Dân chủ là mua bảo hiểm

Dân chủ là mua bảo hiểm

 

Ngô Nhân Dụng

“Những ai đang chuẩn bị tâm tư, trí não bàn chuyện thiết lập tự do dân chủ ở nước Việt Nam nên chú ý đến câu hỏi quan trọng này: Làm cách nào giới hạn quyền hành của người cầm quyền, kể cả những người do dân tự do bầu lên?

Khi chúng ta mua được thứ bảo hiểm đó rồi thì có thể yên tâm hơn. Chính trị một quốc gia có thể đầy những chuyện bất ngờ, như Macron, Trump hoặc Brexit cho thấy, nhưng người dân vẫn yên tâm. Vì chế độ của họ đã mua bảo hiểm rồi!

Nói như Winston Churchill, Chế độ Dân chủ là thể chế (chọn người cầm quyền) dở nhất. Nó chỉ đỡ tai hại hơn tất cả những thể chế khác đã đem thử trên trái đất này” – Ngô Nhân Dụng.

Ở Việt Nam giờ đây, dân Việt đang dốc toàn tâm toàn ý vào việc nhanh chóng hất lão già khú đế ra khỏi 90 triệu cái vai đã mỏi nhừ bởi lão ngự lên đó từ suốt mấy chục năm nay, lên rồi cứ nghênh ngang không chịu xuống, khiến đẻ ra không biết bao nhiêu điều tồi tệ, làm cho sức vóc dân mỏi mòn đến cạn kiệt, lê lết tấm thân tàn từ thế kỷ XX sang đến thế kỷ XXI đã được 17 năm rồi mà nhìn con đường phía trước của nhân loại vẫn còn xa tít tắp, mỏi gối chồn chân e cũng không sao theo kịp.

Không chỉ thế, lão già càng già càng giở quẻ, trước kia còn che giấu thói phàm ăn của lão, còn nay thì công khai “ăn không chừa thứ gì”, ăn chưa thỏa thì chẹn ngay họng 90 triệu thằng dân khênh lão ở dưới, thằng nào có vẻ béo bở nhất cứ việc cướp lấy mà ăn, mặc cho lũ chúng đứa nào đói rã họng cứ đói, đứa nào chết cứ chết, đứa nào dám đấu khẩu thì đã có cả một đội quân đầu gấu lưu manh tay sai của lão dần cho nhừ tử và lôi vào nhà giam – ấy gọi là “đúng quy trình”.

Cho nên những gì học giả Ngô Nhân Dụng lưu ý, dân chúng chúng tôi xin ghi nhớ, nhưng xin coi đó là mục tiêu phấn đấu của chặng đường thứ hai – chặng đường xây dựng những điều luật hệ trọng nhằm củng cố thể chế dân chủ sau khi đã loại bỏ được thể chế độc tài và đặt được lớp gạch tự do dân chủ làm nền tảng cố kết đầu tiên cho một đất nước Việt Nam hiện đang trong tình trạng phân rã về mọi mặt.

Trước khi tìm ra một cơ chế hữu hiệu “ngăn cản kẻ thắng cử trở thành bạo chúa” hãy khẩn trương nghĩ đến một cơ chế có hiệu lực “sờ gáy kẻ bạo chúa đương quyền”. Nhiệm vụ phía trước của cả dân tộc Việt Nam vẫn còn rất nặng.

Bauxite Việt Nam

Một điều học được qua những cuộc bỏ phiếu toàn quốc ở Anh, Mỹ, Pháp trong một năm qua là người ta rất khó đoán trước kết quả. Khó đoán trúng được cử tri sẽ bầu cho đảng nào (Pháp), ứng cử viên nào (Mỹ), hoặc đường lối nào cho quốc gia (Anh). Những chuyên viên nghiên cứu dư luận cũng thất bại. Bởi vì, mặc dầu vẫn nắm vững những phương pháp rất khoa học, nhưng vì thái độ và hành động của các cử tri thay đổi bất ngờ nên các giả thuyết họ đặt ra về tâm lý con người có lúc hoàn toàn sai. Có những cử tri luôn trung thành với một đảng bỗng chán không thèm đi bầu cho ai cả. Có những người chẳng thiết tha đến chuyện bầu cử bỗng nổi nóng quyết tâm đi bỏ phiếu cho một người mình thích!

Năm ngoái, bên Anh, vụ “Brexit” làm mọi người choáng váng. Khi Thủ tướng David Cameron mời dân Anh bỏ phiếu hỏi có muốn tách khỏi Liên hiệp Châu Âu (EU) hay không, ông tin rằng đa số dân sẽ nói “Không” như chủ trương của cả hai đảng lớn nhất. Không ngờ, sau cùng phe “Tách” chiếm đa số. Năm nay, bà Thủ tướng Theresa May lại tổ chức bầu Nghị viện sớm (đến ba năm nữa mới cần bầu lại). Bà tính thắng lớn để có thế mạnh khi thương thuyết vụ Brexit với Chính phủ các nước khác trong EU. Kết quả, Đảng Bảo thủ đang chiếm đa số vững vàng ở Nghị viện giờ tụt xuống dưới một nửa, thay vì mạnh hơn thì Chính phủ bà sẽ yếu hơn.

Cuối năm, Tổng thống Donald Trump đắc cử khiến giới chính trị trong cả hai Đảng Cộng hòa và Dân chủ kinh ngạc. Trước đó một năm không ai tin ông Trump có chút hy vọng nào. Họ báo động ông ta không thích hợp (fit) với vai trò Tổng thống; mà cũng không ai biết chắc đường lối, chính sách của ông sẽ ra sao.

Ở Pháp, Tổng thống Emmanuel Macron và phong trào En Marche của ông thắng cử cũng là chuyện vô tiền khoáng hậu. Cả hai Đảng Cộng hòa và Xã hội vẫn thay nhau cầm quyền mấy chục năm, cả hai đều rớt đài thảm hại. Một ứng cử viên chưa đầy 40 tuổi với một tập hợp chính trị mới ra đời mấy tháng trời đã làm đảo lộn trật tự cũ.

Kết quả những cuộc bỏ phiếu trên làm nổi bật một điểm nổi bật của xã hội dân chủ; là tính chất bất định (uncertainty), khó tiên đoán. Các chế độ độc tài khác hẳn. Trước khi dân bỏ phiếu người ta đã biết ai sẽ thắng, biết đến cả tỷ số thắng bao nhiêu!

Tâm lý con người thường không thích sống trong bất định. Đó là lý do các hãng bảo hiểm đã ra đời và sống mạnh! Sau khi mua nhà, mua xe, ta đi mua bảo hiểm ngay, cho đỡ lo lắng. Suốt đời chúng ta lúc nào cũng phải lo chuyện bảo hiểm! Kim Trọng và Thúy Kiều sau khi thề ước đã trao đổi ngay một số vật quý làm tin, cũng là một hình thức bảo hiểm!

Vậy tại sao loài người vẫn muốn xây dựng xã hội có dân chủ tự do, chấp nhận tình trạng đầy bất trắc trong cuộc sống thay đổi thường xuyên như vậy?

Nói cách khác, khi tính thiết lập chế độ dân chủ, giống như khi xây một cái nhà mới, chúng ta mua bảo hiểm ở đâu để tránh những rủi ro mà tính bất định có thể gây ra?

Có một cách giải đáp sẵn sàng, là nêu lên nguyên tắc: “Toàn dân chọn người nắm quyền, ai chiếm đa số phiếu thì thắng, qua những cuộc bỏ phiếu tự do, có định kỳ”. Dùng những quy tắc bảo đảm, khi nào đa số dân chọn lầm người lãnh đạo (lầm lẫn là một quyền hiến định của mọi công dân), hậu quả tai hại sẽ bị giới hạn, vì sau ít năm dân sẽ nghĩ lại khi họ bỏ phiếu. Như Pericles ở Athens nói, vào khoảng năm 430 BC, “tuy chỉ một số người nhỏ nắm quyền đề ra các chính sách, tất cả chúng ta có thể phán đoán các chính sách của họ”.

Nhưng các quy tắc trên có đủ làm “bảo hiểm” cho những rủi ro của chế độ dân chủ hay không? Có hai mối rủi ro cần phải tránh: Thứ nhất, làm cách nào để nếu dân chọn lầm người lãnh đạo, người đó sẽ không làm hại quá đáng trong bốn, năm năm cầm quyền (sáu năm ở Mexico, bảy năm ở Nga)? Thứ hai, làm cách nào ngăn cản không cho họ tự biến thành độc tài chuyên chế như Hitler đã làm ở Đức, Marcos ở Phillipines (cả hai đều không cướp chính quyền, họ được dân bầu trong những cuộc bỏ phiếu đúng Hiến pháp).

Theo kinh nghiệm thì những quy tắc như bầu cử tự do, có định kỳ, vẫn chưa bảo đảm đầy đủ cho chế độ dân chủ.

Theo Karl Popper, tác giả The Open Society and its Enemies (Xã hội mở và những kẻ thù, 1945) thể chế dân chủ còn thiếu sót khi không nêu đúng những câu hỏi hệ trọng nhất.

Khi chuẩn bị thiết lập thể chế dân chủ, người ta thường đặt những câu hỏi nào?

Thông thường nhất là những câu hỏi có tính chất định nghĩa, như “Ai làm chủ quyền hành?” Câu trả lời hiển nhiên là: “Tất cả mọi người dân”. Nhưng làm cách nào toàn dân có thể cùng nắm quyền như khi các công dân ở Athens họp nhau? Trả lời: Họ bỏ phiếu chọn những đại biểu, mà triết gia Plato ngây thơ đặt tiêu chuẩn, “phải là những người tốt nhất”. Ai biết người thế nào là “tốt nhất?” Mỗi người mỗi ý, ai cũng có quyền chọn như nhau.

Dân thành phố Athens có lúc muốn những cuộc bỏ phiếu hoàn toàn tự do và công bằng, đã chọn người cầm quyền bằng các bốc thăm! Mọi công dân ai cũng có hy vọng đắc cử, công bằng tuyệt đối!

Dù cho dân chúng tự do chọn người nắm quyền, theo tiêu chuẩn mà họ quyết định, chúng ta cũng chưa mua đủ bảo hiểm cho hai loại rủi ro đã nêu trên đây. Một người được đa số dân bầu, có thể làm bậy suốt nhiệm kỳ. Họ vẫn có thể học theo Napoléon, lái cả chế độ gọi là dân chủ thành đế chế mà dân chúng vẫn hoan hỉ, theo ông kéo nhau đi chết vinh quang!

Câu hỏi thích đáng nhất khi thiết lập dân chủ, như Karl Popper đề nghị là: Cơ cấu chế độ làm cách nào ngăn cản các bạo chúa?

Đây là một câu hỏi rất thực tế, không xứng đáng được các triết gia bàn luận, như khi hỏi: Gốc của quyền hành bắt nguồn từ đâu ra? Nói cách khác: Trên lý thuyết, anh nhân danh cái gì mà đòi nắm đầu nắm cổ người khác? Lịch sử đã thử trả lời nhiều cách: Thiên mệnh, Thượng Đế, truyền thống, lịch sử, giới vô sản, hoặc nhân dân,… Những câu trả lời này giờ không còn ai tin nữa. Nhưng câu hỏi “ai nắm quyền?” vẫn được truyền tụng, vì trên lý thuyết đó là vấn đề quan trọng nhất.

Lối đặt câu hỏi thực tế trên, không phải Karl Popper tự nghĩ ra. Vốn người nước Áo, sống ở New Zealand, nhưng ông rút kinh nghiệm lịch sử chính trị nước Anh. Từ khi ký kết bản Đại Hiến chương giữa nhà vua và giới quý tộc (Magna Carta, 15 tháng Sáu, 1215), chế độ chính trị ở Anh đã tiến dần dần, mỗi bước tiến lại đặt thêm những giới hạn trên quyền hành của nhà vua. Trải qua nhiều thế kỷ, sau cùng ông hay bà vua chỉ còn là một biểu tượng; đến lượt quyền hành của những vị Thủ tướng bị giới hạn. Tất cả chỉ theo tập tục, nước Anh không cần viết Hiến pháp.

Cho nên, Karl Popper cho rằng điều quan trọng nhất khi chuẩn bị thiết lập dân chủ là đặt giới hạn trên quyền hành. Bản Hiến pháp lâu đời nhất thế giới, phát hành ở Mỹ, rất ngắn ngủi. Điều được quan tâm nhất trong đó là đặt những giới hạn quyền hành của vị Tổng thống. Họ đặt ra hai viện Quốc hội và một Tối cao Pháp viện độc lập để làm công việc này. Để bảo đảm khi một phe nhóm nắm được cả ba bánh xe của guồng máy chính quyền cũng không có thể độc tài chuyên chế, Hiến pháp Mỹ đề cao quyền của các tiểu bang, làm giới hạn cho quyền của Chính phủ liên bang. Muốn ăn chắc hơn, họ đặt ra những thủ tục rất nhiêu khê, khó khăn, cho việc thay đổi Hiến pháp. Một ông Napoléon hay ông Hitler khó làm ăn ở nước Mỹ.

Những ai đang chuẩn bị tâm tư, trí não bàn chuyện thiết lập tự do dân chủ ở nước Việt Nam nên chú ý đến câu hỏi quan trọng này: Làm cách nào giới hạn quyền hành của người cầm quyền, kể cả những người do dân tự do bầu lên?

