Giáo hân hoan kính chào một vị Thánh mới: Mẹ Têrêsa Calcutta (thành phố Kolkata, Ấn Độ, 1910-1997).  Mẹ Têrêsa được mệnh danh là “Thiên Sứ của Thiên Chúa.”  Cả cuộc đời Mẹ đấu tranh cho giá trị nhân phẩm của những con người nghèo khổ nhất, đã nêu gương luân lý làm cầu nối các khoảng cách về văn hóa, giai cấp và tôn giáo.  Một con người có vóc dáng nhỏ bé nhưng lại có trái tim “cực đại” và đầy lòng nhân ái.  Bà nói: “Ngay cả những người giàu cũng khao khát tình yêu, muốn được quan tâm, muốn có ai đó thuộc về mình.”

Cha mẹ của bà là người Albani.  Bà sinh ngày 26.8.1910 tại Shkup (nay là Skopje), thuộc Cộng hòa Nam Tư (Macedonia), trước đó là Yugoslavia, với tên “cúng cơm” là Agnes Gonxha Bojaxhiu. Bà là con út trong 3 người con.

Lúc bà 7 tuổi, cha của bà bị giết, nên bà quan tâm chính trị.  Tuổi thiếu niên, bà là thành viên của nhóm bạn trẻ trong Giáo Xứ, gọi là nhóm Tương Tế Tôn Giáo (Sodality), dưới sự hướng dẫn của một linh mục Dòng Tên, bà cảm thấy quan tâm việc truyền giáo.  Lúc 17 tuổi, bà gia nhập Dòng Nữ tử Loreto ở Ireland, một dòng chuyên về giáo dục, rồi bà được gởi tới Bengal năm 1929 để vào Nhà Tập.  Bà chỉ lõm bõm tiếng Anh nhưng vẫn khấn lần đầu, với tên dòng là Têrêsa (chọn theo tên của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu).

Đến năm 1950, Nữ Tu Têrêsa lập Dòng Truyền Giáo Bác Ái (Dòng Thừa Sai Bá Ái,  Missionaries of Charity).  Bà nhận Giải Nobel Hòa bình năm 1979 và nhận Giải Bharat Ratna ( भारत रत्न, nghĩa là “Viên Ngọc Ấn Độ”, giải thưởng cao nhất của Ấn Độ dành cho người dân) năm 1980.  Trước đó, năm 1962, bà đã được chính phủ Ấn trao giải Padma Shri.  Trong những thập niên kế tiếp bà được trao tặng các giải thưởng lớn như Giải Jawaharlal Nehru về Hiểu Biết Quốc Tế năm 1972.

Trong thời kỳ Ấn Độ bị người Anh đô hộ (British Raj), trường Loreto nhận rất ít người Ấn, đa số là người Hindu Bengal, con gái các gia đình có thế lực ở Calcutta, nhưng đa số giáo viên vẫn là các nữ tu gốc Ai-len.  Nữ tu Têrêsa không thuộc Dòng Nữ tử Loreto nữa nhưng thỉnh thoảng bà vẫn về thăm.  Bà dạy ở các trường nữ khác trong 3 năm trước khi (như bà nói) “theo Chúa đến với người nghèo khổ.” Theo các nữ sinh nói, sự gián đoạn đó không hoàn toàn thân thiện, ít là phần các Nữ Tu Dòng Loreto.

THANH TERESA

Hình ảnh Nữ Tu Têrêsa nhỏ bé, với tấm khăn choàng Sari (trang phục của phụ nữ Ấn) xõa xuống vai và lưng, bước đi trên đường đá đỏ, trông thật giản dị và khiêm nhường.  Bà luôn có một hoặc hai Nữ Tu choàng sari đi theo.  Bà là con người kỳ lạ của thế kỷ 20.  Có thể bà “khác người” vì chúng ta không thấy Nữ Tu nào choàng sari như vậy.  Nhưng đó là thói quen của Nữ Tu Têrêsa vùng Calcutta, bà “quên” mình là người Albani để hòa nhập và hoàn toàn nên giống các phụ nữ Ấn.

Chính phủ đã “ầm ĩ” chống truyền giáo nhưng chưa bao giờ làm khó các Nữ Tu truyền giáo.

