Chính phủ Nhật Bản : Trục xuất 13000 người Việt tại Nhật về nước giữa chừng: Nguyên nhân xác định do….

Chính phủ Nhật Bản : Trục xuất 13000 người Việt tại Nhật về nước giữa chừng: Nguyên nhân xác định do….

Lao động Nhật Bản phải về nước giữa chừng, nguyên nhân do đâu ?
Nhật Bản là một thị trường xuất khẩu lao động tốt nhất tính tới thời điểm hiện tại, thu nhập khi tham gia chương trình xuất khẩu lao động Nhật bản vượt trội hơn hẳn so với các thị trường khác. Bước đầu tham gia chương trình tất cả lao động được kiểm soát đặc…
Nhật Bản là một thị trường xuất khẩu lao động tốt nhất tính tới thời điểm hiện tại, thu nhập khi tham gia chương trình xuất khẩu lao động Nhật bản vượt trội hơn hẳn so với các thị trường khác. Bước đầu tham gia chương trình tất cả lao động được kiểm soát đặc biệt chặt chẽ, đào tạo định hướng kỹ lưỡng, hợp đồng rõ ràng và được sự thỏa thuận giữa cả hai bên chủ xí nghiệp và người lao động.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp phải về nước giữa chừng khi chưa hết hạn hợp đồng lao động, và người lao động bị về nước giữa chừng vì rất nhiều lý do khác nhau. Dưới đây là một số lý do chính khiến người lao động đi xuất khẩu tại Nhật Bản phải về nước sớm
1. Vấn đề về sức khỏe
Có nhiều trường hợp người lao động có sức khỏe không tốt nhưng cố gắng dấu diếm để qua mắt công ty và chủ xí nghiệp để được đi xuất khẩu lao động, sau khi nhập cảnh khám lại không đạt và phải về nước giữa chừng
10 điều người lao động Việt cần làm khi đến Nhật Bản
2. Công việc không phù hợp
Một số công việc mà người lao động không tiếp xúc nhưng nghĩ rằng mình làm được và không mắc các vấn đề gì khi tiếp cận công việc. Ví dụ: sợ độ cao đi xây dựng, say sóng đi nuôi trồng thủy sản, bị mồ hôi tay đi đơn điện tử, dị ứng thủy hải sản đi đơn chế biến, mù màu ở một số công việc,… Những lao động này họ gần như không có cách nào để tiếp cận những công việc này nhưng đôi khi chính cá nhân họ cũng không biết mình gặp vấn đề đóLao động Nhật Bản phải về nước giữa chừng, nguyên nhân do đâu ? nguyen-nhan-lao-dong-ve-nuoc-giua-chung3. Trộm cắp vặt bị trục xuất về nướcLao động Nhật Bản phải về nước giữa chừng, nguyên nhân do đâu ? nguyen-nhan-lao-dong-ve-nuoc-giua-chung2
Nhật Bản là một nước phát triển, họ rất văn minh và trung thực vì vậy tình trạng trộm cắp vặt gần như là không có. Bởi thế mà họ thường không chú trọng nhiều đến việc bảo vệ tài sản cá nhân. Trong tình huống quá dễ dàng thuận lợi như vậy một số người lao động Việt Nam hay “tiện tay” và gây đến hậu quả không lường trước được
4. Gây mất trật tự cộng đồngLao động Nhật Bản phải về nước giữa chừng, nguyên nhân do đâu ? nguyen-nhan-lao-dong-ve-nuoc-giua-chung35. Đình công trong xí nghiệpLao động Nhật Bản phải về nước giữa chừng, nguyên nhân do đâu ? nguyen-nhan-lao-dong-ve-nuoc-giua-chung34jpg
Nhiều người lao động mặc dù được đảm bảo hợp đồng khá tốt, tuy nhiên vẫn chưa bằng lòng với mức lương hiện tại, công việc hiện tại (thường so sánh với người Nhật cùng vị trí hoặc những người làm lâu). Những người này rủ rê, lôi kéo người khác trong công ty đình công, gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, sản xuất của xí nghiệp.
6. Thu nhập không đảm bảo
Nhiều bạn trẻ khi có định hướng sang Nhật Bản làm việc có quan niệm sẽ kiếm rất nhiều tiền (có những người nghĩ rằng có thể kiếm năm bảy chục triệu mỗi tháng) nên việc sau khi nhập cảnh và mức thu nhập không đảm bảo được con số đó. Họ chán nản, muốn bỏ về cũng là điều không tránh khỏi, và khi không có tâm lý làm việc thì việc buộc phải về nước giữa chừng là điều tất nhiên.

Lao động Việt có thể xin visa đi Nhật tăng thêm 10 năm thay vì 5 năm như trước
Ngoài những lý do trên đây, người lao động có thể gặp nhiều tình huống khác, tuy nhiên chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ và hiếm gặp. Việc người lao động phải về nước giữa chừng là điều không bên nào muốn gặp phải: -Người lao động mất thời gian, vốn liếng bỏ ra. – Công ty phái cử phải đền bù cho xí nghiệp, mất đối tác tiếp nhận, hoàn trả phần nào cho người lao động, mất uy tín trong nước. – Xí nghiệp tiếp nhận bị ảnh hưởng về kinh doanh sản xuất, mất thời gian dài để kiếm nhân sự bù vào chỗ trống.

 

Tòa trọng tài Quốc tế tại Paris, Pháp, sẽ khởi đầu phiên xử đặc biệt

From facebook: Trần Bang shared VOA Tiếng Việt‘s video.

Ngày 21 tháng Tám, 2017, Tòa trọng tài Quốc tế tại Paris, Pháp, sẽ khởi đầu phiên xử đặc biệt: Nguyên đơn là nhà đầu tư Hà Lan gốc Việt, doanh nhân Trịnh Vĩnh Bình, kiện bị đơn là Nhà nước Việt Nam. Số tiền ông Bình đòi chính phủ Việt Nam bồi thường là “tối thiểu 1,25 tỷ đôla.”

VOA Việt Ngữ phỏng vấn những người trong cuộc, những người “biết chuyện,” những người trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến vụ xử hoặc những hệ lụy của phiên xử, viết thành loạt bài đăng tải nhiều kỳ. Mời độc giả cùng theo dõi. Xem thêm: http://bit.ly/2hUUT6E

-1:56

208,793 Views

VOA Tiếng Việt

Ngày 21 tháng Tám, 2017, Tòa trọng tài Quốc tế tại Paris, Pháp, sẽ khởi đầu phiên xử đặc biệt: Nguyên đơn là nhà đầu tư Hà Lan gốc Việt, doanh nhân Trịnh Vĩnh Bình, kiện bị đơn là Nhà nước Việt Nam. Số tiền ông Bình đòi chính phủ Việt Nam bồi thường là “tối thiểu 1,25 tỷ đôla.”

VOA Việt Ngữ phỏng vấn những người trong cuộc, những người “biết chuyện,” những người trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến vụ xử hoặc những hệ lụy của phiên xử, viết thành loạt bài đăng tải nhiều kỳ. Mời độc giả cùng theo dõi: voatiengviet.com/trinhvinhbinh

(Nếu không vào được VOA, xin hãy dùng đường link vn510.com hoặc vn73.com để vượt tường lửa)

69,000 người Việt được đi xuất cảng lao động trong 7 tháng đầu năm 2017

 69,000 người Việt được đi xuất cảng lao động trong 7 tháng đầu năm 2017

69,000 người Việt được đi xuất cảng lao động trong 7 tháng đầu năm 2017
Ảnh: Lao Động Việt

Thông tin từ Cục quản lý lao động ngoài nước thuộc Bộ Lao Động – Thương Binh Xã Hội CSVN cho thấy, trong bảy tháng đầu năm nay đã có khoảng 69,000 người Việt đi làm việc ở ngoại quốc, đạt mức 66% theo kế hoạch hàng năm.

Ba thị trường nhận lực lượng lao động lớn nhất của Việt Nam trong 7 tháng qua bao gồm Đài Loan, Trung Cộng nhận được gần 33,900 công nhân Việt Nam; Nhật Bản hơn 27,700; và Nam Hàn khoảng 3,200 người.

Bộ Lao Động, Thương Binh Và Xã Hội CSVN cho biết, trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều người Việt Nam được đưa vào các thị trường lao động quen thuộc hoặc mới, bao gồm Thái Lan, Úc, Đức và Nhật Bản.

Việt Nam có kế hoạch đưa 105,000 người đi làm việc ở ngoại quốc trong năm nay, giảm từ  con số 126,300 người vào năm ngoái.  Cũng theo tin từ Bộ Lao Động, Thương Binh Và Xã Hội đã có hơn 500,000 người Việt Nam đang làm việc ở ngoại quốc với tư cách là công nhân, mỗi năm chuyển về nhà 1,7-2 tỷ đô la Mỹ. Hầu hết trong số họ là những người làm việc chân tay, hoặc   chỉ được đào tạo ngắn hạn.

Việc hủy hoại môi trường biển do Formosa gây ra, cộng với việc nhiều công ty trong nước đóng cửa, phá sản, đã tạo ra một số lượng lớn người dân Việt thất nghiệp. Xuất cảng lao động đang trở thành một cửa cứu sinh cho nền kinh tế, xã hội  của Việt Nam hiện nay.

Phong Ly / SBTN

Việt Nam cần thay đổi gì?

From facebook:   Hoang Le Thanh‘s post.
 
Image may contain: 1 person, standing
Image may contain: 1 person, indoor
Hoang Le Thanh added 2 new photos 

 

Việt Nam cần thay đổi gì?

Trúc Giang (VNTB).

Thay một ông tổng bí thư? Thay một chủ tịch Nước, một chủ tịch Quốc hội hay một Thủ tướng?

