Việt Nam sắp ‘thừa nhận xã hội dân sự’?

Việt Nam sắp ‘thừa nhận xã hội dân sự’?

 Phạm Chí Dũng

clip_image002

Chỉ trong thời gian khoảng một năm từ giữa 2013 đến giữa 2014, xã hội Việt Nam đã hình thành trong lòng nó hơn hai chục tổ chức xã hội dân sự. (Ảnh tư liệu)

Tín hiệu mới

Vào tháng 8/2016, một lần nữa trong năm tôi nhận được tín hiệu về khả năng chính quyền Việt Nam có thể chấp nhận sự tồn tại của xã hội dân sự trong tương lai gần. Một quan chức đương chức cao cấp của đảng Cộng sản cho tôi biết: theo quan điểm của ông, cần thừa nhận và tăng cường vai trò của xã hội dân sự.

Thái độ có vẻ khá cởi mở về quan điểm nhân quyền chính trị như thế là khác biệt lớn so với đúng 4 năm trước, vào tháng 8 năm 2012, khi báoNhân Dân – cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Việt Nam – còn đăng một bài viết hằn học mang tựa đề “‘Xã hội dân sự’ – một thủ đoạn của Diễn biến hòa bình”.

Thậm chí đến năm 2013, tôi còn nghe kể lại là trong một cuộc họp của Ủy ban nhân dân TP HCM, một phó chủ tịch ủy ban đã giận dữ đập bàn dằn mặt cấp dưới là các lãnh đạo quận huyện và sở ngành: “Ông nào mà còn dám nói tới từ ‘xã hội dân sự’ là tôi kỷ luật liền!”.

Âm thầm chấp nhận

Bất chấp tiêu chí của thế giới về xã hội dân sự chẳng liên quan gì đến chuyện tham gia vào các hoạt động lật đổ chế độ chính trị, trong suốt nhiều năm qua giới quan chức “còn đảng còn mình” ở Việt Nam luôn nhìn xã hội dân sự như kẻ lăm le chiếm ghế của mình. Nhiều “bài học kinh nghiệm” từ Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan cho tới Cách mạng màu ở Đông Âu và Cách mạng Hoa nhài ở Bắc Phi được tâm lý vừa lo sợ vừa chống phương Tây thổi phồng thành nguy cơ ở mức hiểm họa rất cao đối với sự tồn vong của đảng và dân tộc. Nhiều nhà hoạt động dân sự ở Việt Nam đã bị chính quyền bắt bỏ tù vì cái lẽ chỉ có đảng mới bịt tai nhắm mắt ấy.

Song cái gì cũng có giới hạn của nó. Tất cả những gì quá quắt và vượt xa quá quắt mà đảng cầm quyền đã tạo ra để đối xử với dân tộc đáng thương này đã khiến xã hội tự phát sinh ra xã hội dân sự – một cơ chế tự quyết định lấy quyền dân bất chấp ý chỉ “đã có đảng và nhà nước lo”.

Chỉ trong thời gian khoảng một năm từ giữa 2013 đến giữa 2014, xã hội Việt Nam đã hình thành trong lòng nó hơn hai chục tổ chức xã hội dân sự – tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do văn học, tự do tôn giáo, tự do biểu tình, nhân quyền dân oan đất đai, nhân quyền tù chính trị…

Chuyến đi Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và cuộc gặp gỡ giữa ông với Tổng thống Mỹ Barack Obama vào tháng 7/2013 là một mốc quan trọng cho xã hội dân sự ở Việt Nam: với quyết tâm “không gì lay chuyển nổi” phải vào được Hiệp định TPP để cứu vãn nền kinh tế chỉ chực chờ lao xuống vực thẳm, Hà Nội lần đầu tiên phải chấp nhận sự ra đời của hàng loạt tổ chức xã hội dân sự mà không dám bắt bớ và thẳng tay vi phạm nhân quyền như từ năm 2012 về trước.

Tuy nhiên, điều kiện đánh đổi của giới lãnh đạo Việt Nam khi đó mới chỉ là thả một số tù nhân chính trị. Nửa cuối năm 2013 và 10 tháng đầu năm 2014 đã phóng thích số tù nhân lương tâm nhiều chưa từng có kể từ năm 1975 – khoảng 13-14 người – được thả theo từng đợt.

Cũng vào thời gian trên, trên mặt báo đảng thưa dần lối gán ghép giữa xã hội dân sự với “thế lực thù địch”. Thậm chí thi thoảng một tờ báo nhà nước còn bạo phổi đăng nguyên văn từ “xã hội dân sự”, tuy sau đó bị cơ quan tuyên giáo tuýt còi và xóa mất từ ngữ hay ho này. Thái độ của giới quan chức nói chung đối với các tổ chức xã hội dân sự bắt đầu có sự thay đổi: vẻ thù địch và coi thường trước đó chuyển sang “nghiên cứu về xã hội công dân”.

Chẵn hai năm sau cuộc gặp Obama – Sang, một cuộc gặp khác diễn ra giữa người không phải nguyên thủ quốc gia mà là tổng bí thư Việt Nam – ông Nguyễn Phú Trọng – với cùng tổng thống Hoa Kỳ đã mang lại một kết quả làm đà phóng cho ông Trọng giành thắng lợi trước Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Đại hội XII, đồng thời lần đầu tiên chế độ vẫn muốn chỉ một đảng ở Việt Nam âm thầm chấp nhận định chế Công đoàn độc lập của các quốc gia đa đảng.

Cần nhớ rằng trong tâm lý của giới lãnh đạo bảo thủ ở Việt Nam, nếu xã hội dân sự nguy hiểm một thì Công đoàn độc lập nguy hiểm gấp ba lần như thế. Chẳng phải vô cớ mà cứ mỗi khi nói đến Công đoàn độc lập là giới quan chức Việt lại nhắc ngay về Công đoàn Đoàn kết cùng thành tích “lật đổ” của nó.

Sau khi Tổng Bí thư Trọng và Bộ Chính trị chấp nhận sẽ triển khai Công đoàn độc lập như một điều kiện tiên quyết để Việt Nam được vào TPP, màn sương nhân quyền đã bớt xám xịt. Muốn có Công đoàn độc lập thì phải có luật Lập hội, mà đã có luật Lập hội thì lại phải công nhận, hoặc thừa nhận một số hội đoàn phi nhà nước, trong khi chính những hội đoàn phi nhà nước đó đã hình thành xã hội dân sự ở Việt Nam.

Tức việc thừa nhận/công nhận Công đoàn độc lập sẽ đương nhiên dẫn đến việc thừa nhận/công nhận xã hội dân sự, và ngược lại.

Thế còn quan điểm của giới học giả công an về chủ đề cực kỳ nhạy cảm đã diễn biến ra sao vào thời gian này?

Thuyết âm mưu về xã hội dân sự

Một trong những quan điểm mang tính sơ khai của giới học giả công an cho rằng: “Việc hình thành, phát triển xã hội dân sự sẽ tạo môi trường, điều kiện để phát triển các mặt của xã hội, tuy nhiên cần phải đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước để xã hội dân sự thực sự hoạt động theo đúng mục đích, tôn chỉ của nó”.

Hoặc một cách nhìn khác của học giả – điều tra viên công an được cụ thể hóa hơn: “Nhìn chung, các tổ chức xã hội dân sự này đều mang lại lợi ích, giúp Việt Nam thuận lợi hơn trong vấn đề hội nhập, tuy nhiên, như đã phân tích do bản chất xã hội dân sự là sự liên kết mềm, nên một số tổ chức khi hoạt động vẫn không tuân thủ theo pháp luật Việt Nam đã quy định; một số tổ chức bị các thế lực bên ngoài có quan điểm thù địch với Việt Nam lợi dụng nhằm phục vụ cho lợi ích riêng; một số hoạt động không đúng với tiêu chí, mục đích đề ra ban đầu; đặc biệt, một số tổ chức có hoạt động chia rẽ, gây mất đoàn kết trong nội bộ, đi ngược lại lợi ích chính đáng của người dân, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước… Bên cạnh đó, cũng xuất hiện các xã hội dân sự trá hình do một số tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động tài trợ tiền, kinh phí cho một số đối tượng trong nước hoạt động thành lập các hội, nhóm kiểu xã hội dân sự nhằm hoạt động chống Đảng, gây phương hại đến Nhà nước ta”.

Dĩ nhiên với những quan chức “còn đảng còn mình” thì quan điểm trên là tạm chấp nhận được, và nói chung là có thể chấp nhận cho đến lúc Nhà nước Việt Nam vào được TPP thì sẽ tiến hành “hồi tố” những tổ chức xã hội dân sự bị chính quyền căm ghét nhất. Còn trước mắt, phải làm thế nào để đưa ra một số tổ chức hội đoàn có nguồn gốc nhà nước sang khu vực “xã hội dân sự”, nhưng là xã hội dân sự của nhà nước – như một bằng chứng để chứng minh với quốc tế rằng Việt Nam tôn trọng nhân quyền và đòi hỏi về xã hội dân sự của nhiều nước trên thế giới, nhưng sẽ cố gắng lấn át khối “xã hội dân sự độc lập”.

Có thể từ năm 2017 trở đi, trên mảnh đất Việt Nam hỗn tạp sẽ diễn ra cuộc cạnh tranh đầy tính đố kỵ lẫn thủ đoạn chơi xấu của “xã hội dân sự quốc doanh” đối với “xã hội dân sự độc lập”.

Ở một khía cạnh khác, sâu xa và ẩn giấu hơn nhiều, những quan chức “còn đảng còn tiền” lại đã từ lâu nhận ra ở các tổ chức xã hội dân sự độc lập một “tài nguyên” hiếm có: nếu biết cách lợi dụng hay ít ra là vận dụng khối tự phát nhưng đang hình thành khối này, đó sẽ là con đường đủ ngắn và đủ nhanh để bảo đảm cho một số quan chức “về với nhân dân” trong bối cảnh một Việt Nam tương lai bể dâu xung đột, hoặc tìm ra lối thoát ở phương Tây một khi nội tình trong nước “có biến”.

P. C. D.

Nguồn: http://www.voatiengviet.com/a/viet-nam-sap-thua-nhan-xa-hoi-dan-su/3497697.html

Năm lời khuyên để tĩnh tâm tại nhà

Năm lời khuyên để tĩnh tâm tại nhà

Bạn dành ra mỗi tháng một ngày (hoặc vài giờ!) để nuôi dưỡng đời sống tâm linh của mình
[Praying-father-child.jpg]«Tôi nói với tâm hồn mình, hãy bình yên»
– T.S. Eliot
Khi bạn đọc những hàng này thì đây là ngày tĩnh tâm thinh lặng thứ tám hàng năm của tôi.

