Những vĩ nhân bị vợ ‘THƯƠNG’: Tolstoi , Socrate ,Napoleon III

Những vĩ nhân bị vợ ‘THƯƠNG’: Tolstoi , Socrate ,Napoleon III

Đại văn hào Nga Lev Tolstoi bỏ nhà rồi chết ở một nhà ga. Nguyện vọng cuối cùng của ông là không phải thấy mặt vợ.

Không ít người là vĩ nhân được cả thế giới xưng tụng, hoặc nắm trong tay quyền lực vô đối, nhưng lại sống khổ sống sở dưới sự đay nghiến của vợ mình.

Văn hào Nga Lev Tolstoi : Yêu nhau vẫn hành nhau

Cuộc hôn nhân của nhà văn, bá tước Tolstoi với bà vợ Sofya bắt nguồn từ một tình yêu tuyệt đẹp. Họ sống bên nhau 48 năm trời và sinh hạ nhiều con. Sofya không chỉ là vợ mà còn là người trợ lý, thư ký cho chồng, tận tụy hỗ trợ ông trong công việc. Ấy thế mà về sau, bà lại thành một tội nợ của ông, góp phần làm ông thấy cuộc sống thêm bế tắc.

Thực ra, lỗi không hoàn toàn toàn thuộc về bà Tolstoi, có chăng là họ đã trao nhau trái tim nhưng rốt cục lại không đồng hành về tư tưởng. Tolstoi ngày càng đau đớn về những bất công trong xã hội và sự bất lực của mình trong việc cải tạo nó. Cảm thấy sự giàu có của mình là tội lỗi, ông chỉ muốn từ chối của cải, các tác phẩm của mình được in ra ông từ chối tiền tác quyền. Nhưng bà lại muốn thu vén tài sản để đảm bảo cho gia đình con cái, muốn có danh vọng, tiếng tăm… Sự “trái tính trái nết” của chồng làm Sofya giận dữ và không chịu nổi.

Lev Tolstoi và vợ, ảnh chụp ba năm trước khi ông mất.

Trong nhiều năm, Sofya hết cằn nhằn, trách móc lại đay nghiến chồng với những lời bẳn gắt, mạt sát độc địa, chua cay. Những cuộc xung khắc dường như bất tận, chất thêm gánh nặng vào tâm hồn vốn đã nặng trĩu nỗi đau đời của đại văn hào. Có những lúc bá tước phu nhân như phát điên, nằm lăn ra đất lăn lộn, vật vã. Nhiều lần bà dọa tự tử, dọa đâm đầu xuống giếng… Thế là mối tình đẹp như mơ của họ dần biến thành địa ngục. Và một ngày đông trời đầy tuyết, đại văn hào bỏ nhà đi rồi 11 ngày sau trút hơi tàn ở một nhà ga, ước nguyện cuối cùng là không nhìn thấy  vợ nữa.

Sau cái chết đó, nhiều người hâm mộ Tolstoi coi Sofya như một tội đồ. Thế nhưng những người công bằng hơn thì hiểu rằng, Sofya rất có công trong cuộc đời sáng tác của Tolstoi và đã phảikhổ vì chồng không kém. Bà đã suốt đời tận tụy với ông, một mình lo thu vén gia đình, và hy sinh cả văn tài của mình để chăm sóc cho người chồng đầy nỗi đau tư tưởng và chỉ lo “chuyện thiên hạ”.

TRIẾT GIA HY LẠP SOCRATE : Nhà triết học và “sư tử Hà Đông”

Triết gia Hy Lạp cổ đại Socrate được bao nhiêu người quỳ gối ngưỡng vọng, nhưng với bà vợ Xanthippe thì ông chỉ là “con tép”. Socrate lấy vợ khi đã 50 tuổi, bà trẻ hơn ông rất nhiều, nhưng mức độ ghê gớm của người vợ này thì vang lừng cả thành Athen. Ai cũng biết nhà triết học nổi tiếng suốt ngày bị vợ chửi bới, hành hung. Đến nỗi sau mấy nghìn năm, tên bà đã trở thành danh từ chung để chỉ những ác phụ, những người đàn bà đanh đá, lăng loàn. Được cái với vợ thì Socrate là ông chồng “ngoan”, chẳng bao giờ cãi nửa lời.

Tranh vẽ cảnh Socrate bị vợ dội nước trước mặt khách khứa.

Chuyện kể rằng có lần, bậc thầy triết học đang đàm đạo với các môn sinh thì bà Xanthippe lại mắng nhiếc, rủa sả om sòm đến nỗi tất cả mọi người đều tối tăm mặt mũi, trừ ông chồng vẫn điềm nhiên. Cơn tam bành lên đến đỉnh điểm, bà bưng cả vò nước rót lên đầu chồng, ông vẫn im lặng chịu trận, lại còn đùa với các học trò: “Sau cơn sấm sét bao giờ cũng phải có mưa giông”.

Lần khác, Socrate đang ăn cơm với bạn thì bà vợ trời đánh lên cơn điên giận, chẳng kể gì khách khứa, ném cả mâm cơm ra sân. Trong khi ai nấy tức nổ đom đóm thì Socrate vẫn nói chữa: “Chắc bà ấy muốn chúng ta ra sân ăn cho mát”. Đáp lại ông chồng AQ, bà Xanthippe lấy chổi quét hết thức ăn để chồng hết đường nhặt lại. Đến nước này thì các ông khách đều muốn giúp khổ chủ cho bà vợ lăng loàn một bài học, nhưng ông ngăn lại: “Giả sử như các anh đang ăn mà có con gà nhảy vào làm đổ hết mâm bát, các anh có đi đuổi nó để trừng phạt không?”.

Bị vợ hành như vậy nhưng hễ có ai dèm pha bà, ông lại bảo: “Chính nhờ bà ấy mà tôi trở thành triết gia”. Người ta cho rằng Socrate nhẫn nhục, “biết điều” với vợ một phần vì nhà hiền triết biết rằng với gia đình, ông là một ông chồng vô tích sự, là gánh nặng cho vợ con.

VUA Napoleon III : Vua cũng không yên thân với vợ

Napoleon III (cháu gọi Napoleon đệ nhất bằng bác ruột) không được coi mà một vĩ nhân nhưng đã ghi dấu ấn trong lịch sử nước Pháp như một hoàng đế cuối cùng và tổng thống đầu tiên. Ông cưới nữ bá tước Mari Eugénie Ignace Augustine de Montiji, người đàn bà đẹp nhất châu Âu thời đó, làm vợ và yêu nàng mê mệt. Có thể nói nhà vua phủ lên bà hoàng hậu mỹ miều của mình toàn bộ tình yêu và mọi xa hoa. Nhưng như thế vẫn chưa đủ để hoàng hậu Eugenie đặt niềm tin vào chồng. Bà điên cuồng vì  nghi ngờ, ghen tuông và chính điều đó làm ông chồng hoàng đế nghẹt thở, làm vua mà chẳng còn chút tự do nào.

Napoleon III cạnh hoàng hậu xinh đẹp của mình.

Sợ chồng có nhân tình, hoàng hậu không ngừng canh giữ chồng, tra xét, lùng sục mọi ngóc ngách trong cung điện, bất chấp vương lệnh, nghi thức và sĩ diện Napoleon III đang làm việc trong văn phòng, hoàng hậu thường đột ngột xộc vào với hy vọng “bắt quả tang”. Thậm chí cả khi nhà vua có cuộc họp bí mật để bàn đại sự, bà cũng nằng nặc đòi có mặt để đảm bảo không có chuyện tình ái lăng nhăng nào.

Chưa hết, mỹ hậu của Napoleon III còn thường xuyên nói xấu chồng với họ hàng, mắng chửi chồng khi lên cơn ghen bóng gió, khóc lóc ầm ĩ. Nhà vua chỉ muốn được yên thân một mình cũng không xong, vì bà hoàng hậu thấy cái sự một mình đó ẩn chứa quá nhiều nguy hiểm.

Kết cục là Napoleon III phải lén ra ngoài cung điện một chút cho nó dễ thở và dẫn đến ngoại tình thật…

Lời nói THẬT cũa một bác sĩ :

Lời nói THẬT cũa một bác sĩ :

Từ khi vào nghề Y đến nay đã hơn 30 năm, hễ cứ đến ngày này là nhận nhau những lời chúc tụng. Tôi không biết là mình có nên chúc tụng đồng nghiệp và nhận lời chúc tụng của người khác không, khi mà, ngành Y bây giờ không làm tròn trách nhiệm với người bệnh.

Thôi thì cũng vài dòng cảm ơn những gì các bạn đã chúc nhau, và xin đưa ra những nguyên tắc chung để bà con cẩn thận với sức khỏe của chính mình.

Nguyến tắc thứ nhất:

Đừng tin những gì quảng cáo trên báo đài, truyền thông, và thế giới mạng về thuốc. Vì không độc thì không gọi là thuốc, người ta chỉ uống thuốc để tự tử, chứ không ai uống nước để tự tử bao giờ. Chính vì thế, mà ở các quốc gia tiên tiến, cấm quảng cáo thuốc trên phương tiện truyền thông dân dụng, chỉ được quảng cáo thuốc ở tạp chí và hội thảo chuyên ngành Y.

Nguyên tắc thứ hai:

Khi đi khám bệnh bất kỳ ở đâu, người bệnh cần có 1 câu hỏi phải hỏi: “Bệnh của tôi do nguyên nhân gì?” Vì chỉ có thầy thuốc giỏi mới điều trị nguyên nhân bệnh, còn lại những thầy thuốc kém hiểu biết chỉ biết điều trị hậu quả – hay còn gọi là chữa triệu chứng – của bệnh.

 Nguyên tắc thứ ba:

Đừng bao giờ tin những gì mình tìm kiếm trên mạng internet rồi tự suy diễn, tự làm bác sĩ cho mình và gia đình mình. Vì như thế chỉ làm hại chính mình và gia đình mình. Hãy cứ nghĩ, nếu bản thân bạn đủ khả năng được các trường Y nhận vào học thì các bạn đã trở thành bác sĩ, chưa kể các bác sĩ đã được đào tạo chính quy một thời gian dài về bộ máy tinh vi nhất của quả đất – con người – bình thường và bất thường từ tế bào đến bao nhiêu rối loạn khác về cả thể chất lẫn tinh thần, nhưng chưa chắc họ đã giỏi, thì các bạn chỉ vài cú enter với google, không có kiến thức căn bản về y khoa, thì các bạn như người điếc không sợ súng và tự hại mình thôi.

Nguyên tác thứ tư:

Đừng bao giờ tin những quảng cáo về các loại thức ăn, thức uống bổ, giúp chữa bệnh này hay bệnh khác – Ví dụ, sữa chống loãng xương, thực phẩm chứ năng, thức uống collagen, v.v… – chỉ là những trò kinh doanh kiểu đa cấp để kiếm lãi. Loãng xương là một trong những tiến trình của một quá trình lão hóa của bất kỳ động vật nào được diễn ra ở mức độ phân tử sinh học, tiến trình này cho tới nay, y học vẫn còn mò mẫm và bất lực.