Câu trả lời khá bất ngờ của ông Nguyễn Phú Hoà, phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương:

– “Thay đổi nền kinh tế giáo điều, bằng nền kinh tế thực sự là thị trường tự do, không định hướng nhiệm vụ chính trị”.

Ảnh 1: Ông Nguyễn Phú Hoà, phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương.

Ảnh 2: Hội trường “Diễn đàn xuất khẩu 2017”, do Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ (FICCI) tổ chức vào chiều ngày 8/8/2017 tại khách sạn Rex, Sài Gòn.

Cái bất ngờ ở đây là ông Nguyễn Phú Hòa tuy được mời lên phát biểu với tư cách đại diện Cục Xuất nhập khẩu, nhưng đan xen trong phát biểu, có nhiều đoạn ông nói rõ rằng đây là quan điểm cá nhân.

Báo chí Nhà nước đã không đưa tin chi tiết về những ý kiến công khai và khá sốc của ông Nguyễn Phú Hòa tại “Diễn đàn xuất khẩu 2017”, do Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ (FICCI) tổ chức vào chiều ngày 8/8/2017 tại khách sạn Rex, Sài Gòn.

Tiếp tục niềm tin giáo điều là tiếp tục lao xuống vực thẳm

“Mọi chính sách, mọi bài phát biểu đều trở nên vô nghĩa nếu như không giúp ích cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa. Vì các doanh nghiệp không chỉ đang gánh vác trọng trách trả lương, nuôi sống hàng triệu gia đình người Việt Nam, mà quan trọng hơn, các anh các chị đang nuôi dưỡng ước mơ, khát vọng của dân tộc Việt Nam, ngẩng cao đầu, sánh vài cùng bè bạn năm châu thông qua các thương hiệu xuất khẩu”.

Ông Nguyễn Phú Hòa đã… đánh bài ngửa như vậy khi ông vừa bước lên bục phát biểu theo lời mời của ban tổ chức.

Cú vổ mặt tiếp theo là ông Nguyễn Phú Hòa nhấn mạnh ngay rằng quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Đức đang nổi lên một số bất đồng. Ông nói (trích băng ghi âm):

– “Kinh tế toàn cầu đã chứng kiến những diễn biến khó lường, khi thị trường Châu Âu với sự ra đi quyết liệt của nước Anh đã đặt ra nhiều cầu hỏi về sự điều chỉnh chiến lược của Liên minh Châu Âu, chưa kể hiện nay quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Đức đang nổi lên một số bất đồng”.

Ông Nguyễn Phú Hòa nói rằng Việt Nam cần nhìn thẳng vào thực tế nước Mỹ với tổng thống đắc cử Donald Trumph đã quay lưng với thương mại tự do, ông Trumph đã thẳng thừng bác bỏ TPP và nêu quan điểm rõ rệt về bảo hộ thị trường, sản xuất trong nước.

Phía Trung Quốc thì đang tái cơ cấu, tập trung vào thị trường nội địa, và có những chiến lược hết sức mạnh mẽ để cạnh tranh với Nhật, Hàn Quốc, và cả với Mỹ trong lĩnh vực chất lượng và năng suất. Không phải ngẫu nhiên mà người Trung Quốc ganh đua với Mỹ trong việc tạo ra siêu máy tính, hay trí thông minh nhân tạo.

Còn nước Nhật đang lặng lẽ trở thành quốc gia mà ở đó robot từng bước làm việc bên cạnh con người. Năng lực sản xuất của Nhật sắp tới sẽ gia tăng theo cấp số nhân!

Hàn Quốc đi vào năng lực thiết kế, sáng tạo, định ra xu hướng và tạo dựng thế lực dẫn đầu ở nhiều chuỗi sản xuất.

– “Còn Việt Nam thì vẫn mang tài nguyên ra để bán, và sẵn sàng bán bất kỳ thứ gì mà chúng ta có… Chỉ cần bước chân ra khỏi hội trường này, chúng ta sẽ chứng kiến thành phố không còn lối đi, hàng hoá tắt nghẽn trên đường ra cảng, người người xếp hàng để rồi trễ chuyến bay, cây xanh bị triệt hạ, biển đang dần ô nhiễm, con cái học thêm phờ phạc cả người, và hiếm có doanh nghiệp nào là không biết nghiệp vụ lót tay, … Và

” Tất yếu một bộ phận người dân Việt Nam đã bỏ ra 3 tỷ USD mua nhà xứ khác… mà thật ra là mua lại môi trường sống và cơ hội để con cái phát triển!

Nhìn sang Trung Quốc, giờ đây, dưới sự lãnh đạo của ông Tập Cận Bình đang chạy đua để thay đổi, họ đang thực hiện ước mơ về những thành phố sinh thái hoàn toàn, và làm trong sạch bộ máy theo cách của họ, từ đó nâng tầm thương hiệu Quốc gia và hàng hoá Trung Quốc. Còn chúng ta?”. Ông Nguyễn Phú Hòa dường như phát biểu trong tâm thế không tiết chế được cảm xúc.

*

Thể chế thay đổi và cần những con người thích hợp thể chế đó

Ông Nguyễn Phú Hòa cho rằng (trích băng):

– “Điều đáng quan ngại nhất, là cả xã hội Việt Nam đang sống trong sự hoài nghi cực độ, từ nguồn gốc hàng hoá, chất lượng sản phẩm cho đến lòng tin giảm sút vào thể chế. Nói không quá, Việt Nam đang trong hoàn cảnh: thập diện mai phục, đang thách thức ghê gớm sự phát triển của dân tộc, đất nước. Chúng ta có thể thuê chuyên gia, hoặc nhờ Tổ tư vấn kinh tế cho Thủ Tướng viết nên những kế sách thật trúng. Nhưng ai sẽ là người thực hiện kế sách đó? điều kiện để thực hiện? Một kế sách cần cả một xã hội để vận hành. Đây là câu chuyện thể chế và con người thực hiện thể chế!”.

Thể chế cần thay đổi ấy là gì, và những con người thích hợp cho thể chế cần kíp thay đổi ấy là ai?

Những vấn đề này ông Nguyễn Phú Hòa đã kịp tiết chế cảm xúc, và rất khéo ngay sau đó ông đề xuất – vẫn với tư cách cá nhân, rằng:

– “Để giữ chế độ, phát triển đất nước chọn cách tiếp tục trả lương thấp nhưng nuôi được nhiều biên chế. Đó là một bất cập. Vì chính một bộ phận không nhỏ trong số đó lại làm hại chế độ, mất lòng tin của dân vào chế độ, cản trở sự phát triển, vô hiệu hoá các chỉ đạo của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Nên mạnh dạn, giảm sâu tổng biên chế các cơ quan, đoàn thể, các đơn vị bấu víu vào bầu sữa ngân sách, tăng lương lên gấp 3 lần, và đặt ra các chế độ đãi ngộ lớn sau khi về hưu, đặt ra trách nhiệm bị giám sát và năng lực hoàn thành trách nhiệm. Tập trung biên chế ở những nơi phục vụ trực tiếp nhân dân. Các đơn vị khác cần có cơ chế hoạt động như những đơn vị sự nghiệp, ít nhân sự, nguồn lực được khai thác từ ưu đãi bước đầu về đất đai, thực hiện xã hội hoá. Ví dụ: có thể được giao một số mặt bằng cho thuê, lấy tiền hoạt động, đồng thời phải xã hội hoá các hoạt động phục vụ xã hội thiết thực, từ đó có thu để phát triển.

Hoàn thiện, ủng hộ năng lực giám sát, phản biện chính sách của Mặt trận Tổ Quốc, và đặc biệt là các cơ quan báo chí, theo những nguyên tắc dựa trên bằng chứng và năng lực chứng minh, phản biện. Đề xuất cá nhân tôi, Mặt trận nên là cơ quan thống lĩnh báo chí. Các cơ quan khác của Chính phủ làm công tác giám sát hoạt động báo chí đúng pháp luật. Tất cả mục đích chỉ để tạo ra năng lực phản biện, giám sát khách quan giúp đất nước phát triển”.

Thẳng thắn phản biện, cần chấm dứt chụp mũ những tiếng nói phản biện bằng các điều luật hình sự, biết lắng nghe và thay đổi vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Đó là những điều mà nhiều người có mặt tại “Diễn đàn xuất khẩu 2017” cho rằng ông Nguyễn Phú Hòa đã rất khéo léo đặt ra, và ông rất khôn ngoan trước khi kết thúc phát biểu của mình bằng “ve vuốt” rất ư… tuyên giáo: “Kính thưa quý vị, để giúp doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng, và nền kinh tế Việt Nam nói chung, toàn thể doanh nghiệp, và nhân dân cần đồng lòng, thẳng thắn, phản biện và đoàn kết ủng hộ Đảng, Chính phủ để tạo ra xung lực vượt qua khó khăn và như thế may ra chúng ta theo kịp sự bứt phá nhanh chóng của thời đại. Toàn bộ bài phát biểu là quan điểm cá nhân tham gia thảo luận. Kính mong đoàn kết, và đồng lòng”.

Trúc Giang.

VNTB gửi BVN

Nguồn: http://www.boxitvn.net/bai/49927

NGUYỄN HỮU CẦU – NGƯỜI TÙ THẾ KỶ VÀ BẢN CÁO TRẠNG “HÙNG HẾT HỒN” NHẤT THẾ KỶ

From facebook:   Văn Lang‘s post.
 