Đầu thập niên 1950, các học sinh không có đạo ở Nhà Loreto đã nghi ngờ ý định của Mẹ Têrêsa trong việc giúp đỡ các trẻ em đường phố hoặc trẻ mồ côi.  Bà đang cứu vớt chúng để “dụ” đưa chúng vào đạo Công Giáo?  Cứ hai tuần một lần, Mẹ Têrêsa nói chuyện để vận động phụ nữ không phá thai và bảo vệ sự sống.

Dự định của Mẹ Têrêsa là chăm sóc những người bệnh ở thời kỳ cuối, những người đến Đền Kalighat để được chết gần “thánh địa.”  Mẹ Têrêsa không mong kéo dài sự sống cho họ, nhưng buồn về tình trạng nhơ uế và cô độc của họ trong thời gian cuối đời.  Mẹ Têrêsa quan ngại về tỷ lệ tử vong và ám ảnh về cách chết của họ, ngược với quan niệm của người Hindu về sự tái sinh và sự chết là được giải thoát khỏi maya.

Mẹ Têrêsa lập một trại phong (Leprosarium) ở ngoại ô Calcutta, trên khu đất do chính phủ cấp.  Bà là người lý tưởng hóa hơn là người lập dị.  Người phong cùi bị coi thường không chỉ ở Calcutta mà ở khắp Ấn Độ, đến vài xu lẻ cũng không ai muốn bố thí cho họ.  Ai cũng sợ bị lây nhiễm.  Từ đó, người ta cũng có ánh mắt không thiện cảm với Mẹ Têrêsa.

Từ năm 1970, Mẹ Têrêsa trở nên một nhân vật nổi tiếng thế giới với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong hoàn cảnh tuyệt vọng, một phần cũng nhờ cuốn sách và bộ phim tư liệu tựa đề “Something Beautiful for God” ( Điều Tốt Đẹp Dành Cho Chúa ) của Malcome Muggeridge.

Bà không chỉ là người loan báo Tin Mừng, mà còn là một “lương y” tận tình chăm sóc người phong cùi.  Cách dấn thân của bà đã thay đổi người dân Calcutta, chính các Nữ Tu Dòng Loreto cũng trở lại tìm bà.

Dân Calcutta rất quý mến Mẹ Têrêsa.  Các chị em học ở trường nữ Loreto hồi thập niên 1970 đều trở nên các bà vợ tốt, có địa vị trong xã hội và tình nguyện hoạt động xã hội theo ý định của Mẹ Têrêsa, nhất là vì trại phong.  Những năm sau, Mẹ Têrêsa rất tin tưởng những phụ nữ tốt nghiệp trường Loreto.

Số phận những người vận động luân lý dễ bị tổn thương vì các thay đổi của thói đạo đức giả hoặc tùy tiện của các chiến dịch.  Những kẻ gièm pha đã kết tội Mẹ Têrêsa là phóng đại cảnh nghèo khổ của dân Calcutta.  Mẹ Têrêsa luôn phải phải đấu tranh, dù vẫn bị người ta chỉ trích nhưng hoạt động của bà không suy giảm.  Thậm chí bà còn thành công và cảm hóa chính những người đã nghi ngờ hoặc những người ghen ghét bà.  Chính Mẹ Têrêsa đã thay đổi nhiều trái tim, đó là phép lạ thực sự vĩ đại.

Mẹ Têrêsa nói: “Ở Tây phương có sự cô đơn, điều mà tôi gọi là bệnh-phong-của-Tây-phương.  Bằng nhiều cách, nó còn tệ hơn người nghèo của chúng tôi tại Calcutta.  Tôi không bao giờ từ chối một đứa trẻ nào, không bao giờ, dù chỉ một.”

Năm 1950, cũng là năm Mẹ Têrêsa lập Dòng Truyền Giáo Bác Ái, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã phê chuẩn Dòng này.  Cuối thập niên 80, Mẹ Têrêsa cũng đã từng có những lần sang thăm Việt Nam, một số Giáo Xứ ở Sàigòn như Thanh Đa, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Kỳ Đồng, Mai Khôi Tú Xương… đã được vinh dự đón tiếp Mẹ hoặc đến hiệp dâng Thánh Lễ giữa cộng đoàn.