Mỗi lần tôi nói với bạn bè, mỗi năm, tôi được ưu đãi có tám ngày thinh lặng với Chúa Giêsu, họ thường nhìn tôi với vẻ ganh tị. Đặc biệt các bà mẹ có đông con. Tôi rất thông cảm. Nhưng các bạn đừng lý tưởng hóa đời sống của tôi, các bạn biết là mỗi ơn gọi đều có cái được cái mất của nó.
Dù sao đa số các người nhìn tôi như thế, họ không nghĩ các ngày tĩnh tâm này cũng ở trong tầm tay của họ. Thật sự là vậy. Bạn chỉ cần dành ra mỗi tháng một ngày (hoặc chỉ vài giờ!) để nuôi dưỡng đời sống tâm linh của mình. Chắc chắn các bạn sẽ nghĩ: «Một ngày mà thấm gì so với tám ngày?». Nhưng Chúa có nhìn đến những chuyện này đâu.
Chúa đâu có giới hạn ơn của Chúa với lý do bạn bận bịu thay tã lót cho con mà không có thì giờ thinh lặng một mình với Chúa đâu. Thánh I-Nhã, người viết ra Bài tập Linh thao cho rất nhiều người đi tĩnh tâm đã nói, một giờ cầu nguyện ở trong hầm Manresa đã dạy cho ngài biết về nhiều huyền nhiệm của Chúa hơn bất cứ bài học nào. Một giờ!
Như thế thật đáng công để bạn dành thì giờ làm một cuộc «tĩnh tâm nhỏ» tháng này. Dù chỉ là một buổi sáng. Nếu bạn có thì giờ xem phim trên Netflix nhiều lần mỗi tuần, nếu bạn tính tổng số thì giờ bấm điện thoại, thì khi đến giờ chết, có lẽ số giờ này lên đến hàng năm, vậy thì bạn có thì giờ để làm loại tĩnh tâm này!

Đây là năm lời khuyên cho việc đi tĩnh tâm này:

1/ Tắt điện thoại
Đúng. Trừ ra bạn là bác sĩ giải phẫu trực hay thật sự có một việc khẩn cấp, thì chúng ta có thể tắt điện thoại ít nhất nửa ngày. Bạn để điện thoại ngoài xe hay ở nhà. Cũng trong tinh thần này, bạn đừng dùng e-mail, máy tính hay máy truyền thanh truyền hình. Cố gắng tối đa giữ thinh lặng với Chúa. Chính trong thinh lặng mà Ngài nói với chúng ta.

2/ Bắt đầu ngày bằng cách đi lễ.
Một bước đầu tốt đẹp cho bất cứ một cuộc tĩnh tâm nào. Nếu được, bạn nên đi sớm để đọc Phúc Âm của ngày hôm đó và cầu nguyện trước thánh lễ. Vì bạn đã dành ra một buổi sáng, cố gắng dự thánh lễ một cách chiêm niệm. Đừng nghĩ đến tương lai và những chuyện mình phải làm. Hãy xin thiên thần hộ thủ của mình giúp mình tập trung. Khi cha dâng Mình Thánh, bạn xin Chúa Giêsu ban ơn để có một ngày tĩnh tâm tốt đẹp.

3/ Chầu Mình Thánh Chúa.
Nếu bạn đi lễ có chầu Mình Thánh Chúa ở nhà nguyện, đó là nơi lý tưởng để bạn đến cầu nguyện sau thánh lễ. Có thể bạn ít có dịp cầu nguyện như vậy, vậy đừng để mất thì giờ. Bạn xin Chúa Giêsu thấm nhập vào tâm hồn mình. Bạn xin Ngài ban ơn và sự sáng suốt cần thiết để bạn cảm thấy mình được tái sinh, trở lại và biến đổi sau ngày tĩnh tâm này.

4/ Đi dạo với tràng chuỗi của mình.
Tôi rất thích đi dạo với tràng chuỗi. Sau khi cầu nguyện buổi sáng, bạn đi dạo nơi yên tỉnh, vừa đi vừa lần hạt. Ngắm cảnh đẹp chung quanh mình và cám ơn Chúa; để thiên nhiên nói chuyện với bạn. Nếu bạn thích chụp hình, bạn dừng lại để chụp cảnh đẹp, hoặc bạn viết một bài thơ. Rồi bạn tiếp tục cầu nguyện với tràng chuỗi.

5/ Thử cầu nguyện qua ba giai đoạn.
Nếu bạn tĩnh tâm nửa ngày, bạn hãy làm trọn vẹn. Bạn dành trọn thì giờ để cầu nguyện. Nó không khó khăn như bạn nghĩ đâu. Bạn có thể chia buổi sáng làm ba giai đoạn cầu nguyện. Giữa các giai đoạn này, bạn có thể đọc các bài đọc thiêng liêng hoặc chỉ cần nhìn ra cửa sổ. Nếu bạn không đi lễ được, bạn tìm một nơi yên tỉnh và thanh vắng. Khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi có một góc cầu nguyện nhỏ trong nhà và khi bà cầu nguyện, tôi biết, tôi không được làm phiền bà.
Cũng có nhiều chuyện khác để làm trong nửa ngày tĩnh tâm này, đây chỉ là những đề nghị nhỏ. Bạn đừng suy nghĩ gì nhiều, cứ việc bắt tay vào làm! Điều quan trọng là thì giờ thinh lặng với Chúa.
Nếu bạn dám dành ra một ít thì giờ, bạn sẽ không hối tiếc. Bạn lên lịch và dành một ngày nhé!
Chúc bạn thành công!

«Ngôn ngữ Chúa thích là tình yêu thinh lặng»
– Thánh Gioan Thánh Giá

(Marta An Nguyễn chuyển dịch, phanxico.vn 31.08.2016/
aleteia.org, Xơ Theresa Aletheia Noble, 2016-08-16)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Vì sao du học sinh Việt nam “một đi không trở về”?

Vì sao du học sinh Việt nam “một đi không trở về”?

 Trong số 13 nhà vô địch chương trình đường lên đỉnh Olympia được đi du học thì 12 người đã không trở về, hầu hết các sinh viên du học sau khi tốt nghiệp đều muốn ở lại nước ngoài làm việc.

Phan Mạnh Tân – quán quân năm thứ 2 chương trình đường lên đỉnh Olympia (học sinh từ trường THPT Năng khiếu Hà Tĩnh), đã hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh tiến sĩ và đã đi làm ở công ty IBM, Melbourne, Australia.

Huỳnh Anh Vũ – quán quân năm thứ 8 chương trình đường lên đỉnh Olympia, có điểm số rất cao trong trận chung kết (325 điểm), là một trong hai người hiếm hoi được giữ lại làm giảng viên ngành kinh tế trường ĐH Swinburne, Australia.

Con số thống kê cho thấy, có 70% số du học sinh sau khi tốt nghiệp đã chọn ở nước ngoài chứ không về nước.

Vì sao du học sinh không muốn về nước?

Các sinh viên khi du học ở các nước tự do, việc đầu tiên là cần thích nghi với môi trường cởi mở nơi đây. Nhưng sau khi thích nghi cuộc sống nơi đầy rồi họ lại không còn muốn về nước nữa, bởi họ không muốn về nước lại phải đối mặt với những thủ tục chạy chọt xin việc, ngay cả du học về nhiều khi vẫn phải có tiền mới mong xin được việc.

Môi trường ở nước ngoài khác biệt hoàn toàn ở trong nước, các du học sinh ra nước ngoài đã quen với cung cách “dám nghĩ dám làm”, nói những điều thực với lòng mình, còn ở trong nước, nói ra điều gì cũng phải dè chừng xem ý lãnh đạo thế nào mới dám nói, không thể sống thực với chính mình.

Nếu về nước làm việc nhiều khi không phát huy được sở trường sở học của mình, trang thiết bị trong nước yếu kém và thiếu thốn, dữ liệu phục vụ nghiên cứu không có. Chưa kể cần phải có những mối quan hệ thì mới tồn tại và phát triển được.

Thực tế cho thấy có những trường hợp sau khi du học về nước lại phải làm những việc trái với sở trường, lại phải lo lắng xây dựng các mối quan hệ với lãnh đạo cho tốt, khiến tài năng cũng như ước mơ hoài bão bị thui chột theo thời gian.

Chưa kể nếu về nước, thu nhập thấp không tương xứng với cống hiến, lại phải đối mặt với tệ nạn con ông cháu cha đầy rẫy trong các cơ quan, DN nhà nước.

Các du học sinh nói gì?

Một sinh viên kiến trúc học tại Pháp, 28 tuổi, sắp lấy bằng tiến sỹ cho trang Ngoisao biết: “Em không biết khi về có một môi trường tốt để làm việc không? Ở đây, em đang có cơ hội việc làm. Một năm làm việc ở đây có thể bằng nhiều năm làm việc tại VN. Vấn đề không chỉ là thu nhập cao, mà là sự rút ngắn thời gian trưởng thành và cơ hội sáng tạo”.

du-hoc-sinh

A.Đ – một trong những sinh viên hiếm hoi có được tấm bằng tiến sĩ khi mới ngoài 20 tuổi chia sẻ với Ngoisao rằng: “Những gì chúng em được học và muốn làm thì rất khó thực hiện ở Việt Nam. Sự thiếu thốn các điều kiện thực hiện, và hàng loạt những vấn đề tế nhị khác về vấn đề thủ tục hành chính, về kinh phí, về con người và đặc biệt là sự nhìn nhận thiếu công bằng đối với những trí thức trẻ đã khiến những sinh viên giỏi không muốn trở lại môi trường làm việc ở Việt Nam sau khi tốt nghiệp”.

Thanh Tuấn – là một du học sinh tại Mỹ cho RFA biết: “Vấn đề xin việc làm hay vào công ty của Việt Nam thì phải là con ông cháu cha, phải đút lót. Bên này, vấn đề đó dựa vào thực lực của mình nhiều hơn. Và bên này, tốt nghiệp ra đi làm với đồng lương căn bản mới bắt đầu thì mọi người vẫn sống đủ chứ không phải quá chật vật như bên Việt Nam. Còn với một số bạn nhà có cơ sở ở Việt Nam muốn quay về làm cho nhà thì cũng tốt, nhưng đa số mọi người muốn ở lại chứ không muốn đi về tại vì cuộc sống bên này tốt và thoải mái hơn. Hơn nữa là tự do hơn và được thể hiện hơn”.

Một du học sinh nữa ở Mỹ cũng cho biết: “Lý do khiến đa số muốn ở lại Mỹ là về Việt Nam chính quyền không biết trọng dụng nhân tài. Giống như anh có tiền nhiều anh sẽ được chức cao hoặc công việc tốt; còn nếu anh không có tiền cho dù có tài cũng không có được”.