Image may contain: one or more people, people sitting and outdoor
Văn Lang

 

NGUYỄN HỮU CẦU – NGƯỜI TÙ THẾ KỶ
VÀ BẢN CÁO TRẠNG “HÙNG HẾT HỒN” NHẤT THẾ KỶ

Đại uý Quân lực VNCH Nguyễn Hữu Cầu bị bắt vào tháng 4/’75 khi vùng I thất thủ. Xong khoá “học tập cải tạo” 5 năm, hắn về quê ở Rạch Giá.

Trong khí thế cách mạng còn đang hừng hực năm 1982, hắn dám cả gan đứng ra tố cáo cán bộ địa phương ta tham nhũng và hãm hiếp nữ thuyền nhân. Cuối cùng hắn đã bị công an ta bắt với cáo buộc tội “phởn động” bằng vật chứng là những bài thơ và ca khúc do hắn sáng tác.

Đây là lời buộc tội vô cùng đanh thép và hùng hết hồn trong bản cáo trạng 1982 của ta:

“Tên Nguyễn Hữu Cầu đã cấu kết với tên Anan và tên Ca Diếp. Mua dầu cho Anan và Ca Diếp để vượt biên. Hiện tại thì Anan đã vượt biên còn Ca Diếp thì đang trốn tại Khánh Hòa, khi nào bắt được sẽ xử lý sau”.

“Tên Nguyễn Hữu Cầu đã sáng tác ra bài ‘Giọt nước mắt Chúa’, với nội dung ca ngợi đế quốc Mỹ và còn mơ tưởng sự quay trở lại của đế quốc Mỹ, cầu ‘bơ thừa, sữa cặn’. 
Bài ‘Giọt nước mắt Chúa’ có nội dung như sau:

“Lạy Cha chúng con ở trên Trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng. 
Nước Cha trị đến. 
Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. 
Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày 
và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. 
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ 
nhưng cứu chúng con ra khỏi sự dữ. 
Amen!”

Nguyễn Hữu Cầu đã coi đế quốc Mỹ như là Cha trên Trời”.

Với tội ác tày trời này, tên “phởn động” Nguyễn Hữu Cầu bị kết án tử hình ở phiên sơ thẩm, rồi giảm xuống chung thân ở phúc thẩm. 
Trước sức mạnh nghiêm minh, chính trực và công bằng của luật pháp ta, tên “phởn động” nguỵ quân Nguyễn Hữu Cầu đã phải ngoan ngoãn thọ án từ 1982.

Tháng 3 năn 2014 hắn được phóng thích nhờ được hưởng chính sách độ lượng, khoan hồng vô cùng nhân bản của đảng ta.

Tổng cộng hai lần, tên “phởn động” này phải trả giá bằng 37 năm tù.

Loại người đáng kinh tởm!

From facebook:   Phan Thị Hồng‘s post.
 
 
 
Image may contain: 1 person, eyeglasses
Image may contain: sky and outdoor
Phan Thị Hồng added 2 new photos — with Hoang Le Thanh.

 

Loại người đáng kinh tởm!

Loại người đáng kinh tởm nhất là: Đám trí thức, có học, thậm chí tự xưng là nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu, … Sống ở nước ngoài nhưng ra sức ca ngợi chế độ trong nước.

Nữ đạo diễn Song Chi
(Na Uy).

(Trích)

… Thực sự mà nói, tôi không thích nhưng tôi có thể hiểu được vì sao bọn công an, an ninh chìm nổi, dư luận viên, đám bồi bút văn nô cho tới quan chức trong nước ra sức bênh vực chế độ do đảng cộng sản lãnh đạo ở VN và chống lại tất cả những ai muốn thay đổi chế độ.

Bởi vì đó là cuộc sống, là quyền lợi của họ, chế độ này đã cho họ quá nhiều thứ, họ phải ca tụng, bảo vệ, chưa kể họ sống trong nước, bị tuyên truyền nhồi sọ bao nhiêu năm mà lại không có đủ ngoại ngữ, kiến thức để tìm hiểu sự thật.

Tôi khó chịu, có thể nói là khinh hơn nhiều những loại người sau:

1. Sống ở nước ngoài lâu năm nhưng không tiếp thu, ảnh hưởng được bất cứ cái gì hay ho, tiến bộ trong xã hội của người ta, vẫn giữ nguyên những quan điểm bảo thủ, “đỏ rực” còn hơn bọn dư luận viên trong nước, vẫn ra sức bênh vực chế độ cộng sản, chống lại mọi sự thay đổi.

2. Sống ở nước người ta, được nước sở tại cưu mang nhưng lại cộng tác, làm việc cho nhà nước VN, làm gián điệp, tay sai cho cộng sản, làm dư luận viên cao cấp viết những bài viết làm ra vẻ khách quan nhưng thực chất là khéo léo tuyên truyền, định hướng theo đường lối, quan điểm của nhà cầm quyền VN.

Bọn này nguy hiểm hơn bọn dư luận viên trong nước là vì có ngoại ngữ, am hiểu tình hình xã hội, luật pháp nước sở tại, lại có bằng cấp, có “mác” Việt kiều nên nhiều người tin, tưởng rằng họ khách quan, mà không biết rằng đa phần cũng là dân cộng sản hoặc có gia đình thân nhân là cộng sản. Như đồng chí T. ở Đức hay đồng chí Beo H. ở Mỹ. Điểm dễ nhận ra là tuy ra sức khen nước sở tại nhưng cực kỳ căm ghét chế độ VNCH và phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ cho VN. Đám này có khi chỉ là dư luận viên cao cấp, nhưng cũng có khi là gián điệp, nằm vùng, tai mắt của nhà cầm quyền VN gài vào cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

3. Những người từng sống ở miền Nam VN trước kia, nhưng lại thân Cộng, thuộc thành phần thứ ba, mà người miền Nam hay gọi là “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” hay “đâm sau lưng các chiến sĩ”, sau này sống ở nước ngoài nhưng đầu óc vẫn không thay đổi. Thật lạ lùng là hồi xưa thì có thể nói là họ không hiểu gì về cộng sản nên “mê” cộng sản, quay sang phá hoại chế độ VNCH từ trong lòng phá ra, nhưng bây giờ sau nhiều năm, chế độ do đảng cộng sản lãnh đạo đã bộc lộ hết tất cả sự tồi tệ, bản chất dối trá, buôn dân bán nước, hèn với giặc ác với dân, mà vẫn có những người thuộc thành phần này bênh vực.

Không ít người trong số này là trí thức, có học, thậm chí tự xưng là nhà thơ nhà văn nhà nghiên cứu nọ kia, sống ở nước người hưởng không khí tự do, dân chủ, hưởng đủ mọi quyền lợi, nhưng vẫn đi về VN, và nếu được gặp gỡ, bắt tay quan này quan kia hay được nhà nước VN chiếu cố cho in một quyền sách, cho ngồi trong Hội Việt kiều yêu nước, hạ cố hỏi ý kiến nọ kia…thì lấy làm vinh dự, hãnh diện, càng ra sức ngợi khen chế độ.

Loại này theo thiển ý của tôi là đáng khinh nhất!

Ảnh 1: Nữ đạo diễn Song Chi, người Huế, sống tại Na Uy.

Ảnh 2: Bên ngoài khuôn viên Đại Sứ Quán Việt Nam tại Đức chụp hôm 2/8/2017. Ảnh : AFP

Nguồn: Nhân chuyện “đồng chí” T. và những “đồng chí” giống như vậy. Tác giả Song Chi.

http://www.rfa.org/…/story-about-some-vietnamese-abroad-081…

Vụ Trịnh Xuân Thanh: Nghĩ về dân trí và nhận thức luật pháp

J.B Nguyễn Hữu Vinh
 

Hình chụp ông Trịnh Xuân Thanh, không rõ ngày tháng, tại một công viên ở Đức.

Hình chụp ông Trịnh Xuân Thanh, không rõ ngày tháng, tại một công viên ở Đức.

AFP photo
 
 
 

Vụ việc Trịnh Xuân Thanh (TXT) bị bắt cóc đưa về Việt Nam theo khẳng định cùng với sự giận dữ và những biện pháp ngoại giao nặng nề của Bộ ngoại giao CHLB Đức đã là một chủ đề nóng trên mạng Internet cũng như toàn xã hội Việt Nam trong và ngoài nước gần chục ngày qua.

Ngoài việc trục xuất trưởng đại diện tình báo Việt Nam trong vòng 48 tiếng, bản Tuyên bố của Bộ Ngoại giao CHLB Đức cũng ghi rõ: “Chúng tôi cũng bảo lưu quyền áp dụng thêm các biện pháp khác trên bình diện chính trị, kinh tế và chính sách hợp tác phát triển.” Còn Ngoại trưởng Đức, ông Sigmar Gabriel: “Chúng ta không thể trở lại tình trạng bình thường, làm như là không có chuyện gì xảy ra”.

Quan sát sự việc dưới góc độ xã hội và luật pháp qua bản chất sự việc, người ta mới nhận ra nhiều điều qua sự việc này về mánh lới tuyên truyền bịp bợm, về nhận thức của người dân…

Thậm chí không chỉ là những người mà nhà nước thường gọi là “dân trí thấp”.

Tự thú hay bắt cóc?

Trước hết, điều người ta thắc mắc đầu tiên về vụ việc này là có thật TXT đã bị bắt cóc như tuyên bố của Bộ Ngoại giao CHLB Đức? Hay TXT đã về nước đầu thú như những thông tin của nhà nước Việt Nam chính thức đưa tin?

Qua những gì được thể hiện, chỉ cần sự chững chạc trong giận dữ và hành xử của phía CHLB Đức, cũng như sự lấn bấn, lúng túng và thiếu minh bạch của nhà nước Việt Nam, người dân ít quan tâm nhất cũng tự đặt ra cho mình những câu hỏi để qua đó có thể tự trả lời mà rút cho mình đâu là sự thật:

– TXT bị Việt Nam tuyên bố truy nã quốc tế tại sao người ta tìm mãi trong danh sách Interpol có rất nhiều người Việt lại không có cái tên TXT?

