httpv://www.youtube.com/watch?v=F5-UVu7_8yg
Tìm về hạnh phúc đích thực – Bài giảng của Đức Cha Khảm
Sưu tầm – Bình Luận-Sự Kiện
httpv://www.youtube.com/watch?v=F5-UVu7_8yg
Tìm về hạnh phúc đích thực – Bài giảng của Đức Cha Khảm
Mời các pan đọc lại.
Bài hay!
“Tôi coi đây là cuộc nói chuyện giữa cá nhân với nhau. Xét về mặt công dân thì tôi và cô như nhau. Về địa vị thì cô là chủ tịch quốc hội còn tôi là một cựu chiến binh, nhưng chức vụ hay tài sản không làm nên giá trị con người. Xét về độ trải đời thì cô chỉ kém tôi 2 tuổi. Nói thế để nhắc rằng cô cũng đã già, đi xe bus thì được nhường chỗ, đi xe lửa thì được giảm vé.
Tuổi tác không nói lên sự khôn ngoan của con người nhưng qua theo dõi lời nói, việc làm của cô, tôi chắc rằng, cô còn ấu trĩ, dại dột, cho dù cô ngầm có mục đích sâu xa đi chăng nữa thì vẫn cứ dại dột. Điều chắc chắn hơn là cô không thể yêu nước, thương dân hơn tôi. Chỉ riêng chuyện cô phấn đấu lên đến Chủ tịch Quốc hội dưới chế độ cộng sản đã nói lên điều đó.
Sau khi cô nhậm chức Chủ tịch quốc hội được 1 ngày, trong buổi gặp mặt báo chí ngày 23/7/2016, cô nói:
“Bảo vệ hòa bình không phải hô hào cho thật to, kích động thế này thế khác là có được chủ quyền, không có đâu. Một số tổ chức, cá nhân lên tiếng hô hào thế này thế nọ nhưng những người đó, tổ chức đó làm gì cho đất nước? Chưa làm gì cả…”
Tôi giật mình khi cô phát ngôn như vậy. Không phải tôi lạ vì câu đó mà lạ vì người nói ra câu đó lại là cô.
Cô phát ngôn trong bối cảnh đang nói về chủ quyền, biển đảo của đất nước. Bảo vệ chủ quyền của đất nước không của riêng ai mà là của mỗi người dân. Khi chủ quyền của đất nước bị đe dọa, người dân thường dù không có quyền chức trong tay đều phải thể hiện tình yêu đối với Tổ Quốc dưới mọi hình thức, mà hình thức đầu tiên nghĩ đến là biểu tình phản đối quân xâm lược. Ngoài ra, còn nhiều hình thức hoạt động khác. Công dân nào có điều kiện, khả năng mà không làm điều đó là vô trách nhiệm với đất nước. Trước đây, Đảng csVN đã chẳng từng phê phán những hạng người như thế là “đắp chăn chờ độc lập” đó sao?
Ấy thế mà nhà cầm quyền lại đàn áp người biểu tình chống giặc, đánh đập họ, bắt đi cải tạo, bắt tù, gán cho họ cái nhãn phản động. Nếu là phản động thì họ chỉ phản động đối với kẻ xâm lược và bọn bán nước, chứ đối với Tổ quốc thì không.
Bằng việc đàn áp biểu tình yêu nước, nhà cầm quyền đã tước đi của người dân quyền con người đã được ghi vào Hiến pháp và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Và khốn nạn hơn là tước đi của họ quyền yêu nước.
Có một bài mà nhà cầm quyền rất hay sử dụng, đó là “đã có Đảng và Nhà nước lo”.
Những người yêu nước chân chính và tỉnh táo không bao giờ yên tâm để cho Đảng và Nhà nước lo. Họ đã để cho Đảng và Nhà nước lo nhiều rồi, từ năm 1930, từ 1945 cơ và họ không dám tin Đảng và Nhà nước nữa. Bằng chứng là lãnh thổ Việt Nam đã co lại so với thời kỳ năm 1954. Co lại ở đâu ư? Hãy nhìn lên thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, nói chung toàn bộ biên giới Việt Trung, hãy nhìn ra Hoàng Sa, Trường Sa thì biết.
Trước kẻ thù xâm lược, dù chỉ có tay không, nhưng còn trái tim, khối óc, người yêu nước không thể ngồi im. Kẻ thù rất sợ tình cảm yêu nước, lòng tự tôn dân tộc của người dân ở đất nước chúng lăm le xâm chiếm. Viêc làm của họ không thể gọi là kích động như cô nói. Vậy trước đây, trong cuộc chiến tranh với Mỹ và Việt Nam cộng hòa, ai là kẻ kích động hàng vạn người dân xuống đường? Và hồi đó, nếu xuống đường không có tác dụng gì sao họ lại phải làm thế?
Đành rằng biểu tình không quyết định việc giữ được chủ quyền, nhưng việc làm này góp phần giữ chủ quyền. Cô nên nhớ, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã hỗ trợ rất nhiều cho Nhà nước trên mặt trận ngoại giao. Còn nếu chỉ im lặng, nhịn nhục, xin xỏ, đặc biệt là mơ hồ trước lời mật ngọt mà không nhìn thấy mũi dao sau lưng thì không những không giữ được chủ quyền mà còn làm cho giặc lấn tới, mất nước lúc nào không hạy. Trên thực tế thì VN đang mất dần chủ quyền vào tay Trung Cộng, điều này ai cũng thấy.
Cô đặt câu hỏi: “…những người đó, tổ chức đó làm gì cho đất nước?…” rồi khẳng định: “Chưa làm gì cả”.
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết:
Đến ông Hồ Chí Minh cũng chưa dám hỏi nhân dân câu hỏi kiêu ngạo, trịch thượng này như bà chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân:
Chưa ai như bà Kim Ngân…
Huyênh hoang dám hỏi nhân dân câu này
Bà làm được gì xưa nay
Leo lên bằng cái vốn vay ngân hàng…?
Bạn đã làm gì cho đất nước chưa? Câu hỏi này tôi đã đọc và nghe không biết bao nhiêu lần, được coi là bài tủ của đám dư luận viên hạng bét nhằm tấn công những người chống Trung Quốc mà người ta cho chung vào một rọ phản động.
Tôi đi bộ đội vào lúc vừa đủ tuổi nghĩa vụ quân sự cho đến khi về hưu, trong đó có 5 năm khốc liệt nhất của cuộc chiến. Thế mà có những cháu 18, 20, thậm chí còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông dám hỏi tôi: “Chú đã làm gì cho đất nước chưa?”
Tưởng bài ấy đã cũ mèm, ai ngờ nay nó lại xuất hiện từ miệng một vị lãnh đạo nằm trong tứ trụ hẳn hoi. Thì ra, trình độ của Chủ tịch quốc hội nước ta chỉ đến như vậy.
Trước câu hỏi ấy, tôi không bao giờ trả lời vì nó quá ngây ngô, ấu trĩ, vì mất thời gian với đám trẻ ăn chưa no, lo chưa tới ấy. Nhưng khi nó được phát ngôn từ miệng vị Chủ tịch quốc hội, tôi buộc phải có lời.
Câu hỏi này là cô dành cho những người được cô gọi là đám người ồn ào, kích động. Cô đã rất coi thường quần chúng. Cô cho rằng chỉ có đảng của cô và những người nghe theo hoặc sợ đảng mà im thin thít mới gọi là làm được gì cho đất nước. Cho đến nay, đảng csVN đã thành công trong việc triệt tiêu lòng yêu nước của người dân nhưng chưa được hoàn toàn, có phải vì thế nên cô chưa mãn nguyện? Giọng cô tỏ ra hằn học với họ. Cô nên biết trong số ấy, có nhiều trí thức của chế độ, cựu chiến binh, những người từng là quan chức cao cấp của Nhà nước đấy cô Ngân ạ.
Ai cũng hiểu, nộp thuế là nghĩa vụ công dân. Mà đã nộp thuế tức là đã đóng góp vào ngân sách nhà nước. Dù muốn hay không, mỗi người khi mua một sản phẩm là đồng nghĩa với đóng thuế. Đóng thuế tức là đã làm cho đất nước, chẳng lẽ cô không hiểu điều đó sao.
Đóng góp cho đất nước không kể người dân bình thường hay người có chức quyền. Có khi chức càng cao, làm cho đất nước thì ít nhưng làm hại đất nước thì nhiều chứ đâu phải kẻ có quyền mới làm được gì cho đất nước. Cô biết Lê Chiêu Thống chứ. Ông ấy to nhất nước đấy, to hơn cả cô bây giờ. Vậy mà hắn đã làm gì cho đất nước, cô cứ hỏi một em học sinh lớp 4 thì biết. Tôi chỉ sợ cô và Đảng của cô đang giẫm phải bước chân Lê Chiêu Thống mà thôi.
Xin lấy vài ví dụ những việc Đảng của cô đã làm cho đất nước:
Cải cách ruộng đất đã qui địa chủ cho 172 nghìn người, trong đó 71,66% bị oan sai, hành quyết và bức tử hàng chục nghìn người. Còn điều không tính được thành con số như không khí sợ hãi, nghi kỵ, oán thù bao trùm lên nông thôn miền Bắc; luân thường đạo lý bị đảo lộn, con tố cha, vợ tố chồng…
Đảng của cô đã triệt tiêu kinh tế cá thể, đưa nông dân vào Hợp tác xã, triệt tiêu kinh tế tư bản tư doanh, tịch thu nhà máy, hầm mỏ của họ để Đảng quản lý. Đảng của cô cứ tưởng giỏi đánh nhau thì cũng giỏi quản lý kinh tế, giỏi quản lý đất nước nên mới dẫn đến tình cảnh đất nước đứng bên bờ vực thẳm vào năm 1986.
Cuộc chiến tranh 1955 – 1975 cướp đi sinh mạng của khoảng 4 đến 5 triệu người. Tuy thống nhất được đất nước nhưng Đảng đã kéo miền Nam tụt xuống bằng miền Bắc. Mà không hiểu tại sao Đảng của cô đi đến đâu, dân sợ đến đấy. Năm 1954, 1 triệu dân miền Bắc di cư vào Nam. Sau 1975, hàng triệu thuyền nhân bỏ nước ra đi, bất chấp đói khát trên thuyền, bất chấp hải tặc, làm mồi cho cá biển, không thiết đến những nhà lầu, xe hơi bỏ lại Sài Gòn, không thiết vàng bạc đút lót để vượt biên, chỉ cần tay không miễn là đến được bến bờ tự do.
Còn bây giờ, không biết Đảng của cô đóng góp những gì cho đất nước mà các lĩnh vực kinh tế xã hội mặt nào cũng nát bét. Đảng cứ động vào chỗ nào là y như rằng tham nhũng, đổ bể chỗ ấy, từ các “quả đấm thép” đến hệ thống ngân hàng, đến các dự án trọng điểm… Bauxite Tây Nguyên thì thua lỗ nhưng cố đấm ăn xôi. Khắp nơi chỗ nào cũng có công trình Trung Quốc trúng thầu, xây lắp bằng công nghệ lạc hậu, khắp nơi, chỗ nào cũng có người Trung Quốc ngông nghênh, coi thường dân Việt… là nỗi ám ảnh cho những người biết lo đến an ninh của đất nước.
Những kẻ chiếm đoạt tiền thuế làm của riêng, dùng tiền thuế của dân ăn chơi đàng điếm trụy lạc, đầu tư bừa bãi, không sinh ra hiệu quả còn vốn của dân đóng góp cụt dần thì có gọi là làm cho đất nước không. Và xin hỏi cô, những người ấy là Đảng của cô hay là những người mà cô gọi là ồn ào kích động? Đến đứa trẻ cũng biết là Đảng của cô tham nhũng, chứ người không có quyền thì tham nhũng sao được. Trẻ con vừa ra đời, Đảng của cô đã giao ngay cho 30 triệu đồng nợ công.
Còn sự kiện thời sự nóng bỏng nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe và mưu sinh của người dân là gì, chắc cô cũng hiểu. Đó là Đảng rước thằng Pormosa về để nó giết chết biển Miền Trung, giết rừng ngập mặn, giết cả chim muông, còn người dân thì đang chết dần chết mòn. Vậy mà Đảng nhẫn tâm cầm 500 triệu đô la Mỹ đánh đổi, khoe chiến công. Thật là vô liêm sỉ.
Chẳng hiểu Đảng của cô đóng góp được gì cho đất nước mà đất nước lúc nào cũng hụp lặn ở vùng trũng của thế giới và khu vực, không ngóc đầu lên được. Ngay cả Căm Pu Chia hay Lào nó cũng dễ dàng vượt mặt, bỏ lại ông anh VN đang lóp ngóp phía sau còn nó không hơi đâu dừng lại đợi. Người Việt Nam đi làm thuê, làm ô sin khắp thế giới, được gọi dưới cái tên mỹ miều là hợp tác lao động. Năm 2014, Liên Hợp quốc xếp Việt Nam áp chót trong bảng xếp hạng các quốc gia đáng sống, thứ 124/125 số nước được xếp hạng, cô có thấy tự hào không?
Sao những gì Đảng của cô làm cho đất nước kinh sợ đến như vậy. Giá ngày ấy, Đảng của cô không sinh ra thì đất nước đâu đến nỗi nát như tương Bần thế này. Bây giờ trót rồi, tôi chỉ mong Đảng của cô né sang một bên cho người khác làm, hoặc hợp tác với các đảng phái khác cùng làm. Đừng khư khư ôm lấy một mình rồi chê người khác không làm gì.
Cũng trong buổi tiếp xúc với báo chí hôm ấy, cô còn dám đứng ở vị trí cha mẹ dân mà phán rằng: “Ngay trong gia đình, nếu bố mẹ không tôn trọng con cái thì ra đời con cái không tôn trọng người khác”
Cũng nhà thơ Trần Mạnh Hảo:
Bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân xưng mình là mẹ nhân dân Việt Nam, còn cha nhân dân là ai, xin bà nói rõ?