Khi chúng ta mua được thứ bảo hiểm đó rồi thì có thể yên tâm hơn. Chính trị một quốc gia có thể đầy những chuyện bất ngờ, như Macron, Trump hoặc Brexit cho thấy, nhưng người dân vẫn yên tâm. Vì chế độ của họ đã mua bảo hiểm rồi!

Nói như Winston Churchill, Chế độ Dân chủ là thể chế (chọn người cần quyền) dở nhất. Nó chỉ đỡ tai hại hơn tất cả những thể chế khác đã đem thử trên trái đất này. Churchill không nhận ông nghĩ ra ý kiến đó. Ông nói, trước Viện Dân biểu ngày 11 tháng Mười Một, 1947, rằng có người đã nói như vậy. Đời sống đầy rủi ro. Chế độ Dân chủ được coi là “đỡ hại nhất” có lẽ khi mua đủ bảo hiểm, tránh được nhiều rủi ro nhất!

N.N.D.

Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/binh-luan/dan-chu-la-mua-bao-hiem/ 

Thế nào là “thông minh kiểu Việt Nam và Trung Quốc”?

Thế nào là “thông minh kiểu Việt Nam và Trung Quốc”?

Gần đây, một kênh truyền thông New Zealand đã đăng một bài viết nói về “thông minh kiểu Trung Quốc” và nhận được sự chú ý của đông đảo người sử dụng internet. Tác giả bài viết tự nhận là người Hoa, đã nhận định rằng “thông minh kiểu Trung Quốc” chính là không màng trắng đen hay thị phi, không cần biết thật giả hay đúng sai, có sơ hở liền lách vào, có tiện nghi liền chiếm lấy. “Thông minh kiểu Trung Quốc” chính là không màng chính nghĩa hay tà ác, bất cứ lúc nào cũng có thể vì bảo hộ bản thân mình mà làm trái lương tâm. “Thông minh kiểu Trung Quốc” chính là để cho người khác phải phó xuất và gặp nguy hiểm, còn bản thân mình những gì mười phần có lợi sẽ giành lấy hết. Kỳ thực, “thông minh kiểu Trung Quốc” chính là không nói đến thành tín, ức hiếp người thiện lương, chính là các giá trị đều đã đảo lộn, không xét đến quy tắc…

Nhiều người Việt có người thân là Việt Kiều ở Mỹ, có thể đã nghe câu chuyện về việc hàng hóa sau khi mua ở Mỹ có thể được trả và lấy lại tiền mà không cần phải giải thích lý do. Vì vậy, nhiều người khi chuẩn bị tham dự một sự kiện nào đó, liền đến “mua” một bộ quần áo, sau khi tham dự sự kiện xong rồi, lập tức mang trả lại quần áo để lấy tiền về.

Hệ thống bán hàng ở Mỹ còn có một chính sách đáng chú ý, gọi là Price Match. Với chính sách này, nếu bạn mua một sản phẩm sau đó chứng minh được sản phẩm này bán giá rẻ hơn giá tại cửa hàng nào khác, thì có thể được mua sản phẩm với mức giá tương đương mức giá mà bạn tìm thấy. Do vậy, có một số người, khi đi mua hàng với giá đắt hơn những nơi khác, họ không hề mặc cả, mà lại chọn những màu sắc hay kích cỡ (mà ở các cửa hàng khác không có), sau đó khi tìm được cửa hàng nào có mức giá rẻ hơn thì sẽ mang hóa đơn quay lại nơi mua hàng để được giảm giá.

Những người này dương dương tự đắc với hành vi của bản thân, đi đến đâu cũng tự cho rằng bản thân mình thông minh, thậm chí còn đặt câu hỏi sao những người khác quá “ngu ngốc”, không biết lợi dụng “kẽ hở” này.

Coi việc chiếm tiện nghi của người ta là “thông minh”, coi gian xảo là có “năng lực lớn”… mọi giá trị dường như đều đảo lộn.

Bài viết của tác giả người Hoa trên truyền thông New Zealand còn liên hệ đến tỷ phú Warren Buffett. Rất nhiều nhà đầu tư hỏi về tiêu chí chọn đầu tư cổ phiếu của ông Warren Buffett, và thông thường ông hay nhấn mạnh rằng ông rất coi trọng sự thành tín của giám đốc điều hành công ty, nếu không phải công ty làm ăn chân chính, ông nhất định sẽ không lựa chọn đầu tư. Với ông, lợi nhuận không phải là yếu tố hàng đầu, mà là chữ tín.

Một người Hoa đưa đứa con nhỏ mới 3 tuổi đến Mỹ du lịch và ở tại nhà người thân. Người nhà đã đưa cho người Hoa này một chiếc ghế ngồi ô tô dành cho trẻ nhỏ và nói: “Ở đây quy định trẻ nhỏ khi đi xe nhất định phải dùng loại ghế này, tôi đưa cho anh dùng, nhưng vì là ghế đi mượn, nên anh phải giữ gìn cẩn thận, vì chúng ta sẽ phải trả lại cho người ta.” Hai tuần sau khi không dùng xe ô tô nữa, chiếc ghế này đã được đem đến trả lại cửa hàng. Người bán hàng không hỏi lý do tại sao, chỉ đơn giản là đưa đủ số tiền cho người trả hàng. Người nhà liền tự hào nói: “Các cửa hàng ở Mỹ đều như vậy, nếu mua hàng trong vòng 2 tuần thì đều có thể mang hóa đơn đến và trả lại, do đó chúng tôi thường đến đây ‘mượn’ một số đồ đạc. Nhiều người Đại lục thậm chí còn mượn cả TV. Anh nói xem, người Mỹ có ngốc hay không chứ? Trả lại hàng vô điều kiện đúng là sơ hở quá lớn, vậy mà họ còn chẳng biết điều đó!”

Một năm sau, người Hoa này đến Nhật Bản, một số bạn bè đồng hương ở Nhật đã tiếp đón và dùng ô tô để đi lại. Người Hoa này hỏi: “Tokyo đất chật người đông, có phải là rất khó đỗ xe không?”

Đồng hương trả lời: “Không nghiêm trọng đến như vậy đâu, chính phủ quy định cần có chỗ để xe trước rồi sau đó mới được phép mua xe, vì vậy mà không có nhiều xe như anh nghĩ đâu.”

“Ồ, vậy tức là anh có một bãi đỗ xe riêng sao? Chắc là phải đắt đỏ đến mức cắt cổ có đúng không?”

“Anh nghĩ là ai cũng ngốc giống người Nhật Bản sao! Muốn mua xe thì trước tiên đi thuê một chỗ ở bãi đỗ xe, sau khi mua xe xong thì trả lại chỗ đó, vậy chẳng phải là vấn đề được giải quyết hay sao?”

Hai ngày sau, một số bạn bè người Nhật đến đưa người Hoa này đi chơi, họ đi bộ hoặc là đi bằng tàu điện ngầm. Những người bạn Nhật phân trần rằng: “Tokyo mua xe thì dễ, nhưng tìm chỗ đỗ xe thì không dễ dàng gì. Do đó, anh chịu khó đi tàu điện ngầm vậy nhé.”

Người Hoa này lập tức truyền cho anh ấy cách để giải quyết vấn đề. Không ngờ rằng anh ấy đã không “ngộ đạo” mà còn dửng dưng nói: “Nếu muốn lợi dụng sơ hở, thì có nhiều cách lắm. Ví dụ như mẹ tôi sống ở quê, nếu muốn thì có thể dùng hộ khẩu cũ là mua được xe. Nhưng thực tế thì tôi định cư ở Tokyo, không có chỗ đỗ xe mà lại mua xe, vậy thì những người hàng xóm sẽ nhìn tôi như thế nào? Lái xe đi làm, tôi phải đối diện với đồng nghiệp ra sao? Cấp trên và những người đàng hoàng sẽ không làm như vậy.”

Cơ chế trả lại hàng vô điều kiện ở Mỹ và những quy định đầy lỗ hổng ở Nhật, đều được xây dựng trên cơ sở “tín nhiệm”. Nếu sự “tín nhiệm” sụp đổ, thì xã hội cũng sẽ có thể sụp đổ. Do đó, ở xã hội Tây phương, người ta có thể tha thứ cho các chính trị gia làm sai, nhưng không thể tha thứ cho những chính trị gia nói dối.

Nếu như chúng ta “giả đổi thành thật, thật cũng giả”, mỗi người đều hư hư thực thực, thì toàn xã hội sẽ vận hành trên cơ sở “hoài nghi”. Tư duy ảnh hưởng đến hành vi, mà hành vi của mỗi cá nhân sẽ ảnh hưởng rộng ra đến dịch vụ kinh doanh và vận hành xã hội.

Khi đi tàu điện ngầm tại Rome bạn sẽ phát hiện rằng có máy bán vé nhưng không có soát vé. Chắc hẳn bạn sẽ thấy lạ lắm phải không? Làm thế này làm sao kiểm soát được xem hành khách lên tàu có mua vé hay không? Vận hành tàu điện ngầm thế này chẳng phải sớm muộn gì cũng bị lỗ hay sao?

Đây chính là cách nghĩ quen thuộc của chúng ta, luôn liên tưởng mọi chuyện theo kiểu khôn vặt hoặc vì tham lợi nhỏ cho bản thân mình. Đối với người Ý mà nói, nếu chúng ta hỏi câu hỏi này thì thật kỳ lạ. Đi xe có thể không mua vé chăng? Đi xe làm sao có thể không mua vé cho được? Cách nghĩ, cách tư duy của hai bên quả có sự khác biệt lớn.

Nếu như bạn thực sự muốn biết có thể đi tàu mà không cần mua vé hay không, thì câu trả lời là có thể, hoàn toàn có thể lên tàu đi một vài trạm, nhưng phải đảm bảo không để cho giới quản lý ở Ý biết được, nếu biết họ nhất định sẽ phạt bạn. Và sau này nếu bị phạt nhiều lần, có thể tạo thành tiếng xấu ở nước ngoài, thật sự là cái được không bõ cho cái mất!

Xây dựng tín nhiệm không dễ, nhưng điều này lại thực sự quan trọng! Mức độ tín nhiệm lẫn nhau càng cao, thì quản lý sẽ càng nới lỏng hơn. Nếu như đi đúng đường, thì sẽ không sợ phải đi xa!

Hồng Ngọc

Trấn áp vẫn theo chiều hướng gia tăng

Trấn áp vẫn theo chiều hướng gia tăng

 

Công an tỉnh Hà Nam đọc lệnh bắt chị Trần Thị Nga tại Hà Nội ngày 21 tháng 1 năm 2017

Công an tỉnh Hà Nam đọc lệnh bắt chị Trần Thị Nga tại Hà Nội ngày 21 tháng 1 năm 2017

Tình hình trấn áp ngày càng căng thẳng gia tăng

Kể từ sau Đại hội lần thứ 12 của Đảng cộng sản Việt Nam, thêm nhiều nhà hoạt động bị bắt giam như blogger Mẹ Nấm- Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, nhà hoạt động Trần Thị Nga, anh Hoàng Đức Bình, phóng viên tự do trẻ Nguyễn Văn Hóa…Bên cạnh đó, nhiều nhà hoạt động bị sách nhiễu trong cuộc sống thường ngày, một trong những trường hợp gần đây nhất là Luật sư Lê Quốc Quân bị chặn không cho ra khỏi nhà, sau khi anh đã có cuộc gặp với phái đoàn Thượng nghị sỹ Mỹ tới Hà Nội.

Chia sẻ nhận định về những sự trấn áp sau Đại hội 12, Luật sư Lê Quốc Quân cho rằng, tình trạng này đang gia tăng:

“Hàng chục nhà hoạt động đã bị bắt và nhiều việc hành hung, thậm chí như cá nhân tôi từng xảy ra chuyện bị đe dọa hành hung rất côn đồ. Đối với tôi việc này chưa bao giờ xảy ra. Tôi khẳng định tình hình ngày càng căng thẳng và bắt bớ ngày càng gia tăng”

Anh Nguyễn Chí Tuyến – thành viên nhóm No-U Hà Nội, nạn nhân của một vụ hành hung sau các hoạt động tuần hành năm 2015 đánh giá, sự trấn áp đối với các nhà hoạt động trẻ thực sự đáng quan ngại:

Khi chúng ta có công lý, sự thật, có con đường để đi tới, có một mục tiêu để theo đuổi trên cuộc đời này thì chúng ta hãy cứ bình an bước tới, theo đuổi đam mê, dấn thân và phụng sự.
– Luật sư Lê Quốc Quân, Hà Nội

“Khi ý thức người dân lên cao thì đương nhiên việc này không dễ chút nào cho những người cai trị, những người cầm quyền. Vốn dĩ họ vẫn hành xử như vậy từ xưa đến nay, do vậy họ vẫn tìm cách để dập tiếng nói đó và họ cố kéo dài tình trạng này.”

Nhiều năm qua, cộng đồng quốc tế và chính phủ nhiều nước đã có sự hối thúc mạnh mẽ đối với chính quyền Việt Nam, buộc họ phải cải thiện hồ sơ nhân quyền, tôn trọng các quyền tự do về chính trị, xã hội của người dân, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu, mở rộng ngoại thương.