Vì tuổi cao sức yếu, Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5.9.1997, sau hơn nửa thế kỷ phục vụ những người cùng đinh trong xã hội trong Đức Ái của Chúa Giêsu.

Mẹ Têrêsa được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong Chân Phước ngày 19.10.2003.

Mẹ Têrêsa là nhân chứng sống động của Lòng Chúa Thương Xót. Thật tuyệt vời và phấn khởi, nhưng cũng thực sự mắc cỡ, khi nhớ lại lời nhận xét của Mẹ: “Người nghèo KHÔNG CẦN chúng ta THƯƠNG HẠI, họ cần TÌNH YÊU và CẢM THÔNG.  Họ cho chúng ta nhiều hơn chúng ta cho họ.  Trong thời gian khó khăn của Ấn Độ, chúng tôi xin một số người tình nguyện từ khắp nơi đến giúp. Nhiều ngàn người đã đến, và khi họ ra về, họ có chung nhận xét là họ đã đem về nhiều hơn là đem cho.  Có một lần ờ Calcutta, chúng tôi nhặt được năm người đang hấp hối, trong đó có một người phụ nữ bệnh quá nặng.  Tôi muốn ngồi với chị trong giờ phút cuối cùng.  Tôi đặt tay tôi lên tay chị.  Chợt chị tỉnh ra, nhìn tôi, không than đói, không than khát, nhưng cười và nói lời cảm ơn trước khi nhắm mắt từ giã cuộc đời”.

Lạy Mẹ Têrêsa, xin ban cho chúng con trái tim nhân hậu như Mẹ để chúng con yêu thương mọi người, nhất là những người nghèo khổ, những người bị ruồng bỏ, những người bị ngược đãi, … Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ giàu lòng thương xót của chúng con. Amen.

 TRẦM THIÊN THU

VN đứng áp chót trong bảng xếp hạng ‘chỉ số tử tế’

VN đứng áp chót trong bảng xếp hạng ‘chỉ số tử tế’

(Sự kiện) – Việt Nam xếp thứ 124 trên tổng số 125 quốc gia được điều tra, chỉ sau mỗi Libya – đất nước bất ổn ở Trung Đông.

Bảng xếp hạng “Chỉ số tử tế quốc gia” của nhà cố vấn chính sách độc lập Simon Anholt vừa được công bố ngày 24/6. Bảng xếp hạng “Chỉ số tử tế” toàn cầu được công bố nhằm đánh giá mức độ đóng góp của các nước cho thế giới. Theo bảng này, Việt Nam xếp thứ 124 trên tổng số 125 quốc gia được điều tra.

Theo tờ The Economist, bảng xếp hạng “Good Country Index” (tạm dịch: Chỉ số quốc gia tử tế) được dựa trên khoảng 35 bộ dữ liệu, chia thành 7 lĩnh vực: Đóng góp về khoa học công nghệ, đóng góp về văn hóa, đóng góp vào hòa bình và an ninh thế giới, trật tự thế giới, bảo vệ môi trường hành tinh, đóng góp vào sự phồn vinh và bình đẳng của thế giới, đóng góp về y tế sức khỏe.

 ybia - nước đang trong cuộc nội chiến kéo dài hơn 3 năm qua - bị đánh giá là có
Lybia – nước đang trong cuộc nội chiến kéo dài hơn 3 năm qua – bị đánh giá là có “chỉ số tử tế” thấp nhất trong tổng 125 quốc gia được xếp hang.

Mức độ đóng góp này được tính trên nền mức độ giàu nghèo của các nước theo tỷ lệ thu nhập quốc dân, nhằm tránh khỏi sự phân biệt giàu nghèo giữa nước lớn và nước bé.(Tức là nước nghèo có đóng ít hơn cũng có thể được tính ngang bằng nước giàu mà đóng góp nhiều hơn).

Theo bảng xếp hạng công bố, Ireland được coi là quốc gia “tử tế” nhất hành tinh, xếp ở vị trí thứ nhất, tiếp sau đó là Phần Lan, Thụy Sĩ, Hà Lan và New Zealand. Mỹ, quốc gia được coi là cường quốc số một thế giới chỉ được xếp ở vị trí 21 trong bảng này.