Anh Trung Kiên – nghiên cứu sinh tiến sĩ tại một trường đại học của Canada đã chia sẻ ý kiến của mình trên Vnexpress rằng: “Trước khi sang đây, tôi cũng đã làm công tác giảng dạy khá lâu tại một trường đại học của Việt Nam. Ở cơ quan tôi cũng có nhiều cán bộ được đi đào tạo tại các nước trên thế giới, kể cả châu Âu, Bắc Mỹ và châu Á. Khi mới về nước mọi người đều rất hăm hở với các vấn đề khoa học mà họ đã được đào tạo, nhưng dần dần tôi nhận thấy mọi người đều phải chuyển sang làm thêm những việc khác mặc dù không thích vì lý do thu nhập đơn thuần. Một số bạn bè cùng công tác với tôi đã được đào tạo tiến sĩ hoặc thạc sĩ ở nước ngoài nhưng khi về nước xin đi làm cho một số tổ chức phi chính phủ và chịu nộp một phần thu nhập hằng tháng cho cơ quan. Do vậy việc giảng dạy vẫn chủ yếu tập trung vào một số cán bộ cũ hoặc những người mới ra trường không có điều kiện đi làm thuê bên ngoài. Thực chất vấn đề là ở chỗ việc trả lương và sắp xếp công việc cho các cán bộ khoa học chưa hợp lý. Lương thấp buộc mọi người phải tìm các công việc có thu nhập cao hơn. Chính vì vậy việc giảng dạy và nghiên cứu lúc này trở nên là việc phụ đối với họ.

Còn việc trang thiết bị của một trường đại học đối với chúng ta hiện nay thực sự là vấn đề bức xúc, mặc dù trong các năm gần đây đã được sự đầu tư nhiều hơn từ nhà nước, trang thiết bị của chúng ta còn quá ít ỏi và quá lạc hậu so với nhiều nước trong vùng, chứ chưa nói tới các nước đã phát triển”

Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng từ Canada cũng chia sẻ với Vnexpress rằng:“Tôi không biết phải bắt đầu như thế nào ở Việt Nam bởi lẽ điều kiện ở đây còn quá thấp. Các trường đại học chưa có hoặc chỉ mới sơ sài những ngành nghề mà chúng tôi được học ở nước ngoài. Thêm vào đó là trường đại học lại không tiếp nhận và tin tưởng những cái mới của chúng tôi. Nói cách khác nếu trở về Việt Nam, thật sự chúng tôi không có điều kiện để phát triển khả năng. Với tình hình như vậy xin hỏi có người trí thức nào muốn trở lại Việt Nam làm việc không?”

Anh Nguyễn Hải Nam – hiện đang công tác ở Mỹ chia sẻ: “Nhiều đề tài cấp nhà nước tiêu tốn hàng trăm triệu đồng, thậm chí hàng tỷ đồng nhưng về giá trị khoa học cũng như thực tiễn nó chỉ giúp đánh bóng hoặc làm dày thêm ngăn kéo vốn đã đầy của Bộ KHCN&MT. Mặt khác sự quản lý lỏng lẻo trong việc quyết toán đề tài đã biến nguồn kinh phí này trở thành mảnh đất màu mỡ cho sự tham nhũng (ví dụ: như sự mua bán hoá đơn chứng từ, những hợp đồng khoa học khống…). Trong khi đó ở đại đa số các trường đại học, nhiều cán bộ khoa học rất cần nguồn kinh phí của nhà nước, dù là rất nhỏ để hoạt động và tồn tại. Điều này dẫn đến thực trạng là đa số máy móc trong phòng thí nghiệm ở Việt Nam hiện nay hết sức cũ kỹ và lạc hậu, nhiều cán bộ có điều kiện ra nước ngoài thực tập không biết cầm pipet thí nghiệm như thế nào”.

Vậy để thu hút du học sinh trở về nước làm việc, thì cần phải có môi trường tốt để thu hút du học sinh và những người tài trở về, nếu không những tài năng của đất nước sẽ “một đi không trở lại”.

Chương trình đường lên đỉnh Olympia, mỗi năm tổ chức một lần, được xem là sân chơi đỉnh cao trí tuệ trẻ ở Việt Nam, được ĐH Kỹ thuật Swinburne Úc trao tặng 100% học bổng. Vì thế đừng để những chương trình như vậy chỉ để sàng lọc học sinh giỏi và nhân công cho nước ngoài, khi mà chỉ 1 trong số 13 quán quân của chương trình này trở về nước.

Ngọn Hải Đăng

Anh chị Thụ & Mai gởi

Phúc Nổ – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Phúc Nổ

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Ảnh của tuongnangtien

Tuongnangtien

RFA

Xế chiều, tôi mới để ý tới ca dao:

Buồn vì một nỗi tháng Giêng
Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài
Buồn vì một nỗi tháng Hai
Đêm ngắn ngày dài thua thiệt người ta
Buồn vì một nỗi tháng Ba
Mưa dầu nắng lửa người ta lừ đừ
Buồn vì một nỗi tháng Tư
Con mắt lừ đừ cơm chẳng muốn ăn
Buồn vì một nỗi tháng Năm
Chưa đặt mình nằm gà đã gáy kêu
Bước sang tháng Sáu lại đều

Vậy mà qua tới tháng Chín rồi  nhưng sao tôi vẫn chưa cảm thấy “lại đều” gì ráo, vẫn cảm thấy nặng lòng vì những nỗi buồn ngun ngún từ vài tháng trước. Hồi tháng Tư (cái tháng “lừ đừ cơm chả muốn ăn”) nghe ông Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu, tại Hội Nghị Doanh Nghiệp Việt Nam, khiến tôi thiếu điều còn muốn bỏ uống luôn nữa kìa:

“Đặc biệt, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển và hội nhập để không những phát triển kinh tế trong nước mà còn có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu ở nước ngoài, mang thương hiệu mà ta hay gọi là ‘Ma dzê in Việt Nam’. Đất nước mình anh hùng như vậy, giải phóng dân tộc như vậy, tại sao không thể xuất khẩu lớn được? ”

Tôi hoàn toàn không phiền hà gì cái thứ tiếng Anh ba rọi, và ba trợn của ông Phúc, vì đó chỉ là tiểu tiết. Một vị thủ tướng không nhất thiết phải thông thạo ngoại ngữ (bất kể là thứ tiếng nào) nhưng ít nhất thì cũng phải biết về tình trạng kinh tế của nước mình chớ bộ. Ông cho biết: “Dù bận cỡ nào, hằng ngày… tôi cũng đọc tin tức trên các báo để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp …” mà chả lẽ không rõ những mẩu tin sau:

– 58,2% doanh nghiệp FDI phải chi phí “bôi trơn” để được việc

– Làm được 10 đồng, thuế ‘ăn’ 4 đồng

– Gần 29.000 doanh nghiệp “chết lâm sàng” trong 5 tháng

Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh trong 5 tháng đầu năm nay là 4.643 doanh nghiệp, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước. Ảnh chú thíchvneconomy

Là người đứng đầu chính phủ hiện hành mà ông Phúc không thấy rằng ngành doanh nghiệp Việt Nam đang sống dở (và chết dở) sao? “Chúng ta chưa tự làm được cái đinh vít,” đã đành; “tăm tre, đũa tre cũng phải nhập khẩu cả chục ngàn tấn mỗi năm.”  Vậy lấy cái gì ra “để xuất khẩu lớn,” ngoài thân xác của người dân Việt!

Đếm tháng Bẩy, vào ngày 18, báo Dân Trí đưa tin:

“Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo cơ quan chức năng có giải pháp cụ thể chăm lo cho những Việt kiều nghèo từ Campuchia về nước, sống ở đầu sông Sài Gòn, đoạn nằm giữa 2 tỉnh Bình Phước và Tây Ninh…”

Mẹ ơi! Việt kiều về từ Campuchia đâu phải chỉ có một nhóm nhỏ ở đầu sông Sài Gòn – cha nội! Họ đang sống vất vưởng tại rất nhiều nơi khác nữa: Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, Đồng Nai, An Giang, và Kiên Giang.

Những đứa trẻ ở xóm “liều” biên giới không được đi học như những người bạn cùng trang lứa khác vì không có giấy khai sinh, hộ khẩu, quốc tịch và không thuộc quốc gia nào.  Ảnh: Thuận Thắng. Chú thích: Tuổi Trẻ Online

Tình trạng Biển Hồ cạn nước, và tình hữu nghị Việt/Miên cũng đang đang từng bước cạn theo thì số lượng người Việt buộc phải hồi hương sẽ mỗi lúc một tăng. Theo luật lệ hiện hành của Việt Nam thì những người Việt “không có một manh giấy lận lưng này” sẽ phải chờ hai mươi năm sau mới được nhập tịch, nếu họ được cấp chứng minh thư và hộ khẩu.

Và không có quốc tịch thì họ sẽ không có việc làm, không được hưởng bất cứ phúc lợi xã hội nào, con cái cũng không được đến trường. Nếp sống khốn cùng và bấp bênh này sẽ kéo dài qua đến thế hệ kế sau, nếu không có sự tu chính về luật lệ di trú đối với những người dân bất hạnh này.

Đây là một vấn đề lớn, ở tầm mức quốc gia. Trong cương vị Thủ Tướng, ông Phúc cần phải có cái nhìn toàn diện và cách giải quyết rốt ráo. Chớ đâu phải bạ đâu nói đó (“Chỉ đạo cơ quan chức năng có giải pháp cụ thể chăm lo cho những Việt kiều nghèo từ Campuchia về nước, sống ở đầu sông Sài Gòn, đoạn nằm giữa 2 tỉnh Bình Phước và Tây Ninh…) là xong!

Còn “những Việt kiều nghèo từ Campuchia về nước” ở những nơi khác thì sao? Không lẽ thây kệ họ! Đó là chưa kể đến những công dân, cũng chả có giấy khai sinh hay căn cước gì ráo trọi, đang sống trong những “xóm liều” giữa lòng Hà Nội mà ông Phúc (dám) chưa nghe ai nói đến bao giờ.

Xóm Liều giữa lòng Hà Nội. Ảnh: Báo Mới

Qua tháng Tám, tại Hội Nghị Ngoại Giao Lần Thứ Hai Mươi Chín, ông T.T. lại “nổ” một phát nghe cũng phát ù tai: “Khắc phục tình trạng nói không ai nghe.”

Ông Phúc à, ráng “khắc phục” chuyện gì dễ hơn chút xíu đi. “Khắc phục tình trạng lạm thu phí visa” của Bộ Ngoại Giao thử coi có được không?

Được chết liền!

Nếu không lạm thu, và không buôn lậu thì các sứ quán Việt Nam sẽ phải đóng cửa ráo trọi vì tất cả nhân viên ngoại giao sẽ chết đói hết trơn. Họ sống sao nổi, ở nước ngoài, với cái đồng lương đốn mạt của nhà nước Việt Nam ?

