NỖI BUỒN LỚN NHẤT CỦA TUỔI GIÀ !

Có một người con kể:

“Tôi mua cho mẹ một chiếc điện thoại thông minh. Mẹ nhờ tôi hướng dẫn. Tôi chỉ cho mẹ những chức năng cơ bản, rồi quay lại bàn làm việc.

Một lát sau, mẹ vào hỏi lại. Tôi chỉ tiếp.

Rồi khi tôi đang xoay xở với cả đống việc, mẹ lại hỏi thêm. Lần này, tôi bắt đầu khó chịu.

Cuối cùng, mẹ thở dài: ‘Điện thoại này phức tạp quá, chắc mẹ không dùng được đâu’.

Tôi đáp vội: ‘Tùy mẹ, mẹ muốn thế nào cũng được’.

Khuya hôm ấy, tôi nhận được tin nhắn:

‘Con à, mẹ đã già, hay quên lắm. Nhiều khi mẹ còn chẳng nhớ mình vừa nói gì. Con đừng trách mẹ nhé.’

Tôi đọc mà mắt cay xè. Mẹ không nói trực tiếp, chắc vì sợ tôi cáu. Mẹ sợ làm phiền, sợ tôi mệt.

Từ hôm ấy, mẹ không hỏi nữa. Bà tự mày mò, lặng lẽ, chậm chạp… và chắc hẳn gặp không ít khó khăn.”

Người con ấy chợt nhận ra: thái độ nóng nảy của mình đã vô tình gửi đi một thông điệp đau lòng – rằng mẹ đã già, đã lẩm cẩm, đã phiền hà, đã vô dụng.

Khi chúng ta còn bé, cha mẹ là người biết tất cả, mạnh hơn tất cả. Họ như hai ngọn núi sừng sững, che chở con khỏi bão giông.

Nhưng rồi một ngày, những ngọn núi ấy bắt đầu lùi thấp xuống – không phải vì họ muốn, mà vì sức lực không còn như xưa.

Tuổi già đến, trí nhớ hao mòn, tay chân chậm chạp, mắt mờ tai kém. Những việc đơn giản với chúng ta – với họ lại trở thành thử thách.

Nhưng điều làm họ buồn nhất không phải là sức khỏe, mà là cảm giác mình đang dần “làm phiền” chính những đứa con mà cả đời mình đã nuôi lớn.

Họ bắt đầu ngại hỏi, ngại nhờ, ngại than phiền.

Ngại cả việc gọi điện lâu vì sợ con bận.

Ngại kể chuyện buồn vì sợ con lo.

Ngại hỏi đi hỏi lại vì sợ con khó chịu.

Và rồi, họ chọn im lặng.

Nhưng im lặng đâu phải vì không có gì để nói.

Chỉ là họ sợ mình không còn đủ chỗ trong cuộc sống của con.

Người trẻ thường quên rằng, suốt bao năm thơ ấu, cha mẹ đã kiên nhẫn trả lời hàng trăm câu hỏi “vì sao” của mình – từ chuyện vì sao bầu trời xanh, cho đến vì sao mặt trăng theo con về nhà.

Họ không bao giờ thấy phiền, dù câu hỏi ngây ngô đến mức nào.

Vậy mà khi họ già đi, chỉ hỏi lại một điều đơn giản thôi, chúng ta đã thấy “phiền”.

Chúng ta quên mất rằng, câu trả lời của mình hôm nay không chỉ giải đáp một thắc mắc, mà còn cho họ biết: họ vẫn còn được lắng nghe, vẫn còn quan trọng.

Nếu hôm nay cha mẹ bạn vẫn còn, hãy kiên nhẫn hơn một chút.

Khi họ hỏi lại điều bạn đã nói, hãy nhớ: đó là cơ hội để bạn làm lại một điều tử tế.

Khi họ chậm chạp làm điều gì, hãy nhớ: từng bước đi đầu tiên của bạn cũng chậm chạp như thế, và chính họ đã kiên nhẫn chờ bạn.

Sẽ đến lúc, bạn muốn bị hỏi lại, cũng không còn ai để hỏi.

Sẽ đến lúc, bạn muốn dặn dò ai đó đi đường cẩn thận, cũng không còn người để dặn.

Và khi ấy, bạn mới hiểu, nỗi buồn lớn nhất của tuổi già không phải là bệnh tật, mà là cảm giác mình không còn chỗ đứng trong trái tim con cái.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

CON ĐẾN -Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Ngài!”.

“Vâng lời tức khắc là vâng lời thật nhất; vâng lời trì hoãn là không vâng lời!” – Thomas Kempis.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa và Thánh Vịnh đáp ca hôm nay – “Này con xin đến!” – cho thấy những con người vâng lời tức khắc và những con người trì hoãn – không vâng lời. Đó là những con người sẵn sàng thưa ‘Con đến!’ và những người lần lữa, ‘Con không thể đến!’.

Bài đọc một ghi lại chiến công của Gíptác – người thề với Chúa – nếu Chúa cho ông thắng trận, thì khi trở về, người nào đón ông trước nhất, sẽ là của lễ toàn thiêu dâng Ngài. Thương ôi! Đó là con gái một của ông. Cô xin cha hai tháng để cùng bạn bè than khóc tuổi xuân; đến hẹn, cô về nhà, hiến mình làm của lễ dâng Chúa. “Vâng phục chính là bàn thờ nơi tình yêu được minh chứng!” – Fulton Sheen. Như vậy, cùng cha, quý nữ của Gíptác đã thưa lên ‘Con đến’ làm lễ dâng trên bàn thờ vâng lời!

Dụ ngôn Tin Mừng kể ra những người được mời trì hoãn và cuối cùng, từ chối tiệc cưới hoàng tử. Ở đây, thể hiện ‘hai mức độ’ từ chối Phúc Âm trong thế giới. Trước hết – sự thờ ơ! Nhịp sống ngày nay khiến con người quá bận rộn, bận nhiều thứ không đâu vào đâu: bận lướt điện thoại, bận chầu ‘quái vật một mắt’ – tivi, bận ‘nghiện việc’. “Nếu ma quỷ không làm chúng ta nên xấu, nó sẽ làm chúng ta bận rộn!” – Corrie ten Boom. Từ đó, chúng ta dành quá ít thời giờ cho những việc quan trọng nhất như gia đình, cầu nguyện và phục vụ. Kết quả, con người trở nên thờ ơ với các vấn đề đức tin, thờ phượng, dấn thân mà nhờ đó, làm điều Chúa muốn và có thể thưa lên, ‘Con đến!’.

Một ngăn cản khác khiến Kitô hữu ngại dấn thân, từ chối niềm tin chính là sự thù địch Giáo Hội ngày càng tăng; thế giới ‘ít Chúa’ liên tục cổ vũ một nền ‘văn hoá nghịch Tin Mừng’. Bên cạnh đó, ở đây ở kia, xảy ra những ồn ào nổi cộm phân hoá sự hiệp nhất giữa chủ chăn và đoàn chiên, giữa Linh mục với Giám mục. Từ đó, Kitô hữu hoang mang, nghi ngờ về một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện và tông truyền vốn nay chỉ như một ‘cơ chế thế gian’. Hệ luỵ này còn tai hại hơn so với sự thờ ơ nói trên! Với những gì ‘tai tiếng’ như thế thì làm sao mỗi người có thể thưa lên ‘Con đến?’ và làm sao nói đến truyền giáo? “Chia rẽ trong Giáo Hội là kiệt tác của ma quỷ!” – Charles Spurgeon.

Anh Chị em,

“Này con đến!” phải là lời đáp đích thực của mỗi tín hữu. Bởi lẽ, trong khi nhiều người trì hoãn, để mình cuốn vào những bận rộn, thờ ơ hoặc nghi ngờ trước những chia rẽ, thì Thiên Chúa vẫn chờ một lời thưa trọn vẹn của bạn và tôi. Vâng lời không phải là mất mát nhưng là bàn thờ tình yêu. Chính nơi thái độ sẵn sàng ấy, chúng ta khám phá niềm vui và tự do sâu thẳm. “Vâng lời là con đường dẫn đến tự do, khiêm nhường là con đường dẫn đến niềm vui!” – C.S. Lewis. Vì thế, mỗi ngày, chỉ cần bạn và tôi thưa một lời đơn sơ, “Con đến!” cũng đủ làm đẹp lòng Chúa, đổi thay đời mình, đổi thay thế giới.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ‘con đến’, không để thưa điều con muốn, nhưng để lắng nghe điều Ngài muốn cho đời con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

********************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XX Thường Niên, Năm Lẻ

Gặp ai, anh em cũng mời hết vào tiệc cưới.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 22,1-14

1 Khi ấy, Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói với các thượng tế và kỳ mục trong dân rằng : 2 “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. 3 Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến. 4 Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ : ‘Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng : Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới !’ 5 Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi : kẻ thì đi thăm nông trại, người thì đi buôn, 6 còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết. 7 Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng. 8 Rồi nhà vua bảo đầy tớ : ‘Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. 9 Vậy các ngươi đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.’ 10 Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.

