Giáo dục nào, dân trí nấy

Giáo dục nào, dân trí nấy

Thạch Đạt Lang (Danlambao)

Chuyện ở Nhật Bản: Ngày 11.03.2011, trận động đất và sóng thần ở Tōhoku gây ra những chấn động khiến nhà máy điện nguyên tử Fukushima bị rung lắc rồi nước biển tràn ngập. Hệ thống làm mát các thanh uranium, nguyên liệu chính cho hoạt động của một trong các lò phản ứng hạt nhân bị hư hại, chất phóng xạ chảy ra tràn lan hòa vào trong nước biển, trong không khí. Sự rò rỉ chất phóng xạ từ nhà máy điện Fukushima Daiichi buộc chính phủ Nhật phải di tản dân cư trong vòng bán kính 30 km. Đây là thảm họa nguyên tử nặng nề thứ hai sau Chernobyl trong việc sử dụng năng lượng nguyên tử phục vụ lợi ích nhân loại.

Thảm họa kinh hoàng xảy ra, cả thế giới lo lắng, quan tâm nhìn vào nước Nhật. Mọi người vô cùng ngạc nhiên cũng như thán phục dân trí người Nhật. Điều khiến cho cả thế giới phải nghiêng mình cảm phục trình độ dân trí của người Nhật – không nằm ở sự can đảm của những người lính cứu hỏa, những chuyên viên về phóng xạ nguyên tử tình nguyện đi vào chỗ chết để tắt các lò phản ứng hay bịt kín những lỗ hở, chỗ nứt của lò, nơi xì ra những chất liệu giết người vào trong không khí hoặc cách hành xử, biện pháp kịp thời của chính phủ – mà nằm ở cách xử sự, phản ứng của người dân Nhật khi thảm họa xảy ra.

Không hoảng loạn, bối rối, xáo trộn, người dân Nhật rời khỏi Fukushima một cách trật tự, yên lặng theo lời kêu gọi, yêu cầu của chính quyền, đi đến những khu tập trung. Tại đây họ được phân phát quần áo, mền gối, thực phẩm và các nhu yếu phẩm cần thiết. Thành phố Fukushima không hề xảy ra một vụ trộm cắp, đập phá, hiếp dâm, giết người cướp của… Cũng hoàn toàn không có những cảnh chen lấn, giành giật, xô đẩy, dẫm đạp lên nhau nơi phân phát lương thực, nhu yếu phẩm.

Chuyện ở Việt Nam: Ngày 07.07.2017, một phó chủ tịch ủy ban nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội, bà Lê Mai Trang đi ăn sáng đậu xe ngang ngược bị người dân phản đối, liền dùng diện thoại gọi chủ tịch phường và trưởng công an ra giữ xe cho mình để tiếp tục đi ăn sáng.

Đoạn video clip dài khoảng 20 phút được phổ biến trên mạng xã hội Facebook gây nên một trận bão chỉ trích, phê bình. Thái độ ngang ngược, hách dịch của một viên chức cấp quận, một đơn vị hành chánh nhỏ, cũng như sự yêu cầu người dân phải xin lỗi bà Trang của công an phường, chứng tỏ sự ngạo mạn của cán bộ CS, coi người dân như rơm rác, chỉ là những nô lệ để đóng thuế và nuôi béo cán bộ nhà nước.

Hành vi xấc xược của bà Lê Mai Trang không phải là hành động hiếm hoi, việc quan chức, cán bộ, đảng viên CS hách dịch, chửi bới, đánh đập người dân một cách thô bạo càng ngày càng phổ biến trong xã hội Việt Nam.

Từ hai câu chuyện trên, nhiều người sẽ hỏi: Dân trí của một dân tộc hình thành từ đâu? Không cần phải nghiên cứu, tìm hiểu, suy nghĩ sâu xa, dân trí của dân tộc tạo thành từ sự giáo dục cũng như tác động của xã hội. Giáo dục bao gồm giáo dục gia đình, trường học, nền tảng luật pháp của xã hội, đất nước.

Một đất nước có nền tảng giáo dục nhân bản, một hệ thống luật pháp nghiêm minh với tam quyền phân lập, tự do báo chí, xã hội bình yên… người dân đất nước đó sẽ có một trình độ dân trí cao, ý thức được bổn phận, trách nhiệm với mình, với gia đình, xã hội, đất nước, dân tộc.

Dân trí không thể xây dựng, nâng cao bằng bạo lực, vũ khí, dùi cui, còng số 8, tuyên truyền dối trá, mị dân hay đề cao, ca tụng, thần thánh hóa lãnh tụ, bằng kiểm duyệt báo chí, cấm phê bình, chỉ trích lãnh đạo…

Dân trí của người Nhật không phải một sớm một chiều mà có. Để có được ý thức trách nhiệm, bổn phận, lòng tự trọng, thượng tôn luật pháp, trật tự xã hội, cùng với cung cách hành xử lễ độ, khiêm nhường, tôn trọng người khác… cũng như sự bình tĩnh, không hoảng hốt, sợ hãi khi có biến cố, thảm họa, người Nhật đã được giáo dục ngay từ khi còn thơ dại với một hệ thống giáo dục xuyên suốt và một chính sách được nghiên cứu, hoàn thiện sau một thời gian dài nhiều thập niên.

Có dịp, hãy quan sát sinh hoạt của một nhà trẻ ở Nhật. Những đứa bé 5-6 tuổi ở lớp mẫu giáo được dạy dỗ, huấn luyện thế nào là trật tự, ngăn nắp, vệ sinh, lễ độ, nhã nhặn trong khi xử thế, bình tĩnh, không hoảng hốt, la hét gây hỗn loạn khi có biến cố, thảm họa xảy ra.

Hơn thế nữa, nước Nhật còn có truyền thống Võ Sĩ Đạo – Samurai – Ý nghĩa đầy đủ nhất của chữ Samurai là phục vụ. Ngày trước người kiếm sĩ Samurai phục vụ lãnh chúa Shògun. Chế độ Samurai bị Minh Trị Thiên Hoàng dẹp bỏ vào thế kỷ 18 nhưng tinh thần Samurai của người Nhật bất diệt, vẫn tiềm tàng trong huyết quản của mỗi người dân Nhật, từ một công nhân trong nhà máy, một tổng giám đốc công ty đến bộ trưởng, thủ tướng…

Việc thủ tướng Shinzo Abe trực tiếp gửi lời chia buồn cũng như đại sứ Nhật Bản tại VN Kuino Umeda đến thẳng gia đình Lê Thị Nhật Linh – một bé gái VN bị sát hại tại Nhật – nghiêng mình, cúi đầu xin lỗi, cho thấy trách nhiệm, sự lễ độ của người Nhật trong xử sự như thế nào. Người dân Nhật kính trọng mà không ca tụng, thần thánh hóa Nhật hoàng. Thái độ nghiêng mình, cúi đầu chào của người Nhật rất lễ độ, kính trọng, nghiêm trang mà không lộ vẻ hèn hạ, khiếp nhược hay xun xoe, nịnh bợ, giả dối trước người đối diện.