Ông nói chi đến chuyện viển vông (“khắc phục tình trạng nói không ai nghe”) nghe sao mệt quá hà! Dối tránói lấy đượcnói cho qua chuyện, nói một đằng làm một nẻo đều là những nét văn hoá đặc trưng – đậm đà bản sắc dân tộc – của những quốc gia theo CNXH mà:

  • “Công dân của các nước ấy dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp bằng cách che đậy ‘nói vậy mà không phải vậy’! Nó là cái vỏ cứng để bảo vệ mọi sự bất trắc, chống lại thói quen hay xét nét lời ăn tiếng nói của công dân của mọi chính quyền chuyên chế.” (Nguyễn Khải –  Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất).
  • “Nói dối mãi thành quen, thành tự nhiên, thành ‘mày phải’… nói dối. Không nói dối không thành gì cả, không được gì cả. Một xã hội ứng xử bằng nói dối là một xã hội đang đứng bên bờ vực thẳm hay đang rơi tự do xuống vực thẳm.” (Nguyễn Trọng Tạo – Ngày Nói Thật Cho Việt Nam).
  • “Người nói cứ nói. Thừa hiểu mình nói dối, chẳng ai tin, nhưng cứ nói. Rất thành thật thiết tha. Thuyết giảng chân lý, thuyết giảng con đường. Người nghe làm ra vẻ chăm chú, rất chăm chú, mê say. Nhận thức đường đi. Sáng lòng sáng mắt. Tuy biết tỏng rằng người nói cũng chẳng mảy may tin những điều họ nói, thì mình tin sao được. Nhưng vẫn làm ra vẻ tin, tin thật, tin lắm. Xuýt xoa, tấm tắc dù biết ngời nói nhìn thấu ruột gan mình. Vở diễn vẫn cứ kéo dài năm này sang năm khác. Vì không ai dám nói ra sự thật nên vở vẫn cứ diễn. Cứ giả cách nói, giả cách nghe, giả cách tin tưởng”. (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập II. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).
  • Nhà nước hiện hành được thiết lập, xây dựng trên một thứ nền móng xảo trá và tồn tại tại được là nhờ vào dối gạt triền miên: “Cứ giả cách nói, giả cách nghe, giả cách tin tưởng …” Đòi “khắc phục tình trạng” này là đi ngược lại với chính sách cùng chủ trương của Đảng và Nhà Nước chớ đâu phải chuyện giỡn chơi, cha nội.

Nổ nhỏ và nổ bớt chút xíu đi, ông Phúc. Mỏng mỏng thôi. Nổ hoài và nổ quá Trời dễ bị ù tai lắm; đã vậy, có bữa còn bị trúng miểng (uổng mạng) như không.

Kết cục bi thảm của các nhà cựu độc tài

Kết cục bi thảm của các nhà cựu độc tài

25/10/2011

Những nhà độc tài khét tiếng như Gaddafi, Saddam Hussein hay Hitler đều phải đón nhận một kết cục bi thảm, dù cái chết của mỗi người không ai giống ai.

Kết cục bi thảm của các nhà cựu độc tài

Những nhà độc tài khét tiếng như Gaddafi, Saddam Hussein hay Hitler đều phải đón nhận một kết cục bi thảm, dù cái chết của mỗi người không ai giống ai.

Gaddafi (7/6/1942 – 20/10/2011)

Kết cục bi thảm của các cựu độc tài trên thế giới

Sau 42 năm cầm quyền, Gaddafi bị bắt trong một ống cống ở thành phố Sirte quê hương. Người đàn ông ước tính có tới 200 tỉ USD, số tài sản gấp gần 4 lần Bill Gates, đã bị bắt bởi những kẻ mà ông thường gọi là “chuột” và “sâu bọ”.

Từ ngai vàng và cuộc sống xa hoa xuống ống cống, đó là điều mà ông Gaddafi không bao giờ nghĩ tới. Tuy nhiên, điều đáng nói hơn là khi bị bắt, người đàn ông từng đầy quyền lực đó đã nói những từ của kẻ thua cuộc: “Đừng bắn, đừng bắn”. Những tay súng của phe nổi dậy đã giẫm đạp, kéo lê ông khắp thành phố, trước khi kết liễu nhà cựu độc tài bằng một phát súng vào giữa thái dương.

Saddam Hussein (28/4/1937 – 30/12/2006)

Kết cục bi thảm của các cựu độc tài trên thế giới
Kết cục bi thảm của các cựu độc tài trên thế giới
Hình ảnh ông Saddam Hussein bị treo cổ.

Saddam Hussein là Tổng thống Iraq từ năm 1979 tới năm 2003, khi Mỹ tấn công đất nước này với lý do đã “tàng trữ vũ khí hủy diệt hàng loạt”. Ông đã bị bắt và phải ở tù. Tháng 11/2005, ông bị đem ra tòa án xét xử. Lúc đó có nhiều ý kiến trái chiều nhau về việc xét xử ông Saddam Hussein, nhưng cuối cùng ông này bị kết án “chống lại loài người” vì vụ thảm sát hơn 150 người tại thị trấn Dujail phía Bắc Iraq năm 1982 và cuộc tận diệt khoảng 200.000 người Kurd năm 1988 bằng vũ khí hóa học. Ngày 30/12/2006, ông đã bị thi hành án tử hình treo cổ tại Baghdad, Iraq.

Trong thời kỳ Saddam Hussein tại vị, nền kinh tế Iraq xuống dốc một cách trầm trọng, trong khi người đứng đầu đất nước lại giàu đến mức khó tin. Người ta cho rằng ông đã tích được hàng tỉ USD trong các ngân hàng Thụy Sĩ.

Adolf Hitler (20/4/1889 – 30/4/1945)

Kết cục bi thảm của các cựu độc tài trên thế giới
Adolf Hitler và Eva Braun, người tình và sau này là vợ ông.
Kết cục bi thảm của các cựu độc tài trên thế giới
Nơi thi thể của Hitler và vợ bị đốt cháy.
Kết cục bi thảm của các cựu độc tài trên thế giới
Chiếc giường ngày nào của trùm phát xít Hitler.

Adolf Hitler là Thủ tướng Đức quốc xã từ năm 1933. Ông thiết lập chế độ độc quyền quốc, cấm chỉ tất cả các đảng đối lập và bức hại các đối thủ chính trị. Ông đã gây ra Thế chiến lần thứ 2, thúc đẩy một cách có hệ thống quá trình tước đoạt quyền lợi và sát hại khoảng 6 triệu người Do Thái châu Âu cùng một số nhóm chủng tộc, tôn giáo, chính trị khác. Những tội ác của Hitler được thừa nhận ở bất kỳ góc độ nào.

Ngày 30/4/1945, biết Berlin thất thủ và không có gì cứu vãn được, Hitler cùng vợ đã tự vẫn. Trùm phát xít dùng súng lục tự bắn vào miệng mình, còn vợ nuốt thuốc độc chết. Với những chính sách và cuộc chiến đã gây ra, Hitler đã kéo tụt quá trình phát triển của nhân loại trong một thời gian dài và phải nhận cái kết cục bi thảm.

Augusto Pinochet (25/11/1915 – 10/12/2006)

Kết cục bi thảm của các cựu độc tài trên thế giới

Pinochet là cựu Tổng thống độc tài của đất nước Chile. Năm 1973, ông này đã lãnh đạo một cuộc đảo chính và tự bổ nhiệm làm Tổng thống Chile từ năm 1974.

Trong suốt 16 năm nắm quyền, Pinochet đã thực hiện nhiều vụ trấn áp chính trị, giết chết 3.000 người dân Chile. Ngoài ra, nhà độc tài này đã tra tấn hoặc bỏ tù hàng chục nghìn người khác. Pinochet đã từng nói rằng ở Chile, nếu không có sự tác động của ông, một chiếc lá cũng không dám lung lay. Điều đó cũng phần nào nói lên sự độc tài của Pinochet và nỗi kinh hoàng của người dân Chile dưới thời ông ta nắm quyền.

Nhà độc tài này sau đó đối mặt với hàng loạt lời buộc tội vi phạm nhân quyền, nhưng ông chưa bao giờ phải ngồi tù vì sức khỏe yếu. Ngày 10/12/2006, Pinochet qua đời mà không phải chịu bất kỳ hình phạt nào. Cái kết này có vẻ như khá nhẹ so với những gì mà Pinochet đã gây ra cho đất nước và người dân Chile.

Benito Mussolini (29/7/1883 – 28/4/1945)

Kết cục bi thảm của các cựu độc tài trên thế giới
Mussolini cùng người tình và thư ký bị treo cổ ở Milan.

Benito Mussolini là thủ tướng độc tài cai trị phát xít Italy, với một thể chế quốc gia quân phiệt khắc nghiệt. Với vai trò là thủ tướng, Mussolini dần dần chuyển chế độ chính trị sang chủ nghĩa phát xít. Năm 1924, người đại diện cho chủ nghĩa xã hội, Matteotti, bị ám sát. Quốc hội Ý bị tan rã vào năm 1928, và chế độ độc tài lại được thiết lập theo con đường phát xít. Người đàn ông này đã sống một cuộc đời xa hoa và đầy quyền lực, với những khoản đầu tư lớn trong ngân hàng.

Mussolini đưa Italy vào khối trục của Hitler chống lại quân Đồng Minh trong Thế chiến II. Mussolini là thân hữu của Hitler cùng đồng hành trong Thế chiến II. Trước sự suy sụp của phe phát xít trước quân Đồng Minh, Musolini bị bắt và đưa vào tòa án binh. Sau đó, ông và người tình bị treo cổ.

đỗ quyên

Theo Bưu Điện Việt Nam

Những lời cuối cùng chấn động thế giới của Steve Jobs ông chủ của Iphone Apple

Những lời cuối cùng chấn động thế giới của Steve Jobs ông chủ của Iphone Apple

 STEVE JOBS

“Tôi đã đạt đến tột đỉnh của thành công. Trong con mắt người khác, cuộc đời tôi là một biểu tượng của thành công. Tuy vậy phía sau của công việc tôi có rất ít niềm vui. Tài sản của tôi cuối cùng cũng bình hoá với tôi. Trong lúc này trên giường bệnh viện, hồi tưởng về cuộc đời, những lời khen ngợi, tự cao, tự hào về tài sản nhưng tôi cảm thấy thật vô nghĩa trước tử thần, cái chết.

Trong bóng tối, khi nhìn ánh đèn màu xanh và tiếng ồn ào của máy dưỡng khí, tôi cảm nghiệm được những hơi thở của tử thần rất gần kề. Bây giờ tôi mới hiểu thấu, nếu một lần bạn đã có tiền đủ cho cuộc đời của bạn, bạn hãy đeo đuổi một mục đích khác không liên quan đến tiền bạc. Nên tìm một điều gì quan trọng hơn. Ví dụ như là lịch sử tình yêu nhân loại, nghệ thuật, ước mơ tuổi thơ… Đừng làm nô lệ cho vật chất, giàu sang, vì nó sẽ biến bạn thành một người yếu ớt như tôi.

Thượng Đế tạo dựng chúng ta để cảm nghiệm được tin yêu trong tim, chứ không phải những ảo tưởng về tiền tài, danh vọng như tôi đã làm trong suốt cuộc đời nhưng không thể đem theo tôi được. Tôi có thể mang theo được những kỉ niệm của yêu thương. Đây mới chính là sự giàu sang sẽ có thể đồng hành với bạn, là sức mạnh, ánh sáng soi sáng cho bạn tiến tới. Tình yêu có thể đi hàng ngàn cây số và chính vì thế cuộc đời không có giới hạn. Đi, tiến đến nơi mà bạn muốn, Cố gắng lên để đạt được những mục đích. Tất cả là ở trong tim và trong lòng bàn tay của bạn.