Đảng là đầy tớ nhân dân
Ông Hồ đã dạy bà Ngân quên rồi
Ghế trên bà tót lên ngồi
Xưng mình là mẹ dân, ôi sỗ sàng …
Cô ngụy biện: “Nếu đâu đó xảy ra mất dân chủ, dân chủ hình thức, thì đó là cái sai của của tổ chức, cá nhân cụ thể, không phải bản chất nhà nước”.
Nhưng thôi, tôi viết cũng đã dài. Khi nào có thời gian, sẽ bàn đến hai câu này của cô. Lời cuối khuyên cô rằng, đừng vì choáng ngợp với chức vụ mới mà say sưa “nổ”. Hồi chưa làm Chủ tịch Quốc hội, cô đâu đến nỗi đáng ghét như thế. Phụ nữ mà ham quyền lực thì kinh khủng lắm đấy, kinh hơn đàn ông rất nhiều. Là chính khách, cô cần phải học nhiều lắm, từ lời ăn tiếng nói, từ dáng đi, cách lựa trang phục sao cho phù hợp với lứa tuổi, với bối cảnh. Cô đừng dại dột mà tiếp tục đứng ra phát ngôn thay mấy lão khôn ngoan, lọc lõi đang đứng đằng sau cô kia kìa.
Nhưng điều quan trọng hơn cả là cô phải có cái tâm – cái tâm đối với đất nước, với nhân dân. Khi đó, nếu cô có vụng dại thì nhân dân cũng dễ thể tất.”
Blogger Nguyễn Tường Thụy, nguồn:https://anhbasam.wordpress.com/…/9342-nguyen-thi-kim-ngan-…/
Cậu bé ngốc nhận 50 cent thay vì 1 đô la
Cậu bé ngốc nhận 50 cent thay vì 1 đô la, cả trường cười chê, còn cậu trở thành Tổng thống Mỹ
Cuộc sống có những điều không thể từ bề ngoài mà nhận biết được. Trong dòng người tấp nập, kẻ đến người đi, ai thông minh, ai ngốc nghếch, đều không hề đơn giản. Đôi khi, có những người nhìn khờ khạo, nhưng lại chính là kẻ có trí tuệ đỉnh cao.
Cậu bé Wilson nhất mực chọn đồng 5 cent, chứ không chọn đồng 1$. (Ảnh: Đại Kỷ Nguyên)
Có một cậu bé người Mỹ tên Wilson, thoạt nhìn rất khờ khạo, do đó rất nhiều người trong thị trấn thích đùa với cậu, giống như là nhân vật hề mua vui cho mọi người. Một ngày nọ, bạn cùng lớp của Wilson cầm trên tay một đồng 1 đô la và một đồng 5 cent, rồi hỏi Wilson là chọn đồng tiền nào.
Cậu bé Wilson lúc đó đã không cần suy nghĩ mà trả lời ngay: “Tớ chọn đồng 5 cent”.
Bạn học cười khoái trí nói: “Ha ha, cậu ấy không chọn 1 đô la mà lại chọn đồng 5 cent”. Sau đó tất cả học sinh trong trường đã lan truyền nhau chuyện cười này.
Rất nhiều người đã không tin, sao Wilson lại ngốc đến vậy, họ đã đem tiền đến trước mặt Wilson để kiểm nghiệm, nhưng lần nào cũng nhận được cùng một kết quả. Mỗi lần cậu đều nói: “Tớ muốn 5 cent”. Tất cả học sinh của trường đều dùng cách này để kiểm tra và sau đó mỗi người rời đi với nụ cười của sự hài lòng.
Cuối cùng, câu chuyện đã đến tai của thầy giáo. Ở trước mặt Wilson, thầy giáo hỏi: “Chẳng lẽ trò không phân biệt được giá trị lớn nhỏ của đồng 1 đô la và 5 cent sao?”.
Trò Wilson đáp: “Đương nhiên là trò biết rõ ạ. Nếu như trò chọn đồng 1 đô la thì sẽ không có nhiều người mang tiền đến để thử, như vậy trò cũng không thu được lợi nhuận từ đồng 5 cent”.
Người thầy nghe xong như bừng ngộ ra một đạo lý lớn. Wilson không đặt sự thông minh vào món lợi nhỏ mà suy nghĩ về cái ngốc của người thông minh. Khoảng 45 năm sau, ông đã trở thành tổng thống thứ 28 của nước Mỹ.
Woodrow Wilson – Vị Tổng Thống thứ 28 của nước Mỹ, đảm đương chức vụ trong 2 nhiệm kỳ. (Ảnh: History)
Nếu để ý và quan sát con người ngày nay, hẳn chúng ta sẽ nhận ra xã hội có tồn tại rất nhiều người thông minh, họ phán đoán suy nghĩ của người khác một cách nhanh chóng và không bao giờ bị mắc lừa. Họ tính toán chi li, so đo từng chút để làm sao không thua thiệt, không bị người lừa gạt.
Nhưng họ đã quên câu: “Thông minh quá sẽ bị thông minh hại”. Nếu chứng kiến trực tiếp những việc người thông minh làm, chúng ta sẽ phát hiện, bởi vì quá thông minh nên người này thường bị người khác phòng bị.
Kỳ thực, thông minh cũng không phải là xấu. Tuy nhiên, đôi khi trong cuộc sống lại cần chúng ta ngốc một chút mới tốt, hơn thế, làm được người thông minh giả ngốc quả không dễ dàng.
Cho nên, người xưa cho rằng người thông minh nhưng giả ngốc mới là đạo xử thế của nhà thông thái. Giả thiếu hiểu biết khiến mọi việc được tiến triển thuận lợi hơn. Biểu hiện của ngốc nghếch ở người thông minh chính là một loại trạng thái bình tĩnh, không hiểu cái đạo lý của người đại ngốc thì khó thành tựu đại sự.
Phú Bật thời Bắc Tống khi còn trẻ, ông đang đi bộ trên đường phố thành Lạc Dương thì bỗng nhiên có người liên tục mắng chửi ông.
Một người đi đường đã ghé tai Phú Bật mà nói nhỏ: “Chàng trai trẻ, có người đang mắng chửi cậu kìa”.
Phú Bật nghe xong liền nói: “Hình như là mắng người khác đó”.
Người đó lại nói: “Người ta còn gọi tên của cậu mà chửi đó”.
Phú Bật suy nghĩ một chút rồi nói: “Có lẽ là mắng người khác, rất có thể người đó trùng tên họ với tôi”.
Sau đó, người mắng chửi Phú Bật nghe được phản ứng của ông liền cảm thấy rất hổ thẹn, đến xin lỗi Phú Bật. Ngay từ khi còn trẻ, Phú Bật đã biết cái đạo của người ngốc đủ cho thấy sự thông minh cơ trí của ông.
From anh chị Thụ & Mai
Việt Nam đang ở trong thế ‘chỉ có một mình’ khi đương đầu với Trung Quốc trong tranh chấp trên Biển Đông, một nhà nghiên cứu Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, đồng thời là phóng viên của BBC nói với Bàn tròn thứ Năm tuần này.
Trao đổi tại cuộc Tọa đàm hôm 27/7/2017, khi đưa ra thông tin bình luận có tính tham khảo về tình huống hiện nay của Việt Nam ở trong khu vực trong lúc có những thông tin khác nhau và quan tâm của dư luận về việc khai dầu, khí của Việt Nam ở khu vực Lô 136-03, ông Bill Hayton nói:
“Tôi được cho biết rằng luận điểm đã thuyết phục tất cả mọi người (Bộ Chính trị ĐCSVN) là không thể tin cậy vào Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Donald Trump trong việc giúp Việt Nam trong tình hình này, ngược với chuyện (nếu Hoa Kỳ) dưới lãnh đạo của bà Hillary Clinton thì có lẽ Việt Nam sẽ nhận được nhiều hậu thuẫn hơn từ Hoa Kỳ. Do đó, Việt Nam sẽ phải một mình đối diện với Trung Quốc. Tôi nghĩ đây là lập luận quan trọng nhất,” khách mời này nói với BBC Tiếng Việt.
Sau đây là toàn bộ nội dung ý kiến mà ông Bill Hayton đưa ra tại Bàn tròn thứ Năm:
BBC: Hãng tin Reuters của Anh tuần này, hôm 25/7, nói rằng BBC đưa tin Việt Nam đã dừng khoan dầu ở khu vực sau khi có các đe dọa của Trung Quốc, nhưng không có nguồn tin khẳng định độc lập trong lúc cả giới chức Việt Nam lẫn hãng Repsol đều chưa đưa ra bình luận nào về tin trên. Với tư cách là tác giả bài báo, ông có ý kiến gì?
Bill Hayton: Tôi nghĩ mọi người hiện đều đang ở trong tình huống rất khó. Không ai muốn khẳng định điều này, và điều đó có thể làm người dân ở Việt Nam bối rối, không hài lòng. Đồng thời, cũng có những thu xếp về thương mại ở đây. Hãng Repsol đã bỏ ra hàng chục, có thể là hàng trăm triệu đô-la để khoan tìm khí ở địa điểm đó. Ai sẽ trả cho những khoản chi phí đó?
Thông tin của tôi đến từ ngành công nghiệp năng lượng, không đến từ chính phủ Việt Nam, là tàu khoan đã phát hiện ra một mỏ khí đốt khá quy mô ở khu vực đó. Vì đã tìm thấy khí đốt, họ không thể đơn giản là dừng việc khoan lại và rời đi, bởi vì nó có thể bị nổ. Họ phải làm một số công việc kỹ thuật để dừng, mà theo nghĩa đen là đổ xi-măng vào giếng khoan trước khi có thể rời đi.
BBC: Khi nói rằng Việt Nam đã dừng khoan dầu sau các đe dọa của Trung Quốc, ông đã hỏi chính phủ Việt Nam, chính phủ Trung Quốc, hay các bên liên quan, như hãng Repsol hay chưa?
Bill Hayton: Như đã chỉ ra, cho đến hôm nay, chưa có tuyên bố từ phía giới chức Việt Nam, họp báo (của Bộ Ngoại giao) chưa được tổ chức ngày hôm nay, Repsol không phát biểu gì, công ty khoan dầu ở giếng dầu, khí không phát biểu gì và chỉ có phát biểu ngắn của chính phủ Trung Quốc.
BBC:Nếu thực sự diễn ra những gì như thông tin ông đưa, mà theo đó do có các đe dọa của Trung Quốc mà Việt Nam chấm dứt việc khoan dầu, thì điều này ảnh hưởng thế nào tới vị thế của Việt Nam, tới uy tín của Việt Nam trong mắt của các đối tác, các nhà thầu, các hàng thăm dò, khai thác dầu khí đã đang hợp tác với Việt Nam ở khu vực? Có nghiêm trọng không?
Bill Hayton: Tôi nghĩ có hai điểm ở đây. Thứ nhất, việc khoan hiện nay có vẻ như đã dừng lại. Tuy nhiên, có một điểm nghiêm trọng hơn, đó là tôi nghe thấy rằng Việt Nam đã hứa sẽ không bao giờ khoan dầu, khí ở vùng biển này nữa.
Và đó là vấn đề nghiêm trọng hơn vì ở đây gọi là những giếng khoan thăm dò, nơi mà các công ty chỉ tìm hiểu xem có bao nhiêu khí đốt ở đó. Nhưng nếu họ (Việt Nam) hứa là sẽ không bao giờ khoan nữa trong tương lai, thì đó sẽ là vấn đề nghiêm trọng hơn rất nhiều.
BBC:Có thông tin nói Trung Quốc không chỉ ‘đe dọa’, mà thậm chí đã có ‘tấn công’ thực sự vào một số cơ sở của Việt Nam ở khu vực khoan dầu, ông có bình luận gì về thông tin đó?
Bill Hayton: Tôi không nghe thấy gì về chuyện đó. Tôi có nghe được cùng một thông tin mà quý vị đã nghe, là đã có một biến cố nào đó, nhưng không phải là một sự cố lớn. Do đó, nếu điều đó xảy ra, tôi nghĩ nó có thể chỉ có tính chất biểu tượng.
Điều mà tôi nghe được, nhưng trước hết tôi muốn nói là mọi người, tất cả các quý vị khán giả, thính giả đều hiểu là chúng ta không bao giờ biết chắc về điều gì đã xảy ra trong nội bộ chính trị Việt Nam. Có rất nhiều tin đồn, cho nên tôi phải nói trước như vậy, trước khi bàn tới chuyện này. Đó là tôi có nghe một tin đồn mà có thể là thú vị.
Điều mà tôi nghe được nhưng tôi không có cách nào biết được có đúng hay không, là khi Bộ Chính trị bàn luận về sự việc, thì 17/19 (?) ủy viên đã muốn tiếp tục tiến hành khoan tìm dầu, nhưng có hai (ủy viên) thì không. Hai người đó là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch.
Tôi không có cách nào biết được việc đó là chân thực hay không, vì có các viết lách khác nhau từ mọi người. Nhưng tôi nghĩ người ta đã nhắc đến rằng những người thực sự quyết định việc này là Tổng Bí thư và Bộ trưởng Quốc phòng.
BBC:Có gợi ý cho rằng việc thay đổi về hoạt động khoan thăm dò dầu, khí ở Biển Đông của Việt Nam vừa rồi, nếu có, là do lý do thời tiết, bão lớn, mà không phải là vì lý do chính trị nào. Ngoài ra, cũng có ý kiến nói lô dầu, khí (136-03) được đề cập trong bài báo của tác giả Bill Hayton là không chuẩn xác, không phải là lô đố. Ông có bình luận gì?
Bill Hayton: Về điểm thứ hai, tôi muốn nói là Repsol có một số hoạt động ở ngoài khơi Việt Nam. Họ đã mua Talisman-Vietnam, một hãng của Canada vào năm 2015, do đó họ có các hoạt động ở các lô khác nhau, chẳng hạn có lô 07-03, ở rất gần, ngay bên cạnh Lô 136-03, là lô mà tôi nói tới. Chắc chắng Lô 136-03 là lô gây ra vấn đề hiện nay.