Ở cuối bảng xếp hạng, Việt Nam đứng thứ 124/125 quốc gia được điều tra, chỉ sau mỗi Libya – đất nước bất ổn ở Trung Đông.

Cụ thể, về khoa học công nghệ, Việt Nam đứng thứ 89/125, với tỷ lệ đóng góp tương đối là âm, trong đó bằng sáng chế có tỷ lệ đóng góp gần như bằng không.

Về mặt văn hóa, Việt Nam đứng thứ 76/125, được đánh giá khá tốt về mặt xuất khẩu đồ sáng tạo nghệ thuật.

Ở chỉ số đóng góp cho hòa bình thế giới, Việt Nam chỉ đứng thứ 103/125. Trong chỉ số này, Việt Nam được đánh giá cao vì mức xuất khẩu vũ khí thấp nhưng bị đánh giá kém ở lĩnh vực an toàn Internet và đóng góp tài chính cho quân đội Liên Hợp Quốc.

Việt Nam đứng thứ 123/125 trong chỉ số trật tự thế giới và bảo vệ môi trường (hành tinh và khí hậu). Đặc biệt, Việt Nam bị đánh giá rất thấp trong chỉ số thải độc ra môi trường.

Một chỉ số khả quan hơn là sự đóng góp vào phồn vinh và bình đẳng kinh tế giới giới, xếp thứ 79/125. Về đóng góp cho y tế và sức khỏe thế giới, Việt Nam đứng thứ hạng 111/125 bởi hiện vẫn đang nhận rất nhiều từ viện trợ nước ngoài về thuốc chữa bệnh, vắc xin. Tuy vậy, Việt Nam được đánh giá là có đóng góp cho Tổ chức Y tế thế giới (WHO).

 Bảng xếp hạng
Bảng xếp hạng “chỉ số tử tế quốc gia” được tờ The Economist đồ họa rút gọn lại.

Theo chuyên gia tư vấn chính sách Simon Anhold, bảng xếp hạng này được đưa ra nhằm mục đích khuyến khích các “quốc gia bình thường” tự coi mình là một thành viên của cộng đồng quốc tế chứ không phải là một đất nước riêng lẻ.

Chuyên gia tư vấn chính sách Simon Anhold

Ông này cho rằng kiểu tư duy “chỉ biết đến mình” chỉ đem lại sự bất lợi, và ông đưa ra một câu chuyện hài hước để minh họa cho điều này. Ông kể: “Một con gà trong một ngôi làng ở Trung Quốc bị cúm. 20 năm trước, đó chỉ là tin xấu cho con gà và gia đình của nó, thế nhưng ngày nay nó đe dọa đến sự sống còn của cả nhân loại vì quá trình toàn cầu hóa”.

Chuyên gia tư vấn này giải thích thêm: “Ngày nay, các quốc gia ngày càng phát triển hơn, nhưng thế giới và hành tinh này cùng toàn thể nhân loại trên đó thì ngày càng trở nên tệ hại hơn. Việc các nước chỉ chăm chăm chú trọng vào bản thân mình có thể dẫn đến tình trạng ích kỷ không vì cộng đồng quốc tế”.

Tuy nhiên, bảng xếp hạng này chỉ là đánh giá chủ quan của riêng chuyên gia tư vấn Anhold mà không thông qua bất cứ một tổ chức chuyên xếp hạng, đánh giá có uy tín nào, nên nó chỉ có giá trị về mặt tham khảo. Ngoài ra, một số người cũng tỏ ra hoài nghi về cách thức chấm điểm và xếp hạng của chuyên gia này, đồng thời cho rằng nó không phản ánh đúng thực tế đang diễn ra tại một số quốc gia.

Tổng hợp

TƯ CÁCH CÔNG DÂN

TƯ CÁCH CÔNG DÂN

FB Mạc Văn Trang

2-9-2016

Ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, câu đầu tiên trích từ bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tiếp đó Hiến pháp của nước Việt Nam DCCH được công bố 1946, Điều 10 quy định rõ ràng các quyền tự do cá nhân: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”…

Những điều tuyên bố trên đã hơn 70 năm, do oái oăm của lịch sử, đến nay vẫn là những mong ước của nhân dân ta, xét về TƯ CÁCH CỦA CÔNG DÂN.