Để có được trình độ dân trí như ngày hôm nay, nước Nhật sau thế chiến thứ hai đã bỏ rất nhiều thời gian, công sức để học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi các chính sách, đường lối giáo dục tốt đẹp, hoàn hảo nhất, hầu phục hồi sự cường thịnh của đất nước trong bàn cờ và khuynh hướng chính trị, kinh tế mới trên thế giới. Có dịp đến nước Nhật, du khách sẽ thấy, không những chỉ ở các phi trường quốc tế, thủ đo Tokyo, những thành phố lớn, trên xe điện ngầm, trong khu thương mại, mua sắm, nhà hát, công viên… mà ngay cả ở những khu bình dân, nghèo, nhà cửa đơn sơ, giản dị, một sự ngăn nắp, trật tự, sạch sẽ rất dễ gây ấn tượng.

Rất khó khăn để có thể tìm thấy một tàn thuốc, một cùi bắp, một vỏ chuối, một lon nước ngọt, một mảnh giấy… nằm trên những con đường nhỏ, ngỏ hẻm chật hẹp. Cũng đố du khách nào có thể tìm thấy hệ thống loa phường như ở VN.

Người Nhật không cần phải ra rả tuyên truyền vào mỗi buổi sáng, cho tổ trưởng, tổ phó, dân phòng kêu gọi, đốc thúc người dân đi dọn dẹp đường phố mỗi sáng thứ Bảy, Chủ Nhật… Họ cũng không trương bảng, dựng cổng chào Khu Phố Văn Hóa ngay cạnh đống rác to lớn, nằm chình ình bên cạnh một quán nhậu có hàng chục thanh niên đang ngồi “uống cạn ly đầy rồi ta sẽ rót đầy ly cạn” vào buổi trưa trong giờ làm việc. Với dân trí cao như vậy, nước Nhật không phát triển, hùng mạnh mới là chuyện lạ.

Sẽ có người hỏi rằng: “Thế còn dân trí người Mỹ thì sao?” Khác với nước Nhật, Mỹ là một quốc gia đa chủng tộc, lãnh thổ lại quá lớn, chính sách giáo dục do liên bang ban hành nhưng tùy theo điều kiện xã hội của mỗi tiểu bang, thành phố sẽ được thay đổi cho phù hợp.

Chính sách giáo dục ở Mỹ tuy không hoàn hảo như ở Nhật, lại đề cao cá nhân – Ego trên hết – nhưng luật pháp của Mỹ nghiêm minh, bên cạnh đó, chương trình giáo dục, nhất là ở bậc trung học các năm cuối cùng, nhà trường luôn kêu gọi, khuyến khích nhưng không bắt buộc trẻ em tham gia các việc thiện nguyện, làm công tác xã hội như rửa xe gây quỹ cho các tổ chức từ thiện, lượm rác, dọn dẹp các công viên vào những ngày cuối tuần, lập những chương trình thu sách vở, quần áo cũ, giúp các nước chậm tiến, các nước nghèo đói ở Phi châu.

Nhiều trường đại học ở Mỹ khi xem xét cấp học bổng cho sinh viên, ngoài thành tích học tập xuất sắc còn tính điểm công tác, tham gia hoạt động xã hội. Cùng một thành tích học tập xuất sắc ngang ngửa nhau giữa nhiều ứng viên xin học bổng, nhưng số học bổng chi có giới hạn, ứng viên nào nhiều thành tích hoạt động xã hội hơn sẽ được chọn. Điều này nâng cao ý thức, lý tưởng phục vụ xã hội cho học sinh, sinh viên Mỹ.

Điều đó giải thích tại sao các tỉ phú Mỹ như Waren Buffet, Bill Gates, Mark Zuckerberg… những người giàu có nhất thế giới nhưng luôn có đời sống bình dị. Warren Buffet đi chiếc xe Volkswagen cũ, không có cận vệ, Bill Gates đi chuyển từ tiểu bang này sang tiểu bang khác, đi họp quốc tế cũng chỉ mua vé phi cơ hạng economy cá kèo hay Mark Zuckerberg ăn trưa bằng MC Donald… nhưng đã đóng góp hàng tỉ đô la hay nhiều hơn vào các tổ chức vô vị lợi, hữu ích cho nhân loại. Nền giáo dục của nước Mỹ dạy cho người ta biết ơn khi nhận được giúp đỡ và trả ơn khi có dịp.

Trở lại chuyện dân trí và giáo dục Việt Nam. Hơn 42 năm thống nhất đất nước bằng bạo lực, hy sinh mấy triệu nhân mạng, xây dựng CNXH, hậu quả ngày hôm nay là Việt Nam có một nền dân trí với những hình ảnh như chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Nhân hất nguyên xô thực phẩm xuống hồ cho cá ăn trước mặt quốc khách, một bà phó chủ tịch UBND quận đậu xe ngang ngược, trái phép, gọi điện thoại cho trưởng công an và chủ tịch phường trông xe cho mình đi ăn sáng, một viên công an tát vào mặt người dân trong lúc kiểm soát giao thông khi người này phân trần chuyện vi phạm luật lệ hay những tên côn đồ hành hung phụ nữ một cách dã man rồi tung lên mạng xã hội để tự sướng và hăm dọa người khác.

Đó chỉ là những hình ảnh tiêu biểu trong hàng trăm, hàng ngàn sự cư xử thô lỗ, hung hăng, cậy quyền thế, vô văn hóa xảy ra hàng ngày dưới chế độ CSVN, những hình ảnh đó biểu hiện một chế độ mà nền tảng giáo dục, văn hóa đã rã rệu về cả nội dung lẫn hình thức.

Ở một mức độ cao hơn, những việc làm ngớ ngẩn, mị dân như đi ngửi nhựa đường kiểm tra phẩm chất xây dựng đường sá của Đinh La Thăng, đi thăm dân cho biết sự tình của Nguyễn Phú Trọng trên buýt, Nguyễn Thị Kim Ngân chống gậy đi vào vùng lũ lụt cứu trợ nạn nhân, hay những tuyên bố vô cảm, ngu dốt, phản động, thiếu hiểu biết của các lãnh đạo chế độ, đại biểu quốc hội, những người mang chức vị tổng bí thư, chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng, bộ trưởng, những trí thức với các học vị, học hàm giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, sử gia, võ sư, viện sĩ… nói lên trình độ dân trí của người Việt Nam hiện nay.

Ở một vài khía cạnh khác, trình độ dân trí đó muốn thấy rõ hơn, không cần phải về Việt Nam để ăn Bún Mắng, Cháo Chửi, mà hãy đi vào chợ Đồng Xuân ở Berlin, khu chợ buôn bán tập trung hầu hết người Việt Nam ra đi từ miền Bắc XHCN, những người khách thợ (Guest Worker) ở Đông Đức cũ trước khi bức tường ô nhục (Schande Mauer) bị sụp đổ cuối năm 1989.

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.

18.07.2017

Thạch Đạt Lang

danlambaovn.blogspot.com

Quan chức VN hỏi tới bằng cấp thì người nào cũng 2, 3 bằng

From facebook:  Hoa Kim Ngo shared Song Chi‘s post.
 