11 ‘Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, 12 mới hỏi người ấy : Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới ?’ Người ấy câm miệng không nói được gì. 13 Nhà vua liền bảo những người phục dịch : ‘Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng ! 14 Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít’.”


 

Bài điếu văn tiễn biệt mẹ hiền thật cảm động

Nhuan Le is with AnhPhu VanLy.

(Hải, con chị Tiềm ở Mira Mesa hơn 10 năm trước .

Bài viết của Con HO-VN .

bài điếu văn thật cảm động,  thật khó cầm được nước mắt.

Điếu văn mẹ:

Con xin phép cúi đầu trước linh cữu Mẹ bày tỏ lòng tri ân sinh dưỡng và nói đôi lời tiễn biệt.

Tuần vừa qua, khi tiếng chuông trường vang lên báo hiệu một năm học mới, lòng con bỗng bồi hồi nhớ đến đoạn văn trong truyện ngắn Tôi đi học của nhà văn Thanh Tịnh — tác phẩm mà mỗi mùa khai giảng Mẹ vẫn ân cần đọc cho học trò nghe.

Câu văn ấy giờ lại vang lên trong ký ức:

“Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp.”

Ngày ấy, không chỉ trên trang sách… Mẹ cũng đã nắm tay con như thế trong buổi đầu tiên đến lớp, rồi tiếp tục nắm tay con suốt bao năm tháng cắp sách đến trường.

Từ buổi đầu đời, bàn tay Mẹ đã nâng con trong vòng tay ấm áp; từ những bước chập chững đầu tiên, Mẹ dắt con qua từng con đường làng, qua cổng trường, qua tuổi thơ, qua những mùa nắng, mùa mưa.

Bàn tay ấy không chỉ dìu con qua những con đường, mà còn dắt con qua cả những tháng ngày thử thách; không chỉ nâng con dậy khi vấp ngã, mà còn âm thầm che chở khi giông gió bất chợt ập về.

Và rồi… đến giây phút cuối cùng, bàn tay Mẹ vẫn truyền hơi ấm, như sợ con chông chênh giữa dòng đời.

Ngày con cất tiếng khóc chào đời, Ba không thể ở bên vì còn bị giam cầm trong lao tù cộng sản.

Hơn một tháng tuổi, con đã theo Mẹ đến vùng đất Hội An lập nghiệp.

Xa gia đình, không người thân giúp đỡ, Mẹ một mình gồng gánh: vừa nuôi con, vừa dành dụm để thăm nuôi chồng suốt tám năm dài đằng đẵng.

Ngoài đồng lương ít ỏi của nghề giáo, lại luôn bị chèn ép vì là vợ của một sĩ quan chế độ cũ đang trong tù, Mẹ xoay xở đủ đường: nấu khoai, luộc sắn đem bán, tằn tiện từng đồng mua sữa, mua bột cho con, rồi gói ghém mang vào thăm Ba.

Bao nhiêu nước mắt Mẹ lặng lẽ nuốt vào lòng, bao nhiêu đêm Mẹ nhịn phần ăn, chỉ mong con được no lòng, ấm dạ.

Con vẫn nhớ chiếc xe đạp cũ kỹ, nơi yên sau là cả tuổi thơ con nép mình.

Mỗi buổi sớm, Mẹ chở con đến trường, đặt con ngồi một góc lớp, rồi quay vào bục giảng, vừa dạy trò, vừa liếc nhìn con bằng ánh mắt yên lòng.

Những đêm con bệnh, Mẹ thức trắng không rời nửa bước.

Khi con đau mắt, Mẹ lặn lội khắp nơi tìm thầy giỏi, thuốc hay; nghe ở đâu có người chữa được, dẫu đường xa mấy, dẫu nắng gió sương sa, Mẹ cũng đưa con đến, chỉ mong con mau khỏi bệnh.

Không chỉ là người mẹ hiền tận tụy, Mẹ còn là người vợ thủy chung, sắt son với Ba.

Suốt tám năm dài, Mẹ vẫn một lòng chờ đợi ngày Ba trở về, mặc cho đời đầy cám dỗ.

Có những năm tháng, hai mẹ con phải dời chỗ ở nhiều lần, chỉ vì Mẹ muốn giữ trọn lòng chung thủy với Ba, và gìn giữ phẩm hạnh của mình trước miệng đời dèm pha.

Mẹ chọn những nơi yên ổn để con lớn lên không sợ hãi, để gia đình chờ ngày đoàn tụ.

Những chuyến thăm nuôi Ba là những hành trình gian khổ: mẹ con vượt đèo, lội suối, đi hàng chục, hàng trăm cây số đường rừng núi.

Có nhiều lần đi giữa mưa gió, có khi phải ngủ tạm ven rừng, bên lề đường, chỉ để sáng kịp vào gặp Ba một chốc, trao nhau vài lời nhắn nhủ, mấy gói quà chắt chiu, rồi lại tất tả quay về.

Ngày Ba trở về, cả nhà mình lên vùng kinh tế mới Cây Trường.

Suốt mười một năm ở vùng heo hút ấy, sau giờ đứng lớp, Mẹ lại tất tả ra đồng dưới cái nắng trưa hè bỏng rát.

Mẹ cùng Ba dựng lại cuộc đời từ đôi bàn tay trắng, nuôi chúng con khôn lớn.

Những giọt mồ hôi Mẹ rơi xuống trên mảnh đất nứt nẻ trồng lúa mì, đậu phụng, đậu xanh…

Những bước chân rón rén sớm hôm nhóm bếp nấu ăn cho Ba đi làm sớm, chỉ để các con được ngủ ngon giấc, có bữa cơm no, có sách vở đến trường.

Ngay cả khi gia đình định cư ở Mỹ, Mẹ vẫn không ngừng làm việc vất vả, lo cho các con được ăn học nên người.

Mẹ không màng đến việc mình từng là giáo viên, từng giữ chức hiệu phó được nhiều người kính trọng, mà sẵn sàng ngày ngày làm việc chăm sóc trẻ em, người già từ sáng sớm đến chiều tối, chỉ mong kiếm thêm thu nhập để trang trải cuộc sống gia đình.

Tất cả cũng chỉ vì các con, vì tương lai của các con sau này.

Cuộc đời của Mẹ là chuỗi ngày thức khuya, nhịn đói, nhẫn nại, hy sinh — không một lời đòi hỏi cho riêng mình.

Rồi khi con yên bề gia thất, ổn định cuộc sống, Mẹ lại hóa thành bóng cây trước ngõ: chăm lo bữa ăn, giấc ngủ, đưa đón các cháu đến trường, dạy chúng lễ nghĩa, chữ nghĩa, hiền từ.

Vòng tay đã ôm ẵm con năm nào, nay lại êm ái đỡ nâng các cháu.

Bước chân đã dắt con qua những con đường làng nhỏ hẹp, nay lại dắt các cháu qua những ngã ba, ngã tư đường, bình thản và kiên nhẫn như chưa từng biết mỏi.

Mẹ ơi, nhìn lại đời Mẹ, chúng con chỉ thấy một chữ “Đủ”:

– đủ kiên cường để đứng vững trong bão tố;

– đủ bao dung để gom cả yêu thương vào lòng;

– đủ nhẫn nại để chắt chiu từng niềm vui nhỏ cho gia đình;

– đủ hiền hòa để đi qua mọi nỗi buồn mà vẫn giữ nụ cười.

Công ơn của Mẹ — như trời cao, như biển rộng — chúng con chưa kịp đền đáp.

Nay Mẹ đã thanh thản rời cõi tạm, để lại cho chúng con tấm gương sáng và di sản yêu thương không gì sánh nổi.

Trước linh cữu của Mẹ, chúng con xin cúi đầu tạ ơn: ơn sinh thành, ơn dưỡng dục, ơn dạy dỗ nên người.