Tư cách công dân, theo nghĩa thông thường là người có ý thức, thái độ và hành vi đúng đắn trong việc thực hiện các NGHĨA VỤ và QUYỀN LỢI trong mối quan hệ với nhà nước, với Tổ quốc, với xã hội và với chính bản thân mình.

Về NGHĨA VỤ với Tổ quốc, với nhà nước, với xã hội – cái này dân ta thấm thía lắm rồi. Ngày trước toàn dân ta đã “đem hết tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải ra để bảo vệ nên độc lập”, “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, đã “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” để giành và giữ độc lập cho Tổ quốc. Ngày nay, hàng ngày, hàng giờ dân ta vẫn luôn phải ra sức “đóng”, “nộp”, “chấp hành”, “kê khai”, “trình báo”, “thực hiện”, “thi hành”, “truy thu”… mọi thứ do nhà nước từ trung ương đến tỉnh, huyện, xã, thôn đưa ra. Người dân đã và đang kiệt sức vì nghĩa vụ đóng góp.

Còn về QUYỀN LỢI, dường như dân mình ít khi quan tâm, đòi hỏi, có khi không ý thức rõ mình có những quyền gì! Có lẽ dân ta nhớ nhất là “quyền đi bầu”, vì loa, đài chỉ ra rả nhắc quyền ấy suốt những ngày bầu cử. Nhưng bầu ai thì “Đảng chọn, dân bầu”, biết trước rồi, nên cũng chỉ là cái quyền hờ, thành nghĩa vụ đối với chính quyền là chủ yếu, để có con số đẹp: 99,9% cử tri đi bỏ phiếu… lập kỷ lục khùng nhất thế giới.

Dưới thời phong kiến, đế quốc cai trị, dân ta phải thực hiện các nghĩa vụ rất nặng nề, nhưng ý thức đòi quyền công dân thì rất thấp. Nhà thơ Tản Đà đã từng thốt lên: “Dân hai lăm triệu, ai người lớn/ Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”, hay “Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn/ Cho nên quân nó dễ làm quan” (1927).

Ngày nay những quyền công dân được ghi trong Hiến pháp 2013 cũng rất đầy đủ, rất đẹp, nhưng thực tế dân ta đã ý thức và đấu tranh để được hưởng những quyền đó như thế nào? Bà con hãy đọc một số điều trong Hiến pháp và liên hệ thực tế xem những điều sau đây được hiện thực hóa trong đời sống thế nào?

“Điều 14 (Hiến pháp 2013)

1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

Điều 16

1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Điều 17

1. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.
2. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác.
3. Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ.

Điều 19:

Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.

Điều 20:

1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.

2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.

Điều 22

1. Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp.
2. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý.
3. Việc khám xét chỗ ở do luật định.

Điều 23

Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.

Điều 24

1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.

Điều 25

Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.

Điều 26

1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.

2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.

3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.

Điều 27

Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định.

Điều 28

1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước.

2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.

Điều 29

Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.

Điều 30

1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.

3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.

Điều 31

1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai.

3. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.

4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.

5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”. (hết trích)

Một người dân chưa ý thức rõ về những quyền này, không bức xúc khi những quyền đó chưa được thực, không có hành động đấu tranh đòi thực thi những quyền đó thì chưa trưởng thành về tư cách công dân.

Tư cách công dân không chỉ đòi hỏi người dân có nhận thức và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ trong hiện tại, mà còn thể hiện trách nhiệm với những di sản của tổ tiên, cha ông để lại và trách nhiệm với tương lai của đất nước, của các thế hệ mai sau.

Một người lãnh đạo, đại diện cho các công dân phải thể hiện một tư cách công dân tiêu biểu, nêu gương cho quốc dân. Một người chỉ biết thu vén cho lợi ích cá nhân, gia đình, phe nhóm, không đấu tranh, chăm lo cho quyền lợi của mọi công dân, của Tổ quốc, của xã hội thì không xứng đáng là người lãnh đạo, hơn nữa còn nêu gương xấu về tư cách công dân.

Cũng vì thế ở các nước văn minh, người lãnh đạo có sai lầm, khuyết điểm, phạm vào tư cách công dân, họ phải từ chức, hoặc bị cách chức ngay, vì nêu gương xấu về tư cách công dân. Đã nêu gương xấu mà còn tiếp tục lãnh đạo quốc gia thì tác hai vô cùng đến các công dân khác.

