httpv://www.youtube.com/watch?v=hJMqWvXBFro
CSVN thừa nhận mang 16 tấn vàng VNCH cống nộp cho Liên Xô

Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt 5,44)
httpv://www.youtube.com/watch?v=hJMqWvXBFro
CSVN thừa nhận mang 16 tấn vàng VNCH cống nộp cho Liên Xô
Kẻ Ăn Cắp Một Ổ Bánh Mì
Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài
Người ta thường kể về một trong những ông thị trưởng đầu tiên của thành phố New York bên Hoa Kỳ giai thoại như sau:
Một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa các phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một mẩu bánh mì.
Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “Gia đình tôi đang chết đói”.
Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biện bạch của ông lão, viên thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: “Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải đóng 10 đô la”.
Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong túi của mình ra 10 đô la và trao cho người đàn ông khốn khổ.
Quay xuống cử tọa ông nói tiếp: “Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp”…
Nói xong, Ông ra lệnh cho biện ký đi thu tiền và trao hết tất cả cho Ông Lão.
Khi chiếc mũ đã được truyền một vòng tòa án và trở về tay mình, ông lão đếm được tất cả 47 đô la 50 xu.
Trong sứ điệp Mùa Chay năm 1991, Thánh giáo-hoàng Gioan Phaolô II đã mời gọi chúng ta hãy đọc và suy ngẫm về bài dụ ngôn người giàu có và Lazarô.
Mới nghe qua, chúng ta có cảm tưởng người giàu có trong bài dụ ngôn đã không làm điều gian ác nào để đến độ phải bị trầm luân. Chúa Giêsu đã không nói: ông đã trộm cướp, hay biển lận hoặc gian xảo trong việc làm ăn. Ngài cũng không kết án việc ông ngày ngày yến tiệc linh đình.
Vậy thì đâu là tội của người phú hộ?
Thưa đó là tội dửng dưng trước nỗi khổ của người khác.
Chúa Giêsu nói đến sự hiện diện ngày qua ngày của một người khốn khổ trước cửa nhà ông để cho chúng ta thấy sự đang tâm làm ngơ của người giàu có… Máu chảy, ruột mềm. Trước cảnh khốn khổ của người đồng loại, mà người giàu có ấy vẫn không biểu lộ một chút xúc động hoặc làm như không nhìn thấy, thì quả thật không gì đáng trách bằng, bởi vì người giàu có đã làm cho trái tim của mình khô cứng.
Dửng dưng trước nỗi khổ của người khác không là một thái độ vô thưởng vô phạt, mà là một hành động tội ác.
Ông thị trưởng thành phố New York trong câu chuyện trên đây quả thực đã thấy được tội ác của chính ông và của thị dân của ông đối với ông lão ăn cắp bánh mì.
Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài
13-9-2016
Câu nói không sai nhưng nó ngô nghê, hô khẩu hiệu rỗng tuếch và sẽ chẳng hề cải thiện vấn nạn tham nhũng của đất nước. Tham nhũng là hành động của kẻ lợi dụng chức vụ để ăn cắp tiền của dân. “Thằng ăn cắp” to đầu lặng lẽ ấy còn nguy hiểm gấp hàng nghìn, hàng tỉ lần một thằng ăn cắp ngoài đường. Nếu những thằng ăn cắp lớn nhỏ mà sợ cái văn hoá khinh bỉ và biết xấu hổ thì chúng đã không ăn cắp và chúng đã là những con người hoàn toàn khác. Hơn nữa, không có thằng ăn cắp nào mà lại đi vỗ ngực tự xưng “tao là thằng ăn cắp đây” để mọi người nhổ vào mặt, hay tát vào mặt thể hiện sự khinh bỉ như lời ông dạy.
Để diệt sâu, diệt mối thì cần phun thuốc, chứ không ai đứng ngoài tổ và kêu “sâu ơi tao khinh chúng mày lắm lắm!” rồi đứng chờ để chúng xấu hổ quá mà chui ra. Nếu làm thế, bọn sâu sẽ ngồi trong tổ cười và nghĩ bụng sao chúng mày ngu thế, còn lâu bố mới xấu hổ. Tiền bố cho gái không cần nghĩ, chim bố thoải mái tung hoành trong bể sướng. Bọn sâu con của bố tiêu mấy đời không hết, cần thì bố cho chúng phắn ra nước ngoài tránh thuốc lâu dài. Bố sướng trước cái đã, xấu hổ bố để sau. Đời là mấy tí. Cứ cho chúng mày hô. Hô càng nhiều thì chúng mày càng ngu, càng không có thời gian nghĩ ra thuốc diệt.
Câu nói khiến mọi người cười bởi nó là đương nhiên, trẻ con cũng biết. Chẳng lẽ không có sự hô hào của ông thì chúng tôi, những người dân không biết khinh bỉ kẻ tham nhũng? Mà chúng tôi không chỉ khinh bỉ mà còn căm thù những con mọt khổng lồ ấy cơ. Chúng như những con quỷ hút máu dân lành, vắt kiệt tài nguyên đất nước. Đến cái giường, con trâu, con bò của người nông dân chúng còn không tha cơ mà. Cho nên, người dân không cần ông Huynh dậy bảo điều này. Nhất định là không.
Vậy ông Huynh đang giao giảng cho ai? Chắc là cho các đảng viên. Nhưng vấn đề ở đây là chỉ có quan chức mới có thể tham nhũng mà ở Việt Nam thì chỉ có đảng viên mới có thể làm quan chức. Vậy, vô tình ông Huynh đã hô hào những đồng chí của mình khinh bỉ nhau. Điều này có vẻ như không khôn ngoan lắm trong nhiệm vụ bảo vệ uy tín và đoàn kết của đảng. Nhưng thôi, đấy là việc nội bộ các ông, tôi không rỗi hơi bàn nhiều.
Bàn một chút về câu chữ. Khi dùng đến chữ “phải” là người ta nghĩ đến luật lệ, là sự bắt buộc. Không ai lại đi nói “phải” với văn hoá cả. Văn hoá là một khái niệm mềm mại, là một sức sống tự nhiên, không ai cưỡng bức văn hoá bằng chữ “phải”. Ông Huynh nên chuẩn bị lời phát biểu kĩ lưỡng ra giấy giống như các đồng chí của ông thường làm. Tuy nhiên, điều này thông cảm được bởi có lẽ là do ông quen hô khẩu hiệu.
Nói dài nhưng thực ra thì ý cũng chỉ ngắn gọn thế này. Tôi đề nghị các ông tôn trọng người dân hơn khi phát biểu. Đừng nghĩ người dân là trẻ con mà hồn nhiên như anh tiên (tiên là phải chẳng xinh) mà đứng lên dậy bảo những điều ngô nghê, không nói ai cũng hiểu. Người dân chúng tôi cần lãnh đạo có phát ngôn và hành động có hiệu quả cụ thể. Chúng tôi mệt mỏi khi phải nghe khẩu hiệu kiểu loa phường lắm rồi. Đưa ra chính sách, giải pháp cụ thể mới khó chứ hô hào chung chung thì ai cũng làm được.
Mà lần sau, nếu ông Huynh thích hô khẩu hiệu thì hô trong nội bộ các đồng chí của ông thôi. Tôi cam đoan các đồng chí của ông sẽ ngoan ngoãn dạ vâng nuốt từng lời vàng ngọc của ông. Tất nhiên là bề mặt thôi, thực tế trong lòng thế nào thì thánh mới biết. À, tôi đoán những đồng chí tham nhũng nhiều nhất sẽ là những đồng chí dạ vâng ngoan ngoãn nhất. Nhưng mà thôi, cũng cảm ơn ông vì chúng tôi được một trận cười.

KIẾP MỒ CÔI
Anh ơi ! Em lạnh lắm rồi !
Cố lên em nhé ! Vào ngồi lòng anh
Em khóc anh sẽ dỗ dành
Mẹ cha không có, anh đành làm thay !