Nếu đâu đó trong đời, chúng con từng vô tâm làm Mẹ buồn, xin Mẹ rộng lòng tha thứ.

Xin nhận nơi đây nén hương lòng và lời hứa chân thành: chúng con sẽ thương nhau nhiều hơn, sống tử tế hơn, dạy các cháu hiền lành như lời Mẹ dặn, để mỗi ngày trôi qua đều là một bông hoa đặt lên mộ Mẹ.

Rồi mai này, mỗi độ thu về, tiếng chuông tựu trường lại vang, đoạn văn năm cũ lại ngân:

“Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi…” — chúng con sẽ thấy bàn tay Mẹ ở đó, dịu dàng và ấm áp.

Dẫu thân xác Mẹ hòa vào cát bụi, tình Mẹ vẫn sống mãi trong tim chúng con;

Dòng máu Mẹ vẫn luân chảy trong huyết quản chúng con;

Bóng Mẹ vẫn là vệt nắng cuối chiều dẫn lối gia đình đi tiếp đoạn đường đời.

Mẹ ơi, thôi Mẹ yên nghỉ.

Con tin rằng ở nơi an lành, Mẹ sẽ mỉm cười nhìn chúng con lớn lên thêm một lần nữa — không còn lo toan, không còn nhọc nhằn.

Chúng con và các cháu mãi mãi biết ơn Mẹ, mãi mãi nhớ ơn Mẹ.

Con xin cúi đầu vĩnh biệt Mẹ.

Xin Mẹ phù hộ cho gia đình chúng con biết thương nhau, biết dìu nhau đi qua mọi mùa gió lạnh — như Mẹ đã từng, suốt cả một đời.

Chúng con xin thành kính cảm ơn


 

Tự Trọng – Mai Thị Mùi

Kimtrong Lam

Mai Thị Mùi

Không có một đất nước nào mà lại lắm ngày truyền thống như nước ta. Ban bệ, ngành nghề nào cũng có ngày riêng, quân đội, công an, luật sư, nhà giáo, nhà báo, nhà may, nhà thổ..Tất tật phải cố đặt ra một ngày nào đó để tự tôn và được tôn vinh. Ngày nhà giáo VN có lẽ là ngày dễ nhớ nhất vì ai trong đời cũng là học sinh, không thì cũng là phụ huynh để PHẢI nhớ mà cúng cô hồn cho yên thân cả cha mẹ lẫn con cái.

Tôi hỏi quý vị đồng nghiệp, quý vị hãnh diện và hân hoan chào đón cái ngày này để làm gì? Một năm 365 ngày, được “tôn vinh” một ngày rồi cả xã hội phỉ nhổ 364 ngày có đáng không quý vị? Tôi nhìn quý vị xúng xính váy áo, ôm những bó hoa mua bằng máu và nước mắt của phụ huynh nghèo, quý vị nghiêng vai nghiêng cổ cho ra những pô hình để up phây, rồi sau đó ngồi vào những mâm cỗ từ quỹ “tự nguyện” đóng góp của PHHS mà tôi thấy như ăn phải miếng thịt ôi, chỉ chực nôn ra cho bằng sạch.

– Một đất nước không cần có ngày Người Cao Tuổi, chỉ cần ở đất nước ấy người già không phải đi bán vé số, nhặt ve chai, xin ăn hay bươi rác.

– Một đất nước không cần ngày Trẻ Em, miễn là đừng có trẻ em bị ấu dâm, trẻ bỏ học đi kiếm sống, trẻ bị bạo hành, trẻ bị lạm dụng.

– Một đất nước văn minh không cần có ngày Phụ Nữ, chỉ cần họ không bị bạo hành, phân biệt đối xử.

– Một đất nước không nên có các bà mẹ Anh Hùng, ba lần tiễn con đi hai lần khóc thầm lặng lẽ. Chúng mày có thương mẹ thì để mẹ sống yên bình bên các con mẹ. Chứ chúng mày tạo chiến tranh rồi bắt con mẹ lao vào cuộc chiến tranh phi nghĩa, phi nhân làm gì. Để rồi con mẹ mất, mẹ sống với nỗi đau thắt ruột rồi chúng mày cấp cho cho mẹ cái bằng mẹ VNAH, Phụ nữ không cần anh hùng, phụ nữ chỉ cần cuộc sống an nhiên với chồng, với con thôi. Chúng mày không tạo ra chiến tranh tức là công đức vô lượng rồi.

– Một người thầy cũng không cần đến ngày tôn vinh nhà giáo. Chỉ cần cái ngành giáo dục trả lương cho họ đủ sống để họ không phải bắt học sinh đi học thêm, chỉ cần họ không dí học sinh đóng tiền học, chỉ cần họ không hối phụ huynh đóng quỹ lớp, chỉ cần họ không “vận động” phụ huynh đưa con đi chích VAC, họ chỉ cần chuyên tâm vào công việc chuyên môn thì tự khắc cả xã hội kính trọng họ, kính trọng từ ngày này sang tháng khác, từ năm này qua năm nọ, từ đời này đến đời kia. Chứ đâu chỉ có 1 ngày hoa trái, quà cáp, phong bì, hộp nơ, rồi những tháng còn lại trong năm nhìn nhau theo mối quan hệ mua bán con chữ, kinh doanh tri thức.   

Quý vị hiểu mình cần phải làm gì rồi chứ? Muốn người khác tôn trọng trước hết mình phải có tự trọng. Lòng tự trọng từ đâu mà có? Tự trọng là không đủ tri thức không đứng trên bục giảng, tự trọng là thấy nghề giáo không đủ sống mạnh dạn bước ra khỏi ngành chứ không phải cào cấu phụ huynh cho đầy hũ gạo nhà mình, tự trọng là thấy sai trái, bất công phải lên tiếng chứ không hùa theo lũ lãnh đạo bóp cổ PH và HS, tự trọng là bị cử đi làm “nhiệm vụ chính trị” phải biết phản đối, tự trọng là thấy trường lạm thu phải đứng về phía phụ huynh, tự trọng là không câm lặng nghe và làm theo những điều dối trá, sai quấy của cấp trên cốt để yên thân, vững ghế.

Chỉ cần quý vị làm được những điều trên, mỗi năm xã hội sẽ tôn vinh quý vị đủ 365 ngày với sự yêu kính chân thành, không phải bằng những tấm thiệp ghi những câu hoa mỹ do bố mẹ chúng nó mồi có kẹp mấy tờ bạc, những bó hoa tươi mua bằng những đoạn ruột héo, những cái hộp đựng vài mảnh vải áo dài, những coupon, những chai dầu thơm, sữa tắm… mà chỉ cần thêm nén nhang, nắm muối, nắm gạo là đủ bộ cúng mùng 2, 16 mỗi tháng.

Mai Thị Mùi.


 

CHƯA MUỘN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!”.

John Sargent từng vẽ bức “Hoa Hồng” – một kiệt tác. Dẫu hội hoạ sĩ đã ra một giá rất cao, nhưng anh vẫn từ chối bán nó. Anh coi đây là tác phẩm tốt nhất của mình; để bất cứ khi nào nản lòng và nghi ngờ về khả năng sáng tạo của bản thân, anh nhìn nó và tự nhủ, “Tôi đã vẽ nó!”. Nhờ đó, anh luôn có cơ hội đi tiếp, tiến tới đỉnh cao sự nghiệp với danh hiệu “Hoạ sĩ vẽ chân dung hàng đầu cuối thế kỷ 19”.

Kính thưa Anh Chị em,

Như bức “Hoa Hồng”, Bí tích Rửa Tội là kiệt tác thầm nhắc chúng ta rằng, Thiên Chúa đã ban ân sủng dẫy đầy để mỗi người bắt đầu, rồi lại bắt đầu, hầu có thể tiến tới đỉnh cao sự nghiệp của mình: chu tất “kế hoạch yêu thương” Chúa định cho mỗi người. Vì thế, dẫu bao lần vấp ngã, bạn và tôi vẫn ‘chưa muộn’ để đứng lên. Tin Mừng hôm nay cho thấy điều đó.