Cái giường nào đắt giá nhất trên đời? Đó là giường bệnh viện, vì nếu có tiền, bạn có thể mướn tài xế lái xe cho bạn, nhưng không thể dùng tiền để thuê người mang bệnh cho bạn. Mất tài sản mình có thể tìm lại được, có một cái khi đã mất thì không thể tìm lại được: sự sống. Dù đang ở giai đoạn nào trong cuộc đời, cuối cùng, tất cả phải đối diện khi bức màn sự sống kéo xuống. Làm ơn hãy nâng niu và nhận thức được giá trị tình yêu gia đình, tình yêu bạn đời và tình yêu bạn hữu, gìn giữ sức khỏe cho bạn và chăm sóc đồng bào của bạn.”

Steve Jobs 

P/s : Đây là lý do tôi muốn giành tất cả yêu thương cho bố mẹ khi họ ở cuối đời . Còn tôi thì được làm từ thiện lặng lẽ ở mọi nơi mà tôi đến với những yêu thương.

(Sưu tầm)

Cuộc đời

Cuộc đời

CUOC DOI

Cuộc đời may mắn biết bao,

Đừng nên quên lãng vì sao rạng ngời.

Cuộc đời đẹp đẽ tuyệt vời,

Cùng nhau ngẫm nghĩ đầy vơi nói chào.

Cuộc đời phúc đức dạt dào,

Cùng nhau tận hưởng ngọt ngào phúc ân.

Cuộc đời mộng ước phàm nhân,

Biến thành thực tế phù vân sớm chiều.

Cuộc đời thử thách cũng nhiều,

Đương đầu vật lộn là điều thiết thân.

Cuộc đời bổn phận nợ nần,

Xin đừng chểnh mảng bất cần bỏ lơ.

Cuộc đời như thể cuộc cờ,

Cùng nhau nhập cuộc từ mờ sớm mai.

Cuộc đời quý lắm ai ơi,

Nâng niu trìu mến nói cười mến thương.

Cuộc đời báu vật mười phương,

Gìn vàng giữ ngọc cương thường tạc ghi.

Cuộc đời biển ái xuân thì,

Nồng nàn sớm tối tình si tiếc gì

Cuộc đòi bí tích huyền vi,

Cùng nhau thể hiện hành vi sớm chiều.

Cuộc đời lỡ hứa nhiều điều,

Câu thề giữ trọn trăm chiều vấn vương.

Cuộc đời trăm xót ngàn thương,

Vượt qua khốn khó vô thường một khi.

Cuộc đời tấu khúc kinh thi,

Cùng nhau hợp xướng cung chi lạ thường.

Cuộc đời là một chiến trường,

Thì xin một dạ can trường cầm cương.

Cuộc đời sân khấu bi thương,

Diễn viên ta sẽ cương tuồng xót xa.

Cuộc đời là chuyền đi xa,

Hành trang sắp sẵn kêu ca ích gì.

Cuộc đời hạnh phúc vô vi,

Ta nên xứng với những gì Chúa ban.

Cuộc trần lẩn quẩn cuộc trần,

Vuông tròn giữ lấy cuộc trần bấy lâu.

Mẹ TERESA (Calcutta)

(bản dịch : GS.Lê Đình Thông)

Giáo Xứ Paris, ngày 04/09/2016

Lê Đình Thông

Chủ Nghĩa cộng sản biến con người thành Cỗ Máy, Lô Nệ ngay trên quê hương mình

httpv://www.youtube.com/watch?v=PKv20N11tIg

Chủ Nghĩa cộng sản biến con người thành Cỗ Máy, Lô Nệ ngay trên quê hương mình.

Bài giảng tháng 07 năm 2015 ở nhà thờ Thái Hà, Hà Nội, hôm nay  nghe lại vẫn thấy quá chính xác , quá đúng , quá đã, áp dụng cho xã hội Việt nam hiện nay, năm 2016.

LM Gioan Nguyễn Ngọc Nam Phong

BẠN BỊ CƯỚP HẠNH PHÚC GIỮA BAN NGÀY

BẠN BỊ CƯỚP HẠNH PHÚC GIỮA BAN NGÀY

 

Và anh thanh niên ấy bỏ đi vì tiếc tài sản kếch sù của mình” (Mc 10,22).

Bạn có ngạc nhiên không khi biết rằng

bạn đã bị lập trình (cài đặt) để sống bất hạnh

và vì thế, dù bạn làm bất cứ điều gì… để mong hạnh phúc, bạn cũng cứ thất bại !!

Tương tự như máy của bạn đã được nhập đầy các phương trình toán học, nên mỗi khi bạn gõ phím để lấy ra những câu thơ của Shakespeare, bạn đều thất bại.

Nếu muốn hạnh phúc thì điều trước tiên bạn cần làm

không phải là nỗ lực,

cũng không phải là có thiện chí

hay có những ước muốn tốt lành, thậm chí có vẻ thánh thiện nữa

 PHẢI hiểu rõ bạn đã bị lập trình chính xác như thế nào.

Sự việc ấy như sau:

1.     Trước hết xã hội và văn hoá đã dạy bạn  tin rằng

mình không thể nào hạnh phúc  không có một số người  một số điều.

Thử nhìn chung quanh bạn: đâu đâu người ta cũng tìm cách xây dựng cuộc đời dựa trên một niềm tin không bao giờ xét lại rằng

nếu không có một số điều kiện như tiền bạc, quyền lực, thành công, sự tán thưởng, danh tiếng, tình yêu, tình bạn, linh đạo, Thượng Đế

thì người ta không thể hạnh phúc.

Còn quan niệm riêng của bạn là gì?

2. Một khi đã tiếp nhận niềm tin ấy, tự nhiên bạn sẽ quyến luyến người này hay vật kia mà bạn cho là nếu thiếu thì không thể hạnh phúc.

3. Sau đó, bạn ra sức chiếm cho bằng được điều quí giá hay con người quí báu ấy,

rồi khi đã có thì bám chặt lấy,

đồng thời triệt hạ hết mọi thứ có thể đánh mất người ấy hay điều ấy.

4. Rốt cuộc bạn trở nên lệ thuộc trong tình cảm,

tới mức đối tượng bạn quyến luyến ấy như có ma lực thu hút bạn

làm bạn phải lo lắng mỗi khi có nguy cơ đánh mất đối tượng ấy

và trở nên khổ sở mỗi khi bị mất đối tượng ấy.

Bây giờ hãy dừng lại một lát; bạn sẽ hốt hoảng khi thấy có cả một danh sách dài lê thê các điều mà lâu nay bạn đã nô lệ.

Hãy nghĩ đến những sự việc và con người cụ thể, chứ không phải là những sự việc và con người trừu tượng…

Một khi các điều mình quyến luyến đã kềm kẹp được bạn, bạn sẽ bắt đầu thu hết sức lực để lúc nào cũng tìm cách sắp xếp lại thế giới chung quanh mình, sao cho mình có thể nắm bắt được và giữ gìn được những điều mình tha thiết.

Đây là một công việc tốn hơi tốn sức, sẽ làm bạn chỉ còn chút ít nghị lực để sống và để hưởng cuộc sống cách đầy đủ. Nhưng đó cũng là một công việc bất khả thi trong một thế giới luôn biến chuyển mà bạn không tài nào có thể kiểm soát.

Thế nên, thay vì sống một cuộc sống thanh thản và sung mãn, bạn đã khiến mình phải sống một cuộc sống đầy sự lo âu, bất  an, căng thẳng và hồi hộp, vỡ mộng..

Quả thật là có một vài lúc ngắn ngủi thế giới như chịu theo những nỗ lực của bạn và tự sắp xếp cho hợp với ước muốn của bạn.

 Trong chốc lát, bạn cảm thấy hạnh phúc.

Hay đúng hơn, bạn cảm thấy một ánh chớp hoan lạc,

nhưng đó không phải là hạnh phúc vì kèm theo sự khoan khoái ấy bạn cảm thấy có một nỗi lo sợ sâu xa  rằng bất cứ lúc nào cái thế giới của những sự việc và con người ấy – mà bạn đã cực nhọc sắp xếp – cũng có thể vượt ra khỏi sự kiểm soát của bạn, làm bạn thất vọng – một điều mà không sớm thì muộn sẽ xảy ra.

5. Và đây là một điều nữa cần cân nhắc:

mỗi khi bạn lo lắng hay sợ sệt, đó chẳng phải là vì bạn không nắm bắt được điều mình tha thiết hay sao?

Và mỗi khi bạn cảm thấy ghen tương, đó chẳng phải là vì có người nào đó cướp mất  điều bạn tha thiết hay sao?

Và chẳng phải là hầu như mọi sự giận dữ của bạn đều xuất phát từ chỗ có ai đó ngăn cản bạn nắm lấy điều mình tha thiết hay sao?

Chẳng phải bạn trở nên đa nghi mỗi khi thấy điều mình tha thiết bị đe doạ hay sao

– bạn lại không thể nào suy nghĩ một cách khách quan:

đó có thể là do toàn bộ cái nhìn của bạn đã bị thiên lệch?

Mỗi khi bạn cảm thấy buồn chán, đó chẳng phải là bạn

 không được cung cấp đủ cái mà bạn cho là sẽ làm mình hạnh phúc,

 không cung cấp đủ điều mình đang tha thiết hay sao?

Và mỗi khi bạn suy sụp và khổ sở, ai cũng thấy rõ nguyên nhân là vì cuộc sống đã không cho bạn cái mà bạn tin là không thể hạnh phúc nếu không có.

Hầu như mọi cảm xúc tiêu cực của bạn đều là hậu quả trực tiếp của sự tha thiết.

Thế là bạn phải oằn lưng vác lấy đủ điều mình tha thiết –

và ra sức tìm hạnh phúc bằng cách ôm chặt gánh nặng ấy.

Một suy nghĩ thật ngu xuẩn.

Điều bi đát là đó lại chính là phương pháp duy nhất mọi người đã được chỉ vẽ để mưu tìm hạnh phúc –

một phương pháp chỉ đem lại lo lắng, thất vọng và hối tiếc.

Hầu như chẳng ai được nói cho biết sự thật này:

muốn hạnh phúc thật sự thì chỉ có một điều duy nhất cần làm là

xoá chương trình bị cài đặt,

là giải gỡ mình ra khỏi những sự tha thiết  ấy.

Khi va vấp trước sự thật hết sức hiển nhiên ấy, người ta thường hốt hoảng vì nghĩ rằng mình sẽ phải đau khổ lắm nếu phải bỏ đi những sự tha thiết ấy.

Nhưng quá trình ấy không hề đau đớn. Ngược lại…

Giải gỡ mình khỏi những quyến luyến ràng buộc là một công việc hết sức thích thú,

nếu phương tiện bạn dùng để làm việc ấy không phải là sức mạnh của ý chí, cũng không phải là sự từ bỏ, mà là sự kiến ngộ.

Tất cả những gì bạn cần làm là:

a. Mở mắt và nhìn xem mình không thực sự cần cái mình đang quyến luyến ràng buộc;

b. Ý thức rõ mình đã bị cài đặt chương trình, đã bị tẩy não để cho rằng mình không thể hạnh phúc hay không thể sống mà không có người ấy, điều ấy.

Hãy nhớ bạn đã một lần đau khổ thế nào, bạn đã một lần cho rằng mình sẽ không bao giờ có lại hạnh phúc vì đã mất người này hay vật kia mà mình hết sức quí mến?