Cho nên có người chức lớn, quyền cao, chức danh đầy mình mà tư cách công dân thấp bé, vì vụ lợi “ngậm miệng ăn tiền”, “mũ ni che tai”, trở nên ích kỷ, hèn nhát; ngược lại có những em bé mà thể hiện tư cách công dân lớn lao. Ta còn nhớ 2 anh em cậu bé người Hy Lạp, anh 7 tuổi, em 5 tuổi, khi nghe quốc hội bàn bán một hòn đảo đi để trả nợ, 2 em đã “mổ lợn” lấy tiền để dành đem nộp tại ngân hàng trung ương với tuyên bố: Mỗi người dân hãy góp tiền trả nợ, không được bán hòn đảo. Ông Chủ tịch quốc hội đã mời 2 em lên gặp, và hỏi, vì sao lại làm vậy? Cậu bé 7 tuổi thọc tay túi quần, ưỡn ngực nhìn thẳng vào mái đầu bạc của ông Chủ tịch đang cúi xuống lắng nghe: Cháu không muốn các bác bán hòn đảo để trả nợ. Tổ quốc không phải để bán! Đó, tư cách công dân của một em bé đã thức tỉnh ý thức công dân cả một dân tộc.

Còn ở ta, tư cách công dân có được tôn trọng và phát huy, khi Khai quốc công thần Đại tướng Võ Nguyên Giáp 3 lần viết thư can ngăn dự án bô – xít Tây Nguyên, nhưng quốc hội hay chính phủ chẳng ai thèm đoái hoài; 62 nhân sĩ trí thức tiêu biểu dâng kiến nghị lên Đại hội Đảng CSVN lần thứ XII, chẳng được hỏi han, còn bị bêu là “suy thoái tư tưởng đạo đức”, và cho đám DLV chửi bới là phản động, ăn tiền, tay sai cho nước ngoài… Một môi trường như vậy, làm sao hình thành và phát triển được tư cách công dân. Tư cách công dân không trưởng thành thì đám dân chúng vẫn là một bầy người “không chịu lớn”, như lời thơ của cô giáo Trần Thị Lam:

“Đất nước mình ngộ quá phải không anh
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi” …

Tư cách công dân ngày nay còn đòi hỏi ý thức mình là một công dân toàn cầu/ công dân quốc tế. Liên hiệp quốc đã khuyến cáo mỗi quốc gia phải giáo dục cho công dân nước mình, nhất là thế hệ trẻ có nhân thức, thái độ, hành vi là một công dân toàn cầu. Một GS Nhật đã phát biểu: Nước nào có nhiều công dân toàn cầu sẽ là nước dẫn đạo thế giới. Như vậy suy ra, những nhà lãnh đạo quốc gia nào nặng chủ nghĩa dân tộc cực đoan hẹp hòi, chỉ lo tranh giành lợi ích cho đất nước mình, bất chấp lợi ích của các quốc gia khác, bất chấp luật pháp quốc tế, thì họ không có tư cách công dân quốc tế, nước họ to, những tư cách công dân quốc tế của họ thấp bé, không được nhân loại tôn trọng, làm sao đủ tư cách dẫn đạo thế giới.

Trở lại với mỗi bà con ta, mỗi người dân không chỉ biết thực hiện đầy đủ nghĩa vụ mà còn phải có nhận thức, thái độ, hành động đòi hỏi thực hiện đầy đủ quyền công dân của mình, để bản thân mình và con cháu mình có tư cách công dân, tức là trưởng thành. thành “người lớn”.

Về quảng cáo

‘Biển chết nhưng ngư dân không thất nghiệp”?

‘Biển chết nhưng ngư dân không thất nghiệp”?

Cát Linh, phóng viên RFA
2016-09-01

000_DQ900.jpg

Ngư dân Việt Nam tại đồn cảnh sát Thái Lan sau khi bị giam giữ do đánh bắt cá trái phép tại vùng biển miền nam Thái Lan của Narathiwat vào ngày 1 tháng 8 năm 2016.

