Tin đàng nào bình an hơn

Tin đàng nào bình an hơn     

 

Khổng Nhuận

 

 

16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một,

để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.

17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,

không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian,

 nhờ Con của Người, mà được cứu độ.

18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án ;

nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, (Ga 3: 16,18)

 

Chúng tôi xin phép sắp xếp lại cho dễ hiểu

Ai tin thì không bị lên án, khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.

Phần đông, chúng tôi hiểu rằng chuyện này chỉ xảy ra ở ĐỜI SAU MÀ THÔI.

Bởi vì chuyện không bị lên án và khỏi phải chết

Có nghĩa là tôi phải ra trước tòa phán Chúa phán xét ngay sau khi chết…..

Ủa !!! có một điều gì đó không ổn…thậm chí vi phạm, đi ngược với Kinh Thánh.

Tòa án đời tuyên án: VI HIẾN – Vi phạm Hiến pháp.

Kinh Thánh còn cao hơn Hiến Pháp quốc gia nhiều…

Vì chiếu theo câu 17 ngay trên:

Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,

không phải để lên án thế gian,

Thế nhưng, bọn chúng tôi vẫn cứ ngay ngáy lo sợ… khi lìa cõi đời này, một mình tôi với tấm áo linh hồn rách bươm, loang lổ những vết đen ngòm tội lỗi… hồi hộp tới trình diện Chúa Giêsu, vị thẩm phán chí công.!!!

Và chắc chắn trăm phần trăm sẽ bị giam cầm nơi lửa luyện tội…

Mà nghe đâu sức nóng cũng ngang với lửa hỏa ngục…

May sao luyện ngục có thời gian, còn hỏa ngục thì đời đời chẳng cùng AMEN.

Tới đây, rất có thể một số vị bỗng bật lên một suy tư:

Một đàng tin rằng Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,

không phải để lên án thế gian

Đàng khác tin rằng : phải ra trước tòa phán Chúa phán xét ngay sau khi chết…..

Tin đàng nào bình an hơn???

tamlinhvaodoi gởi

 

Những đứa bạn thời thơ ấu

Những đứa bạn thời thơ ấu

Tạp ghi Huy Phương

(Hình minh họa: khoa668siquantrubithuduc.blogspot.com)

Trong một cuộc họp mặt của một trường trung học tại hải ngoại gần đây, bất ngờ tôi gặp lại một thằng bạn cũ của thời gian gần 70 năm về trước. Cả hai đứa mừng quá, ôm chầm lấy nhau, quên cả quan khách bên cạnh, và cùng rộn rã những tiếng “mày mày tao tao!” Cái sướng của tha hương ngộ cố tri mà, nhất là hai thằng bạn học cùng lớp, ngồi chung bàn của hơn nửa thế kỷ về trước, bây giờ nhìn nhau tóc đã bạc và khuôn mặt có thể đã đổi khác với những vết tàn phá của thời gian. Phải chờ khi người MC buổi lễ giới thiệu những người tham dự ở các tiểu bang xa về, nghe tên, trông mặt “nó” tôi mới nhận ra.

Có nơi gọi “mày-tao,” có chỗ gọi “mi-tau,” và cũng có vùng kêu “tớ với cậu” hay có một thời “toi với moi!” (toa-moa)

Một dịp khác, một buổi trưa ở cái vùng đất Little Saigon này, sau một buổi giới thiệu sách mới, ra xe đăng loay hoay tra chìa khóa mở máy, thì có tiếng gõ lên cửa, bên tay trái của tôi. Ngẩng đầu lên, tay xuống cửa xe, trong đầu óc vốn tối tăm, như có một tia chớp, miệng tôi bỗng thốt lên:

– Mi! Hậu. Nguyễn Hy Hậu phải không?

Một thoáng rất nhanh, tôi nhớ ra cả ngôi nhà, và tên đường và cả khuôn mặt của người bạn ngày xửa ngày xưa trong cái thành phố nhỏ thật thà, êm đềm ấy. Tôi bước ra xe, ôm lấy bạn. Đây là một người bạn thời tiểu học ở Huế, gia thế khá giả, được du học từ sau trung học, lưu lạc sang tới Pháp đã hơn nửa thế kỷ nay, học hành thành công, lấy bằng tiến sĩ hóa học, ở luôn xứ người không về nước. Trong suốt thời gian này, trong bạn bè tôi cũng chẳng bao giờ nhắc tên bạn, cũng không còn nhớ đến bạn. Thì ra thằng này, thường khi vẫn có dịp sang Mỹ chơi, biết tôi và vẫn thường “theo dõi” tôi, nhưng ở trong hội trường đông đúc, nó thấy bất tiện khi phải gặp lại một thằng bạn cũ mà không biết nó có nhớ mình hay không?

Hậu đi theo tôi ra xe, chờ khi tôi vào xe xong, sắp mở khóa chạy đi mới gõ cửa xe.

Tôi có một trí nhớ rất tồi, nhất là ở cái phần não thùy có chứa tên người, nên nhiều khi gặp người cũ mà ngớ ra, ấp úng một hồi rồi mới giả lả, quanh quẩn mà cũng không nhớ nổi cái tên. Cách đây hai năm, hồi nằm ở bệnh viện, có một bà bạn đến thăm tôi, lại mang quà cho, vậy mà mới tuần trước, trong một đám tang ở Bolsa, gặp lại chị, có lẽ thấy mặt tôi nghệch ra không vồn vã chào chị, chị vui vẻ hỏi:

– “Anh có nhớ tôi không?”

Tôi xin lỗi là hoàn toàn không nhớ, vì lấy lý do là nằm bệnh viện, thuốc mê nhiều quá, bây giờ “bộ nhớ” hư rồi.

Vậy mà trường hợp một thằng bạn thời thơ ấu, sau 70 năm, chỉ một thoáng, mà tôi nhớ ra tất cả. Nếu hôm đó, sau khi bạn cất công đi tìm tôi, mà tôi không nhớ ra, hẳn bạn buồn biết bao nhiêu! Trong khi bạn sống bình yên ở Pháp, không bao giờ nghe tiếng bom đạn, cũng như chẳng biết ánh sáng hỏa châu là gì, thì bạn bè một thời thơ ấu đều bị cuốn hút vào chiến tranh, nhiều đứa chết, đi tù, hay lưu lạc cùng khắp trái đất.

Từ nguồn ra, một dòng sông chia đi trăm ngả. Số phận không ai giống ai, mỗi người một hoàn cảnh, tâm tính đổi thay, người quên kẻ nhớ.

Tìm gặp lại được một thằng bạn cũ từ thời thơ ấu hay thiếu niên là món quà quý nhất! Cả một thời xưa hiện ra, tưởng chừng như mới hôm qua đây thôi.

Trong 30 cái “chẳng sướng ư!” của Kim Thánh Thán, có cái sướng 10 năm gặp lại bạn cũ, trong khi trước đó mấy nghìn năm, ông Khổng Tử cũng nghĩ như vậy: “Có bạn từ phương xa đến thăm, chẳng phải là điều vui mừng hay sao?” (Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ!)

Bây giờ dự những buổi tiệc tùng, cưới hỏi, lễ lạt với những khách phải bắt tay, cúi đầu, giới thiệu ông này bà nọ, với chức tước, danh xưng, làm sao vui, thoải mái bằng những cuộc gặp gỡ những đứa bạn thời xưa, ríu rít những tiếng “mày tao,” khỏi phải giữ gìn, khách sáo gì. Bạn thân thời thơ ấu, gọi là đã biết nhau, nhiều khi đấm vào ngực, vỗ vào vai hay chửi thề một câu cho đã miệng lúc mới gặp lại nhau. Nó không phải là điều bất nhã, mà là thứ ngôn ngữ cho biết hai người đã biết nhau lâu, phải có một thời gần gũi. Họ có những trò chơi chung, đã từng đi với nhau cùng một con đường, có thói quen giống nhau, có những người bạn chung và có những lỗi lầm thuở nhỏ mà chỉ riêng bạn mình biết!

Thế mà một người bạn của tôi đã gặp một trường hợp sượng sùng, khi anh cũng gặp lại một thằng bạn thời niên thiếu bất ngờ, đang “mày mày tao tao” thả giàn, thì bà vợ bạn ra chiều bất ý, lại nói thẳng:

– “Các anh bây giờ già đầu cả rồi, con đàn cháu đống, tôi không muốn anh gọi nhà tôi mày mày tao tao nữa!”

Thật ra, gặp lại một thằng bạn cũ, muốn giữ thể diện, kiểu cách với nhau cũng buồn, nhưng bỗng dưng như bị dội vào đầu một gáo nước lạnh, thôi thì cứ coi như chẳng hề quen biết nhau. Bạn bè ngày xưa còn mài đũng quần trên ghế nhà trường, bây giờ đổi giọng ông ông, bà bà thấy ngượng nghịu làm sao ấy!

Chúng ta đã có cái dịp nào trong đời khi gặp một người bạn thân thiết ngày xưa, bây giờ là thượng tọa, gặp nhau trong một trai phòng, không “Bạch Thầy” mà gọi nó bằng “mày,” hay lính trơn gặp thằng bạn cũ nay là một đại tá chỉ huy trưởng ở chỗ nhà riêng mà thốt ra lời: “Không ngờ lại gặp mi ở đây!”

Cho đến lúc về già như hôm nay, vui khi còn được vài thằng bạn có thể xưng hô mấy tiếng “mày tao” để thấy mình không có tuổi, thời gian đứng lại. Những người không có bạn “mày tao” là những người không có tuổi thơ và cũng không có luôn dĩ vãng!

Bịnh vô cảm

From facebook:    Le Van Tan shared Tin Nóng‘s video. 
 
 

Cô gái nằm gục ngay giữa đường nhưng không một ai dừng lại để giúp đỡ
Chứng kiến người phụ nữ bị chiếc ôtô đâm rồi nằm bất động trên đường, nhưng không một ai ở gần nơi xảy ra vụ tai nạn chạy đến bên nạn nhân.
Một đoạn video đang được lan truyền chóng mặt trên mạng xã hội với hình ảnh đầy ám ảnh về một vụ tại nạn trên đường phố Trung Quốc.