Song Chi

Quan chức VN hỏi tới bằng cấp thì người nào cũng 2, 3 bằng Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ, rồi nào bằng Cao cấp lý luận chính trị, bằng B Anh văn…

So với nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả những quốc gia văn minh, phát triển, trình độ quan chức VN nhìn chung là “cao vòi vọi”. Ấy vậy mà cứ mở miệng ra là bị dân chửi vì dốt nát hoặc “hoang tưởng” hoặc coi trời bằng vung; cứ bước ra đường là hành xử như một đám quan ông quan bà thời phong kiến coi dân như rác, nhưng mặt khác lại chứng tỏ không được giáo dục cẩn thận; còn bước ra thế giới thì quê mùa, “dùi đục chấm mắm cáy”, khiến các nước người ta phải ngơ ngác còn dân mình thì nhục thay…

Người dân chúng tôi có một đề nghị thế này, các vị hãy đi học lại đi, học làm Người cho tử tế, đối với dân thì học làm “đầy tớ, công bộc” của dân cho đàng hoàng, khỏi uổng tiền dân còng lưng đóng thuế nuôi và trả nợ thay cho các ông các bà; còn với thế giới thì chịu khó học ngoại ngữ, học ăn học nói cho ra phong cách lãnh đạo, chịu khó tìm hiểu phong tục, lịch sử, văn hóa các nước cho tới tập nghe nhạc giao hưởng, opera, ballet, tập xem hội họa, xem triển lãm các thứ…không có khi các nước người ta mời đi nghe cái này xem cái kia, nó lòi cái dốt ra nhục lắm!

Internet là món quà Chúa ban cho Trung Quốc

 Internet là món quà Chúa ban cho Trung Quốc

 
Lưu Hiểu Ba * Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch – Ngày nay có hơn 100 triệu người sử dụng internet ở Trung Quốc. Chính quyền Trung Quốc vừa yêu lại vừa ghét nó. Một mặt, internet là công cụ để kiếm tiền. Mặt khác, chuyên chính cộng sản lại sợ tự do ngôn luận.
Internet đã hồi sinh những tư tưởng trong lòng người Trung Quốc. Điều này gây lo ngại cho chính quyền nên họ chú trọng rất nhiều đến việc kiểm duyệt internet nhằm cố gắng duy trì sự kiểm soát về tư tưởng.
Vào tháng Mười năm 1999 tôi về nhà sau khi mãn hạn ba năm tù. Trong nhà có chiếc máy tính và hầu như bạn bè ai đến thăm cũng đều khuyên tôi nên dùng nó. Tôi thử một vài lần nhưng lòng cảm thấy mình chẳng viết được điều gì khi ngồi trước một chiếc máy vô tri cho nên tôi cứ đòi viết bằng bút máy thường. Dần dần, dưới sự thuyết phục kiên nhẫn và chỉ dẫn của bạn bè, tôi bắt đầu làm quen với máy tính và giờ thì không tài nào dứt ra nổi. Là người sống bằng cây bút, và là người tham gia phong trào dân chủ năm 1989, tôi thật khó mà diễn tả lòng biết ơn của mình đối với internet.
Bài viết đầu tiên của tôi trên máy tính mất đến cả tuần lễ khiến nhiều lúc tôi muốn bỏ cuộc dở chừng. Song nhờ sự khích lệ của bạn bè, cuối cùng tôi cũng viết xong. Lần đầu tiên, tôi gởi bài đi qua điện thư. Chỉ vài giờ sau tôi nhận thư trả lời từ người biên tập. Qua điều này tôi ý thức được sự kỳ diệu của internet.
Do sự kiểm duyệt ở trong nước, các bài viết của tôi chỉ có thể được đăng ở nước ngoài. Trước kia khi chưa dùng máy tính, các bài viết tay của tôi thường khó sửa và cái giá gởi bài đi thường cao. Để tránh cho các bài viết khỏi bị đón chặn, tôi thường đi từ phía tây của thành phố đến phía đông nơi tôi có người bạn nước ngoài có máy fax.
Internet giúp ta tiếp cận thông tin, liên lạc với thế giới bên ngoài và gởi bài cho các cơ quan truyền thông ở nước ngoài dễ dàng hơn. Tựa như một cỗ máy thần kỳ, nó làm cho các bài viết của tôi tuôn trào ra dễ dàng như ta lấy nước từ giếng lên. Internet là một kênh thông tin mà các nhà độc tài Trung Quốc không thể nào kiểm duyệt hoàn toàn được, cho phép người dân lên tiếng và liên lạc, và nó tạo ra một diễn đàn cho sự tổ chức tự phát.
Những thư ngỏ kèm chữ ký của các cá nhân hay của tập thể là một cách quan trọng đối với người dân để chống lại chế độ độc tài và đấu tranh cho tự do. Thư ngỏ của Vaclav Havel gởi cho nhà độc tài Tiệp Khắc Husak là một trường hợp tiêu biểu của sự phản kháng dân sự đối với chế độ độc tài.
Phương Lệ Chi, nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng, đã viết một thư ngỏ gởi Đặng Tiểu Bình, nhà lãnh đạo Trung Quốc, để yêu cầu thả người tù chính trị Ngụy Kinh Sinh. Sau thư ngỏ này còn có hai thư ngỏ khác, được ký bởi 33 và 45 người. Ba thư ngỏ này được xem như là khúc dạo đầu cho phong trào dân chủ năm 1989, là lúc khi các thư ngỏ xuất hiện nhiều như măng mọc sau cơn mưa để ủng hộ các sinh viên biểu tình.
Vào thời đó việc tổ chức viết một thư ngỏ tốn rất nhiều thời gian và công sức. Nào là phải chuẩn bị trước cả tháng trời, rồi phải tìm ra các người tổ chức để họ đi tìm mọi người. Chúng tôi bàn luận về nội dung lá thư, về câu chữ, thời điểm, rồi phải mất đến vài ngày mới đạt đến sự nhất trí chung. Sau đó chúng tôi phải lặn lội đi tìm nơi để đánh máy lá thư ngỏ đã chép tay sẵn và rồi sao ra một vài bản. Sau khi đọc sửa thư xong đến chuyện mất thời gian nhất là đi thu thập các chữ ký. Vì chính quyền đang nghe lén điện thoại của các người nhạy cảm, chúng tôi phải đạp xe đi tỏa ra khắp hướng của Bắc Kinh.
Trong thời đại không có internet, thật chẳng có cách nào thu thập được chữ ký của vài trăm người, và cũng chẳng có thể nào phổ biến rộng rãi nhanh chóng tin tức ra khắp thế giới. Vào thời đó, tầm ảnh hưởng và sự tham gia trong các cuộc vận động viết thư cũng rất hạn chế. Chúng tôi làm việc ròng rã trong nhiều ngày song cuối cùng chỉ có được mấy chục người ký tên. Các phong trào viết thư trong thời đại mới này đã đạt được sự tiến bộ đáng kể và bất ngờ.
Sự dễ dàng, tính chất công khai, và tự do của internet đã khiến công luận trở nên rất sôi động trong những năm gần đây. Chính quyền có thể kiểm soát báo chí và truyền hình, nhưng nó không thể kiểm soát internet. Chính quyền hiện nay phải công bố thông tin và các viên chức có thể phải xin lỗi công khai.
Viên chức cấp cao đầu tiên xin lỗi diễn ra trong năm 2001 khi Chu Dung Cơ, lúc đó là thủ tướng, đã xin lỗi về một vụ nổ tại một trường học đã khiến 41 người thiệt mạng. Đồng thời, dưới tác động của dư luận trên mạng, nhà cầm quyền phải trừng phạt các viên chức vì đã để xảy ra bệnh dịch SARS, các tai nạn hầm mỏ và vụ ô nhiễm sông Tùng Hoa.
Internet có khả năng phi thường là tạo ra các ngôi sao. Không chỉ nó tạo ra các ngôi sao giải trí, mà nó cũng tạo ra “các anh hùng nói thật”. Nó cho phép một thế hệ trí thức mới xuất hiện và tạo ra những anh hùng dân gian chẳng hạn như bác sĩ quân y Tưởng Ngạn Vĩnh (là người công khai cảnh báo về mối đe dọa của bệnh dịch SARS và buộc chính quyền phải hành động).
Những người Trung Quốc theo đạo Thiên Chúa nói rằng mặc dù những người Trung Quốc không có ý thức nào về tôn giáo, đức Chúa của họ nhất định không bỏ rơi nhân dân Trung Quốc đang gánh chịu đau khổ. Internet là món quà Chúa ban cho Trung Quốc. Nó là công cụ tốt nhất cho nhân dân Trung Quốc đang mơ ước vất đi sự nô lệ và đạt đến tự do.
Nguồn: 
Bản tiếng Việt:

Một nền giáo dục “mất dạy”

From facebook: Son Ngo shared Ngọc Tuyên‘s post.
 
Image may contain: 3 people, people smiling, people sitting and people eating

Ngọc Tuyên

Một nền giáo dục “mất dạy”

(Tôi xin lỗi vì từ “mất dạy” nếu có ai đó cũng cảm thấy bị xúc phạm)

Lâu lâu ra Hà Nội, anh em hay gặp nhau uống bia hơi và nói đủ thứ chuyện trên đời. Lần này cũng vậy, chúng tôi đang ngồi với nhau, thì có thêm một vị là bạn của một người trong nhóm đến sau. Vị này được giới thiệu tên C. là Giáo sư, Tiến sĩ, cả hai vợ chồng đều học ở Nga về.

Sau cái màn giới thiệu, chào hỏi nhau, biết tôi là người miền Nam ra, vị GS này lên tiếng: “Tôi thấy chế độ Việt Nam cộng hòa của thằng Diệm …”

Nghe đến đây tôi lớn tiếng ngắt lời vị GS này ngay (nguyên văn):
Tôi xin lỗi vì các anh lớn tuổi hơn tôi, nhưng tôi nói thẳng nhé, anh (vị GS) là một người mất dạy. 

Bởi vì: Thứ nhất, ông Diệm là một người của lịch sử; Thứ hai, Ông đã từng đại diện cho một chính thể được thế giới công nhận; Thứ ba, dù sao Ông ta cũng lớn tuổi hơn anh, đáng bậc cha chú và đã mất. Vậy mà anh gọi ông Diệm bằng “thằng” thì đó là một sự xúc phạm, không những anh xúc phạm đến ông Diệm mà anh cho xúc phạm đến những người miền Nam thời VNCH, trong đó có tôi.

Nghe tôi lớn tiếng, các anh trong bàn nhậu can ngăn, vị GS thừa nhận mình sai và chính thức xin lỗi tôi. Sau đó các anh (đều trên 70 tuổi) mới nói chuyện về sự giáo dục của miền Bắc thời ấy: Không riêng gì ông Diệm, ông Thiệu mà cả Tổng thống Mỹ, người ta đều dạy cho học sinh phải gọi bằng “thằng”, đến bây giờ đôi khi nói chuyện với nhau theo thói quen vẫn gọi là “thằng Diệm”; chứ trong thâm tâm thì các anh ấy rất kính trọng ông Diệm.

Thì ra, các anh cũng chỉ là nạn nhân, các anh không “mất dạy”, mà do đã từng được đào tạo bởi cái nền giáo dục “mất dạy” !

Bài, ảnh: Fb Nhân Đỗ Thành

TỔNG THỐNG PARK CHUNG HEE: “Tôi sẽ đem bắn bất cứ kẻ nào ăn cắp của công dù chỉ 1 đồng.”

From facebook:  Le Anh‘s post.
 
Image may contain: 2 people, people smiling, text

Le Anh

 

TỔNG THỐNG PARK CHUNG HEE:

“Tôi sẽ đem bắn bất cứ kẻ nào ăn cắp của công dù chỉ 1 đồng.”
Với quyết tâm như vậy, Tổng thống Park Chung Hee đã đưa Hàn Quốc từ một nước nghèo đói trở thành một trong những cường quốc kinh tế trên thế giới.

NGUYỄN PHÚ TRỌNG: “Chống tham nhũng là ta chống ta”
Với quyết tâm như vậy, TBT Nguyễn Phú Trọng đã đưa Việt Nam từ một nước nghèo đói trở thành một nước nghèo đói hơn, nợ nần ngập đầu
ĐÚNG KHÔNG CÁC BẠN?

Buổi tối một mình

Buổi tối một mình

Tạp ghi Huy Phương

(Hình minh họa: Scott Olson/Getty Images)

“Hãy giữ cho tôi những gì tôi yêu quý: cha mẹ, anh em, bạn bè và ngay cả kẻ thù của tôi, để không bao giờ tôi phải thấy, mùa hè không hoa đỏ thắm, cái lồng không chim, cái tổ không có con ong và cái nhà không con trẻ.” Victor Hugo (1802-1885)

Có người cảm thấy buổi sáng một mình cô đơn và buồn bã, nhưng theo tôi một mình buổi tối mới buồn thấm thía. Nhiều khi trên đường lái xe về nhà buổi chiều một mình, khi thấy trời đã bắt đầu tối, phố xá đã lên đèn, tôi bỗng tự hỏi, buồn biết bao nếu đêm nay không có một nơi để về, hay về một nơi hiu quạnh!

Biết bao người cô đơn, không gia đình, tối nay về nhà một mình, bật đèn, nhóm bếp sửa soạn cho bữa ăn tối, và trên bàn ăn chỉ có một mình. Không một tiếng nói, cũng không nghe một tiếng cười. Bữa ăn một mình trong một tiệm ăn đã buồn, nhưng còn có tiếng nói xôn xao, có sự hiện diện của mọi người chung quanh, có người hầu bàn bưng lại cho bạn ly cà phê nóng, nhưng tối nay trong căn phòng vắng vẻ này, bữa ăn một mình lặng lẽ, nỗi cô đơn như thấm đẫm vào lòng.

Và những kẻ không nhà, đang tìm một góc phố khuất gió, trải chiếc chăn ố vàng, cố tìm một giấc ngủ để ngày mai trở dậy, tiếp nối một ngày không có một niềm hy vọng.

Tôi có một người bạn là bác sĩ về hưu, ở New York, sắp xếp thời gian rỗi rảnh của anh để viếng thăm và an ủi thường trực những bệnh nhân cao niên đang ở trong “hospice hospital,” nghĩa là nơi an dưỡng cuối cùng, vì những bệnh nhân này không còn sống bao nhiêu ngày nữa. Một tuần, năm ngày, vào buổi sáng, anh đến thăm viếng, trò chuyện và tâm sự với bốn bệnh nhân, mỗi người nửa giờ, cho đến khi họ qua đời, thì anh lại tìm những bệnh nhân khác để thay thế vào.