– Trong lệnh truy nã của Việt Nam, tờ nào cũng có ghi: “Bất cứ ai cũng có quyền bắt TXT đến giao nộp cho cơ quan công an…” Trước đó, Việt Nam tuyên bố TXT đã đến một nước Châu  Âu. Vậy TXT từ châu Âu về đến Trực ban hình sự Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an bằng con đường nào để không bị bắt ngay tại biên giới, tại cửa khẩu khi nhập cảnh hoặc trên đường? Hay TXT có phép xuất quỷ nhập thần và đã thi thố cái tài đó trong trường hợp này?

– Tại sao, TXT bị truy nã khi ở nước ngoài đã gây sự chú ý của toàn xã hội, từ TBT Đảng cho đến bà đánh dậm dưới ao, thế mà ngang nhiên về nước rồi đến cơ quan Công an đầu thú mà Bộ trưởng Công an không hề hay biết?

– Vì sao chính phủ CHLB Đức giận dữ đến mức đó? Phải chăng là không có việc TXT bị bắt cóc trên đất Đức, chỉ vì CHLB Đức thích giận giữ và làm căng thẳng quan hệ hai nước mà thôi?

– Tại sao chính phủ CHLB Đức, một nhà nước dân chủ, pháp quyền lại bao che cho TXT là người bị Đảng CSVN kỷ luật và cáo buộc tham nhũng? Phải chăng, nhà nước này đang bao che cho tham nhũng và tội phạm?

– TXT có phải là tội phạm hay chưa? Tại sao TXT lại có thể xin tỵ nạn ở CHLB Đức?

– Tại sao TXT về VN đầu thú có đơn, đưa lên truyền hình rằng tôi tự thú… Vậy mà khi CHLB Đức tố cáo mạnh mẽ, đuổi đại diện cơ quan tình báo VN tại ĐSQVN tại Berlin về đồng thời mạnh mẽ cảnh báo nhiều hậu quả khác mà Việt Nam lại nhu nhược, hèn nhát đến mức chỉ cho người phát ngôn lên truyền hình nhỏ nhẹ “Tôi lấy làm tiếc… ” – nghĩa là cô gái này lấy làm tiếc còn VN thì chưa ý kiến gì?

Chỉ cần trả lời những câu hỏi trên, thiết nghĩ người dân thường cũng biết được sự thật có đúng như hệ thống tuyên truyền Việt Nam đã và đang tung hứng.

Dân trí và nhận thức luật pháp

Chúng tôi đã có bài viết: Qua vụ Trinh Xuân Thanh: Nghĩ về một thói quen hành xử, ở đó chúng tôi đã chỉ những hành động côn đồ xuất khẩu ra quốc tế này chỉ là bước tiếp theo của những hành động vốn đã thành thói quen hành xử trong nước xưa nay.

Ở đó chúng tôi cũng đã đặt vấn đề liệu TXT có phải là quan chức tham nhũng duy nhất ở Việt Nam và việc bắt cóc TXT có phải chỉ nhằm mục đích cho “cuộc chiến chống tham nhũng”?

Ngoài việc dùng truyền thông nhằm lấp liếm đi hành động của nhà cầm quyền tự ý bắt cóc người trên lãnh thổ của CHLB Đức làm người Đức giận dữ, thì đám báo chí và Dư luận viên (Một dạng an ninh và tay chân của công an) đã to mồm kêu gào: Nhà nước Đức thiếu thiện chí, bảo kê tham nhũng, rửa tiền… và dù bằng cách nào, thì miễn là bắt được TXT về chịu tội tham nhũng là được…

Thậm chí, cho đến khi những dòng chữ này viết ra, thì ở Việt Nam cũng như trên thế giới, chưa có một phiên tòa nào được mở để kết luận TXT là có tội, cho dù đó là một phiên tòa đểu kiểu như phiên tòa cách đây đúng 6 năm, ngày 2/8/2011 tại Hà Nội xử Cù Huy Hà Vũ đi nữa. Tại phiên tòa đó, người ta bất chấp sự thật, bất chấp lý lẽ, luật lệ để tuyên án Cù Huy Hà Vũ có tội và kết án 7 năm tù giam. Cũng tại phiên tòa đó, Ls Trần Đình Triển đã chứng kiến sự bất nhân và những trò đểu của hệ thống tòa án cộng sản.

Thế nhưng, ngay cả phiên tòa đểu như vậy, hiện vẫn chưa có để kết tội TXT, thì không rõ căn cứ vào đâu mà các Tiến sĩ luật, luật sư… cùng đồng lòng với đám Dư luận viên kết tội khơi khơi TXT là tội phạm, là rửa tiền, là cố ý làm trái… mà tất cả những điều đó, chỉ căn cứ vào lời của Đảng và báo chí nhà nước. Để rồi đi đến kết luận: “Tôi cho rằng đó là ý kiến thiếu thận trọng, vội vàng, chưa quán triệt nguyên tắc các Công ước quốc tế mà VN và CHLB Đức đã tham gia ký kết…”

Vậy phải chăng, ở đây, các ông Tiến sĩ và luật sư ở đây đồng ý rằng chỉ cần Đảng muốn và dùng báo chí của đảng thì đã đủ để thay Tòa án?

Thế là, lẽ ra đối tượng bị ném đá là TXT vì những “thành tích làm bay hơi hàng ngàn tỷ đồng của dân” thì lại diễn ra một quá trình tranh luận khác, đó là “ném đá” những người bảo vệ việc bắt cóc của một “Nhà nước pháp quyền XHCN trên đất nước khác”.

Mục đích biện minh cho phương tiện?

Xưa nay, trong chế độ Cộng sản việc đạt bằng được mục đích đặt ra là một điều luôn được ưu tiên, dù mục đích đó là gì và việc đạt mục đích đó bằng những biện pháp nào. Khi đạt được mục đích, thì mọi việc được coi là thắng lợi.

Chẳng hạn, để thực hiện lệnh từ quan thầy Quốc tế Cộng sản từ Nga, Tàu, những năm 50 của thế kỷ trước, nhằm triệt tiêu tầng lớp tinh hoa, giàu có của dân tộc để tiện lợi cho việc tiến hành cuộc Cách mạng vô sản, việc tập hợp quần chúng làm những cuộc lên đồng tập thể, cướp bóc có tổ chức trong toàn xã hội như những tập duyệt cho đám Công – Nông liên minh, Quốc tế Cộng sản đã đặt ra mục đích Cải Cách ruộng đất.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành cuộc Cải cách ruộng đất, gây nên một tội ác đẫm máu với dân tộc. Hồ Chí Minh đã từng phải có động tác “tự phê bình, lau nước mắt” trước hàng chục, hàng trăm ngàn người dân bị oan khuất và mất mạng vì cuộc CCRĐ này. Sau này để giảm bớt tội lỗi của mình với dân tộc chính những người CSVN đã tự biện minh rằng: Khi đó, đảng ta bị áp lực từ ĐCS Trung Quốc và Liên Xô trong Quốc tế cộng sản… Thế nhưng, chính những lời lẽ đó đã hạ bệ uy tín ĐCS, luôn luôn có những lời lẽ rêu rao rằng “Đảng ta đã luôn có đường lối độc lập, tự chủ và sáng tạo”…

Dàn Dư luận viên của đảng trước hết là chối bỏ việc TXT bị bắt cóc bằng những lập luận: Bằng chứng đâu, TXT về nước là tự nguyện, là do hối lỗi, là để hưởng lượng khoan hồng của đảng nhà nước… thôi thì đủ mọi lời lẽ biện minh.

Thế nhưng, khi cộng đồng quốc tế và mạng xã hội làm sáng tỏ vụ bắt cóc, thì dàn DLV giở bài cùn rằng: Miễn là bắt được TXT về trị tội, còn bắt cách nào thì… thoải mái.

Khi đạt được mục đích, thì mọi phương tiện, cách làm đều được nhà nước chấp nhận. Chính tư duy này đã và đang được bằng mọi cách áp đặt lên suy nghĩ của người Việt Nam trong xã hội ngày nay.

Các Luật sư, tiến sĩ… về luật, những người mà lẽ ra với sự hiểu biết của mình sẽ phân tích cho xã hội những vấn đề đen, trắng, đúng, sai trong từng vụ việc dưới khía cạnh luật pháp và hành xử thượng tôn luật pháp. Điều đó cũng chính là giúp cho đảng CS, cho nhà nước như họ muốn, để đảng, nhà nước biết mà sửa sai cái thói côn đồ để tự biến mình thành côn đồ quốc tế.

Thì qua vụ án này, ngược lại có những người trong số họ lại là những người hành xử với tư duy độc tài và phe nhóm, cũng chỉ nhằm bảo vệ lợi ích của đám phe nhóm đang đánh nhau theo kiểu “lựa theo chiều gió” mà người ta chưa hiểu họ đang mong đợi điều gì? Phần còn lại, những Ls hiểu biết lại ngại va chạm, ngại ảnh hưởng đến mình, đồng nghiệp mình… mà im lặng?

Lẽ nào họ không biết phân tích luật pháp và nhìn nhận vấn đề trên cơ sở luật pháp rằng: Nhà nước Đức đã không phản đối vì việc VN bắt TXT ra tòa để luận tội. Nhưng nhà nước CHLB Đức đã không đồng ý và phản ứng dữ dội bởi chủ quyền của họ bị xâm phạm khi nhà nước VN tổ chức bắt cóc người trên đất nước họ mà không được sự đồng ý của họ, dù người đó là ai.