Chủ vườn là hình ảnh một Thiên Chúa xót thương, quảng đại và hào hiệp. Ngài đón nhận bất cứ ai sẵn sàng vào làm ‘vườn nho’ nhà Ngài ở bất cứ thời điểm nào. Với Ngài, mọi người luôn có cơ hội! “Trong tình yêu Thiên Chúa, không ai bị bỏ lại; mỗi người đều có chỗ trong vườn nho Ngài!” – Phanxicô. Một trong những trải nghiệm tồi tệ nhất là bạn ‘chấp nhận’ đánh mất cơ hội để bắt đầu lại. Bởi lẽ Thiên Chúa ban cho mọi người một quỹ thời gian ‘đủ’ để đi về phía Ngài; vì thế, cả khi ngã quỵ, nhờ ơn Chúa, bạn vẫn ‘chưa muộn’ để chỗi dậy, tiếp tục hành trình. “Ân sủng không nhìn vào giờ giấc, nó nhìn vào con tim sẵn sàng đáp lại!” – Max Lucado.

Với Chúa, con người không chỉ luôn có cơ hội để tái khởi sự, nhưng còn có thể trải nghiệm những nghịch lý xót thương của Ngài. Dụ ngôn này là một bằng chứng: người làm ít, kẻ làm nhiều đều nhận một quan tiền! Chúng ta thường quên, với Chúa, mọi sự đều là quà tặng. Không ai có quyền đòi Ngài công bằng về ân sủng; những gì chúng ta làm cho Chúa không bao giờ là ‘ân huệ’ dành cho Ngài; nhưng là những nghĩa vụ ‘hiện sinh’, đó là lý do chúng ta có mặt trên đời. Ngài không mắc nợ ai! “Không phải ta làm được gì cho Chúa, nhưng chính Ngài đã làm tất cả cho ta!” – Dietrich Bonhoeffer.

Anh Chị em,

“Hãy đi vào vườn nho!”. Bức “Hoa Hồng” đã thúc giục Sargent “Hãy đi!”; Bí tích Rửa Tội thúc giục bạn và tôi “Hãy đi!”. Vì thế, mỗi khi mỏi gối chồn chân, hãy lặng thinh trước ‘kiệt tác ân sủng’ của mình – phép Thánh Tẩy – mà lấy lại nhiệt huyết! Cũng vậy, lời mời gọi này – biểu tượng của mọi lời gọi – nhắc chúng ta nhìn vào những con người đã được Chúa trao cơ hội. “Đấng không chọn kẻ xứng đáng; Ngài làm cho kẻ được chọn trở nên xứng đáng!” – Vance Havner. Họ không chỉ là các thánh hoặc các tâm hồn thánh thiện; nhưng còn là những người thu thuế, phong cùi, người nữ ngoại tình, biệt phái hay ngay cả anh trộm lành… Những con người này đã đi tiếp, và đi tận Nước Trời. Vì với họ, luôn luôn vẫn ‘chưa muộn!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cảm tạ Chúa vì ân sủng Ngài không bao giờ đóng cửa; sau mỗi thất bại, giúp con đứng lên và tiến thẳng, vì ‘vẫn còn kịp’, con luôn có cơ hội!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

***************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XX Thường Niên, Năm Lẻ

Phải chăng vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 20,1-16a

1 Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này : “Nước Trời giống như chuyện chủ nhà kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. 2 Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. 3 Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. 4 Ông cũng bảo họ : ‘Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.’ 5 Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. 6 Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ : ‘Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết ?’ 7 Họ đáp : ‘Vì không ai mướn chúng tôi.’ Ông bảo họ : ‘Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho !’ 8 Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý : ‘Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.’ 9 Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. 10 Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. 11 Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn chủ nhà : 12 ‘Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.’ 13 Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ : ‘Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao ? 14 Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. 15 Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?’ 16a Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.”


 

Chiến tranh Nga-Ukraine: Nếu Hà Nội là Kyiv, Việt Nam sẽ làm gì khác?

BBC

  • Tác giả,Vũ Đức Khanh
  • Vai trò, Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Ottawa, Canada

Việc Tổng thống Donald Trump và Tổng thống Vladimir Putin bước ra từ cuộc gặp thượng đỉnh Alaska ngày 15/8/2025 với thông điệp mở đường cho một thỏa thuận hòa bình đã làm dấy lên nhiều so sánh thời cuộc giữa cuộc chiến Ukraine ngày nay và cuộc chiến Việt Nam nửa thế kỷ trước.

Từ góc nhìn lịch sử – chiến lược, một câu hỏi đáng giá được đặt ra: Nếu Hà Nội vào thời chiến Việt Nam phải đối mặt một cuộc chiến như Kyiv ngày nay, liệu Việt Nam sẽ làm gì khác?

Và vì sao Hà Nội đã có thể chiến thắng một siêu cường như Mỹ, trong khi Ukraine lại đứng trước nguy cơ phải chấp nhận một “hòa bình bất đối xứng” với Nga?

Chiến lược “trường kỳ” – điều kiện đủ và cần

Hà Nội từng theo đuổi một chiến lược tối thượng: “trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi”.

Sức mạnh của chiến lược này không chỉ nằm ở lòng quyết tâm, mà vì Hà Nội đặt cuộc chiến Việt Nam vào dạng chiến tranh sinh tử – không có đường lùi. 

Miền Bắc sẵn sàng hy sinh 10–20 năm, chấp nhận tổn thất của cải, dân số, hạ tầng – vì mục tiêu giành độc lập và thống nhất đất nước là tuyệt đối.

Ngược lại, Mỹ tham chiến tại miền Nam Việt Nam luôn phải trả lời câu hỏi: “giữ miền Nam có thật sự liên quan tới sự tồn vong của nước Mỹ không?”.

Khi câu trả lời nghiêng về “không”, sức mạnh chính trị của Washington tự nhiên suy giảm – hàng loạt áp lực nội bộ buộc Mỹ phải xét lại mục tiêu, cuối cùng là rút quân.

Ngày nay, Ukraine có lòng quyết tâm không kém bất kỳ quốc gia nào – nhưng chiến lược “trường kỳ” của Kyiv lại phụ thuộc nghiệt ngã vào ý chí chính trị của Mỹ và phương Tây.

Mỹ và phương Tây muốn Ukraine sống sót và không để Nga thắng – nhưng không muốn chiến thắng bằng mọi giá, và càng không muốn đánh Nga trực tiếp.

Do đó, “trường kỳ” của Ukraine là một cuộc chiến mà “nút dây” nằm trong túi nghị viện và lá phiếu của Paris, Berlin, Warsaw, Washington, London – nhiều hơn là tại Kyiv.

Putin có giới hạn như nước Mỹ tại Việt Nam?

Điểm sống còn thứ hai: nước Nga coi Ukraine – đặc biệt là Crimea và Donbas – không chỉ là lợi ích địa-chính trị mà còn là phần cốt lõi của bản sắc và sinh tồn của nhà nước Nga.

Các tuyên bố công khai của Putin từ 2014 đến nay đều thể hiện Nga không coi Ukraine là một quốc gia tách biệt hoàn toàn khỏi “thế giới Nga”.

Cuộc chiến với Ukraine vì thế là cuộc chiến “không có đường rút” cho Kremlin – khác hẳn với Mỹ tại Việt Nam.

Điều này mang ý nghĩa quyết định: nếu Washington có thể rút khỏi Sài Gòn mà vẫn là siêu cường số Một thế giới, thì Moscow khó có thể rút khỏi Donbas mà vẫn duy trì vị thế đế chế.

Vì thế, ý chí chính trị của Nga – dù bị trừng phạt, cấm vận, tổn thất quân sự – vẫn mang bản chất cố thủ tới cùng, đặt Ukraine vào thế khó trong đàm phán hoà bình.

Viện trợ, độc lập chiến lược và “câu giờ” khôn ngoan

Một khác biệt không nhỏ: Hà Nội nhận viện trợ từ Liên Xô, Trung Quốc nhưng luôn giữ được quyền chủ động “mục tiêu tối hậu” của mình; trái lại Ukraine ngày nay dù chiến đấu anh dũng, nhưng mức độ phụ thuộc vào tài chính – quân sự – hậu cần của Mỹ và phương Tây khiến Kyiv khó tránh khỏi áp lực nhượng bộ khi Washington chuyển hướng.

Nếu “Hà Nội là Kyiv”, cách phản ứng hợp lý nhất sẽ không phải là đập bàn nói “không” với Tổng thống Trump, mà là kéo ông vào một quá trình thương lượng phức tạp như “hòa đàm Paris” (5/1968-1/1973), khiến “Big Deal” trở nên ngày càng xa vời trong khi Nga bị kéo sâu hơn vào thế sa lầy.