Thế rồi điều gì đã xảy ra?

Thời gian trôi qua và bạn đã học được cách sống vui vẻ trở lại, không đúng sao?

Lẽ ra điều ấy phải cảnh giác bạn về sự giả dối trong những điều mình tin tưởng, về cái trò ma mãnhmà bộ óc bị cài đặt đã chơi bạn.

Ai trong chúng ta cũng đã từng kinh nghiệm:

Lỡ yêu say đắm một con chim vành khuyên…nhưng lại bị gia đình phản đối mãnh liệt đến nỗi phải chia tay trong đau đớn.. như đứt từng khúc ruột và tưởng rằng sẽ không thể sống nổi…Nhưng rồi 3 năm sau, tôi lại háo hức lao vào trong cuộc tình tươi mới….

Chẳng may làm ăn thất bại gần như trắng tay…tôi vài lần muốn tự tử cho tiêu đời…nhưng rồi một thời gian sau…tôi từ từ lấy lại bình tĩnh và vui thú làm ăn trở lại…

 

HÃY NHỚ RẰNG

Một điều mình quyến luyến không phải là một điều có thực,

đó chỉ là điều mình tin như thế, điều mình tưởng tượng như thế trong đầu mình, do mình đã bị cài đặt.

Nếu như điều tưởng tượng ấy không được đưa vào đầu mình, hẳn bạn đã không quyến luyến. Bạn sẽ yêu quí những sự vật và con người, sẽ tận hưởng chúng, nhưng vì không có niềm tin ấy bạn sẽ tận hưởng chúng mà không quyến luyến chúng.

Nhận ra điều này , tôi sẽ thấy kinh nghiệm của Phaolo thật thấm thía, dù Phaolo6 không có vợ :

từ nay những người có vợ hãy sống như không có ;

30 ai khóc lóc, hãy làm như không khóc ;

ai vui mừng, như chẳng mừng vui ;

ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả ;

31 kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng.

Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi. (1 Cr 7: 29-31)

 

Thế thì, có cách nào khác để tận hưởng cuộc đời không?

Bây giờ hãy duyệt lại tất cả những sự tha thiết của bạn.

Và mỗi khi nhìn tới đâu, bạn hãy nói:

 “Tôi không quyến luyến bạn thật sự đâu.

Tôi chỉ tự đánh lừa mình mà cho rằng không có bạn tôi sẽ không hạnh phúc”.

Hãy chân thành làm việc này và bạn sẽ thấy nơi mình có những thay đổi:

“Tôi không quyến luyến bạn thực sự đâu.

Tôi chỉ tự đánh lừa mình mà cho rằng không có bạn tôi sẽ không hạnh phúc”. 

Tác giả: Anthony de Mello, dòng Tên
Dịch giả: Lm. Phêrô Đặng Xuân Thành

From vuisongtrendoi

 

Lời kể của cậu bé trở về từ Thiên đường trả lời câu hỏi linh hồn sẽ đi đâu

Lời kể của cậu bé trở về từ Thiên đường trả lời câu hỏi linh hồn sẽ đi đâu

linh hon1

 

Con người hiện đại đều rất “mê tín” vào các nhà khoa học, nhưng khoa học nhiều lúc cũng mang đến cho chúng ta những nhận thức sai lầm. Vũ trụ còn rất nhiều điều bí ẩn, nếu chỉ dựa vào lý thuyết khoa học thì chỉ đi đến đường cùng.

Linh hồn con người sau khi chết sẽ đi về đâu? (Ảnh: Internet)

Các nhà khoa học thông thường chỉ tin tưởng vào các loại máy móc thiết bị, đối với những hiện tượng tự nhiên bên ngoài, nếu không thể dùng máy móc hiện đại để kiểm chứng, thì đều không chịu thừa nhận. Vậy nên, máy móc đã trở thành cây gậy batoong của các nhà khoa học, nếu như không có nó, thì cũng không thể làm gì được.

Konstantin Korotkov, một khoa học gia người Nga thông qua việc sử dụng kỹ thuật quay phim điện tử sinh vật (bioelectrographic), đã sử dụng kỹ thuật chụp ảnh Kirlian tiên tiến quay chụp được cảnh tượng linh hồn rời khỏi thân thể trong khi người ta chết đi. Sau đó, ông đã tuyên bố rằng con người ta chết vốn không giống như ngọn đèn tắt, con người là có linh hồn. Nhưng linh hồn của con người đã đi đâu? Các nhà khoa học không có nói tiếp được nữa.

linh hon2

Một phụ nữ Ấn Độ trong lúc hỏa táng, máy quay phim đã quay chụp được một hình ảnh từ trong đống lửa lớn đang cháy bay ra. (Ảnh chụp từ clip)

Điều này cũng giống như châm cứu huyệt vị trên thân thể người mà Trung y đã sử dụng hàng nghìn năm qua, hơn nữa cách trị liệu rất hiệu quả. Về sau này, xuất hiện một số nhà khoa học, tuy họ biết châm cứu thực sự có thể trị khỏi bệnh, nhưng họ vẫn muốn bỏ ra một lượng lớn nhân lực, vật lực để nghiên cứu, để chính cặp mắt thịt của mình nhìn thấy “kinh lạc” rồi mới thừa nhận.

Một khoa học gia của Hàn Quốc sau này đã lợi dụng kỹ thuật nhiễm sắc thể và máy móc tiên tiến, cuối cùng đã phát hiện ra kinh lạc, gây phấn khích trong giới khoa học.

Trên các trang mạng còn có lưu truyền một số đoạn video, cho thấy cảnh tưởng linh hồn rời khỏi thể xác. Một đoạn video trong đó cho thấy, trong lúc thi thể của một phụ nữ Ấn Độ đang bị hỏa thiêu, máy quay phim đã quay được một hình ảnh bay ra từ trong đống lửa lớn đang cháy. Hình ảnh này lúc thì nhảy múa xung quanh đống lửa, lúc thì ẩn hiện trong đống lửa lớn.

 httpv://www.youtube.com/watch?v=AdLJt5aiCBs

Gulte.com – Dead Body Burning – Soul Caught On

Các nhà khoa học sau đó tuyên bố đây chính là linh hồn của người phụ nữ. Nếu như đoạn video này không có hiện ra hình ảnh đó, thì liệu người ta có tin rằng người phụ nữ này có linh hồn hay không?

Một đoạn video khác quay lại một cảnh tai nạn xe cộ xảy ra ở miền trung Tây Ban Nha, trong lúc cảnh sát và nhân viên cứu hộ đang xử lý hiện trường, một hình ảnh từ trong chiếc xe xảy ra tai nạn chậm rãi đi ra, sau đó bay đi.

httpv://www.youtube.com/watch?v=Ac04RVl3RIA

 Real GHOST caught on tape after fatal car crash accident GHOST CAUGHT ON TAPE Scary videos of ghosts

Colton Burpo giải đáp linh hồn đã đi đâu

Các nhà khoa học lợi dụng máy móc kỹ thuật đã phát hiện ra con người là có linh hồn, nhưng người ta sau khi chết linh hồn sẽ đi về đâu? Các nhà khoa học đến nay vẫn không có câu trả lời.

Một thanh niên người Mỹ 15 tuổi, cách đây 12 năm đã từng gặp một sự việc nguy hiểm, mạng sống nguy kịch. Sau khi được cứu sống lại, cậu đã giải đáp được vấn đề mà các nhà khoa học không thể tìm ra câu trả lời, đó chính là linh hồn của con người sẽ đi về đâu.

Cậu bé này tên Colton Burpo, năm cậu được 3 tuổi trong chuyến du lịch cùng bố mẹ đã bị sốt cao, viêm ruột thừa, bị chẩn đoán là cảm mạo, trên đường trở về nhà tình hình càng chuyển biến xấu. Đưa đến bệnh viện kiểm tra, mới phát hiện ruột thừa đã thủng, mạng sống nguy trong sớm tối, cần phải làm phẫu thuật ngay. May mắn là, cậu bé Colton mạng lớn, cuối cùng đã chuyển nguy thành an.

Khoảng một năm sau, có một ngày cậu cùng với bố, mẹ, chị gái cả nhà 4 người lái xe đi ngang qua bệnh viện đã từng cứu sống cậu, bố hỏi Colton rằng cậu có còn nhớ nơi này hay không? Cậu trả lời: “Đương nhiên còn nhớ, các Thiên thần đã hát cho con nghe ở chính nơi này”.

Cậu nói tiếp rằng: “Bởi vì con sợ hãi, vậy nên Chúa Giê-su đã bảo Thiên thần hát cho con nghe”. Cậu còn nói rằng Chúa Giê-su còn bế cậu lên, để cậu ngồi trên đùi của Ngài.

linh hon3

Colton trong tiết mục truyền hình chứng thực Thần thật sự tồn tại. (Ảnh: Internet)

Colton nhớ lại rằng, hôm đó cậu bay lên từ trên chiếc giường phẫu thuật, cúi đầu nhìn xuống, thấy các bác sĩ đều đang bận rộn, cậu bèn đi xuyên qua bức tường, nhìn thấy bố đang cầu nguyện, sau khi mẹ cầu nguyện thì nói chuyện điện thoại. Cậu kể lại không sai chút nào, điều khiến bố mẹ khó tin chính là, cậu nói bố mẹ lúc đó cầu nguyện ở trong những gian phòng khác nhau.

Một ngày, Colton đột nhiên nói: “Mẹ ơi, con có hai người chị gái”. Mẹ cậu rất kinh ngạc, bà chưa từng kể lại với cậu chuyện này, trước khi cậu ra đời, có một người chị gái, vì bị sảy thai nên đã không có cơ duyên đến thế giới này.

Cậu nói: “Người chị ở Thiên đường nhìn rất quen, chị ấy ôm con rất vui mừng, nói cuối cùng đã gặp được người nhà rồi!”.

Colton nói ở trên Thiên đường cũng nhìn thấy ông cố đã qua đời cách đây hơn 30 năm trước. Mặc dù ở nhân gian trước khi Colton ra đời thì ông cố đã mất từ lâu, nhưng ở Thiên đường, Colton lại gặp được ông ấy.

httpv://www.youtube.com/watch?v=QdUGoFTfP7w

11 yr Old Went to Heaven and Back, and Tells What He Saw

Colton miêu tả rằng Thiên đường thật sự rất đẹp, có rất nhiều màu sắc, “có đầy đủ tất cả màu sắc của cầu vồng”hơn nữa còn đẹp hơn rất nhiều so với màu sắc của nhân gian, chúng luôn phát sáng, đầy sức sống, bầu trời cũng không bao giờ tối.

Trên cánh cửa vàng kim có khảm rất nhiều trân châu; ngoài Chúa Giê-su ra, mỗi một người đều có cánh, có thể bay lượn khắp nơi, mỗi người mặc áo bào màu trắng với dây đai màu sắc khác nhau, trên đầu còn tỏa ánh hào quang. Chúa Giê-su có thể đặt cả thế giới trong lòng bàn tay của Ngài…

Tháng 11/2010, sau khi FoxNews đăng tải câu chuyện về trải nghiệm lên Thiên đường của cậu bé này, đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, đây như một bằng chứng để chứng minh “Thiên đường tồn tại”. Rất nhiều trang truyền thông quốc tế đang tiếp tục theo sát những báo cáo này.