Trong đoạn video, người phụ nữ dường như đang muốn sang đường và bước chầm chậm để chờ những chiếc xe đi qua. Trong một giây phút bất cẩn, bà không nhận thấy chiếc xe taxi đang lao tới từ phía tay trái. Người phụ nữ bị đâm rồi ngã xuống mặt đường, còn chiếc xe tiếp tục lao đi.

Khi có tín hiệu đèn giao thông, người đi bộ và đi xe đạp băng qua vạch kẻ đường, nhưng không một ai dừng lại và đến bên người gặp nạn, chỉ có những ánh mắt tò mò và hiếu kỳ hướng về phía người phụ nữ bất động trên mặt đất.

Những chiếc xe khác cũng tiếp tục lưu thông trên đường. Thậm chí, có một chiếc xe còn nghiến qua người nạn nhân.

Mãi đến gần cuối đoạn video, một người phụ nữ mới xuất hiện và tiến lại gần hiện trường vụ tai nạn để kiểm tra. Hiện chưa rõ nơi xảy ra vụ tai nạn cũng như tình trạng của bị nạn.

Theo Shanghaiist, đoạn video được một tài khoản Weibo đăng trên mạng hôm nay, cùng lời chia sẻ rằng sự lạnh lùng của người qua đường khiến anh muốn khóc. Đã có hơn hơn 6 triệu lượt xem và 15.000 bình luận dưới đoạn video.

“Mọi người vẫn thản nhiên bước đi, như zombie vậy”, một người bức xúc.

“Cư dân mạng vẫn là những người quan tâm nhất đến sự việc. Trong khi đó, người qua đường lại là những người thờ ơ nhất”, một người khác bình luận.

Năm 2011, dư luận Trung Quốc cũng từng bức xúc trước việc nhiều người qua đường ở Phật Sơn, Quảng Đông, làm ngơ khi bé gái hai tuổi Yue Yue bị thương nặng, khiến cô bé lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.

Khi đó, cô bé bị hai chiếc xe tải đâm ngay bên ngoài cửa hàng của gia đình, song nhiều người gần đó chỉ khoanh tay đứng nhìn. Dù được các bác sĩ hết sức cứu chữa, cô bé đã không qua khỏi.

Khối tài sản ‘kếch xù’ trên khu đất của gia đình Bí thư tỉnh Hải Dương

From facebook:  Nhật ký yêu nước

Chiêm ngưỡng nhanh kẻo bài bị xoá 

Bạn nào muốn chắc hơn thì cứ chụp lại mai mốt cho con cháu xem định nghĩa về 2 chữ “cộng sản” 😉

Thời phong kiến chỉ có 1 vua, thời cộng sản mỗi vùng có nhiều vua. Độ xa hoa phú quý của những tên “cán bộ vua” không hề kém cạnh vua chúa phong kiến.

Thời cận đại, Tứ đại phú hộ hay Công tử Bạc Liêu mà so sánh với quan quân nhà sản thì cũng chỉ như đom đóm với trăng rằm 😉

Mion.

http://giaoduc.net.vn/gdvn-post61110.gd

TRAO BAN TẤT CẢ VÌ YÊU THƯƠNG

TRAO BAN TẤT CẢ VÌ YÊU THƯƠNG

Kinh thánh (St 22, 1-18) cho biết: Sau nhiều tháng năm chờ đợi mỏi mòn, mãi cho đến trăm tuổi, Cụ Áp-ra-ham mới được diễm phúc sinh đứa con nối dõi tông đường.  I-xa-ác chào đời đem lại niềm vui chan hoà cho Cụ Áp-ra-ham.  I-xa-ác là lẽ sống, là cây gậy chống đỡ tuổi già, là tương lai cho giống nòi và là tất cả của Cụ già trăm tuổi.

Thế mà Thiên Chúa truyền cho Cụ phải sát tế đứa con yêu để tế lễ cho Ngài.

Trời đất như quay cuồng sụp đổ khi Cụ Áp-ra-ham nghe lệnh truyền của Thiên Chúa.

Phải ở trong hoàn cảnh của Cụ già trăm tuổi như Áp-ra-ham mới cảm nhận thấm thía nỗi đau thương và mất mát vô cùng lớn lao của một người cha phải sát tế đứa con một rất đỗi yêu quý của mình.  Nếu không vì tình thương lớn lao đối với Thiên Chúa, Cụ Áp-ra-ham không thể nào thực hiện được sự hiến dâng đau lòng đó.

Cụ Áp-ra-ham sẵn sàng hi sinh tất cả vì Thiên Chúa là Đấng mà Cụ thần phục và mến yêu.

Nhưng Thiên Chúa chỉ thử lòng Cụ Áp-ra-ham thôi.  Ngài không nỡ để cho một người cha phải gánh chịu nỗi đau thương lớn lao đến thế.

Trích đoạn Tin Mừng trong ngày lễ hôm nay cũng đề cập đến một người Cha khác đã thực hiện một sự trao ban triệu lần cao cả hơn.

Vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm, vì không muốn cho muôn người phải lâm vào cảnh đau khổ trầm luân vì tội lỗi ngút ngàn của họ, Thiên Chúa Cha đã trao ban Con Một vô cùng yêu quý của Ngài, để Con của Ngài chết thay cho nhân loại, để cho những ai tin vào Con Ngài thì được cứu sống và được sống muôn đời:

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.  Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Gioan 3, 16-17).

Xưa kia, Thiên Chúa không nỡ để cho I-xa-ác phải chết dưới lưỡi dao run rẩy của Cụ Áp-ra-ham, không để cho thân xác của I-xa-ác phải chịu thiêu đốt trên bàn thờ để làm hy lễ cho Ngài, nhưng đã đến một thời, Thiên Chúa Cha lại để cho Con Một Ngài, là Ngôi Hai Thiên Chúa, phải chịu đóng đinh, chịu quằn quại đau thương và chịu chết trên thập giá để đền cho hết tội lỗi chúng ta và ban lại cho chúng ta sự sống đời đời.

Tôi tớ thấp hèn liều mình chết thay cho chủ nhân quyền quý, dân đen cùng khốn chết cho hàng vua chúa cao sang hay con chó trung thành liều chết để cứu mạng chủ cũng còn là điều dễ hiểu. Đằng nầy Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Tể đất trời lại hiến thân chết thay cho loài người hèn mọn thì quả là điều vượt quá trí tưởng tượng con người.

“Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình” (Gioan 15, 13) và không có tình yêu nào sánh ví được với tình yêu khôn vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

****************************** ******

Khi được người khác biếu tặng một món quà, ai trong chúng ta cũng đều nhớ ơn ân nhân và tìm cách đền đáp lại bằng món quà tương xứng.

Khi được Chúa Trời cao cả ban tặng chính Con Một Ngài để cứu mạng cho chúng ta, khi được Chúa Giêsu hiến thân chịu chết để cứu ta khỏi chết muôn đời, có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc đền đáp công ơn cao dày đó?

Để đền đáp phần nào tình thương trời bể của Thiên Chúa Cha, Đấng đã trao ban Con Một mình cho nhân loại, để đền đáp sinh mạng của Chúa Giêsu đã trao hiến cho bạn và cho tôi, chúng ta hãy dâng cho Ngài một hiến lễ tương tự, dù vạn lần nhỏ bé hơn.  Đó là “hiến dâng thân mình chúng ta làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rôma 12, 1).  Đó cũng là nguyện ước của chân phước An-rê Phú Yên hôm xưa: “đem cuộc sống báo đền cuộc sống; lấy tình yêu đáp trả tình yêu.”

Lm Trần Ngà

“Gió lùa ánh sáng vô trong bãi”

Suy Tư Tin Mừng sau lễ Chúa Ba Ngôi ngày 11/6/201

 Tin Mừng (Ga 3: 16-18)

Khi ấy Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô rằng:

Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”

                                                                      

“Gió lùa ánh sáng vô trong bãi”

Trăng ngậm đầy sông, chảy láng lai.

Buồm trắng phất-phơ như cuống lá,

Lòng tôi bát ngát rộng bằng hai.”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Lòng nhà thơ, mới chỉ ngát rộng bằng những hai thôi, mà đã có gió lùa ánh sáng, vô trong bãi. Có trăng ngậm đầy sông, chảy láng lai. Có buồm trắng phất phơ như cuống lá. Tình nhà Đạo, cũng rộng ngát cả triệu lần, là vì Thần Khí sáng soi để dân con cảm nghiệm được nhiệm tích Ba Ngôi rất thánh của Đức Chúa.

Hội lễ hôm nay, dân con nhà Đạo hân hoan mừng Chúa Ba Ngôi, rất long trọng. Toàn thế giới, hiện có tới ba tôn giáo cùng thờ một Đức Chúa, là: đạo Do thái, Đạo Chúa Kitô và đạo Hồi. Cả ba đạo này đều thờ chỉ một Chúa. Nhưng, chỉ Đạo Chúa Kitô tin xác tín rằng Ngài có Ba Ngôi.

            Bằng vào xác tín này, mọi nghi thức phụng vụ của Hội thánh đều có lời tuyên xưng nguyện cầu lên Ba Ngôi: Đức Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Cả Ba Đấng đều cùng một Chúa, và thực tế: phụng vụ Hội thánh được thiết lập là dựa lên niềm tin vào Chúa Ba Ngôi, như: lễ Giáng Sinh, phụng vụ nhấn mạnh đến công cuộc tạo dựng. Lễ Phục Sinh, lại đề cập về ơn cứu độ. Và, lễ Ngũ Tuần, phụng vụ tập trung vào chủ đề thánh hoá con dân. Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, phụng vụ tóm kết ý nghĩa thần học trọn cả năm.

Nhưng, vấn đề là: Hội thánh tóm kết như thế để làm gì? Phải chăng chỉ mỗi Chúa Cha, mới đích thực là Thiên Chúa? Còn, Đức Giêsu, Đấng xuống thế cứu chuộc loài người, có là Thiên Chúa, không? Ý niệm về Chúa Thánh Thần đã diễn tả đủ đặc trưng của Thiên Chúa, chưa? Và, có phải cả Ba Đấng tuy là ba “Ngôi Vị” nhưng chỉ một Thiên Chúa thôi, không? Tại sao các đấng bậc lại cứ hay sử dụng các hình ảnh phàm trần đầy tưởng tượng như ảnh tượng: Cụ Già tóc bạc phải là Chúa Cha, Đấng thanh niên trẻ khoẻ bị chết treo trên thập giá, là Chúa Con? Và, hình tượng chim câu bay lượn trên không là Chúa Thánh Thần. Diễn tả như thế, có xứng hợp với niềm tin ta vẫn có, chăng?