Điều đó đòi hỏi Kyiv phải củng cố các “đường tiếp viện sống còn” ngoài Washington – từ Ba Lan, Lithuania, Latvia, Estonia, Phần Lan – những quốc gia coi Ukraine như tuyến phòng thủ sinh tử – đến Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Đài Loan và Australia – những đối tác có lợi ích chống xét lại và có thể hỗ trợ tài chính – tái thiết – ISR (Intelligence, Surveillance and Reconnaissance, tức là Tình báo – Giám sát – Trinh sát).

Chiến lược không phải “chờ” Mỹ và phương Tây, mà là buộc Mỹ và phương Tây phải lựa chọn: hoặc tiếp tục hỗ trợ để giữ Ukraine trên tuyến lửa Nga, hoặc chấp nhận nhìn Moscow tiến sát các biên giới NATO.

Thông điệp cuối cùng từ Alaska

Nhìn từ Alaska 2025, Hà Nội đã thắng vì biến cuộc chiến thành bài toán “không giới hạn ý chí” – trong khi buộc Washington phải đặt giới hạn cho chính mình.

Nếu Ukraine muốn tránh bị đẩy vào một thỏa thuận hòa bình mang tính đầu hàng từng phần, Kyiv phải học lấy điều đó: bằng cách kéo dài chiến tranh theo hướng khiến Moscow kiệt sức chính trị chứ không chỉ quân sự, đồng thời phá vỡ sự phụ thuộc duy nhất vào ý chí thay đổi của Washington.

Đây chính là mô hình “hòa bình có điều kiện” – thứ mà nếu Hà Nội bị ép phải ký vào năm 1972, có lẽ Việt Nam ngày nay sẽ bị chia cắt vĩnh viễn như bán đảo Triều Tiên.

Tổng thống Trump có thể mở lại trò chơi đàm phán kiểu Yalta, nhưng nếu Ukraine không đủ tỉnh táo, thỏa thuận hòa bình chỉ là cách viết lại thất bại bằng ngôn từ hoa mỹ.

Lịch sử không bao giờ lặp lại, nhưng nó thường để lại những cạm bẫy giống nhau.

Và trong thế giới ấy, những quốc gia không thể tự kéo dài được ý chí chiến lược của mình sẽ không còn tranh được thế chủ động – mà chỉ còn lại… quyền được hy sinh trên bàn mặc cả của các cường quốc.


 

SAU “GIẢI PHÓNG” LÀ CHUỖI NGÀY ĐEN TỐI-Nguồn fb Đỗ Ngà

Xuyên Sơn

Sau ngày 30/4/1975 những con người giỏi chém giết nhưng dốt nát về quản trị đã lên nắm quyền cai trị đất nước. Đây là chuỗi ngày kinh hoàng cho người dân Việt Nam.

Điều đầu tiên những cái đầu ngu dốt ấy làm là thực hiện chiến dịch đánh tư sản mại bản và ngăn sông cấm chợ.

Trong nền kinh tế có vô số chuỗi cung ứng, mỗi chuỗi cung ứng như vậy là mối liên kết chặt chẽ giữa sản xuất, lưu thông và tiêu thụ.

Đánh tư sản mại bản là đánh chết những doanh nghiệp sản xuất và thương mại, ngăn sông chấp chợ là cấm lưu thông hàng hóa.

Sản xuất bị diệt, vận chuyển bị chặn thì dân sống thế nào?

Nền kinh tế phát triển thế nào được? Vì thế mà dân miền nam chịu đựng cái đói kinh hoàng.

Dân phải ăn khoai lang và bo bo thay cơm.

Vì sao kinh tế đất nước điêu tàn như thế?

kẻ cầm đầu ĐCS khi đó là Lê Duẩn, một con người nổi tiếng với câu nói “Tôi hỏi thì nói không có tiền.

Kìa, không có thì in ra! In ra!

Không sợ lạm phát!

Tư bản đế quốc in tiền mới lạm phát chứ ta, chuyên chính vô sản thì sao lại là lạm phát mà sợ?”

đã điều hành đất nước một cách duy ý chí.

Cái duy ý chí dựa trên sự dốt nát thì nó nguy hiểm khôn lường.

Với một con người có trình độ như vậy thì điều hành đất nước thế nào được? Sự dốt nát, sự kiêu ngạo và duy ý chí cộng lại trong một nhà độc tài thì đất nước bị tàn phá khủng khiếp,

và thực thế đã chứng minh điều đó.

Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã đó là quy luật tất yếu.

Với con người đứng đầu đảng như thế thì dưới trướng là những con người dốt nát và nhiệt tình.

Kẻ đầu tiên trong đám dốt nát và nhiệt tình đó chính là Đỗ Mười,

kẻ ngu dốt này được Lê Duẩn giao nhiệm vụ thực hiện chiến dịch

X1, X2, và X3 để loại bỏ sạch

“bọn tư sản bóc lột”.

X1 là cướp nhà những gia đình bị cho là “tư sản bóc lột” và đẩy họ “đi kinh tế mới” để rừng thiên nước độc làm họ chết dần chết mòn.

Chiến dịch X2 là tiêu diệt tư sản, tịch thu tài sản, xí nghiệp xung vào công quỹ.

Chiến dịch X3 là giao những căn nhà đã cướp cho quan chức CS từ bắc vào.

Sau 3 chiến dịch này, nền sản xuất và thương mại phồn vinh của miền nam tan nát không còn gì. Cả miền nam xây dựng bao năm, CS vào phá tan nát trong chốc lát.

Người thứ nhì phải kể đến, đó là gã văn nô Tố Hữu.

Một con người suốt đời chỉ viết làm thơ bưng bô thì lại được giao cho chức vụ phó chủ tịch thường trực Hội đồng Bộ trưởng (tức phó thủ tướng thường trực ngày nay) chịu trách nhiệm về vấn đề kinh tế – tài chính đất nước.

Dưới quyền ông này,Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phát hành tờ 30 đồng  và Bộ tài chính ra chính sách “giá-lương-tiền”.

Về giá thì chính quyền ấn định giá hàng hóa thấp để dân dễ mua, về lương thì tăng lương cho công nhân viên chức,về tiền là in tiền để trả thêm phần lương tăng thêm đó.

Chính vì chính sách ngu dốt đó đã làm cho đồng tiền lạm phát phi mã, từ năm 1985 đến 1988, với tỉ lệ lạm phát từ 300% đến 800% mỗi năm.

Năm 1986,tỷ lệ lạm phát lên đến 774,7% khiến kinh tế rối loạn.

Giai đoạn từ năm 1975-1986 là giai đoạn kinh hoàng.

Toàn bộ nền kinh tế phồn thịnh dưới thời VNCH bị xóa sạch.

Người dân sống như súc vật, cơm không đủ ăn mà xã hội thì đầy rẫy bọn sai nha lùng sục bắt bớ những ai dám buôn bán trao đổi dù là miếng thịt heo hay con gà.

Mất tự do, mất quyền làm người,mất chén cơm làm sao dân sống nổi? Chính vì thế mà dù cho có bán nhà,dù có đối diện với nguy cơ bỏ mạng ngoài biển người dân cũng tìm cách vượt biên để tìm kiếm tự do.

Trước ông Lê Duẩn là ông Hồ Chí Minh.

Con người này được ĐCS phong thánh, câu nói nào cũng được dát vàng để đảng viên học tập.

Để xua quân từ Bắc vào Nam phá hoại nền dân chủ non trẻ của Miền Nam, ông Hồ Chí Minh có làm 2 câu thơ rằng:

“Còn non, còn nước, còn người,

Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”.

Chuyện đánh giặc giỏi và xây dựng đất nước có liên quan gì nhau?

Xây dựng khó vạn lần phá bỏ, đấy là điều sơ đẳng ai cũng biết.

Và thực tế, sau ngày 30/4/1975 ĐCS chỉ có phá chứ xây dựng được gì?

Từ Hồ Chí Minh rồi đến Lê Duẩn, những con người nắm quyền sinh quyền sát trong tay thì nói cho cùng, họ đã để lại giá trị gì trong tư tưởng để giúp ĐCS quản trị tốt đất nước chứ? Không gì cả.

Hiện nay ĐCS đang dựng lên một mớ lý luận hổ lốn mà trong đó mọi câu nói của ông Hồ Chí Minh đều được quẳng vào, nó được gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Điều nguy hiểm hơn nữa là ngày nay ĐCS cho đảng viên các cấp của họ “học tập và làm theo” mớ hổ lốn đó.

Và hậu quả sự sáng suốt không hề xuất hiện trong đảng.