Nhiều nhà hoạt động quan ngại về sự gia tăng đàn áp trong thời gian sắp tới. Luật sư Lê Quốc Quân cho rằng, tính bạo lực sẽ gia tăng khi rơi vào tình trạng tận cùng:

“Vì Việt Nam là một nước đang hoà bình và rõ ràng chúng ta phải tận dụng cơ hội hòa bình này để phát triển đất nước. Chúng ta thực hiện một tinh thần ôn hòa, hòa hợp hòa giải dân tộc để phát triển kinh tế. Thay vì đó tôi vẫn thấy có một sự bức xúc và một sự xung đột đang gia tăng dần lên trong xã hội giữa việc sử dụng bạo lực, cường quyền, thậm chí chia rẽ lương-giáo, giữa người hoạt động với người bảo vệ chính quyền. Và tính bạo lực ngày càng gia tăng thì đó là điều rất đáng ngại.”

Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, sức ép từ bên ngoài dường như không còn được như kỳ vọng. Luật sư Lê Quốc Quân cho rằng, có sự liên hệ giữa tình hình quốc tế với tình trạng trấn áp trong nước:

“Lịch sử trải qua những giai đoạn thăng trầm, tất yếu là có những đoạn lên, đoạn xuống, và những đoạn dẫn đến sự tột cùng của mâu thuẫn. Có thể vào những lúc đó thì sự bạo lực, sự hung hăng sẽ lên ngôi.”

Anh Nguyễn Chí Tuyến cho rằng, vì mục đích duy trì quyền lực độc tôn càng lâu càng tốt, chính quyền sẽ vẫn gia tăng trấn áp:

“Họ sẽ nhằm vào bất cứ một người nào, đặc biệt là những người trẻ tuổi có tiếng nói ảnh hưởng nào đó. Họ đều tìm cách cô lập người đó bằng cách bắt bớ, tù đày, hoặc đánh đập, đe dọa, hoặc bao vây kinh tế.”

Bạn trẻ Nguyễn Peng là nạn nhân của việc bắt giữ tuỳ tiện, đánh đập tại Buôn Mê Thuột vừa qua, nhưng bạn vẫn mong muốn lên tiếng cho một đất nước Việt Nam nhân quyền được tôn trọng:

“Bản thân tôi không bao giờ chùn bước. Tôi đã bị nhiều lần rồi nên những việc đó đối với tôi rất bình thường.”

Con đường công lý và sự thật

maxresdefault.jpg
Nhà hoạt động Lê Mỹ Hạnh bị đồng bọn của Phan Sơn Tùng đánh đập tại Sài Gòn Citizen

Trong bối cảnh tình hình nhân quyền còn chưa được bảo đảm, các nhà hoạt động bị trấn áp, Luật sư Lê Quốc Quân cho rằng, giới đấu tranh cần kiên định con đường đã chọn:

“Cá nhân tôi luôn theo đuổi tinh thần ôn hoà, bất bạo động. Tôi cũng chia sẻ rằng mới đây công an đe dọa tôi, định đánh tôi, nắm cổ áo và dí nắm đấm vào người tôi. Tôi mỉm cười vì tôi thấy rằng sau những hành vi như vậy là những tâm hồn yếu đuối bởi vì nó không có công lý, sự thật. Còn khi chúng ta có công lý, sự thật, có con đường để đi tới, có một mục tiêu để theo đuổi trên cuộc đời này thì chúng ta hãy cứ bình an bước tới, theo đuổi đam mê, dấn thân và phụng sự. Chắc chắn dần dần rồi sẽ có kết quả.”

Tuy dù chịu nhiều sự trấn áp, các nhà hoạt động vẫn trông đợi một sự thay đổi và cởi mở về mặt chính trị. Luật sư Lê Quốc Quân cho biết:

“Để chống lại sự đàn áp mà nhà cầm quyền đang tước đoạt các quyền công dân như vậy thì người dân phải có sự liên kết, chia sẻ và đồng cảm lẫn nhau, để cùng nhau phối hợp, hành động trong những lãnh vực và những khả năng có thể với nhau.”Anh Nguyễn Chí Tuyến cho rằng, người dân cần hiểu về quyền của mình và thực hành các quyền đó trong thực tế, để làm tăng sức mạnh ý chí của từng cá nhân:

“Tôn trọng dân chủ, nhân quyền, thực hành quyền đa nguyên đa đảng, cải cách chính trị là những bước đi tôi nghĩ chính quyền nên lựa chọn và theo đuổi nó một cách nhất quán và mạnh mẽ hơn nữa.”

Còn anh Nguyễn Chí Tuyến thì cho rằng:

“Các ông, các bà nên nhớ rằng thời đại đã thay đổi, đừng nên níu kéo quyền lực độc tôn mãi mãi như xưa nữa và cần thay đổi tư duy. Các ông, các bà cần trao lại quyền cho người dân vì người ta mới xây dựng được đất nước.”

Con đường đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền tại những quốc gia độc đảng, quân phiệt lâu nay cho thấy đầy chông gai, thử thách và phải trả cả bằng ‘giá máu’ của những người tham gia. Tuy nhiên đó không phải là con đường vô vọng!

Hy sinh vì chính nghĩa

Hy sinh vì chính nghĩa

 

Vaclav Havel * Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch

21 tháng Hai 1989

Lời phát biểu cuối cùng của Vaclav Havel ở Tòa án Quận 1 Prague

Thưa tòa,

Vì tôi đã bình luận đủ về từng lý do trong cáo trạng, cả trong quyết định khởi tố trước khi xét xử và ở tòa án này, cho nên tôi không có ý định nhắc lại mà chỉ tóm tắt lập trường của tôi. Tôi tin đến nay vẫn không có bằng chứng nào được đưa ra nhằm chứng minh hoặc sự kích động hay sự cản trở người thi hành công vụ, vì thế tôi xem như mình vô tội và yêu cầu thả tôi ra.

Tuy nhiên, cuối cùng tôi muốn nói đôi điều về một khía cạnh cho đến nay chưa bao giờ được đề cập đến của toàn bộ vụ án. Cáo trạng tuyên bố rằng tôi “ra sức che đậy bản chất chống nhà nước và chống chủ nghĩa xã hội của cuộc tụ họp như dự tính.” Ngẫu nhiên lời tuyên bố ấy mà không trưng ra bằng chứng cụ thể nào – và cũng chẳng có thể có bằng chứng- gán các động cơ chính trị cho những hành vi của tôi. Vì thế trong phạm vi quyền của mình tôi sẽ nói kỹ trong chốc lát về các khía cạnh chính trị của toàn bộ vụ án.

Trước tiên, tôi phải chỉ ra rằng những từ “chống nhà nước” và “chống chủ nghĩa xã hội” từ lâu đã mất tất cả các ý nghĩa ngữ nghĩa, sau nhiều năm xử dụng hoàn toàn tùy tiện đã trở thành chỉ là sự quy chụp xúc phạm đến tất cả các công dân mà làm cho chế độ khó chịu vì bất cứ lý do nào đấy, nhưng tuyệt đối không liên quan gì đến quan điểm chính trị thực sự của họ. Vào những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời họ, ba vị Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc-Slánský, Husák và Dubček- đã được mô tả bằng chính những từ này. Bây giờ chính sự chụp mũ này lại được áp dụng đối với Hiến chương 77 và các nhóm kiến nghị của các công dân độc lập, chỉ vì chính quyền ghét các hoạt động của họ và cảm thấy cần thiết phải làm giảm uy tín họ bằng cách nào đấy. Như ta có thể thấy rõ, cáo trạng trong vụ án của tôi cũng sa đà vào sự lạm dụng chính trị như thế.

Mục đích chính trị thực sự của hoạt động của chúng tôi là gì? Hiến chương 77 được lập ra và vẫn tiếp tục hoạt động như một cộng đồng không chính thức nhằm cố gắng theo dõi sự tôn trọng nhân quyền trong nước ta, bao gồm sự tuân thủ các công ước quốc tế liên quan hay hiến pháp Tiệp Khắc, tùy theo trường hợp. Trong mười hai năm qua, Hiến chương 77 đã thu hút sự chú ý của nhà cầm quyền vào sự tương phản giữa những cam kết pháp luật và những gì là thực tế thực sự trong xã hội ta. Trong mười hai năm qua Hiến chương đã báo trước nhiều hiện tượng bất ổn khác nhau và những dấu hiệu khủng hoảng, và vạch trần những vi phạm các quyền hiến pháp, cũng như những hành vi tùy tiện, sự sai lầm và bất tài về phía nhà cầm quyền. Khi theo đuổi những hoạt động này, Hiến chương 77 đang thể hiện quan điểm của đông đảo tầng lớp nhân dân trong xã hội ta, vì bản thân tôi có thể đánh giá từng ngày. Trong mười hai năm qua, chúng tôi thường mời nhà cầm quyền tham gia vào cuộc đối thoại về những vấn đề này.Trong mười hai năm qua, nhà cầm quyền lờ đi công cuộc vận động của chúng tôi và chỉ là giam cầm hay truy tố chúng tôi về vai trò của chúng tôi trong Hiến chương. Tuy nhiên, chế độ bây giờ thừa nhận nhiều vấn đề mà Hiến chương đã phơi bày cách đây nhiều năm và có thể đã được giải quyết từ lâu nếu như nhà cầm quyền lưu tâm đến tiếng nói của Hiến chương. Hiến chương 77 luôn luôn nhấn mạnh đến bản chất bất bạo động và pháp luật của những hoạt động của mình. Hiến chương không bao giờ có mục tiêu tổ chức gây rối loạn trên đường phố.

Chính tôi thường công khai nhấn mạnh nhiều lần rằng mức độ tôn trọng dành cho những công dân có đầu óc chỉ trích và bất đồng chính kiến chính là mức độ tôn trọng công luận nói chung. Nhiều lần tôi thường nhấn mạnh rằng tiếp tục coi thường sự bày tỏ ôn hòa của công luận chỉ có thể dẫn đến sự phản kháng xã hội càng ngày càng công khai và mạnh mẽ. Tôi thường nói rõ sẽ chẳng có lợi cho ai nếu chính quyền cứ chờ đợi cho tới khi nhân dân bắt đầu biểu tình và tiến hành đình công, nhưng điều ấy hoàn toàn có thể tránh được dễ dàng nếu nhà cầm quyền nên bắt đầu tham gia đối thoại và tỏ ra sẵn sàng lắng nghe những tiếng nói chỉ trích.

Chưa từng bao giờ chú ý đến những lời cảnh báo như thế cho nên bây giờ chế độ mới gặt lấy những hậu quả từ chính thái độ xem thường ấy.

Tôi phải thú nhận một điều: vào ngày 16 tháng Một tôi có ý định rời Quảng trường Wenceslas ngay sau khi đặt hoa ở tượng đài. Hóa ra, tôi ở lại đấy hơn một giờ, chính vì tôi không thể nào tin vào mắt mình. Một chuyện đã xảy ra mà tôi có nằm mơ cũng không thể nào thấy. Sự ngăn cản hoàn toàn vô ích của công an đối với những người chỉ muốn âm thầm và lặng lẽ đặt hoa gần tượng đài đã thành công tức thì trong việc biến một nhóm người tình cờ đi ngang qua thành một cuộc biểu tình đông người. Tôi nhận thức chính xác rằng nếu việc như thế có thể xảy ra được thì dân chúng ắt hẳn vô cùng bất mãn.

Cáo trạng trích dẫn lời tôi nói với các nhà lãnh đạo nước ta rằng tình hình là nghiêm trọng. Thực ra tôi nói với họ tình hình còn nghiêm trọng hơn họ nghĩ nhiều. Rồi vào ngày 16 tháng Một, tôi bất ngờ nhận thức rằng tình hình còn nghiêm trọng hơn cả tôi nghĩ trước đây.

Là một công dân muốn thấy mọi sự trên đất nước mình diễn ra ôn hòa và êm thắm, tôi thành thực tin tưởng rằng cuối cùng nhà cầm quyền sẽ chú ý đến bài học ấy để bắt đầu đối thoại nghiêm túc với mọi tầng lớp trong xã hội, và không một ai sẽ bị loại ra khỏi cuộc đối thoại ấy chỉ vì họ bị quy chụp là “chống chủ nghĩa xã hội”. Tôi thành thực tin tưởng rằng cuối cùng nhà cầm quyền sẽ không còn đóng vai cô gái xấu xí đập vỡ gương vì tin rằng hình ảnh trên gương thật đáng trách. Đó cũng là lý do tôi tin tưởng tôi sẽ không bị kết tội vô căn cứ một lần nữa.

(Lời tuyên bố của Václav Havel sau khi tuyên án)

Vì tôi cảm thấy không có tội nên tôi cảm thấy không có gì hối hận, còn nếu tôi phải chịu sự trừng phạt, tôi sẽ coi sự trừng phạt đối với tôi là sự hy sinh vì chính nghĩa, một sự hy sinh rất nhỏ nhoi so với sự hy sinh tuyệt đích của Jan Palach*, mà nhân ngày hy sinh ấy chúng tôi định đến tưởng niệm.