 Nguyên tác thứ năm:

Ăn uống và làm việc là thuốc. Ăn uống và làm việc đúng thì không hoặc ít bệnh tật. Ăn uống và làm việc sai là tự đưa mình vào nơi khổ đau của bệnh tật, vì sức khỏe qúy hơn vàng.

Chúc cộng đồng người Việt sức khõe dồi dào , khõe mạnh , hạnh phúc và phồn vinh !
Dr Hồ Hãi /Dr Trinh Kim

Con gì thế …?

Con gì thế …?

Phim chỉ 5’30 và bài thơ được tác giả làm dựa trên cảm xúc sau khi xem xong phim , được ghi lại bên dưới của màn ảnh nhân ngày lễ cha.

                                              

httpv://www.youtube.com/watch?v=mNK6h1dfy2o

 

Con gì thế …?                          

 

Ghi lại một vài cảm xúc sau khi xem phim ngắn trên :


CON GÌ THẾ ?

Trên băng ghế người thanh niên đọc báo
Cạnh cha già dưới bóng mát cây xanh
Chú sẻ con bay đến hót trên cành
Cha liền hỏi đó là con gì thế ?

Con vội đáp “ấy là con chim sẻ”
Nhìn chú chim, cha lại hỏi người con
Nén bực mình, âm giọng khó chịu hơn
“Tôi đã bảo với cha là chim sẻ !”

Nghe tiếng động, chim bay cao thật lẹ
Hướng theo chim, tay che mắt nhìn xa
Giọng trầm trầm cha lại hỏi lần ba
Cũng như trước “đó là con gì thế ?”

“Con chim sẻ, Cha à, con chim sẻ !”
Nhìn cha già, với đôi mắt đứng tròng
Và tuông ra những bực bội trong lòng
Dằn từng chữ, hét to “con… chim… sẻ”

Cha lại hỏi lần thứ tư “gì thế ?”
Con hét lên nghe lớn tiếng nặng lời
“Ông đang làm gì vậy? hả Ông ơi !”
“Tôi đã nói bao nhiêu lần rồi nhé”

“Là chim sẻ, đó là con chim sẻ”
“Có biết không? sao cứ muốn hỏi hoài?”
Cha đứng lên ra dấu chờ chút thôi!
rồi cất bước. Con hỏi: “đi đâu thế?”

Vào nhà lấy đem ra trang nhật ký
Trao vào tay, bảo đọc lớn nghe con!
Nghe lời cha, cất giọng đọc trầm buồn
Từng câu chữ từng cảm thương vời vợi !

“Vài ngày nữa con trai đầy ba tuổi
Hai cha con ngồi ghế đá công viên
Một chú chim đang nhảy nhót cạnh bên
Con lên tiếng hỏi tôi “con gì thế?”

Nghe con hỏi, tôi trả lời “chim sẻ”
Hăm mốt lần, con vẫn hỏi một câu
Hăm mốt lần, “là chim sẻ” giống nhau
Tôi ôm nó mỗi lần nghe con hỏi

Cứ như thế, bên trả lời bên hỏi
Cứ lập đi lập lại mãi không ngừng
Niềm yêu thương thay vì phải nổi khùng
Với đứa bé đầy vô tư tuổi nhỏ. “

Tình phụ tử vẫn cao như thế đó
Mới biết đời nước mắt vẫn chảy xuôi
Trả cho cha, cao lắm bốn lần thôi
Lòng hậm hực, đã buông lời bất mãn

Công nuôi dưỡng, cha cho con vô hạn
Hăm mốt lần, lòng tràn ngập thương yêu
Cho thì nhiều, khi nhận chẳng bao nhiêu
Cũng vui vẻ! Ôi lòng cha cao quý!

Vòng tay siết, ôm cha mắt ngấn lệ
Đôi môi này xin gửi một nụ hôn
Trong thâm tâm lòng cảm xúc vô vàn
Nay đã hiểu lòng cha như núi Thái.

Con xin nguyện nhớ ơn cha mãi mãi !

10 lý do chịu đau khổ

10 lý do chịu đau khổ

Horatio G. Spafford là một luật sư giỏi ở Chicago hồi thập niên 1800 và là bạn của nhà truyền giáo Dwight L. Moody.  Luật sư Spafford được kính trọng và tốt lành, nhưng ông vẫn không tránh khỏi những lúc khổ đau.

Trước hết, ông mất đứa con trai vì chứng ban đỏ (scarlet fever).  Rồi vốn đầu tư làm ăn cũng bị thua lỗ.  Không lâu sau đó, 4 cô con gái của ông chết trong một vụ đắm tàu ở Đại Tây Dương, chỉ còn bà vợ Anna của ông sống sót nhờ bám vào chiếc phao rồi được cứu.

 Tại sao bi kịch xảy ra với người tốt?  Luật sư Spafford không thể hiểu, nhưng rồi ông vẫn vững tin vào quyền năng của Thiên Chúa.  Mọi người có thể tôn vinh Thiên Chúa ngay cả trong những lúc đen tối nhất của cuộc đời.  Theo Kinh Thánh, đây là 10 lý do để chúng ta chịu đau khổ.

  1. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta phạm tội.  Chẳng có ai công chính (Rm 3:10), nghĩa là ai cũng là tội nhân (Rm 3:23). Những người không có đức tin thì sống biệt lập với Chúa, còn những người có đức tin thì trải nghiệm từng khoảnh khắc, từng ngày, từng mùa… về niềm tin vào Thiên Chúa. Quy luật tâm linh được tạo ra để triệt tiêu tội lỗi trong đời sống của tín hữu, quy luật này nghiêm khắc, kể cả cái chết: “Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng có lắm người đã chết.  Giả như chúng ta tự xét mình, thì chúng ta đã không bị xét xử.  Nhưng khi Chúa xét xử là Người sửa dạy chúng ta, để chúng ta khỏi bị kết án cùng với thế gian” (1 Cr 11:29-32).
  2. Chúng ta chịu đau khổ vì người khác phạm tội.  Vợ chồng và con cái chịu đau khổ vì bị lạm dụng.  Công dân chịu đau khổ vì chính quyền tham những.  Satan xúi giục vua Đa-vít thống kê dân số Ít-ra-en, và có 470.000 người chịu hậu quả (2 Mcb 10:20).  Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết không phải vì lỗi của Ngài mà vì tội lỗi của nhân loại.
  3. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta sống trong thế giới tội lỗi.  Tai nạn và tai họa xảy ra, mỗi năm có hàng triệu người chết. Thánh Phaolô nói rằng “muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8:22).  Đó là hậu quả của tội lỗi.
  1. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta được tự do chọn lựa.  Quyền năng Thiên Chúa và khả năng của con người là hai sự thật trong Kinh Thánh.  Chúng ta không là robot, chúng ta có thể chọn lựa vì Thiên Chúa cho chúng ta quyền tự do.  Đôi khi sự chọn lựa của chúng ta gây đau khổ – cho mình và cho người khác.  Randy Alcorn viết: “Nếu Thiên Chúa tước hết vũ khí và ngăn chặn các tài xế say xỉn, thế giới này sẽ không là thế giới thật để con người chọn lựa…  Trong một thế giới như vậy, người ta sẽ chết mà không có nhu cầu, chỉ thấy mình ở Địa ngục”.
  2.   Chúng ta chịu đau khổ vì sự sống đời đời.  Thế giới này không là nhà của chúng ta, chúng ta chỉ là khách vãng lai.  Chúng ta là công dân Nước Trời.  Thánh Phaolô nói: “Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất” (Dt 11:13).  Chính đau khổ ngăn cản chúng ta bám víu vào thế gian này, vì thế gian sẽ qua đi.
  3. Chúng ta chịu đau khổ để không gặp điều tệ hại hơn.  Đau khổ làm cho chúng ta tập trung vào nguyên nhân, để cố gắng sửa đổi trước khi tệ hại hơn.  Cơn sốt dẫn chúng ta tới bác sĩ, tại đây chúng ta được chẩn đoán và chữa trị.  Ở mức lớn hơn, đau khổ cho chúng ta biết có gì đó bất ổn, và dẫn chúng ta tới Chúa Giêsu.  Bóng tối, đau khổ, cô đơn, lo buồn…  Mọi thứ đó giúp chúng ta nắm bắt thực tế cuộc sống, giúp chúng ta cần đến Chúa.
  1. Chúng ta chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô và nên giống Ngài.  Thánh Phaolô nói: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11).  Nhờ kinh nghiệm đau khổ mà chúng ta có thể an ủi người khác khi họ chịu đau khổ.  Khi chúng ta chịu đau khổ là chúng ta được nên giống Đức Kitô.  Thánh Phaolô phân tích: “Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2 Cr 4:17).
  2. Chúng ta chịu đau khổ để tôn vinh Thiên Chúa.  Chúa Giêsu động viên chúng ta nếu chúng ta chịu đau khổ vì danh Ngài: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5:10-11).  Ngài cảnh báo rằng thế gian sẽ ghét chúng ta vì họ đã ghét Ngài trước (Ga 15:18).  Trong thư gởi giáo đoàn Do Thái, chương 11, có người nhờ đức tin mà được chúc lành bằng của cải và thành công, có người lại được chúc lành bằng đau khổ và cái chết.  Thiên Chúa không phân loại các anh hùng đức tin này tùy trường hợp của họ, Ngài chỉ tôn vinh họ vì vững mạnh đức tin.  Nếu các Kitô hữu có cuộc sống thoải mái thì sẽ làm cho Phúc Âm hấp dẫn vì các lý do sai lệch.
  3. Chúng ta chịu đau khổ để trưởng thành tâm linh. Chúa Giêsu là Đấng hoàn hảo, vậy mà Ngài còn phải chịu đau khổ để học được đức vâng phục.  Thánh Phaolô cho biết: “Nhờ Chúa, tôi rất vui mừng vì cuối cùng thấy tình cảm của anh em đối với tôi lại thắm thiết.  Tình cảm đó vẫn sống động, nhưng anh em chỉ thiếu dịp tỏ ra.  Không phải vì thiếu thốn mà tôi nói thế, bởi lẽ tôi đã học sống tự lập trong bất cứ hoàn cảnh nào.  Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được.  Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả.  Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4:10-13).  Thánh Phaolô xác định: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại” (2 Cr 12).
  1. Chúng ta chịu đau khổ để hy vọng vinh quang Nước Trời.  Kh 21:4 nói: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.  Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.”  Thánh Phaolô nói: “Tôi nghĩ rằng những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8:18).

 Có nhiều lý do để chúng ta chịu đau khổ, đôi khi khó nhận biết chính xác.   Như trường hợp Thánh Gióp, ông không bao giờ biết việc đánh cược của Satan với Thiên Chúa.  Nhưng đây là sự thật:

  • Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi đau khổ của chúng ta.
  • Thiên Chúa vẫn hiện hữu ở bên chúng ta khi chúng ta gặp đau khổ.
  • Thiên Chúa luôn hành động với chúng ta khi chúng ta gặp đau khổ.
  • Nếu Thiên Chúa muốn chúng ta biết lý do, Ngài sẽ nói với chúng ta (qua Kinh Thánh hoặc cách nào đó).
  • Thiên Chúa tác động qua cái ác và đau khổ để sinh ra điều tốt, loại bỏ điều xấu mà Satan và kẻ xấu có thể làm cho chúng ta.