Anh ơi ! Sao chẳng có ai ?
Mình không cha mẹ, chẳng ai nhìn mình !
Mình dơ, họ sợ, không nhìn !
Đói cơm khát nước, thiếu tình yêu thương
Đêm về buốt lạnh gió sương
Không nơi che chở ngoài đường cút côi
Ngày thì vất vả ngược xuôi
Xin lòng bố thí để nuôi thân này
Mẹ cha sao chẳng có đây ?
Bỏ mình côi cút, họ rầy, họ la !
Tại sao, mình lại không cha ?
Tại sao, không có người là mẹ yêu ?
Cuộc đời thơ dại cô liêu
Có nào hiểu biết chi nhiều thế gian !
Xin đời thương lấy cưu mang
Cho con no ấm bình an nên người
(Sưu Tầm).
httpv://www.youtube.com/watch?v=lsHZF0u5cog
Trịnh Xuân Thanh bỏ trốn sang Đức, kế hoạch đã hổ diệt ruồi của Nguyễn Phú Trọng bị thất bại?
ĐIỆU CA CỦA NGƯỜI MÙ
Nguyễn Tầm Thường, S.J
Tôi vào đời không có màu sắc. Tôi đi trong biển đêm không giới hạn hoàng hôn hay bình minh. Cuốn lịch của tôi chỉ có một tờ, dài bằng cuộc đời. Tờ lịch mở ra là ngày sinh và bóc đi là ngày chết. Chiều lên hay chiều xuống, rừng thay mùa đổi lá, thửa vườn tôi vẫn không đổi thay. Bốn mùa đời tôi chỉ có vậy, vang vang một cung điệu trầm của bóng tối, ngày lẫn vào đêm.
Tôi vào đời trong không gian không có hình dáng. Mây về ngang trời hay mây đi xa, mùa thu êm ả hay hoa xuân rạo rực trên đồi, không gian tôi vẫn thế. Tôi không biết gần, không biết xa. Chung quanh tôi có khi cận kề mà như xa tít tắp. Có khi xa lắm mà lại như bên cạnh.
Tôi dò dẫm cuộc đời trong bước chân rất chậm. Tôi tìm tôi trong cuộc sống bằng tiếng nói của con tim chứ không thể bằng con mắt.
Bởi tôi mù, tôi không bao giờ biết thế nào là ánh sáng, nên ánh sáng của tôi là một thứ ánh sáng không nắm bắt được bằng ánh mắt của xác thân. Cứ mặt trời lên, mặt trăng về là vũ trụ tuần tự lên xuống theo ánh sáng. Ánh sáng trong trí tuệ mà thôi. Bởi thế, những gì con người nhìn thấy và gọi là ánh sáng thì không phải ánh sáng của tôi. Không so sánh được với ánh sáng thì bóng tối của tôi cũng khác. Do đấy, bóng tối của tôi cũng khác xa bóng tối được xác định bằng nhãn quang của con người. Lương tâm tôi xác định bóng tối cho tôi.
Với thân phận mù lòa, con mắt của tôi không phải là ngôn ngữ định nghĩa về bóng tối và ánh sáng. Tôi đi tìm ánh sáng và bóng tối trong lương tâm và trí tuệ
Từ bóng tối và ánh sáng trong tim tôi, tôi vào đời bằng điệu ca của người mù, điệu ca cũng đến từ con tim nơi tôi suy niệm về bóng tối và ánh sáng đó. Ðây là bài ca:
– Xin thương xót tôi! Xin thương xót tôi!
– Xin thương xót tôi! Xin thương xót tôi!
Tôi là người mù nên bị xếp chung một loại với những người mù khác. Mở Phúc Âm để nhìn lại những bức ảnh của người mù, người ta sẽ thấy bốn trường hợp Phúc Âm nhất lãm ghi lại cũng là bốn lần chúng tôi hát điệp khúc ấy.
Trong Tin Mừng Mátthêu lần thứ nhất:
Khi Ðức Kitô ra khỏi đó thì có hai người mù theo Ngài mà kêu rằng: “Lạy Con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mt. 9:27)
Trong Tin Mừng Mátthêu lần thứ hai:
Có hai người mù ngồi ở vệ đàng; nghe biết Ðức Kitô đi ngang qua, thì họ kêu rằng: “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mt. 10:29-30)
Trong Tin Mừng Máccô:
Con của Timê là Bartimê, một người mù ăn xin, ngồi ở vệ đàng. Nghe biết là Ðức Yêsu Nazarét đó, thì hắn lên tiếng kêu rằng: “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi!”(Mc. 10:46-47)
Trong Tin Mừng Luca:
Có người mù nọ đang ngồi ăn xin ở vệ đàng. Nghe có đông người đi ngang qua, hắn dò hỏi cho biết chuyện gì thế. Người ta cho hắn biết là có Yêsu Nazareth ngang qua. Và hắn la lên rằng: “Lạy con vua Ðavit, xin thương xót chúng tôi!” (Lc. 18:35-38)
Những người mù chúng tôi không có bài ca nào khác. Trước chân dung Ðức Kitô, chúng tôi chỉ có điệu ca duy nhất. Chúng tôi chỉ lập đi, lập lại mãi:
– Xin thương xót chúng tôi! Xin thương xót chúng tôi!
Chúng tôi không nhìn thấy khuôn mặt của Ðức Kitô. Bao nhiêu người đã chứng kiến dấu lạ Ngài làm và tin Ngài. Ðối với kẻ mù lòa như chúng tôi, niềm tin của chúng tôi cũng khác lắm. Vì không bao giờ nhìn thấy, bởi đó, chúng tôi kiếm tìm niềm tin dựa vào lòng thương xót. Chúng tôi không thấy dấu lạ. Chúng tôi chỉ tin rằng Ngài có lòng thương xót. Và hễ nghe tin Ngài sắp đi ngang qua là chúng tôi kêu lên:
– Xin thương xót chúng tôi! Xin thương xót chúng tôi!
Ngày ngày ngồi ở vệ đường xin ăn, tôi chỉ biết về Ðức Kitô bằng cách lắng nghe tiếng người qua lại chuyện trò. Một người mù trong nhóm chúng tôi bị kết tội là do tội lỗi của cha mẹ hắn ta, hoặc có thể tội riêng hắn mà phải mù. Ngài bảo rằng không phải tội của ai cả. Nhưng là để quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện (Yn 9:1-41). Ðấy, Ngài lại có lòng thương xót.
Ngồi ở vệ đường, tôi nghe kể về Ðức Kitô đã đến với những kẻ khốn cùng như chúng tôi. Bị trách là tại sao vào thăm nhà những người thu thuế tội lỗi, thì Ngài bảo là người đau yếu mới cần thầy thuốc (Mc. 2:15-17). Gặp kẻ khốn cùng vì câm điếc, mù lòa, tật nguyền là Ngài xót thương họ ngay (Mt. 15:29-31). Bao nhiêu lần Ngài cứu chữa những người còng lưng, bất toại trong ngày Sabat (Mt. 12:9-14). Ngài không bảo chúng tôi về, ngày mai hãy tới vì Ngài phải coi ngày Sabat trọng hơn sự khốn khổ của chúng tôi. Lòng thương xót của Ngài không bao giờ là tình thương được định theo thời khóa biểu.
Ngồi bên vệ đường, tôi suy nghĩ về lòng xót thương. Tôi thấy lòng thương xót nào mà không phải chờ đợi bằng chương trình của những thời khóa biểu thì đấy là lòng thương xót thật. Tôi thấy chỉ vì thương xót chúng tôi mà Ngài mất đi niềm thương xót của các thầy tư tế, các kinh sư.
Cũng như những tháng ngày ngồi bên vệ đường, cũng bằng con tim thôi, tôi thấy lòng thương xót nào mà sẳn sàng chịu thương đau với người mình thương xót thì đấy là lòng thương xót thật. Những ngày thinh lặng bên chợ đời, cũng chỉ bằng con tim, tôi nhìn thấy chân dung Ngài. Làm sao màu sắc có thể vẽ được lòng thương xót? Tôi chỉ vẽ hình ảnh Ngài bằng điệu ca:
– Xin thương xót chúng tôi! Xin thương xót chúng tôi!