Nghe anh trò chuyện và kể cho nghe những công việc làm của anh, vì đã có kinh nghiệm nằm dài ngày ở bệnh viện và trung tâm phục hồi (rehab center), tôi khuyên anh, thay vì sắp xếp thời gian đi thăm những người bệnh của anh vào buổi sáng, anh nên thay thời khóa biểu lại buổi chiều. Buổi sáng bệnh viện lúc nào cũng bận rộn, đông người, bác sĩ đi khám bệnh, y tá săn sóc, lấy máu, do nhiệt độ, y công vào phòng quét dọn, làm vệ sinh, nên bệnh nhân không thấy buồn. Nhưng vào buổi chiều thì rất vắng vẻ. Thời gian ở bệnh viện, tôi nhìn ra cửa, thấy nắng chiều nào cũng xuống bên kia dãy nhà đối diện, mặt trời xuống thấp dần, khuất sau những dãy nhà, rồi đến lúc trời tối hẳn. Đó là lúc nhớ nhà, nhớ vợ con nhất, nói chung là nhớ đến không khí ấm cúng sinh động của bầu không khí gia đình.

Rồi đêm xuống, đêm lúc nào cũng dài hơn ngày, nhất là những giờ thao thức!

Được trung tâm phục hồi cho tôi về nhà đúng chiều Ba Mươi Tết năm ấy, tôi mừng ứa nước mắt.

Tôi nghĩ đến những người già trong nhà dưỡng lão hay những “hospice,” những người rất ít có cơ hội được trở lại nhà như những bệnh nhân qua một thời gian điều trị trong bệnh viện. Đối với những người đã “lú lẫn,” nhớ nhớ, quên quên thì còn đỡ khổ, nhưng nếu còn minh mẫn, sáng suốt, những người này sẽ buồn biết bao! Bệnh nhân, ngoài sự cô đơn của một người tù, còn cái đau của thể xác.

Chúng ta đang sống trong một gia đình đông người, bỗng một hôm vì một lý do nào đó, gia đình đi du lịch, công tác hay về quê, để chúng ta phải sống một mình vài ngày trong một căn nhà rộng lớn, thử xem sự trống trải cô đơn là to lớn đến dường nào! Rồi còn những hoàn cảnh ly dị, hay người còn người mất, cô đơn luôn luôn là liều thuốc độc giết người:

“Giết nhau chẳng cái lưu cầu

Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa?”

Trong cuộc chuyện trò mới đây trên nhật báo Người Việt, người nhạc sĩ bát tuần, độc thân, nhạc sĩ Lam Phương cho biết bây giờ ông sống một mình, với gia đình người em. “Cuộc sống rất giản dị: tối ngủ, không thức khuya. Sáng thức sớm, rồi ăn uống, ngủ trưa. Cuộc đời có vậy thôi!” Nghe ông nói, tôi cũng thấy cuộc sống cuối đời của ông cũng có phần tẻ nhạt và chắc chắn là ông rất buồn.

Và ao ước cuối đời của ông là gì, “Có một người bạn để mình hủ hỉ những lúc buồn. Bạn gái! Thế thôi. Bạn thôi!” Đến tuổi này, ai cũng hiểu, ông Lam Phương không cần phải nói thêm hai chữ “bạn thôi!”

“Hủ hỉ” trong tiếng Việt có nghĩ là chung sống với nhau đầm ấm, sớm tối, vui buồn có nhau. Dù chỉ “hủ hỉ” mà không cần “hú hí” cũng đã vui rồi.

Vậy thì các bạn của tôi, đang có một ông chồng bất như ý hay có một bà vợ lắm lời, nhưng sống với nhau, ban đêm khi tối lửa tắt đèn, mùa Đông còn nghe hơi ấm của nhau, ban ngày còn nghe tiếng nói của nhau, dù khi nặng khi nhẹ, âm thanh có thể thay đổi, có khi giận dữ, ồn ào, nhưng như vậy là hạnh phúc rồi. Người bạn của tôi, ngày đó, khi nàng đã đành đoạn bỏ tổ ấm ra đi, chàng sợ cả tiếng điện thoại reo, sợ cả tiếng đồng hồ gõ giờ, và nhất là sợ buổi chiều, vì sau buổi chiều, đêm sẽ đến.

Ai cũng sẽ phải đến một ngày thia lia không còn chậu, và chậu cũng nhớ thia lia!

Nhan đề bài viết hôm nay của chúng tôi là “Buổi tối một mình!” Các ông, các bà cứ tưởng tượng đi, tối nay về nhà ăn tối một mình, lên giường một mình, thức giấc quờ tay sang bên cạnh, chỉ thấy một nửa chiếc giường rộng trống vắng. Không nghe ai nói cũng không nghe ai cười, và chắc chắn đêm nay sẽ là một đêm khó ngủ!

NHU CẦU PHẢI CHIA SẺ SỰ GIÀU CÓ

NHU CẦU PHẢI CHIA SẺ SỰ GIÀU CÓ

Chúng ta cần phải cho đi của cải của mình để có thể sống lành mạnh.  Của cải tích trữ luôn luôn làm hủ bại những người khư khư giữ nó.  Bất kỳ tặng vật nào không được chia sẻ đều sẽ lên men chua thối.  Nếu chúng ta không quảng đại với những ơn ích của mình thì rồi chúng ta sẽ trở nên ghen tỵ trong cay đắng và cuối cùng là trở nên chua chát và đố kỵ.

Những châm ngôn trên đều nói lên cùng một lời cảnh báo là chúng ta chỉ có thể lành mạnh nếu biết chia sẻ của cải giàu có của mình với người khác.  Điều này nhắc cho chúng ta biết mình phải biết trao tặng cho người nghèo, không phải vì lý do đơn giản là họ cần chúng, dù họ cần thật, nhưng là nếu không làm thế, chúng ta sẽ không thể sống lành mạnh được.  Khi trao tặng cho người nghèo, thì đó là lúc chúng ta thực thi cả lòng nhân lẫn công lý, nhưng đó cũng mang lại lợi ích riêng lành mạnh cho mình, cụ thể chúng ta sẽ không sống lành mạnh hay hạnh phúc nếu không chia sẻ sự giàu có, dưới mọi hình thức, của chúng ta với người nghèo.  Sự thật này ghi đậm bên trong cảm nghiệm của mỗi người và trong tất cả mọi truyền thống đức tin và đạo đức đích thực.

Ví dụ: Từ kinh nghiệm, chúng ta biết rằng khi trao tặng những gì mình có cho người khác, chúng ta cảm nghiệm được một niềm vui trong cuộc sống, còn khi ích kỷ thu tích hay canh giữ các sở hữu của mình thì chúng ta sẽ ngày càng lo lắng và bồn chồn đến hoang tưởng.  Văn hóa của người da đỏ ở Mỹ luôn luôn đề cao nhận thức này, thể hiện trong lễ Potlatch của họ, nghĩa là dù họ tin rằng tất cả mọi người đều có quyền tư hữu, nhưng có một giới hạn thực tế cho mức độ tư hữu đó.  Một khi tài sản của mình đạt đến một mức độ nhất định, chúng ta cần phải bắt đầu trao tặng nó đi, không phải vì người khác cần nó, nhưng vì sự lành mạnh và hạnh phúc của chúng ta sẽ bắt đầu lụi tàn nếu chúng ta cứ khư khư tích trữ tất cả của cải đó cho riêng mình.