Năm 325, bằng vào Công Đồng Nicea – Iznik họp ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hội thánh đã chính thức tuyên xưng để con dân mình tin Đức Giêsu Kitô đích thực là Thiên Chúa. Và năm 381, Công Đồng nhóm họp tại Constantinople –tức Istanbul bây giờ- đã chính thức tuyên xưng niềm tin vào tính Thiên Chúa của Thánh Thần Ngài. Đó cũng là lúc mà tín điều Chúa Ba Ngôi đã thật sự thành hiện thực. Nói cách khác, ở các thế kỷ đầu đời của Giáo hội, tín điều Chúa Ba Ngôi mới được công bố cách rõ ràng và minh nhiên. Tức, để làm việc này, Hội thánh vẫn cần thời gian để ta suy tư về thiên tính của Đức Giêsu và xác chứng việc Ngài đã làm, đến bây giờ.

Phải đến thế kỷ thứ 9, Hội thánh mới có quyết định yêu cầu dân con Đạo mình mừng kính Chúa Ba Ngôi. Và mãi đến thế kỷ thứ 14, thì việc mừng kính lễ này mới công khai trải rộng khắp hoàn cầu. Muốn hiểu tại sao lại thế, có lẽ cũng nên phân định xem khái niệm về “Ngôi thứ” có nghĩa gì? “Ngôi thứ” ở đây, không là bản thể tách rời, biệt lập chỉ chuyên thực thi mỗi vai trò của mình, thôi. Nếu chỉ có khái niệm về ngôi thứ mà thôi, ta chẳng thể nào nói rõ hơn về Ba Ngôi của Thiên Chúa, mà chỉ nói về 3 vị thần, tuyệt nhiên không Thiên Chúa, rất Ba Ngôi. “Ngôi thứ” mà Hội thánh muốn minh xác, chính là bản thể có quan hệ hiệp thông với các Ngôi kia. Và, đây đích thực là khái niệm lớp lang/qui củ về “ngôi thứ”, cho nên ta phải khởi sự kiến tạo ý nghĩa cho khái niệm ấy.

Xem như thế, Ba Ngôi gồm các ngôi thứ có quan hệ mật thiết với nhau bằng hiệp thông chính đáng. Vì có Ngôi thứ có quan hệ với nhau, nên Ba Ngôi cùng hiện hữu. Không tách rời nhau bao giờ. Tức, Ba Ngôi luôn hiện diện trong tương quan không thể xa cách. Và, sự hiện hữu của Ba Ngôi là hiện hữu của “vũ điệu” tươi vui cùng với các Ngôi kia, luôn luôn hiện diện trong nhau mà không tách rời, biệt lập. Và như thế, nơi Thiên Chúa luôn có sự hiệp thông miên trường giữa các Ngôi. Hiệp thông, là có quan hệ toàn hảo/trọn vẹn.

Là con người, nhiều lúc ta vẫn muốn sử dụng hình tượng để dễ hiểu. Một trong các hình tượng có lẽ tượng hình hơn cả, là so sánh với hôn nhân, hoặc gia đình. Thế nhưng, so sánh và diễn tả như thế vẫn có khó khăn và nguy hiểm là người người hay liên tưởng đến hệ thống chính trị, xã hội, nên đương nhiên là các hệ thống như thế không tránh khỏi một số tình huống có những chuyện gia đình, nội bộ mà ta sống không thể nào xứng hợp với sự thể về Chúa Ba Ngôi luôn hiệp thông mật thiết, tốt đẹp. Vĩnh cửu.

Đôi lúc các giải thích và so sánh có khi còn phản tác dụng nữa, là khác. Phản tác dụng, tức nghịch chống lại ý nghĩa mà chính người giải thích muốn nói về nhiệm tích Ba Ngôi Chúa là chỉ một Chúa những Ba Ngôi, nhưng không nói được bằng lời và lẽ được. Đằng khác, diễn tả bằng hình tượng không cho thấy mối quan hệ rất hỗ tương. Miên trường. Cũng chẳng tỏ cho thấy sự hiệp thông đích đáng giữa các Ngôi của Thiên Chúa. Có khi còn dẫn đến động thái độc thoại và/hoặc không chế, cãi tranh, tủi hổ nưa.

Niềm tin vào Chúa Ba Ngôi là như ánh sáng chói chang soi rọi bóng tối đang bao trùm thế giới. Và chính đầu óc của thế giới còn tối tăm nên không thể giúp người người lặn ngụp trong đó có thể hiểu được bản chất rất Ba Ngôi được. Chính vì lý do này, ta chỉ có thể nhìn vào bên trong nội tâm của bản thể mình mới hy vọng có được một vài tia soi sáng về bản tính rất Ba Ngôi. Bởi, khi ta suy nghĩ và thương yêu, thì những gì đang xảy ra bên trong con người của ta mới phản ánh và phản ảnh điều xảy đến với Ba Ngôi Đức Chúa.

Ngôi Hai là Chúa Con được gọi là Ngôi Lời của Chúa, tức Tư Tưởng Chúa. Còn, Ngôi Ba ở Ba Ngôi là Thánh Thần được gọi là Tình Yêu Chúa hoặc chính Hơi Thở của Ngài. Bên trong mỗi người chúng ta, tư tưởng sâu lắng hoặc xác tín đậm sâu nhất là điều rất gần cận để bảo cho biết ta là ai, và chính điều ấy làm ta trở nên chính ta. Tức, cho biết ta là ai. Ta không thể là chính mình nếu không có nó. Lời đậm sâu bên trong Đức Chúa vẫn có với Chúa, trong Chúa. Và, là chính Chúa. Thiên Chúa sẽ không là Chúa, nếu không có Lời.

Bên trong của ta, tình thương yêu đậm sâu nhất giải nghĩa chính tư cách của ta. Cho ta bản chất của chính mình. Và như thế, đó là đặc thù “bản vị” của ta. Ta không thể là mình được, nếu không mang đặc thù ấy. Cũng như vậy, Tình yêu đâm sâu bên trong của Đức Chúa đích thực là Thánh Thần là Chúa trở thành bản chất của Đức Chúa rất thương yêu. Thiên Chúa sẽ chẳng là Chúa nếu không có Thánh Thần Tình Yêu ấy.

Ở nơi Thiên Chúa, có bao nhiêu Ngôi thứ? Thường thì, ta bảo là có tất cả là “3”. Nhưng, theo thiển nghĩ, con số ấy sẽ nhiều hơn “3”. Thiên Chúa đã gửi Lời Ngài và Thánh Thần Tình Yêu của Ngài đến với ta. Sống trong ta. Để ta sống và hiện hữu, ở nơi Chúa. Và, cả ta nữa, vẫn cùng sống với Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần Chúa, là Ba Ngôi thứ. Ba Ngôi không chỉ là các Ngôi rất thánh, ở trong Chúa. Mà, Ba Ngôi ở trong ta và ta ở trong cả Ba Ngôi nữa. Ta lại đã trở thành các “Ngôi thứ” bằng vào việc sống ở trong Ngài. Ta sống với các Ngôi thứ thánh thiêng, trong Chúa.

Đặc biệt trong hiệp thông rất thánh thiêng, nguyện cầu tư riêng của chính mình, mà ta được mời gọi để trải nghiệm nhiệm tích này. Bởi thế nên, Lễ rất thánh hôm nay cũng là hội lễ của hiệp thông rất thánh, nơi ta. Và cũng là tất cả thời khắc ta nguyện cầu, rất tư riêng. Sự hiện diện thường xuyên còn gọi là “cắm lều” của Chúa Ba Ngôi ở trong ta, còn có ý nghĩa là ta hạnh phúc. Phúc đây, là phúc và hạnh mà Ba Ngôi rất thánh thiêng đang vui hưởng.

Tác giả Meister Eckhart từng viết lên cảm nhận đặc biệt, nói rằng: “Khi Thiên Chúa cười vào linh hồn và linh hồn cười lại vào với Thiên Chúa, các Ngôi ở nơi Chúa đã được hạ sinh. Nói theo cách cường điệu, thì khi Chúa Cha cười với Chúa Con và Chúa Con cười lại với Chúa Cha, thì nụ cười đã tạo vui thích. Vui thích tạo hỷ hoan. Hoan hỷ tạo Thương Yêu. Yêu Thương tạo Ngôi thứ Ba Ngôi Chúa, có Thánh Thần Chúa vẫn là Một.”

Qua thông hiểu những điều vừa suy tưởng, cũng nên ngâm thêm lời thơ còn dang dở, rằng:

“Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng,

Một vũng cô liêu cũ vạn đời!

Chao ôi ghê quá! Chao ôi ghê quá!

Cảm thấy hồn tôi, ớn lạnh rồi!”

(Hàn Mặc Tử – Cô Liêu)

Nhà thơ đời, kêu như thế. Vẫn kêu thế. Kêu “gớm ghê” vì đời mình cô lieu, trăm chiều, rất “ghê rợn”. Thi sĩ Đạo, suy tưởng nhiều nên đâu thấy gì là “ghê quá”. Chỉ biết hiệp thông rồi sẽ thương yêu, yêu chiều, rất trăm bề. Như Tình Chúa Ba Ngôi rất yêu dân con Chúa như tình yêu của Chúa Ba Ngôi ta vẫn tin và vẫn yêu, nhiều thời buổi. Của đời người. Cũng rất người.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

“Chiều xuống ru hồn người bềnh bồng.”

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần sau lễ Chúa Trời Ba Ngôi năm A 11/6/2017

“Chiều xuống ru hồn người bềnh bồng.”

Chiều không im gọi người đợi mong.

Chiều trông cho mềm mây ươm nắng,

nắng đợi chiều nắng say,

nắng nhuộm chiều hây hây.”