Những lời kêu của chúng tôi làm người chung quanh nhàm chán lắm: “Những kẻ đi trước quát bảo hắn im đi”(Lc. 18:39). Ðức Kitô không bao giờ chán nghe điệu ca ấy, không bao giờ từ chối bài ca của người mù chúng tôi. Ngài biết từng bước lần mò trong đời sống của kẻ mù lòa tội nghiệp như thế nào. Ngài không từ chối tiếng gọi của chúng tôi, vì trong điệu ca, chúng tôi đã gọi đúng tên của Ngài.
Tên Ngài là Ðấng hay xót thương. Và niềm tin của chúng tôi là tin Ngài là Ðấng hay thương xót.
******************************
Lạy Chúa, đọc trong Phúc Âm nhất lãm, chúng con đã thấy bốn trường hợp nhắc đến người mù là bốn lần có điệp khúc “xin thương xót chúng tôi.” Hôm nay, lập lại bài ca thương xót trước mỗi lần dâng lễ:
– Xin Chúa thương xót chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con!
Là chúng con lập lại bài ca của người mù thủa xưa. Nhắc tới ánh sáng người mù đã nhìn thấy là lập lại lòng thương xót của Chúa. Họ đã nhìn thấy một tên gọi đẹp nhất để gọi Chúa: Chúa là Ðấng hay thương xót.
Ngày nào con yêu điệp khúc đó trong đời con là ngày đó con hạnh phúc. Nếu con không biết Chúa là Ðấng thương xót con, con sẽ lạc lõng.
Lạy Chúa, mỗi lần đi lễ, nghe điệp khúc ấy, con muốn Chúa cho con trong niềm tin, cậy, mến nói với Chúa rằng: Con hạnh phúc vì Chúa luôn thương xót con.
Nguyễn Tầm Thường, S.J
Langthangchieutim gởi
Hội Thánh, nổi lên 3 vị thánh có cùng cái tên thật dễ thương, dễ mến và dễ nhớ : Têrêsa. Ta có thể nói 3 Têrêsa nhưng cùng chung một nẻo đường để nên thánh. Nẻo đường đó là gì ? Xin thưa nẻo đường đó chính là KHÔNG CÒN Ý MUỐN NÀO KHÁC NGOÀI THÁNH Ý CHÚA và nẻo đường của Tình Yêu.
Với Têrêsa Giêsu, dòng chữ trong nhật ký của thánh nữ ghi lại : “Tôi phải sống thế nào để Chúa Giêsu cũng nói với tôi, như thuở xưa Ngài đã nói với Thánh Têrêsa thành Avila: “Tôi tên là Giêsu của Têrêsa”. Vậy tiên vàn, tôi phải là Angêlô của Chúa Giêsu trước đã…”
Liệu rằng : mỗi người chúng ta phải là người của Chúa Giêsu. Và rồi khi đã trở nên người của Chúa Giêsu thì thánh Têrêsa sẵn sàng sống tuân theo mọi đòi hỏi của Chúa. Ngài luôn cầu nguyện: “Lạy Chúa, từ nay con muốn quên đi chính mình, hầu chỉ chú tâm vào việc con có thể làm gì để phụng sự Chúa, và con không còn ý muốn nào khác ngoài Thánh Ý Chúa”.
Têrêsa Hài Đồng Giêsu thì không cần phải nói. Với Têrêsa Hài Đồng Giêsu : Không bao giờ tìm thỏa mãn cái tôi; làm mọi sự và đón nhận mọi việc vì tình yêu cho Chúa Kitô. Đó là qui tắc để sống đơn sơ nhỏ bé của Têrêsa.
Têrêsa Hài Đồng Giêsu viết: “Tình yêu chứng tỏ chính nó bởi việc làm, vì vậy làm sao con có thể chứng tỏ tình yêu của mình được? Con không thể làm những việc cao siêu được. Cách duy nhất để con chứng tỏ tình yêu của mình là bằng cách rắc hoa; những bông hoa này là tất cả những hy sinh bé nhỏ, mỗi cái nhìn, mỗi lời nói và thực hiện mọi việc làm bé nhỏ nhất với tình yêu”.
Ta lại bắt gặp hồi ký của Thánh Nữ : “ Con là một linh hồn rất bé mọn, chỉ có thể dâng những điều bé mọn cho Chúa. Con sẽ sống trên Thiên đàng bằng cách làm điều tốt ở trần gian. Sau khi con chết con sẽ “đổ mưa” hoa hồng. Con cảm thấy ơn gọi của một Linh mục. Với một tình yêu bao la, ôi lạy Chúa, con sẽ nâng Người trên đôi tay của mình, khi tiếng con gọi Ngài, Ngài ngự xuống từ chốn thiên đình. Và với một tình yêu cao vời, con sẽ đem Ngài đến với các linh hồn! Nhưng hỡi ôi! trong khi khao khát được trở thành một linh mục, con lại khâm phục và ganh tị sự khiêm nhường của Thánh Phanxicô thành Assisi và con cảm thấy ơn gọi để theo gương người, từ bỏ phẩm giá cao cả của thiên chức Linh mục.
Ôi Giêsu, tình yêu của con, ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm được… ơn gọi của con là Tình Yêu ! Vâng, con đã tìm được chỗ mình bên trong lòng Hội thánh và chín Ngài, ôi lạy Chúa, Đấng đã ban cho con chỗ ấy; trong trái tim của Giáo hội, Người Mẹ của con, con sẽ được yêu.
Và, vài ngày qua, cả Hội Thánh và cả thế giới vui mừng trong ngày lễ tuyên thánh của Mẹ Têrêsa Calcutta.
Nhìn vào cuộc đời của Mẹ Thánh Têrêsa, không cần tìm hiểu, không cần nhiều lời. Toàn bộ cuộc đời và công trình của Mẹ Têrêsa là một chứng từ cho niềm vui trong yêu thương, cho sự cao cả và phẩm giá của mỗi một con người, cho giá trị của từng việc nhỏ nhất được thực thi với đức tin và tình yêu, và trên hết, cho sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa.
Vài lời của Mẹ mà ta phải suy nghĩ : “Không phải tất cả chúng ta có thể làm những điều lớn. Nhưng chúng ta có thể làm những việc nhỏ với một tình yêu lớn.”, “Tình yêu bắt đầu ở ngay nhà bạn, và nó không phải là bao nhiêu chúng ta làm … nhưng là bao nhiêu tình yêu chúng ta đưa vào hành động đó.”; “Nếu bạn xét đoán người khác, bạn không còn thời gian để yêu thương họ”.
Lời cũng không quan trọng bằng bằng chứng sống yêu cả đời của Mẹ.
Và, ta đừng bao giờ nghĩ rằng mình quá già để làm điều đó. Hãy thử nghĩ, trong khi nhiều bạn trẻ trong chúng ta ở vào tuổi 24 khó lòng mà trưởng thành trong suy nghĩ và trong tình cảm, thì Têrêsa đã trở thành một vị thánh.
Vậy một bài học đơn giản để tất cả chúng ta đều trở nên thánh là: “không cần đòi hỏi phải có nhiều thời gian, nhiều bằng cấp và địa vị cao trọng để trở nên một vị thánh, nhưng điều duy nhất đòi hỏi nơi chúng ta là yêu mến nhiều.”
Để nên thánh, đơn giản như 3 chị thánh mang cái tên dễ thương Têrêsa đó là ta hãy buông cuộc đời ta theo Thánh ý Chúa và ta hãy yêu như các ngài đã yêu và hãy yêu như ngày hôm nay là ngày cuối cùng của đời ta ở cõi tạm này vậy.