Nguồn: Bản dịch tiếng Anh của Alice và Gerald Turner. Tựa đề tiếng Việt của người dịch.

http://nsarchive.gwu.edu/NSAEBB/NSAEBB271/doc18-trans.pdf

Chú thích

* Jan Palach là sinh viên Tiệp Khắc tự thiêu vào ngày 16 tháng Một 1969 tại Quảng trường Wenceslas ở Prague. Qua sự hy sinh cao quý nhất này anh muốn đánh thức sự vô cảm của người dân Tiệp theo sau vụ Nga xâm lăng Tiệp Khác vào ngày 20 tháng Tám 1968. (chú thích của người dịch)

Trần Quốc Việt

danlambaovn.blogspot.com

Quốc hội thông qua điều 19 BLHS: Luật sư tố cáo thân chủ

2017-06-20
 

Phiên xử blogger Basam Nguyễn Hữu Vinh cùng người cộng sự Nguyễn Thị Minh Thuý tại tòa án Hà Nội ngày 22 tháng 9 năm 2016.

Phiên xử blogger Basam Nguyễn Hữu Vinh cùng người cộng sự Nguyễn Thị Minh Thuý tại tòa án Hà Nội ngày 22 tháng 9 năm 2016.

AFP photo
 
 Quốc hội Việt Nam chiều ngày 20 tháng 6 thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 2015, trong đó có Điều 19 bị giới luật sư phản đối mạnh mẽ.

 

Cụ thể đối với Điều 19, Bộ Luật sửa đổi theo hướng thu hẹp hơn phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người bào chữa về hành vi không tố giác tội phạm như sau: Người không tố giác là người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa.

Ngoài ra, luật sửa đổi cũng quy đinh về trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đối với một số tội danh. Theo đó, những người này chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về loại tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng đối với 3 tội danh cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật Hình sự năm 2015 bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2018.

VIỆT NAM ĐANG ĐỐI DIỆN VỚI 2 CUỘC KHỦNG HOẢNG LỚN.

VIỆT NAM ĐANG ĐỐI DIỆN VỚI 2 CUỘC KHỦNG HOẢNG LỚN.

1) KHỦNG HOẢNG VỀ KINH TẾ.

Việt Nam là một nước nông nghiệp khoảng 80% dân sô làm nông nghiêp. Nhưng từ lợn Thanh Long lúa gạo đều rớt giá.

Việt Nam lấy DNNN là chủ đạo. Nhưng toàn bộ hệ thống DNNN bị đổ bể như các tập đoàn lớn Vinashin Vinalines điện lực than khoáng sản mang lại món nợ công khổng lồ khoảng 321 tỷ đô la bằng 157% GDP của Việt Nam .

Số liệu cho thấy đầu năm 2017 số người được trả thất nghiệp trong khu chế xuất tăng 26%, vậy khối ngoại FDI không khá gì không tăng trưởng và sút giam

Ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế Việt Nam. Món nơ xấu khổng lồ khoảng 600 nghìn tỷ VN Đ bằng 27 tỷ đô la đang làm tắc huyết mạch của nền kinh tế, phần nợ xấu này chỉ tính phần nổi của tảng băng được loại ra trong bảng cân đối tài khoản kế toán. Phần chìm của tảng băng được dấu trong lãi dự thu theo ước tính gấp khoảng nhiều lần phần trên. Nó có thể loàm nền kinh tế vỡ bất cứ lúc nào.

Nợ công của chính phủ đã lên đến 64.5 GDP bằng 107 tỷ đô la. Ngân sách nhà nước năm nào cũng bội chi ngân sách khoảng 6% tương đương 12 tỷ đô la, khoảng 70% ngân sách chi thường xuyên cho 11 triệu người hưởng lương từ ngân sách.

Ngân sách nhà nước hụt thu từ nông nghiệp, DNNNN, hộ gia đình,FDI. Ngân sách nhà nước chỉ trông chờ vào 2 nguồn thu chính bán tài nguyên khoáng sản như dầu thô, bán quyền sử dụng đất và thu thuế.

GDP Việt Nam tăng trưởng chậm 6%, trong khi tín dụng cho vay rất cao khoảng 18%.

2) KHỦNG HOẢNG VỀ NIỀM TIN.

Người dân mất niềm tin về thể chế, mất niềm tin về ý thức hệ cộng sản.

Người dân mất niềm tin ĐCS suốt ngày hô hào chống tham nhũng. Nhưng chẳng thấy tham nhũng giảm mà lại thấy tăng.

Người dân mất niềm tin vào Quốc hội năm nào cũng họp toàn bàn chuyện trên trời dưới biển mà chẳng có tác dụng gì VD điển hình sân bay Tân Sơn Nhất, Quốc hội VN nợ luật BIểu Tình đối với người dân VN.

Người dân mất niềm tin khởi tố vụ cưỡng chế đất Đồng Tâm. người dân đâu còn tìn vào lời hứa của các quan chưc Việt Nam.

Người dân mất niềm tin vào Q Đ và CA suốt ngày làm kinh tế còn đâu lo bảo vệ đất nước nữa.

Người dân lo bi bần cùng hóa mất đất đai nhà cửa trên mảnh đất của mình, trong khi các đại gia và các QC giầu có bất minh.

Người dân mất niềm tin ô nhiễm môi trường thực phẩm bẩn.

Người dân mất niềm tin vào giáo dục ở Việt Nam.

Người dân mất niềm tin vào tham nhũng chính sách quan chức ĐCS.

PTS

Yêu rồi làm

Yêu rồi làm

(Lc 10, 25-37)

 Một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng luôn bị một cô gái làng chơi đến cám dỗ. Ngạc nhiên trước sự thanh thản của vị tu hành, nhưng đồng thời cũng nghi ngờ sự bất bình thường của người đàn ông, cô liền hỏi một câu chế nhạo:

– Thầy không biết yêu sao?

Vị ẩn sĩ trả lời:

– Chưa đến giờ đó thôi?

Câu chuyện bỏ lửng tại đó. Một lần kia, trong lúc đi khất thực, vị tu hành phát hiện người con gái hay đến phá phách mình đó bị bọn cướp trấn lột và đánh cho thừa sống thiếu chết bên lề đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cô ta, chữa các vết thương và đưa cô về thành phố điều trị.

Cô gái sững sờ nhìn vị ân nhân mà chưa biết mở lời ra sao, thì vị ẩn sĩ mỉm cười nói:

– Đã đến giờ rồi đấy, giờ của lòng thương xót!
***
Người thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay hỏi Chúa Giêsu: “Ai là người thân cận của tôi?” Thay vì trả lời, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người Samari tốt lành: Một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Trong khi hai thầy tư tế và Lê vi “tránh qua bên kia mà đi”, thì người Samari ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc.

Chúa Giêsu hỏi lại người thông luật: “Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp?”. Hỏi tức là trả lời. Và người thông luật đáp: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót”. Chúa Giêsu bảo: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10, 37).

Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây và người Samari nhân hậu đã sống luật yêu thương một cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Yêu không chỉ trên đầu môi chót lưỡi, rồi phủi tay không làm gì cả, mà yêu chính là “miệng nói tay làm”, làm thực sự với hết khả năng của mình. Những việc làm cụ thể thường hùng hồn hơn những lời nói suông. Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay. Chúa Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó: “Hãy đi và làm như vậy”. Pascal đã nói: “Khuyết tật lớn nhất của một người là phục vụ quá ít cho những kẻ họ yêu thương”.

Sở dĩ người ta không dám làm một cái gì đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm vượt qua nỗi sợ.

Sở dĩ thầy tư tế và thầy Lê vi “tránh qua bên kia mà đi” là vì các thầy sợ ô uế khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà đến bản thân.

Sở dĩ chúng ta không dám làm một cái gì đó cho người anh em khi họ cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải thiệt thòi, sợ tốn công sức, sợ mất thời gian, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an toàn, tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân! Thầy tư tế và thầy Lêvi đã tự hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra cho tôi, nếu tôi dừng lại và săn sóc người anh em bị đánh nhừ tử?”. Trái lại, người Samari đã đảo ngược câu hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra cho người anh em bị đánh nhừ tử, nếu tôi không dừng lại và chăm sóc người ấy?” Người Samari tốt lành đã xả thân vào một hành động vị tha đầy nguy hiểm.

Yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân. Yêu thương là hy sinh, là quên mình, là hiến thân phục vụ tha nhân: Kahil Gibram có một câu nói chí tình: “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”. Càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, con người càng chết dần mòn trong nỗi cô đơn. Càng muốn được yên thân, con người càng vong thân.

Nỗi khát khao hạnh phúc của con người chỉ có thể được lấp đầy khi họ biết đến gần, cúi xuống phục vụ tha nhân.

Con người chỉ thành đạt thực sự, con người chỉ thục sự là người khi họ dám sống chết cho anh em.

Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là con Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Ki tô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.

Yêu rồi làm. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ biết phải làm gì cho người anh em. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ có sáng kiến để xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo hèn đau khổ. Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho kẻ xa lạ nên người thân cận, kẻ thù địch nên người bạn tốt, chỉ cần chúng ta dám đừng lại, đến gần và cúi xuống trước anh em.

***

Lạy Chúa cuộc sống đạo của chúng con sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu thương chỉ là điều phụ thuộc.

Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính toán ích kỷ; chai đá, dửng dưng trước những khổ đau của anh em. Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen.

Thiên Phúc

‘Giàu bất hạnh, nghèo hạnh phúc’

‘Giàu bất hạnh, nghèo hạnh phúc’

Getty Images
Bản quyền hình ảnh  GETTY IMAGES

Hãy tưởng tượng bạn có thu nhập hàng trăm nghìn đô la một năm, sở hữu ít nhất một ngôi nhà và có khoản tài sản trị giá 1 triệu đôla. Rõ ràng đó là dấu hiệu của sự thành công dựa trên chuẩn mực toàn cầu?

Thực tế không phải như vậy.

Một cuộc khảo sát đối với các nhà đầu tư tại Mỹ do hãng dịch vụ tài chính toàn cầu UBS thực hiện cho thấy 70% những người đạt các tiêu chuẩn nêu trên không tự nhận mình giàu có.

Chỉ có những người với khối tài sản giá trị trên 5 triệu đôla mới tự tin cho rằng mình không cần phải lo lắng về tương lai, trong khi phần lớn những người khác đều lo sợ cuộc sống bị ảnh hưởng nghiêm trọng nếu xảy ra một biến động nào đó.

Nếu ngay cả những triệu phú còn không cho rằng mình giàu, thì những người còn lại trong chúng ta phải nghĩ sao? Liệu chúng ta có nên cố gắng khi kiếm bao nhiêu tiền vẫn không đủ để cảm thấy giàu có?

Những nghiên cứu trải dài suốt hàng chục năm nay đã phủ nhận khái niệm tiền bạc có thể mua được hạnh phúc về lâu về dài.

Một nghiên cứu còn chỉ ra rằng ngay cả những người trúng xổ số cũng không hài lòng với cuộc sống của mình sau khi nhận thưởng. Báo New York Times hồi tháng Hai năm 2017 còn đưa tin về những tỷ phú phải đi trị liệu về tâm lý.

“Khi trở nên giàu có hơn, con người ta thường trở nên thoả mãn trong thời gian đầu, thế nhưng sự thoả mãn không kéo dài,” Jolanda Jetten, một giáo sư về tâm lý xã hội tại Đại học Queensland của Úc, tác giả cuốn The Wealth Paradox, giải thích.

Getty Images
Bản quyền hình ảnh   GETTY IMAGES

Bà cho biết nhiều người có thu nhập cao vẫn không thể đạt được sự thoả mãn ngay cả khi họ ý thức rằng đã có được một cuộc sống ổn định, chỉ bởi vì họ cho rằng giá trị của bản thân là do đồng tiền quyết định.

Jetten giải thích điều này là do những người giàu thường so sánh thu nhập, các khoản đầu tư, giá trị tài sản của mình với những người còn giàu hơn, thay vì so sánh bản thân với phần lớn xã hội.

“Càng làm ra nhiều tiền bao nhiêu thì bạn càng muốn nhiều tiền hơn bấy nhiêu – nó giống như một cơn nghiện,” bà nói.

Đó là vòng quay đã trở nên quá quen thuộc với Pia Webb, một chuyên gia tư vấn về cuộc sống và sự nghiệp, người đã làm việc với rất nhiều các quản lý cao cấp tại châu u. Ngay cả ở quê hương bà, Thuỵ Điển, quốc gia vốn có nền dân chủ xã hội và coi trọng sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống, nhiều người vẫn tự so sánh mình với những người có thu nhập cao hơn, bà cho biết.

“Không ai ngưỡng mộ bạn vì bạn chăm chỉ lao động ở Thuỵ Điển. Thế nhưng bạn lại phải đối mặt với áp lực phải bắt kịp người khác, thể hiện mình là người có tiền, ví dụ như đi nghỉ với gia đình, sở hữu một chiếc thuyền hoặc một căn nhà nghỉ dưỡng,” bà nói.

Webb đã yêu cầu các khách hàng của mình nhớ lại về các trải nghiệm hoặc những món đồ khiến họ cảm thấy hài lòng, thay vì cố gắng kiếm tiền nhiều hơn để bắt kịp với những người ngang hàng.

“Mọi người đều nghĩ rằng tiền là thứ làm nên sự giàu có. Thế nhưng bạn không cần quá nhiều tiền nếu bạn đang thực sự cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống hiện tại,” bà nói.

Webb cũng từng lao đầu theo tiền cho đến khi cạn kiệt sức lực vào 10 năm trước. Giờ đây, bà tìm thấy niềm vui trong những điều nho nhỏ, ví dụ như tắm hơi, đi dạo trong rừng, dành thời gian cho gia đình và bạn bè.