(Vũ Thành An – Bài Không Tên số 8)

(Lc 24: 1-6 / Lc 24: 25-27)

“Nắng đợi chiều nắng say”, “hây hây”, “du hồn người bềnh vồng”. Có đúng thế không? Hay, chỉ là những ảnh-hình của thơ-văn mộng-mị, những buồn phiền?

Buồn và phiền, vì nhiều thứ. Chứ, không chỉ vì mỗi buổi chiều vàng có nắng hây hây, mà thôi! Bạn không tin ư? Đây, thì xin mời bạn cùng mời tôi, ta nghe tiếp những lời hát rất như sau:

“Ngày đi qua vài lần buồn phiền.

Người quen với cuộc tình đảo điên.

Người quên một vòng tay ôm nhớ.

Có buồn nhưng vẫn chưa bao giờ bằng hôm nay.


Vắng nhau một đêm càng xa thêm ngàn trùng.

Tiếc nhau một đêm rồi mai thêm ngại ngùng.

Xa nhau rồi tiếc những ngày còn ấu thơ.

Lần tìm trong nụ hôn lời nguyền xưa mặn đắng.”

(Vũ Thành An – bđd)

Đã theo giòng chảy có những hồn thơ khá ư là buồn phiền, lại thấy đời người đi Đạo cũng từa tựa như thế. Như thế, là như: suốt cả một đời người đi tìm kiếm Đức Kitô, dù Ngài vẫn ở trong ta mà ta lại cứ tưởng như chưa được gặp!

Gặp sao được, khi có giọng hỏi nhỏ từ người nào đó được diễn-nghĩa là Đấng mặc áo sáng chói, nói những câu như sau:

“Họ còn đang phân vân,

thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói,

đứng bên họ.

Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất,

thì hai người kia nói:

“Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết?

Ngài không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi.”

(Lc 24: 1-6)

Và, ở một đoạn khác cũng trong Tin Mừng thánh Luca, Đấng “sang chói” ấy có nói:

“Các anh chẳng hiểu gì cả!

Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!

Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế,

rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?

Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ,

Ngài giải thích cho hai ông

những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh.”

(Lc 24: 25-27)

Xem thế thì, Đấng “mặc áo sáng chói” xưa nay vẫn dẫn-giải cho mọi người hiểu: thế nào là “chịu khổ hình” rồi mới “trỗi dậy”. Về, những chết đi rồi trỗi dậy, đấng vị vọng bậc thày dạy hôm trước có nói như sau:

“Về thể lý, một khi đã chết rồi, thì những gì là xác thân hoặc vật thể vũ trụ, đều rữa nát, vỡ tan. Không ai có thể trở lại sống với xác thân có xương thịt vẹn toàn như khi trước. Chẳng người nào lại có thể duy trì cùng một xác thân, suốt miên trường.

 Khi đã chết rồi, mà lại tái sinh với nguyên vẹn hình hài như khi trước, thì đó chỉ có thể là vòng chuyển luân, luẩn quẩn hết kiếp này đến kiếp khác, khoanh tròn quanh thành vòng quay sống-chết/chết-sống, không lối thoát.

 Truyện hai môn đệ hướng về thành đô Giêrusalem được thánh Luca ghi chép, còn để nói lên rằng: Đức Giêsu được đồ đệ nhận ra Ngài đích thực là Đức Chúa Ngôi Hai, vẫn tồn tại với mọi người. Ngài chẳng là quỉ ma hiện hồn theo qui cách của người thật. Nhưng, Ngài hiển hiện qua hình hài sao đó, rất sống động (Mc 16: 12).

 Ở đây nữa, khi viết Tin Mừng Phục Sinh, thánh Luca tập trung nhấn mạnh vào điểm, bảo rằng: Chúa tỏ cho mọi người thấy hình hài của Ngài theo qui cách rất khác, nên khi gặp lại Ngài, đồ đệ thấy mình sợ hãi, đến khiếp kinh (Lc 24: 37).

 Vì kinh khiếp, nên đồ đệ mới nói năng những điều chẳng có nghĩa. Theo nhà chú giải Kinh thánh Herbert McCabe, thì: khi đồ đệ gặp Thầy Chí Ái, các thánh cứ tưởng Thầy là Vị đồng hành chẳng hề quen biết. Kịp đến khi Thầy nhắc lại toàn bộ chi tiết về lịch trình cứu độ, các thánh mới vỡ lẽ ra đó là Thầy. 

Xem thế thì, Phục Sinh là điều mà người phàm xác thịt chúng ta chẳng thể nghiệm ra bằng lý lẽ của đời thường, để kiểm chứng. Bởi, dù biết Chúa sống lại thật, các thánh vẫn không coi đó như một chứng cứ hiển nhiên, tựa khi Ngài còn sống. Nhận biết hình hài Chúa rất nhãn tiền, điều đó có nghĩa: các thánh đã có động thái tin-yêu rất khác thường, trong cuộc sống.

 Và, đây là thực tại chỉ xảy đến với những người cũng trỗi dậy như Chúa và với Chúa bằng niềm xác tín yêu thương của người vẫn tin. Tin, theo qui cách và ý nghĩa khác. Khác ra sao, đó là vấn đề. Là, sự thực. Thực ra sao? Cũng nên suy xét.

 Trở về với lập trường chú giải của các tổ phụ thuộc Giáo hội Đông phương thời tiên khởi, như: Thượng phụ Origen, Grêgôriô thành Nyssa… khi gọi sự việc gì là ‘cảm nhận linh thiêng’, các ngài có ý nói về cảm xúc thiêng liêng, sốt sắng. Điều mà các đấng bậc trên nói đến, có ý bảo rằng: tất cả chúng ta đều mang trong người cung cách yêu thương có nhận thức sự vật mà não-bộ-thần-kinh-thuộc-mé-trái không thể lĩnh nhận.

 Nhờ yêu thương như thế, con người ‘định hình’ sự vật thành những ảnh hình như do chính mình tạo ra. Làm như thế, là để tác tạo thực thể như mọi người vẫn làm cho chính mình, nơi phần sâu thẳm của con người.

 Làm như thế, là để nhận thức rằng: thực thể ấy có thật. Vượt quá phạm vi và qui cách của ảnh hình. Nói theo ngôn từ triết học, thì các triết gia gọi đó là “tiềm thức”. Coi đó là giòng chảy sống, rất diệu kỳ. Là, sờ chạm thế giới nguyên uỷ không hư nát, mà thường ra, ta không sống ở trong đó.

 Nhận thức sự vật như thế, giống hệt cảm giác thấy được ‘lửa ngọn’ rực cháy trong người mình. Lửa rực cháy, khiến mình sống yêu thương, hạ mình. Thúc bách mình sống bừng sáng luôn tiến về phía trước.

 Có tiến như thế, mới cảm nhận được ‘lửa ngọn bùng bừng’ đang trào dâng với mức độ rất mới mẻ, khác thường. Có kinh nghiệm từng trải rồi, người người sẽ nhận ra cuộc sống lại thực sự đang dâng trào nơi con người mình.

 Đó là cung cách mà dân con đồ đệ dám sử dụng thơ văn như chưa từng làm, và cũng chẳng ai nghĩ tới để diễn tả tình huống Chúa Phục Sinh hiện hình với dân con của Ngài, thật như thế. Có thể nói, các thánh đã sờ chạm Chúa. Cảm nhận được nhịp đập nơi tim mạch cùng vết thương đầy máu của Ngài.

 Thấy được Thầy mình bẻ bánh rồi cầm lên ăn. Các thánh không thể quên được vị ngọt nơi bánh thánh Thầy trao tặng. Tự thân, các thánh đều biết rõ chính Thầy là Đấng đã bẻ bánh phân phát cho người nghèo hèn, rất đói kém. Tương lai mai ngày, rồi ra các ngài cũng sẽ tạo nên thơ/văn như thế để kể về Thầy đến với mình, nơi nào đó. Thầy đến để bẻ bánh, ban phát tình thương yêu nồng thắm, cho chúng nhân.

 Thực tế là như thế. Nhưng ngày nay, điều đáng buồn là rất nhiều tín hữu Đức Kitô cứ khăng khăng tin rằng thân xác Chúa trỗi dậy với cuộc sống theo hình thức rất thể lý. Rất nghĩa đen. Và, họ coi đó như thực tại duy nhất, không bàn cãi nữa. Buồn hơn nữa, lẽ đáng ra, ta phải hiểu Phục Sinh nhiều hơn thế.

 Nếu hiểu Phục Sinh chỉ là Chúa hiện diện với hình hài xác thể như khi trước thôi, tức là ta tự mình để luột mất ý nghĩa chính đáng, của nhiệm tích có thực. Buồn biết bao, khi nhiều người/nhiều vị vẫn lên án các đấng bậc nào khác nhận thức Chúa sống lại theo kiểu cách thơ văn mà thánh Luca viết theo dạng dụ ngôn, hay sao đó. Buồn nhiều hơn cả, là: các vị không nghe và không thấy giòng chảy thi ca/âm nhạc vẫn tiềm tàng ẩn mình ở trong đó. Thực tại Sống Lại rất thật. Thật, một cách đích thực.

 Quả thật, Chúa sống lại THỰC. Ngài khiến ta THỰC THỤ trỗi dậy với Tình Thương như chưa bao giờ sống như vậy.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật 3 Phục Sinh Năm A,Suyniệmloingai.blogspot.com.au 23/4/2017)  

Sống lại thực, khiến ta thực thụ trỗi dậy với Tình thương như chưa bao giờ sống như vậy”, vẫn cứ là những khẳng-định về sự sống cũng rất thực. Sống đích-thực, là thực-thụ sống có tình thương yêu/đùm bọc với hết mọi người. Thế đấy là, ý chủ của Tin Mừng dành cho người đi Đạo Chúa, rất xưa nay.

“Sống với Tình thương như chưa bao giờ sống như vậy”, thật đúng là cuộc “trỗi dậy” hay còn gọi là “sống lại” cùng với Chúa và trong Chúa. Sống có “trỗi dậy”, còn là trỗi và dậy mà trở về với tình thương là ý-nghĩa của sự sống. Bằng không, cũng chỉ là sống không hồn, trong một thể xác cứ chết dần mòn, mà thôi.