Bao năm rồi với biết bao nhiêu tiền của đổ ra để dạy đạo đức và lý luận cho đảng viên, nhưng rồi cái dốt, cái kiêu ngạo, cái duy ý chí và cả sự khốn nạn nó nó vẫn còn nhởn nhơ ở đó.

Chính những thứ đó, những thứ mà người CS học và làm theo nó đã, đang và sẽ tiếp tục tàn phá nỗ lực của toàn dân theo cách khác với những gì nó đã từng.

Nguồn fb Đỗ Ngà

Tham khảo:

https://www.vinadia.org/den-cu-tran-dinh/den-cu-chuong-15/

https://thanhnien.vn/…/tien-giay-menh-gia-30-dong-bat…


 

Người Việt Nam vẫn muốn đi Mỹ dù chi phí cao, xin visa khó

Ba’o Nguoi-Viet  

August 18, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Được đặt chân đến Mỹ một lần trong đời là giấc mơ của nhiều người Việt Nam, bất chấp chi phí du lịch đắt và chính sách visa (thị thực) ngày càng siết chặt hơn.

Báo VNExpress hôm 18 Tháng Tám, dẫn khảo sát “nhu cầu du lịch Mỹ của khách Châu Á” từ cuối Tháng Năm đến giữa Tháng Sáu vừa qua của công ty nghiên cứu thị trường Milieu Insight, cho biết trong khi người Signapore là nhóm né du lịch Mỹ năm nay ở mức cao nhất thì ở chiều ngược lại, tỷ lệ quan tâm đến Mỹ tăng tại Việt Nam và Philippines.

Du khách đổ xô đến chụp ảnh tượng Nữ Thần Tự Do ở New York, Mỹ. (Hình: TTG Asia/VNExpress)

Cụ thể, 57% người Việt Nam cho biết họ quan tâm đến việc được đến Mỹ nhiều hơn so với sáu tháng trước, mặc dù visa Mỹ có ba thay đổi quan trọng trong năm 2025, gồm: dừng chương trình miễn phỏng vấn khi gia hạn visa từ 2 Tháng Chín với hầu hết visa không định cư; phí visa Mỹ tăng tối thiểu $250 từ 1 Tháng Mười, và chương trình thí điểm yêu cầu du khách nộp bảo lãnh lên đến $15,000 khi xin visa, dự kiến có hiệu lực từ 20 Tháng Tám.

Hiện tại, lượng khách Việt Nam đặt tour đi Mỹ trong hai quý cuối năm 2025 tại công ty Du Lịch Việt có xu hướng tăng 5%-10% so với cùng kỳ năm ngoái. Còn tại Pan American, lượng người Việt nộp đơn xin visa và gia hạn thị thực Mỹ qua bưu điện “tăng đột biến” sau khi Mỹ công bố tăng phí visa.

Các chuyên gia tại Singapore lý giải nguyên nhân khách Việt Nam có tỷ lệ quan tâm tăng “đến từ việc quốc gia này có cộng đồng người Việt lớn tại Mỹ.”

Với nhiều người, được đứng ở Quảng Trường Thời Đại, lái xe xuyên bang hay đơn giản ăn chiếc burger “ngay trên đất Mỹ” là trải nghiệm “đáng để vượt qua” các rào cản.

Bà Vũ Thị Quỳnh Hoa, phó giám đốc khu nghỉ dưỡng Con Gà Vàng Ninh Thuận, từng bốn lần xin visa Mỹ thành công, cho rằng sức hút của Mỹ với người Việt Nam không chỉ ở danh thắng hay trải nghiệm du lịch.

“Đặt chân tới Mỹ là một cột mốc, một giấc mơ mà nhiều người ấp ủ từ lâu. Mặt khác, đậu visa Mỹ không chỉ mở ra cơ hội khám phá quốc gia này, mà còn giúp du khách Việt thuận lợi hơn khi xin visa các nước khác cũng như miễn visa ra vào nhiều nước. Vì vậy, visa Mỹ được xem là loại visa có giá trị cao trên sổ thông hành,” bà Hoa nói.

Trong khi đó, ông Ngô Văn Thỏa, giám đốc công ty Du Lịch Pan American, người có kinh nghiệm 15 năm làm tour về thị trường Mỹ cho rằng Mỹ là nước lớn, điểm đến có sức hút trên toàn thế giới, không chỉ ở Việt Nam. Vì vậy “Giấc Mơ Mỹ” là niềm mơ ước của rất nhiều khách Việt Nam, muốn một lần trong đời đặt chân đến.

Hai vợ chồng du khách Việt Nam chụp hình trước biểu tượng Hollywood tại Mỹ hồi Tháng Sáu vừa qua. (Hình: VNExpress)

Ngoài chính sách visa thắt chặt hơn, ông Phạm Anh Vũ, phó tổng giám đốc công ty Du Lịch Việt, cho biết vấn đề an ninh, an toàn tại Mỹ lại không phải mối lo hàng đầu của khách Việt Nam. Hầu như chưa đoàn khách Việt nào bày tỏ lo lắng về vấn đề này.

Theo ông Vũ, tour đi Mỹ là sản phẩm cao cấp, chiếm khoảng 10% lượng khách mỗi năm của công ty. Mùa cao điểm du lịch Mỹ của khách Việt Nam là mùa Thu, khi thời tiết ôn hòa, cảnh sắc đẹp với lá vàng lá đỏ và dịp lễ hội cuối năm.

“Nhiều du khách coi chuyến đi Mỹ là cột mốc, một ‘giấc mơ’ để đánh dấu thành tựu và sự thành công chinh phục một trong những visa khó nhất thế giới,” bà Hoa kết.

Theo số liệu công bố hồi tháng 5 của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew thuộc Quỹ Tín Thác Từ Thiện Pew có trụ sở tại Washington, DC, tính đến năm 2023, Việt Nam là một trong bốn cộng đồng người Châu Á có số lượng đông nhất tại Mỹ, với hơn 2.1 triệu người. (Tr.N)


 

CHUYỆN THẰNG TÂY

Chi NguyenNhững Câu Chuyện Thú Vị

Một thằng sinh viên Việt Nam du học ở châu  Âu dẫn bạn là một thằng Tây về nhà chơi. Hai thằng đi bằng xe máy, thằng Việt Nam đưa cho thằng Tây cái mũ bằng nhựa mỏng dính nói thằng Tây đội vào, thằng Tây nói :

– Tao có mũ vải rồi.

– Không được, cái này gọi là mũ bảo hiểm, theo luật giao thông, nếu không đội mũ này mày sẽ bị phạt.

– Nhưng cái mũ này làm sao có tác dụng bảo hiểm ?

– Mày đúng là thằng Tây, tao có nói để bảo hiểm đâu, chỉ để khỏi bị phạt thôi.

Đi một đoạn, thấy mấy tay công an đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, thằng Tây hỏi :

– Luật giao thông Việt Nam không áp dụng cho công an à ?

– Có áp dụng.

– Vậy sao họ không đội,họ không lo bị phạt sao ?

– Vì đó là công an, không đội cũng không bị phạt, vì công an không ai lại đi phạt công an.

Đi tiếp, thấy mấy thanh niên không đội mũ bảo hiểm đi ngang qua cảnh sát giao thông cũng không bị phạt, thằng Tây hỏi :

– Đó cũng là công an à ?

– Mày lại hỏi đểu à, đó là bọn trẻ trâu, nó không bị phạt vì nó nhuộm tóc vàng và khoe hình xăm ở cánh tay, nó sẵn sàng bỏ chạy khi bị thổi còi, lâu dần nó không cần bỏ chạy cũng không bị phạt.

– Tại sao tóc tao cũng vàng, tay tao cũng có hình xăm mà mày bắt tao đội mũ bảo hiểm ?

Thằng Việt Nam bí quá nói đại :

– Tại tóc mày chỉ có một màu vàng, bọn kia tóc nó nhuộm hai màu. Mắt mày lại xanh, mũi lõ nên không giống mấy đứa đó được.

Đến ngã tư, có đèn đỏ thằng Việt Nam vẫn đi tiếp, thằng Tây kinh ngạc hỏi :

– Mày không nhìn thấy đèn đỏ à ?

– Có.

– Vậy sao mày không dừng ?

– Mày không hiểu cái gì hết, cần phải xem xe container đằng sau nó có dừng không, nếu nó vẫn lao nhanh thì phải chạy tiếp không nó húc chết.