Tác giả: Huệ Minh
Tuấn Khanh
Trong nhiều ngày liền, những lá thư mà tôi nhận được, đến từ nhiều nguồn và nhiều người nhưng tất thảy đều có chung một chủ đề, là kêu gọi ngăn chận việc hình thành một nhà máy cán thép ở Cà Ná, Ninh Thuận. Tôi không biết ai trong số họ – những con người xa lạ ấy, nhưng rõ là họ đang cố tìm mọi cách để đánh động đồng bào mình về một thảm họa chung sẽ đến.
Một bức thư khác, kêu gọi ký tên phản đối thông qua trang Change.org. Trong đó, nhóm viết thư ngỏ có tên là Green Trees Vietnam hỏi một cách thống thiết rằng “bạn chưa thấy hoảng sợ hay sao?”.
Tôi đọc bức thư này trong một buổi sáng Chủ nhật, trời âm u và đầy mây mù nặng nề. Khung trời Việt Nam thật khắc khoải. Những người thốt lên lời đau đớn ấy, không khác gì những sứ giả của khải huyền miệt mài cảnh báo dấu hiệu chuỗi tận thế Ragnarok đang đến, nhưng tiếng nói của họ yếu ớt và chìm vào thời đại hỗn mang. Nhất là khi tôi đi ngang sân của Nhà Văn hóa Thanh Niên ở Sài Gòn, tiếng micro của người dẫn cuộc vui được đáp lại bằng những tràng hô rất to hoan hỉ. Quả thật, hiện thực của một dân tộc như đang chết sặc, lịm dần trong lịch trình giáo dục thờ ơ và hoan lạc xếp đặt.
Thư ngỏ cùng kêu gọi ký tên chống lại Dự án Khu liên hợp cán thép Hoa Sen chỉ cần có 1500 người tham gia. Thế nhưng các chữ ký đến chậm từng ngày, nó khác biệt làm sao, so với các cuộc vui mông muội mà hàng ngàn người nô nức ghi danh. Khác biệt với một sản phẩm thời thượng đắt tiền ra mắt mà trong tích tắc quá tải đến mức phải khóa sổ.
Tôi ký tên vào thư ngỏ này, với tư cách của một công dân còn tỉnh táo, nhưng lại quá tỉnh táo để tự vấn rằng lá thư này sẽ đến đâu, và ai sẽ đọc nó, hoặc ai sẽ thức tỉnh được phần người trong mình để nhận ra đất nước này đang chuồi dần vào lộ trình tận diệt Ragnarok bởi bọn trọc phú và quan lại điên cuồng trong dục vọng cưỡng đoạt quê hương?
Chưa bao giờ đất nước đang ở chương hồi bi kịch như lúc này. Người dân kêu gào cho sự sống và tồn vong của đất nước, còn những kẻ có quyền thì mê mị đám đông bằng những ngôn từ của rắn, rồi lặng lẽ hành động với âm mưu đã định. Một cuộc thăm dò trên báo Lao Động cho biết có đến 93% bạn đọc đã nói không với Cà Ná, nhưng cũng ngay lúc ấy, nhưng ông Trương Thanh Hoài – Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng, đại diện cho Bộ Công Thương vẫn nói như đinh đóng cột “Hoa Sen không làm, Thép Cà Ná vẫn vào quy hoạch”. Điều đó cho thấy dã tâm không chỉ có Tôn Hoa Sen của ông Lê Phước Vũ, mà dã tâm là của cả một hệ thống. Nhân dân tuyệt vọng quẫy đạp phản đối, yếu ớt như những con cá trong làn nước độc nhưng số phận thì đã định rồi. Bản đồ đánh dấu sự lắng nghe và đối thoại của chính quyền với nhân dân, đã được điểm bằng dùi cui, roi điện, lựu đạn cay… ngày càng nhiều ở Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh… Và mai đây, nếu như có mặt của nhà máy thép ở Ninh Thuận, bản đồ này có lẽ sẽ còn phong phú hơn nữa.
Vùng biển Cà Ná, Ninh Thuận chỉ cách Sài Gòn khoảng 300 cây số. Một vụ nhiễm độc từ chất thải, sẽ sớm cô lập toàn bộ vùng lương thực quan yếu của toàn miền Nam và hủy diệt sức sống của một vùng kinh tế – xã hội chỉ trong 2 tuần lễ. Việt Nam chưa bao giờ là một quốc gia đau bệnh như hôm nay. Từ Trung Quốc, các dự án và phương thức hoạt động được tuồn dần vào Việt Nam. Bauxite Tây Nguyên hay Formosa, rồi hóa chất, thực phẩm độc… hôm nay thì cú đánh hiểm hóc vào Cà Ná từ dự án hãnh tiến về luyện thép. Không thể không hình dung đến một thuyết âm mưu quan trọng về một quốc gia suy yếu dần để Trung Quốc dễ bề kiểm soát. Nhưng dĩ nhiên, muốn làm được việc đó, phải có sự tham gia của bọn trọc phú hám lợi, bọn quan lại phản bội tổ quốc và bọn thỏa hiệp.
Phản ứng với báo chí về vụ dự án thép, ông Lê Phước Vũ từng nói rằng “mày đăng tao lên báo, tao chấp mày luôn”. Cách nói của ông Vũ, nhắc người ta nhớ đến giọng điệu trịch thượng của ông Võ Tuấn Nhân – Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên Môi Trường khi đòi rút thẻ nhà báo đưa tin, và gọi bằng “thằng”. Có cái gì đó thật đồng bộ giữa thế lực nhà nước và giới trọc phú khi kề cận nhau. Giai cấp của một hệ thống nằm trên pháp luật – vốn không bao giờ phải chịu trách nhiệm về sự ngu dốt, sai lầm và tội ác của mình nhưng luôn mạnh miệng để chà đạp phía nhân dân.
Ông Vũ có lý do gọi phần xã hội còn lại là “mày”, vì bởi ông tin đã dựa lưng vào khối tiền khổng lồ béo bở của dự án, như chân lý chói rực qua tim. Hơn nữa, ông lại là anh em cột chèo với thứ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh, và luôn được ủng hộ bởi Trường ban thường trực phía Nam của ban Tuyên giáo Trung ương Đào Văn Lừng. Trong giới làm ăn, ông Vũ cũng được nhìn thấy là người “chọn phe đúng” để vận động là thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Với danh thế lừng lững như vậy, rõ là ông Vũ còn gì để ngại ngùng gọi phần còn lại của Việt Nam là “mày”?
Tôi chưa bao giờ nghĩ những lời phản biện tâm huyết và những lá thư ngỏ, cùng kêu gọi ký tên phản đối nhà máy cán thép Cà Ná có thể đến được bàn làm việc của ông Lê Phước Vũ. Vì ít nhất, đọc những điều rất Việt Nam, của những trái tim Việt Nam, của nguyên khí Việt Nam, thì một phần người nào đó đã được đánh động trong ông, thay vì luôn quảng bá hảo kim quang của danh xưng một phật tử.
Tôi từng thấy hình ảnh ông Vũ mặc áo kasaya quỳ lạy nơi cửa Phật. Có không ít quan chức liên quan đến ông cũng quỳ lạy thành kính như vậy. Ông Vũ và các quan chức đó cầu nguyện gì khi mắt nhắm nghiền và tay chấp hương? Liệu có là lời cầu nguyện cho dân tộc và đất nước này, hay chỉ là nối chấp mê vào dục vọng cuồng điên của quyền lợi riêng mình, bỏ mặc nhân gian oán thán? Tôi đã nhìn rất lâu vào những bức ảnh như vậy, tần ngần với biết bao suy nghĩ không lời giải thuộc về con người.