Để minh-hoạ cho triết-thuyết của nhà Đạo về cuộc sống có “trỗi dậy”, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào vùng trời truyện kể có những câu nói rất đáng kể, để ta nhớ mà sống đích-thực với mọi người, như sau:

“Cuộc sống này quá ngắn để yêu thương. Hãy sống cho thật an nhiên bạn nhé, để những bão giông của cuộc đời không thể nào chạm đến được tâm hồn của bạn. Hãy cùng điểm qua những câu nói cho phút giây tĩnh lặng…

 Cuộc sống này luôn chuyển động từng giây, từng phút, chưa lúc nào và cũng sẽ không bao giờ ngừng lại. Và mỗi con người đều bị cuốn xoáy vào dòng chảy đầy cạm bẫy, chông gai, khó khăn và thử thách này.

 Có lúc bạn tưởng mình gục ngã, có lúc bạn thấy mình mệt mỏi, muốn buông xuôi tất cả nhưng lại không thể nào buông. Hãy nghỉ ngơi, hãy để tâm hồn mình được tĩnh lặng, lắng đọng mà suy ngẫm về cuộc đời, bạn sẽ thấy lòng nhẹ nhõm và thanh thản hơn nhiều.

Cuộc sống này quá ngắn để yêu thương. Nên hãy luôn yêu thương nhau khi còn có thể.

 Khi bạn thức dậy vào buổi sáng, hãy nghĩ rằng mình còn sống là một đặc ân lớn lao được hít thở, được suy nghĩ, được tận hưởng và được yêu thương.

 Nếu đã là con đường của bạn, bạn phải tự bước đi. Người khác có thể đi cùng, nhưng không ai có thể bước hộ bạn.

 Trong cuộc đời này, có một số chuyện nhất nhất phải tự mình giải quyết. Dù đêm tối đến đâu, đường xa đến mấy thì vẫn cứ phải một mình kiên cường tiến lên phía trước.

 Bạn không thể nào thẳng tiến bước trên đường đời cho đến khi bạn bước qua và học hỏi từ những thất bại, sai lầm và đau buồn trong quá khứ.

 Tình yêu bắt đầu bằng nụ cười, đơm hoa kết trái bằng nụ hôn và kết thúc bằng những giọt nước mắt… 

Dù đó là giọt lệ buồn hay vui thì tình yêu ấy đã cho bạn những kỷ niệm thật ấn tượng và sâu sắc, là dấu ấn của tâm hồn và đánh dấu bước trưởng thành của bạn.

 Hãy ngước lên cao để thấy mình còn thấp và hãy nhìn xuống thấp để thấy mình chưa cao.

Sao phải lo lắng về những thứ bạn không thể thay đổi? Hãy buông bỏ và tiếp tục tiến lên vì cuộc sống không chờ đợi ai.

 Tầm nhìn của bạn sẽ trở nên rõ ràng chỉ khi bạn biết nhìn vào trái tim bạn. 

 Ai nhìn ra ngoài, Mơ.

Ai nhìn vào trong, Thức Tỉnh.

Cuộc sống rất ngắn. Đừng lãng phí nó bởi nỗi buồn. Hãy là chính mình, luôn vui vẻ, tự do, và trở thành bất cứ gì bạn muốn.

 Đừng nghĩ mãi về quá khứ. Nó chỉ mang tới những giọt nước mắt.

Đừng nghĩ nhiều về tương lai. Nó chỉ mang lại lo sợ.

 SỐNG Ở HIỆN TẠI VUI NỤ CƯỜI TRÊN MÔI NHƯ TRẺ THƠ. Nó sẽ mang lại niềm vui cho bạn.

Đừng nhìn dáng vẻ bề ngoài, vì đó là lừa dối.

 Đừng vì của cải vật chất, vì có thể mất đi.

Hãy tìm người nào có thể làm bạn mỉm cười, bởi vì nụ cười mới có thể làm ngày âm u trở nên tươi sáng.

 Có lẽ cuộc sống muốn chúng ta chọn lầm người trước khi gặp đúng người, để rồi chúng ta mới biết cảm ơn món quà của cuộc sống.

 Hãy tự đặt mình trong vị trí của người khác. Nếu trong hoàn cảnh ấy bạn cảm thấy bị tổn thương, thì người khác cũng sẽ cảm nhận như vậy.

 Người hạnh phúc nhất không nhất thiết phải là người có mọi thứ tốt nhất, mà là người biết tận hưởng và chuyển những gì xảy đến với mình trong cuộc sống một cách tốt nhất.

 Đừng sợ khi bị chỉ trích,

Nếu nó không đúng sự thật, bỏ qua nó.

Nếu nó không công bằng, tránh bị tổn thương vì nó.

Nếu nó khờ khạo, mỉm cười với nó.

Còn nếu nó đúng, học từ nó…

 Học cách sống tức là học cách tự do, và tự do tức là chấp nhận việc gì phải đến sẽ đến.” (Câu chuyện rất ý-nghĩa rút tỉa từ Mạng vi-tính)

Nghe kể rồi, nay lại mới bạn và tôi, ta cứ thế hiên ngang hát những lời buồn “bềnh bồng” của người viết nhạc, những đề-nghị rằng:

 “Về đâu tâm hồn này bềnh bồng.

Về đâu thân này mòn mỏi không.

Về sau và nhiều năm sau nữa,

có buồn nhưng vẫn chưa bao giờ bằng hôm nay.”

(Vũ Thành An – bđd)

Lời ca, câu hát dù vẫn buồn như nhạc Việt, nhưng tận phần thâm sau của câu hát, người nghe vẫn nhận ra một khẳng-định khá “phấn chấn” làm điểm tựa cho người người tiến tới cuộc sống “trỗi dậy” thực, ở đời người.

Trần Ngọc Mười Hai

Đôi lúc cũng nghĩ

Về cuộc sống rất trỗi dậy

Vẫn xảy đến với ta

Và với người

Trong đời. 

Bài viết dành cho tôi và những thanh niên kém cỏi và đang lạc lối khác.

From facebook:   Honolulu Nguyen‘s post.
Image may contain: one or more people, people sitting, people eating and crowd

Honolulu Nguyen

 Bài viết dành cho tôi và những thanh niên kém cỏi và đang lạc lối khác.

1. Bức hình này, dưới đây đã được lan truyền trên mạng, nó bình thường đến nỗi người ta nhìn vào nó rồi sẽ hỏi:”Rồi sao nữa ? Bức hình này có vấn đề gì à ? Mấy đứa này bạn mày hả ? Chúng nó bị ung thư gan chết hết rồi à ?”

2. Người ta nói, ở Việt Nam, đâu đâu cũng thấy đầy rẫy những chỗ nhậu nhẹt. Người ta vui cũng nhậu, buồn cũng nhậu, đám cưới cũng nhậu, đám ma cũng nhậu, thậm chí không biết làm gì cũng phải nhậu. Bởi thế cho nên chẳng mấy ngạc nhiên khi lượng rượu bia ở Việt Nam lại nằm trong tốp những nước tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới. Tôi đã nghe ai đó đã nói, rượu bia, thuốc lá và ma túy là những thứ mà ngày xưa những nước thực dân khi đi xâm chiếm các thuộc địa đã sử dụng những thứ này để làm suy yếu nội lực, tinh thần phản kháng của dân tộc đó. Việt Nam mình có lẽ cũng đang may mắn và tình cờ bị như thế ? Ai đang cố làm suy yếu dân tộc ta ?

3. Người ta nói, có một câu châm ngôn ở Việt Nam mà ai cũng thuộc và làm theo “Vì cuộc sống là không chờ đợi”. Đúng, chúng tôi không quen chờ đèn đỏ chuyển qua xanh để được đi. Chúng tôi không đủ kiên nhẫn xếp vào hàng để chờ đến lượt mua đồ ăn hay tấm vé xem một chương trình nào đó. Khi chúng tôi xảy ra va vẹt xe trên đường, chúng tôi không đợi người có thẩm quyền đến giải quyết, mà chúng tôi sẽ rút dao, mã tấu xông vào đối phương quyết một phen sống mái, để mọi ân oán được giải quyết bằng máu và nước mắt cho thỏa chí nam nhi, đầu đội trời chân đạp đất ung dung tự tại chả khác gì các vị hảo hán anh hùng Lương Sơn bạc.

4. Người ta nói ở Việt Nam người ta đi làm gái nhiều lắm. Ừ thì không làm gái thì biết làm gì bây giờ. Rừng đã mất, biển đã chết, sông đã cạn thì lấy gì làm để mà nuôi thân.

5. Người ta nói ở Việt Nam để được nổi tiếng dễ lắm. Chỉ cần bạn có mông to và ngực bự thì bạn đã có được 50% cơ hội được nổi tiếng rồi. 50% còn lại thì phụ thuộc vào độ chai của da mặt bạn, và sản phẩm make up mà bạn đang tin dùng để che đi lớp da mặt bị chai đó.

6. Người ta nói ở Việt Nam làm quan dễ lắm. Bạn chỉ cần có bố hoặc mẹ đang là quan, hoặc cô dì chú bác, hoặc thậm chí là ông hàng xóm là tình cũ của mẹ bạn cũng có thể giúp bạn trên con đường quan lộ. Xin vào làm quan mới khó, chứ đã là quan rồi thì dễ í mà. Chức cao thì ăn cái to, chức nhỏ thì ăn nhỏ, quan trọng là có “vẽ” thì mới có ăn, và ăn chia sòng phẳng lúc nào cũng phải là điều kiện tiên quyết. Thành công thì chia cho trên, sẻ ở dưới. Thất bại thì rút kinh nghiệm, kiểm điểm, cảnh cáo thôi cũng đã đủ nghiêm khắc rồi.