Thằng Tây ngoái lại thấy một xe container lù lù chạy đằng sau, mặt xanh lét, vừa sợ vừa khâm phục kiến thức giao thông của thằng Việt Nam. Đến ngã tư khác, gặp đèn xanh, thằng Việt Nam dừng lại không đi, thằng Tây hỏi:

– Sao đèn xanh mày lại dừng ?

– Tại phải chờ cho các anh em nhân dân ở đường vuông góc với đường này nó vượt đèn đỏ xong đã rồi mới đi được, không nó húc chết.

Vừa nói xong thì một người nhân dân thiếu kinh nghiệm bị xe của làn vuông góc húc ngã vì liều lĩnh vượt đèn xanh. Thằng Tây lại càng khâm phục kiến thức giao thông của thằng Việt Nam. Xe vượt đèn đỏ gây tai nạn bỏ chạy, thằng Tây gọi thằng Việt Nam đến hỗ trợ người bị nạn, đỡ người, vẫy xe ô tô để chở nạn nhân đi viện nhưng không ai hỗ trợ, cũng không ai cùng vào giúp, thằng Tây hỏi :

– Tại sao không ai cùng giúp nạn nhân như chúng ta ?

– Tại người Việt Nam ai cũng bận.

– Người châu  u không bận sao ?

– Nhưng người Việt Nam bận hơn người châu  u, và cứu người cũng có thể gặp phiền phức, mà thôi không hỏi nữa, mày với tao chở nạn nhân vào viện bằng xe máy.

Hai thằng đến quá nửa đêm mới về đến nhà. Sáu giờ sáng hôm sau, đang ngủ, bị đánh thức bởi tiếng loa phường, thằng Tây hỏi:

– Tại sao loa không thông báo muộn hơn ?

– Tại muộn hơn thì mọi người đi làm, không có ai nghe.

– Vậy phát thanh sớm thì có người nghe không ?

– Cũng không có.

– Vậy tại sao phải phát thanh sớm ?

– Tại muộn hơn thì mọi người đi làm, không có ai nghe.

*****

Chuyện thằng Tây 2

Sáng hôm sau, chỉ có thằng Tây và thằng Việt Nam ở nhà, hai thằng tổ chức nấu ăn. Thằng Việt Nam nấu, nhờ thằng Tây đi…đổ rác :

– Mày ra cổng, rẽ trái, đi 40 mét gặp một cái biển ghi chữ “Cấm đổ rác” thì đổ ở đó.

– Lạy Chúa, sao lại đổ rác ở chỗ cấm đổ rác ?

– Vì đó là chỗ duy nhất có thể đổ rác, cả tổ dân phố này đều ngầm quy ước đó là chỗ đổ rác.

Nấu ăn một lúc, thằng Việt Nam phát hiện ra không còn thực phẩm, nói thằng Tây trông nhà để đi chợ, thằng Tây nói :

– Mày ở nhà, để tao thử đi chợ, tao thử đi một mình xem sao, tao muốn trải nghiệm. Mà chợ chỗ nào ?

– Mày đi ra cổng, rẽ phải 300 mét, thấy một cái biển ghi…

– Ghi “Cấm họp chợ” phải không ?

– Đúng, mày thành người Việt Nam mất rồi. Đó, chợ ở ngay sau cái biển đó.

Ăn xong, thằng Tây muốn đi ra trạm ATM rút tiền. Thằng Việt Nam nói :

– Chắc mày chuẩn bị muốn đi đến vùng không có máy rút tiền hả.

– Đúng, hôm trước tao rút mấy lần, có lần thì bị “nuốt thẻ”, có lần thì phải chờ gần nửa giờ chờ xong thì máy…hết tiền, nên tao muốn rút nhiều một chút đỡ phải đi rút.

– Để tao gọi taxi đi !

– Tao muốn đi xe máy, tao bắt đầu thích xe máy.

– Vậy mày cầm cái túi không quai này, ngồi sau tao chở đi rút tiền.

– Cái túi để làm gì vậy ? Đựng tiền hả ?

– Không, cái túi này không có gì, mày cứ cầm ngồi sau, cầm lỏng thôi để cho cướp giật nó giật.

– Không có quai để khi nó giật thì không bị ngã xe phải không ?

– Mày đoán như thần vậy.

– Còn tiền rút xong để đâu ?

– Mày để trong túi áo, túi quần chứ còn để đâu.

Trên đường về thì thấy một thằng ô tô biển xanh vượt qua các xe khác với tốc độ khoảng trên 100km/h ở làn đường chỉ cho ô tô chạy không quá 70km/h. Thằng Tây hỏi :

– Nó là xe ưu tiên à ?

– Không, như xe biển trắng thôi.

– Nhưng sao nó phóng vậy mà không bị “bắn” tốc độ, hay lái xe biển xanh nhuộm tóc vàng và xăm hình ở cánh tay ?

– Không phải, lái xe không nhuộm tóc xăm hình. Đó là xe của cơ quan nhà nước, tay sếp của cơ quan đó kiểu gì cũng quen biết bên cảnh sát giao thông, không quen trực tiếp thì quen gián tiếp. Cảnh sát giao thông có bắt thì lại phải nghe điện thoại “giải mã” rồi lại phải thả nên thà không bắt nữa cho khỏi mất thời gian.

Trên đường đi, thấy nhiều nơi ghi “Tất cả vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Thằng Tây hỏi:

– Ghi vậy làm gì mày?

– Khi mày đang rất đói thì mày muốn bàn chuyện đi đâu ?

– Tất nhiên là đi ăn.

– Đó, thiếu cái gì thì nói nhiều về cái đó.

Lv ; (Hình sưu tầm trên mạng chỉ có tính minh họa)

Nguồn Copy trên mạng


 

KHUỴU GỐI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa!”.

“Kho báu lớn nhất của Nước Trời không dành cho những bàn tay đầy vàng, nhưng cho những đầu gối biết chạm đất và những tâm hồn trống rỗng sẵn sàng được lấp đầy!” – Thomas Merton.

Kính thưa Anh Chị em,  

Lời Chúa hôm nay nói đến một tâm hồn biết ‘khuỵu gối’ và trở nên ‘trống rỗng’ trước Thiên Chúa như là điều kiện để một người có thể vào Nước Thiên Chúa.

Trước hết, người giàu. Theo một truyền thống, “lỗ kim” là một cánh cổng nhỏ giữa cổng lớn của tường thành Giêrusalem. Ban ngày, cổng lớn mở để người và lạc đà đi qua; ban đêm, đóng lại, nhưng có một khe hở nhỏ, đủ cho một người. Lạc đà không thể đi qua trừ khi nó được tháo cởi mọi thứ cồng kềnh, quỳ xuống, rồi trườn tới. Cũng thế, bạn chỉ có thể đến với Chúa khi đã tháo cởi mọi thứ, trở nên trống rỗng. “Người giàu khó vào Nước Trời không phải vì Thiên Chúa khước từ họ, nhưng vì chính họ không thể quỳ gối bỏ xuống gánh nặng của cải đang đè nặng tâm hồn mình!” – Søren Kierkegaard.

Tiếp đến, người nghèo. Cần lưu ý, người ta có thể gắn bó với của cải ngay cả khi họ không có nó. Khao khát có thêm cũng là một sự gắn bó ‘cần được thanh tẩy’, chứ không chỉ việc sở hữu của cải thực sự. Thực tế, có thể có người có nhiều của cải nhưng họ không hề gắn bó với chúng. Đây chính là vẻ đẹp của sự nghèo khó tâm hồn. “Có những người nghèo nhưng tâm trí họ đầy khao khát chiếm hữu, và có những người giàu nhưng trái tim họ hoàn toàn thanh thoát! Sự nghèo khó đích thực không nằm ở túi tiền, mà ở tự do nội tâm!” – Richard Rohr.

Bạn giàu hay nghèo? Bạn có quá gắn bó với những gì bạn có hay quá khao khát những gì bạn chưa có? Hãy cẩn thận, đừng vội cho rằng, chúng ta đã hoàn thiện phúc lành này quá nhanh – không hề gắn bó cũng chẳng hề khao khát. Khẳng định của Chúa Giêsu “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn…” được nói ra vì tình yêu thương dành cho cả người giàu lẫn người nghèo. Vì vậy, nếu bạn rơi vào một trong hai trường hợp này, hãy thương xót bản thân và chú ý đến lời của Ngài cũng như chú ý đến cuộc đấu tranh nội tâm của mình. “Hãy thương xót chính bạn khi thấy mình còn vướng víu vào của cải hoặc khao khát thêm nhiều! Chính sự thương xót ấy mở ra con đường trên đó, bạn ‘khuỵu gối’ để nghe được lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa!” – Henri Nouwen.