Trong muôn ngàn sự tích hay về cuộc đời, có chuyện về một nhà tu hành bị bá tánh khinh thường, ngồi khóc ở ven rừng. Quỷ xuất hiện và thỏa thuận sẽ làm nhà tu hành khiến ai ai cũng phải kính sợ. Nhưng bù lại, khi có quyền lợi – thì thầy tu và quỷ sẽ ăn chia đủ với nhau như bạn đời. Quỷ vô hình nâng thầy tu lên vai khiến dân chúng nhìn thấy thầy tu như bay lên, nên từ đó cúng dường, vâng phục. Liên minh người-quỷ đó tồn tại cho đến một ngày bất chợt Quỷ suy yếu quyền lực, không đỡ nổi khiến thầy tu té xuống và chết.
Điều gì đã nâng ông Lê Phước Vũ bay cao, để ông nhìn vào cõi nhân gian và cười cợt, gọi mọi người bằng “mày”? Và ông Vũ nghĩ loại quyền lực vô hình nào, có thể phụng sự cho ông đến cuối cuộc đời? Nhưng dù là ai, liên minh giả Phật-giả Quỷ ấy không thể tồn tại mãi trên đời thực này, không thể nghiễm nhiên mãi dẫm lên sự khổ đau của đồng loại, trong tương lai đi tới.
Tôi không biết mình có quen ai trong số 1500 người, ký tên vào thư ngỏ chống nhà máy thép Tôn Hoa Sen sẽ hủy hoại đất mẹ Việt Nam. Tôi nghĩ về rất nhiều lời tâm tình, phản đối, chia sẻ kêu gọi mà tôi đã đọc được. Tôi cũng không biết họ là Phật tử hay là người Công giáo, có tín ngưỡng hay không. Nhưng tôi biết chắc họ đang chọn hành động cho một ý nghĩa duy nhất, là sống và làm người với lẽ phải.
Là Quỷ hay Phật ngày mai, thì vẫn còn chưa biết được. Nhưng tôi sẽ không mơ màng chọn lựa hình ảnh. Tôi chỉ cố làm người hôm nay. Làm người, để còn đứng trong và đứng cùng đồng loại ở những giây phút nguy nan này, lắng nghe nỗi đau và khát vọng của dân tộc và quê hương mình. Làm người, để phân biệt và chỉ rõ ai là kẻ giả Phật và giả Quỷ đang giày xéo, mua bán đất nước này bằng cường quyền và mỵ ngữ.
Làm người, xin hãy mơ được là người thôi, thầy tu hay ngạ quỷ khi nhận ra, cũng đã là niềm hạnh phúc của dân tộc.
T. K.
Nguồn: FB Tuấn Khanh
Sự lần khân và vội vã đáng ngờ
Sau mấy tháng dài im hơi lặng tiếng tìm nhiều cách lấp liếm, bao che cho thủ phạm đầu độc Biển Miền Trung gây nên thảm họa môi trường đẩy hàng chục triệu người dân vào bước đường cùng, chính phủ Việt Nam cuối cùng cũng phải tuyên bố: Thủ phạm đầu độc môi trường là Formosa.

Với sự bao che, lấp liếm và đổ lỗi hết thủy triều đỏ cho đến những nguyên nhân nghe nực cười, nhất là việc bố trí cảnh sát và công an các loại canh phòng người dân, bảo vệ Formosa trước khi chịu công bố thủ phạm gây thảm họa, nhà cầm quyền Việt Nam đã cho người dân hiểu được họ đã và đang đứng về phía nào.
Điều nực cười là trước khi công bố thủ phạm là Formosa, khi chưa hề điều tra về thảm họa, về những thiệt hại người, của, môi trường, cuộc sống của người dân thì nhà cầm quyền Việt Nam đã nhanh nhẩu nhận 500 triệu đô la “bồi thường” của Formosa. Trong khi đó, việc điều tra cứ lần khân rồi hứa hoãn đến tận 15/9 mới công bố những thiệt hại do Formosa gây ra. Hẳn nhiên là chưa biết họ sẽ công bố những gì!
Câu hỏi đặt ra là: vì sao nhà cầm quyền Việt Nam vội vàng nhận 500 triệu đola mà không cần điều tra? Thậm chí, người thiệt hại là người dân nhưng nhà cầm quyền không hề hỏi han xem họ thiệt hại ra sao, chết người như thế nào và những vấn đề liên quan thì mức độ bồi thường như thế nào? Việc làm này chẳng khác gì việc mấy ông thầy bói mù sờ voi và phán bậy.
Trong khi chính họ đã tuyên bố điều tra nguyên nhân cá chết có thể phải đến hàng năm. Vậy hậu quả sự cùng cực của người dân, cũng như những cái chết của người dân do sự đầu độc gây ra, thì họ có phép thần thông của ma vương quỷ sứ để giải quyết?
Xin thưa là không, họ đã vội vàng nhằm khỏa lấp tảng băng chìm đằng sau sự kiện hủy hoại môi trường biển Miền Trung. Chỉ có điều sự khỏa lấp đó chưa đủ để người dân thấy “như thật” rằng đây là một chính phủ của dân.
Đền bù hay hỗ trợ?

Chính phủ Việt Nam đã dẫn Formosa vào đất nước này, nói theo ngôn ngữ dân gian, là đã “rước voi về giày mả tổ”. Họ phải chịu trách nhiệm gì trước nhân dân, và họ đã làm gì?
Cho đến nay, chính phủ Việt Nam dù đã nhận 500 triệu đola, thì người dân vẫn chưa biết được họ sẽ được đền bù như thế nào? Trong khi đó, từ đầu thảm họa đến nay, chính phủ chỉ công bố các biện pháp hỗ trợ!
Vậy hỗ trợ là gì?
Theo đúng từ điển Tiếng Việt, “Hỗ trợ” là động từ có nghĩa là “ giúp đỡ lẫn nhau, giúp đỡ thêm vào”. Do vậy, việc chính quyền hỗ trợ người dân chỉ là sự giúp đỡ người dân trong lúc khó khăn và sự giúp đỡ này hoàn toàn không thể thay thế được cái cốt yếu người dân đang cần, mà chỉ là sự “thêm vào” khi khó khăn. Cần phải hiểu cho rõ nghĩa như vậy kẻo nhầm lẫn.
Thực ra, tiền của hỗ trợ người dân ở đây cũng lấy từ chính những đồng tiền thuế và của cải của người dân mà ra, chứ chính phủ thì làm gì có xu nào cho dân, chỉ có đi vay mượn phá phách xả láng và dân è cổ ra chịu nợ mà thôi.
Nói rõ như vậy để thấy rằng việc “hỗ trợ” người dân của chính quyền không phải là sự ban ơn hay một sự cho không từ trên trời rơi xuống. Và đó cũng là nhiệm vụ của chính quyền ăn lương của người dân.
Sau khi xảy ra thảm họa biển Miền Trung, chính phủ đã có quyết định số 772/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 5 năm 2016 v/v hỗ trợ khẩn cấp cho người dân bị ảnh hưởng do hải sản chết bất thường tại các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
Sau đó, ngày 25/6/2016, ít ngày trước khi công bố thủ phạm đầu độc biển là Formosa, chính phủ có Quyết định tiếp theo số 1138, tăng thời hạn hỗ trợ ngư dân ảnh hưởng vụ cá chết.
Đó là những việc làm của chính phủ đối với ngư dân thời gian qua.
Vậy đền bù là gì?
Đền bù là “trả lại đầy đủ, tương xứng với công lao, sự mất mát hoặc sự vất vả”
Cần phải hiểu rõ rằng: Formosa đã gây ra thảm họa biển Miền Trung Việt Nam, một thảm hoa môi trường ghê gớm. Họ là thủ phạm phải chịu trách nhiệm đền bù những thiệt hại do hành vi của họ gây ra cho người dân Việt Nam. Họ đã thừa nhận điều đó.
Việc đền bù phải tương xứng với những thiệt hại do thảm họa này gây ra.
Những ai được đền bù?
Hẳn nhiên, khi đã nói đến đền bù, thì tất cả những người bị ảnh hưởng, thiệt hại về mọi mặt bởi hành động của Formosa đều phải được đền bù tương xứng với sự thiệt hại và ảnh hưởng đó.