7. Người ta nói, sống ở Việt Nam vui lắm. Ừ thì suốt ngày trên tivi ra rả đủ chương trình thi hài, game show hài này nọ thì bảo sao không vui. Ở một đất nước, mà những diễn viên hài với những câu nói “hài là phải nhảm, phải xàm, càng nhảm càng xàm thì càng vui, thì mới là hài”. Tôi chưa thấy ở một đất nước nào, mà diễn viên hài lại được tôn vinh, được là thần tượng, là lấy làm mẫu chân lý sống cho giới trẻ như ở Việt Nam. Họ, những diễn viên hài đâu biết rằng hài là môn nghệ thuật lên án và châm biếm những mặt xấu xa của xã hội, và qua đó đằng sau những tiếng cười là để lại sự trăn trở về xã hội trong lòng người xem. Thay vì chúng ta tổ chức các chương trình kích thích sự tự học, rèn luyện sức khoẻ, ý chí vươn lên trong cuộc sống hay giúp các bạn trẻ khởi nghiệp thì chúng ta lại tổ chức các chương trình thi tuyển trở thành diễn viên hài. Dường như cái hài nhảm, hài xàm nó đang giúp người dân Việt quên đi cái nghèo, cái đói cái tủi nhục khi sống dưới cái xã hội này ? Cái đất nước này vốn đã là một sân khấu hài lớn, và dường như cả xã hội ai cũng muốn được là một diễn hài trong cái sân khấu lớn đó ?

8. Người ta nói làm giới trẻ ở Việt Nam sướng lắm. Chỉ có “ăn, ngủ, phịch, ị”. Trong khi, giới trẻ các nước khác như Hong Kong, Hàn Quốc…ừ thì mà là…trong khi giới trẻ chúng ta…là mà thì ừ.

9. Người ta nói…ừ thì cứ kệ người ta nói đi mà. Biết thì biết thế thôi chứ mình có thay đổi được gì đâu. Kệ đi!

10. Việt Nam chúng ta luôn tự hào là Con Rồng, Cháu Tiên thông minh xuất chúng, minh chứng hùng hồn nhất là chúng ta chiến thắng được mọi kẻ thù xâm lược. Ừ thì giỏi đó, nhưng hậu thế lại biết đến những trận đánh là những cuộc nướng quân “quân địch chết ba, quân ta chết hết” hoặc qua những kế hoạch mang đậm dấu ấn cá nhân của anh Tám, chị Chín, thím Sáu nào đó: “chúng ta đã làm tiêu hao sinh lực địch đáng kể”, nhưng thật ra là những trận khủng bố kinh hoàng chẳng khác gì IS với “quân địch chết ba dân ta chết tá”. Ngoài những chiến tích đó ra, dường như chúng ta không có một thành công nào để minh chứng chúng ta là một dân tộc thông minh, không một công trình khoa học hay phát minh sáng chế nào đóng góp cho nhân loại.

Nếu tổ tiên ta thông minh, thì ngày xưa ba Quân mẹ Cơ đã ngồi xuống cùng giải quyết vấn đề, hoà hợp hoà giải chứ không phải phải đi đến quyết định ly thân, gia đình chia cắt kẻ dắt 50 con lên rừng, người dẫn 50 con xuống biển. Nếu vua Hùng thông minh, thì khi nghe câu nói của Mai An Tiêm thay vì sẽ ngồi suy nghĩ đúng sai về câu nói đó chứ không cố chấp đày chàng trai trẻ ra biển. Nếu An Dương Vương thông minh, thì đã không nhận đứa con của kẻ thù về làm rể, chứ không để con gái rượu cuối cùng phải thốt lên “Trái tim lầm lỡ để trên đầu/ Nỏ thần vô ý trao tay giặc”. Tuy đã là quá khứ, dân tộc nào cũng có sai lầm, nhưng chúng ta cần phải nhìn nhận, đối diện sự thật rằng dân tộc Việt Nam chúng ta không thông minh, và khi đã nhận thức được điều đó chúng ta cần phải mở mang đầu óc, tăng cường học hỏi những điều mới mẻ từ bên ngoài. Nhưng tiếc là thay vì chịu nhận ra điểm yếu và chịu khó học hỏi thì chúng ta lại cố chấp giữ gìn cái cũ với những sân si, hoang tưởng. Điều này thực sự là một bất hạnh cho dân tộc Việt. Tôi và bạn, chúng ta là những kẻ đần độn ở một đất nước thất bại !

Kỳ Anh

TẢN MẠN VỀ CỜ VÀNG

From facebook:  Tai Do shared Huỳnh Thục Vy‘s post — with Huynh Thi Xuan Mai and 28 others.

 

Image may contain: 1 person, selfie and closeup

Huỳnh Thục Vy with Huynh Thi Xuan Mai and 29 others.

 

 TẢN MẠN VỀ CỜ VÀNG

Tôi may áo dài, áo khoác, cà vạt với hình ảnh cờ vàng ba sọc đỏ để làm gì? May để bán. Mục tiêu của buôn bán là lợi nhuận, tất nhiên, đó là điều không thể chối cãi. Nhưng, là một người bảo vệ Nhân quyền và hoạt động xã hội dân sự, lợi nhuận không phải mục tiêu duy nhất của tôi. Thông thường, mỗi công việc của chúng ta thường nhắm đến không chỉ một, mà hai, ba mục tiêu.

Trước nay, lá cờ vàng ba sọc đỏ cũng như mọi biểu tượng khác liên quan đến Việt Nam Cộng Hoà đều là những thứ nhạy cảm, bị đưa ra ngoài vòng pháp luật một cách bất thành văn. Nói đến nó là nói đến công an và nhà tù. Chúng ta, những người con Việt Nam còn giữ lòng xót xa cho mệnh người và vận nước chưa thể nào quên được một triệu quân cán chính Việt Nam cộng hoà đã phải trình diện chính quyền cộng sản và bị đày đi lao động khổ sai dưới cách gọi trịch thượng của chính quyền cộng sản là “lao động cải tạo” và đã có hàng trăm ngàn người lính Việt Nam Cộng Hoà không chết vì bom đạn chiến tranh mà chết vì bị tra tấn, đói khát, bệnh tật trong nhà tù cộng sản. Chúng ta chưa thể quên một miền Nam tan hoang sau 1975 và lòng người dân miền Nam còn rỉ máu cho đến hôm nay. Chúng ta chưa thể quên những vết cắt sâu hoắm trong lòng dù vẫn dùng thời gian để bôi xoá nó.

Chúng ta chưa quên, vì sao? Vì chính những người cộng sản cho đến hôm nay vẫn cai trị toàn bộ Việt Nam với bộ máy chính quyền công an trị chà đạp Nhân quyền. Họ một mặt ca ngợi “Thống nhất” nhưng mặt khác vẫn ăn mừng Ba mươi tháng Tư. Họ rao giảng “hoà hợp” nhưng vẫn bắn đại bác vào quá khứ (cái quá khứ từng là tuổi trẻ, từng là sức sống, từng là niềm tự hào của hàng triệu con người). Họ thèm khát ngoại tệ của “khúc ruột ngàn dặm” nhưng lại luôn miệng nói về lịch sử với những từ như: nguỵ quân, nguỵ quyền. Họ nói về hoà bình nhưng vẫn giữ cách hành xử với người dân bằng bạo lực tàn ác. Họ tra tấn, bắt giam, khủng bố tinh thần những ai nhắc đến Việt Nam Cộng hoà, trưng cờ vàng ba sọc đỏ…

Ở Việt Nam, không ai dám giữ bất cứ cái gì có màu vàng ba sọc đỏ một cách có chủ ý mà không chuẩn bị tinh thần để bị công an sách nhiễu. Sau ngày VNCH sụp đổ, dưới thời bao cấp, trưng cờ vàng thì hình phạt có thể là cái chết. Một Nguyễn Viết Dũng cầm cờ vàng, mang quân phục VNCH đi biểu tình đã bị bỏ tù. Tôi bán cà vạt, may áo dài cờ vàng bị dư luận viên nhắn tin thoá mạ và đe doạ giết. Một cô MC may áo dài cờ vàng dẫn chương trình đám cưới bị công an mời đi làm việc… Vì thế, lá cờ vàng không chỉ là biểu tượng của một quốc gia dân chủ non trẻ có tên Việt Nam Cộng Hoà, hay có thể là biểu tượng của đất nước và vương quyền của vài vị vua nào đó dưới triều Nguyễn; mà vô hình trung, nó trở nên thứ song hành với chính sách khủng bố của chính quyền CSVN; trở nên thứ gắn liền với sự chà đạp quyền tự do lương tâm (hay còn gọi là quyền tự do tư tưởng) của chính quyền độc tài.

Tôi biết hết thảy những sự thù địch với cờ vàng như thế của chính quyền CSVN và sự e sợ của người dân với hình ảnh lá cờ này. Tôi cũng lường được những hậu quả không sớm thì muộn xảy ra cho chính mình khi may, in các sản phẩm thời trang dựa trên hình ảnh lá hoàng kỳ này. Nhưng tôi vẫn làm. Vì sao? Nếu chỉ vì mục tiêu lợi nhuận, không ai mang an toàn của mình và gia đình mình ra đánh đổi với vài triệu đồng. Trước giờ hầu như các sản phẩm cờ vàng, đặc biệt là áo khoác, đều được sản xuất ở bên ngoài Việt Nam, đưa vào trong nước với số lượng nhỏ. Bây giờ, tôi may các sản phẩm cờ vàng hàng loạt. Không phải chỉ để bán cho những người ở hải ngoại yêu thích màu cờ họ ấp ủ trong tim bao chục năm nay; mà còn để tặng, để bán cho người Việt quốc nội. Điều quan trọng là các sản phẩm được sản xuất ở chính Việt Nam, được vận chuyển, quảng bá ở Việt Nam, được trữ trong kho hàng của một người đang ở Việt Nam, và được bán, tặng cho anh chị em ở tại Việt Nam và được nổi bật trên khắp thôn làng, đường phố Việt Nam.