Phải chăng, việc nhà nước Đức phản ứng dữ dội vì chủ quyền bị xâm phạm lại đã trở thành chuyện lạ ở Việt Nam, khi mới mấy hôm thôi, nhà nước VN đã  lặng lẽ cất ván, rút dù buộc nhà thầu khoan thăm do dầu khí tại Bãi Tư Chính, trong thềm lục địa Việt Nam, chỉ vì anh bạn vàng của Đảng mới hắng giọng?

Và điều đáng buồn ở đây, là tư duy “Mục đích biện minh cho phương tiện” người Cộng sản đã thành công trong việc xây dựng một nền tư pháp độc tài không chỉ với đám dư luận viên hoặc những người dân dân trí thấp mà ngay trong cả những tầng lớp luật sư, trí thức được coi hoặc tự nhận là hiểu biết.

Với tư duy và nhận thức như vậy, thì một nhà nước pháp quyền còn là một mơ ước xa vời với Việt Nam.

Hà Nội, Ngày 10/8/2017

Củ cà rốt

Củ cà rốt

Huy Phương/Người Việt

Nguoi-viet.com

Trên thế giới, lực lượng quân đội nào, với vũ khí, quân cụ trong tay cũng có khả năng làm đảo chính, lật đổ chính quyền. Có trường hợp vì chính phủ độc tài, tham nhũng, cũng có khi vì phe cánh hay có bàn tay bên ngoài của các quốc gia khác.

Việt Nam Cộng Hòa cũng đã có hai cuộc đảo chánh do quân đội cầm đầu năm 1960 (bất thành) và năm 1963, giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Với truyền thống can thiệp vào nền chính trị, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đã ba lần làm đảo chính vào những năm 1960, 1971 và 1980. Năm 1987, quân đội Thổ không làm đảo chánh, nhưng lo ngại về sự hiện diện ngày càng tăng của các đảng phái Hồi Giáo trong nước, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ dưới sự chỉ huy của tướng İsmail Hakkı Karadayı đã áp lực với chính quyền đóng cửa các trường học tôn giáo, cấm sinh viên đại học đeo mạng che mặt. Thủ Tướng Necmettin Erbakan bị các tướng lĩnh ép phải từ chức, một chính phủ lâm thời được lập ra, và quân đội cuối cùng cầm quyền vào năm 1998.

Thái Lan đã có tất cả 11 lần quân đội làm đảo chánh vào những năm 1932, 1933, 1946, 1951, 1957, 1971, 1976, 1977, 1991, 2006, 2014.

Một cuộc đảo chính Xô Viết năm 1991, được gọi là Cuộc Nổi Dậy Tháng Tám hay cuộc Đảo Chính Tháng Tám, một nhóm các thành viên của chính phủ Xô Viết đã hạ bệ trong một thời gian ngắn vị Tổng Bí Thư Liên Xô Mikhail Gorbachev và tìm cách nắm quyền kiểm soát đất nước.

Tháng Tám, 1982, Không Quân Kenya (Phi Châu) nổi dậy chống Tổng Thống Daniel arap Moi. Năm 2009, Tổng Thống Yahya Jammeh của Gambia bị quân đội đảo chánh. Năm 2015 Tướng Godefroid Niyombare của Burundi, làm đảo chánh chống Tổng Thống Pierre Nkurunziza, nhưng bất thành.

Chính phủ nào cũng đề phòng, cảnh giác những chuyện đảo chánh từ phía quân đội, nhất là trong những xứ độc tài. Để đề phòng hậu hoạn, chỉ trong vòng bốn năm, từ ngày ông Kim Jong-un của Bắc Hàn lên nắm quyền, đã có hơn 70 quan chức cấp cao bị xử tử, ngay cả các đại thần mà cha ông phó thác con côi như Jang Song-thaek, Ri Yong-ho và nay là Hyon Yong-chol. Theo tin Bắc Hàn, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hyon Yong-chol đã bị xử tử với một khẩu súng phòng không bắn gần, vì lý do mơ hồ là “không phục tùng lãnh đạo và ngủ gật trong buổi họp.” Thực sự là Kim Jong-un luôn luôn lo sợ các tướng lãnh làm đảo chánh. Có thời gian, mỗi tuần Kim Jong-un đem ra xử trảm một tướng.

Độc tài không thua kém Bắc Hàn, lại nô dịch Trung Cộng một cách quá đáng, mất lòng dân, đảng Cộng Sản Việt Nam cũng mang tâm trạng lo sợ bị làm đảo chánh, nhưng các cấp chỉ huy lực lượng vũ trang quân đội và công an đều là những người của đảng, xuất thân từ trung ương đảng như Nguyễn Minh Tiến, Tư Lệnh Quân Khu 1; Lê Xuân Dũng, Tư Lệnh Quân Khu 2; Vũ Hải Sản, Tư Lệnh Quân Khu 3; Võ Minh Lương, Tư Lệnh Quân Khu 7…

Thay vì thanh trừng nội bộ như Bắc Hàn, CSVN khôn ngoan hơn, lấy lòng tướng lãnh “quân đội nhân dân,” bằng miếng mồi ngon, có mùi thơm của đô la. Bộ Quốc Phòng, cơ quan bảo vệ đất nước cho đúng hai tiếng “quốc phòng” lại quản lý hơn 100 doanh nghiệp lớn nhỏ, trong đó có nhiều tổng công ty quân đội (tương đương các Quân Đoàn/Binh Chủng hay tương đương một Quân Khu/Quân Chủng (tập đoàn Viettel), Quân Đoàn/Binh Chủng (các tổng công ty), hoặc Sư Đoàn (các công ty). Một ví dụ là Thượng Tướng Lê Hữu Đức, một trong bảy thứ trưởng hiện thời của Bộ Quốc Phòng, Tư Lệnh Quân Chủng Phòng Không-Không Quân, là ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, đại biểu Quốc Hội, nhưng lại là chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội (MBB), có một lô lốc tướng lãnh quân đội dưới quyền…

Trong 21 tập đoàn, tổng công ty được thống kê, có chín tướng quân đội giữ chức chủ tịch hay tổng giám đốc, bao gồm: một thượng tướng, sáu thiếu tướng và hai chuẩn đô đốc. Ở nhiều tổng công ty, chức vụ chủ tịch, tổng giám đốc có quân nhân mang cấp bậc đại tá nắm giữ. Có một sĩ quan cấp tá làm tổng giám đốc tổng công ty 789, đó là Trung Tá Nguyễn Công Hiếu. Tổng Công Ty 789 đã được chuyển làm công ty thành viên của Tổng Công Ty Thành An. Thiếu Tướng Nguyễn Quốc Dũng kiêm nhiệm vị trí chủ tịch của Tổng Công Ty Thành An cũng như Tổng Công Ty 789.

Một trường hợp tương tự khác là Tổng Công Ty Xăng Dầu Quân Đội là đơn vị thành viên của Tổng Công Ty Vạn Xuân. Hai tổng công ty này có chung chủ tịch là Thiếu Tướng Đào Ngọc Thạch.

Tập Đoàn Viễn Thông Quân Đội có một tổng giám đốc và bảy phó tổng giám đốc. Ba người trong đó có cấp bậc thiếu tướng. Các vị trí còn lại do ba đại tá và hai thượng tá nắm giữ.

Chủ tịch Tổng Công Ty Tân Cảng Sài Gòn là Chuẩn Đô Đốc Phạm Hoài Nam. Một tổng giám đốc là Chuẩn Đô Đốc Nguyễn Đăng Nghiêm.

Giữ chức vụ chủ tịch kiêm tổng giám đốc tại Tổng Công Ty Trực Thăng Việt Nam (VNH) là Thiếu Tướng Hà Tiến Dũng. Bốn phó tổng giám đốc tại VNH là Đại Tá Vi Công Hùng, Đại Tá Trần Đình Nam, Đại Tá Lê Trọng Đông, Thượng Tá Kiều Đặng Hùng.

Trong phạm vi của trang bài này, chúng tôi không thể liệt ra đây hết “phương danh” các vị tướng lãnh đội nón kết, đeo lon tướng, đi xe bảng đỏ, không còn lo việc chống giặc, giữ an ninh cho bờ cõi mà có nhiệm vụ làm… tiền. Theo con số của Bộ Quốc Phòng, hiện nay có 80,000 “ông nón cối” đang làm kinh tế, cầm trong tay nghìn tỷ trên thương trường!
Chúng ta thường hiểu “chức năng” là “nhiệm vụ.”

Chức năng của tim là bơm để đẩy máu theo các động mạch, đem dưỡng khí và các chất dinh dưỡng đến toàn bộ cơ thể, đồng thời loại bỏ các chất thải trong quá trình trao đổi chất. Chức năng của lực lượng công an là bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Đương nhiên chức năng của quân đội, bất kỳ của quốc gia nào cũng là bảo vệ quốc gia, bảo vệ quần chúng, chống sự xâm lược từ các quốc gia khác.

Nhưng gần đây, bộ trưởng Quốc Phòng, vì nhu cầu bảo vệ và kinh tài cho đảng lại uốn lưỡi cho rằng: “Tham gia sản xuất xây dựng kinh tế là một chức năng của quân đội! Quân đội làm kinh tế là củng cố tiềm lực quốc phòng, nâng cao vị thế quốc gia!”

Quân đội lãnh lương từ tiền thuế của dân hôm nay lại đi làm rừng, làm ngân hàng, bốc dỡ hàng hóa, những lối đi buôn, thay vì thao dượt, bảo vệ biên giới, đất biển cho tổ quốc, bảo vệ an ninh cho đồng bào tránh khỏi nanh vuốt của ngoại bang, bảo vệ ngư dân ngay trên vùng biển của quốc gia.