Các nhà khoa học chứng minh có linh hồn tồn tại, còn Colton thì trả lời được linh hồn đã đi đến đâu, cũng đã chứng thực Thiên đường thật sự tồn tại.

Những quan niệm cố chấp do khoa học tạo thành, khiến người ta tin rằng không thấy thì không tin, khiến người ta mất đi ước thúc về mặt đạo đức tâm linh, để rồi chuyện xấu gì cũng đều dám làm.

Theo Epochtimes.com

Phạm Quỳnh và Việt Nam trong giai đoạn thoát Hán ngữ

Phạm Quỳnh và Việt Nam trong giai đoạn thoát Hán ngữ

 

PHAM QUYNH

 

 

 

 

 

 

Phạm Quỳnh khi còn làm quan nhà Nguyễn

   Trong bài Khảo về chữ quốc ngữ của Nam Phong tạp chí số 122, tháng 10.1927, Phạm Quỳnh đã khẳng định một niềm tin, và lời ông vẫn còn giá trị cho đến hôm nay: “Tôi tin rằng hậu vận nước Nam hay hay là dở là ở chữ quốc ngữ, ở văn quốc ngữ”.
Nói đến chữ quốc ngữ hiện chúng ta đang dùng, phải ngược về thế kỷ 17, thời nó được khai sinh. Nhưng ở thời điểm ra đời, loại chữ viết dùng mẫu tự Latinh ghi âm tiếng Việt ấy chỉ sử dụng trong phạm vi nhỏ hẹp để truyền giáo. Phải đến đầu thế kỷ 20, khi người Pháp hiện diện ở nước Nam, chữ quốc ngữ mới dần được dùng nhiều hơn, phổ biến cho đến nay.

Lần hồi về cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, cái thuở mà những nhà nho cựu học chưa quen với cảnh “vứt bút lông đi viết bút chì”. Ấy là lúc Nho học dùng Hán – Nôm với tân học dùng chữ quốc ngữ, chữ Pháp có sự va chạm mạnh mẽ. Còn nhớ như cụ đồ Chiểu, từng xem đây là thứ chữ của “Tây xâm”, bài bác kịch liệt lắm.

Ấy nhưng, dần dà qua thời gian, ngoài việc người Pháp đưa chữ quốc ngữ vào giảng dạy trong hệ thống trường học Việt, thì nhiều trí thức Tây học, nhận thấy sự thuận tiện của loại chữ ghi âm tiếng Việt theo mẫu tự Latinh này, vừa dễ đọc, dễ viết, dễ truyền tải văn hóa, không như chữ Hán, chỉ phổ biến trong giới nho học là đọc thông, viết thạo, còn bình dân thì đa phần một chữ bẻ đôi chưa tỏ. Riêng chữ quốc ngữ, chỉ dăm bữa nửa tháng là có thể tập đọc, tập viết được.

Nhận thấy đây là lợi khí to lớn, nhiều trí thức Tây học bấy giờ đã ra sức hô hào, vận động và đi tiên phong trong việc phổ biến học chữ quốc ngữ. Ta còn nhớ, Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907 đã gây một hiệu ứng lớn cho dân Việt trong việc học thứ chữ này. Rồi những hoạt động của Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Paulus Của, Trương Minh Ký… trong địa hạt báo chí quốc ngữ đã có những tác dụng đầu tiên ở cuối thế kỷ 19. Sang đầu thế kỷ 20, góp vào tiếng nói ấy, chính là những hoạt động sôi nổi của “Tứ kiệt Hà thành” cho công cuộc dùng chữ quốc ngữ. Ở đây, ta bàn riêng về nhà văn hóa Phạm Quỳnh với chữ quốc ngữ mà thôi.

Sinh thời, họ Phạm có một câu nói rất nổi tiếng về chữ quốc ngữ, mà ngày nay, hậu thế vẫn còn ghi nhớ: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước ta còn”. Dẫu giỏi Pháp ngữ, rồi sau này bồi bổ cả vốn Hán ngữ, nhưng Phạm Quỳnh nhận thức rõ vai trò của Việt ngữ. Trong Nam Phong tạp chí số 122, tháng 10.1927, ở bài Bảo tồn Nam ngữ, ông chỉ rõ vai trò quan trọng của thứ tiếng mà ông gọi là Nam ngữ: “Muốn cho được tỉnh, muốn cho được khôn, thì chỉ có một không hai, là phải học chữ quốc ngữ, phải trau dồi tiếng quốc âm nước nhà, là phải học hành tra cứu cho cao thẳm thuần túy vậy”, hay trong bài Chữ Pháp có dùng làm quốc văn An Nam được không? đăng trên Nam Phong tạp chí số 22, tháng 4.1919, ông cho rằng Việt ngữ “đủ dùng cho người nước Nam, phàm cái trí người An Nam ta nghĩ được đến đâu, tiếng An Nam phải nói được đến đấy”. Quan điểm của Phạm Quỳnh là người Nam phải dùng Việt ngữ – Nam ngữ, tức là quốc ngữ bây giờ vậy.

Đề cao tầm quan trọng của Nam ngữ, cũng là thể hiện bản sắc, linh hồn, văn hóa dân tộc. Phạm Quỳnh mặc dù giỏi ngoại ngữ, nhưng ông không đề cao tuyệt đối Pháp ngữ hay Hán ngữ. Trong quan điểm của học giả họ Phạm, việc học ngoại ngữ cũng rất quan trọng, bởi “Học chữ ngoại quốc để bồi bổ cho chữ nước nhà” (bài Bảo tồn Nam ngữ) nhưng ông không tuyệt đối hóa vai trò của ngoại ngữ. Tỉ như việc học Pháp ngữ, ông cho rằng đó là phương tiện để mình tiếp cận, thu thái văn minh phương Tây, nghĩ là lấy nó làm cầu nối để mình tiếp thu cái tiến bộ của nhân loại: “Chữ Pháp là văn tự hay, người mình nên học tập, nghiên cứu cho thâm để nhờ đó mà thâu nhập lấy những kết quả tốt cho văn minh đời nay”. Còn Hán ngữ, theo ông là để bảo tồn văn hóa cổ chứ không phải là dứt hẳn nó. Quan điểm của học giả họ Phạm, đến nay ta vẫn thấy còn giá trị khi dân Việt chỉ một bộ phận nhỏ hẹp biết tiếng Hán, nhiều di sản vật thể, phi vật thể có liên quan đến thứ chữ này dần lụi tàn theo thời gian.

Để chăm chút cho Nam ngữ lan tỏa nhiều hơn nữa trong dân Việt, Phạm Quỳnh liên tục viết bài phân tích điểm hay, cái lợi của việc học chữ quốc ngữ trên báo chí, đặc biệt là trên Nam Phong tạp chí. Bình sinh, ông đã thực hiện nhiều lần đăng đàn diễn thuyết về vấn đề học chữ quốc ngữ. Không chỉ dùng công cụ báo chí từ tờNam Phong tạp chí ông lập năm 1917 là vũ khí truyền thông tuyên truyền cho vai trò của Nam ngữ, mà trên tờ báo ấy, văn chương quốc ngữ, những bài luận, bài sử… bằng quốc ngữ đã góp phần làm nên tên tuổi của những Nguyễn Bá Trác, Phạm Duy Tốn, Đông Hồ Lâm Tấn Phác, Tương Phố…

Năm 1919, ông cùng nhiều nhà trí thức tham gia lập Hội Khai Trí Tiến Đức và là Tổng thư ký của Hội. Phạm Quỳnh chính là một trong mười người tham gia biên soạn cuốn Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức cùng với Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Dương Bá Trạc… toàn những tay “anh hùng hảo hán” trong lĩnh vực văn chương thuở ấy. Ông còn là Hội trưởng Hội Trí Tri với chủ trương hoạt động “tiên trí kỳ tri, trí tri, tại cách vật (trước hết để biết, biết tường tận là do biết nguyên lý sự vật).  Trong thời gian 1924 – 1932, theo Tác gia văn học Thăng Long – Hà Nội (từ thế kỷ XI đến giữa  thế kỷ XX) cho hay, Phạm Quỳnh còn trực tiếp tham gia giảng dạy về ngôn ngữ và văn chương Hán Việt tại Trường cao đẳng Hà Nội.

Hoạt động văn chương, báo chí, mà đặc biệt qua tờ Nam Phong tạp chí ông nắm, Phạm Quỳnh đã góp phần to lớn cho thứ chữ dân tộc, như trong Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945 ghi: “tạp chí Nam Phong đã xây dựng nên một nền văn học căn bản và vững chắc cho văn chương chữ quốc ngữ”. Nhờ hoạt động cũng như uy tín bấy giờ của Phạm Quỳnh, ông đã góp thêm một tiếng nói trong công cuộc vận động đưa Việt ngữ thành quốc ngữ. Trong bài Khảo về chữ quốc ngữ của Nam Phong tạp chí số 122, tháng 10.1927, Phạm Quỳnh đã khẳng định một niềm tin, và lời ông vẫn còn giá trị cho đến hôm nay: “Tôi tin rằng hậu vận nước Nam hay hay là dở là ở chữ quốc ngữ, ở văn quốc ngữ”. Và năm 1945, khi nước Việt Nam mới ra đời, Việt ngữ chính thức trở thành chữ viết của dân tộc. Trước đó vào năm 1939, Hội Truyền bá học chữ quốc ngữ còn xuất bản một cuốn sách giúp dân Việt học Việt ngữ hết sức giản tiện mang tên Vần quốc ngữ dạy theo phương pháp mới do Trần Văn Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Vũ Hy Trác biên soạn, hết sức giản tiện, mà ta có thể ngâm nga qua mẹo học như:

i, t giống móc cả hai,

i ngắn thêm mũ, t dài có ngang.

Hay:

a, o hai chữ khác nhau,

vì a có cái móc câu bên mình…

Trần Đình Ba

Thím Ngân

 Thím Ngân

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Hồi nẳm, không hiểu thi sĩ Bùi Giáng si mê kịch sĩ Kim Cương cái điểm nào; chớ còn bây giờ thì tui chết mê chết mệt chỉ vì nhan sắc khuynh thành của thím Nguyễn Thị Kim Ngân.

Chủ Tịch Quốc Hội ăn mặc cách chi tôi ngó cũng xinh, chụp hình kiểu nào tui coi cũng đặng. Ngay cả cái cách bà ấy đổ (mẹ) nguyên cả sô bắp xuống ao cá bác Hồ tui cũng thấy (sao) nhí nhảnh, ngây thơ và dễ thương hết sức!

Một phụ nữ xinh đẹp và khả ái quá cỡ như vậy, tất nhiên, không thể nào tránh được lòng ghen ghét hay đố kỵ của bàn dân thiên hạ. Chả trách thím Ngân bị nhiều người (trong cũng như ngoài nước) mắng nhiếc và xỉ vả không tiếc lời, dù hổng có làm điều chi sai trật cả.