Tôi muốn “bình thường hoá” hình ảnh đi liền với sự sợ hãi đó. Tôi muốn góp chút sức giải toả “lời nguyền” nhắm vào màu cờ này. Tôi muốn màu vải nền vàng với ba sọc đỏ nổi bật sẽ là đi vào tâm thức người dân, đặc biệt là giới trẻ, không chỉ như là một thứ gì đó bình thường, không mang tính đe doạ mà còn đẹp đẽ dưới bình diện thẩm mỹ. Một tà áo dài vàng thướt tha, một chiếc cà vạt lụa vàng để mặc với áo sơ mi trắng, một áo khoác vàng có ba sọc thể thao trên cánh tay để mặc ra ngoài khi trời trở gió… Vậy đó, cái gì hiếm hoi thì bất thường, nhưng những gì quen mắt thì dần dần trở nên bình thường. Khi cờ vàng được thiết kế thành áo thể thao, mũ nón, áo dài, áo đầm, logo công ty, biểu tượng của hội đoàn… một cách vô tình hoặc cố ý (nhưng công an làm sao biết chúng ta vô tình hay cố ý?) thì lâu dần tâm thức người dân không còn e dè với cờ vàng nữa, công an của nhà cầm quyền cũng không thể kiểm soát được việc sử dụng nó. Vậy đó, đừng quá nghiêm trọng hoá mọi thứ, hãy để nó diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng như nước chảy.

Bên cạnh mong muốn xoá bỏ “sự bất thường” của cờ vàng trên đất Việt Nam, tôi còn muốn thông qua việc mặc các sản phẩm thời trang cờ vàng để truyền đạt sự ủng hộ cho quyền tự do lương tâm của người Việt Nam đang bị dày xéo dưới gót giày độc tài. Quyền tự do lương tâm là quyền tiên khởi của nhiều nhân quyền khác như quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo… Bởi chúng ta được sinh ra với quyền tự do nuôi dưỡng điều ta tin tưởng, tự do trân trọng và ôm ấp trong tim một thời kỳ lịch sử, một biểu tượng dù thể chế đó không còn, tự do tin tưởng rằng một điều gì đó là tốt đẹp mà không phải điều gì khác, tự do phát ngôn cho điều ta tin là đúng (miễn là tất cả những điều đó không phải là bạo lực và chống lại nhân phẩm), nên nhân loại mới cùng ngồi lại với nhau để đồng ý ký kết tôn trọng tự do tôn giáo, tự do biểu đạt, tự do ngôn luận…

Nhà cầm quyền Việt Nam, về mặt nguyên tắc, không được phép cấm cờ vàng và đàn áp những ai yêu quý nó, cũng giống như họ không được phép bịt miệng những người bất đồng chính kiến và đàn áp quyền tự do tôn giáo vậy. Thế nhưng, hầu như người ta dành nhiều sự ủng hộ cho một tôn giáo bị đàn áp, một người bất đồng chính kiến bị bỏ tù hơn là một người ủng hộ cờ vàng bị tra tấn. Có gì khác biệt giữa quyền tự do được trân trọng điều gì đó (ở đây là tình cảm yêu quý trân trọng cờ vàng và Việt Nam Cộng Hoà) với quyền tự do thờ phượng hay quyền tự do phát biểu chỉ trích chính quyền? Không khác biệt.

Vậy tự do lương tâm và tự do biểu đạt có phải là chúng ta được quyền trưng bày các biểu tượng chống lại con người, các biểu tượng khủng bố hay các biểu tượng khác làm tổn thương lương tâm nhân loại không? Dứt khoát Không. VNCH là một chính thể dân chủ non trẻ, còn nhiều khiếm khuyết, cố gắng trưởng thành trong một thời kỳ chiến tranh khốc liệt và trong một giải đoạn lịch sử quốc tế phức tạp. Vì thế, tưởng nhớ VNCH chỉ làm chính quyền cộng sản lo sợ và thù ghét chứ không làm tổn thương lương tâm bất cứ ai, ngay cả những gia đình cựu bộ đội Bắc Việt, vì miền Bắc chủ động đánh chiếm miền Nam chứ không phải ngược lại. Bởi vậy, chúng ta có thể loại trừ khả năng đó.

Tự do lương tâm? Vậy vì sao cờ đỏ bị đả kích ở hải ngoại? Vâng, cờ đỏ là biểu tượng của chế độ độc tài đàn áp nhân quyền, ngăn chặn dân chủ. Chống cờ đỏ nghĩa là biểu tỏ sự bất đồng của những người bình thường với một chính quyền tham tàn. Đó cũng là cách thực thi quyền tự do biểu đạt. Nhưng đứng trên vị trí một nhà nước, với độc quyền bạo lực, không một chính quyền nào được phép cấm đoán tự do lương tâm, tự do gìn giữ màu cờ của người dân. Và vì thế suy ra, chừng nào Việt Nam có dân chủ thì một Hiến pháp tự do cần toàn thể người dân, đặc biệt là giới trí thức, cân nhắc xem có nên đưa đảng cộng sản và các biểu tượng của nó ra ngoài vòng pháp luật dựa trên những tội ác và các hành động khủng bố họ đã gây ra hay không. Nếu không, thì trong một Việt Nam tự do dân chủ thực sự không cho phép đàn áp quyền tự do của những người vẫn yêu mến lá cờ nhuộm màu máu này.

Tóm lại, tôi vẫn tiếp tục dùng hình ảnh cờ vàng cho những sản phẩm thời trang của mình miễn là có người vẫn yêu mến nó; vì đó là quyền tự do lương tâm của những người yêu mến Việt Nam Cộng Hoà và của chính người viết bài này.

Huỳnh Thục Vy
Buôn Hồ 8/6/2017

Im lặng đến bao giờ

Im lặng đến bao giờ

 Trần Trung Đạo

Trong mùa bầu cử TT Mỹ năm ngoái, báo chí Nhà nước CS chẳng những theo dõi, tường thuật mà còn sôi nổi bình luận, ủng hộ bên này, chống đối bên kia nhiều khi còn hăng say, nhiệt tình hơn cả công dân Mỹ.

clip_image002

Người dân Campuchia đi bỏ phiếu ở ngoại ô Phnom Penh, 4/6/2017

Những phân tích, bình luận của các “nhà báo” Việt Nam không phải vì ứng cử viên nào thắng sẽ có lợi hay gây bất lợi cho Việt Nam mà chỉ nhắm vào việc thỏa mãn tính tò mò của người đọc.

Đối với họ, bầu cử ở Mỹ hồi hộp và gay cấn như một trận bóng trong giải vô địch của các liên đoàn bóng đá chuyên nghiệp ở châu Âu chứ không phải là quyền rất thiêng liêng của mỗi con người mà ai cũng có.

Tuần này cũng thế. Các báo Việt Nam tường thuật khá chi tiết diễn tiến cuộc bầu cử địa phương tại Campuchia, một nước từng nghèo nàn, chậm tiến hơn Việt Nam trên nhiều lãnh vực. Lần đầu tiên sau 30 năm, vị trí của Hun Sen và Đảng Nhân dân Campuchia của ông ta bị đe dọa.

Hun Sen, nguyên là trung đoàn phó của một đơn vị Khmer Đỏ đào thoát theo CS Việt Nam. Sau một thời gian dài núp dưới bóng CSVN, những năm vừa qua Hun Sen đã nghiêng về phía Trung Cộng. Lý do, nếu kinh tế Campuchia không phát triển, đảng Cứu quốc Campuchia sẽ chiếm lấy quyền lãnh đạo đất nước.

Theo kết quả bầu cử mới nhất, tại các địa phương xa, Đảng Nhân dân Campuchia vẫn còn chiếm đa số nhưng tại các trung tâm du lịch và cả thủ đô Nam Vang, Đảng Cứu quốc Campuchia đang thắng thế. Một hình thức lưỡng đảng đang hình thành tại Campuchia. Cuộc bầu cử Quốc hội năm tới chắc sẽ rất hấp dẫn. Ai thắng ai thua chưa biết nhưng cạnh tranh dân chủ tương xứng đã bắt đầu. Những bông hoa dân chủ đang mọc lên trên những Cánh đồng Chết (The Killing Fields) Campuchia. Mừng cho dân tộc này.

Nếu thế kỷ 19 là thế kỷ của thuộc địa bóc lột, thế kỷ 20 là thế kỷ của thế giới chiến tranh và độc tài cộng sản, thế kỷ 21 đang chứng minh là thế kỷ của dân chủ và phát triển toàn diện trên phạm vi toàn cầu. Hành trình hướng đến một tương lai tươi sáng đang được hầu hết các dân tộc trên thế giới hăng say phát động.

Dân chủ đối với đa số nhân loại không còn là khát vọng mà là một thực tế, không còn là ước mơ mà là hành động, không còn là một mục tiêu khai phá mà là một tiến trình không thể đảo ngược. Từ Botswana, Ghana ở châu Phi cho đến Mông Cổ, Campuchia ở châu Á, con người đang sống ra người.

Việt Nam thì sao?

Đối với một số không nhỏ người Việt trong nước, chuyện ứng cử hay bầu cử là chuyện nước ngoài.

Với họ, sự có mặt của Đảng CS tại nước Việt Nam cũng chẳng khác gì thời tiết. Con người chỉ có thể xoay xở để sống quanh năm nhưng không thể nào thay đổi được nắng mưa. Họ vui khi hoa mai nở vào xuân và cắn răng chấp nhận cái rét căm căm khi mùa đông đến.

Bộ máy tuyên truyền và bạo lực chuyên chính CS đã xoay ngược kim đồng hồ nhận thức của họ lui lại thời phong kiến ngày xưa, xa đến mức chấp nhận chế độ đang cai trị mình như số phận an bày.

Hôm trước đọc một số nhận xét trên các trang mạng về chuyện ai sẽ là bí thư Sài Gòn thay thế Đinh La Thăng mà không khỏi cảm thấy tội nghiệp cho trình độ nhận thức chính trị của một số người.

Những người này bất bình khi nghe tin Tòng Thị Phóng được Nguyễn Phú Trọng đề nghị thay thế Đinh La Thăng và sau đó thở dài nhẹ nhõm khi nghe tin Nguyễn Thiện Nhân lên thay. Lý do, Nguyễn Thiện Nhân mặt mày sáng sủa, đẹp trai trong khi Tòng Thị Phóng mặt mày xấu xí, giống sinh vật này, động vật kia. Họ không biết dù Tòng Thị Phóng hay Nguyễn Thiện Nhân họ vẫn phải sống trong cái rọ CS của ngày hôm qua và sẽ tiếp tục sống cho tới đời con cháu.

Nhưng không phải ai cũng sống theo chủ nghĩa số phận như lớp người tệ hại vừa nêu.