Ngày nào cũng có đau khổ, nhưng hãy nghĩ về hạnh phúc vĩnh hằng ở Nước Trời mai sau.  Randy Alcorn viết: “Số phận của chúng ta không lệ thuộc vào những người kiện cáo, hoặc những chính trị gia, luật sư, giáo viên, huấn luyện viên, sĩ quan quân đội, hoặc chủ nhân.  Họ có thể chống lại chúng ta – và Thiên Chúa hoàn toàn có thể chuyển những điều xấu thành điều tốt nhất cho chúng ta”.

Trầm Thiên Thu 

Anh chi Thu & Mai goi

(chuyển ngữ từ 

OnceDelivered.net)

THƯ NGỎ GỬI NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN

From facebook: Hoa Kim Ngo with Sơn Long and 17 others

THƯ NGỎ GỬI NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN

Hỡi những cộng sản đã đi theo đảng một cách chân thành, vì coi đó là lý tưởng cao đẹp, xin quý vị nên nghĩ lại, xem tổ chức mà quý vị đang đứng trong hàng ngũ liệu có và còn xứng đáng là một chính đảng phục vụ đất nước dân tộc hay không?

Ngay sau khi ông Nguyễn Đức Chung ký bản cam kết, nhiều luật sư đã phân tích sự lừa đảo đó, bởi lẽ đơn giản là ông ta không có thẩm quyền đại diện và thay mặt cơ quan tố tụng cam kết không khởi tố vụ án Đồng Tâm.

Nhiều người, và rất nhiều người, đã cả tin đến mức phê phán các luật sư, rằng kết quả đạt được là tốt rồi, không nên quá nghi ngờ “thiện chí” của giới lãnh đạo Hà Nội, và rằng người dân Đồng Tâm đã làm hết sức của mình, không nên đòi hỏi hơn nữa. Tất nhiên, chúng tôi hiểu cảm xúc trung thực đó.

Bây giờ mọi người đã thấy rõ, hệ thống tuyên truyền của nhà cầm quyền đang lập luận rằng ông Chung không có thẩm quyền cam kết như thế, và cùng lắm ông chỉ hứa không khởi tố “toàn thể người dân Đồng Tâm”, chứ có cam kết không khởi tố một cá nhân nào đâu (!?).

Ông Chung thậm chí còn vu cáo người dân Đồng Tâm ép buộc ông ký cam kết, và vì tránh cảnh người dân phải đổ máu lúc đó, nên ông đành làm như thế. Cam kết trong khi bị ép buộc nên không có giá trị pháp lý (!).

Nói cách khác, họ chẻ chữ ra để lấp liếm. Tất nhiên, lấp liếm thì dễ thôi, nhưng hành động lật lọng và lừa đảo không thể che giấu ai. Lật lọng và lừa đảo là hai mặt của một đồng xu mang hình hài cộng sản.

Nếu ông Chung có thẩm quyền cam kết, thì rõ ràng bây giờ nhà cầm quyền đang lật lọng. Nếu ông Chung không có thẩm quyền mà vẫn cam kết, thậm chí khôn lỏi đến mức chơi chữ để lấp liếm, thì đó là gì nếu không phải lừa đảo?

Lật lọng và lừa đảo là bản chất của mọi chế độ cộng sản từ khi chúng đoạt được quyền bính trên toàn thế giới vào năm 1917 ở nước Nga và sau đó lan rộng trên phạm vi quốc tế. Dù cộng sản đã sụp đổ trên toàn cầu nhiều thập kỷ trước, cặn bã của nó vẫn còn đọng lại ở Trung Quốc và Việt Nam.

Do đó, hỡi những người cộng sản Việt Nam thành tâm, quý vị nghĩ gì về tổ chức mà mình đang gửi gắm niềm tin và hy vọng? Người dân Đồng Tâm là những dân quê chân chất, lam lũ bên mảnh đất tổ tiên để lại, liệu đủ sức chống chọi sự lật lọng và lừa đảo tinh vi một cách có hệ thống như thế không?

Người dân Đồng Tâm mới chính là đồng bào yếu thế của quý vị trong cộng đồng dân tộc suốt hàng ngàn năm lịch sử, chứ không chỉ có những kẻ trong một tổ chức mới hình thành từ vài chục năm qua bởi sự vay mượn một tư tưởng ngoại lai xa lạ.

Chế độ mà quý vị tưởng còn chia sẻ chung lý tưởng ấy thật ra đã lộ nguyên hình thành một băng đảng chủ trương lấy cướp bóc làm mục đích sinh tồn, lấy dối trá và bạo lực làm phương tiện.. Chế độ đó đang hoảng loạn đến mức phải bảo toàn quyền thống trị độc tôn của mình mà không ngần ngại bộc lộ rõ bản chất lật lọng và lừa đảo của nó.

Vậy, xin hãy bình tâm suy nghĩ và từ bỏ băng đảng cướp bóc đó. Thời gian vẫn còn kịp cho những ai thành tâm yêu nước, và dân tộc ta luôn bao dung đối với những ai thực tâm xem lợi ích tổ quốc vượt trên tất cả.

Việt Nam, ngày 14/6/2017,

Đồng Chủ tịch Hội CTNLT:

Bs. Nguyễn Đan Quế, Lm. Phan Văn Lợi

Khủng hoảng niềm tin’ ở Việt Nam, đâu là gốc rễ?

Khủng hoảng niềm tin’ ở Việt Nam, đâu là gốc rễ?

Một cô gái người châu Á đưa cha mẹ đến tham quan một thắng cảnh ở Manhattan. Sau khi mua vé vào rồi, cô mới chợt nghĩ ra rằng người già có thể được ưu đãi nên vội vàng quay lại hỏi nhân viên. Người bán vé là một cô gái trẻ tuổi, nghe thấy câu hỏi đó liền nói lời xin lỗi, và lấy khoản tiền ưu đãi gửi lại. Điều khiến du khách này ngạc nhiên là, cô gái người Mỹ cũng không cần xem xét giấy tờ chứng nhận, thậm chí không đi nhìn xem cha mẹ cô có đúng là người già hay chưa (người hơn 62 tuổi mới được ưu đãi). Điều này khiến chúng ta thầm hiểu rằng: “Đây đúng là làm theo nguyên tắc “tin người”.

Thật ra, gần như ở tất cả các nơi công cộng, nếu có ưu đãi giảm giá cho người già và trẻ nhỏ thì đều không cần xem giấy tờ chứng nhận. Họ chỉ cần lời nói là sẽ tin mà không sợ “người già nhưng nhìn rất trẻ” và “trẻ con nhưng nhìn rất cao lớn”.

Sự thành tín trong xã hội Mỹ

(ảnh: Ariel Skelley/Corbis)

Người Mỹ với nhau họ rất “dễ tin”, hơn nữa ở bất kể cửa hàng kinh doanh lớn nhỏ nào đều đặt danh tiếng lên trên hết. Khi mua đồ ở cửa hàng, ngoại trừ là đồ ăn và một số mặt hàng đặc biệt thì tất cả đều có thể trả lại trong một thời gian nhất định và được hoàn tiền đầy đủ. Ví dụ, mua đồ điện tử, quần áo, giày dép hoặc là các thương phẩm khác… Về nhà dùng một lát, cảm thấy không tốt, cầm lại cửa hàng, đều cho trả lại.

Tuy rằng cuộc sống ở Mỹ không hoàn toàn là màu hồng, cũng có những phần tử lừa đảo và trái pháp luật đủ loại, nhưng nói chung, những ai nghe các câu chuyện trên hẳn sẽ cảm thấy quả là “chuyện lạ” đối với người Việt Nam.

Người Việt đang phải sống dưới quá nhiều áp lực

Sáng ngày 09/06/2017, tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XIV, Đại biểu Đặng Thuần Phong (Bến Tre) nói trước Quốc hội về 6 điều bất an mà nhân dân luôn bức xúc như tham nhũng, lãng phí, thương mại hóa quan hệ xã hội, tài nguyên cạn kiệt và vấn đề an toàn sống… “Mọi thứ đều do người Việt hại người Việt và từng bước biến sự vô cảm thành vấn đề đạo đức ứng xử đạo giữa người với người.”

“Khủng hoảng niềm tin” là hiện tượng đang thực sự xảy ra trong xã hội chúng ta, ở trên mọi khía cạnh cuộc sống của người dân từ thành thị cho tới nông thôn. Dù sống ở đâu người dân đều phải đối mặt với thực trạng với “thực phẩm bẩn”, nguồn nước bị ô nhiễm bởi nước thải công nghiệp, an toàn giao thông… đang vượt ngoài sự kiểm soát của các cơ quan chức năng trong một thời gian kéo dài. Tới những vụ việc nổi cộm gần đây như Formosa Hà tĩnh, tranh chấp đất tại xã Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội; rồi vụ việc đau lòng “8 người chết khi chạy thận nhân tạo ở Hoà Bình”…

(ảnh: Facebook/ Ngô Bá Lục)
‘Khủng hoảng niềm tin’ ở Việt Nam, đâu là gốc rễ? (ảnh: Facebook/ Ngô Bá Lục)

Theo học thuyết Maslow, nhu cầu thiết yếu nhất của con người chính là thức ăn, nước uống, và sự an toàn. Vậy mà người dân trong xã hội Việt Nam hôm nay đang sống trong trạng thái thường xuyên phải lo lắng về sự an toàn vệ sinh thực phẩm, nguồn nước, môi trường và các dịch vụ y tế mà họ đang sử dụng hằng ngày… Có câu nói: “Mất niềm tin là mất tất cả!” Điều tệ hại nhất là khi con người ta phải sống trong cảm giác không còn biết tin ai, tin vào cái gì, đã tạo nên sự bất an và căng thẳng tâm lý kéo dài, trực tiếp ảnh hưởng tới sức khoẻ tinh thần và chất lượng cuộc sống.

Thống kê cho thấy Việt Nam hiện có khoảng 15% dân số đang mắc 1 trong 10 loại bệnh tâm lý, tâm thần thường gặp như: trầm cảm, lo âu, rối loạn hành vi. Đặc biệt trong số các bệnh nhân có dấu hiệu tâm thần phải vào viện khám và điều trị, thì có tới hơn 45% ở độ tuổi dưới 30. Một trong những nguyên nhân ít được thống kê là các vấn đề xã hội: bất mãn về chính sách kinh tế xã hội, bất lực trong việc đấu tranh đòi công lý, công bằng. Sự khủng hoảng niềm tin vào giá trị sống và hiện tượng xuống dốc của đạo đức xã hội dẫn đến mâu thuẫn trong cuộc sống gia tăng, tâm lý, tinh thần nhiều người bị khủng hoảng theo, làm gia tăng bệnh tâm thần, trầm cảm…

Nhiều bài viết đã được đăng tải, xem “khủng hoảng niềm tin” như là một vấn đề nóng trong xã hội. Tuy nhiên các bài viết chủ yếu phản ánh các biểu hiện của “khủng hoảng niềm tin” trên mọi lĩnh vực xã hội (giáo dục, y tế, môi trường, giao thông,..) và tập trung vào các nguyên nhân bề mặt như sự bất cập của các chính sách kinh tế xã hội, sự bất lực trong việc đấu tranh đòi công lý, công bằng, và tham nhũng, sự tha hoá lối sống ở các cấp… Trên thực tế, “khủng hoảng niềm tin” còn có những nguyên nhân sâu xa hơn, gốc rễ hơn xuất phát từ trong tư tưởng của con người trong xã hội hôm nay.