Tôi tin chắc rằng đây đúng là giếng khoan và tôi được nghe rằng chính phủ Việt Nam đã yêu cầu Repsol đưa ra lý do kỹ thuật để dừng sớm việc khoan tìm dầu. Họ cần có một lý do nào đó để tuyên bố vì lý do kỹ thuật hoặc do thời tiết xấu mà người ta đã phải ngừng việc khoan thăm dò ở đây. Nhưng Repsol đã từ chối.
BBC: Nếu quả thực có việc vì chính quyền Việt Nam yêu cầu dừng, mà Repsol phải ngừng việc khai thác ở đó, thì chính phủ Việt Nam có phải bồi thường hay không, bồi thường thế nào? Có thông tin nói Repsol đã đầu tư, chi phí hàng trăm triệu đô la và có thông tin nói khoản bồi thường đó có thể lên tới khoảng 1 tỷ đô-la, ông có ý kiến gì?
Bill Hayton: Tôi được nghe rằng giá trị khí đốt ở mỏ khí đốt có trữ lượng khá lớn, khiến cho Repsol khá vui vì đã giành được quyền khai thác. Tôi muốn nói là rõ ràng sẽ có những bàn luận về việc bồi thường, Repsol có các hoạt động khác ở Việt Nam, do đó sẽ có thể có các điều chỉnh, cân bằng về chi phí của họ. Nhưng chúng ta phải nhìn vào các chi tiết của hợp đồng. (Một tỷ) là con số khoảng chừng mà tôi đã nghe được về giá trị của khí ở lô đó. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn vào chi tiết của hợp đồng mới biết được là ai sẽ phải chịu trách nhiệm cho các chi phí.
BBC:Thông tin ông nói về một ‘quyết định’ ở cấp Bộ Chính trị ĐCSVN về việc ‘ngừng khoan tìm dầu’ trong diễn biến này là điều khá đáng quan tâm. Nếu thực sự có quyết định đó, thì làm thế nào ý kiến của một thiểu số (hai phiếu, hay hai ý kiến) lại có thể chống lại được quyết định của đa số trong Bộ Chính trị được?
Bill Hayton: Tôi được cho biết rằng luận điểm đã thuyết phục tất cả mọi người là không thể tin cậy vào Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Donald Trump trong việc giúp Việt Nam trong tình hình này, ngược với chuyện (nếu Hoa Kỳ) dưới lãnh đạo của bà Hillary Clinton thì có lẽ Việt Nam sẽ nhận được nhiều hậu thuẫn hơn từ Hoa Kỳ. Do đó, Việt Nam sẽ phải một mình đối diện với Trung Quốc. Tôi nghĩ đây là lập luận quan trọng nhất.
Mời quý vị bấm vào các đường link sau đây để tham khảo và theo dõi các ý kiến phản hồi, bình luận từ các nhà quan sát, nghiên cứu, hay phân tích khác về ý kiến của ông Bill Hayton mà BBC Việt ngữ đã thực hiện sau Bàn tròn ngày 27/7/2017 về khoan dầu ở Biển Đông.
Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.
Lý Quang Diệu – Dịch : Nguyễn Việt Vân Anh
Nguồn: danchimviet.info
Mỹ nhiều trở ngại nhưng vẫn giữ vị trí số một
Tôi cho rằng Hoa Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam
Cân bằng quyền lực đang chuyển đổi. Về phía châu Á của Thái Bình Dương, theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc gây ảnh hưởng. Mọi chuyện sẽ không còn như trước. Địa lý là điểm mấu chốt trong trường hợp này. Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể.
Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ. Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ trong khu vực này.
Chính quyền Obama tuyên bố vào năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng Hillary Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới này như sau: “Các thị trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu tư, thương mại và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù là thông qua bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước lớn trong khu vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển khai tới Darwin , Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.
Nhiều quốc gia Châu Á chào đón cam kết mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ giúp duy trì ổn định và an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các quốc gia ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này
Tuy nhiên, chúng ta còn phải xem liệu người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được hay không. Ý định là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác. Hiện nay Hoa Kỳ có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam . (Người Philippines đã không khôn ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về lâu dài của hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”)
Người Mỹ tin rằng họ có sẵn một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng lại được với hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương đối nông, người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể cả tàu ngầm. Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm? Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể. Rốt cuộc, cân bằng quyền lực có thể thực hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa Kỳ trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ quân sự.
Khi cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra, những quốc gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới. Thucydides đã từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu đựng”. Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể không phải có một kết cục bi thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ nghĩa nào về sự suy giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ khiến các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ phải quan tâm hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng không kém là không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương có thể diễn ra.
Ví dụ như Việt Nam , là một trong những quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để trả đũa việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc và thị trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt: “Tôi có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà người Việt có thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam bàn đến là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu dài với người Mỹ.
Tôi cũng cảm thấy rất tiếc rằng sự thay đổi cân bằng quyền lực đang diễn ra vì tôi cho rằng Hoa Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam . Họ đưa quân đến bán đảo Triều Tiên không phải vì họ muốn chiếm bắc hay nam Triều Tiên. Mục tiêu của các cuộc chiến tranh đó là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Họ đã muốn ngăn chủ nghĩa cộng sản lan tràn trên thế giới. Nếu như người Mỹ không can thiệp và tham chiến ở Việt Nam lâu dài như họ đã làm, ý chí chống cộng ở các nước Đông Nam Á khác chắc đã giảm sút, và Đông Nam Á có thể đã sụp đổ như một ván cờ domino dưới làn sóng đỏ. Nixon đã giúp cho miền Nam Việt Nam có thời gian để xây dựng lực lượng và tự chiến đấu. Nam Việt Nam đã không thành công, nhưng khoảng thời gian gia tăng đó giúp Đông Nam Á phối hợp hành động với nhau và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của ASEAN.
Singapore khá thoải mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán hay hung hăng như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực lượng với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm sao tôi lại dám nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm. Thậm chí sau khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn không hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.
Trong cục diện đang thay đổi này, chiến lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta lợi dụng bộ máy tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt với phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với người Mỹ.
Singapore nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần đảo, nơi mà người Mỹ không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung Quốc, họ cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hoá và an ninh bền chặt với Hoa Kỳ.
Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp lực với các quốc gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của Singapore khi có nhu cầu, như là người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta sẽ không ngả về phía nào bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây là một lập trường mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.
Chúng ta còn liên kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn.
Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.”
Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore . Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.
Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại học.
Cuộc cạnh tranh cuối cùng
Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.
Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.
Thậm chí nếu những người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền.
Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.
Tại sao tôi lại tin vào thành công dài hạn của Hoa Kỳ
Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.
Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.
Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore . Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.
Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố gắng.
Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể thắng.
Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.
Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York . Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại học Cambridge ). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.
Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn.
Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.
Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New York , bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.
Điều này có chấp nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.
Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại.
Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.
Lý Quang Diệu
Dịch: Nguyễn Việt Vân Anh
Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Phiến đất sét Ebla cổ 15000 năm tuổi chứng minh tính xác thực của các sự kiện trong kinh Cựu Ước.
Tính chính xác của kinh Cựu Ước thuộc Kinh Thánh là một chủ đề gây tranh cãi trong giới khoa học. Tuy nhiên, việc khám phá ra những phiến đất sét Ebla 15 000 năm tuổi đã góp phần củng cố tính xác thực của văn bản này.
Tàn tích thành cổ Ebla, Syria – Việc khám phá ra kho lưu trữ các phiến đất sét Ebla ở miền bắc Syria vào những năm 1970 xác nhận các bản ghi chép Kinh Thánh về Tổ phụ [1] là cực kỳ chính xác.
Trong nhiều năm, các nhà phê bình kinh Cựu Ước cho rằng Moses đã tưởng tượng ra các câu chuyện trong Sách Sáng Thế, thuộc Kinh Cựu Ước, phần đầu của Kinh Thánh. Các nhà phê bình cho rằng những người cổ đại vào thời kinh Cựu Ước quá nguyên thủy để có thể ghi chép tài liệu với độ chính xác cao. Do đó, họ cho rằng không có bằng chứng tồn tại của những người và thành phố được nhắc đến trong văn bản cổ xưa nhất trong Kinh Thánh này.
“Việc phát hiện ra kho lưu trữ các phiến đất sét Ebla ở miền bắc Syria vào những năm 1970 xác nhận các tư liệu ghi chép trong Kinh Thánh về Tổ phụ là cực kỳ chính xác. Trong các cuộc khai quật ở miền bắc Syria, người ta đã tìm thấy một thư viện lớn nằm trong phòng lưu trữ hoàng gia. Thư viện này chứa những phiến đất sét có niên đại từ 2400-2300 TCN”, theo trang Christians in Pakistan.
Đội khai quật đã khám phá được gần 15 000 phiến đất sét cổ đại và những mảnh vỡ, mà khi được ghép lại sẽ tạo thành khoảng 2500 phiến đất sét bổ sung. Thật đáng ngạc nhiên, những phiến đất sét này xác nhận các tên người và tên địa danh trong các ghi chép về Tổ phụ trong Kinh Thánh là sự thật. Chúng được gọi là những Phiến đất sét Ebla.
Trong một thời gian dài, những người phê bình kinh Cựu Ước thường lập luận rằng cái tên “Canaan” đã được sử dụng sai lầm trong những chương đầu của Kinh Thánh. Họ cho rằng cái tên Canaan chưa bao giờ được sử dụng tại thời điểm cụ thể đó trong lịch sử. Họ tiếp tục cáo buộc rằng cái tên này đã đươc thêm vào kinh Cựu Ước sau đó, và cho rằng những cuốn Kinh Thánh đầu tiên không được viết trong khoảng thời gian mô tả.
Tuy nhiên, từ “Canaan” đã xuất hiện trên những phiến đất sét Ebla, trái với tuyên bố của các nhà phê bình. Các phiến đất sét đã chứng minh thuật ngữ này từng được sử dụng ở Syria cổ đại vào thời kỳ Kinh Cựu Ước được viết.
Di tích một kim tự tháp ziggurat ở Ebla.
Thêm vào đó, hai thành phố Sodom và Gomorrah cũng từng được các nhà phê bình Kinh Thánh cho là sản phẩm đơn thuần của trí tưởng tượng. Và chúng cũng được xác nhận thông qua các phiến đất sét Ebla, cùng với thành phố Haran. Theo mô tả trong Sách Sáng Thế, Haran là thành phố của Terah – cha của Abram.
Ngoài ra, còn vô số các phát hiện khảo cổ khác xác nhận các ghi chép trong Kinh Thánh là có thật và chính xác. Một số phát hiện như vậy là:Chiến dịch tấn công Israel của Pharaoh Shishak (1 Kings 14: 25-26) được ghi chép lại trên bức tường đền Amun ở Thebes, Ai Cập.
Trong số những đoạn miêu tả trong Kinh Thánh mà sau này được xác thực nhờ các bằng chứng khảo cổ và thiên văn, đáng chú ý nhất có lẽ phải kể đến là việc phát hiện ra dấu tích con tàu Nô-ê tại Thổ Nhĩ Kỳ hay việc ghi nhận được bức ảnh đầu tiên về thế giới thiên quốc của kính viễn vọng Hubble của NASA.
Chú thích:
[1] Tổ phụ: Những nhân vật tổ tiên của người Israel, về nghĩa hẹp thường được chỉ đến Abraham, Isaac và Jacob, về nghĩa rộng, các tổ phụ có thể chỉ đến hai mươi người đàn ông trong dòng thời gian từ Adam đến Abraham.)
Ngự Yên (theo messagetoeagle)
PHÉP LẠ CỦA TIẾNG CƯỜI
Mục đích cuộc đời này là đi tìm hạnh phúc và hưởng hạnh phúc.
Biểu hiệu của hạnh phúc là tiếng cười. Tiếng cười đây là tiếng cười chân thực, hồn nhiên, thoải mái và tự phát, tiếng cười ròn rã, cười ngặt nghẽo, bò lăn bò càng, cười tít mắt, chứ không phải tiếng cười gượng hay xã giao.
Xưa nay đã có bao nhiêu bài nghiên cứu và đề cao gíá trị của tiếng cười. Nụ cười là phương tiện mở đầu cuộc giao tiếp mà ta không cần phải phiên dịch hay dùng ngôn ngữ để diễn tả. Nụ cười mang ý nghĩa ta muốn nói với mọi người rằng ta hạnh phúc. Nó hoàn toàn tự phát chứ không phải do cố gắng. Nụ cười tự nhiên và thành thực được biểu lộ qua miệng và khóe mắt. Nụ cười không chỉ biểu lộ cái hạnh phúc của ta mà còn có khả năng tạo cảm giác hạnh phúc cho người. Những người có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc thì thường có nụ cười rạng rỡ hơn những người ly thân ly dị. Nụ cười vui tươi có tác động đến vùng bắp thịt quanh miệng và khu vực cơ vòng quanh khóe mắt, nó làm cho mắt sáng lên và long lanh. Ta thấy vui hơn không những khi cười mà cả sau khi cười.
Cha ông Việt Nam chúng ta đã nói từ ngàn xưa: Một tiếng cười bằng mười thang thuốc bổ. Nguyệt san lâu đời và uy tín quốc tế Reader’s Digest đã gọi tiếng cười là thần dược, là thuốc tiên, Laughter is the best medicine.
Triết gia Bertrand Russel đã nói nhiều lời chí lý về tiếng cười, như ‘Tiếng cười là thần dược miễn phí nhưng vô cùng hiệu nghiệm’, hay ‘Tiếng cười không mất tiền mua mà nó mua được tất cả, nó mua được sức khoẻ cả thể xác cả tinh thần, nó mua được tình yêu, hoà khí, nó tạo được sự đoàn kết’.