 AFP Photo

‘Biển chết nhưng ngư dân không thất nghiệp”?

03:28/06:29

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Ngày 27 tháng 8 vừa qua, tại hội nghị báo cáo tiến độ kê khai, thống kê thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra, bà Nguyễn Thị Hải Vân, Cục trưởng cục việc làm đã cho rằng số người thất nghiệp do sự cố xả thải của công ty luyện gang thép không cao. Lý do mà bà đưa ra là “người Việt Nam không ngồi một chỗ”, cho nên họ vẫn đi tìm kiếm việc làm.

Sự thật có đúng như báo cáo đưa ra trong hội nghị hay không và có thuyết phục được người dân hay không?

Như thế nào là thất nghiệp?

“Theo điều tra của chúng tôi thì tỉ lệ thất nghiệp do Formosa xả thải giết biển miền Trung không cao”, đó là nguyên văn lời phát biểu của bà Nguyễn Thị Hải Vân, Cục trưởng cục việc làm tại hội nghị báo cáo tiến độ, thống kê thiệt hại do sự cố môi trường tại Thừa Thiên-Huế ngày 27 tháng 8, được báo mạng “một thế giới” trích lại. Để làm rõ và thuyết phục những người có mặt tại hội nghị về kết quả điều tra của Bộ lao động-Thương binh-Xã hội, bà Vân đề cập cả đến bản tính “chịu thương chịu khó” của người Việt Nam xưa nay.

Theo lời giải thích của bà, người Việt Nam không chịu ngồi một chỗ nên cho dù xảy ra sự cố ô nhiễm môi trường nặng nề, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống sinh nhai của họ là ngư trường, thì họ vẫn đi tìm kiếm việc làm khác.

Với đặc điểm của người Việt Nam là không ngồi một chỗ thì cách nói thế là cách nói suy diễn của bà ấy thôi, còn việc làm có chính thống hay không là vấn đề khác.
– Tiến sĩ Ngô Trí Long

 

Chính vì điều này, những con số về tỉ lệ thất nghiệp sau sự cố mà bà Vân đưa ra trong buổi hội nghị được bà cho là “những con số phản ảnh của sự cố nhưng thất nghiệp không nhiều.

Những con số được đưa ra thể hiện sự chênh lệch không nhiều giữa tỷ lệ thất nghiệp trước và sau sự cố ô nhiễm môi trường biển. Ảnh hưởng nhiều nhất là Quảng Bình thì trước sự cố là 2,1% và sau đó là khoảng 16,4%.

Chuyên gia kinh tế, Tiến sĩ Ngô Trí Long, không đồng tình với con số thất nghiệp do Bộ Lao động-Thương binh- Xã hội cập nhật. Từ Sài Gòn, ông nói với đài Á Châu Tự do về nhận định của ông trước lý do bà Cục trưởng cục việc làm đã đưa ra.

“Với đặc điểm của người Việt Nam là không ngồi một chỗ thì cách nói thế là cách nói suy diễn của bà ấy thôi, còn việc làm có chính thống hay không là vấn đề khác. Việc làm có tạo ra thu nhập chính đáng hay không mới là cái quan trọng. Nói rằng hiện nay tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam rất là ít nhưng thực tế? Không như ở các nước khác có số liệu thống kê rất rõ ràng, đăng ký thất nghiệp rất rõ ràng.”

Theo Tiến sĩ Ngô Trí Long, nếu một người dân không có việc làm ổn định trong một thời gian nhất định, chẳng hạn một tháng chỉ có thể làm việc vài ngày, thì người đó không thể gọi là không thất nghiệp. Bên cạnh đó, theo ông, tính năng động thể hiện ở việc làm của người đó có thực chất hay không.

Tính dây chuyền

Theo thống kê của báo trong nước, các tỉnh ven biển miền Trung, cụ thể là Hà Tĩnh, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế có đến 60, 70% ngư dân làm nghề đánh bắt gần bờ. Từ khi xảy ra sự cố ô nhiễm môi trường biển hồi đầu tháng 4 đến nay, tất cả tàu đánh bắt cá của ngư dân phải nằm bờ. Bên cạnh những ngư dân là người chịu ảnh hưởng trực tiếp, phải kể đến những công việc, ngành ngề khác có liên quan đến ngư trường và thuỷ hải sản cũng bị tác động nặng nề.