Rất đông người Việt nhận thức được hiểm họa Trung Cộng không chỉ ngoài biển Đông mà cả trong đất liền, ý thức được sự cấp bách phải thay đổi cơ chế chính trị, căm giận tập đoàn cầm quyền bán nước hại dân, đau xót cho một dân tộc có truyền thống hào hùng đã phải chìm sâu trong độc tài nô lệ. Vâng, nhưng tiếc thay thành phần dân tộc có nhận thức đúng này lại cũng đang im lặng.

Đồng bào ơi, im lặng đến bao giờ?

T.T.Đ.

(CTM)

Nguồn: http://www.tintuchangngayonline.com/2017/06/im-lang-en-bao-gio.html

Câu trả lời của vị thiền sư về tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc khiến chàng trai bừng tỉnh

Câu trả lời của vị thiền sư về tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc khiến chàng trai bừng tỉnh

 

Dưới đây là màn đối thoại giữa một vị sư già và một chàng trai trẻ về tình yêu, hôn nhân và hạnh phúc. Hi vọng thông qua câu chuyện, bạn có thể rút ra cho mình những bài học bổ ích.

1. Tình yêu là gì?

Một ngày kia, có một chàng trai trẻ tìm đến hỏi lão thiền sư rằng: “Thưa thầy, thầy có thể nói cho biết tình yêu là gì được không ạ?”

Lão thiền sư nhìn chàng trai trẻ, mỉm cười: “Cậu hãy đi xuyên qua ruộng lúa mạch này, ngắt một tua lúa mạch lớn nhất, vàng óng nhất về đây. Nhưng có một điều kiện là: cậu không được quay đầu trở lại con đường cũ đã đi qua, và chỉ có thể hái một lần duy nhất.”

Chàng trai trẻ liền đi làm theo lời lão thiền sư và rất lâu sau anh mới trở về, nhưng lại đi về với với hai bàn tay không.

Thấy vậy, lão thiền sư liền hỏi: “Tại sao con lại trở về tay không?”

Chàng trai trẻ đáp: “Khi con đi đến giữa cánh đồng lúa mạch, con đã nhìn thấy mấy tua lúa mạch rất là lớn, rất là vàng óng, nhưng, con nghĩ rằng phía trước chắc có lẽ cũng sẽ có cọng lúa mạch khác lớn hơn và tốt hơn nữa, vậy nên con không có hái; nhưng mà, khi con tiếp tục đi nữa, những tua lúa mạch khác mà con nhìn thấy, luôn cảm thấy không được đẹp như đã thấy trước đó, vậy nên sau cùng con không có hái được gì cả…”

Lão thiền sư nói một cách ngụ ý sâu sa: “Đây chính là tình yêu.”

2. Hôn nhân là gì?

Một ngày khác, chàng trai trẻ tìm đến hỏi lão thiền sư: “Thưa thầy, thầy có thể cho con biết hôn nhân là gì được không ạ?”

Lão thiền sư nói: “Thế con hãy đi xuyên qua khu rừng này, chặt lấy một cái cây to nhất, rắn chắc nhất về đặt ở trước cửa nhà làm cây thông Noel, nhưng có một điều kiện bắt buộc là: con không được đi ngược trở lại và con chỉ có thể chặt một lần.”

Chàng trai trẻ liền đi vào rừng. Rất lâu sau đó, anh ôm theo một thân cây vốn không được coi là cao lớn rắn chắc nhất, lại cũng không phải là tốt nhất về.

Lão thiền sư hỏi: “Tại sao con lại chặt một thân cây như vậy mang về?”

Chàng trai trẻ liền trả lời: “Khi con đi xuyên qua khu rừng, có mấy lần con nhìn thấy có mấy cây rất là tốt, nhưng lần này, con đã tiếp thu bài học hái tua lúa mạch lần trước, khi nhìn thấy cây này vẫn không tệ, nên đã chọn trúng nó, con sợ nếu con không chọn nó, thì sẽ bỏ lỡ cơ hội chặt cây mà trở về tay không, dù rằng nó vốn không thể được coi là cái cây tốt nhất mà con gặp được.”

Lão thiền sư mỉm cười hài lòng: “Đây, chính là hôn nhân.”

3. Hạnh phúc là gì?

Một ngày kia rảnh rỗi, chàng trai trẻ lại tìm đến hỏi lão thiền sư: “Thưa thầy, xin thầy chỉ cho con biết thế nào là hạnh phúc?”

Lão thiền sư nói: “Cậu hãy băng qua cánh đồng ruộng này và hái lấy một bông hoa đẹp nhất. Nhưng có một quy định: Cậu không được đi ngược trở lại, hơn nữa cậu chỉ có thể hái một lần.”

Chàng trai trẻ nghe xong liền đi làm ngay. Rất lâu sau đó, anh cầm trên tay anh một bông hoa khá đẹp trở về.

Lão thiền sư liền hỏi anh: “Đây có phải là bông hoa đẹp nhất không?”

Chàng trai trẻ đáp: “Khi con đi ngang qua cánh đồng ruộng con đã nhìn thấy bông hoa rất đẹp đẽ này. Con đã hái nó xuống, đồng thời quả quyết rằng nó chính là bông hoa đẹp nhất, mặc dù về sau con lại nhìn thấy rất nhiều bông hoa đẹp đẽ khác nhưng con vẫn vững tin không một chút lay động rằng đây là bông hoa đẹp nhất. Vậy nên con đã hái bông hoa đẹp nhất này mang về.”

Lão thiền sư gật đầu, mỉm cười: Phải rồi. Đây chính là hạnh phúc.”

4. Ngoại tình là gì?

Một ngày khác, chàng trai trẻ lại tìm đến hỏi lão thiền sư: “Thưa thầy, thế nào là ngoại tình ạ?”

Lão thiền sư bảo anh hãy đi vào khu rừng một lần nữa. Nhưng lần này có thể đi ngược trở về, và khi đi hãy hái một bông hoa đẹp nhất trên đường.

Chàng trai trẻ lòng tràn đầy hứng khởi mà đi. Sau hơn hai tiếng đồng hồ, anh hăng hái mang về một bông hoa màu sắc sặc sỡ nhưng lại có chút héo tàn.

Lão thiền sư liền hỏi anh: “Đây có phải là bông hoa đẹp nhất không?”

Chàng trai đáp: “Trong suốt 2 giờ đồng hồ tìm kiếm, con phát hiện đây là bông hoa nở rộ nhất, đẹp đẽ nhất, nhưng trên đường hái xuống mang về đây, nó đã dần dần trở nên khô héo.”

Lúc này, lão thiền sư cười trả lời: Đó chính là ngoại tình.

5. Cuộc sống là gì?

Mấy ngày sau, chàng trai lại tìm đến thỉnh giáo lão thiền sư: “Thưa thầy, thế nào là cuộc sống ạ?”

Lão thiền sư bảo anh đi vào trong khu rừng một lần nữa. Có thể đi ngược trở về, trên đường hãy hái một bông hoa đẹp nhất mà anh thấy.

Nhờ những bài học trước đó, chàng trai trẻ cảm thấy tràn đầy niềm tin, đi thẳng vào trong khu rừng. Nhưng lần này đến ba ngày ba đêm vẫn không thấy anh trở ra. Lão thiền sư đành phải đi vào trong khu rừng tìm anh, cuối cùng phát hiện anh đã dựng một túp lều tạm trong khu rừng.

Lão thiền sư hỏi anh: “Cậu đã tìm được bông hoa đẹp nhất chưa?”

Chàng trai vội đứng dậy, chỉ vào một bông hoa bên cạnh, nói: “Thưa thầy, đây chính là bông hoa đẹp nhất con tìm thấy.”

“Thế tại sao con lại không hái nó mang về?” Lão thiền sư hỏi.

Nếu như con hái nó xuống, nó sẽ khô héo ngay lập tức, dù con không hái nó, nó sớm muộn cũng sẽ héo tàn. Vậy nên con nhân lúc nó vẫn còn đang nở rộ, con muốn được ở bên nó. Đợi đến khi nó héo rụng rồi, con lại đi tìm một bông hoa khác. Đây thực ra đã là bông hoa thứ hai đẹp nhất mà con tìm được.” Chàng trai đáp.

Lão thiền sư liền vỗ vào vai anh, cười bảo: “Vậy là con đã hiểu được ý nghĩa thật sự của cuộc sống rồi đó.”

Xem xong câu chuyện này, bạn có cảm nghĩ thế nào?

Điều mà ta dễ dàng bỏ lỡ nhất chính là tình yêu.

Sau khi trải qua những điều bất trắc trong tình yêu, thái độ của bạn đối với hôn nhân sẽ phát sinh những chuyển biến rất lớn. Lúc đó bạn sẽ lựa chọn một người thích hợp nhất với mình, chứ không phải là đẹp nhất, hoàn hảo nhất.

Hạnh phúc chính là thỏa mãn với những tìm thấy được trên hành trình tới cái đích cuối của cuộc đời.

Ngoại tình nhìn thì đẹp đấy, nhưng sẽ héo tàn, cuối cùng chẳng còn lại gì cả.

Còn cuộc sống chính là quá trình không ngừng tìm kiếm hạnh phúc!

From Lucie 1937 gởi

Thủ tướng Mark Rutte ( Hà Lan ) hàng ngày đạp xe đạp đi làm

From facebook:  Linh Võ and Hoà Lưu Văn shared Trần Khải‘s post.
Image may contain: 1 person, sitting, tree and outdoor
Trần Khải

 

Thủ tướng Mark Rutte ( Hà Lan ) hàng ngày đạp xe đạp đi làm, kể cả lúc tới gặp Obama .
– Không thèm đi xe hơi của công
– Không cần cảnh vệ đi kèm
– Không cần cảnh sát dẫn đường

* Điều đó cho thấy :
– Đất nước họ ” giàu mà bình yên “
– Thủ tướng nước họ rất có ý thức tiết kiệm tiền ngân sách và gương mẫu giữ gìn môi trường trong sạch
– Nhìn Thủ tướng rất gần gũi thân thiện .

Kết luận : Hình ảnh Thủ tướng Mark Rutte ( Hà Lan ) như vậy thì dân Hà Lan ai dám bôi nhọ ? Ai dám ám sát