Đâu là gốc rễ?

Bản chất của niềm tin là những giá trị được hình thành trên nền tảng văn hoá và đạo đức của một cá nhân. Con người phân biệt đúng và sai, tốt và xấu, thiện và ác dựa trên các giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức của mình. Mà các giá trị này lại thường được quyết định bởi tín ngưỡng.

Người Mỹ rất thành tín là vì họ bảo vệ tốt tự do tín ngưỡng. Ở một cường quốc về công nghệ như Mỹ, chính phủ và người dân vẫn không hề bớt niềm tin vào tín ngưỡng tâm linh. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy, có 76% tổng số người dân Mỹ theo Kitô giáo, 1% theo Do Thái giáo và 1% theo Hồi giáo, tổng cộng là gần 80% người có tôn giáo. Theo một cuộc khảo sát khác, 40% nói rằng họ tham dự các buổi lễ gần như mỗi tuần, và 58% nói rằng họ cầu nguyện ít nhất 1 lần mỗi tuần. Đó là một tỷ lệ khiến người ta kinh ngạc tại một quốc gia phát triển như Mỹ. Đa số người Mỹ cho biết tôn giáo giữ một vai trò “rất quan trọng” trong cuộc sống của mình.

Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên thệ nhậm chức trong khi vợ ông, Đệ nhất phu nhân Melania Trump đang giữ quyển Kinh Thánh

Tờ Đô la Mỹ cũng có in câu: “In God We Trust” (Tạm dịch: Chúng ta tin vào Chúa). Tại sao một siêu cường kinh tế và quân sự bậc nhất thế giới lại chọn in câu nói thể hiện “niềm tin vào một đấng toàn năng nằm ngoài sự hiểu biết của khoa học” trên đồng tiền của mình chứ không phải là in những khẩu hiệu trung thành với Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hòa?

Tín ngưỡng chính thống có đặc tính ổn định. Giê-su nói “Dù cho Trời đất phải bỏ đi, lời của ta không thể bỏ đi”, người phương Đông cũng có câu “Thiên bất biến, Đạo diệc bất biến” (Trời không đổi, Đạo cũng không đổi). Do đó những người có tín ngưỡng chính giáo sẽ phán đoán đúng sai theo kinh điển của nó, nên tiêu chuẩn thị phi này là ổn định, mang tới sự ổn định cho xã hội.

Sau khi Phật giáo truyền nhập vào Việt Nam, theo sự lưu truyền trong dân gian người Việt tin tưởng rằng có Thiên đường, Địa ngục và luân hồi chuyển thế, thiện ác hữu báo. Quan niệm và đạo đức luân lý này kiên trì hình thành nên một cơ sở giá trị của cộng đồng, trở thành cơ sở của văn hóa truyền thống.

Lấy một ví dụ, người Việt xem ngày 23 tháng Chạp là “hết năm cũ”, là ngày Táo Quân lên trời. Nhân gian cho rằng Táo Quân giám sát nhất cử nhất động một gia đình trong một năm, đến ngày 23 tháng Chạp phải lên thiên đình để báo cáo. Hoạt động này là một kiểu biểu đạt “trên đầu ba thước có Thần linh”. Do tin tưởng vào tác dụng giám sát của Táo Quân, mọi người tự nhiên sẽ kiềm chế hành vi của bản thân mình.

(ảnh minh họa, nguồn: Facebook)
(ảnh minh họa, nguồn: Facebook)

“Dường như những chính sách về tôn giáo nghiêm trọng và sai lầm trước đây mà cả hiện nay nữa đã tạo ra một quá trình sa mạc hóa về tâm linh ở Việt Nam, để giờ đây tâm hồn của người Việt đã biến thành một bãi hoang có thể chấp nhận các loại bụi gai xương rồng và không thể trồng được loại cây có hoa thơm, quả ngọt,” ông Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viện nghiên cứu tôn giáo, từng trả lời phỏng vấn với VietnamNet.

Nếu không còn tin tưởng “trên đầu ba thước có Thần linh”, cũng chính là không còn ước thúc về đạo đức, không có ước thúc về đạo đức, ước thúc về pháp luật cũng chỉ có thể là hữu danh vô thực, khi không có ai giám sát, người ta vẫn sẽ làm điều xấu, vì để được mục đích mà có thể không từ thủ đoạn. Khi không tin vào ý nghĩa nhân sinh, không tin làm việc xấu sẽ có báo ứng, thì người ta làm việc gì cũng đều không tính đến hậu quả, việc xấu gì cũng dám làm.

Có thể có người nghĩ rằng vẫn có những chính sách khôi phục văn hóa tín ngưỡng diễn ra trên khắp cả nước, nhưng thực chất đó chỉ là khôi phục nghi thức, khôi phục vỏ bọc tín ngưỡng mà thôi. Ngày nay, người ta đến với lễ hội mang theo đủ loại tâm thái, đến vì tò mò, vì cầu danh, vì giải nạn, vì phát tài, vì tình duyên… chứ không còn có cái tâm kính ngưỡng như trước nữa. Người ta đi lễ mà không hiểu ý nghĩa của lễ hội là gì, cần phải ứng xử ra sao, có người còn không hiểu đền thờ ai, thậm chí còn dám dúi thẳng tiền vào tay tượng Phật, nhét vào miệng Phật, vì e rằng không làm thế thì sẽ không “thiêng”!? Bản chất của vấn đề ở đây là không thực sự tín Thần.

Cũng cần nói rõ, trong xã hội thông thường sẽ có người tín ngưỡng hữu Thần và vô Thần hoàn toàn có thể cùng chung sống hòa bình, đó là sự lựa chọn tự do không cần bàn cãi. Nhưng khi cưỡng chế nhồi nhét Vô Thần luận trong toàn xã hội, đàn áp tín ngưỡng vào Thần làm mất đi tín ngưỡng của cả một xã hội, tất nhiên sẽ khiến hệ thống giá trị xã hội truyền thống mất đi chỗ dựa, từ đó dẫn tới toàn xã hội trượt xuống vũng bùn của chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa túng dục.

Nếu không là một phần của giải pháp, đừng trở thành một phần của vấn đề

Khôi phục niềm tin của con người trong xã hội không thể chỉ trông chờ vào sự thay đổi chính sách hay luật pháp. Rất nhiều người có thể dễ dàng chỉ trích những việc sai của người khác, nhưng cũng lại dễ dãi và hành xử tương tự khi bản thân ở trong hoàn cảnh đưa đẩy, bởi chính bản thân họ cũng đang sa vào vũng lầy khi đạo đức toàn xã hội đi xuống. “Người ta lấy phong bì 10 triệu, tôi chỉ lấy 2 triệu, vậy là tôi đã tốt hơn nhiều lắm rồi đó!” chính là kiểu tư duy như thế này.

Xét trên góc độ vĩ mô toàn xã hội, sẽ phải mất cả thế hệ, hoặc nhiều thế hệ mới có thể khôi phục lại chính tín và sự thành tín đã bị mất. Để làm được như thế, đầu tiên cần hiểu rõ về tín ngưỡng và tự do tín ngưỡng, cùng các nền tảng đạo đức mang tới sự ổn định và phúc báo cho cá nhân, gia đình và xã hội.

Mahatma Gandhi có câu nói nổi tiếng: “Hãy trở thành chính sự thay đổi mà bạn muốn nhìn thấy trên thế giới này”. Mỗi con người là một phần của xã hội, vì thế, thay đổi bản thân cũng chính là đang thay đổi xã hội, và nó lan tỏa nhanh hơn bạn nghĩ. Có thể hiện tại chúng ta chưa thể lựa chọn cho một thay đổi to lớn và toàn diện hơn trong xã hội, nhưng chúng ta có thể thay đổi ngay bản thân mình và lan tỏa những điều tích cực ngay từ bây giờ, để sẵn sàng khi một ngày nào đó lịch sử đặt quyền lựa chọn vào tay chúng ta.

(ảnh: Tom Hoàng)
(ảnh: Tom Hoàng)

Sơn Vũ tổng hợp

Bạn là người Việt Nam.

From facebook: Hoa Kim Ngo and 2 others shared Pham Doan Trang‘s post.

Pham Doan Trang

 

Lúc còn nhỏ, chưa đi học, bạn sợ ma sợ quỷ, sợ bóng tối, sợ chú hàng xóm cứ hay trêu hay dọa bạn.

Đi học tiểu học, bạn sợ cô giáo.

Lên cấp III, bạn sợ thua kém bạn bè, sợ không nổi bật, không gây chú ý… và sợ thi trượt đại học.

Vào đại học rồi, bạn sợ thầy cô trù, sợ phòng giáo vụ, sợ thiếu tiền nhà tiền học, sợ thi lại.

Ra trường, bạn sợ thất nghiệp.

Có việc làm rồi, bạn sợ sếp.

Lấy chồng, bạn sợ béo, sợ xấu, chồng chán, chồng bỏ. Lấy vợ, bạn sợ kiếm không nhiều tiền bằng vợ, vợ khinh, vợ bỏ.

Đưa con đi học, bạn sợ trường gây khó khăn. Ra phường xin giấy tờ, bạn sợ cán bộ phường.

Đến cơ quan, bạn sợ cấp trên, sợ chị trưởng phòng, sợ luôn cả anh đồng nghiệp hay mách lẻo.

Ra đường, bạn sợ cảnh sát giao thông.

Về nhà, bạn sợ tay hàng xóm, “không biết nó làm cái gì mà suốt ngày thấy công an với dân phòng gác quanh nhà, bảo nó là phản động, chống phá nhà nước. Thôi cứ tránh cho lành”.

Lên mạng, bạn sợ vào các trang web “phản động”, sợ đọc facebook của “bọn phản động”, “bọn dân chủ”.

Có tuổi một chút, bạn sợ vào viện phải chạy chọt bác sĩ.

Có việc gì dính dáng đến pháp luật, bạn sợ công an đến run cầm cập. Thấy sự chướng tai gai mắt, bạn tặc lưỡi: “Nhịn cho nó xong đi. Hy sinh đời bố củng cố đời con”.

Con bạn hay phát biểu chính kiến “bất mãn”, “chống nhà nước”, bạn sợ xanh mắt, bắt nó phải im.