Bộ Trưởng Quốc Phòng Ngô Xuân Lịch cũng cho rằng “Có những vùng khó khăn chỉ có quân đội mới đứng chân làm được. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế, doanh nghiệp quân đội không ngừng đổi mới, sáng tạo, chiếm thị trường trong nước, nước ngoài và trở thành đối tác kinh tế uy tín.” Lời văn nghe sang sảng trước hàng quân nhưng rõ ràng là lời ngụy biện vô cùng nguy hiểm cho dân tộc.

Tóm tắt việc cho quân đội làm kinh tế, theo Vũ Đông Hà (trang Danlambao) tổn hại cho đất nước:

-Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc nay đã trở thành đội quân bạc nhược, lấy chủ trương “bám ghế – kiếm tiền,” làm suy yếu việc phòng thủ quốc gia.

-Tạo sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp quân đội với doanh nghiệp dân sự.

Nhân danh phục vụ mục tiêu quốc phòng, tài nguyên quốc gia đã bị các tập đoàn tướng tá Cộng Sản thu tóm để làm giàu mà không cần thuê và lại được hưởng những ưu đãi rất nhiều trong việc đóng thuế.

-Tướng tá được thăng chức tùy tiện dựa theo kết quả kiếm tiền cho đảng, thay vì bằng khả năng chiến trận.

-Hiện nay nhiều công trình, dự án đều lệ thuộc nguồn vốn và nguyên liệu của Trung Cộng, nên tất cả tướng tá đại gia đều lệ thuộc Bắc Kinh, đầu hàng kẻ thù vô điều kiện, xem dân là thù, lấy thù làm bạn.

Theo nguyên tắc không có một vụ chia chác quyền lực và đồng tiền nào làm thỏa mãn được mọi người, “Quân Đội Nhân Dân” hiện nay đang bị phân hóa, xé nát trầm trọng vì tranh nhau miếng ăn. Phe không ăn bất mãn, phe có ăn lo kiếm ăn, không ai quan tâm dến chuyện “rèn cán, chỉnh quân” trở thành một đội quân yếu và hèn.

Không ăn được thì đập phá, phe “trâu cột” không có miếng ăn lên tiếng đòi hỏi: “Quân đội không nên làm kinh tế.” Phe “trâu ăn” là tướng lãnh quân đội đang có đặc quyền làm kinh tế, tuyên bố sẽ ra tay làm đảo chánh nếu bị Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc cấm làm kinh tế? Rồi đây, đất nước có thể xẩy ra binh biến, không phải vị giặc vào nhà, mà vì gà tranh nhau vì thóc, lúa.

Trong khi Kim Jong-un non nớt dùng hạ sách với “cây gậy” xử trảm công khai các tướng lãnh nghi ngờ chống lại mình, thì đảng CSVN cao thủ hơn, cho tướng lãnh củ “cà rốt” để nắm quyền lực, khiến họ phải trung thành tuyệt đối, nhưng rồi đây tình trạng đất nước sẽ ra sao khi giặc tới biên giới?

Ngày xưa thời kháng chiến, mỗi cán bộ chỉ có một đôi đũa và cái chén nhôm giắt lưng, nói chuyện yêu nước dễ. Bây giờ quyền cao chức trọng hàng muôn, ngày đêm nghĩ cách kiếm tiền, giữ tiền, đến lúc “ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng” thì đã quá muộn.

Cái chết trong tù CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát

 

Bác Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại Nghệ Tĩnh, tham chính nhiều lần, từng làm Tổng Trưởng Giáo Dục, Tổng Trưởng Quốc Phòng, lần cuối cùng giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa, vào năm 1965.

Ông cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng, phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm tuần báo Diễn Ðàn, Sài gòn, 1972.

Ngày 16 Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản bắt do nội phản trên đường vượt biên; và chưa đầy bốn năm sau ông từ trần trong nhà tù Chí Hòa.

Bài dưới đây do ký giả kỳ cựu Nguyễn Tú, bạn ông, và cũng là bạn tù (người đã sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những ngày tháng và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Hòa), kể lại “như một nén hương chiêu niệm chung.”

Trong thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ Quát bị bệnh gan rất nặng song Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc men do gia đình tiếp tế không được nhận. Người con trai út bị giam ở phòng bên, có thuốc cho bố, cũng không làm sao mang sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi, chúng mới đem ông lên bệnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 Tháng Tư 1979.

Tang gia đã được phép để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và phát tang ở đấy vào ngày hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lệnh phải an táng ngay, vì ngày đó, 28 Tháng Tư 1979, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tới Sài Gòn; Việt Cộng sợ dư luận quốc tế – nếu biết đến cái chết bị bỏ mặc của một cựu Thủ Tướng Miền Nam – có thể ngó tới tình trạng giam cầm của hàng trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất ít người nghe biết đến sự đày đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái chết trong tù của ông – bên cạnh các trường hợp tương tự của các trí thức văn nghệ sĩ khác – của nhà cầm quyền Hà Nội. Chí Hòa, Sài Gòn – Một ngày cuối Tháng Tư 1979


Gia đình Thủ Tướng Phan Huy Quát

Hôm nay đến lượt bốn phòng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED được đi tắm, giặt. Mọi người đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba ngày rưỡi mới được xối nước trên thân thể hôi hám, ngứa ngáy và vò vội quần áo đã tích trữ kha khá mồ hôi, đất ghét, thì trước cái hạnh phúc nhỏ nhoi chỉ được phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai mà không “vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi” dù, trên lý thuyết, thời gian tắm được quy định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ còn vỏn vẹn 15 phút.

Cả bốn phòng đã lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ gác đến điểm số. Lần đó, viện cớ bị cảm, tôi xin phép ở lại trong buồng. Tôi có mục đích riêng.

Kiểm tra xong số người ở lại mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người đứng dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng guốc, tiếng dép khua trên cầu thang, tiếng nói lao xao của đoàn người xa dần rồi lắng hẳn. Từ dưới sân đã bắt đầu vọng lên tiếng xối nước ào ào, tiếng nói oang oang, tiếng cười khanh khách thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân mật, tiếng sặc nước, tiếng rú khoái trá của các bạn tù được làn nước mát như nước lũ chẩy dồn dập trên da. Hạnh phúc thật!

Buồng 5 chúng tôi ở đầu dãy, sát với đầu cầu thang, nơi đây đặt một cái bàn và một cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ tôi nằm sát hàng song sắt. Tôi đứng dậy, nhìn về phía đầu cầu thang chỉ cách chừng ba thước rồi quay người, đảo mắt suốt dọc hành lang. Không có bóng cán bộ. Căn phòng vơi đi 58 người như rộng ra. Hơi nồng của 60 mạng tù tích tụ từ suốt ngày và đêm trước tự giải phóng dần dần đem lại một cảm giác thoáng khí hơn.

Căn phòng chỉ còn lại hai người không đi tắm là tôi và một người nữa đang nằm ở hàng giữa, sát tường, trên diện tích vỏn vẹn có 60 phân tức 2/3 của một chiếc chiếu hẹp. Ðó là khoảng không gian đã được chia rất đều cho 60 tù nhân mà Việt Cộng đã cải cho cái danh từ mỹ miều là “trại viên” Người đồng phòng này nằm, hai chân duỗi thẳng, hai cánh tay gập lại trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt nhắm, vẻ mặt bình thản. Ông bị bệnh đã hơn một tuần, không thuốc men. Nước da mặt đã chuyển sang màu tai tái càng nổi bật với màu trắng của chòm râu và mái tóc. Bệnh nhân nằm im, không cựa quậy, thân hình như đã quen đóng khung trong không gian 60 phân của chiếc chiếu. Ông là Bác Sĩ Phan Huy Quát đã từng là Tổng trưởng nhiều lần, chức vụ cuối cùng và cao nhất trong hoạt động chính quyền của ông là chức Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Xuân 1965. Năm 1979 ông đã trên 70 tuổi.

Tôi đảo mắt một lần nữa suốt dọc hành lang, dõng tai nghe ngóng. Vẫn không một bóng người, không một tiếng động khả nghi nào trên tầng gác vắng lặng. Tôi bước vội tới chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi sát bên. Bệnh nhân vẫn nằm im, mắt nhắm, không một phản ứng nào chứng tỏ ông cảm giác thấy có người bên cạnh. Hơi thở yếu. Bộ đồ ngủ của ông bận có cũ nhiều nhưng không bị xô lệch. Ðôi ống quần được kéo thẳng tới cổ chân. Ðôi tà áo được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay áo trùm tới tận cổ tay. Chẳng phải vì cuộc sống tạm bợ trong tù rất nhiều hạn chế khắc nghiệt cộng thêm lâm bệnh nặng đã hơn một tuần – một trường hợp bất cứ ai cũng có thể buông thả, mặc cho thân phận nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít cảnh giác về cách phục sức và tư thế – mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc. Và từ cái chững chạc này như toát lên một cái gì có vẻ nghịch lý đến độ vừa đau đớn vừa dũng mãnh giữa thân phận con người và hoàn cảnh.

Tôi khẽ lên tiếng: “Anh Quát! Anh Quát!”

Không một phản ứng của bệnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bệnh nhân, hơi cao giọng: “Anh Quát! Anh Quát!” Vẫn không một phản ứng, tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng xối nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn mục đích khai bệnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích thân nói ít điều cho là cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.

Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng “phản động” nhất trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng, 3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự “đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy.” Một buồng “ngụy nặng” nên được Việt Cộng tận tình “chiếu cố” trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên “ăng ten” tức chỉ điểm được cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bệnh nhân, cao giọng thêm: “Anh Quát! Anh Quát!”