Những người giàu bất hạnh

Nghiên cứu của Jetten chỉ ra rằng những người nghèo khổ đã quen với việc tìm niềm vui trong cuộc sống, và khái niệm niềm vui của họ vượt lên trên tiền và vật chất. Chẳng hạn, họ sẽ thường xuyên dành thời gian cho gia đình hoặc làm các công việc tình nguyện hơn.

Getty Images
Bản quyền hình ảnh  GETTY IMAGES

“Một cuộc sống lành mạnh liên quan trực tiếp đến nguồn vốn xã hội tại một quốc gia và sự kết nối giữa người với người, bà giải thích.

“Tại các quốc gia đang phát triển, tuy một khoản tiền nhỏ cũng có thể tạo nên một sự khác biệt lớn đối với cuộc sống của một người, mang lại cho họ nhiều hơn nhu cầu thiết yếu, nhưng những người không có gì nhiều cũng không quá sợ hãi sự mất mát,” bà nói.

Carol Graham, giáo sư tại trường chính sách công Đại học Maryland, đã gọi nghịch lý này là ‘vấn đề của những người nông dân hạnh phúc và các triệu phú bất hạnh’.

“Các quốc gia giàu có hơn thường hạnh phúc hơn những quốc gia nghèo, thế nhưng vấn đề phức tạp hơn như vậy,” bà nhận định trong một bài viết năm 2010, trong đó bà cho rằng người dân ở Afghanistan có mức độ hạnh phúc tương đương với người Mỹ Latin.

“Tự do và dân chủ khiến người dân cảm thấy hạnh phúc, thế nhưng những điều này trở nên kém quan trọng hơn khi nhu yếu phẩm còn thiếu thốn. Con người có thể phải đối mặt với sự thiếu thốn và vẫn lạc quan, hoặc có tất cả, và vẫn bất hạnh.”

Tất nhiên điều này không có nghĩa là chúng ta tốt hơn nên sống trong nghèo khổ. Thế nhưng nghiên cứu của Graham chỉ ra rằng những người giàu có thể thích nghi với việc thu nhập thấp hơn trước tốt hơn là họ nghĩ.

Jetten cũng cho rằng những người giàu, vốn đã quen với lối sống lý tưởng, có thể phải học lối sống ‘dựa vào nhau và kết nối với nhau’, điều khá phổ biến ở các nhóm và xã hội nghèo hơn.

Krishna Prasad Timilsina, một hướng dẫn viên tại Nepal, nói ông đã chứng kiến cảnh người dân ở đây chấp nhận và vượt qua hậu quả của trận động đất tồi tệ nhất ở nước này vào năm 2015 ra sao.

Thảm hoạ đã cướp đi 8000 sinh mạng và khiến hàng nghìn người lâm vào cảnh vô gia cư. Thế nhưng nhiều người dân ở đây vẫn cảm thấy may mắn.

Can poverty buy you happiness? Maybe so.
Bản quyền hình ảnh   KRISHNA PRASAD TIMILSINA
Sự nghèo đói có khiến bạn hạnh phúc không? Cũng có thể chứ. “Nếu bạn không có xe hơi, bạn sẽ không phải lo lắng về xăng,” Krishna Timilsina, 36 tuổi, giải thích

“Một cơn động đất có thể phá huỷ rất nhiều thứ, thế nhưng nhiều người vẫn thấy vui vì họ không mất gia đình… hậu quả đã có thể tồi tệ hơn nhiều,” người đàn ông 36 tuổi này nói.

Trên thực tế, trong lúc nền du lịch của Nepal bị ảnh hưởng nặng nề bởi thảm hoạ nói trên, nước này vẫn vượt lên 8 bậc để lên xếp thứ 99 trên 155 quốc gia trong Chỉ số Hạnh phúc Toàn cầu năm 2017, đứng trên cả Nam Phi, Ai Cập và trên cả quốc gia láng giềng Ấn Độ – một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới.

Tuy nhiên Tilmilsina không tin là đất nước của ông sẽ tránh khỏi tình trạng chạy đua tiền bạc như những quốc gia khác.

“Ở khu vực thành phố, nhiều người được giáo dục lại tỏ ra lo lắng về cuộc sống hơn. Bố mẹ tôi không có tiền nhưng họ lại hạnh phúc hơn tôi,” ông cười nói.

Tương lai của sự giàu có

Trong lúc các nghiên cứu về thu nhập và đời sống trở nên đa dạng hơn, ngày càng có nhiều chuyên gia cho rằng hình tượng truyền thống của vật chất – như việc sở hữu một chiếc xe hơi hay một ngôi nhà, đang thay đổi, do thế hệ thiên niên kỷ ở nhiều quốc gia trở thành thế hệ đầu tiên kiếm ít tiền hơn bố mẹ mình và gặp nhiều khó khăn trong việc mua nhà.

Eileen Cho cho rằng việc kiếm ra tiền để tiết kiệm hoặc đầu tư vào bất động sản không khác nào 'bản án chung thân'
Bản quyền hình ảnh   EILEEN CHO
Eileen Cho cho rằng việc kiếm ra tiền để tiết kiệm hoặc đầu tư vào bất động sản không khác nào ‘bản án chung thân’

Mặc dù thế hệ thiên niên kỷ có thể tỏ ra khó chịu trước điều này, thế nhưng nó cũng có nghĩa là ‘thế hệ này sẽ ít phải hứng chịu những tác động tiêu cực của vật chất hơn, ví dụ như sự ích kỷ, ái kỷ…,’ Jetten nói.

Cũng có các tín hiệu cho thấy ngay cả những người thu nhập cao, vốn hoàn toàn có khả năng đầu tư vào chứng khoán hoặc bất động sản, lại chọn trả tiền cho những trải nghiệm. Tại Hoa Kỳ, kể từ năm 1987, tỷ lệ tiêu dùng đối với các sự kiên và các hoạt động mang tính trải nghiệm trực tiếp so với mức tiêu dùng đối với hàng hoá đã tăng 70%, theo Bộ Thương mại Hoa Kỳ.

Eileen Cho, một nhiếp ảnh gia thời trang 25 tuổi người Mỹ sống tại Paris là một ví dụ. Cô lớn lên tại Seattle, thế nhưng cô cho rằng việc kiếm ra tiền để tiết kiệm hoặc đầu tư vào bất động sản không khác nào ‘bản án chung thân’.

Mặc dù được gia đình đề nghị giúp đỡ về tài chính để mua nhà, cô lại quyết định thuê căn hộ 30 mét vuông ở cùng với bạn trai.

“Chúng tôi trả 1.030 đôla một tháng và vẫn có đủ tiền đi du lịch quốc tế,” cô nói.

“Đối với tôi, cái quan trọng là có được những trải nghiệm và cảm thấy hạnh phúc. Ngày mai tôi sẽ đi Tây Ban Nha; chuyến đi tiếp theo của tôi là Marrakech.”

Đây là cách nhìn mà Pia Webb ủng hộ, mặc dù bà cho rằng những lao động trẻ tuổi cần tránh biến việc du lịch và những trải nghiệm khác trở thành xu hướng cạnh tranh mới.

“Du lịch là cách rất tốt để học về những nền văn hoá khác, để hiểu hơn về bản thân mình và xem mình thuộc về đâu, thế nhưng nó cũng có thể trở thành một kiểu nghiện. Bạn có thể thích thú với việc trải nghiệm những điều mới – cũng giống như những người đi mua sắm. Thế nhưng điều này có nghĩa là bạn không có cuộc sống ổn định, hoặc bạn đang bỏ lỡ thời gian dành cho gia đình,” bà nói.

“Lời khuyên tốt nhất của tôi dành cho bạn là hãy tìm những gì phù hợp với mình và học cách để có được hạnh phúc từ những điều nhỏ nhất trong cuộc sống, dù bạn ở bất cứ đâu.”

Đường ống nước sông Đà lại vỡ lần thứ 21

Đường ống nước sông Đà lại vỡ lần thứ 21.

TTO – Một sự cố rò rỉ lại vừa xảy ra với đường ống nước sông Đà (Hà Nội) vào sáng hôm qua 18-6. Cho đến khi khắc phục xong vào đêm qua, Vinaconex mới thông báo rộng rãi về sự cố này.

Đường ống nước sông Đà lại vỡ lần thứ 21
Các công nhân khắc phục sự cố trong một lần đường ống cấp nước sông Đà bị vỡ – Ảnh: Q.Thế

Người Tị Nạn và Việt Kiều

Người Tị Nạn và Việt Kiều
(Tựa nguyên tác của tác giả)

Sau năm 1975, người Việt Nam bỏ nước ra đi tị nạn đã bị Cộng Sản gọi bằng những danh từ khác nhau. Những danh từ nầy mang những hậu ý chính trị gian xảo, do đó việc tìm hiểu ý nghĩa chính xác những danh từ nầy thật cần thiết để chúng ta sử dụng chính xác trong từng trường hợp.

Người tị nạn.

Khi vào cưỡng chiếm đất miền Nam, cưỡng đoạt tài sản dân miền Nam, Cộng Sản đã gọi tất cả dân miền Nam là bọn Mỹ Ngụy. Đối với người dân có cơ may vượt thoát được bằng những cuộc vựơt biển, vượt biên để xin tị nạn ở các xứ tự do, cộng sản dùng nhiều danh từ để điểm mặt người tị nạn.

Nhưng chẳng bao lâu, Cộng Sản hiện nguyên hình là bọn gian manh. Năm 1990, khi Cộng Sản bắt đầu nhận tiền của người tị nạn gởi về là Việt kiều, và ân tình hơn, Đỗ Mười tuyên bố Việt Kiều là những khúc ruột ở bên ngoài ngàn dặm của dân tộc.

Tưởng cần hiểu từ nguyên chữ Việt kiều để thấy rõ thâm ý của Cộng Sản. «Kiều» chữ Hán có nghĩa là ở nhờ, ở làng khác hay nước khác được dùng làm tỉnh từ cho những danh từ như «kiều dân» là người sống ở ngoài lãnh thổ mà người đó đã được sinh ra, «kiều bào» là đồng bào ở nước ngoài. Dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, người Hoa sống ở VN được gọi là Hoa Kiều và chế độ Hà Nội gọi những người Việt sống ở nước ngoài và ủng hộ họ là «Việt kiều yêu nước».

Người Việt bỏ xứ ra đi tị nạn không phải là Việt kiều, kiều bào, vì những người nầy đã không chấp nhận chế độ Cộng Sản, đã sinh cơ lập nghiệp vĩnh viễn trên một quốc gia khác, đã có quốc tịch của một quốc gia khác. Gọi người tị nạn là Việt kiều, Cộng Sản có gian ý là muốn «tóm thâu» cái khối chất xám nầy là «con dân» của họ, còn đặt dưới quyền sinh sát của họ. Nghị định số 78/2009/NĐ ngày 22/09/2009 về luật quốc tịch xác định rõ quan niệm nầy, theo đó bao giờ người mang quốc tịch VN chưa được chính phủ VN cho phép từ bỏ quốc tịch, người ấy vẫn còn quốc tịch VN dù rằng người ấy đã có quốc tịch Mỹ, Canada, Úc…Càng lộng ngôn và ngang ngược hơn, với con cháu của người Việt tị nạn, dù sinh ra và lớn lên tại các quốc gia của ông cha họ đã định cư, cộng sản cũng xem những người nầy vẫn có quốc tịch Việt Nam nếu chưa phép làm đơn xin bỏ quốc tịch và chưa được chính phủ VN chấp thuận.

Về điểm nầy, chúng ta thấy rõ chánh sách trơ tráo, đánh lận con đen của Cộng Sản. Theo điều 13, khoản 2, Luật Quốc tịch sửa đổi năm 2008 , «Người VN định cư ở nước ngoài vẫn có quốc tịch VN. Sau 5 năm từ khi luật nầy có hiệu lực, kiều bào phải đến cơ quan đại diện của chính phủ VN tại nước ngoài để đăng ký xin giữ quốc tịch, nếu không, sau ngày 1/7/2014 sẽ mất quốc tịch».

Sau 5 năm, chỉ có khoảng 6000 người ghi tên xin giữ quốc tịch. Trái với dự tính vì số người xin giữ quốc tịch quá ít, tháng 7/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký luật gia hạn cho người muốn giữ quốc tịch thêm 5 năm nữa, tức là sẽ chấm dứt ngày 1/7/2019.

Ngôn từ Cộng Sản thật lật lọng. Cho đến ngày 1/7/2019, người Việt ở hải ngoại mặc nhiên vẫn còn quốc tịch VN, vẫn bị chi phối bởi Luật quốc tịch VN giải thích «rộng rãi» theo luật rừng. Chính bà Ngô Bá Thành, chuyên viên xách động xuống đường thời VNCH, được CS phong cho chức Chủ nhiệm Ủy Ban Pháp Luật của Quốc Hội đã ví von : Việt Nam có một rừng luật và áp dụng luật rừng. 