Nhiều người bi quan cho rằng cuộc đời là bể khổ, nhưng ông Trời đã cho ta thuốc thánh để cứu khổ đó là tiếng cười. Mẹ Teresa Calcutta đã ý thức được việc này nên trước khi về cõi ngàn thu Mẹ đã dặn các môn sinh: Các con hãy cười nhiều hơn nữa.
Nói đến đây thì tôi nhớ tới một ông linh mục nổi tiếng ở Los Angeles hồi xưa, thập niên 2000. Đó là Cha Maurice Chase. Báo chí cho biết rằng trong nhiều năm, cứ mỗi sáng Chúa Nhật, dù mưa hay nắng, ông đều đến khu vực đông người vô gia cư. Mỗi người ông tặng một đô la và một cái vỗ vai, vừa cười ông vừa nói lời thăm hỏi. Có người bảo ông: Muốn cho tiền tại sao Cha cần phải tới trao tận tay cho họ ? Ông cha vừa cười vừa trả lời: Tôi không những cho họ 1 đồng mà tôi còn cho họ một nụ cười và một câu chúc lành. Tôi đã làm y như lời Mẹ Thánh Teresa Calcutta: Muốn an ủi người nghèo, cho tiền là một chuyện, nhưng chuyện quan trọng hơn là cười với họ và nói lời yêu thương. Bạn để ý quan sát mà coi, đa số chúng ta chỉ bỏ đồng bạc vào nón người homeless rồi vội vã đi ngay.
Trong Phật Giáo tôi thích nhất tượng Đức Phật Di Lặc. Miệng mở rộng thật lớn của Ngài đẹp vô cùng. Một lần tôi nghe giảng pháp trên TV, tôi thấy vị hòa thượng lập đi lập lại câu kệ này mà tôi rất thích, tôi đã thuộc lòng:
Nụ cười và hơi thở
Hai tác phẩm tuyệt vời
Nuôi dưỡng mầm hạnh phúc
Cho ta và cho người
Họa sĩ Picasso tuy nổi tiếng về ngành họa nhưng đã nói một câu rất hay về kinh nghiệm cuộc đời: Bạn đừng để ý tới chiều cao, sức nặng hay số tuổi vì đây là việc của y sĩ.. Việc của bạn là hãy lo sao cho cuộc sống được hạnh phúc, được đầy tiếng cười.
Về mặt vật lý, cái gì xảy ra khi ta tức giận?
Thưa, khi ta tức giận thì các bắp thịt ở đầu, ở mặt, ở cổ căng lên; máu từ tim chạy nhiều lên mặt nên mặt ta đỏ bừng, miệng ta ngậm lại, răng cắn vào nhau, ta thấy nghẹn ở cổ, nghẹt thở, tim ta đập thình thình.
Còn khi ta cười, nhất là khi ta cười ha hả, cười giòn, thì tất cả các bắp thịt trên đây đang căng cứng đều giãn nở, miệng mở rộng, khí độc bay ra, dưỡng khí ùa vào, máu lưu thông dễ dàng, người như tỉnh lại.
Tôi cũng vừa đọc một bài nghiên cứu về tiếng cười, trong đó tôi thích nhất đoạn viết rằng tiếng cười làm đẹp da mặt, các bà các cô nhớ kỹ việc này nha. Rằng khi cười, các cơ mặt co giãn nhịp nhàng nên cười sẽ giúp làm mờ đi các vết nhăn. Khi cười, các cơ mặt vận động tăng cường lưu thông khí huyết góp phần làm tươi tắn làn da. Người có tính tình vui vẻ luôn tươi cười sẽ giữ được nét mặt trẻ lâu. Tại sao ta không chăm sóc da mặt bằng loại ‘mỹ phẩm’ thiên nhiên, miễn phí và hiệu nghiệm này?
BS William Fry của Đại Học Stanford cho biết khi cười thì các bắp thịt ở cổ, ở mặt ở đầu ở ngực ở bụng đều hoạt động đồng loạt, và nhờ vậy mà tình trạng đau nhức của cơ thể bớt đi. Riêng những người bị phong thấp, đau khớp xương, đau đầu nên cười lớn tiếng.
Trong hội nghị quốc tế về y khoa tại Montréal, Canada, tháng 6, 1997, phái đoàn Y Khoa Oakhurst ở Los Angeles đã trình bày một bài rất giá trị về hiệu quả của tiếng cười. Theo kết quả nghiên cứu của Viện thì những ai đã bị bệnh tim, đã bị đột qụy, mỗi ngày chỉ cần cười 15 phút thì bệnh tim không bao giờ tái phát nữa.
Chuyện xưa chép rằng nhà bác học và triết gia Henri Bergson vì làm việc tinh thần nhiều qúa nên hay bị choáng váng nhức đầu và ngộp thở. Ông đã đi gặp nhiều bác sĩ nhưng căn bệnh này không hề hết. Cuối cùng, may thay, ông gặp được một bác sĩ chuyên ngành, ông này đã chữa cho ông Bergson lành bệnh bằng thuốc tiên. Ông bảo ông Bergson không cần uống thuốc gì cả, ông chỉ cần tối nào cũng đến hý viện để xem các chú hề làm trò. Ông đã đi xem, đã cười rất nhiều và quả nhiên ông hết bệnh.
Đây cũng là cách chữa bệnh của ông Francois Rabelais người Pháp ở thế kỷ 15. Rabelais là một thày tu, một văn sĩ, một chuyên viên giải phẫu. Ông chủ trương dùng tiếng cười để chữa bệnh, nên trong tiếng Pháp gọi phuơng pháp chữa bệnh này là ‘ le rire rabelais. Theo Rabelais, chỉ có loài người mới biết cười, le rire est le propre de l’homme. Cười là một đặc ân Tạo Hoá tặng cho con người, chúng ta hãy xử dụng nó.
Có 2 loại cười. Loại cười chữa bệnh và mang lại hạnh phúc như trên tôi gọi là loại A, là loại kích động tự nhiên cả tâm cả xác ta. Trong tiếng VN có rất nhiều từ để chỉ loại cười hạnh phúc này, như: cười ha hả, cười bò lăn bò càng, cười chảy nước mắt, cười đau cả bụng. cười vãi đái, cười tít mắt, cười tới tận mang tai, cười đấm nhau thùm thụp, cười đập bàn đập ghế… Và loại B tức là loại cười không phát ra từ cái tâm vui vẻ, không tự nhiên, như cười gượng, cười giã lả, cười mỉa mai, cười nhạt, cười khinh bỉ… Đây là loại cười tôi không có ý nói ở đây. Tôi ghét loại B này.
Môn thể thao phổ thông nhất hiện nay là chạy bộ. Buổi sáng thường gặp nhiều người chạy bộ trên đường phố hay trong các công viên. Việc chạy bộ này được gọi là external jogging, ta tập thể thao cho các cơ thể bên ngoài. Còn việc thể thao cho các cơ thể bên trong thì sao? Các nhà khoa học bảo tiếng cười chính là một loại chạy bộ bên trong, internal jogging. Khi ta cười ngặt ngẽo, ta thử để tay lên bụng mà coi, toàn bộ dạ dày, ruột non ruột già của ta như long lên sòng sọc. Đó là chúng ta đang chạy bộ bên trong, đang tập thể thao cho nội tạng. Ta có thể tập môn thể thao này bất cứ lúc nào.
Ngày xưa còn bé tôi được nhiều thày giáo dạy câu ‘ Un saint triste est un triste saint’ mà chả hiểu gì cả. Sao lại ‘một ông thánh buồn là một ông buồn thánh? Câu này khó hiểu quá. Mãi gần đây thì tôi mới hiễu trọn vẹn. Câu ấy phải dịch thế này: Một ông thánh mà mặt mũi buồn bã là một ông thánh vất đi, chả ra cái gì cả.
Người Trung Hoa có 2 câu mà tôi cho là chí lý:
– Nhất tiếu thiên địa không: Òa lên được tiếng cười thì sẽ coi trời đất như không
– Ai không biết cười thì người đó không nên mở tiệm buôn bán
Trên đây là chúng ta mới nói về những ích lợi cho xác cho hồn của mỗi cá nhân. Tiếng cười còn mang sự vui vẻ và đoàn kết đến cho tha nhân và xã hội. Hai người đang giận nhau mà tự nhiên cùng cười lên một tiếng thì coi như sự thù hằn đã hết, hai bên có thể bắt tay nhau làm hòa ngay. Cộng đồng gặp nhau rồi nhờ nghe mấy chuyện vui mà cùng phá ra cười thì sự đoàn kết tự nhiên đến, bao nhiêu sai biệt được san bằng, buổi họp đương nhiên sẽ thâu được những thành quả tích cực.
Có một câu danh tiếng mà tôi rất thích nhưng quên tên tác giả: Tiếng cười là một ngôn ngữ quốc tế, không cần phải phiên dịch. Đúng qúa chứ, phải không cơ?
Trà Lũ
Tha Thứ mới là người Quân Tử và được CHÚA thứ tha
Chúa Giêsu dạy chúng ta không sống theo “luật rừng”, không chỉ dừng lại ở mức độ công bằng. Mà hãy sống theo giới luật Chúa truyền, đó là luật “yêu thương”, một tình yêu bao là rộng lớn, một tình yêu vượt trên sự công bằng, vượt ra ngoài sự giới hạn tình gia đình, tình bằng hữu, tình đồng hương, vượt ra ngoài chủng tộc hay tôn giáo, “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 43-44)…..
*******
1. Thật là một người quân tử
Tích xưa kể rằng: Hàn Tín thời Hán Cao Tổ, thuở hàn vi phải đi câu cá đổi gạo mà ăn. Thế mà có những lúc không đủ ăn. Có bà thợ giặt cảm thương đã mời Hàn Tín đến dùng cơm tại nhà. Hàn Tín đi đâu cũng mang thanh gươm kè kè bên mình.
Một hôm, có tên đồ tể Ác Thiểu muốn hạ nhục Hàn Tín, chận đường thách: Chú thường mang gươm, chả biết để làm gì! Bây giờ tôi không cho chú đi. Chú có gan thì sẵn thanh gươm đó hãy chém tôi đi, bằng không thì phải lòn trôn tôi mà đi.
Hàn Tín chẳng chút do dự, lòn trôn tên hạ tiện đó mà đi, vì tự nhủ: “Giết thằng này thì được rồi, nhưng mà lấy mạng mình đổi mạng nó, thì không đáng tí nào!”
Sau Hàn Tín nhờ có công giúp Hán Cao Tổ dựng nước mà được phong làm Vua Tam Tể. Lúc bấy giờ, Hàn Tín bèn mời bà thợ giặt đến biếu nghìn lạng vàng để tạ ơn. Rồi không những không thèm trả thù tên đồ tể mất dạy xưa, lại phong cho hắn chức Trung Huý. Ác Thiểu rất ngạc nhiên, khúm núm nói: “Lúc trước tôi ngu lậu thô bỉ, đã dại dột xúc phạm đến oai nghiêm ngài, nay tội ấy được tha chết là may, còn dám mong đâu ban chức tước?
Hàn Tín ôn tồn bảo: “Ta chẳng phải là kẻ tiểu nhân hay cố chấp, đem lòng thù hận. Hành động của ngươi ngày xưa tuy quá đáng, nhưng cũng là bài học luyện chí cho ta. Vậy nhà ngươi chớ tị hiềm mà hãy nhận chức ta ban”. Lối báo đền ân oán của Hàn Tín thật là hay. Đối với người ân thì ban thưởng, song đối với người oán cũng vẫn ban thưởng chớ không trả thù. Thật là một người quân tử.
Là người con của Chúa, Chúa dạy chúng ta hãy làm hoà trước để khỏi xảy ra điều tai hại hơn. Đây là một lời khuyên quan trọng: chẳng những không được làm hại ai hay có ý mưu hại ai, mà còn phải đi trước một bước mà làm hoà. Nói rõ hơn, trước một điều bất công, vô tình hay hữu ý, thiên hạ gây cho ta: như xỉ nhục, xỉ vả, chê cười, nói hành, vu vạ, cáo gian… Tất nhiên lòng tự ái chúng ta bị va chạm, không thể nhịn được, lòng chúng ta như muốn trả đũa ngay. Đó là tính tự nhiên của con người. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống khác hơn, sống cao thượng hơn. Chúa muốn chúng ta tha thứ và làm hoà. Tha thứ và làm hoà là điều kiện phải có để đến với Chúa. Không thể đến với Chúa mà lòng còn ngổn ngang những tức giận, ghen tương, đố kỵ. Nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi, ai ai cũng cần được tha thứ, thế nên cũng cần phải biết tha thứ cho nhau.
—————-
2. “Ngươi đã trả nợ rồi…!”
Chúng ta rất khó cầm lòng để có sự bình tĩnh mà xét xử hơn thiệt. Người ta thường nói giận mất khôn là đúng lắm. Đôi khi trong cơn giận dữ lại có người còn thêm dầu vào lửa nữa, thì cơn giận càng có cơ hội bốc cháy. Những giận hờn, thù ghét chua cay và những gian dối che phủ mất lòng nhân ái. Hành động khi giận dữ dễ đưa đến những hậu qủa tác hại vô lường.
Truyện kể: Một hôm, một vị Samurai đến thu nợ của người đánh cá. Người đánh cá nói: “Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả ngài”. Vị Samurai nổi nóng, rút kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức. Rất nhanh trí, người đánh cá nói: “Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận”. Vị Samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống. “Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của ta cũng dạy như vậy. Đôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đó chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết ngươi”. Vị Samurai trở về nhà khi đã khá muộn. Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc quần áo Samurai đang ngủ trên giường. Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai: “Đừng hành động khi đang giận dữ”. Vị Samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn. Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hóa ra đó chính là mẹ ông. Ông gào lên: “Chuyện này là sao vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi!”. Vợ ông giải thích: “Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để dọa chúng”.
Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị Samurai. Người đánh cá phấn khởi nói: “Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có cả tiền lãi nữa”. Vị Samurai trả lời: “Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi và ngươi đã trả nợ rồi”.
————————-
3. “Một sự nhịn chín sự lành”
Khi thực hành được lời dạy của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm thấy sự yêu thương hòa giải thật tuyệt vời và đong đầy ý nghĩa. Khi thương yêu tha thứ, chúng ta không mất mát gì cả, mà còn được lợi gấp trăm. Ai cũng hiểu biết yêu là như thế đấy, nhưng đi vào thực hành tha thứ với con người cụ thể thì còn một khoảng cách cần lấp đầy.
Truyện cổ Trung Hoa kể câu truyện về sự hòa giải và kết hạn: Ngày xưa ở Trung Quốc, có một người nông dân và một người thợ săn là hàng xóm của nhau. Người thợ săn nuôi một đàn chó săn rất dữ tợn và khó bảo, chúng thường nhảy qua hàng rào và rượt đuổi đàn cừu của người nông dân. Người nông dân bảo người hàng xóm của mình hãy trông nom đàn chó cẩn thận, nhưng xem ra những lời đó đều bị bỏ ngoài tai.
Một ngày nọ, đàn chó lại nhảy qua hàng rào, chúng đuổi cắn đàn cừu và làm nhiều con trong đàn bị thương nặng. Lúc này, người nông dân không thể chịu đựng thêm nữa. Anh ta bèn lên phủ để báo quan. Vị quan phủ chăm chú lắng nghe đầu đuôi câu chuyện rồi nói: “Ta có thể phạt người thợ săn và bắt anh ta xích hoặc nhốt đàn chó lại. Nhưng anh sẽ mất đi một người bạn và có thêm một kẻ thù. Anh muốn điều gì hơn: một người bạn hay một kẻ thù làm hàng xóm của mình?” Người nông dân trả lời rằng anh muốn có một người bạn hơn. Vị quan phủ nghe vậy bèn phán:“Được, vậy ta sẽ bày cho anh một cách để vừa bảo vệ an toàn cho đàn cừu, vừa giữ được một người bạn”. Người nông dân bèn nghe theo lời chỉ dẫn của vị quan phủ.
Vừa về đến nhà, người nông dân liền thử làm theo những gì vị quan phủ đã bày cho anh ta. Anh ta bắt ba con cừu tốt nhất của mình và đem tặng chúng cho ba cậu con trai nhỏ của người hàng xóm. Đám trẻ rất vui thích quấn quít chơi đùa bên mấy con cừu. Để bảo vệ cho đồ chơi mới của lũ trẻ, người thợ săn đã làm một cái cũi chắc chắn để nhốt đàn chó. Từ đó trở đi, đàn chó không bao giờ quấy rầy đàn cừu của người nông dân nữa. Cảm kích trước sự hào phóng của người nông dân với những đứa con của mình, người thợ săn thường mang chiến lợi phẩm mà anh ta săn được sang cho người nông dân. Người nông dân đáp lại bằng thịt cừu và phô mai mà anh ta làm ra. Chỉ trong một thời gian ngắn, hai người hàng xóm đã trở thành bạn tốt của nhau.
Chúng ta biết rằng chiến tranh bao giờ cũng có thiệt hại, đổ nát, chia cách và mất mát. Cổ nhân có dạy: “Một sự nhịn chín sự lành”. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: “Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng. Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan”. Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ. Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta:Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Eph. 4,26)…
——————
4. LÒNG THÙ OÁN LÀ CĂN BỆNH TAI ÁC
Phim ảnh thường kể những chuyện báo thù, coi việc báo thù là bổn phận thiêng liêng: con báo thù cho cha, chồng báo thù cho vợ, anh em báo thù cho nhau, bạn bè báo thù cho nhau nhưng gần đây ngay cả những phim mang nội dung báo thù ấy cũng dẫn đến một ý tưởng kết thúc là bạo thù không giải quyết được vấn đề, càng báo thù thì hận thù càng gia tăng chồng chất. Nghĩa là lương tri con người đã ý thức được rằng báo thù không phải là nhiệm vụ thiêng liêng nhưng là một thảm họa.
Truyện Liễu Thị Xuân Thu có kể lại một câu chuyện như sau: Đời nước Tề, có một người nằm mơ thấy có người đem gươm vào nhà ông mắng chửi rồi giận dữ bỏ đi. Ông ta giật mình tỉnh dậy nhưng không tài nào ngủ lại được nữa. Sáng hôm sau ông nói với một người bạn: từ thủa nhỏ tới giờ, tôi vốn là người trí dũng. Đến nay 80 tuổi tôi chưa hề bị ai làm nhục. Thế mà đên qua có người đến làm nhục tôi. Tôi cảm thấy bức rức và cố tìm gặp được người đó, bằng không tôi phải chết mất.
Thế là ngay sáng hôm ấy, ông cùng người bạn đi tìm kẻ thù đã khiêu khích mình. Năm ngày trôi qua, nhưng ông vẫn chưa tìn được kẻ thù. Tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, hâm hực vì không tìm được kẻ thù, ông về nhà mất ăn mất ngủ mà chết.
Cicéron diễn giả La Mã nói: “con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”. Đúng thế, con người tự tạo ra cho mình kẻ thù rồi tự tiêu diệt chính mình. (Trích Món Quà Giáng Sinh)
———————–
5. CÒN PHẦN CỦA CÁC EM MỒ CÔI ĐÂU…?
Ngày kia thánh Clementê đi vào một tiệm ăn, ngửa tay ra và nói:
– Xin quý ông rộng lượng bố thí cho các em mồ côi một miếng cơm, một manh áo.
Tức thì các thực khách cười lên hô hố một cách khinh bỉ. Sau đó, một anh thợ giày đã nói:
– Một miếng ư, được lắm.
Rồi anh ta uống một ngụm bia, phùng má trợn mắt phun thẳng vào mặt thánh nhân. Chúng ta thử tưởng tượng xem thánh nhân đã phản ứng như thế nào? Có lẽ ngài sẽ giáng cho anh ta một cái tát tai. Nhưng không, ngài vẫn bình tĩnh, rút khăn lau mặt, rồi lại ngửa tay và nói:
– Thưa quý ông, đó là phần của tôi, còn phần của các em mồ côi đâu chưa thấy.
Anh thợ giày bỗng té nhào xuống đất như bị một cú đấm thôi sơn, vì anh ta chẳng bao ngờ tới trên cõi đời nham nhở này mà lại có được một người khích phách như vậy. Anh lòm còm ngồi dậy và lắp bắp nói:
– Tôi… tôi sẽ gởi tặng các em.
Sau đó, anh đã dành một phần sản nghiệp và trao tận tay thánh nhân một số tiền lớn để tạ lỗi.
Hãy tha thứ để rồi bản thân sẽ được Chúa thứ tha.
From: hnkimnga & Anh chị Thụ & Mai gởi
By Huy Phương
Ðối với người Việt Nam, đến tuổi 70 cũng chưa phải là già, kể cả những người lên 80, cũng không ai dám gọi là cụ ông, cụ bà, vẫn còn khả năng lái xe, nhưng đối với cảnh sát Mỹ thì chúng ta nên coi chừng, tuổi senior (từ 62 trở lên) là lớp tuổi dễ bị thu bằng lái nhất.
Các bạn già của tôi, hãy tưởng tượng đến lúc chúng ta không còn được phép lái xe, thì cuộc sống này trở nên bất tiện, buồn bã biết bao nhiêu. Ở Mỹ này không lái xe được xem như người què nằm một chỗ, nhất là ở những thành phố ít phương tiện giao thông công cộng. Chúng ta cũng không có được đời sống như ở Việt Nam, một bước lên xe xích lô, xe ôm hay gọi taxi đến tận nhà. Ở Mỹ đời sống tất bật, ngày thường bận đi làm, cuối tuần còn bao nhiêu việc nhà, con cái đâu có thời giờ để chúng ta đi nhờ xe, đến nơi này hay đi nơi nọ.
Tôi có một cô em họ, độc thân, 76 tuổi. Tuần rồi cô gây một tai nạn xe hơi. Thật ra không phải lỗi của cô. Cô đang lái xe trong lane sát lề bên tay mặt, thì một chiếc xe từ lane bên trái, xấn vào đầu xe của cô khá mạnh. Mất bình tĩnh, cô lái xe sang phải và đụng vào một chiếc xe khác đang đậu bên lề đường. Cô và người ngồi trên xe chỉ bị hoảng hốt, trầy trụa nhẹ, nhưng cả hai chiếc xe đều bị hư hại nặng (total loss.) Cảnh sát đến lập biên bản, lấy bằng lái của cô để ghi chi tiết, nhưng cô không ngờ, đây là ngày cuối cùng cô được lái xe. Cô không có con cái, có nghĩa là từ đây, việc di chuyển của cô sẽ gặp nhiều khó khăn, và đời sống của cô bước sang một khúc ngoặt mới.
Cụ George Weller, 86 tuổi, và hiện trường tai nạn. Nguồn CBS los angeles
Chúng ta thử đặt mình vào hoàn cảnh của câu chuyện ở trên, để thấy giờ này mà chúng ta còn lái xe được, rong ruổi trên xa lộ, đi đây đó, hạnh phúc biết chừng nào!
Chiều ngày 16 tháng 7 năm 2003, cụ George Weller, 86 tuổi, đã lái chiếc xe Buick LeSabre năm 1992 của mình xuống đại lộ Arizona ở Santa Monica, California để đi tới khu mua sắm Third Street Promenade nổi tiếng ở đây. Cuối con đường, hôm đó người ta đã ngăn lại để dành cho một phiên chợ nông sản cuối tuần. Chiếc xe của cụ Weller đã chạy thẳng đâm xuyên những bảng chận đường, lao vào khu chợ đang đông người với tốc độ 60 miles/giờ, đã tông chết tại chỗ 10 người và đã làm 63 người khác bị thương. Weller nói ông đã đạp nhầm chân ga thay vì đạp thắng.
Ngày 8/11, năm 2011, tại một thị trấn Palm Coast, miền Bắc Florida, ông cụ Louis Nirenstein, một người “handicap” thường dùng xe lăn, lái xe hơi và lạc tay lái, chạy vào, cũng một chợ nông sản, làm bị thương 3 người. Cụ cho cảnh sát biết chân ga của cụ bị kẹt.
Cuối năm 2014, bà cụ Beryl Hughes, 84 tuổi đã bị giam giữ 24 tuần, đồng thời bị cấm lái xe 5 năm vì tội gây ra tai nạn chết người. Cụ lái chiếc Audi A3 đâm trực diện vào chiếc Honda Civic do ông Brian Bockmaster, 80 tuổi lái, khiến ông Brian phải nhập viện và qua đời một ngày sau đó. Trước khi gây ra vụ tai nạn, bà Hughes từng bị phạt vì lái quá tốc độ hạn định. Bản thân bà Hughes cũng thừa nhận nhiều năm trở lại đây, khả năng lái xe đã suy giảm.
Các vụ tai nạn đã thúc đẩy những cuộc tranh luận toàn quốc ở Hoa Kỳ về những tai nạn giao thông do những người lái xe cao tuổi gây ra.
Theo Cục Quản lý An toàn Giao thông Quốc gia (National Highway Traffic Safety Administration) những người lái xe lớn tuổi từ 65 tuổi trở lên đã gây ra 12.5% tai nạn giao thông trên đường phố.
Vấn đề được đặt ra là những người lái xe lớn tuổi có còn giữ được “an toàn trên xa lộ” không? Từ lâu, Anh quốc có quy định bắt buộc bằng lái xe của những người từ 70 tuổi trở lên đều bị thu hồi. Ðể có thể tiếp tục lái xe, họ cần phải kiểm tra sức khỏe và thi lại bằng lái trước ngày sinh nhật lần thứ 70 và liên tục phải đổi bằng lái mỗi ba năm. Ở Mỹ, người lái xe trên 70 tuổi vẫn được cấp bằng lái có hiệu lực 5 năm, đến kỳ hạn 5 năm, họ chỉ việc thi lại bằng viết và kiểm tra lại thị lực, nhưng trong thời gian này, nếu gây ra tai nạn, chắc chắn bằng lái sẽ bị thu hồi.
Tuy nhiên, việc có nên cấm hẳn người già lái xe hay không luôn là chủ đề được bàn tán sôi nổi. Năm 2010, tỉ lệ người trên 70 tuổi lái xe trên toàn quốc tăng gấp 4 lần so với năm 1975. Ở California có hơn 5.5 triệu người trên 55 tuổi đang lái xe, và hơn 2.5 triệu người trên 70 tuổi.
Tại Anh Quốc, phụ nữ cao tuổi nhất đang lái xe đã 107 tuổi. Nước này có 191 người có bằng lái xe trên tuổi 100. Bộ Giao thông Anh (DfT) cho biết, tuy chưa có bằng chứng cho thấy người cao tuổi lái xe có nguy cơ gây tai nạn cao hơn nhóm tuổi trẻ, nhưng thực tế, báo chí tốn không ít giấy mực với các vụ người lớn tuổi lái xe vi phạm luật lệ hoặc gây tai nạn.
Người ta đưa ra những yếu tố giải thích người già gây ra nhiều tai nạn vì:
Ở các nước khác, để giảm tội ác và các tai nạn do súng đạn, chính phủ kêu gọi người dân đem súng đổi lấy tiền thưởng, trong khi ở Nhật người ta kêu gọi quý cụ đem bằng lái xe nộp cho cảnh sát để được giảm giá khi ăn mì ramen tại 176 địa điểm thuộc chuỗi nhà hàng Sugakiya, nghe thật tội nghiệp! Bằng lái của người già cũng nguy hiểm như súng đạn hay sao?