Cứ thế, cả đời bạn là những nỗi sợ. Mà không phải sợ những thế lực siêu nhiên nào như thiên tai, thần thánh, ma quỷ. Bạn toàn sợ người, mà lại là những người sống chung trong một đất nước, cùng một xã hội với bạn.

Cuộc đời có mấy chục năm thôi. Vài thập niên là hết đời. Và bạn cứ sống triền miên với những nỗi sợ như thế.

Bạn là người Việt Nam.

VNTB – Những “cháu ngoan Bác Hồ” trong Quốc Hội

VNTB – Những “cháu ngoan Bác Hồ” trong Quốc Hội

Nguyễn Tường Thụy (VNTB) Ngày 5/6/2017, tranh luận tại Quốc hội về thực phẩm bẩn, ông  Ngọ Duy Hiểu, đại biểu Hà Nội đề nghị phải lấy tinh thần chống Mỹ để “chiến đấu” với thực phẩm bẩn: “Cả dân tộc quyết tâm như một thời chúng ta đánh Mỹ để cứu dân tộc chúng ta tránh khỏi thực phẩm bẩn”

 
​Từ trái qua phải, từ trên xuống dưới: Các đại biểu quốc hội: Nguyễn Thị Kim Ngân, Hoàng Hữu Phước (khóa trước), Nguyễn Thị Xuân, Trịnh Ngọc Phương, Đỗ Văn Đương (khóa trước), Nguyễn Thị Quyết Tâm, Nguyễn Thị Thủy, Ngọ Duy Hiểu.

Lời phát biểu của ông gây nên rất nhiều lời đàm tiếu trong cư dân mạng. Có lẽ ông Hiểu muốn nói đến tinh thần quyết tâm, hăng hái, đoàn kết, hy sinh của thời kỳ chống Mỹ. Nhưng tinh thần chống Mỹ cũng có nhiều vấn đề phải bàn. Tinh thần ấy đã đem lại cái được duy nhất là đất nước không còn chia cắt, còn bản chất cuộc chiến tranh và hệ lụy của nó, 42 năm qua đã tốn khá nhiều bút mực của các học giả. Có thể tóm gọn rằng, tinh thần chống Mỹ đã làm hao người tốn của một cách khủng khiếp; một nửa nước giàu có thành nghèo đói, lạc hậu như nhau, xã hội hỗn loạn, lòng người ly tán và giờ đây tụt hậu so với thế giới hàng năm chục đến một vài trăm năm. Tinh thần ấy đã đuổi đi thêm một nền văn minh nhân loại.

Không thể không đặt câu hỏi tại sao, trong 4 quốc gia bị chia cắt có cộng sản cùng thống trị thì chỉ có Việt Nam dùng bạo lực để thống nhất đất nước còn 4 nước kia thì không. Trung Quốc chỉ hô hào trên miệng chứ không tấn công Đài Loan mặc dù họ cổ động hàng xóm làm chuyện đó. Trong thời kỳ quan hệ giữa hai đảng rạn nứt, mặc những bức điện mừng kỷ niệm thành lập đảng hay mừng quốc khánh TQ của VN kích đểu rằng chúng tôi luôn ủng hộ các đồng chí giải phóng Đài Loan, thu hồi lãnh thổ về một mối nhưng TQ vẫn để nguyên trạng cho đến tận bây giờ. Sau chiến tranh Triều Tiên 1950-1953, Bắc Triều Tiên cũng chỉ hung hăng đe dọa chứ không phát động chiến tranh thôn tính Hàn Quốc. Đông Đức cũng không phát động tinh thần chống Phương Tây đánh Tây Đức để đến năm 1989 nước Đức thống nhất một cách ngoạn mục. Không nước nào dám bắt chước Việt Nam, mặc dù họ vẫn cổ vũ, tuồn vũ khí, phương tiện chiến tranh cho VN như kiểu suỵt chó vào bụi rậm. Cho đến bây giờ, nhìn vào Việt Nam, họ thấy cái sự không dám của mình là đúng đắn.

Trở lại chuyện ông  Ngọ Duy Hiểu đề nghị phải lấy tinh thần chống Mỹ để “chiến đấu” với thực phẩm bẩn. Không hiểu tinh thần chống Mỹ có liên quan gì đến việc chống thực phẩm bẩn? Hẳn là ý ông Hiểu coi tấn công vào bọn làm hàng giả, hàng độc hại như đánh giặc. Thời buổi này mà ông còn cho rằng, chỉ cần hăng hái thì việc gì cũng làm được. Hẳn nhiều người đã biết đến câu “ngu dốt cộng nhiệt tình bằng phá hoại”. Chiến tranh khác hẳn với xây dựng đất nước, với việc tổ chức quản lý xã hội. Còn cái tinh thần chống Mỹ đem lại hệ lụy như thế nào thì như người viết vừa sơ giải.

Không riêng gì ông Ngọ Duy Hiểu, trước đó nhiều đại biểu quốc hội khác có những phát ngôn rất ngô nghê, nhảm nhí, nghe nó cứ ngồ ngộ, hay hay thế nào. Tuy thế, có thể thấy họ có sự toan tính riêng. Những phát ngôn đó đều không đứng về phía nhân dân mặc dù họ được coi là đại biểu của dân.

Năm 2011 ông nghị Hoàng Hữu Phước bỗng dung nổi tiếng về những lời phát biểu có vẻ văn hoa uốn éo nhưng khuynh tả của mình. Ông căm thù biểu tình, cho rằng biểu tình là chống lại chính phủ, là làm ô danh đất nước. Từ sự đột ngột nổi tiếng ấy, người ta tìm hiểu về ông, biết thêm nhiều chuyện trong đó có chuyện ông bắt chước Tô Tần hiến kế liên hoành cho Saddam Hussein, xin làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền cho hắn để công du thuyết phục các nước. Vì thế người ta nghi ngờ ông bị tâm thần.

Cũng năm 2011, cố vẽ một điểm sáng le lói cho bức tranh kinh tế ảm đạm, ông nghị Đỗ Văn Đương bày tỏ: “Tôi không nghĩ lạm phát ở nước ta cao nhất khu vực! Theo tôi phải xem lại chỗ này. Tôi đi các nước thấy giá tiêu dùng đắt đỏ, một đĩa rau muống xào ở Thượng Hải tới 200 nghìn đồng, nhưng ở Việt Nam chỉ mấy chục nghìn. Trong nước tôi đi chợ rau muống ở đô thị có thể 5.000 đồng/mớ, đi xuống vùng nông thôn chỉ 2.000, xuống nữa có khi rẻ hơn”.

Câu nói của ông được đề cử giải hoa Titan Arum (một loại hoa thối nhất thế giới, còn gọi là hoa xác chết) của một diễn đàn. Giải này dành cho các phát biểu củ chuối nhất và vớ vẩn nhất năm 2011.

Từ đó người ta gọi ông bằng cái tên thân thuộc và dân dã là “Nghị rau muống”.

Nguyễn Thị Quyết Tâm,  Phó Bí thư Thành ủy; Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thì thể hiện chất nghị nô của mình bằng câu nói con lãnh đạo làm lãnh đạo là hạnh phúc của dân tộc: “Nếu con em cán bộ lãnh đạo mà có sự trưởng thành và được các Đại hội Đảng tín nhiệm hoặc được tổ chức tín nhiệm giao những trọng trách quan trọng thì đó là điều hạnh phúc của dân tộc ta, của Đảng ta. Tôi nghĩ là vậy. Đó là sự kế thừa, giữ gìn và biết phát huy truyền thống đó để kế tục sự nghiệp của cha ông. Đó phải là điều hạnh phúc đối với dân tộc mình chứ?”

Mới đây, Nguyễn Thị Xuân, Phó Giám đốc công an tỉnh, đại biểu tỉnh Đắk Lắk đề nghị xử lý hình sự hành vi bôi nhọ lãnh đạo, mặc dù hành vi đó đã được điều chỉnh bởi điều 122 (tội vu khống) hoặc điều 258 (Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân). Có lẽ ý thị Xuân là động đến lãnh đạo cần phải qui định tội danh riêng, nặng hơn.

Khi làn sóng phản đối Nguyễn Thị Xuân chưa lên tới đỉnh thì tiếp theo đại biểu Nguyễn Thị Thủy (Bắc Kạn) cho rằng luật sư phải tố giác thân chủ: “nếu không tố cáo thân chủ thì luật sư sẽ bị khởi tố về tội “che giấu tội phạm” làm xôn xao công luận, vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của báo chí và đặc biệt là giới luật sư. Điều mai mỉa là Nguyễn Thị Xuân có hoc vị đến tiến sĩ về ngành luật.

Mới ngày hôm qua, 9/6 thôi, Ông Trịnh Ngọc Phương, ủy viên Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quốc hội, đại biểu Tây Ninh lại hăng hái không kém khi cho rằng người dân Đồng Tâm… đàn áp công an, chồng thêm độ cao của làn sóng phản đối những phát ngôn quái đản của đại biểu quốc hội: “Ý kiến của đại biểu Nhưỡng về việc cảnh sát áp đảo người dân trong vụ Đồng Tâm là sai sự thật, mà chính người dân Đồng Tâm mới là đàn áp lại nhóm người thực thi nhiệm vụ”.

Bệnh phát ngôn bừa bãi không loại trừ cả Chủ tịch Quốc hội. Ngay sau khi nhậm chức Chủ tịch Quốc hội 1 ngày, bà Nguyễn Thị Kim Ngân cho rằng biểu tình bảo vệ biển đảo của Tổ quốc gây ồn ào, kích động. Bà ta đặt câu hỏi họ đã làm gì cho đất nước rồi khẳng định “chưa làm gì cả”. Tuy nhiên, bà Ngân cũng chỉ là học trò người tiền nhiệm của bà – ông Nguyễn Sinh Hùng khi ông này chầy cối cho rằng dân bầu ra Quốc hội nên Quốc hội sai thì dân phải chịu: “Quốc hội là dân, dân quyết sai dân chịu chứ kỷ luật ai?

Những phát biểu ngô nghê, ấu trĩ, khuynh tả của các đại biểu quốc hội không chỉ có bấy nhiêu. Điều cần đặc biệt lưu ý là, về danh nghĩa, họ là đại biểu cho lợi ích của nhân dân. Tuy nhiên, những phát biểu ấy đã đi ngược lại lợi ích của nhân dân, tấn công vào nhân dân. Việc làm của họ không xuất phát tự lợi ích của nhân dân mà chỉ muốn nắm chặt bàn tay sắt, nhăm nhe bảo vệ đảng của họ (tỉ lệ đảng viên chiếm 95-96% Quốc hội).

Sự hăng hái thái quá của những đại biểu này có thể ví như những cháu ngoan Bác Hồ lớn tuổi. Nó khác một điều là những cháu ngoan Bác Hồ chưa hiểu biết gì về chính trị xã hội, người lớn bảo sao nghe vậy còn họ đã từng trải, có bằng cấp, bằng cao là đằng khác. Phát ngôn của họ có nguyên nhân từ sự ấu trĩ về chính trị về pháp luật hay vì tham vọng thăng tiến, muốn ghi điểm, muốn làm hài lòng lãnh đạo? Sự hăng hái ấy là sự hăng hái của kiểu “Hàng đầu rồi tiến đi đâu/ Đi đâu không biết hàng đầu cứ đi”. Nhưng rồi mà xem, ở xã hội này, những người như thế, ghế sẽ vững hơn, dễ thăng tiến hơn. Chả trách đất nước cứ lẹt đẹt mãi.