Vài ngày trước, Hiệp hội thuỷ sản Việt Nam cho biết rằng nhiều hợp đồng xuất khẩu hải sản của Việt Nam bị đối tác nước ngoài huỷ bỏ vì lo ngại cá tôm bị nhiễm độc sau tai hoạ môi trường Vũng Áng.

Nhà hoạt động Trần Bang từ Sài Gòn cho biết.

“Có một số người đã vào Sài Gòn để xin việc, vì họ có thuyền, có đồ dùng cũng không đi đánh cá được. Mà cũng đánh cá về thì cũng không bán được, không ai mua. Thế mới thấy môi trường nó ảnh hưởng sát sao đến đời sống người dân, đến miếng ăn, nước uống, khí thở.”

Có một số người đã vào Sài Gòn để xin việc, vì họ có thuyền, có đồ dùng cũng không đi đánh cá được. Mà cũng đánh cá về thì cũng không bán được, không ai mua.
– Trần Bang

 

“Có mấy người ở Ninh Thuận, Bình Thuận cũng điện thoại cho tôi bảo phải đóng cửa Formosa. Cứ nghĩ rằng bây giờ người dân tại vùng đó không dám ăn cá biển thì mới thấy cái khủng khiếp thế nào. Thế rồi nhiều người ở Sài Gòn đi mua mắm, muối tích trữ. Cái nước mắm bây giờ làm bằng cá nhiễm độc thì 6 tháng sau ra nước mắm. 1 năm sau mình mua thì ăn phải nước mắm độc. Muối cũng vậy.”

Không còn khả năng sinh sống bằng cái nghề cha truyền con nối, họ bắt buộc phải đi làm ăn xứ khác.

Một người dân từng làm nghề đi biển ở Huế, hiện đang phải mưu sinh ở tận thủ đô Vieng Chăn, Lào, cho đài Á Châu tự do biết rằng, không phải chỉ một mình anh phải bỏ xứ đi tìm nghề ở nơi khác.

“Từ ngày biển chết đến giờ, có nhiều người phải qua đây, có nhiều người vào Sài Gòn, qua Mã Lai… Giờ người ở quê đi hết vì quê hương không có việc gì làm hết. Tiền không có, ở quê không có việc làm, biển thì chết, cá bán không có ai mua. Như tôi thì đi Lào tìm việc làm.”

Không dễ dàng

Thế nhưng, điều này không đồng nghĩa với việc cho thấy tinh thần tự lực tự cường, chịu thương chịu khó của người Việt Nam. Những ngư dân của 4 tỉnh ven biển miền Trung phải tìm việc xứ khác vì họ thất nghiệp trên chính mảnh đất cha sanh mẹ đẻ của mình. Họ thất với cái nghiệp mà gia đình nhiều thế hệ của họ đã đeo bám từ lâu đời để sinh nhai.

Tiến sĩ Ngô Trí Long lên tiếng đề nghị rằng “Phải dám nhìn thẳng vào sự thật để có giải pháp xử lý chứ không phải đứng ở góc độ của người khách quan để đánh giá sự việc.” Như thế là hoàn toàn không thuyết phục.

Chúng ta phải đi vào thực tế cuộc sống của ngư dân miền biển, những nơi đã bị thảm hoạ môi trường để thấy được vấn đề.
– Tiến sĩ Ngô Trí Long

 

“Hiện nay môi trường biển do Formosa gây ra ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống mưu sinh, coi như là cá không sử dụng được. Cho nên người ta phải đi mưu sinh nơi khác. Chúng ta phải đi vào thực tế cuộc sống của ngư dân miền biển, những nơi đã bị thảm hoạ môi trường để thấy được vấn đề. Hiện nay do tác động của nó đã ảnh hưởng đến công ăn việc làm của họ, họ không biết tìm việc làm gì.”

Nếu những người đấu tranh cho môi trường và đời sống của các ngư dân vùng biển nói rằng “Biển sạch là khi cá tôm trở lại” thì có lẽ những người ngư dân bốn tỉnh miền Trung cũng có thể nói rằng: “Ngư dân không thất nghiệp là khi tàu thuyền có thể ra khơi”?