Linh đạo Do Thái giáo cũng có quan niệm tương tự:  Nhiều lần lặp đi lặp lại trong Thánh Kinh Do Thái, nói rằng khi một lãnh đạo tôn giáo hay một ngôn sứ nói cho dân Do Thái biết rằng họ là dân được chọn, là một quốc gia được chúc phúc đặc biệt, thì đều luôn luôn đi kèm lời nhắc nhở rằng, phúc lành này không chỉ cho riêng dân Do Thái mà thôi, nhưng là, qua họ, mà cho tất cả mọi dân trên mặt đất nữa.  Trong linh đạo Do Thái, phúc lành luôn luôn là để tuôn đổ qua người nhận mà làm phong phú cho những người khác nữa.  Đạo Hindu, Phật giáo, và Hồi giáo, theo cách riêng của mình, cũng xác nhận quan niệm này, cụ thể là chỉ khi trao tặng một số ơn ban của mình, chúng ta mới có thể giữ cho mình được lành mạnh.

Chúa Giêsu và Tin Mừng, tất nhiên cũng dạy chân lý này, hết lần này đến lần khác và không nhân nhượng.  Ví dụ như trong Tin mừng theo thánh Luca, với lời dạy của Chúa Giêsu là con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời, Ngài cũng khen ngợi những người giàu biết sống quảng đại và chỉ lên án những người giàu bủn xỉn.  Với thánh Luca, lòng quảng đại là mấu chốt để sống lành mạnh và là chìa khóa vào thiên đàng.  Trong Tin Mừng theo thánh Matthêu, khi đưa ra các câu hỏi trong cuộc phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu đã cho chúng ta một tiêu chuẩn trọn vẹn về những gì chúng ta phải trao ban cho người nghèo:  Con có cho kẻ đói ăn?  Con có cho kẻ khát uống?  Con có cho kẻ trần truồng áo mặc?  Cuối cùng, và thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa, trong chuyện bà góa bỏ hai đồng cuối cùng của mình vào hòm tiền, Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta không chỉ đem cho người nghèo những của dư thừa, nhưng là cho những gì là thiết yếu sinh nhai của chúng ta.  Các Tin Mừng và trọn cả Thánh Kinh đều mạnh mẽ lên tiếng đòi hỏi chúng phải trao tặng cho người nghèo, không phải vì họ cần của từ thiện của chúng ta, dù họ cần thật, nhưng là vì trao tặng là cách duy nhất để chúng ta giữ mình được lành mạnh.

Chúng ta cũng thấy cùng một thông điệp này, kiên quyết và lặp đi lặp lại, trong huấn giáo xã hội của Giáo hội Công giáo.

Từ Tông thư Tân Sự (Rerum Novarum) của giáo hoàng Lêô XIII năm 1891, cho đến tông thư Niềm vui Tin mừng (Evangelii Gaudium) mới đây của giáo hoàng Phanxicô, chúng ta đều nghe cùng một điệp khúc.  Trong khi chúng ta có quyền về mặt luân lý để tư hữu, thì quyền đó không phải là tuyệt đối và nó chịu ảnh hưởng bởi một số điều khác, cụ thể là, chúng ta chỉ có quyền dư dả khi tất cả mọi người khác đều có được những gì thiết yếu cho cuộc sống.  Vì thế, khi nhìn đến người nghèo luôn luôn phải đi kèm với nhìn lại của dư dả của chúng ta.  Hơn nữa, Huấn giáo Xã hội Công giáo cũng cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa tạo thành địa cầu cho tất cả mọi người và sự thật này cũng giới hạn cách chúng ta xác định những gì thực sự là của sở hữu riêng của mình.  Nói cho đúng, chúng ta là những người quản lý của cải của mình, hơn là chủ nhân của chúng.  Và tất nhiên, ẩn bên trong tất cả những điều này là một nhận thức rằng chúng ta có thể sống đạo đức và lành mạnh chỉ khi biết đặt quyền tư hữu của mình liên đới với bức tranh lớn hơn bao gồm cả những người nghèo nữa.

Chúng ta, luôn luôn, cần phải cho đi của cải của mình để có thể sống lành mạnh.  Người nghèo cần chúng ta, nhưng chúng ta cũng cần họ nữa.  Và như Chúa Giêsu đã nói rất rõ ràng rằng chúng ta sẽ được phán xét dựa theo những gì đã làm với người nghèo, thì như thế họ chính là giấy thông hành cho chúng ta vào thiên đàng.  Và họ cũng là giấy thông hành cho chúng ta có được sự lành mạnh.  Sự lành mạnh của chúng ta phụ thuộc vào việc chúng ta chia sẻ của sung túc của mình như thế nào.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

****************************** ********

Lạy Chúa Giêsu,

Giữa một thế giới
chạy theo tiện nghi, hưởng thụ,
xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo,
xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp,
xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống,
xin cho con biết xây lại niềm tin.

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con cảm được
cơn đói đang giày vò bao người,
xin cho con nghe được lời mời của Chúa:
“Các con hãy cho họ ăn đi.”
Ước gì chúng con dám trao
tất cả những gì chúng con có cho Chúa,
để Chúa trao tất cả những gì Chúa có
cho chúng con và cho tất cả nhân loại.

Bạch Hồng Quyền biết đến và lên tiếng cho các bất công của xã hội

From facebook:Tin Mừng Cho Người Nghèo shared Like cho VIỆT NAM‘s live video.
Bạch Hồng Quyền biết đến và lên tiếng cho các bất công của xã hội từ những năm 2008, sau sự kiện chính quyền cướp đất tại Toà Khâm Sứ và Thái Hà – Hà Nội. Là thành viên phong trào Con Đường Việt Nam do anh Trần huỳnh Duy Thức – Lê Công Định – Lê Thăng Long sáng lập nên. Tôn chỉ của CĐVN là phổ quát quyền con người cũng như khai dân trí để người dân có thể hiểu hết quyền của mình được hưởng tại chế độ độc tài toàn trị. Vì mong có một xã hội tốt đẹp và quyền con người của người dân được tôn trọng BHQ có mặt trên mọi miền đất nước. Hơn 1 năm qua thảm họa Formosa gây ra cho 4 tỉnh miền trung, BHQ luôn có mặt tại những điểm nóng để đưa tin trung thực cho mọi người được biết sự thật chính quyền bao che. Đồng hành với những sự kiện nóng, BHQ đến đến hỗ trợ cũng như giúp đỡ những người dân làm đơn kiện Formosa và đòi hỏi quyền lợi cho những ngư dân bị thiệt hại do Formosa. Chính quyền muốn bao che cho Formosa và dập tắt những tiếng nói đối lập, ngày 19/4/2017 chính quyền cộng sản Hà Tĩnh đã ra lệnh bắt tạm giam và ngày 12/5/2017 đã ra lệnh truy nã BHQ.