Coi: Quốc Hội khoá XIV tiếp tục lùi luật biểu tình thì có gì bất ngờ hay mới lạ đâu nào? Cả chục khoá trước cũng đều “bàn lùi” hết trơn hết trọi mà.

Thím Ngân chỉ nói lên là một sự thật hiển nhiên, khi bầy tỏ quan ngại về tình trạng “rối loạn đất nước” thôi. Chớ hơn bẩy mươi năm qua, kể từ khi mà cách mạng cướp được quyền bính, có ngày nào mà xứ sở này được an bình đâu mà không lo “rối loạn” ?

Có xét nét lắm thì cũng chỉ nên phiền trách thím Ngân về một chuyện nhỏ thôi, nhỏ còn hơn con thỏ nữa, đó là việc Quốc Hội khoá XIV đã dùng phiên họp khai mạc để thảo luận về một dự luật mà tôi e là hoàn toàn không cần thiết – Luật Cảnh Vệ.

Dự thảo Luật gồm 5 chương, 29 điều. Xin trích dẫn vài khoản trong điều 10 để rộng đường dư luận:

 Đối với Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ áp dụng các biện pháp, chế độ cảnh vệ sau đây:

  1. a) Bảo vệ tiếp cận;
  2. b) Bố trí lực lượng Cảnh vệ vũ trang tuần tra, canh gác tại nơi ở, nơi làm việc;
  3. c) Kiểm tra an ninh, an toàn đồ dùng, vật phẩm, phương tiện đi lại, các tác nhân khác; kiểm nghiệm thức ăn, nước uống trước khi sử dụng;nắm tình hình, khảo sát xây dựng, triển khai phương án bảo vệ.

Thảo nào mà đã có lúc ông Tôn Đức Thắng la làng là trong nhà toàn là “lính kín” không hà:

“Một người bạn tôi quen thân với cụ, cha anh trước kia là đàn em cụ, kể rằng một hôm anh đến thăm cụ, vào thời gian nghị quyết 9, thì cụ dắt anh vào phòng riêng thì thào: ‘mày có thấy lính kín theo mầy tới đây không mầy?’ Anh ngạc nhiên quá. Tưởng anh lo lắng cho cụ, cụ mỉm cười hiền hậu:’Là tao lo cho tụi bây, chớ tao hổng lo cho tao .Trong nhà tao nè, lính kín không có thiếu.” (Vũ Thư Hiên, Đêm Giữa Ban Ngày. California: Văn Nghệ, 1997).

Bác Tôn (chắc) bị bệnh hoang tưởng? Đảng bố trí lực lượng cảnh vệ vũ trang tuần tra, canh gác tại nơi ở, nơi làm việc của lãnh tụ mà ổng lại tưởng “lính kín” đang rình rập nhà mình.  Tổng Bí Thư Đặng Xuân Khu cũng vậy, cũng đa nghi dữ lắm:

“Trường Chinh chết, Hồng Ngọc, vợ Hoàng Minh Chính và Hà, con gái cả đến nhà chia buồn. Hai mẹ con về, Đặng Xuân Kỳ tiễn. Kỳ vừa đi qua sân sỏi vừa nói: ông cụ tôi ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù, tập II. Người Việt, Westminster, CA: 2014).

Cũng ở tác phẩm dẫn thượng, nơi trang 194, tác giả còn cho biết thêm là Thủ Tướng Phạm Văn Đồng có thói quen “thì thào” với khách quen ở ngoài vườn vì ổng sợ trong nhà … có rệp!

Coi: Chủ Tịch Nước, Tổng Bí Thư, Thủ Tướng đều không dám ăn, cũng không dám nói, vì sợ bị đầu độc hay nghe lén. Nếu Dự Luật Cảnh Vệ có điều “ngăn cấm các đồng chí không được rình rập và hãm hại lẫn nhau” thì hay biết chừng nào. Hay nhất là qúi ông Dương Bạch MaiPhạm Quí NgọNguyễn Bá ThanhPhạm Duy Cường, Ngô Ngọc Tuấn … đã không uổng mạng!

Luật Cảnh Vệ chỉ chuyên chú vào việc bảo vệ các đồng chí lãnh đạo khỏi bị những thế lực thù địch ám sát thôi hà. Thiệt là suy bụng ta ra bụng người. Rảnh, xem qua vài đoạn trong cuốn hồi ký (Gió Mùa Đông Bắc) của bác sĩ Trần Ngươn Phiêu coi:

Lúc Pháp chưa trở lại chiếm Sài Gòn, ngày 09-09-1945 người của Trần Văn Giàu là Lý Huê Vinh thuộc Quốc gia Tự vệ Cuộc, đã bao vây trụ sở Việt Nam Độc lập Vận động Hội để bắt Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo, Huỳnh Phú Sổ ở biệt thự đường Miche (tức Đường Phùng Khắc Khoan). Ông Huỳnh Phú Sổ đã thoát, nhờ sang được một nhà bên cạnh.

 Quốc gia Tự vệ Cuộc với sự trợ giúp của Mai Văn Bộ, đã dàn cảnh để bêu xấu Ông Huỳnh Phú Sổ bằng cách ngụy tạo chưng bày một rương đầy hình ảnh phụ nữ khỏa thân mà họ phao vu là đã bắt gặp trong khi lục soát nhà.

Trong đêm 23 tháng 9 năm 1945, ngày lịch sử mở màn cuộc Kháng chiến Cách mạng Mùa Thu ở Nam bộ, người bị giết đầu tiên, thây phơi trên đường Albert 1er (Đường Đinh Tiên Hoàng) là ông Lê Văn Vững, bí thư vùng Sài Gòn-Chợ Lớn của nhóm Tranh Đấu và cũng là người phụ trách phát hành lại báo Tranh Đấu. Như vậy người Việt Nam đầu tiên đã bỏ mình trong cuộc Kháng chiến chống Pháp không do thực dân giết mà lại do Tự vệ Cuộc miền Nam thanh toán…

Vài ngày sau 23 tháng 09, 1945 nhà giáo Nguyễn Thi Lợi phụ trách báo Tranh Đấu cũng bị thủ tiêu ở Cần Giuộc, Chợ Lớn. Cuộc khủng bố trắng, săn bắt, ám sát các nhân sĩ  ái quốc có uy tín nhưng không thuộc Đảng Cộng sản từ đó đã xảy ra hằng ngày, bắt đầu từ Bùi Quang Chiêu đến Hồ Văn Ngà, Trần Quang Vinh, Luật sư  Hồ Vĩnh Ký và vợ là Bác sĩ Nguyễn Thị Sương (nguyên Thủ lãnh Phụ Nữ Tiền Phong) v.v…

Đối với bọn tay sai Mỹ/Ngụy, bán nước cầu vinh thì Đảng còn mạnh tay hơn nữa. Báo Dân Việt, số ra hôm 30 tháng 4 năm 2011, có bài viết (“Tôi Ám Sát Người Sắp Làm Thủ Tướng Sài Gòn”) của chiến sĩ đặc công Vũ Quang Hùng. Xin trích dẫn đôi đoạn:

Trưa 10.11.1971. Một tiếng nổ long trời tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản khiến ông Nguyễn Văn Bông – Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, người chuẩn bị nắm chức thủ tướng (ngụy) chết tại chỗ…

Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam – Phó ban An ninh T4 (tức khu vực Sài Gòn-Gia Định): “Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch.

Ảnh: Blog Sự Đời

Giáo sư Nguyễn Văn Bông không phải là người “trí thức có uy tín” đầu tiên, hay duy nhất, bị cách mạng … trừ khử bằng chất nổ và lựu đạn. Hai năm trước đó, G.S.  Lê Minh Trí cũng bị giết chết theo cùng một cách.

Bộ Trưởng Giáo Dục Lê Minh Trí bị ám sát năm 1969. Ảnh: Minh Đức

Cách ám sát giáo sư Nguyễn Văn Bông và Lê Minh Trí, tuy thế, “văn minh” hơn thấy rõ nếu so với kiểu “trừ khử” học giả Phạm Quỳnh – theo lời kể của ông Phạm Tuân:

Thầy tôi bị giết trước, bị đánh vào đầu bằng xẻng, cuốc, sau đó còn bị bắn bồi thêm 3 phát đạn… Cụ Khôi cũng bị bắn 3 phát… ông Huân hoảng sợ, vùng chạy thì bị bắt lại và bị bắn một phát ngay vào đầu… Cả 3 thi hài bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất.”

Cuối bài tiểu luận (Những Cái Chết Tức Tưởi Của Nhà Văn, Chuyện Bây Giờ Mới Kể) nhà nghiên cứu văn học Thái Doãn Hiểu hạ bút:

“Những người bị giết đều là những tinh hoa, là  danh sĩ đạo cao đức trọng, yêu nước thương dân, có thành tựu văn hóa sáng giá cống hiến cho nền văn hiến nước nhà. Họ chết mỗi người mỗi cách đau xót và hàm oan: Nhà văn Lan Khai bị xô xuống vực, văn hào Ngô Tất Tố bị bức cho treo cổ tự vẫn, Khái Hưng bị bỏ rọ trắn sông, Phạm Quỳnh đối thủ  đáng gờm của thực dân Pháp bị xử tử, Tạ Thu Thâu nhà yêu nước lớn bị tử bắn; nàng thơ  nữ sĩ Thu Hồng bị bắn lén từ sau lưng; Nhượng Tống dịch giả tài hoa số 1 bị ám sát; Dương Quảng Hàm vị giáo sư đáng kính ra khỏi nhà đi  mãi không về; vị bồ tát Thiếu Chửu bị bức hại nhảy xuống sông tự tận…”

Tính gồm luôn mạng sống của những thường dân vô tội bị xử tử trong Cải Cách Ruộng Đất (ở miền Bắc) Chiến Cuộc Mậu (ở miền Trung) và vô số viên chức xã ấp bị lôi ra khỏi nhà bắn chết giữa đêm (ở miền Nam) thì con số nạn nhân của cách mạng dám lên tới hàng triệu mạng. Thay vì bàn thảo về Dự Luật Cảnh Vệ, nếu Quốc Hội khoá XIV khai mạc phiên họp đầu tiên bằng dự luật phục hồi danh dự cho những nạn nhân kể trên thì chắc chắn thím Ngân sẽ để lại một dấu ấn tốt đẹp hơn trong lòng người.

Nói qua nói lại gì chăng nữa thì chuyện cũng dĩ lỡ hết trơn rồi.  Chủ Tịch Quốc Hội cùng các bạn đồng viện, nói nào ngay, cũng đã làm việc hết sức mình theo cái tâm và cái tầm của họ.

Chúng ta không nên khắt khe và kỳ vọng nhiều quá vào một cơ quan lập pháp mà nhà nước hiện hành chỉ đặt ra để làm kiểng, ngó cho nó đẹp mắt thôi. Mà đã nói đến cái đẹp thì nhan sắc của phụ nữa là điều rất đáng quan tâm, mọi thứ khác đều là chuyện nhỏ và là đồ bỏ!