Hai cụ già selfie bên chiếc xe bị tai nạn – nguồn you tube
Một chiến dịch của cảnh sát Tokyo cũng khuyến khích người già từ bỏ việc lái xe bằng cách giảm giá xe buýt và taxi cho họ. Nhiều trường hợp người già gây tai nạn đã xảy ra, khi một người phụ nữ 83 tuổi mất kiểm soát khi đang lái xe, gây ra cái chết cho hai bộ hành. Một cụ ông khác, 87 tuổi lái xe tải đâm vào một nhóm học sinh, khiến một em 6 tuổi tử vong.
Người già lái xe xin đọc những lời của Thẩm phán Stephen Holt (Hoa Kỳ) sau đây “Bản thân người cao tuổi và gia đình, bạn bè cần có trách nhiệm theo dõi khả năng lái xe của mình và người thân, đối mặt với sự thật rằng – qua thời gian, khả năng lái xe của họ không còn an toàn. Việc người cao tuổi cần và muốn lái xe, ít để ý tới vấn đề an toàn, đặc biệt ở những khu vực xa đô thị, không có các phương tiện giao thông công cộng là điều dễ hiểu”.
Một nghiên cứu do Khoa Y học Cộng đồng Maliman thuộc Ðại học Columbia thực hiện và công bố đầu năm 2016 cho thấy, sức khỏe của người cao tuổi sẽ bị suy giảm khi họ không còn được lái xe. Không chỉ vậy, việc này sẽ đem lại cho người già triệu chứng trầm cảm, buồn phiền.
Các bạn già của chúng tôi, những người đang còn lái xe như hôm nay cảm thấy thế nào nếu một ngày nọ, không còn ngồi được vào chiếc xe, sau tay lái để tự ý đi đây, đi đó mà phải nhờ đến con cái, họ hàng. Ðiều đó có nghĩa là đời sống đã mất đi nhiều ý nghĩa.
Nhưng một ngày nọ, nếu các bạn nghe tin có người lái một cái xe đâm vào một đám đông gây chết người, thì đừng vội kết luận đó là một chuyện khủng bố của ISIS, mà nên xem lại có phải người lái xe là một trong mấy ông bạn già lạng quạng của chúng ta không?
Tôi đã từng tin rằng Mao Trạch Đông chỉ huy Bát Lộ Quân đánh bại quân Nhật xâm lược, sau đó phát hiện rằng, hóa ra là quân đội Quốc dân Đảng xả thân chiến đấu, cùng với sự trợ giúp của Mỹ cuối cùng đã đánh bại quân Nhật.
Tôi đã từng tin rằng năm 1949 Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập nước “Trung Quốc mới”, sau này phát hiện từ năm 1945 Quốc dân đảng đã thành lập nên “Trung Quốc mới” rồi, sau đó thời kỳ nội chiến đã bị đánh tan.
Tôi đã từng tin rằng Hồng quân “trường chinh” đi đến miền Thiểm Bắc để đánh Nhật, sau này mới phát hiện ra vốn dĩ miền Thiểm Bắc không có quân Nhật, Hồng quân đến đó chỉ vì để chạy trốn trong nội chiến Quốc – Cộng, và để chi viện cho Liên Xô.
Tôi đã từng tin rằng việc Mao Trạch Đông đánh đổ địa chủ phân chia ruộng đất là vì dân trừ hại, sau này phát hiện tuyệt đại đa số tài sản của địa chủ đều là do họ đổ mồ hôi sôi nước mắt mới kiếm được, vậy mà họ lại phải chịu cảnh cướp bóc và ngược đãi khủng khiếp.
Tôi đã từng tin rằng 40 triệu người chết trong nạn đói lịch sử từ năm 1950 đến năm 1962 là kết quả của thiên tai và Liên Xô bức ép, sau này phát hiện những năm này mưa thuận gió hòa, mà chính “Đại Nhảy Vọt” của Mao muốn vượt qua Anh, Mỹ, chi viện cho cách mạng thế giới tạo thành.
Tôi đã từng tin rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là cuộc phản kích tự vệ, sau này mới phát hiện ra là do Việt Nam lật đổ chế độ Pol Pot ở Campuchia, sát hại đến một phần ba dân số (trong đó có khoảng 200.000 người Hoa) của tập đoàn Khmer đỏ tà ác.
Tôi đã từng tin rằng những dư luận viên trong “Đảng 5 hào”(*) căm hận nước Mỹ, sau này mới biết rằng thủ phạm công kích nước Mỹ chính là chính quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc, những anh hùng mà dư luận viên của “Đảng 5 hào” tâng bốc đều đến xin tị nạn tại Đại sứ quán Mỹ.
Tôi đã từng tin rằng người dân Mỹ sống trong bể khổ đau thương, sau đó phát hiện ra những người Trung Quốc có tiền, có quyền đều di dân đến Mỹ.
….
Tin Mừng (Mt 13: 44-52)
Hôm ấy, Đức Giêsu kể cho dân chúng nghe dụ ngôn sau đây: Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
“Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.
“Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
“Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Họ đáp: “Thưa hiểu.” Người bảo họ: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.”
“Khóc là ủy mị, chết là điên”
“Gây cho hoàn cảnh thêm tươi đẹp”
“Lọc mãi cho hồn trong sáng lên”
(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)
Mai Tá lược dịch.
Khóc đâu chỉ là uỷ mị. Nhưng còn là, tâm trạng nhà thơ viết về người tình, mình cay đắng. Chết đâu chỉ là khùng điên. Mà còn là, quyết tâm chết cho người tình, mình vẫn yêu. Uỷ mị hay điên khùng, phải chăng là đặc trưng của người nhà Đạo, vào lúc này?
Trình thuật thánh Mátthêu, nay kể về dụ ngôn, là để nói lên những điều từa tựa như thế. Từa tựa, về ý nghĩa và đích điểm của Nước Trời, ở trần gian. Nuớc Trời trần gian, như thánh Mátthêu từng khám phá, là: tình huống có Đức Giêsu và dân con Ngài, cùng sống. Sống giống Chúa. Và với Chúa. Như thánh nhân đây, cũng từng học hỏi sống khác thường, theo đúng nghĩa sống. Và, thánh nhân thấy mình như người quản gia, cho qua đi những gì thuộc về quá khứ, chỉ giữ lại những gì mới mẻ, vừa khám phá.
Khám phá/tìm ra, như tác giả vừa tìm thấy châu báu nơi ngọc quý, bèn bán đi mọi sự để mua lấy, dù cao giá. Châu báu đây, là những đồ xưa cổ làm nền cho mọi sự việc rất mới. Và, châu báu ở viên ngọc mà thánh nhân nói đến, chính là sự mới mẻ ở mọi sự. Rất quí. Và, càng có giá hơn, khi đó lại là khám phá mới về chính con người, của mình.
Thánh nhân đây, tuy không còn trẻ, vẫn là người Do thái rất tốt lành. Biết dấn thân theo chân Chúa đến cùng, như mọi người lành thánh, tốt đẹp. Như, đồ đệ đáng tuyên dương của Chúa, mà mọi người vẫn đợi trông.
Thánh nhân đây, đã trở thành tín hữu của Đức Chúa, nhưng vẫn không ngừng là người Do thái chính cống. Rất minh bạch. Bởi thế nên, thánh nhân nghĩ mình cũng là ngôi nhà có giá trị. Để rồi từ đó, thực hiện được cả những điều cũ/mới, vẫn đổi thay. Đổi thay và tháp ghép vào những điều đã cũ ngõ hầu để tạo sự mới mẻ cho những gì mình viết ra. Mỗi lần gặp người mới, thánh nhân đều thấy thế. Và khi gặp người khác nữa, ông cũng trở nên chính mình hơn. Tức, tìm lại được chính mình.
Phần đông trong chúng ta, mỗi khi nhìn vào cuộc sống của chính mình trong quá khứ, đều thấy có những chuyện tương tự. Trong suốt chuỗi ngày dài cuộc sống, ta cũng từng đổi thay. Đổi và thay, để trở thành người tín hữu không như cũ. Vẫn cố thay đổi trong Hội thánh. Thay đổi, thái độ sống. Thay đổi, ý nghĩa của con người mình. Có lẽ ta thay đổi nhiều hơn nhiều người trong quá trình năm trăm năm qua.
Về đổi thay, có người cho rằng như thế cũng là đủ. Và, ta đâu còn sức để đối đầu với thay đổi nữa. Có vị lại thấy mình chưa thay hoặc đổi gì nhiều cho lắm. Cần làm nhiều hơn nữa. Bởi, quá khứ của mình dầu sao cũng chưa khá. Chính vì thế, thánh Mátthêu nay yêu cầu ta ngồi lại với nhau, theo cách ít khi thấy, để suy nghĩ về một đổi thay thật rất mới. Và đó có là một đòi hỏi khá to tát, đối với ta không?
Nhìn vào Giáo hội quanh ta có thể là Hội thánh của ngày mai, hoặc rất chóng, ta cũng thực sự thấy đã có khác. Ít ra là mặt ngoài. Đây, không nói về đường lối ta phải theo. Mà, chỉ muốn nói đến dấu hiệu cho ta thấy những gì có thể sẽ diễn ra, mai ngày.
Đó là, cảnh thiếu hụt dần số lượng linh mục hoặc tu sĩ, ở nhiều nơi. Hoặc, cũng ít đi, xuất lễ vào những ngày cuối tuần. Hoặc, thường nhật. Sẽ ít đi, số giờ linh mục ngồi toà cáo giải, vì dân con của Chúa nay ít có nhu cầu. Ít đi dần, trường hợp người từ nhà gọi cha đến thực hiện phép bí tích. Càng ít dần, cảnh tượng từng cặp và từng cặp thừa tác viên đến gõ cửa mỗi nhà, mà giảng đạo. Ít có chuyện thăm kẻ liệt, ngoại trừ trường hợp khẩn cấp. Hoặc, nhà quàn tự tổ chức tang lễ không có linh mục. Hoặc, vị phó tế vĩnh viễn đứng ra lo việc rửa tội, dù họ không có chức năng.
Và theo thiển nghĩ, cũng sẽ có nhiều đổi và thay khác, như: đám cưới tổ chức ở nhà thờ được sắp xếp, cách khác hẳn. Khác, giờ giấc. Khác, phụng vụ! Việc dạy giáo lý cũng sẽ khác. Và, vấn đề là: ta làm thế nào để dung hoà và ăn ý với những đổi thay, như thế này? Lâu nay, ta vẫn quen với thánh lễ bằng tiếng Anh (hoặc một số người từng như thế); và, quen với cung cách của vị chủ tế quay mặt về phía bổn đạo. Quen, với chuyện không để các tu sĩ hoặc nữ tu đến trường công lập mà dạy học. Quen, với chuyện trường Công giáo không chỉ dạy về những chuyện có liên quan đến Đạo, mà thôi. Và rồi, ta có quen dần với đổi thay này khác không? Và, có thích thế không?
Không phải ai cũng thích. Có số người chỉ muốn tái tạo lập lại quá khứ buồn. Tức, chỉ muốn quay trở về thời xưa cũ, có lối thờ phụng cung kính, cũng rất cổ. Và rất quen. Quen cầu Chúa phú ban nhiều linh mục hơn để giùm giúp. Có số người lại chỉ cảm tạ Chúa về nhiều thứ. Có người vẫn cứ cầu Chúa ban thêm cho mình nhiều ân huệ. Đồng thời, lại cứ chối bỏ chuyện cũ xưa. Trong khi đó, nhiều người khác vẫn cứ theo kiểu xưa lối cũ mà răm rắp giữ Đạo.
Hôm nay, thánh Mátthêu muốn làm một sự khác thường, với người đọc. Thánh nhân muốn đặt sự mới mẻ lên chuyện cũ. Muốn, đem cơ hội đổi mới những chuyện cũ, đã xa vời. Thánh nhân nhận rằng mình đã tìm ra ý nghĩa mới mẻ về cuộc sống. Về Chúa. Và về con người mình. Qua, kinh nghiệm sống. Thánh nhân cũng muốn kể cho người đọc biết kinh nghiệm lòng tin của mình. Về, những gì mình chưa từng nghĩ đến. Chưa từng thực hiện mà lại không phải qua thủ tục hoặc khuôn phép nào hết. Tựu trung, điều thánh nhân muốn nói đến, là: chính ông cũng là một dụ ngôn…
Cũng nên biết, sở dĩ thánh Mátthêu nói thế là muốn người đọc như ta, cũng đều là một thứ dụ ngôn, nào khác.
Trong mấy tuần qua, thánh Mátthêu từng kể cho ta nghe rất nhiều dụ ngôn/truyện kể về cuộc sống. Thánh nhân kể, cũng là để ta lắng tai nghe âm nhạc của đời mình để thấy được sự dồi dào, sung mãn ở nơi Chúa. Thánh nhân mời gọi ta tham gia sự mới mẻ trong cuộc sống, không phải để ta khiếp sợ những mâu thuẫn sẽ thấy nơi tình huống ta đang dấn bước, đi vào đó.
Vì thế nên, thánh nhân đã định nghĩa lại để ta thấy được căn tính của mình. Làm như thế, có nghĩa: ta là lớp người tuyệt vời hơn mình tưởng. Và, mỗi câu truyện đời của ta, cũng sẽ là những câu truyện lớn rất nên kể. Phải chăng đó cũng là câu truyện dụ ngôn, của mỗi người?
Trong tâm tình đầy cảm kích như thế, cũng nên ngâm thêm lời thơ ta từng ngâm khi trước:
“Nàng hãy vui đi dẫu một ngày,
dẫu phần ba phút, góc tư giây.
Dẫu trong thoáng mắt nhìn như chớp,
cũng đủ cho nàng quên đắng cay.”
(Nguyễn Bính – Cầu Nguyện)
Hãy vui đi, dù xảy đến những đổi thay, hay rất mới, ở đời mình. Hãy cứ vui, dù trong thoáng chớp, nhìn như chớp. Vui, để biết rằng Hội thành Chúa vẫn đổi thay. Rất hằng ngày. Ở mọi nơi.
Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –
Mai Tá lược dịch.
CHuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 17 thường niên năm A 30/7/2017
“Chỉ chừng một năm thôi”,
Là quên lời trăn trối,
Ai nuối thương tình đôi,
Chỉ chừng một năm thôi.”
(Phạm Duy – Chỉ Chừng Đó Thôi)
(Thư Êphêsô 4: 2-3)
Vâng. Đúng thế. Ngày “N” hôm ấy, ở buổi Hát Cho Nhau Nghe tại Sydney đêm mùng 8 tháng 7 năm 2017, cả hát sĩ lẫn người đệm đàn đều đã nhè nhẹ nói lên những lời làm rụng đôi cánh hoa, ít khi nghe.
Vâng. Quả thật ở chốn văn chương/thi-tứ nhà Đạo, lại cũng thế. Cũng thấy đề-cập đến vấn đề nóng bỏng, giật gân và thời-sự như chuyện “linh-mục có vợ” hoặc chuyện “phụ nữ làm linh-mục” được phép thi-hành thừa-tác-vụ cao-siêu/nhiệm-mầu để rồi, cuối cùng thì: “cũng chỉ chừng đó thôi”.
Vâng. Đời người, vẫn thấy và vẫn nghe đâu đấy vang lên những câu ca thực-tế cứ bảo rằng:
“Chỉ chừng một năm qua,
Là phai gầy hương cũ,
Hoa úa trong lòng ta,
Chỉ cần một năm xa…
Khi xưa em gầy gò đi ngang qua nhà thờ.
Trông như con mèo khờ, chờ bàn tay nâng đỡ.
Ta yêu em tình cờ, như cơn mưa đầu mùa,
Rơi trên sân cỏ già, làm rụng đôi cánh hoa.
Chỉ một chiều lê thê,
Ngồi co mình trên ghế,
Nghe mất đi tuổi thơ
Chỉ một chiều bơ vơ.”
(Phạm Duy – bđd)
Vâng. Thế đấy. Nếu biết rằng: cũng “chỉ chừng đó thôi”, thì đã làm gì có chuyện nhiêu-khê, tơi bời, rất vời vợi! Nhưng, “chỉ chừng đó thôi”, còn có nghĩa thế này:
“Chỉ chừng một cơn mưa,
Để không ngờ chi nữa,
Đi dưới mưa hồng nghe
Giọt nhẹ vào tim ta…
Ta yêu em mù lòa, như Ađam ngù ngờ
Yêu Eva khù khờ, cuộc tình trinh tiết đó.
Nhưng thiên tai còn chờ, đôi uyên ương vật vờ
Chia nhau xong tội già, đày đọa lâu mới tha!
Chỉ là chuyện đong đưa,
Đời luôn là cơn gió
Thay áo cho tình ta
Chỉ là chuyện thiên thu…
Chỉ cần một cơn mưa, chẳng ai còn yêu nhau.
Nào ngỡ đâu tình yêu giăng bẫy nhau còn nhiều.
Nghe lòng còn kho giáo, nghe tình còn khát khao.
Nên gục đầu rất lâu, xưng tội cả kiếp sau.
Cả chiều người yêu nhau,
Còn ai là không thấu,
Len giữa u tình sâu
Một vài giọt ơn nhau…
… Tia sáng thiên đường cao rọi vào ngục tim nhau.”
(Phạm Duy – bđd)
Vâng. “Tia sáng thiên-đường”, vẫn cứ “rọi vào ngục tim nhau”, “len giữa u tình sầu”, “một vài giọt ơn nhau”. Ơn nhau đây, là: huệ/lộc soi-sáng chốn “thiên-đường” như “đám ngù ngờ” “yêu Eva khù khờ”, “cuộc tình trinh-tiết đó”…
Vâng. “Thiên đường là đây”, vẫn thấy “thiên tai còn chờ, đôi uyên-ương vật-vờ”, “chia nhau xong tội già”, đày đoạ lâu mới tha.”
Vâng. Cũng như thế. “Chốn thiên đường” nhà Đạo ở Úc này, hôm nay, lại thấy xảy ra cái-gọi-là “tội già”, “đày đoạ” đến độ bạn và tôi, ta không thể bỏ qua cho được. Tội già/đày đoạ đây, là: những tin tức…mình về đấng bậc nọ thuộc tầm cỡ thứ 3 ở triều-thần Vatican, vừa trải qua một thứ “đoạ đày” như báo/đài vừa thông báo:
“Nhân-vật đứng thứ 3 của Vatican, là Hồng y George Pell người Úc vừa được báo cho biết: ông phải ra hầu toà về một cáo-buộc là: ông đã “lạm-dụng tình-dục thời buổi trước”, lúc còn trẻ. Tin cho hay: kể từ ngày Hồng y được bổ-nhiệm làm Bộ trưởng Thánh-bộ Kinh tế-Tài chánh, với trọng-trách dọn/dẹp các vụ bê bối về kinh-tế/tài-chánh, của Giáo-hội.
Hồng y George Pell đã cực-lực bác bỏ cáo-buộc có luận-điệu như thế. Ông sẽ không nương bóng đứng đằng sau trách-nhiệm của mình ở Vatican, nhưng đã lên kế-hoạch về lại Úc để nghe những đoạn nhạc vừa trổi lên. Trong lần tiếp xúc với báo-giới, ông tuyên-bồ: Vấn-đề này, lâu nay, được điều-tra có đến gần như hai năm trời rồi.
Thật ra thì, báo-giới đã bắt chụp những tin rò rỉ từ đâu đó, khiến trở thành mưu-toan giết chết thanh-danh ông cách tàn-nhẫn đến độ hơn tháng trời nay, tin cho biết toà án Bang Victoria Úc quyết định ra trát buộc Hồng y Pell xuất-hiện trước công-đường để trả lời cho những cáo-buộc nói trên.
Và, Hồng y George Pell lại cũng tuyên-bố:
“Cuối cùng ra, điều mà tôi tiên-đoán trước đây, có nghĩa rằng: rồi ra, họ cũng sẽ buộc tôi hầu toà chỉ để công-khai kết tội tôi, mà thôi. Nhưng, tôi nhắc lại một lần nữa: tôi hoàn-toàn vô tội trước những cáo-buộc như thế. Cáo buộc này, hoàn-toàn sai sự thật; bởi, toàn-bộ ý-tưởng về chuyện lạm-dụng tình-dục xưa/nay đối với tôi vẫn là chuyện ghê-tởm không thể tưởng tượng nổi.”
Thật dễ hiểu. Tin tức loan đi khắp nơi về những chuyện như thế đã làm chấn-động mọi người, đặc-biệt là những người không hay/biết rằng Cảnh-sát Bang Victoria, Úc đã mở cuộc điều-tra về chuyện này.
Thế nhưng, chuyện Hồng y Goerge Pell than-phiền về một mưu-toan giết chết con người không thương tiếc; và lời than phiền ấy, không có gì là quá đáng. Đài ABC Úc cùng các báo/đài có uy-tín như tờ Sydney Morning Herald và The Age, cũng đã nêu bật lời đồn khen/chê, và chưa từng để luột mất cơ hội bôi nhọ tên tuổi Hồng y Goerge Pell.” (X. Michael Cook, Australia’s Cardinal Pellcharged with sex offences, MercatorNet 29/6/2017)
Thế đó, là tin-tức được người chủ-trương trang mạng mang tên MercatorNet đã loan-báo. Nhưng, lời nhận-định từ giới hiểu biết sự việc diễn ra ở giáo-triều Vatican, lại như sau:
“Hồng y George Pell, nay đã hết thời ở Vatican, rồi. Quí vị có thể đánh cá/cược về nền tài-chánh và tài-sản kếch-sù của Toà Thánh mà nói rằng, trên thực-tế, ông ta đã chấm-dứt không còn giữ chức-vụ Bộ-trưởng Thánh-bộ Kinh-tế/tài-chánh là cơ-quan chuyên giám-sát nguồn tài-sản to lớn ấy.
Các cáo-buộc về Hồng y Pell đã lan-truyền nhiều năm nhưng chưa lần nào bị tắc nghẽn. Hồng y Pell luôn nhấn mạnh rằng ông vô tội, và tuần rồi ông cam-kết sẽ bạch-hoá tên tuổi mình trong sự-vụ gọi là “mưu-toan giết chết con người không thương tiếc. Rõ ràng là, ông đã mướn trạng sự nổi-tiếng của Melbourne là Robert Richter nổi tiếng chuyên biện-hộ các vụ hình-sự cho các nhân-vật kiệt-suất. Thế nên, đây sẽ là cuộc chiến tại toà kéo dài cả năm hoặc hơn nữa; và cũng kéo dài ngày đối với Toà Thánh Vatican trống vắng vị thủ-trưởng hoặc cánh tay mặt của ngài.
Sự vụ liên quan đến Hồng y Pell làm ta liên-tưởng đến trường-hợp của Libero Milone, nhà tài-chánh người Ý sinh trưởng tại Hoà Lan, nhưng ăn học ở Anh và Hoa Kỳ. Vị thanh-tra 68 tuổi đời này được tuyển-dụng làm tổng Thanh-tra Toà thánh cho một thời-gian dài, nhưng ông này đã từ-nhiệm chức-vụ này mà không nói rõ lý-do chỉ vài tuần trước khi Hồng y Pell lấy ngày nghỉ. Cho đến nay, sự việc ông Tổng Thanh-tra này dừng bước trước công việc còn bề bộn vẫn là điều bí-ẩn, chẳng ai rõ biết duyên-do. Thanh-tra Milone chỉ tồn-tại có hai năm, trong khi Hồng y Pell lại chỉ làm có hơn 3 năm trong nhiệm-kỳ 5 năm.
Nay thì Libero Milone đã rũ áo ra đi một lần là mãi mãi, trong khi Hồng y chỉ tạm thời ít năm thôi, và chức-vụ này hiện đang do hai nhân-viên cấp thấp đảm-trách, một là Đức Ông Alfred Xuerev, một linh mục người đảo Malta là thư ký riêng của Đức Bênêđíchtô 16 và làm cho Đức Phanxicô một thời-gian rất ngắn. Vị kia, là Đức Ông Luigi Misto từng là nhân-viên kế-toán làm việc tại Tổng Giáo-phận Milan dưới triều Hồng y Carlo Maria Martini. Kế-toán-viên này hiện trông coi bộ-phận hành-chánh trực-thuộc văn-phòng Kinh-tài của Toà thánh.
Nhiều quan-sát-viên và các bình-luận-gia chuyện Toà thánh lại vẫn tiên-đoán rằng: sự việc xảy ra mới đây, nói lên thảm-trạng đối với các cố-gắng của Đức Giáo-Hoàng nhằm cải-tổ hoạt-động kinh-tài của Vatican, trên bình-diện tổng-thể. Thế nhưng, bình-luận-gia người Ý của nhật-báo Corriero della Sera ở Milan là ông Massimo Franco lại tin rằng: việc đổi-thay nhân-lực mới đây, sẽ là cơ hội mới để công-cuộc cải-tổ trở về đúng với đường lối họ từng đặt. Trong vụ Hồng y George Pell, ông Massimo Franco còn cho biết: sự việc Hồng y Pell vĩnh-viễn rời bỏ Vatican sẽ xúc-tiến cuộc cải-tổ tài-chánh nhiều hơn là khiến họ dừng đứng. .
Ông Massimo Franco cũng cho biết thêm rằng: cung-cách mà Hồng y George Pell xử-lý sự việc ờ Toà thánh, quả thật đắt giá và chẳng chút hiệu-năng nào hết. Bởi, thánh-bộ của ông lâu nay đụng-chạm nhiều với các thánh-bộ khác. Và, đặc-biệt trong các xung-đột này, sự việc thường thấy nhất là: các hành-xử của Hồng-y Pell hơi quá đáng về văn-hoá. Ông vẫn có thành-kiến chống bất cứ thứ gì mang tính-chất Ý-Đại-Lợi. Hồng y Pell còn đi xa hơn nữa, ở việc: bắt buộc mọi người phải sử-dụng tiếng Anh làm ngôn-ngữ chính trong thánh-bộ của ông. Và ông từng nói xa nói gần rằng: lâu nay, tham-nhũng là vấn-đề cố-hữu tồn-tại mãi trong phương pháp mà người Ý quản-trị về tài-chánh! Và, Hồng y Pell không ngần-ngại áp-đặt hệ-thống pháp-luật kiểu “bàn tay sắt” của người Anh-Cát-Lợi trên toàn thế-giới mà ông ít biết đến, nhưng Hồng y Pell vẫn một mực bác-bỏ những điều như thế.
Nói tóm lại, theo ông Massimo Franco thì: lề-lối xử-sự cách “cộc cằn” và mặc-cảm tự-tôn văn-hoá đã là trở-ngại chính cho các cố gắng của ông để tiến tới công cuộc cải-tổ tài-chánh lớn rộng của Toà thánh.
Nói cho cùng, thì: chủ-trương và cung-cách mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đang thực-hiện nhằm cải-tổ nền tài-chánh của Toà thánh đang gặp khó khăn, thiết nghĩ Đức Phanxicô có lẽ phải chấp-nhận việc cải-tổ bất-toàn này sẽ không còn là cái giá mà ngài phải trả, nếu ngài muốn đạt mục-tiêu quan-trọng này.” (X. Robert Mickens, Cardinal George Pell’s Out. Now what? MercatorNet 03/7/2017)
Nhận-định này/khác từ giới quen biết ở truyền-thông Úc, thì như thế. Như thế, vẫn như thể: loan truyền tin-tức hoặc ghi-nhận chuyện thời-sự, cũng chỉ để người đọc mọi rộng tai/mắt mà xem xét thôi.
Truyền-thông báo giới hôm nay “coi vậy mà không phải vậy”, chút nào hết. Coi như thể không dính-dự vào bất cứ trường-hợp khó xử nào ở nhà Đạo; nhưng kỳ thật, lại cũng loan và báo những tin giật gân, động trời, đầy vấy bẩn.