Và cho đến đầu năm 2014, chính phủ VN vẫn còn khư khư giữ quan niệm cha chú nầy với người Việt tị nạn. Trong bài huấn từ của Nguyễn Thanh Sơn, Thứ Trưởng Bộ Ngoại giao đặc trách Cục Người Việt nước ngoài đã nhắn nhủ cho phái đoàn «Việt Kiều yêu nước» về quê ăn Tết, ông nhắc lại lời của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt 20 năm trước như sau : «Cộng đồng người Việt ra đi sau chiến tranh và định cư ở nước ngoài rất đặc thù, không giống các cộng đồng ngoại kiều khác. Những thuyền nhân ra đi đa số là vì mục tiêu kinh tế chứ không phải mục đích chính trị. Có bộ phận những người ra đi sau cuộc chiến tranh mang theo tư tưởng hận thù của những người thua trận và được tuyên truyền rất nhiều điều ghê sợ không có thực về chủ nghĩa cộng sản ... Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị đã khẳng định rõ chủ trương, chính sách của đảng, nhà nước, coi cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của dân tộc Việt Nam, tức là những người máu mủ ruột thịt thực sự, không phân biệt đó là thành phần nào, đó là ai. (Xuân quê hương 2014 – danlambao 3/2/2014).

Đối với những Việt Kiều yêu nước, Cộng Sản muốn gọi tên gì thì cứ gọi và sai bảo điều gì thì cứ làm. Nhưng đối với người Việt tị nạn Cộng Sản, họ không phải là Việt kiều mà là người Mỹ, người Canadiens , người Pháp, người Úc, người Đức gốc Việt… Phải gọi chính danh như vậy và phải tôn trọng quyền chọn lựa của họ là không chấp nhận chế độ cộng sản.

 

 

 

 

 

 

 

 

Việt Kiều và Nghị Quyết 36.

Không người Việt tị nạn nào ngu xuẩn tự xưng mình là Việt kiều, nếu có, đó là những Việt kiều yêu nước. Tưởng cần biết qua lai lịch của những Việt kiều yêu nước nầy.
Đa số những Việt Kiều nầy là những sinh viên xuất ngoại du học từ thời Việt Nam Cộng Hòa nhờ học bổng của Plan Colombo hay các quốc gia Âu Mỹ. Từ cuối năm 1970, một số con em của những người có thế lực, nhà giàu cũng được xuất ngoại tự túc. Những sinh viên có học bổng sau khi hết học bổng không chịu về nước vì sợ đi quân dịch, nên tìm cách ở lại tại các quốc gia đã du học một cách bất hợp pháp. Phương thức thông thường là kết hôn với người dân sở tại để có quốc tịch, và để biện minh cho hành động hèn nhát, họ chạy theo các phong trào sinh viên phản chiến ở Pháp, Mỹ, Canada để chống chiến tranh Việt Nam mà theo họ là do Mỹ và chế độ quân phiệt miền Nam chủ động. Họ được cộng sản lợi dụng để tuyên truyền và được phong danh hiệu là Việt kiều yêu nước. Sau 1975, nhiều đám sinh viên phản chiến phản quốc nầy từ Nhựt, Âu châu, Mỹ chạy sang Canada xin tị nạn cùng lúc với thân nhân của họ vừa di tản đến. Họ trương cờ đỏ sao vàng ở những tụ điểm của họ, một số xin về nước để lấy uy với bạn bè, nhưng chính phủ cộng sản lạnh lùng với họ, có khi còn bắt họ bởi lẽ cộng sản dư biết những Việt kiều yêu nước.

Từ cuối thập niên 1990 xuất hiện thêm một số Việt kiều yêu nước già, nguyên gốc là HO, có học và vô học, vì không hội nhập được vào xã hội định cư nên đi đi về về Việt Nam để sống với tiền xã hội của quốc gia định cư, một số khác thất nghiệp muốn về VN để kiếm việc, làm ăn buôn bán. Để đạt được ý định, họ lập công với cộng sản bằng những mưu chước hèn hạ, phản bội lại đồng hương và đồng đội họ, xâm nhập vào các hội đoàn, cơ quan ngôn luận để quấy phá. Nghị Quyết 36 nhờ sự tiếp tay của những Việt Kiều trở cờ phản bội nầy.

Nhiều người Việt tị nạn không biết hay xem thường những tác hại của Nghị Quyết 36 viện lẽ không làm chính trị. Ban hành vào tháng 3 năm 2004, Nghị Quyết 36 nhằm mục đích chiêu dụ người Việt ở hải ngoại về nước và đem tài sản về nước để gọi là đầu tư, đồng thời tìm cách khống chế lực lượng người Việt ngoài nước. Nói chung, Nghị Quyết 36 có thể tóm lược trong 5 điểm:

– Giúp người tị nạn trong việc sinh sống
– Giúp người tị nạn đoàn kết lẫn nhau
-Thu góp tiền bạc và chất xám
– Biện pháp đối với các thành phần chống lại chánh phủ và Đảng ở hải ngoại
– Tổ chức văn hóa vận và tình báo ở hải ngoại

Nhận định từng điểm, NQ 36 mang bản chất gian xảo, trịch thượng . Làm sao CS có khả năng và uy tín giúp người Việt hải ngoại trong cuộc sinh sống trong khi họ đã đẩy đa số người dân trong nước đến chổ bần cùng và mất cả đạo lý, và càng tệ hại hơn, họ xuất cảng tệ trạng ăn cắp tràn lan tại những nơi mà cán bộ của họ đi qua, làm xấu xa dân tộc. Tại Nhật, Mã Lai, Thụy Điễn, nhiều cửa hàng treo bảng hiệu : Cảnh cáo Ăn cắp vặtNo dogs, no Vietnamese.

Họ nói giúp người tị nạn đoàn kết với nhau, nhưng thực sự họ đưa công an và Việt kiều yêu nước xâm nhập các đoàn thể để gây đố kỵ, đánh phá nhau. Chuyện thu góp tài sản thì quá rõ, từ việc gởi tiền đến Việt kiều du lịch mang về nước tiêu xài cung cấp cho cộng sản 12% GDP, duy chỉ có chuyện thu góp chất xám là một cuộc thảm bại .

Một số tác hại của NQ 36 đã thấy rõ trong một số công tác chiến lược như sau:

 Trường dạy tiếng Việt và sinh hoạt tập thể cho thanh thiếu nhi là lò huấn luyện, tuyên truyền
Tại những nơi có đông đảo người Việt, cán bộ cộng sản chủ động hay hợp tác với các đoàn thể, tư nhân mở trường dạy tiếng Việt, đưa sách báo từ VN sang, hay soạn sách theo quan điểm tuyên truyền cho cộng sản. Những buổi sinh hoạt tập thể là những cơ hội thuận lợi để cán bộ hay thầy cô thân cộng rỉ tai, hướng dẫn những măng non theo tư tưởng cộng sản. Tùy mức độ ảnh hưởng, chính sách văn hóa vận nầy tạo một tư tưởng chống đối của giới trẻ với ông cha trong công cuộc chống cộng.

Trong đại hội «Tổng kết 10 năm thực hiện NQ36 và công tác đối với người Việt nước ngoài» ngày 22 tháng 5, 2014, Thứ Trưởng Giáo Dục Trần Quang Quý đã có chỉ thị rõ rệt «…Cần sớm có quy chế về việc dạy tiếng Việt cho người Việt nước ngoài, đặc biệt thế hệ thứ ba, thứ tư để việc kết nối giao lưu được thuận lợi…»

– Xâm nhập các cơ quan truyền thông
Cộng Sản đã tung ra hàng triệu mỹ kim để thành lập, hùn vốn để mua chuộc các cơ sở truyền thông ở hải ngoại, bề mặt chửi bới Cộng Sản linh tinh, nhưng thỉnh thoảng gài vào những bản tin, bài viết vận động chính trị chiến lược có lợi cho cộng sản. Trong bản tổng kết Hội nghị Người Việt nước ngoài lần thứ hai từ ngày 27-29 tháng 09 năm 2012 ở TP Hồ Chí Minh, Thứ Trưởng Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy Ban Người Việt nước ngoài đã nói rõ chương trình hành động: «Tăng cường công tác thông tin đối ngoại , tăng cường đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt ở nước ngoài như đài phát thanh, TV, báo chí, thông qua tổ chức các buổi giao lưu văn hóa, nghệ thuật, triễn lãm tranh ảnh về đất nước, các hoạt động từ thiện, du lịch, sinh hoạt khoa học, sinh hoạt các nhóm trong cộng đồng người Việt hải ngoại…» 
Chúng áp dụng kỹ chiến thuật tuyên truyền của Goebbels (Bộ Trưởng Thông tin Tuyên truyển của Đức Quốc Xã) : Nhắc đi nhắc lại hoài một sự việc không đúng sự thật, ban đầu người ta không tin, lần lần người ta bán tin bán nghi sau cùng người ta tin là sự thật. Internet và báo chí là những phương tiện hữu hiệu dể chúng bôi lọ những người quốc gia tranh đấu chân chính, làm yếu đi lực lượng chống cộng. để từ đó chúng đưa người của chúng vào các hội đoàn. Nhiều tổ chức tranh đấu chính trị đã bị chẻ làm đôi, làm ba và khi các cộng đồng hay tổ chức này bị chúng đánh cho yếu đi hay tan vỡ thì chúng dùng tiền để mua chuộc đám Việt kiều – Việt gian nhảy ra làm bình phong cho chúng hoạt động. Mặc dù chúng dùng mọi mưu chước nhưng cho đến nay, chúng vẫn không thành công lắm trong công tác vận động quần chúng ở Bắc Mỹ, Úc và vài quốc gia ở Tây Âu.

Nhưng Cộng Sản có hai bộ mặt chồng chéo nhau : dịu ngọt và bạo lực.

Tạp chí Cộng Sản gần đây đã viết: «…Tính đến nay, có hơn 100 tổ chức chính trị phản động người VN ở hải ngoại đang nuôi chí phục thù nhằm thực hiện ý đồ đen tối phục quốc. Cầm đầu các hội, các nhóm trên là những phần tử cực đoan, từng là ngụy quân ngụy quyền cũ, có nhiều nợ máu với cách mạng. Chúng đã, đang móc nối, cấu kết chặt chẻ với nhau và với bọn phản động trong nước để hoạt động chống phá cách mạng nước ta …» (TCCS. Phát huy vai trò của Cộng đồng @ttp://tapchicongsan.orgvn ngày 28/05/2013)

Chánh sách vừa chiêu dụ vừa khủng bố của Cộng Sản đã có tác dụng phần nào trên các vùng đất có người Việt định cư ở Bắc Âu và Đông Âu, nơi có đông đảo người lao động xuát khẩu, di dân bất hợp pháp và du sinh. Trong thập niên qua, các tòa đại sứ hay lãnh sự Cộng sản đã nỗ lực thiết lập 13 cộng đồng người Việt theo chủ trương của NQ 36: «… Nếu chúng ta phát huy cao độ các lợi thế của các lực lượng người Việt Nam ở nước ngoài để phân hóa, cô lập các lực lượng phản động thì chúng ta có thể hạn chế một cách hiệu quả, thiết thực các thế lực thù địch…». Mười ba cộng đồng cộng sản nầy là : 4 tại các quốc gia trước đây là cộng sản (Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga, Đông Đức), 4 tại các quốc gia có nhiều lao động xuất khẩu (Hàn Quốc, Đài Loan, Qatar, Angola), 5 tại các quốc gia ít có người tị nạn (Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Sĩ – ( chú thích: tại Thụy Sĩ còn có một cộng đồng chống Cộng của người Việt tị nạn). Các chủ tịch các cộng đồng nầy là người cộng sản, chỉ làm bù nhìn, việc điều khiển Cộng Đồng do sứ quán hay tòa lãnh sự đảm nhiệm theo quyết định Q12 năm 2008 (Mobiliser les Vietnamiens à l’étranger, p.50).

Ngày 18 tháng 8 , 2014, Trung ương đảng đã tổ chức một cuộc «mạn đàm» tại Praha (Tiệp Khắc) qui tụ những nhân vật cao cấp của Bộ Chính Trị từ trong nước và các đại sứ, đại diện 14 cộng đồng người Việt ở Đông Âu, Bắc Âu , kể cả Thụy Sĩ, Anh, Bỉ để «trao đổi công tác xây dựng tổ chức, vận động quần chúng, lôi cuốn giới trẻ tham gia và phát huy các sinh hoạt cộng đồng»

– Gởi sư quốc doanh ra hải ngoại lập chùa, tu viện
Chùa là nơi gia đình người Việt tị nạn gặp nhau để lễ Phật, niệm kinh, và còn là nơi sinh hoạt xã hội, văn hóa. Biết như vậy, Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy Ban Người Việt nước ngoài đã ký kết với Hòa Thượng Thích Thanh Tứ (Tứ chớ không phải Thích Thanh Từ) Phó Chủ tịch Hội Đồng Trị sự Giáo Hội Phật giáo VN ngày 16 /07/2009 một văn kiện nhằm «phối hợp cộng tác phât sự ở nước ngoài, mở rộng quan hệ, hoạt động của giáo hội sang các nước có đông kiều bào sinh sống». Từ mươi năm nay, tại hải ngoại có nhiều chùa, tu viện được thành lập, mà sinh hoạt chùa không theo truyền thống tôn nghiêm của Phật pháp. Những ngôi chùa nầy tổ chức đại nhạc hội, du lịch, thi hoa hậu và nhiều sinh hoạt của đời thường. Một số thầy chùa, sư nữ gốc là công an, tác phong không phù hợp với người tu hành, làm người phật tử chân chính chán ngán. Ngôi chùa trở nên cơ sở kinh tài cho cá nhân và đảng, sư quốc doanh làm công tác báo cáo, tuyên truyền cho chế độ. Nghị Quyết 36 đã làm tổn hại rất nhiều đời sống tâm linh của người tị nạn.