Vài điều muốn tâm sự.

Vài điều muốn tâm sự.

Tác giả: Phùng văn Phụng

Ngày thứ sáu 14- 07 là buổi họp chót trong văn phòng . Tôi nghỉ hưu thực sự. Nghỉ hẳn. Phải từ bỏ. Phải thôi việc, không làm việc nữa. Không tiếc nuối gì hết. Vì sao vậy?

 

 

 

 

 

 

Tác giả cùng toàn thể anh chị em trong văn phòng 

Vì:
Tụi mình trên dưới bảy mươi;
Nhìn đi ngó lại chỉ mười năm thôi. 
Số đông biến mất đâu rồi; 
Số hên còn lại lẻ loi chắc buồn. 
Đếm kỹ còn mấy trăm tuần; 
Thời gian vun vút, bao lần gặp nhau? 
Thôi thì còn lại ngày nào; 
Hãy vui ngày ấy, miệng chào thật tươi. 
Khác biệt gì cũng thế thôi; 
Mai kia nằm xuống để rồi được chi. 
Sao bằng ta cứ vui đi; 
Hơn thua dẹp hết, ôm ghì bạn xưa. 
Tay với trời cao không thấu nổi 
Tuổi già mất bạn cũng mồ côi …

trích trong bài : “Còn bao lâu nữa”

Mấy ngày qua, trong facebook các em học trò cũ, các con, các cháu , bạn bè chúc mừng sinh nhật, rất ấm áp tình nghĩa yêu thương. Trân trọng cám ơn hết mọi người đã gởi đến những tình cảm quý mến đó.

Trân trọng những người bạn cũ và quý mến những người bạn mới.

Đã U80 rồi. Đã cảm nghiệm đủ mọi buồn khổ và vui tươi, đói khát và no đủ, cay đắng , đau buồn và niềm vui, hạnh phúc.

Tạ ơn Trời, đến tuổi này rồi (75 tuổi), vẫn còn sống, khỏe mạnh và sáng suốt.

I ) Cần có một lý tưởng?

Tôi nhớ, hồi còn đi dạy, tôi có nói, có nhắc nhở các em học sinh rằng, cần có một mục đích để sống cũng giống như ta cần có ngọn núi để trèo lên. Nhiều con đường để đi lên ngọn núi đó. Đi thẳng, đi vòng v.v..Có thể các em sẽ lên tới đích, cũng có thể các em sẽ gục ngã giữa chừng. Tuy nhiên, ít ra là các em còn có mục đích để sống.

Cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy cũng có viết: Lúc hết hơi mới biết đến mạng Trời
Và nhắm mắt mới đành thôi hoạt động. (1)

 Trước năm 1975, tôi có viết một bài báo để  khen ngợi hai nghề thẩm phán và nghề dạy học. Hai nghề không ăn hối lộ. Sau này tôi mới thấy nhận xét đó sai.

      Chỉ có nghề dạy học mới không ăn hối lộ. Vì sao?

  • Vì họ có lương cao, đủ sống, không giàu nhưng không thiếu thốn.
  • Họ cần làm gương cho học trò của mình nên không dám ăn hối lộ, mà còn phải ráng sống cho tử tế, đàng hoàng nữa. Lời nói phải đi đôi với việc làm. Thầy cô giáo luôn luôn có các em học trò để ý, bắt chước noi theo.

Thầy giáo, cô giáo không giàu tiền bạc nhưng rất giàu học trò. Tôi chỉ dạy có 5 năm trường Lương văn Can, vậy mà 42 năm sau, tình nghĩa Thầy trò vẫn thắm thiết.

Thế gian, tài sản, tiền bạc, danh vọng tất cả đều phù du, bởi vì khi chết, đâu có ai mang theo xuống mồ được gì đâu.

 Tuổi này rồi (75 tuổi) thấy điều gì là quan trọng nhất?

*Sức khỏe là quan trọng nhất. Tôi có anh bạn rất giàu có, chủ ba bốn tiệm “furniture”, là triệu phú. Nhưng chẳng may anh bị bịnh ung thư phồi. Anh nói : Tôi đã bán hết các cơ sở làm ăn rồi và nghỉ hoàn toàn. Tôi nói: “Sao anh không đi du lịch.” 

Bây giờ đâu còn sức khỏe nữa để đi du lịch . Anh phân trần: Nói thiệt nha, ai lảnh cái bịnh của tôi, tôi sẽ giao hết tài sản cho người đó.

Vậy mà, sao quá nhiều người lao tâm, khổ trí, tranh giành tiền bạc, nhà cửa, danh vọng, quyền hành, hãm hại, giết chóc lẫn nhau. Lường gạt nhau, hãm hại nhau, để gôm góp tài sản, của cải, tiền bạc cho thật nhiều. Anh chị em cùng một cha mẹ, thay vì yêu thương nhau, giúp đỡ nhau thì trở thành thù ghét nhau, đến ngày cha mất, mỗi gia đình làm đám giỗ riêng, không ai còn muốn gặp nhau nữa. Vì sao vậy?

*Kế đến là đoàn tụ gia đình. Làm sao tập hợp được con cháu, thường xuyên gặp gỡ nhau, yêu thương nhau thì quý giá vô cùng. Chứ các con cháu giàu có nhưng mỗi gia đình hoàn toàn sống riêng rẻ, không hỏi han nhau, không biết tình trạng sống của anh  chị em ra sao. Sống ích kỷ chỉ lo riêng cho bản thân mình, cho gia đình mình, do đó  nhiều khi họ có thể rất giàu có về vật chất nhưng họ lại hết sức cô đơn, thiếu thốn tình thương yêu lẫn nhau… .chưa kể anh em có thể ghen ghét nhau vì hơn thua lời nói, vì đứa giàu, đứa nghèo v.v…mà khộng thèm nói chuyện, nhìn mặt nhau.  

II) Cần có một tấm lòng (yêu thương) để sống.

Có nên để lại tài sản cho con không?

Tôi có người quen, qua Mỹ rồi, chị ấy đi giúp việc nhà giữ con cho người khác, mỗi tuần chỉ về nhà ngày chúa nhật, mỗi tháng được khoảng 1200 đô la. Vậy mà chị không xài. Chỉ để dành tiền cho con chị là mộ kỹ sư lương 5, 6 chục ngàn đô la một năm. Lý do chị thương con trai của chị nên chị muốn tỏ tấm lòng săn sóc thương yêu con trai chị.

Một tỷ phú nói: “Nếu các con tôi tài giỏi hơn tôi, chúng sẽ không cần tới số tiền này. Còn nếu chúng không đủ năng lực, gia sản của tôi sẽ chỉ làm hại chúng”.

Cái gì cho đi mới là của mình vì nó đi vào lòng người .

Chuck Feeney: – Từ tay trắng thành tỉ phú, mỉm cười, cho đi 8 tỉ USD rồi lại trở về trắng tay.

 

 

 

 

 

 

 

 

Tỷ phú Chuck Feeney là người đầu tiên ở Mỹ bỏ ra số tiền lớn là tài sản của mình để làm từ thiện. Ông chính thức rỗng túi, đi ở thuê vào tuổi ngoài 80, nhưng đã hoàn thành khát vọng “cho đi khi còn đang sống”.