From facebook: Lang Văn

Hai tiếng ‘Việt Nam’


Một cuộc tuần hành vì nhân quyền cho Việt Nam của cộng đồng người Việt tại Canada. (Ảnh chụp từ Youtube Thu Tran)
Một cuộc tuần hành vì nhân quyền cho Việt Nam của cộng đồng người Việt tại Canada. (Ảnh chụp từ Youtube Thu Tran)

Từ khi chế độ Cộng Sản xâm nhập vào đất nước chúng ta, dân chúng thường đặt tên cho hai chế độ để phân biệt rõ ràng, một bên là Quốc Gia, một bên là Cộng Sản. Quốc gia phải được hiểu là quốc gia Việt Nam, nghìn đời từ cha ông để lại, còn Cộng Sản thì ai cũng hiểu là Cộng Sản Quốc Tế, đến từ cái đất nước Liên Xô xa xôi bên kia.

Không phải tự nhiên mà sau khi chia cắt đất nước, ở miền Nam, nhạc sĩ Hùng Lân đã ca tụng hai tiếng Việt Nam trong bản nhạc “Việt Nam, Minh Châu Trời Đông,” còn Phạm Duy thì dõng dạc cất cao hai tiếng “Việt Nam! Việt Nam!” với câu hát: Việt Nam Việt Nam nghe từ vào đời – Việt Nam hai câu nói trên vành môi Việt Nam, nước tôi. … Việt Nam!”

Với người quốc gia, tiếng nói đầu tiên của một người ngay lúc chào đời chính là tiếng gọi của đất nước, non sông, xã tắc, trong khi đối với người Cộng Sản ở miền Bắc tiếng gọi đầu tiên của đứa trẻ mới ra đời là Stalin! “Yêu biết mấy, nghe con tập nói. Tiếng đầu lòng con gọi Stalin.” Stalin không phải là một cái tên Việt Nam, Stalin cũng không phải là tên của tổ tiên, anh hùng Việt Nam. Chắc chắn đối với chế độ miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, cái tên Stalin phải đẹp đẽ, cao cả nghìn lần hơn hai tiếng Việt Nam, nếu không thì há gì, người ta lại đặt tiếng Stalin vào miệng một đứa trẻ mới tập nói bập bẹ, cũng không Cha, không Mẹ, mà cũng chẳng phải liên hệ gì với đất nước non sông!

Nhưng đó chính là nhiệm vụ của những cán bộ Cộng Sản quốc tế nhận lệnh từ Mạc Tư Khoa, quyết nhuộm đỏ Việt Nam.

Những người cho rằng mình yêu đất nước, ai cũng đem hai tiếng Việt Nam ra để vinh danh, ca tụng nói bao nhiêu điều tốt đẹp, để cuối cùng hãnh diện nói rằng: “Tôi là người Việt Nam!”

Cách đây mấy năm, báo Thanh Niên trong nước đặt câu hỏi với độc giả: “Người Việt thông minh, chăm chỉ và anh hùng, đánh thắng ba đế quốc sùng sỏ, thế bạn có hãnh diện là người Việt Nam không?”

Có những lúc chúng ta hãnh diện vì hai tiếng Việt Nam, nhưng cũng có những lúc chúng ta phải cúi đầu hổ thẹn vì hai tiếng Việt Nam.

Đi Mã Lai, đến Kuala Lumpur, khi người tài xế taxi biết bạn là người Việt Nam, anh ta khen Việt Nam bằng câu nói: “Con gái Việt Nam đẹp lắm!” Nhưng anh ta lại nói thêm “Con gái Việt Nam rẻ lắm!” Đâu còn gì danh dự tốt đẹp cho hai tiếng Việt Nam nữa.

Đến phi trường Sanghi, Singapore, các thiếu nữ Việt Nam được mời riêng vào phòng để kiểm tra, lý lịch, giấy tờ, tiền bạc mang theo, điều tra những người quen biết của họ ở đất này, chỉ vì cảnh sát Singapore nghĩ rằng các thiếu nữ này là món hàng “đứng đường” tối nay ở khu đèn đỏ Joo Chiat, hay Geylang. Nếu bạn cùng đến Sanghi một lần với những cô gái này, bạn có còn dõng dạc nói rằng: “Tôi là người Việt Nam” nữa hay không?

Giám Mục Ngô Quang Kiệt không phải là một người tầm thường tào lao, những phát biểu của ông không phải nói cho qua chuyện, ông có cái đau của người Việt Nam đi ra ngoại quốc mà không được kính trọng: “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế!”

Thế là bao nhiêu búa rìu dư luận chụp lên đầu vị Giám Mục “trung ngôn” này, nhưng sự thật vẫn là sự thật, chẳng qua là người ta thích nhắm mắt, bịt tai thôi.

Một phụ nữ ở Saigon kể chuyện với chúng tôi: “Năm 2008 vào dịp Tết Nguyên Ðán, tôi được con trai cho đi du lịch Doha (Qatar,) sẵn dịp công ty của con bảo lãnh qua chơi Dubai. Nhưng đến chiều về lại Doha thì bị giữ lại phi trường vì nghe nói có chuyện gì xảy ra ở một siêu thị mà có người Việt mình dính vô. Trong khi cả đoàn ‘check in’ thì riêng tôi bị giữ lại vì mang passport CHXHCN Việt Nam. Mang hộ chiếu Việt Nam đi nước ngoài buồn lắm ông ơi!”

Yêu hai tiếng Việt Nam, là người yêu nước, chúng ta phải làm sao để hai tiếng này vang lừng, chói lọi chứ không phải làm hoen ố nó, rồi kêu gào cho là người đời xuyên tạc, bất công.

Sau tháng 4-1975, Nhật Bản cũng tử tế hết lòng với Việt Nam, nhưng vì sao, về sau, trên nhiều diễn đàn của Nhật, người ta kêu gọi tẩy chay người Việt, đuổi hết người Việt về nước, cắt vĩnh viễn các khoản viện trợ cho Việt Nam. Có người so sánh viện trợ cho Việt Nam uổng hơn là đổ tiền vào… cống, bởi tiền thuế của họ đang được dùng để nuôi bọn “giòi bọ” ở Việt Nam. Một tập đoàn cung cấp dịch vụ của Nhật bị Việt Nam đòi hối lộ 15% để được trúng thầu các dự án dùng chính tiền viện trợ của Nhật tại Việt Nam; nhân viên, tiếp viên hàng không và phi công Vietnam Airlines, tổ chức đánh cắp hàng hóa trong các siêu thị Nhật để vận chuyển hàng gian về tiêu thụ tại Việt Nam; lãnh sự quán Việt Nam ở Nhật tại Osaka tổ chức bán giấy thông hành Việt Nam.

Như vậy, chính người Việt Nam để lại ấn tượng xấu xa về hai tiếng Việt Nam trong mắt người Nhật khi xuất ngoại sang đất nước họ.

Ở Nga, có đường dây buôn người đưa hàng nghìn phụ nữ Việt Nam vào các nhà chứa Nga, theo Tiến Sĩ Nguyễn Ðình Thắng: “Trong tất cả các trường hợp ở Nga này, thủ phạm là những người Việt được bao che bởi một số giới chức ở Tòa Ðại Sứ Việt Nam ở Nga, thậm chí họ thành Hiệp Hội May Dệt dưới sự bảo trợ của Tòa Ðại Sứ Việt Nam.”

Cảnh sát Nga vừa khám phá một xưởng may “đen” dưới lòng đất tại khu chợ Cherkizov ở thủ đô Moscow, bắt hằng trăm di dân lậu Việt Nam. Trong 80,000 người Việt ở Nga đã có 80% làm nghề buôn bán, phần lớn là chợ trời, mánh mung, nhưng toà Đại Sứ Việt Nam ở Nga chủ trương không biết, không nghe, không thấy, không nói!

Ông Trương Văn Món, Giám đốc Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa Chăm, kể chuyện ông từng ở Malaysia 3 năm, mỗi khi đến dịp lễ 2/9, toà Đại sứ Việt Nam tổ chức những bữa tiệc mời đại diện đại sứ quán các nước khác và người lao động Việt Nam ở nước ngoài tới dự, nhưng lần nào, đại diện Đại Sứ Quán Việt Nam tại đây phải chắp tay xin lỗi quan khách vì bị người Việt cướp hết đồ ăn trước giờ vào tiệc, và chuyện này năm nào cũng xảy ra như vậy!

Ông Đặng Xương Hùng lãnh sự Việt Nam ở Thụy Sỹ nói ông đã theo Đảng Cộng sản 30 năm, nhưng giờ đây có nhiều động lực khiến ông phải rời bỏ Đảng Cộng sản và xin tị nạn chính trị ở Thụy Sỹ. Ông nói Việt Nam đã sang đến thế kỷ XXI rồi mà vẫn còn chủ nghĩa Mác Lê-nin, vẫn còn tương tự như Trung Cộng, Bắc Hàn, Cuba thì ra nước ngoài thật ngượng.” Đó là lời nói của một người đại diện cho Việt Nam hôm nay!

Nói về dân chủ, nhân quyền, Việt Nam đứng thứ 177 trong số 198 quốc gia trên toàn cầu về tự do báo chí, là nhận định của Freedom House trong phúc trình thường niên công bố tại Newseum – Viện Bảo tàng Tin tức ở Washington DC hôm thứ 28/4/2017, năm 2015, Việt Nam xếp hạng thấp nhất về quyền lợi chính trị (hạng 7) và hạng 5 về tự do công dân, nhưng lúc nào chúng ta cũng hét lên hai tiếng Việt Nam- Việt Nam vào lỗ tai thiên hạ.

Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí yêu nước, khi bị lên đoạn đầu đài ở Yên Báy, đã đồng thanh hô vang :”Việt Nam muôn năm!” Thậm chí báo chí miền Bắc cũng đã nhét vào miệng Nguyễn Văn Trỗi “đánh Mỹ” tiếng hô “Việt Nam muôn năm!” không quên kèm theo tiếng “muôn năm” cho Hồ Chí Minh, tức là Hồ Tập Chương, cán bộ KGB được đào tạo ở Liên Xô.

Nhưng Việt Nam là Việt Nam nào để cả dân tộc Việt Nam ngẫng đầu hãnh diện? Việt Nam là Việt Nam nào để khi ra nước ngoài, con người phải cúi mặt mà đi?

Người Tàu Đài Loan vẫn không bao giờ nhận mình là người Trung Hoa lục địa, và tôi, hãnh diện là người Việt Nam. Ngày xưa tôi nhận tôi là Nam Việt Nam, và bây giờ là Việt Nam, nhưng tôi nhận tôi là người Việt Nam lưu vong, không phải Việt Nam trong danh từ kép “Việt Nam – Hồ Chí Minh” mà đứa con bất hiếu Phạm Tuyên đã lớn tiếng, rêu rao, lặp đi, lặp lại nhiều lần!