Cần phải hiểu rằng, thảm họa Biển Miền Trung không chỉ rảnh hưởng tới ngư dân mà có thể nói cả dân tộc Việt Nam, cả đất nước này, hiện nay và mai sau đều bị ảnh hưởng và thiệt hại.
Hầu hết các ngành kinh doanh, sinh sống đều bị thảm họa gây thiệt hại. Ngành thủy, hải sản bị thất thu hàng triệu tấn cá từ biển, hàng vạn ngư dân mất việc làm, đời sống bị đe dọa đã đành. Những ngành khác như du lịch vắng khách tắm biển, người kinh doanh không thể bán được hàng hóa bởi ngư dân không có tiền để tiêu dùng, ngành giao thông bị ảnh hưởng bởi lượng khách du lịch và vận tải hải sản không còn. Không chỉ có vậy, ngành chế biến hải sản, thủy sản, ngành nuôi trồng thủy, hải sản biển bị thất thu, ngành sản xuất muối không thể hoạt động, các ngân hàng không thể cho vay hoặc không thể thu hồi vốn khi ngư dân không còn biển để khai thác… Ngay cả những ngành tưởng như không liên quan đến biển như ngành văn hóa không thể có khách thưởng thức các tác phẩm văn hóa.
Có thể nói rằng, không có ngành nào và không có người dân Việt Nam nào đứng ngoài những thiệt hại bởi thảm họa biển Miền Trung. Cũng không chỉ có các tỉnh mà chính phủ đã liệt kê mới chịu ảnh hưởng. Bởi dân tộc Việt Nam là một, đất nước Việt Nam là một, không thể chỉ một nơi đau đớn mà nơi khác không bị ảnh hưởng cả tinh thần lẫn vật chất.
Mặt khác, thảm họa này không chỉ là một năm hoặc mươi năm, mà là hàng chục năm sau vẫn chưa thể khắc phục.
Hơn thế, sức khỏe, tính mạng người dân và giống nòi bị đe dọa hết sức nghiêm trọng hiện tại và lâu dài…
Tất cả những thiệt hại đó, thủ phạm phải đền một cách tương xứng.
Vậy, với 500 triệu đola mà chính phủ Việt Nam đã nhanh nhẩu, vội vàng nhận lấy đó có phải là số tiền đền bù tương xứng?
Xin thưa là không thể. Bởi số tiền đó, so với những thiệt hại mà Formosa gây ra chỉ là một hạt cát trên bãi biển miền Trung mà thôi.
Người dân có ủy quyền cho chính phủ nhận tiền đền bù của họ hay không? Vấn đề này là vấn đề về pháp lý, hãy để các luật gia phân tích. Ở đây, chúng ta chỉ phân biệt giữa đền bù và hỗ trợ cũng như những vấn đề liên quan trực tiếp thiệt hại của người dân.
Vậy ai sẽ đền bù?
Lẽ ra, trước thảm họa to lớn này, chính phủ phải đứng ra đòi Formosa đền bù cho những thiệt hại mà họ gây ra cho đất nước này, dân tộc này như sự đói nghèo dẫn đến tụt hậu, chậm phát triển của dất nước, thảm họa lâu dài đối với nòi giống, với xã hội… Nhưng hình như chính phủ này coi đó là những điều không quan trọng với họ?
Còn đối với người dân thì sao?
Cho đến nay, chưa hề có một nhóm, ủy ban của nhà nước hay bất cứ một tổ chức xã hội nào đứng ra nhận trách nhiệm đền bù cho người dân Việt Nam bị thảm họa Miền Trung. Tất cả những việc kê khai, điều tra (nếu có) của nhà nước, chỉ nhằm phục vụ việc “hỗ trợ” người dân bị ảnh hưởng mà thôi.
Mà như trên đã phân tích, việc hỗ trợ của nhà nước dù bằng bất cứ nguồn tiền nào, đều không thể thay thế việc đền bù thiệt hại cho người dân.
Hẳn nhiên, cần phải có người chịu trách nhiệm đền bù rõ ràng cho người dân bị ảnh hưởng. Vậy nơi nào sẽ đền bù cho người dân? Chính phủ Việt Nam hay Formosa?
Nếu chính phủ chính thức nhận đền bù thay Formosa vì lỡ “ăn của chùa ngọng miệng” thì chính phủ phải kiếm đủ số tiền đền bù tương xứng thiệt hại của người dân và nền kinh tế quốc dân bởi thảm họa này. Và đúng đắn, nghiêm túc hơn nữa, chính phủ không được dùng tiền thuế của người dân cho việc đền bù mà lỗi là do Formosa gây ra. Ngoài ra, chính phủ có nhiệm vụ đòi hỏi Formosa bảo đảm đầy đủ quyền lợi của người dân, bởi họ được dân nuôi thì phải làm việc cho dân. Đơn giản vậy thôi.
Và khi đó, người dân cần kê khai đầy đủ những thiệt hại của mình, của ngành mình cũng như cộng đồng do thảm họa này gây ra. Chính phủ phải đền bù đầy đủ cho họ. Đó là trách nhiệm của chính phủ, nếu đã nhận lấy việc đề bù thay thủ phạm trong vụ này.

Hẳn nhiên, khi chính phủ không đáp ứng được việc đền bù cho người dân, thì người dân có quyền lên tiếng, biểu thị thái độ của mình bằng biểu tình, bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm đạt được công bằng cho mình.
Còn nếu chính phủ không nhận nhiệm vụ đền bù cho người dân, thì thủ phạm là Formosa phải đứng ra chịu trách nhiệm đền bù cho họ.
Và khi đó, người dân cần trực tiếp Formosa để đòi hỏi quyền lợi của mình. Hoặc bằng Tòa án. Điều đó không thể chối cãi.
Khi đó, chính phủ phải bảo đảm an toàn cho người dân đòi hỏi quyền lợi chính đáng, sự công bằng cho mình, chính phủ phải đứng về phía người dân chứ không thể dùng cảnh sát và các lực lượng ngăn cản.
Bởi nếu có hành vi dùng các lực lượng ngăn cản người dân đi đòi quyền lợi chính đáng cho mình, nhằm bảo vệ thủ phạm, thì chính phủ đó là chính phủ phản động, đứng về kẻ thù để chống lại nhân dân.
Và khi một chính phủ đứng lên chống lại quyền lợi người dân, thì người dân có quyền truất phế, loại bỏ chính phủ đó không cần thương tiếc.
Hà Nội, ngày 11/9/2016
J.B Nguyễn Hữu Vinh
![]() |
| Sau khi “quy hàng phản động”, Trịnh Xuân Thanh cầm “tín vật” do blogger Người Buôn Gió gửi đến nhằm chứng minh quyết tâm đối đầu với Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: Facebook Người Buôn Gió. |
Hoàng Trần (Danlambao) – Cuộc chiến triệt hạ phe phái dưới danh nghĩa “đả hổ diệt ruồi” của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã hoàn toàn vỡ trận sau cú đào tẩu ngoạn mục của ông Trịnh Xuân Thanh – người vừa bị phế truất khỏi chiếc ghế phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang.
![]() |
| Ảnh: Facebook Người Buôn Gió |
Tiếp ngay sau đó, để khẳng định thêm về tính xác thực của lá đơn, blogger Người Buôn Gió trong loạt bài “Trịnh Xuân Thanh – con dê tế thần” hôm 8/9/2016 đã đưa yêu sách buộc ông Thanh phải công khai lên tiếng:
![]() |
| Ảnh: Facebook Người Buôn Gió |
Nếu những thông tin trên là đúng sự thật thì chắc chắn đây sẽ là cú đòn chí mạng nhắm thẳng vào uy quyền của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Thậm chí, hành động này có nguy cơ gây ra những mâu thuẫn ngày càng nghiêm trọng hơn trong nội bộ đảng cộng sản.