Ông làm từ thiện và tặng hết tài sản rất đơn giản là bởi vì, “vải liệm không có túi”, người chết ra đi không mang được gì. Con người “sinh ra tay trắng thì khi trở về cũng phải trắng tay”.

Linh mục Nguyễn Viết Chung: sinh ngày 07-09-1955, rửa tội và thêm sức ngày 15-05-1994, lúc 39 tuổi. Đi tu ngày 01-10- 1994 , chín năm sau,  ngày 25 tháng 3, được thụ phong Linh mục.

Cha đến với đạo công giáo và đi đi tu lúc Cha đã lớn tuổi. Cha Chung là vị thừa sai của những người cùi bịnh, bịnh Sida.

Cha sống với người thiểu số ở Kontum và về với Chúa ngày 10 -05-2017 vừa qua, khi Cha ở tuổi 62 .

 

Xem thêm: Nguyễn Viết Chung và tiến gọi của Chân Thiện Mỹ của cố Giáo Sư Trần Duy Nhiên:

 

Mẹ Teresa Calcutta:

Ngày 10 tháng 9 năm 1946, Mẹ nhận được từ Chúa Giêsu lời mời gọi “để lại tất cả mọi thứ phía sau và phục vụ Ngài nơi những người nghèo nhất trong số những người nghèo”. 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Do đó, Mẹ đã trở thành một biểu tượng của dịu dàng và tình yêu thương xót của Thiên Chúa cho mọi người, đặc biệt là đối với những người không được yêu thương, bị khước từ và bỏ rơi. Một người bị bịnh tật, bị bỏ rơi ở ngoài đường phố, sắp chết. Mẹ Teresa đem về nhà hấp hối, tắm rửa săn sóc, vài hôm sau thì chết. Người ấy nói: “ Tôi sống như một con thú nhưng tôi chết như một thiên thần.”

Khám phá cuộc đời Mẹ Teresa, từ một nữ tu thành một vị Thánh

Triết lý sống của Mẹ Teresa.

Kết: Trong thế giới phức tạp đua đòi vật chất, hơn thua giàu nghèo, đời sống con người trở nên ích kỷ chỉ nghĩ đến cá nhân, gia đình của riêng mình mà thôi, việc sống vì người khác, cho người khác Hy sinh tiền bạc hay bỏ tất cả danh vọng, tiền tài, sức khỏe để hy sinh cho người nghèo, phục vụ người nghèo như các vị nêu trên rất là quý hiếm.

Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn rất nhiều người, nhiều tổ chức xã hội vẫn hăng say phục vụ, đâu có đòi hỏi quyền lợi hay danh vọng tiếng tăm gì đâu. Vì họ có tấm lòng yêu thương và thực hiện lời dạy của Chúa “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8)

 

 

 

 

 

 

Câu nói đáng suy ngẫm như sau: Khi được sinh ra thì ta khóc lóc, còn người xung quanh thì mĩm cười, làm sao khi chết đi, thì ta mĩm cười mà những người xung quanh thì khóc lóc.

Phùng văn Phụng

07/2017

(1) Trong bài thơ Quyết sống của Đằng Phương

BÀ THÁI ANH VĂN LÊN TIẾNG VỀ CÁI CHẾT CỦA ÔNG LƯU HIỂU BA.

From facebook:  Hoa Kim Ngo
BÀ THÁI ANH VĂN LÊN TIẾNG VỀ CÁI CHẾT CỦA ÔNG LƯU HIỂU BA.

Theo RFI bà Thái Anh Văn TT Đài Loan đã lên tiếng trước cái chết của ông Lưu Hiểu Ba: Ông Lưu Hiểu Ba là một tấm gương đấu tranh kiên định cho Dân Chủ và để lại một di sản cho TQ và các nước trên TG. Đấu tranh Dân Chủ là không coi ai là kẻ thù, đấu tranh Dân Chủ để quyền tự quyết của người Dân được tôn trọng. Ông Lưu Hiểu Ba luôn được Đài Loan ủng hộ và là tấm gương đấu tranh quyền tự quyết và độc lập cho Đài Loan.

Luật khoa viết về những hoạt động của ông Lưu Hiểu Ba : Năm 1977, Liu được nhận vào học Văn chương tại Đại học Jinlin (tỉnh Cát Lâm – Đông Bắc Trung Quốc), nhưng ông lại sớm say mê Triết học phương Tây. Ông nhận bằng thạc sĩ năm 27 tuổi và trở thành giảng viên tại Đại học Jinlin. Ông bắt đầu thu hút sự chú ý của giới trí thức Trung Quốc bằng những phản biện sắc bén về các lý thuyết xã hội. Liu nhanh chóng trở thành một hiện tượng trong giới trí thức Trung Quốc.

Sự nghiệp khoa bảng của Liu thuận buồm xuôi gió cho đến năm 1989.

Ngày 27/04/1989, Liu đổi chuyến bay từ Tokyo đi Mỹ quay về Trung Quốc khi nghe tin chính quyền kiên quyết “dẹp loạn” những cuộc biểu tình của sinh viên đòi tự do báo chí, tự do ngôn luận, kiểm soát tham nhũng tại Quảng trường Thiên An Môn.

“Tôi không có thời gian để do dự, hoặc là sống hoặc là chết, tôi sẽ trở về”, Liu nhớ lại.

Ông Liu Xiabo (thứ hai từ trái sang) cùng với ba người bạn đã tham gia tuyệt thực tại Thiên An Môn năm 1989. Ảnh: AP.

Ngày 02/06/1989, Liu và ba người bạn tuyệt thực trong ba ngày để kêu gọi chính quyền dỡ bỏ thiết quân luật và đối thoại một cách hòa bình với sinh viên.

Rạng sáng ngày 04/06/1989, những con đường ở Quảng trường Thiên An Môn ngập đầy máu của người biểu tình sau các cuộc đàn áp của quân đội. Liu và nhiều trí thức khác đã kiên quyết tìm cách thỏa thuận với chính quyền để số sinh viên còn lại có thể rút lui an toàn ra khỏi đó.

“Trong những giờ phút cuối cùng, Liu đã cầm loa và nói: ‘Chúng ta phải đi thôi’”, Robin Munro, một người từng là nhà hoạt động nhân quyền tại Bắc Kinh tại thời điểm đó kể lại. Trong khi các lãnh đạo sinh viên đòi sẽ “chết ở đó cho dân chủ”, Liu Xiaobo đã nói, “chúng đã làm hết sức có thể rồi”. Robin chia sẻ rằng, anh luôn cảm thấy phải mang ơn cứu mạng của Liu Xiaobo.

Mà đúng như thế, những cựu sinh viên có mặt tại Quảng trường Thiên An Môn, như bà Rose Tang, cũng cho rằng, ông Liu Xiaobo đã cứu hàng trăm, nếu không phải là hàng nghìn sinh viên, trong đó có bản thân bà.

Sau khi phong trào Thiên An Môn bị dập tắt, Liu Xiaobo đã bị bắt và bị giam giữ bí mật từ năm 1989 đến tháng 01/1991 vì tội “tuyên truyền phản cách mạng và kích động”.

Image may contain: 4 people, people standing