Bệnh nhân vẫn lặng im. Phải làm thật gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai Bác Sĩ Quát, cố nói thật rành rẽ: “Anh Quát! Anh Quát! Nhận ra tôi không?” Lần này đôi mi bệnh nhân hơi động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi thoáng thấy lòng trắng mắt vàng khè. Chẳng cần phải học ngành y mới biết bệnh gan của Bác Sĩ Quát coi mới nặng. Bệnh nhân vắn tắt thều thào: “Anh Tú!” Tôi hơi yên tâm. Miệng lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi nói: “Anh mệt lắm phải không?” Ðầu bệnh nhân hơi gật gật. Không hiểu lúc đó linh cảm nào xui khiến, tôi cố rót vào tai Bác Sĩ Quát, giọng hơi nghẹn: “Anh có nhắn gì về gia đình không?” Bệnh nhân cố gắng lắc đầu, mắt vẫn nhắm. Dưới sân không còn tiếng xối nước nữa. Có tiếng các buồng trưởng dục anh em tập hợp để điểm số lại trước khi lên buồng. Chỉ còn độ hơn một phút. May lắm thì hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát: “Ai đặt bày, lừa bắt anh? Ai phản anh? Thằng Liên phải không? Nói đi! Nói đi!” Ðôi môi bệnh nhân như mấp máy.

Tôi vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bệnh nhân. Một hơi thở khò khè, theo sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần mười: “Thôi! Anh Tú ạ.” Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã bắt đầu từ chân cầu thang. Tôi chưa chịu buông: “Nói đi! Anh Quát! Nói đi!” Một hơi thở một chút gấp hơn, như làn hơi hắt vội ra lần chót! “Thôi! Thôi! Bỏ đi!” Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã tới quá nửa cầu thang. Tôi vội nhổm dậy, bước nhanh về chiếu mình, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên trán.

Ngoài hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt. Vài tiếng kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đã chọc được phòng tuyến địch, họ ùa vào phòng, đứng lố nhố nghẹt lối đi quá nhỏ giữa ba hàng chiếu. Căn phòng như bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa thưa dần khi tất cả đã về được chiếu mình. Khói thuốc lá bắt đầu tỏa. Ðây đó tiếng rít của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc. Bây giờ thì mọi người, sau trận tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu. Cả phòng lặng tiếng.

Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường: “Anh Châm! Anh coi lại xem anh Quát bệnh tình hôm nay ra sao?”

Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn muốn phản ứng gì dù chỉ là một phác họa – trước cảnh huống bên ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn liệm.

Bác Sĩ Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng trưởng: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá chứ!” Phương là hạ sĩ quan binh chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy còn trẻ, tóc Phương đã trắng xóa, có lẽ vì “xấu máu.” Anh em bèn dán cho cái nhãn hiệu “Phương đầu bạc.” Phương lặng thinh, coi bộ ngần ngại. Nói cho ngay suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm bệnh Phương đã mấy lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ chối. Tôi quay về phía Bác Sĩ Châm: “Anh Châm! Nói cho Phương biết bệnh trạng của Bác Sĩ Quát đi!” Ông Châm bèn bảo: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ ngay đi!” Phương không đáp, lộ rõ vẻ ngần ngại. Trong phòng bỗng nhao nhao nhiều giọng thúc giục, gay gắt: “Báo cáo đi! Chờ gì nữa? Bệnh như vậy mà không đi báo cáo, còn chờ gì nữa? Chờ người ta chết à?” Căn phòng đang im ắng, sống động hẳn lên.

Nhiều bạn đang nằm, nhóm người nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần, Phương uể oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi phòng, đi về phía đầu cầu thang. Một lát khá lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo sau. Anh chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi vọng: “Ðâu?” Bác Sĩ Châm nhích người qua một bên, chỉ vào Bác Sĩ Quát: “Ðây, cán bộ!” Nhìn một lát, cán bộ quay lưng, Phương lẳng lặng về chiếu mình. Những anh em khác lại đặt mình nằm. Căn phòng chìm trong im lặng hoàn toàn như thể hồi hộp chờ đợi một phán quyết sinh tử của trại.

Chừng 20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn tù được làm ở bệnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và một cán bộ khác, chắc là ở bệnh xá. Căn phòng lại náo động. Mọi người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần chiếu của mình.

Phương “đầu bạc” dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bệnh nhân như mê man, tự mình không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh trong phòng xúm nhau nâng bệnh nhân đặt trên băng ca. Trong lúc đó Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ Quát: Kem và bàn chải đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ, đũa, muỗng, chén… Băng ca được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt nhắm, không một phản ứng. Dưới sân, một tiếng kêu lớn! “Lấy cơm!” Căn phòng trở lại cuộc sống đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc đó khoảng 10 giờ rưỡi.

Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau: “Bác Sĩ Quát chết rồi!” Cả phòng nhao nhao: “Hồi nào? Hồi nào? Chết mau quá vậy?” Một anh đáp: “Nghe nói, hồi trưa hôm qua thì phải.”

Chỉ một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền khắp khu ED. Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong phòng thốt một câu: “Bệnh như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bệnh xá, không cho. Ðợi gần chết mới cho thì còn gì!” Một điếu văn ngắn, gọn, hàm xúc cho một bạn tù đã nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc lên án chế độ bất nhân, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng gần như lặng đi.

Không bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng, hắn còn nói với: “Nhớ làm bản kê khai, nghe không!” Ðối với tù nhân, đó là lời công nhận chính thức cái chết của bất cứ “trại viên” nào. Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng.

Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng lớp lớp thế hệ tù chính trị mà ông đã là một trong biết bao người kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhân dưới chế độ Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ “nghi vấn.” Nhiều người cho rằng nếu được đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.

Năm 1979 vẫn còn nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là “rất căng.” Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu xuôi xẻ về mặt quân sự, thì về mặt dân tình và chính trị lại chẳng xuôi xẻ chút nào. Nhiều nơi đã nổi lên những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô cùng lo lắng trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu cơ đối phó. Ngay tại Sài gòn, năm 1976, vụ Vinh Sơn xẩy ra chưa đầy một năm sau “đại thắng Mùa Xuân” của Việt Cộng đã làm chúng thất điên bát đảo và mặc dù những người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh Sơn cùng với một số chiến hữu đã bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và thanh toán, dư âm và ảnh hưởng của vụ ấy vẫn còn kéo dài mãi tới 1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam khởi sự từ 1978. Do đó Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù chính trị. Tuy không có bằng chứng rõ ràng, nhiều người trong phòng có cảm giác “ăng ten,” tức chỉ điểm viên, đã được tăng cường.

Cuộc sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt. Việt Cộng “dư” lý lẽ để đối xử với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn. Bác Sĩ Quát đã lâm bệnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con trai út của ông là Phan Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng Tám 1975 không được ở chung cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát bên. Hai cha con chỉ trông thấy nhau những lần đi tắm, tức hai lần một tuần. Khi tắm cũng không được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài việc vặt vãnh cũng không bao giờ được phép. Còn nói chuyện với nhau thì tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về nhà với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ luật đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình cũng tách rời, riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà còn hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể xin phép trao đổi với nhau chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn bị từ chối và bị theo dõi kỹ. Khi được tin bố lâm bệnh, Huy Anh nhiều lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng không được. Chỉ tới phiên đi lãnh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó tôi thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song sắt tới chỗ bố đang nằm lịm. Tôi còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ Quát được đưa đi bệnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc cho bố, sau không biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép đứng ngoài cửa nhìn vọng vào. Thuốc thì do buồng trưởng nhận đưa cho Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường trị bệnh gan. Lần “nhìn thăm” thầm lặng được phép công khai đó dài không quá hai phút. Và đó cũng là lần chót Huy Anh được chính thức nhìn bố qua chiều dài gần 8 thước của căn buồng dưới đôi mắt cú vọ của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám sát.

Hôm Bác Sĩ Quát được khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng không được phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu diếm, bưng bít đã trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu “thật tâm cải tạo tốt.” Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên quan đến cái chết, đến tang lễ của bố, đến bất cứ những gì Huy Anh đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian được về nhà.

Phải thừa nhận Việt Cộng rất “siêu” về thủ đoạn dọa nạt, nhất là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chính trị đối với Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979, Huy Anh mới được thả.

Trong thập niên 1940, Bác Sĩ Phan Huy Quát đã được nhiều người ở Hà Nội biết tiếng là một lương y. Bệnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp, rất tín nhiệm ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm nghề nghiệp rất cao của ông. Ngay cả một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ gia đình của họ, một trường hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời ấy. Một đề tài nghiên cứu y học của ông có liên quan đến bệnh đau mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại thời đó đã được tặng giải thưởng đặc biệt của Hoàng Ðế. Cuộc đời chính trị của ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949. Trong chính phủ đầu tiên của quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với tư cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953 trở đi, tình hình cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ. Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở Ðiện Biên Phủ mở màn cho Hội Nghị Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh ngày 20 Tháng Bảy 1954.

Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc Phòng.

Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chính quyền Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64. Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.

Cuộc đời chính trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa Tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập nội các mới. Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng thì ông trao quyền lại cho Hội Ðồng Quân Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải quyết giữa ông và Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp điều khiển phòng thí nghiệm y khoa của ông ở đường Hai Bà Trưng. Hoạt động chính trị của ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày Sài Gòn thất thủ 30 Tháng Tư 1975.

Nhưng ngày kết liễu nền Ðệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một hướng khác, hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm đã quen và chỉ quen hoạt động chính trị theo lối “chính quy,” trong “đường lối chính quy.” Và con người thận trọng trong ông đã lao vào một trận địa mà trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu địa hình phức tạp, hết sức bất thường do vậy cũng hết sức bất ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí mật, mà vì tính chất của riêng nó, đòi hỏi một cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm trong hoạt động bí mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng, tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có những điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Ðiều này cũng dễ hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy mà trước hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con người ngày ấy đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết định dễ dàng.