9/9/2016
10-9-2016
Sĩ phu nước ta nhiều lần chỉ ra thói hư tật xấu của đồng bào mình. Phan Kế Bính viết phong tục, quá nửa phê phán thói xấu hủ tục. Tản Đà, Phạm Quỳnh, Nguyễn Trường Tộ cũng lên án kịch liệt người Việt xấu xí. Phan Khôi viết thế này: “Sĩ phong nước ta, suy đồi đi là từ thời Lê Trung Hưng về sau. Người trên người dưới bắt chước nhau, thành ra cả một nước đều bỏ mất đại nghĩa, quên mất liêm sỉ, mà đổ xô nhau vào vòng danh lợi. Lòng tự trọng của người mình như ngọn lửa đã tắt, không còn bừng lên, như hột giống bị ẩm, không còn nứt lên được. Lại thêm cái kiểu chuyên chế từ xưa đến nay, cứ ở trên đè xuống ở dưới đợ lên, làm cho nhân dân ngày một đê hèn yếu ớt…”
Cội nguồn mọi thói xấu có căn nguyên từ lịch sử dân tộc. Hơn nghìn năm lệ thuộc trực tiếp. Từ Đinh Lê đến Nguyễn, không kể10 năm thuộc Minh đen tối, còn thì độc lập mà vẫn danh nghĩa là lệ thuộc. Trên ông vua ta có một thiên triều. Song, cái chốt đích đáng là toàn bộ nền văn hóa, lý luận cốt lõi, nền tảng xã hội lấy cơ sở từ Nho giáo, triết học ngoại lai. Lý luận trị nước ở một nước lãnh thổ rộng lớn, phong thủy khác, văn hóa khác bị du nhập vào dưới lưỡi gươm của kẻ nô dịch bá chủ, nó càng bị ép buộc chặt chẽ. Cả dân tộc là tù binh của ý thức hệ ngoại lai.
Lê Thái tổ phục hưng dân tộc đầu tk 15, song cuối cùng đất nước vẫn không vùng thoát khỏi thiên hạ của nhà Minh, Nho giáo bắt đầu phát triển hơn bất kỳ bao giờ trước đó. Lý Trần tam giáo đồng nguyên nước mạnh đến thế, mà sau Lê nước càng ngày càng ươn hèn. Đến Lê Trung hưng thì cái ưu việt của Nho giáo thời Lê Thánh tông đã phôi pha, còn cặn bã của nó phát tác, Phan Khôi cũng chỉ ra các thói hư tật xấu của người Việt bắt đầu nặng từ Lê Trung hưng.
Nô lệ về lý luận thì mọi mặt đời sống bị dẫn dắt cũng bị nô dịch. Không ai cai trị hữu hình, mà tư duy, phong tục, thói sống biểu hiện ra. Nghĩ một chiều, xã hội thời chiến triền miên, dân cũng như lính có ý thức phục tùng răm rắp, quan lại ai cũng tưởng, cũng muốn mình là tướng là tư lệnh. Từ đó, từ quan đến dân không ai thích nghe lời nói khác, nói gì đến tranh luận.
Thời hiện đại, trí thức Việt cũng không phải từ nước khác di cư đến, là hậu duệ của cha ông anh dũng và đau khổ, thì sao bắt trí thức thoát ra ngay. Đến các anh tự vỗ ngực là dân chủ, người khác nói không đúng ý mình, cũng nhảy lên có khi mạt sát lại. Theo dõi các nhà văn cãi nhau, ít ai nghe ai. Nói gì đến các quan chức nắm quyền trong tay, xử ai bắt ai cần gì lăn tăn tra văn bản pháp luật.
Hậu quả của tâm lý nô lệ là lối sống bầy đàn. Lạ thay nó xâm nhập cả vào thời kỳ thị trường méo mó. Một ông bán ốc Ông Già đắt khách, xuất hiện hàng chục Ông Già. Khắp nơi gà Mạnh Hoạch, vô tư vui vẻ. Còn chuyện a dua nghe nói thế, tin là thế không để lại dấu vết thì vô khối. Nó là tập quán.
Hai cái xe dựa nhau thoát nạn. Một báo thêu hoa dệt gấm. Các báo khác chẳng tự điều tra, thêu dệt theo. Ông ủy ban và chóp bu cũng tặng thưởng “theo báo chí phản ánh”. Cái vụ này là biểu hiện rõ các đặc tính nô lệ trong tư duy và hành xử. A dua nói theo, không cần nghe ý kiến khác, nên mới nên chuyện.
Năm 1945, cụ Hồ dẫn dắt dân ta giành độc lập, cụ có lý đề câu Tự do Hạnh phúc ngay sau chữ Độc lập. Từ nô lệ đến độc lập 2000 năm, đến tự do bao nhiêu năm, đến hạnh phúc thêm bao nhiêu nữa?
Người Việt về đặc tính tâm lý nô lệ giông giống người Hán. Sau nhà Tây Hán của Lưu Bang, kể cả Đông Hán, thì hầu hết thời gian bị ngoại tộc thống trị, ngay người TQ cũng nói dường như chỉ nhà Tống là tộc Hán. Gần nhất là Thanh triều làm nhục dân Hán mấy trăm năm, Lỗ Tấn mới chế diễu thói xấu dân tộc mình, Tôn Trung Sơn mới cách mạng được chính quyền, song Tôn xét cho cùng cũng là dân Quảng, chả phải Hán thuần, mà có dòng máu Việt. Thói hư tật xấu của Hán thì Việt có hết. Thói tốt của Hán thì Việt chỉ có một phần. Chuyện này bàn vào dịp khác.
Làm gì chữa khỏi tâm lý nô lệ của dân Việt? Anh hỏi tôi, tôi hỏi ai?
Hà Nội lại âm mưu rút rỉa thuế dân hòng ‘xử lý nợ xấu’
Phạm Chí Dũng
Việt Nam đương đại. Công cuộc “xử lý nợ xấu” ngày càng không lối thoát trong một nền kinh tế suy thoái năm thứ tám liên tiếp cùng thảm trạng ngân sách chỉ còn chờ vỡ nợ.
Mùa Hè năm 2016, chỉ vài tháng sau khi một quan chức lãnh đạo của công ty quản lý các tài sản tín dụng (VAMC) gián tiếp thú nhận rằng từ khi được sinh ra đến nay, công ty chưa bao giờ mua nợ xấu bằng tiền mặt, và sau đó là “năm 2016 VAMC sẽ chỉ mua nợ xấu rất ít,” đã hiện ra một thông tin rất đáng để người dân xuống đường biểu tình: Một lần nữa giới tham mưu tài chính cho chính phủ lại âm thầm bày mưu tính kế “dùng ngân sách để xử lý nợ xấu” – mà về thực chất là rút rỉa tiền đóng thuế của nhân dân và của cả những người rất nghèo.
Móc túi dân trả nợ xấu
Vneonomy – một tờ báo nhà nước bắt đầu có chút hơi hướng phản biện sau sự sụp đổ của “triều đại Nguyễn Tấn Dũng” – vào Tháng Tám đưa tin: Dự thảo kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 do Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư chủ trì xây dựng đã dự kiến trong năm 2017, Ngân Hàng Nhà Nước và Bộ Tài Chính sẽ trình Quốc Hội dự thảo nghị quyết “Đề án nghiên cứu khả năng bố trí nguồn lực ngân sách nhà nước để xử lý một phần nợ xấu.”
Trong bản tin ngắn gọn của mình, Vneconomy cũng hàm ý một chi tiết đáng chú ý không kém: Trong các nội dung chính của dự thảo, vấn đề sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu không được đề cập cụ thể, mà lại được “giấu” trong phần phụ lục về danh mục chương trình liên quan.
Vào Tháng Mười, 2014, ba năm sau khi triển khai đề án xử lý nợ xấu, chính phủ của Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Văn Bình đưa kiến nghị “xem xét dành một phần chi ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước” ra Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội. So với thái độ giấu diếm trong phụ lục hiện thời thì động tác tống ra văn bản kiến nghị vào năm 2014 là chủ động, chủ quan và mang tính thách thức hơn nhiều.