Người Việt ở hải ngoại
Ngoài ra, chúng ta thường có thói quen gọi chúng ta thuộc cộng đồng người Việt hải ngoại (diaspora) mà Cộng Sản gọi là người Việt nước ngoài. Nếu từ ngữ nầy đúng với tất cả các sắc tộc khác nhưng đối với người Việt, có khi không đúng hẳn bởi lẽ trong số người Việt hải ngoại lại có thêm những người không phải là người tị nạn. Đó là những người xuất khẩu lao động, di dân kinh tế hợp pháp và bất hợp pháp, các du học sinh thân cộng hay theo Cộng. Hiểu như vậy, sự chính xác của từ ngữ sử dụng cần phân biệt theo nội dung và hoàn cảnh.

Bảng 1- Tổng số người Việt tị nạn Cộng Sản ở hải ngoại

 

 

 

 

Bảng 2- Số người Việt xuất khẩu lao động, du sinh, định cư

hợp pháp và bất hợp pháp tại hải ngoại (Việt Kiều)

 

 

 

 

 

 

Nguồn :
– Người Việt ờ nước ngoài @ww.vietkieu.info;
– Wikipedia,
– Migration Policy Institute.
– World Facts Book

Chú thích :

Bảng thống kê trên, tuy xuất xứ từ các cơ quan thẩm quyền nhưng chỉ là những con số ước lượng gồm có:

– 700 000 người Việt ở Cambốt, Thái Lan và Lào là người Việt đã sống lâu đời nhiều thế hệ tại các quốc gia nầy, đại đa số đã nhập tịch. Về người Việt ở Cambot, số thống kê chỉ là phỏng định vì quốc gia nầy không có thống kê. TheoWikipedia, và World Facts Book, người Cambốt gốc Việt chiếm 5% dân số tức khoảng 600 000 người. Bertrand Didier trong bài Vietnamiens au Cambodgevà Annuska Derks trong A picture of the Vietnamese in Cambodia trình bày chi tiết các giai đoạn di cư, định cư, diện mạo của người Việt ở Cambốt (có thể đọc online).

Migration Policy Institute thiết lập thống kê người di dân VN (immigrants) vào tháng 9 năm 2013 dựa vào ước lượng của United Nations Population Division công bố một con số thấp hơn chỉ gồm người di cư xuất khẩu lao động: Cambot: 37 000, Lào: 11 000, Thái Lan: 6000.

– 700 000 người ở Đài Loan, Hàn Quốc, Mã Lai, Nhựt, Trung Quốc, Đông Âu , Nga, Bangladesh, Trung Đông và Phi Châu. Dân số VN tại các quốc gia nầy thuộc nhiều diện khác nhau:

– một số là cư dân hợp pháp phần lớn là phụ nữ lấy chồng người Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mã Lai và những du học sinh tại các quốc gia Đông Âu, Nga, được nhập tịch tại các quốc gia nầy
– một số là người xuất khẩu lao động và cư dân bất hợp pháp.

Như vậy tổng số người Việt ở hải ngoại là :
– Người tị nạn Cộng sản: 2.500 000 người (số tròn) Bảng 1
– Người Việt di cư kinh tế, xuất khẩu lao động, du học sinh, định cư bất hợp pháp: 1 400 000 người Bảng 2 

Tổng cộng số người Việt ở hải ngoại: 3 900 000 người. 
Một cách dễ nhớ: 4 triệu người.
Nguồn : Lâm Vĩnh Bình, Giá Tự Do

Về tổng số người Việt ở hải ngoại, thống kê của nhiều người viết, ngay cả những nhà nghiên cứu khoa bảng thường có khuynh hướng khuếch đại con số, bởi lẽ thay vì sử dụng thống kê chính thức của các quốc gia sở tại, họ lại sử dụng những thống kê của Cục Người Việt nước ngoài của Cộng Sản mà bản chất là gian dối, thiếu chính xác. Đan kể như luận án tiến sĩ : Mobiliser les Vietnamiens de l’étranger : enjeux, stratégies et effets d’un nationalisme transnational của Christophe Vigne do Institut de recherche sur l’Asie du Sud-Est contemporaine (IRASEC) xuất bản năm 2012 cho biết là người Việt ở hải ngoại là 4.3 triệu người trong đó người Việt ở Mỹ là 2.2 triệu (thay vì 1.5 triệu) và ở Canada là 250 000 (thay vì 220 000). «Le RSVN estime à environ 4.3 M le nombre de Vietnamiens résidents à l’étranger. La communauté vietnamienne des États-Unis est de loin la plus nombreuse avec 2.2M de personnes. Environ 250 000 Viet Kieu vivent au Canada, 120 000 en Allemagne et 60 000 en Russie…(p. 13).

Kết luận
Chúng tôi vừa phân tích hai từ ngữ người tị nạn và Việt kiều để phân biệt hoàn cảnh lúc ra đi và vị trí chính trị đối với chế độ cộng sản. Tuy nhiên, khi phải nhắc đến một từ ngữ khác có chữ kiều là kiều hối (mà cộng sản dùng thay cho danh từ ngoại tệ), cái biên giới giữa người tị nạn và Việt Kiều như không còn nữa bởi cả hai đều dùng kiều hối để nuôi dưỡng và củng cố chế độ trong nước.

Thật vậy, kể từ khi Clinton bắt tay với VN năm 1995, người Việt tị nạn về nước ào ạt vì đủ thứ lý do, thăm gia đình, du lịch, du hí… Thật là khó hiểu khi nhiều người đã ra đi tìm cái sống trong cái chết để vượt biển, vượt biên sau những ngày đói rách, khổ nhục hay bị lao tù, và trên đất mới, sau đó cũng không bao lâu, họ lại quay trở về để tiếp tục luồn cúi, nịnh bợ công an, cán bộ phường xã, những người trước đó không lâu là kẻ thù của họ. Vui thú, vinh quang gì? Cứ mỗi lần Tết đến, có khoảng nửa triệu người về VN ăn Tết, mỗi người mang về VN để chi tiêu trung bình khoảng 4000 mỹ kim, như vậy Cộng sản có được dễ dàng ít nhất 2 tỷ mỹ kim kiều hối chỉ trong hai thángNgoài raviệc gởi tiền về VN triền miên từ 40 năm nay để nói là giúp đỡ thân nhân cũng là hiện tượng cần suy nghĩ, bởi lẽ chính số kiều hối khổng lồ nầy đã nuôi dưỡng, củng cố chế độ và duy trì một lớp thân nhân ỷ lại lười biếng, thỏa hiệp với công an để được dễ dàng trong cuộc sống. Dưới lăng kính nầy, người tị nạn có khác gì những Việt kiều yêu nước hay xuất khẩu lao động thân cộng?

Theo Viện Nghiên cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương (Central Institute for Economic Management CIEM), « tính từ năm 1991 đến 2013, lượng kiều hối gởi về hơn 90 tỷ mỹ kim, là chiếc phao cứu tinh cho nhiều doanh nghiệp và là nguồn tài chính quan trọng cho quốc gia. Số tiền trên không kể đến 28% «kiều hối chui» không qua đường dây chính thức và những khoản tiền tiêu khi Việt kiều về thăm nhà. Chỉ năm 2013, số kiều hối gởi về là 11 tỷ. Mỹ là quốc gia chuyển kiều hối về VN nhiều nhất (57% trong tổng số kiều hối chính thức), kế đó là Úc (khoảng 9%), Canada (8%), Đức (6%), Pháp (4%) . Kiều hối là nguồn vốn thứ hai tại VN sau FDI (chú thích của người viết: Foreign Direct Investment là tiền ngoại quốc đem vào VN đầu tư) giúp tăng tiết kiệm, đầu tư, giảm nợ, cải tiến bảng xếp hạng tín nhiệm quốc gia, giúp ổn định tỉ giá, cán cân thanh toán và tăng dự trử ngoại hối . Tóm lại, kiều hối dùng để trả sinh hoạt hằng ngày, đầu tư vào sản xuất kinh doanh và trả nợ». (Cứu tinh của nền kinh tế VN /Alan Phan – ngày 18/12/2014.)

Thông tin trên phát xuất từ một cơ quan kinh tế chiến lược đầu não của cộng sản đã cho thấy không phải là nhóm Việt kiều Đông Âu, hay nói chung những Việt kiều thân Cộng đã gởi tiền về nước để nuôi chế độ mà chính đa số làngười tị nạn. Chỉ tại 5 quốc gia có đông đảo người tị nạn, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã đóng góp hàng năm cho cộng sản VN 84% ngoại tệ. Có gì phi lý hơn, khi người Việt ở Mỹ, Úc, Canada, Pháp, Tây Đức là thành trì chống Việt Cộng, nhưng đồng thời cũng là đại ngân hàng tài trợ cho Việt Cộng. Giải quyết cái phi lý nầy phải là chuyện số một phải làm, tuy đã muộn màng lắm rồi, trước khi nói đến những chuyện tranh đấu khác.

Lâm Văn Bé

Về tác giả Lâm Văn Bé:
Trước 1975, tác giả làm việc và từng giữ các chức vụ:

  • Giáo sư, Giám học, Hiệu trưởng Trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho
  • Tổng Thư Ký Viện Đại Học Tiền Giang
  • Chánh Sở Học Chánh Định Tường

Sau 1975, ông làm Giám đốc Thư Viện Mile End ở Montreal, Canada. Hiện nay, ông về hưu và dành thời gian viết biên khảo.

Bản án cho dân tộc !

From facebook:  Hoang Le Thanh added 3 new photos 
 Bản án cho dân tộc !

Blogger Mẹ Nấm- Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là một nhà hoạt động lên tiếng mạnh mẽ về nhiều vấn đề tại Việt Nam như chống Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa; cổ xúy cho quyền con người; chống nạn công an bạo hành, bảo vệ môi trường sạch…

Mẹ Nấm là một người phụ nữ dũng cảm và kiên cường.

Ở bên ngoài, người khen kẻ chê, thậm chí còn có kẻ thù hằn nhỏ nhoi. Dư luận và công luận phán xử theo cảm tính và không phải lúc nào cũng công tâm.

Họ làm như họ đúng đắn, kiên định và công bằng lắm.

Bước chân vào tù, mọi suy nghĩ và đấu trí rất căng thẳng, người tù nhân lương tâm bị cắt đứt hoàn toàn mọi nguồn tin, thậm chí không cho thăm nuôi, không cho thân nhân gặp mặt.

Mẹ Nấm – trong suốt hơn 8 tháng qua – đã không được gặp mẹ già và 2 đứa con thơ dại thậm chí Mẹ Nấm cũng không được gặp Luật sư của mình, …

Tư tưởng, tinh thần người tù nhân lương tâm chiến đấu trong cô đơn, tuyệt vọng, đến khi có quyết định ra tòa, gia đình và công luận mới biết cô còn sống.

Bất cứ Mẹ Nấm nhận tội hay không nhận tội, cô vẫn là tấm gương sáng chói mà hằng vạn người phải tôn trọng và học hỏi.

Những tội trạng vô lý mà nhà cai trị áp đặt trên vai gầy bé nhỏ của cô quả hết sức nặng nề, tuy còn 10 ngày nữa mới ra tòa, nhưng ai cũng biết bản án bỏ túi đã định sẵn.

Bất cứ bản cáo trạng như thế nào, Mẹ Nấm vẫn là người VÔ TỘI.

Bất cứ hoàn cảnh nào Mẹ Nấm vẫn xứng danh nữ anh thư đất Việt.

Chế độ này sẽ không tồn tại để giam Mẹ Nấm đến hết hạn tù.

Chúng ta càng trân trọng những công lao đóng góp và cống hiến cho Tổ quốc Việt Nam của Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.

Hãy ghi nhớ gương mặt tên chánh án và bọn tay sai Trung cộng. Dân tộc và Tổ Quốc sẽ có ngày trừng trị bọn chúng.

Chúng ta yêu thương, cảm phục và kính trọng Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.

Ảnh mới nhất của Mẹ Nấm tại chụp tại công an tỉnh Khánh Hòa vào chiều ngày 10/10/2016 (đã chụp cách nay hơn 250 ngày).

Image may contain: 1 person, closeup
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.

MÌNH THÁNH CHÚA

MÌNH THÁNH CHÚA

            Làm cách nào bánh và rượu trở thành Mình Máu Thánh Chúa?  Chúa có hiện diện thật sự trong hình bánh và rượu không?  Hay đó chỉ là một biểu tượng?

************************

            Tình yêu
            Khi yêu nhau, người ta muốn gần nhau.  Ở nơi nào cũng thế, con người thời nào cũng vậy.  Tình yêu là một sự kiếm tìm không mệt mỏi, nó là khắc khoải trong trái tim này đói khát trái tim kia.

            Chưa yêu, trái tim còn nguyên vẹn.  Khi yêu nhau, trái tim chỉ còn một nửa vì nó cần nửa kia để sống.
            Không có tình yêu nào muốn xa nhau, bởi, nửa trái tim kia là mong nhớ.  Chúa Kitô cũng vậy.  Trong mơ ước của Chúa, luôn có bóng hình con người chúng ta, như lời thánh Gioan viết về lời cầu nguyện của Chúa.  “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng ở đó với con” (Yn. 17:24).  Cái tha thiết của tình yêu ấy đưa trái tim này vào trong trái tim kia.  Họ phải có nhau.
           