Anh Chị em,

“Với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể!”. Như vậy, giàu hay nghèo, bạn và tôi đều có thể rơi vào cám dỗ gắn bó với những gì mình có hoặc mơ ước những gì mình không có. Chỉ khi biết ‘khuỵu gối’, trở nên trống rỗng và mở ra trước Thiên Chúa, chúng ta mới được thanh tẩy để thoát khỏi xiềng xích của lòng mình; và chính khi ấy, ân sủng Ngài sẽ lấp đầy, để điều tưởng chừng không thể bấy giờ, trở thành có thể. “Ân sủng chỉ bắt đầu ở giới hạn của con người! Khi ta tưởng mình không thể tiến thêm bước nào, hãy khuỵu gối; ở đó, Thiên Chúa mở ra con đường mới!” – Dietrich Bonhoeffer.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dạy con buông bỏ mọi gắn bó và mọi mơ ước vô độ, để chỉ còn khao khát một mình Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**************************************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XX Thường Niên, Năm Lẻ

Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 19,23-30

23 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. 24 Thầy còn nói cho anh em biết : con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 25 Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói : “Thế thì ai có thể được cứu ?” 26 Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói : “Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.”

27 Bấy giờ ông Phê-rô lên tiếng thưa Người : “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì ?” 28 Đức Giê-su đáp : “Thầy bảo thật anh em : anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en. 29 Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp.

30 “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.”

 

Bắt Đầu Từ Đó – Trần Trung Đạo

Kimtrong Lam

Trần Trung Đạo

Từ những cửa biển Đà Nẵng, Sài Gòn, Vũng Tàu, Cam Ranh, Nha Trang sau những ngày tháng Tư, mùa bão lửa, năm 1975. Mẹ lạc cha. Vợ xa chồng. Anh mất em. Những đứa bé bị bỏ quên đứng khóc trên đường phố. Những chuyến hải hành vô định trên biển Đông trùng trùng gió bão. Đói khát. Lo âu. Bà mẹ quỳ lạy những tên hải tặc để xin tha cho đứa con gái chỉ mười lăm tuổi ốm o bịnh hoạn của bà. Nước mắt và những lời van xin của mẹ không lay động tâm hồn của những con người không còn một chút lương tri. Tiếng niệm Phật. Lời cầu kinh. Không ai nghe. Không có Chúa và không có Phật. Ở đó, trên bãi san hô của đảo Koh Kra, phía nam vịnh Thái Lan, chỉ có những thân thể trần truồng, máu me nhầy nhụa, chỉ có tiếng rên của những con chim nhỏ Việt Nam bất hạnh và giọng cười man rợ của bầy ác điểu Thái Lan.

Bắt đầu từ đó.

Từ trại tỵ nạn Camp Pendleton, , Palawan, Laem Sing, Pulau Bidong, Sungai Besi, Bataan, Whitehead, Phanat Nikhom, Galang. Những địa danh xa lạ đã trở nên thân thiết. Ngửa tay cầm chén gạo tình người. Thank you, merci, danke, gracias. Tuổi hai mươi, ba mươi, và ngay cả năm mươi, bảy mươi mới bắt đầu tập nói. Những câu tiếng Anh bập bẹ, những dòng chữ Pháp, Đức, Tây Ban Nha ngập ngừng.

Bắt đầu từ đó.

Từ những buổi chiều âm thầm nhìn qua bên kia biển, tôi tự hỏi, phải chăng chấm đen cuối chân trời đó là quê hương. Cành hoa hồng được thả trôi trên biển để nhớ nhau trong ngày cưới. Con búp-bê được nhẹ nhàng đặt trên mặt nước xanh trong ngày sinh nhật của con. Vợ đã chết và con đã chết trong một lần vượt biển sau tôi.

Bắt đầu từ đó.

Từ đêm giao thừa đầu tiên. Không bánh chưng xanh. Không rượu nồng pháo nổ. Không một lời chúc tụng của bà con. Chỉ có tiếng hú của cơn bão tuyết dội vào khung cửa kính. Hai ngọn nến nhỏ, một bó hương thơm và những giọt nước mắt nhỏ xuống trong đêm giao thừa cô độc. Em bé mười ba tuổi lần đầu tiên tập cúng mẹ mình. Cúng về đâu và lạy về đâu. Trong lòng Biển Đông sâu thẳm, mẹ có còn nghe được tiếng khóc của đứa con đang lạc loài trên đất lạ.

Bắt đầu từ đó.

Từ hành lang phi trường Tân Sơn Nhứt, người lính già HO gạt nước mắt chào tạm biệt thân nhân, tạm biệt quê hương, nơi một lần máu mình đã đổ. Ra đi, mang theo những tên tuổi, những địa danh đã hằn sâu trong ký ức. Ra đi, để lại sau lưng tuổi thanh niên trong ngục tù xiềng xích. Ra đi, để lại bao đồng đội, chiến hữu, anh em đang tiếp tục đếm những ngày dài bất hạnh trên quê hương.

Bắt đầu từ đó.

Tiếng guốc không còn khua trên đường phố. Hàng cây sao đã héo. Hàng me xanh đã tàn. Hàng phượng vĩ không còn đỏ thắm. Những trụ đèn khuya trước cổng trường không còn ai đứng đợi. Những ô cửa của lớp học và của đời người đã đóng. Và cả một quê hương thân yêu cũng chừng như đã chết.

Ra đi.

Ra đi.

Và từ đó chúng ta đi. Cảnh đời tuy có khác nhau. Tuổi tác tuy có khác nhau. Thời điểm tuy có khác nhau. Nhưng chúng ta, những người Việt Nam may mắn còn sống sót, cùng mang một nỗi đau chung: nỗi đau Việt Nam.

Nỗi đau lớn dần theo mỗi ngày biệt xứ. Nước mắt của những bà mẹ Việt Nam khắp ba miền góp lại chắc đã nhiều hơn nước sông Hồng. Xương trắng của cha anh nếu chất lại chắc đã dài và cao hơn cả dãy Trường Sơn.

Hôm nay, cơn bão lửa dù chưa qua hết nhưng với ý chí vươn lên, những người Việt Nam may mắn còn sống sót, thay vì ngồi thở ngắn than dài cho số phận, đã dìu nhau đứng dậy, dìu nhau đi lên, sống một cuộc sống tích cực, làm những công việc tích cực cho bản thân, cho gia đình, cho đất nước. Nhờ thế, sau đêm tối trời của vận nước và đời mình, đa số chúng ta đã tìm được một cành mai hy vọng ở xứ người. Để từ đó làm điểm khởi hành lên đường đi dựng lại Mùa Xuân Dân Tộc.

Hôm nay, đau buồn vẫn chưa nguôi nhưng sức sống không phải vì thế mà ngừng lại. Những thuyền nhân tí hon trên những chiếc ghe bằng gỗ mong manh ngày xưa bây giờ đã lớn. Các em đã thành những kỹ sư, bác sĩ tài ba, những khoa học gia lỗi lạc trong nhiều ngành. Ai đã dạy em nên người? Cha mẹ. Vâng. Thầy cô. Vâng. Nhưng còn hơn thế nữa, còn từ trong dòng máu Việt Nam.

Hôm nay, những con nước nhỏ dưới chân cầu đã trôi ra biển rộng. Nhưng không phải vì thế mà tan loãng trong đại dương bát ngát như hàng triệu con nước khác. Trái lại, những giọt nước từ sông Hồng, sông Hương, sông Ba, Thu Bồn, Trà Khúc, Cửu Long, Vàm Cỏ, vẫn hẹn một ngày bốc thành hơi, bay về tưới mát ruộng đồng xứ Việt thân yêu đã nhiều năm đại hạn.

Tất cả, một ngày không xa sẽ rơi vào quên lãng, sẽ tan biến đi theo chu kỳ sinh, trụ, dị, diệt của nhân sinh. Không quan trọng. Điều quan trọng, trong giờ phút còn có mặt, còn được góp phần, xin làm một que củi nhỏ để ngọn lửa hy vọng, tình người, tình đất nước, trong lòng mỗi chúng ta, đừng tắt.

Cám ơn.

Trần Trung Đạo