Nhưng cũng bởi vì quá chủ quan nên chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã vấp phải một làn sóng phản đối quyết liệt từ đủ mọi thành phần dân chúng và cả trong giới quan chức. Cho tới lúc đó, đa số người dân đều đã nhận ra nợ xấu có nguồn gốc cơ bản từ những chiến dịch kinh doanh cực kỳ phiêu lưu của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vào các lĩnh vực chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm trong thời kỳ “đầu cơ vàng” những năm 2006-2007, để sau đó khi các thị trường đầu cơ lao dốc và gần như sụp đổ thì phần lớn các chủ thể đầu tư đều rước họa vào thân. Chỉ tính riêng những tập đoàn lớn của nhà nước có tham gia đầu cơ như thế đã mang về số lỗ kinh hoàng, như Tập Đoàn Xăng Dầu Việt Nam (Petrolimex) lỗ 10,000 tỷ đồng, Tập Đoàn Điện Lực Việt Nam (EVN) lỗ 30,000 tỷ đồng…
Trong lúc dư luận và công luận xã hội dồn dập phản ứng trước đề nghị dùng ngân sách để xử lý nợ xấu của chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, một đại biểu quốc hội khu vực Hải Phòng là ông Trần Ngọc Vinh đã thẳng thừng nói: “Hiện ngân sách rất eo hẹp, thu chi chưa cân đối được mà còn chi cho ngân hàng nữa thì ngân sách hụt rất lớn. Không bao giờ cho phép lấy tiền ngân sách đắp vào khoản lỗ của các ngân hàng.”
Ít ngày sau đó, Phó Thủ Tướng Vũ Văn Ninh buộc phải yêu cầu Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư không đưa vào báo cáo trình Quốc Hội nội dung dùng ngân sách để xử lý nợ xấu.
Nhưng đó là câu chuyện thất bại của nhóm quyền lực – tài phiệt vào năm 2014. Hai năm sau đó – 2016 – nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam càng lộ rõ như một thể dịch hỗn tương của căn bệnh ung thư giai đoạn cuối.
Khối ung thư sắp vỡ
Nợ xấu bất động sản lại chiếm đến ít nhất 70% tổng nợ xấu lên đến 500,000 tỷ đồng trong khối ngân hàng. Nhưng cú thử thực hiện bản thành tích của VAMC chỉ xử lý trên giấy được khoảng 10% số nợ xấu mua lại từ các ngân hàng thương mại sẽ thấy triển vọng để khoảng một phần ba khối tổ chức tín dụng “một đi không trở lại” là rất cao trong vài năm tới.
Những ngân hàng phải ra đi đầu tiên đã có tên trong bảng phong thần: Ngân Hàng Xây Dựng, Đại Dương, GPBank. Năm 2015, dù Ngân Hàng Nhà Nước đã cố gắng trám bít những lỗ rò bằng biện pháp mua lại các ngân hàng này với giá 0 đồng, nhưng chiến thuật thuần tính tình thế đó cũng có nghĩa là chính phủ phải “ôm” lại nợ xấu và căn bệnh khó cứu của những ngân hàng này, để lại hậu quả cho tới ngày nay.
Vào cuối năm 2015, trong khi Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thống Đốc Nguyễn Văn Bình cố ép nợ xấu về dưới 3% thì chính báo cáo của Ủy Ban Giám Sát và Tài Chính Quốc Gia – một cơ quan phân tích tài chính thuộc chính phủ mà trước đây mang tâm thế khá khép nép – lại cho thấy tỉ lệ nợ xấu thực lên đến 17%.
Sau đại hội 12, đã xuất hiện khá nhiều thông tin về tình trạng nợ xấu tăng đột biến tại nhiều ngân hàng thương mại. Nói cách khác, nếu như trước đây Ngân Hàng Nhà Nước tìm cách “phù phép” để đẩy các khoản nợ đặc biệt xấu và không thể thu hồi được lên những nhóm nợ cao hơn (có thể thu hồi), thì nay do chẳng có gì thu hồi được nên nợ xấu vẫn còn y nguyên và vẫn hàng ngày lãi mẹ đẻ lãi con. Toàn bộ “công tác xử lý nợ xấu” của VAMC từ trước đến nay chỉ còn ý nghĩa trên giấy.
Vậy lấy gì để “xử lý nợ xấu,” nếu thị trường bất động sản vẫn tiếp tục ì ạch, các ngân hàng không thể tống khứ được “của nợ” đang ôm, còn chính phủ cũng chẳng thể “đẩy” được các tỷ đô la trái phiếu ra quốc tế?
Tiền từ túi kẻ trộm có trở về tay người lương thiện?
Vào giữa năm 2016, Bộ Tài Chính phải gián tiếp thừa nhận kế hoạch phát hành $3 tỷ trái phiếu đặc biệt mà chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tung hỏa mù vào cuối năm 2015 đã phá sản.
Và chẳng có gì ngạc nhiên về sự phá sản tất yếu trên, nếu nhìn lại kết quả của toàn bộ 500 hồ sơ chào bán nợ xấu mà VAMC gửi cho các tổ chức tài chính nước ngoài từ năm 2014 vẫn vô vọng hồi âm chính thức. Nếu cả VAMC mà còn không thuyết mị nổi những doanh nghiệp cá mập trong nước “ôm” lại nợ xấu, sẽ chẳng một tập đoàn nước ngoài nào dại dột rước lấy “của nợ Việt Nam.”
Liệu họ có xử lý nợ xấu bằng “quyết tâm” in tiền và in tiền ồ ạt mà do đó sẽ giúp thị trường “thăng hoa” lạm phát?
Nếu vào những năm trước, hành động tùy tiện có thể xảy ra khi chính phủ và Ngân Hàng Nhà Nước muốn làm gì tùy ý, thì vào chính lúc này, khi tình thế ngân sách đã trở nên khốn quẫn và tương lai chính trị biến thành bịt bùng sau vụ quan chức thảm sát nhau ở Yên Bái, xu hướng thân ai người đó lo phổ biến đến mức chẳng một quan chức nào của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội và của chính phủ mới muốn mạo hiểm chịu trách nhiệm về nợ xấu theo cách “người ăn ốc, kẻ đổ vỏ.” Không có lý do gì để chính phủ đệ trình và quốc hội thông qua một cách quá dễ dàng cho thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước xuất quỹ dự trữ ngoại tệ, dù chỉ 10%, để trả nợ thay cho các ngân hàng sắp phá sản.
Nhưng nếu Ngân Hàng Nhà Nước và Bộ Tài Chính “nhìn trộm” vào quỹ bảo hiểm xã hội và quỹ bảo hiểm y tế, như đã lăm le 500 tấn vàng cất giấu trong dân, điều gì sẽ xảy ra?
Trong đạo làm người, ai có thể tin được tiền từ túi kẻ trộm sẽ trở về tay người lương thiện?
Không giống như con số 500 tấn vàng quá khó để cắp về, hai thứ quỹ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế lại luôn chực chờ dưới bàn tay sẵn sàng tung hứng trò ảo thuật của nhà nước.
Năm 2015, quỹ bảo hiểm xã hội chi tổng cộng 435,129 tỷ đồng để đầu tư, trong đó cho ngân sách nhà nước vay 324,000 tỷ đồng, mua trái phiếu chính phủ 45,500 tỷ đồng, tổng cộng phần dính dáng đến ngân sách nhà nước lên đến 370,000 tỷ đồng. Ai sẽ bảo đảm là con số này sẽ trở về tay những người đóng bảo hiểm xã hội nếu ngân sách nhà nước bị phá sản?
Bởi vì nếu hậu quả xấu xảy ra, sẽ có rất nhiều người đóng bảo hiểm xã hội không nhận được đồng nào sau khi về hưu. Thậm chí, nhiều cán bộ cách mạng lão thành một đời theo đảng cũng sẽ vô vọng khi bước chân vào văn phòng phát lương hưu trí.