Truyền-thông/báo giới hôm nay, lại cứ đóng vai-trò “tưởng-chừng-như-đứng-ngoài”, nhưng trái lại, vẫn từng gây hại rất nhiều cho cả nạn-nhân lẫn người bàng-quan, đứng ngoài, không cần-thiết phải “biết hết mọi sự”.
Truyền-thông/báo giới hôm nay là thứ quyền-lực ngầm chuyên trị những sự kiện ngoài tầm đạo-đức/chức-năng của chính mình. Bởi thế nên, tin dữ càng được hoặc bị loan-truyền đi xa, càng làm người bàng-quan/vô-tư cứ bị lôi kéo vào vòng tròng/tréo rất khó xử.
Để tạo cho người và cho mình một tình-huống dễ sống và dễ thở hơn, có lẽ bạn và tôi, ta cũng nên bỏ mọi chuyện gây bứt rứt sang một bên, mà tìm về vườn hoa truyện kể để thư-giãn. Thư-giãn bằng truyện kể cảm-động có tên là “những bàn tay để nắm”:
“Truyện rằng,
Một lần nọ, ông xã ngồi mân mê bàn tay tôi rồi hỏi: “Nói anh nghe, bàn tay này đã nắm bao nhiêu bàn tay rồi?” Một câu hỏi không hề dễ trả lời, thậm chí là không thể trả lời cho chính xác. Có những bàn tay ta nắm rồi buông, và chẳng bao giờ còn nhớ lại. Có những bàn tay, nắm rồi nhớ mãi dù năm tháng đi qua.
Bàn tay tôi nắm đầu tiên là của ai, là bố hay là mẹ? Tôi chắc chắn không biết. Nhưng tôi biết đó là hai bàn tay tôi đã nắm nhiều nhất thuở ấu thơ. Những bàn tay to, thô ráp bởi cày cuốc ruộng đồng, những bàn tay như thần thánh có thể làm hết thảy mọi việc. Bàn tay bố dắt tôi chập chững bước đi. Bàn tay mẹ cầm tay tôi uốn từng nét chữ.
Bất cứ khi nào tôi ngã, hay khi tôi buồn khóc, ốm đau, sẽ có bàn tay rộng lượng chìa ra cho tôi nắm vào để biết rằng mình đang được vỗ về an ủi. Sau này lớn lên, tôi lấy chồng xa, thỉnh thoảng đưa con về thăm nhà, ngủ chung với mẹ. Những đêm chờ mẹ ngủ say, tôi cầm bàn tay mẹ áp vào ngực mình. Bàn tay vẫn to, đầy những nốt chai sần và nay đã nhăn nheo gầy guộc. Và tôi khóc, cảm giác nhớ tiếc một cái gì đó.
Tôi nhớ bàn tay người con trai đầu tiên mà tôi gọi đó là mối tình đầu. Đôi bàn tay đẹp, dài với những chiếc móng được cắt gọt cẩn thận. Người ấy thường nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi, dùng ngón tay mình vẽ vẽ vào lòng bàn tay tôi rồi hỏi: “Đố em biết anh vừa viết gì?”. Tôi lắc đầu. Anh cười nói anh viết rằng: “Anh muốn nắm tay em đi hết con đường đời dài rộng” .Nhưng rồi mọi lời hứa hẹn đều như gió thoảng mây bay. Bàn tay ấy đã buông lơi, thôi không còn nắm tay tôi mà tìm đến một bàn tay khác. Những lúc buồn, tôi vẫn vô thức tự vẽ vẽ lên lòng bàn tay mình. Rồi lại tự cười một mình khi nhận ra mình giống hệt một kẻ ngốc.
Ngày có người con trai cầm tay tôi nói lời cầu hôn, tôi cảm nhận rõ sự gai góc xù xì trong bàn tay ấy. Cảm giác ấy khiến tôi liên tưởng đến bàn tay mềm mại của mối tình đầu, rồi chợt thốt lên: “Sao bàn tay anh xấu thế?”. Anh nhìn tôi, bật cười giải thích, vì nó không được lớn lên trong mượt mà nhung lụa mà lớn lên bởi những gánh nặng mưu sinh, vì nó không được nâng niu mà đã bao phen trầy da chảy máu. Rồi anh nhìn vào mắt tôi, bàn tay siết chặt bàn tay: “Em cứ tin, nó không đẹp nhưng chẳng ngại khó khăn nào cả, hãy cứ vững tâm mà nắm lấy, được không?”.
Cuối cùng thì tôi đã nhận lời nắm lấy bàn tay ấy, để anh dắt lên xe hoa, để anh lồng vào ngón tay chiếc nhẫn cưới, để anh lau những giọt nước mắt ngày tôi về nhà chồng. Bàn tay ấy đã tự vào bếp nấu cho tôi bát cháo ngày tôi ốm, tự cắm hoa vào lọ những ngày kỷ-niệm yêu đương. Bàn tay ấy đã dắt tôi đi qua bao nhiêu ngày tháng chông chênh đan xen những lo toan và niềm hạnh phúc. Đôi bàn tay xù xì nhưng cứng cáp và ấm áp vô ngần.
Ngày tôi đau tưởng chừng xé ruột để cho chào đời một sinh linh, đứa con gái bé bỏng của tôi sau khi được y tá tắm rửa sạch sẽ được đặt nằm cạnh mẹ. Hai bàn tay nhỏ xíu yếu ớt. Tôi nhẹ nhàng chạm vào bàn tay con, hạnh phúc đến ứa nước mắt. Đó là khi tôi biết rằng mình đã thực sự trưởng thành, và tin rằng mình sẽ mạnh mẽ hơn để có thể che chở cho con, để dắt con đi suốt những tháng năm thênh thang phía trước.
Những đêm nằm bên con, cầm lấy tay con đặt nhẹ lên môi hôn, chợt nghĩ rằng có lẽ ngày xưa mẹ mình cũng nâng niu và yêu thương mình nhiều đến thế. Rồi một ngày con gái mình sẽ lớn, sẽ lại đặt bàn tay vào một bàn tay khác mà con thương yêu. Chỉ mong con gặp đúng người để tin, và bàn tay không bị buông lơi trong nỗi đớn đau thất vọng.
Ngày ông nội mất, tôi nghẹn lòng nhìn bà nội cầm tay ông kể lể về những tháng ngày xưa cũ khi ông bà còn trẻ. Hai người đã cùng nhau sống chung hơn nửa thế kỷ với bao nhiêu yêu thương, giận hờn, khổ đau, hạnh phúc. Vậy mà nay tay bà còn ấm, tay ông đã lạnh ngắt rồi. Chẳng ai cưỡng được số mệnh, chẳng ai đâu. Ai rồi cũng sẽ một ngày về nằm trong lòng đất. Có người ra đi trong ồn ào khóc lóc, có người lìa khỏi thế gian trong lạnh lẽo cô đơn. Người ra đi bởi đã trả xong nợ cõi trần. Chỉ là người ở lại sẽ mang nhiều nuối tiếc xót xa khi biết rằng bao nhiêu yêu thương lúc này cũng không thể sưởi ấm cho người được nữa.
Thỉnh thoảng tôi vẫn đưa tay mình lên trước mặt rồi tự hỏi lại câu chồng mình đã hỏi: Bàn tay này đã nắm bao nhiêu bàn tay? Nhiều, nhiều lắm. Có những cái nắm tay khiến mình nhớ mãi, có những cái nắm tay buông rồi là quên ngay. Có những cái nắm tay thật chặt, cũng có cái nắm tay buông lơi hờ hững. Chợt nhận ra một bàn tay đẹp không phải là bàn tay thon dài mềm mại với những chiếc móng được tỉa tót sơn màu. Một bàn tay đẹp là chìa ra đúng lúc mình cần, nắm tay mình qua những đoạn đường đời chông chênh sỏi đá, dẫu mệt mỏi cũng không buông, dẫu xa xôi cũng không nản.
Nếu chúng ta đang có những bàn tay để nắm, xin hãy trân trọng từng phút giây. Đừng mơ mộng những bàn tay xinh đẹp của ai kia mà buông lơi bàn tay gần gũi ấm áp ở bên mình. Nắm lấy tay nhau, cử chỉ ấy ấm áp hơn mọi lời nói yêu thương đầu môi chót lưỡi.
Bởi cuộc đời nhiều bất trắc, ai biết được khi nào ai nhắm mắt xuôi tay. Ai biết được khi nào tay mình vẫn ấm áp đây mà bàn tay ai kia đã vô chừng lạnh lẽo. Vậy nên khi sống không đem đến cho nhau sự ấm áp, thì khi lìa khỏi nhân gian có bịn rịn tiếc thương cũng còn ý nghĩa gì?” (Lê Giang – Dân Trí)
Truyện ở trên, là câu chuyện về nắm bắt tay/chân người khác, chứ không phải tay chân của chính mình. Trong việc nắm bắt ý-nghĩa mọi sự việc trong đời, đặc-biệt là đời đi Đạo, lại cũng thấy có những lời vàng từng bảo ban, như sau:
“Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn,
hiền từ và nhẫn nại;
hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau.
Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất
mà Thần Khí đem lại,
bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau.”
(Thư Êphêsô 4: 2-3)
Nhằm thực-hiện cuộc sống “thuận hoà/gắn bó” với nhau ở đời thường, lại cũng đề nghị bạn/đề-nghị tôi, ta nghe thêm câu truyện ngắn khác hầu vui sống những tháng ngày tràn đầy các giao-dịch với mọi người ở trong họ, ngoài làng, rất như sau:
“Truyện rằng:
Có một anh chàng dắt theo một con chó ngao Tây Tạng trị giá cả bạc triệu ra ngoài đi dạo. Anh ta hễ gặp ai cũng đều đem con chó ra khoe, lại còn huyênh hoang mà nói rằng: “Người không có bốn năm trăm cân sức lực thì không thể kéo nổi chú chó của tôi”.
Lúc này, anh chàng nhìn thấy một ông già bị hói đầu bên đường cùng với một con chó gần như đã rụng hết lông đang ngồi bên cạnh. Con chó ngao Tây Tạng của anh ta hướng về phía con chó đó kêu sủa ầm ĩ, nhưng con chó già kia không thèm để ý đến nó.
Chàng trai cảm thấy không vui. Nói rằng: “Ông lão này! Con chó của ông lớn thế kia, là giống chó gì vậy? Hãy để hai con chó của chúng ta đấu với nhau thử xem? Nếu chó của ông thua hãy đưa cho tôi 500 đồng, còn nếu chó ngao Tây Tạng của tôi thua thì tôi sẽ đưa cho ông 2000 đồng”.
Ông lão nói: “Tôi đang lo lắng về thức ăn tháng sau của anh bạn già này đây! Nếu được thì hãy đánh cược lớn hơn một chút? Nếu chó của tôi thua, tôi sẽ đưa cho anh 5 vạn, còn nếu chó của anh thua thì anh hãy đưa cho tôi 3 vạn”.
Anh chàng cười lớn: “Con chó này của tôi là giống chó ngao Tây Tạng thuần chủng. Sau này, ông đừng có nói là tôi đã không nói cho ông biết trước. Được thôi!” Hai con chó giao tranh chưa được hai phút, chó ngao Tây Tạng kia đã bại trận, cũng không còn dám kêu sủa gì nữa.
Anh chàng thua mất 3 vạn đồng, vô cùng sầu não: “Ông này, con chó đó của ông là chó gì thế? Sao lại dũng mãnh thế kia?” Ông lão vừa đếm tiền vừa nói: “Đến bây giờ tôi cũng không biết nó là chó gì nữa, trước khi chưa rụng lông thì gọi là sư tử!”
Anh chàng nghe xong thì cười không được mà khóc cũng không xong!!! Bất cứ lúc nào thì cũng đừng có khoe khoang, hãy giữ khiêm tốn! Khiêm tốn! Khiêm tốn hơn nữa! Bạn khoe khoang cái gì, điều ấy nói rõ bạn đang thiếu nó.
Những người có bản lĩnh thật sự, luôn luôn bảo trì một trạng thái bình tĩnh ôn hòa, giống như ông lão đó và “con chó già” của ông, chỉ là điềm đạm ung dung mà tồn tại.
Bạn đã là sư tử rồi, thì đâu cần phải chứng minh làm gì nữa? Đâu cần phải khoe khoang làm gì nữa?
Con người sống ở trên đời, không phải là để so đo với người khác. Bản thân hãy sống sao cho có ý nghĩa nhất, và làm ra những cống hiến vĩ đại nhất.”(Truyện kể rút từ trang mạng gồm đầy những câu truyện để kể cho nhau nghe)
Phiếm-luận chuyện Đạo/đời ngày hôm nay, còn là kể cho nhau nghe một cách phiến-phiến những truyện kể dù không đáng kể, chỉ để minh-hoạ vấn-đề gì đó ta bàn, rày cũng đặng. Phiếm-luận chuyện nghiêm-túc ở trong Đạo hoặc chuyện vẩn vơ ở ngoài đời, còn là công việc của bạn, của tôi vào lúc này. Những lúc hoặc những ngày, ta có rất nhiều chuyện để bàn và để tán, như hôm nay.
Thế nhưng, chuyện gì rồi cũng đi đến phần kết dù hay hoặc dở. Và hôm nay, đi vào phần kết-luận một chuyện phiếm, tưởng cũng nên đề nghị bạn và tôi, ta lại cứ ngước mặt lên cao, hát lại những ý/lời của nhạc-bản mang đầu đề “Chỉ chừng một năm thôi”; để rồi sẽ coi mọi chuyện như “không có gì để ầm ĩ”, không còn tán rộng ra như thế.
Quyết thế rồi, nay ta mọi mọi người hãy hát những lời như:
“Chỉ chừng một cơn mưa,
Để không ngờ chi nữa,
Đi dưới mưa hồng nghe
Giọt nhẹ vào tim ta…
(Phạm Duy – bđd)