“ Thế giới xung quanh do chính thái độ bạn tạo ra.”

Trong  sách “Thay thái độ, đổi cuộc đời”

có câu chuyện như sau: tựa là

 “ Thế giới xung quanh do chính thái độ bạn tạo ra.”

Có một ngôi nhà đặc biệt được thiết kế hàng ngàn chiếc gương gắn trên các bức tường, chiếc hình tròn, chiếc hình vuông, to nhỏ khắp nơi.

Có một cậu bé tung tăng dạo chơi gần đó bước vào với tâm trạng vui tươi, háo hức miệng cười, mắt bừng sáng. Ngay lập tức, cả ngôi nhà phản ảnh cả ngàn nụ cười sinh động, lấp lánh vui tươi. Cậu bé cảm nhận một cảm xúc thật tuyệt vời. Cậu thầm nhủ: “ Thật tuyệt vời. Ta sẽ ghé lại thăm nơi này khi có dịp.”

Lần sau, cậu bé ấy quay lại ngôi nhà nhỏ lạ kỳ đó. Cậu mới gặp một nỗi buồn và cảm thấy chán nản, bi quan, u sầu. Vừa bước vào nhà, cậu thấy cả ngàn khuôn mặt , ánh mắt cũng chán nản, rầu rĩ  bao vây xung quanh. Cảm thấy bất lực trước ngoại cảnh ảm đạm, xám màu, cậu chợt gào lên với ánh mắt căm giận hòng thay đổi cảm xúc của mình và không gian chung quanh, và ngay lập tức bốn phía cậu là những ánh mắt căm giận, không hề thân thiện nhìn cậu cùng những tiếng gào thét vang vọng.! “ Thật kinh khủng. Ta không bao giờ trở lại đây một lần nào nữa.”

Bạn thấy đấy, thế giới sinh động xung quanh ta là những tấm gương vô hình. Chúng ta sẽ nhận lại cảm xúc từ chính thái độ, nội tâm và cách nhìn cuộc sống từng ngày mà chúng ta trao đi. Vui tươi , hy vọng tràn đầy niềm tin hay buồn chán, tuyệt vọng.- Rất đơn giản.- Tất cả đều bắt nguồn từ thái độ của chính mình.

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục
Gia đình có một người con tận hiến đời mình cho Chúa đã là quý, đàng này … gia đình có 7 mà lại hiến dâng đến 5. Phải chăng đó là quà tặng, là ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa ban cho gia đình ông bà cố Liêm – Mẫn.
 
Thiên Chúa vẽ đường thẳng bằng compa để rồi mối tình giữa chàng lính nhà quan gốc Huế lại gặp cô thôn nữ hiền lành đạo đức ở mảnh đất Quảng Ngãi dấu yêu.
 

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục

          Sinh ra trong gia đình quan Pháp làm về ngành đường sắt cũng có vai vế trong xã hội thời bấy giờ và vì công việc nên gia đình của anh chàng Phêrô Trương Đình Mẫn (sinh năm 1920) tiến vào Quãng Ngãi. Chả hiểu sao nơi mảnh đất Quảng Ngãi lại se duyên cho chị Matta Nguyễn Thị Liêm (sinh năm 1921). Ơn Chúa đã kết nối hai anh chị và rồi hoa quả sinh ra cho gia đình hai họ Trương – Nguyễn được tất cả 7 người con.

          Như đã nói, nghèo nhưng sạch, rách nhưng thơm và nhất là thụ hưởng từ truyền thống đạo đức gia đình để rồi sau khi lập gia đình, cô nàng Liêm thời bấy giờ vẫn chu toàn bổn phận của một người vợ, một người mẹ và thêm vào đó trọng trách của người nấu cơm cho cha Xứ họ Trà Câu. Lối sống đạo đức cứ ảnh hưởng và ăn dần vào đời sống của những đứa con tự khi nào không biết để rồi người con cả là nữ tu Matta Nguyễn Thị Đức tận hiến đời mình trong dòng Mến Thánh Giá Quy Nhơn.

“Chị mình đi tu chả lẽ mình không tu sao ?” Thế là Phêrô Trương Đình Tu và Giuse Trương Đình Hiền ngày ấy là hai cậu Lễ sinh của họ đạo Trà Câu – Đức Phổ (Quảng Ngãi) đã đi tu và sống thật hiền lành với 2 cái tên mà cha mẹ của 2 cậu đặt cho. Tu và Hiền đã vào Chủng Viện Quy Nhơn tu và sống thật hiền cho đến ngày nay dẫu đảm trách chức vụ chánh xứ, quản hạt và như cha Hiền hiện nay là Tổng Đại Diện giáo phận Quy Nhơn. Ai nào đó tiếp xúc với Cha Hiền sẽ nhận ra đúng là hiền với cái tên mà ông bà cố đã chọn.
 

a

Hai người anh đi tu làm cho hai người em cũng tò mò theo tới.

Người em út G.B. Trương Đình Hà năm nay cũng đã ngót nghét 57 tuổi đang làm chính xứ Thủ Lựu của giáo phận Bà Rịa thân thương. Trên cha Hà là người anh trầm tính nhưng không kém phần hài hước là Tôma Trương Đình Sơn.

Ai nào đó đã gặp Cha Sơn ắt hẳn sẽ được nghe nhiều câu chuyện tục nhưng lại thanh để góp vui cho đời. Chắc có lẽ Cha Trương Đình Sơn nhiễm máu của Cha già cố Giuse Trần Hữu Thanh (DCCT – đã về nhà Cha năm 2007 tại DCCT Thái Hà) để rồi thu thập những câu chuyện hài gửi gấm góp chút niềm vui.

Có lẽ, nếu nhắc đến Cha Toma Sơn mà không nhắc đến hành trình gần 10 năm dấn thân truyền giáo ở mảnh đất đầy gian khó Haiti.  

Sinh năm 1959, học đến lớp 6 trường làng, chú Tôma khăn gói quả mướp tìm hiểu ơn gọi tại DCCT Huế những năm 1970. Mùa hè đổ lửa 1972 đã đưa chú Sơn vào DCCT Thủ Đức cho đến ngày mất nhà mất đất.

Đường tu dù dài dù khó nhưng chú Sơn vẫn tiếp tục theo học Đại Học Sư Phạm ngành Pháp văn và vẫn giữ vững đường tu. Sau những năm tháng khó khăn, chú Sơn về giúp giáo xứ Xuân Thịnh (Vườn Ngô) những 5 năm. Thời điểm này, Cha Sơn cũng đã hướng dẫn, đào tạo nhiều ơn gọi và nay có một mầm ơn gọi đã trổ hoa là Cha Giêrônimô Nguyễn Đình Thuật đang phục vụ cho anh chị em thiểu số ở Hà Bầu – Gia Lai.
 

a

10 năm âm thầm sống ở Phú Dòng, sau đó lãnh sứ vụ linh mục và lên đường truyền giáo. Sau những ngày tháng bôn ba giữa những khó khăn của cuộc sống, hiện tại Cha Tôma sống đời mục tử nhỏ bé âm thầm bằng cách giúp các xóm giáo mà Nhà Dòng coi sóc ở Kỳ Đồng.

Phần ông bà cố, sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt, ông bà dắt díu nhau tạm cư ở vùng Bàu Cá Trảng Bom.

5 người dấn thân vào đời sống ơn gọi, có một người con gái là chị Mađalêna Trương Thị Như lập gia đình và chị có 7 người con.

Nếu như kể về gia đình đặc biệt này ngoài người đặc biệt là ông bà cố và 5 người con đi tu và chị Như mà không kể đến chị Trương Thị Trinh quả là điều thiếu sót thật lớn. Giản đơn là chị Trinh vì chữ hiếu, vì cha mẹ và vì các chị và em nên chị sống như vậy cho đến bây giờ để thay mặt những người đi tu lo cho cha mẹ già.

Ai ai cũng biết rằng nuôi người già chả khác gì nuôi một đứa trẻ lên 5 lên 3. Cái tuổi già là cái tuổi cực chướng của cuộc đời. Có khi cho ăn rồi lại đi rêu rao rằng bị bỏ đói, có khi thuốc uống mấy cử nhưng cứ bảo “chúng nó quên tui rồi”. Và như vậy, để chăm bẵm cho những “em bé có quyền đòi hỏi” quả thật là điều nan giải.

Kinh nghiệm trong gia đình ai ai cũng biết những “em bé có quyền đòi hỏi” này khó tính như thế nào. Thà chăm trẻ con thì mình còn có quyền trên nó nhưng chăm cha mẹ già thì mình vừa chăm, vừa cực nhưng lại hoàn toàn bị tước quyền công dân trước những vị này. Chính vì thế, chị Trinh, có lẽ là người được Giáo Hội ghi công và nhắc đến vì sự hy sinh rất lớn của chị.
 

ơn gọi

Trước ánh sáng lấp lánh của một chị phụ trách cộng đoàn như chị nữ tu Matta Nguyễn Thị Đức hay rực rỡ trong những ngày kỷ niệm Ngân Khánh – Kim Khánh thì lại lóe lên hình ảnh của người em tên Trinh thay chị lo cho cha mẹ già.

Trước vẻ đẹp lung linh của 4 anh em làm linh mục và có cha Hiền làm Tổng Đại Diện của một giáo phận thì đàng sau đó lại lóe lên hình ảnh của người chị gái tần tảo lo cho cha mẹ già.

Chúa gọi ông Cố về với Chúa năm 1998 khi ông Cố thọ 78 tuổi. Và, bà Cố may mắn hơn ông, phần phúc hơn ông là hiện giờ Bà còn minh mẫn ở cái tuổi mà khối kẻ mong, vạn người muốn là gần 100 tuổi mà vẫn nhìn thấy con mình sống trọn vẹn trong đời tận hiến.
Ta hãy cùng tạ ơn Chúa với gia đình ông bà cố Mẫn – Liêm, với 5 anh chị em của gia đình này và với nhiều gia đình khác nữa đã tận tình và hết lòng dâng hiến cho Chúa 4, 3, 2 người con. Và đặc biệt, có cả gia đình hiện ở giáo xứ Dốc Mơ dâng cho Chúa 2 người con trai trong một hội dòng và coi như chả có kẻ nối dõi tông đường. Những tấm lòng tận hiến như vậy quả là hoa quả tuyệt vời dâng lên cùng Chúa. | Báo Công Giáo

Xin Chúa gìn giữ bà Cố Liêm, quý ông bà cố, quý gia đình đã quảng đại dâng cho Chúa những người con để phục vụ trong cánh đồng truyền giáo. Xin Chúa cho Hội Thánh ngày càng có thêm nhiều thợ gặt để gặt lúa về như lòng Chúa mong muốn.

Người Giồng Trôm

TOÀN BỘ LÃNH THỔ VIỆT NAM ĐÃ AN BÀI!!!

From facebook: Trần Bang‘s post.
 