 Tình yêu và quà tặng
            Yêu nhau người ta thường tặng quà cho nhau.  Chả mấy người yêu nhau mà không trao nhau quà tặng.  Có quà tặng tình thơ tuổi học trò.  Có quà tặng tuổi vào đời.  Có nhiều thứ quà tặng trong tình yêu.  Có quà tặng vợ chồng gởi cho nhau.  Tình yêu cần nhiều ngôn ngữ để diễn tả.  Có người muốn tặng quà để chứng minh tình yêu.  Có người cần quà tặng để biết rõ minh chứng mình được yêu. Quà là dấu chỉ đưa tin cho những trái tim ấy xô dạt nhau vào nhiều say đắm hơn.

            Quà không phải là tình yêu, nó chỉ là ngôn ngữ nói về tình yêu.  Quà tặng không thay thế được tình yêu, nó chỉ là tiếng gõ cửa cho trái tim kia mở ra để tình yêu này đi tới.
            Cho một phần quà chỉ là cho một phần yêu thương của con tim.  Yêu thương càng đậm thì phần quà cho đi ấy càng nhiều.  Vì thế, có người dám chết cho quê hương.   Có kẻ dám hy sinh mạng sống cho người mình thương.  Cha chấp phận mưa nắng, mẹ thức thâu đêm bên giường con bệnh.  Tình yêu và quà tặng là bến bờ cho nhau gởi nỗi niềm qua lại.
            Khi Ðức Kitô yêu thương, Ngài cũng cho đi quà tặng như lời Ngài nói: “Tôi là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Yn. 10:11).  Vì quà tặng chưa phải là tình yêu, nó chỉ là một phần yêu thương, nó chỉ là ngôn ngữ diễn tả tình yêu nên người được yêu vẫn chẳng bao giờ thật lòng thỏa mãn với quà tặng mà lại không ngóng trông chính tình yêu sẽ đến.
            Kẻ thỏa mãn với quà tặng mà không mong mỏi chính tình yêu, người đó chỉ đi buôn tình yêu chứ không phải là đã được yêu thương.
            Kẻ cho quà tặng mà không dám để tình yêu mình thực sự đến với người mình yêu, thì họ đang gạ gẫm chuyện tình chứ họ cũng chưa yêu gì.
            Khi tôi đi tìm quà tặng nơi Ðức Vua mà không chiếm hữu chính Ðức Vua làm quà tặng, tôi vẫn còn đứng ngoài sân cửa nhà Ngài, chứ chưa vào trong hoàng cung.
            

Người tặng quà hay quà tặng?
            Tôi xin Ðức Kitô ơn này, ơn kia, tôi xin Ngài cho tôi sức khỏe, công ăn việc làm, là tôi vẫn mới xin những ơn huệ của Ngài.  Trong cuộc đời, tôi chỉ muốn quà tặng nơi Ðức Kitô hay tôi muốn chính Ngài là người cho quà?

            Nếu tôi chỉ muốn quà tặng mà không muốn chính người cho quà, tôi sẽ bỏ người cho quà khi tôi không đạt được quà tôi muốn.
            Nếu người cho quà biết rằng tôi chỉ muốn quà tặng chứ không muốn chính người cho quà, liệu người ấy có muốn giữ liên hệ với tôi chăng?
            Rất nhiều lời cầu xin của tôi chứng tỏ tôi chỉ muốn Chúa cho tôi ơn này, ơn kia chứ tôi không xin chính Chúa.  Bằng chứng là xin ơn mà không được thì bỏ nhà thờ.  Họ chỉ muốn ơn thôi chứ đâu muốn người cho ơn.  Ngày nào tôi ôm trọn được người cho quà là chính Ðức Vua, tôi sẽ có tất cả những gì Ðức Vua có, như lời Kinh Thánh nói: “Trước tiên hãy tìm Nước Thiên Chúa trước rồi mọi sự sẽ được ban cho ngươi sau” (Mt. 6:33).
            Khi Ðức Kitô yêu thương thì quà tặng quý nhất chính là con người Ðức Kitô.  Cho một phần quà mới chỉ là cho một phần yêu thương thôi.  Khi nào cho trọn vẹn con người của mình mới là cho tất cả.  Nếu Ðức Kitô chỉ cho một phần quà thì Ngài chưa cho hết.

            

Tình yêu và biểu tượng
            Yêu là muốn gần.  Người ta không thể cứ ở xa rồi gởi biểu tượng của tình yêu thay thế cho tình yêu.  Người ta không thể gởi quà tặng làm kẻ đại diện cho tình yêu để những quà tặng ấy yêu nhau.  Yêu là muốn lại gần.  Yêu là muốn có nhau.  Như vậy làm sao người ta có thể nói Mình Thánh Chúa chỉ là biểu tượng?

            Nếu bánh thánh không là sự hiện diện thật của Ngài, nếu Ngài không yêu tôi bằng con người thật thì tình yêu con người và Thiên Chúa sẽ cứ mãi mãi là dang dở.  Chính điều này mới nghịch lý, chính điều này mới khó hiểu chứ không phải sự hiện diện thật sự thịt máu Ngài trong bánh thánh là điều khó hiểu.
            Xét trong ý nghĩa yêu là cho đi trọn vẹn, yêu là cho đi tất cả, đương nhiên bánh thánh phải là thịt máu Chúa thật sự.  Vì Chúa muốn ở gần tôi, với tôi, và trong tôi.  Chúa không thể cử một biểu tượng đến ở trong tôi.
            Khi nói bánh thánh chỉ là hình ảnh của Chúa, điều ấy mới thực sự khó hiểu.  Vì làm sao một Thiên Chúa là tình yêu, đã chết trọn vẹn cho tôi trên thập giá, lại không muốn ở với tôi trọn vẹn mà chỉ gởi lại một biểu tượng ở lại với tôi mà thôi.
          

  Hai câu hỏi
            Khi đặt câu hỏi “làm cách nào” bánh có thể trở thành Mình Chúa là đặt sai câu hỏi.

            Câu hỏi này chỉ là phần hậu của câu hỏi “tại sao” bánh lại trở thành Mình Chúa thật.  Thí dụ, làm cách nào tôi gởi cánh hoa cho người tôi thương mến?  Tôi có thể tự chân mình đi tới.  Tôi có thể gởi người thay tôi cầm đến.  Tôi có thể gởi qua bưu điện.  Tôi có thể đặt mua và yêu cầu người bán hoa đem tới.  Có nhiều cách.
            Vấn đề là “tại sao” tôi lại tặng hoa cho người đó?
            Câu hỏi động lực nào thúc đẩy tôi tặng hoa mới là câu hỏi thiết yếu.  Không có câu hỏi này sẽ không có vấn đề tặng hoa.  Có tặng hoa hay không?  Câu hỏi này xác định có tình yêu hay không.  Khi có tình yêu rồi, khi quyết định tặng hoa rồi, cách nào cánh hoa tới chỉ là câu hỏi phụ thuộc, nó phải bám vào câu hỏi trước.
            Cũng như tôi có thể giết một người bằng nhiều cách khác nhau, bỏ thuốc độc, bắn súng, chém bằng dao, xô xuống sông.  Có nhiều cách đưa đến cái chết.  Cách nào, điều ấy không quan trọng.  Trước quan tòa, tôi được tha tù hay kết tội tùy thuộc có một câu hỏi thôi: Tại sao tôi đã giết người, tự vệ hay để vui chơi?
            Người nhận thư không băn khoăn, không khắc khoải người đưa thư là đàn ông hay đàn bà.  Chẳng có người yêu nào cầm lá thư, rồi tìm kiếm những dòng chữ trong đó xem cách nào cánh thư bay tới đây, ông bưu điện đi xe đạp hay xe máy.  Nhìn lá thư, tim họ hạnh phúc, họ chìm trong tình yêu.  Họ chỉ hỏi tại sao người ấy lại gửi những dòng chữ này cho tôi.  Câu trả lời xác định hạnh phúc đang có đó: Vì người ấy yêu tôi!
            Ðối với Chúa cũng thế.  Không phải làm cách nào bánh rượu trở thành Mình Máu Thánh Chúa. Câu hỏi phải là: Tại sao bánh rượu lại trở nên Mình Máu Thánh Chúa?  Và câu trả lời rất đơn giản, rất chính xác: Vì Chúa yêu tôi!  Chúa muốn ở với tôi.  Chúa muốn gần tôi.

************************

 Chiếc bánh và tuổi thơ
            Bà mẹ nghèo, cứ mỗi chiều thứ tư, lúc bà về nhà, thế nào cậu bé cũng được miếng bánh.  Cậu vô tư nô đùa như thế với lũ bạn trước cổng nhà rồi đợi mẹ về.  Cậu đã ăn miếng bánh như vậy bao nhiêu lần nhưng vô tâm thờ ơ.

            Rồi một ngày, cậu băn khoăn, tại sao mẹ lại chỉ mua bánh cho mình vào chiều thứ tư?  Cậu bé bắt đầu tò mò về thắc mắc ấy.  Ngày nọ cậu muốn khám phá cái bí mật kia.  Cũng một ngày thứ tư, lúc bà mẹ ra khỏi nhà, cậu bé chạy dõi theo xa xa.
            Thứ tư là ngày hội của các bà mẹ.  Sau phiên hội, các bà ngồi ăn bánh, uống nước trà, chuyện vãn với nhau trước khi về.  Ðứng đàng sau tấm ván cửa sổ, cậu thấy các  bà mẹ ăn bánh vui vẻ, riêng mẹ mình gói miếng bánh vào tấm giấy, cất vào túi.  Bà chỉ uống nước thôi.  Cậu nhìn mà thương mẹ, trong khi các bà kia ăn bánh vui vẻ thì mẹ mình chỉ uống nước.
            Bây giờ cậu mới biết tấm bánh mỗi chiều thứ tư do đâu mà có.  Không phải mẹ đi chợ mua, mà mẹ để dành cho mình.  Càng nghĩ cậu bé càng thương mẹ.  Xong họp, các bà mẹ chuẩn bị ra về.  Cậu vội chạy trước, giả bộ như không biết gì, lòng hồi hộp tội nghiệp cho em.  Như mọi lần, về đến cổng bà cũng lại gọi con:

–          Mẹ có quà cho con.
Lần này cậu bé biết rồi.  Mẹ có mua đâu, mẹ hy sinh nhịn ăn để dành cho con mà.

Cậu bé cầm miếng bánh ra đầu nhà.  Nó nhìn miếng bánh trên tay và rớt nước mắt.  Hình ảnh mẹ lại hiện lên rõ như ban chiều.  Chung quanh cái bàn, bình nước trà, các bà mẹ vui cười ăn bánh, riêng mẹ mình chỉ uống nước.  Cậu nhớ từng chi tiết, cái dáng điệu không mấy tự nhiên của mẹ, mẹ như rón rén cất miếng bánh vào túi kín đáo không muốn cho ai thấy.  Lúc mẹ làm như thế chắc chắn mẹ nhớ tới đứa con của mẹ.  Thế mà, từ bao lâu nay mình cứ ăn những miếng bánh ấy trong cái vô tâm chẳng biết đến lòng hy sinh của mẹ.
            Cậu bé nhìn miếng bánh trên tay, nước mắt lăn dài trên má.  Cậu thấy thương mẹ quá.  Cầm miếng bánh trên tay lần này cậu không dám cắn.  Cậu không thể vứt đi, đấy là tình thương của mẹ.  Cầm mãi, sau cùng cũng phải ăn, đưa miếng bánh lên miệng, nước mắt cứ chảy thôi.  Cậu bé nhai miếng bánh trong mếu máo.
            Cậu không thấy cái ngọt của đường nữa mà là cái vất vả của người mẹ hy sinh cho con mình.  Trong chất hy sinh ấy, vị ngọt của miếng bánh không là mùi sữa thơm mà là lòng thương con.
            Từ ngày đó trở đi, cứ thứ ba là cậu lại băn khoăn về miếng bánh thứ tư hôm sau.  Miếng bánh trở nên tấm bánh “thánh” vì lòng hy sinh của mẹ.  Cứ mỗi chiều thứ tư, cậu bé bồi hồi biết rằng mẹ lại hy sinh vì con.  Rồi lại ra đầu nhà, đứng ăn miếng bánh trong nước mắt.
            Cái ngọt ở đầu lưỡi không phải là đường mà là hy sinh của mẹ.  Một hương vị rất ngọt ngào cho trái tim tuổi thơ biết mình được yêu và biết yêu thương mẹ mình.

************************

            Lạy Chúa,
Miếng bánh vẫn là một, nhưng cái khác biệt là cậu bé thực sự ý thức được miếng bánh ấy đến từ lòng hy sinh của mẹ.  Nếu không, miếng bánh ấy chẳng có gì thay đổi nơi con người cậu bé, nó chỉ là miếng bột trộn với đường.
Mong sao con cảm nghiệm được Chúa trong bí tích Thánh Thể để con ao ước chuẩn bị thánh lễ như cậu bé chuẩn bị nhận miếng bánh của mẹ bằng nước mắt.
Con tin thật Chúa ngự trong bí tích Thánh Thể.  Con kính thờ Mình Thánh Chúa.
 Con muốn hướng lòng con về Chúa mỗi khi đi đường nhìn thấy nhà thờ, vì con tin thật Chúa đang ở đấy với con.

Nguyễn Tầm Thường

From Langthangchieutim