Image may contain: outdoor and text
Trần Bang

TOÀN BỘ LÃNH THỔ VIỆT NAM ĐÃ AN BÀI!!! 

(Bài viết của một Kỹ sư trong nước)

Tôi có ông bạn học hiện làm cấp tướng trong hải quân VN, trong một buổi nhậu bạn bè với nhau cách đây gần năm ở HN, tôi hỏi hắn:
– Nếu bây giờ TQ tấn công trên biển, quân của cậu chống được bao lâu?
Hắn cười: – Chắc là chưa đến 3 ngày!
Tôi ngạc nhiên: – Sao chết nhanh vậy?
Hắn lại cười: – Không phải chết, mà là chạy. Thời đại này ai dại gì chết cho ai?!
– Đấy là cậu nói về lính hay sĩ quan các cậu?
– Cả hai, nhưng sĩ quan chạy trước rồi lính mới chạy. Lính không dám chạy trước, chỉ trốn thôi. Sĩ quan mới chạy!
Tôi thắc mắc: – Tại sao thế? Sĩ quan tinh thần cao hơn và phải làm gương cho lính cơ mà?
– Ừ, nhưng sĩ quan lại biết mình toàn nói dối và thấy cấp trên cũng toàn nói dối, và ai cũng biết chết thì mình chịu, thắng thì là chiến công của sếp, tội gì chết thế!
Chúng tôi cười xòa, coi đó là câu chuyện cười nói cho vui, vì ông bạn trong Bộ tổng tư lệnh ở HN, nó đâu có phải ra trận. Nhưng nó cũng không cần phải mua vui với tôi, nó nói có phần nhiều là thật. Thế nên tôi không quên được.
Một bữa khác cách nay khoảng nửa năm, trong chuyến xe đêm từ Sài gòn đi Nha Trang, tôi nằm cạnh anh lính trẻ trả phép ra Cam Ranh. Tôi hỏi chuyện ăn ở sinh hoạt của lính nghĩa vụ ngoài đó, cậu thật thà:
– Cháu mới đi mấy tháng, nhờ có người quen chạy cho nên không phải đi vùng xa hay đảo, chỉ ra Cam Ranh thôi, được về phép đều đặn, nếu biết quà cáp cho sĩ quan còn được kéo dài phép…
– Thế sĩ quan có về phép thường xuyên không?
– Sĩ quan của bọn cháu toàn sĩ quan chuyên nghiệp, gia đình họ ở Cam Ranh và Nha Trang luôn, họ đâu cần về phép, và họ có thể về nhà bất cứ lúc nào họ muốn, họ sướng lắm!
– Thế họ có ăn chung với các cháu không?
– Không, họ có tiêu chuẩn riêng cao gấp mấy lần lính bọn cháu! Họ ăn ở riêng.
– Thế tiêu chuẩn lính bọn cháu thế nào?
– Chúng cháu được 35 ngàn đ/ngày. Thế là cao đấy chú ạ, vì chúng cháu gần Ban chỉ huy Vùng. Mấy thằng bạn cháu đóng quân ở xa kêu khổ lắm, chỉ có 28 ngàn đ/ngày thôi…
– Sao lại 28 ngàn thôi?!
Tôi xót xa nhẩm tính: lính của mình (công nhân và kỹ sư của tôi) ở công trường cảng Vân Phong này được ăn 80 nghìn đ/ngày mấy năm nay, vừa tăng lên 100 nghìn/ngày do giá cả lên, mà tôi vẫn thương chúng khổ, gầy và đen, bắt chúng cố ăn, và lo chúng bỏ về Sài gòn, thế mà chiến sĩ của ta…
Tôi lại đi lạc đề muốn nói rồi. Ý của tôi là, chỉ chuyện ăn ở thôi thì lính của ta cũng thiếu sức chiến đấu rồi, chưa nói đến tinh thần chiến đấu và niềm tin vào cấp trên. Giờ nói về chủ đề chính, đó là bảo vệ lãnh thổ.
Xin kể câu chuyện thứ ba.
Cách đây mấy tháng, chúng tôi tổ chức một đoàn “du lịch-thám hiểm” ra điểm Cực Đông trên đất liền của đất nước với mục đích: sống 1 ngày gần với Hoàng Sa Trường sa nhất (về kinh tuyến).
Trên đường ra đó rất khó khăn, chúng tôi không ngờ cả một khu bán đảo rộng lớn bờ biển dài mấy chục cây số không có dân cư (đã bị đuổi đi hết) và chỉ có một đồn biên phòng gần ra đến Cực Đông đã bị bỏ hoang do chuyển vào gần quốc lộ 1 hơn, trong khi đường lớn do các “dự án lớn” của Vinalines làm đến cũng bỏ hoang không bóng người. Hỏi ra mới biết đó là tình trạng của hàng loạt đồn biên phòng ven biển và trên các đảo khu vực bắc và nam Vân Phong (thuộc Khánh Hòa và Tuy hòa): họ đã rút hết vào sống trong dân và để quản dân, không quản bờ biển nữa.
Hàng trăm cây số ven biển không có ai canh giữ, nhưng đã có sẵn đường lớn nhập vào quốc lộ 1… Ngày xưa họ ở đó là để bắt người vượt biên thôi… Biên phòng VN không quay súng ra biển mà quay súng vào dân!
Câu chuyện thứ tư.
Đơn vị chúng tôi tham gia rất nhiều công trình lớn dọc biển miền Trung, lắp ráp các thiết bị kỹ thuật hiện đại (rất ít khi là đồ TQ). Từ Dung Quất đến Vũng Áng, Vân Phong… Nhưng ở đâu chúng tôi cũng thấy các đơn vị TQ đấu thầu và thắng thầu thi công phần các cầu cảng. Họ chỉ quan tâm và bỏ mọi giá để nhận phần việc đó dù rất nhiều đơn vị VN làm được, nhưng các nhà thầu VN phải lè lưỡi bỏ ra cho họ vì giá của họ quá thấp… Sau đó họ luôn quây kín cả một vùng biển và bờ biển lớn người khác không được vào để họ thi công trong suốt nhiều năm trời. Và họ thường là đơn vị làm kéo dài các dự án lớn nhưng không ai làm gì được. Khui họ thi công xong chúng tôi mới lên lắp thiết bị và không ai biết bên dưới và bên trong những khối bê tông cầu cảng lớn đó có những gì. Chúng tôi thường đùa nhau: ngày đầu tiên TQ đánh VN họ sẽ cho nổ tung tất cả những cầu cảng trị giá vài chục đến vài trăm triệu đôla này (có thể cặp mạn những con tàu lớn đến 150.000-300.000dwt)… hoặc họ sẽ khống chế chúng để làm điểm đổ quân tuyệt vời cho họ, ở Dung Quất, Vân Phong, Vũng Áng và nhiều nơi nữa phía Bắc và Nam, nhất là Kiên Giang cũng sẵn sàng…
Câu chuyện thứ năm.
Tôi về quê ngoại Quảng Ninh, ra Hạ Long gặp mấy thằng bạn cũ, trong đó có thằng đại gia chuyên san đất lấp biển bán nền, giầu không để đâu hết tiền, luôn khoe có đội xe máy húc ủi đào đông như quân nguyên, đã phá không biết bao đồi núi, lấp biết bao bờ vịnh san hô và sú vẹt để bán trên giấy, từ Quảng yên đến Hải Hà…
Gặp nó tôi bảo:
– Tội phá hoại môi trường Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long của mày phải đem ra bắn!
Nó cười khẩy:
– Bắn tao hơi khó! Mày phải bắn hết các bí thư và chủ tịch, phó chủ tịch tỉnh và các huyện thị Quảng Ninh này đi đã!” Rồi nó quàng vai người ngồi cạnh:
– A, cả thằng này nữa, giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường mà…
Tôi nhăn mặt nghĩ:
“Đúng thật, nếu muốn bảo vệ môi trường Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long mà tôi yêu quí, tôi sẽ phải bắn gần hết các bạn học cũ của mình, vì chúng nó làm quan chức kín cả cái tỉnh quê ngoại của tôi rồi…” – rồi phán tiếp:
– Mày còn một tội lớn nữa! Mày đem xe máy lên Tiên Yên, Ba Chẽ (hai huyện núi biên giới) làm đường từ biên giới xuống cho bọn Ba Tàu sau này tấn công mình lần nữa. Lần trước nó tấn công không có đường xuống, tự vệ dân quân còn cản được. Lần này chỉ mấy giờ là xe nó chạy đến Hạ Long này, lại có cầu bãi chấy rồi; công chúng mày to quá!
Thằng đại gia xẹp hẳn xuống lẩm bẩm:
– Đéo mẹ bọn Tàu! Chúng nó còn không chịu trả tiền công cho tao nữa! Đau quá!
(Đó là nó chửi mấy công ty Đài loan thuê rừng 50 năm rồi thuê nó làm đường lên “trồng rừng”. Đường làm xong lên các đỉnh núi biên giới, không trả tiền và rừng tất nhiên cũng không…).
Và câu chuyện cuối cùng.
Tôi đưa con trai lên Tây Nguyên chơi, mới đây thôi, để nó biết Tây Nguyên là thế nào. Một số đoạn đi qua đường HCM mới làm lớn mà vô cùng hoang vắng, thằng bé rất ngạc nhiên hỏi:
– Bố, sao mình làm đường lớn đẹp dài mà không có người đi thì làm gì vậy?
Tôi thở dài chua chát:
– Bố chịu!
Chả lẽ nói ra ý nghĩ thật của mình:
“Bố sợ rằng người ta làm đường để sau này TQ đánh VN sẽ dễ chiếm và khống chế Tây Nguyên và rồi cả đất nước này?
Sau chuyến đi Tây Nguyên về, tôi đùa với con trai:
– Con ơi, hãy học tiếng Anh giỏi để du học rồi ở lại đó luôn, như chị con vậy đó. Bằng không, hãy học tiếng Tàu! Nước mình sắp thay quốc ngữ rồi!**
Vâng, ý của tôi là thế đó. Người Việt nam, chính quyền Việt Nam hiện nay đã chuẩn bị sẵn sàng địa thế và mọi cửa ngõ Lãnh thổ quốc gia để TQ tràn vào dễ dàng nhất. Tinh thần quân đội và sức chiến đấu thì rất bạc nhược rồi, cảnh giác thì… chĩa súng vào dân rồi.
Các “chiến sĩ” Trung Hoa cứ yên tâm mà đến!
Đất nước này dường như đã có chỉ đạo bàn giao nhẹ nhàng để sát nhập vào TQ?
Chỉ còn một điều:
Liệu dân Việt ta có chịu thế hay không???!!!
** đúng theo ước muốn, sách lược của đa số người Việt khá giả trong nước (?!)
—————————
Lời tiên tri của Ngô Đình Nhu:
“…Nếu nền Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ, chẳng bao lâu Miền Nam sẽ mất về tay Bắc Việt. Nếu Miền Nam mất về tay Bắc Việt, thì cả Việt Nam sớm muộn gì cũng sẽ rơi vào tay Trung Cộng…”

( Copy từ FB Dao Thu )