Sau ngày Sai gon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát không đáp “lời mời” ra trình diện của Việt Cộng được phổ biến trên đài phát thanh, truyền hình và báo chí của chúng cho tất cả “ngụy quân, ngụy quyền”. Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ hai hướng Bắc và Nam ngày 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu cuộc đời “du mục” trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên ông trốn “trụ” hẳn một nơi. Ông nhượng bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm khuất ở quận Phú Nhuận.

Những ai đã sống ở Saigon sau ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn của cái thành phố hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối hả tuôn ra đầy nghẹt đường phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh đã chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ định đoạt số phận của Saigon như thế nào? Thái độ nào tốt nhất để đối phó với kẻ chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn? Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi cá nhân, người thì chọn lối âm thần sống ẩn, người thì mặc, muốn ra sao thì ra, cứ sống “tự nhiên cái đã”. Nhưng đại đa số thì tính chuyện trốn khỏi Việt Nam bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn phủi tay. Một số khác thì tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh nha những sự thăm dò, móc nối nhau, tìm ngõ ngách trong hai lãnh vực chính yếu: thứ nhất vượt biên, thứ nhì chống Cộng.

Hai lãnh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm đường vượt biển lại dẫn đến mối chống Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên. Bất cứ ai chọn dấn thân vào một trong hai lãnh vực này đều bị lôi cuốn vào cái vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát không ngờ sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không muốn bỏ chạy: ông vốn nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông 14 người, mặc nhiên là một áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng kể, buộc ông không thể không nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu, rể và các cháu nội ngoại, nghĩa là phải nghĩ đến chuyện vượt biên. Ngoài tình quê hương ông cũng nặng tình gia đình không kém.

Thực ra, khoảng một tuần trước ngày 30 Tháng Tư 1975 lịch sử, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh cho ông Ðại sứ của mình ở Saigon nhân danh chính phủ mời Bác Sĩ Quát qua Ðài Bắc trú ngụ nếu như phía Mỹ chưa lo liệu cho bác sĩ. Lúc đó Bác Sĩ Quát chưa quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn và nói sẽ liên lạc sau. Về phía Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát còn ở Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975 đã liên lạc với ông, hứa đưa hai ông bà qua Mỹ. Bác Sĩ Quát trả lời không thể nhận sự giúp đỡ quý hóa ấy nếu tất cả gia đình ông gồm 14 người không được cùng đi. Phía Mỹ ngần ngại, nhưng rồi cũng thuận ý muốn của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn. Ðiểm hẹn này sau bị lộ. Thêm nữa ngày 29 Tháng Tư 1975, tình hình căng thẳng tột độ, chính phủ Dương Văn Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ phải triệt thoái toàn bộ nhân viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên Quốc Phòng của Mỹ trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ Quát bị tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng chở người Việt tị nạn không có Bác Sĩ Quát và gia đình.

Như đã nói, ông nặng tình gia đình, không muốn gia đình bị khổ trong vòng kìm kẹp của Cộng Sản và muốn gia đình sống một nơi an toàn. Ðồng thời ông cũng không muốn làm “kẻ bỏ chạy” vì ông cũng rất nặng tình quê hương, đất nước. Ông muốn, nếu đi thì cả nhà cùng đi. Nếu ở lại thì cả nhà cùng ở lại. Nhưng sau hai lần lỡ dịp di tản gia đình, Bác Sĩ Quát ý thức rất rõ hai mối tình song hành kia, tình gia đình và tình quê hương, đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ có thể chọn một. Và ông đã chọn.

Ông bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên. Còn về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Ðôi bên đồng thuận. Gia đình Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi đã cao và mắc bệnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ mãi, Việt Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam để chăm sóc bà. Ðược mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, bà Quát được đưa ra ở phòng tập thể với các con cháu. Ðược hơn một năm, có lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại đa số là giới nữ và khai thác cũng không thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng người con rể còn bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười năm sau mới được thả.

Về phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh thì được tên Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau, theo kế hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon. Khi xe ô-tô tới một điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã có một xe ô-tô khác đậu bên đường, nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đã quy định. Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi tới, vây quanh xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết mình bị lừa. Ông và Huy Anh được giải về Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, đường Võ Tánh, Saigon. Hôm đó là ngày 16 Tháng Tám 1975, khởi đầu cuộc thử thách chót trong đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc thử thách không giống bất cứ một thử thách nào ông đã đương đầu trước kia. Một cuộc thử thách mà chủ đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người chỉ chấm dứt sau khi vị cựu Thủ tướng đã vận tất cả năng lượng vật chất và tinh thần ném hết vào cuộc đấu tranh cuối cùng của ông, lần này mới thực là mặt đối mặt với quân thù với không biết bao nhiêu căng thẳng, gay go về nhiều mặt. Cuộc đấu tranh riêng lẻ mà ông chưa từng có một ý niệm và không bao giờ ngờ có ngày phải tiến hành trong đơn độc, đã kết thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư 1979, đúng ba hôm trước ngày Kỷ niệm Saigon thất thủ.

Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng. Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)

Gần một tháng trước Tết Mậu Ngọ tôi bị chuyển về phòng 1, gác 1, khu BC. Ba phòng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng phòng 1 có “khách hàng”. Bác Sĩ Quát và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật nới lỏng, mọi người được đi lại thăm bạn bè ở các phòng khác, gác khác trong cùng một khu. Bác Sĩ Quát và tôi không ra khỏi gác 1. Chúng tôi thường đi bộ dọc hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ Quát bắt nhịp đi theo tiếng chống nạng của tôi lúc đó chân bị tê liệt. Mấy ngày Tết quả là một dịp hiếm có để có thể nói với nhau nhiều chuyện, khỏi sợ bị để ý hay soi mói quá đáng. “Ăng ten” cũng phải ăn Tết chứ! Bác Sĩ Quát đã tóm lược cho tôi nghe cuộc “phiêu lưu” của ông và gia đình. Tôi có hỏi ông về thời gian ông bị giữ tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát, đường Võ Tánh. Ông kể:

“Chúng bắt tôi viết bản tự khai tất cả những gì tôi làm khi tôi giữ chức Thủ tướng. Bản viết của tôi không dài quá một trang tôi viết vắn tắt là trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng, tôi lãnh đạo việc nước, tôi chỉ đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ cấp thấp nhất, đến cao nhất gần gũi với Thủ tướng ở mọi ngành quân, dân, chính đều làm việc theo chỉ thị và mệnh lệnh của tôi. Một mình tôi trách nhiệm. Chúng không bằng lòng, bắt tôi viết lại. Tôi viết y như trước. Cù cưa như vậy đến hơn một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn chuyển sang thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả lới vắn tắt: Tôi trách nhiệm. Chúng đủ trò áp lực như anh biết đấy. Sau đó, để bớt căng thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú thực lúc đó nhịp tim đập của tôi loạn xạ đã nhiều ngày, và tôi không có thuốc trợ tim. Tôi cảm thấy chóng mệt. Tôi cứ từ từ viết được hơn 70 trang, trong đó tôi nêu một số nhận định về thời cuộc, đưa ra một số đề nghị kiến thiết quốc gia. Trên trang nhất, tôi đề tên người nhận văn bản của tôi là Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Chúng bắt tôi xóa, chỉ được viết là bản tự khai. Tôi không chịu. Sau cùng chúng cũng nhận tập viết của tôi.”

Tôi hỏi Bác Sĩ Quát:

– Anh có tin là chúng chuyển tập viết của anh tới Nguyễn Hữu Thọ không?

– Tôi ngờ lắm. Ông đáp. Nhưng không sao. Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng rằng tôi không biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu Thọ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Hà Nội thừa biết điều đó hơn ai hết.

Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhất của ông mà ông thật tâm tác thành cho: “Có thật hay không, tiếng đồn có người đá ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc?” Bác Sĩ Quát mỉm cười, trả lời, giọng bình thản: “Tôi đã có nhiều dịp gần cụ Trần Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi nhớ mãi một lời cụ dậy: sống ở đời phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong nhà nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng.” Câu nói của Bác Sĩ Quát không trả lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết thưởng thức câu trả lời đó vì họ cười ha hả.

Sau Tết, chúng tôi bị chuyển sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài hôm, phòng nhận thêm một tù nhân từ biệt giam qua. Người này, khi nhận thấy Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng nẩy. Riêng tôi cũng không để lộ cho tên Liên rõ là tôi biết chuyện của hắn. Cuộc sống ở Chí Hòa đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.

Ngày này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu của mình. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ nửa lời than van về số phận của mình hay của gia đình về sự mất mát tài sản mà Việt Cộng đã tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ Việt cộng cố ý công khai làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ im lặng, cái im lặng kẻ cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ gì kiêu kỳ, của một người đã từng giữ những chức vụ cao sang trong chính quyền cũ.

Ông biết hòa mình một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng một khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên Liên mà nhiều yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng đáng nhãn hiệu “tên phản bội, tên lừa bịp”, ông vẫn giữ được cách lịch sự bao dung buộc kẻ kia tự mình phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với ông. Thế nên tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: “Thôi! Bỏ đi!” để trả lời câu hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết vì ông mà vợ, con, cháu ông đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội gái của ông, con gái đầu lòng của Huy Anh, mới ba tháng đã “được” Việt cộng bỏ tù vì bố mẹ và đang thiếu sữa.

Ông biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm lặng của ông thì gia đình ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là những con tin hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa, đầy đọa tinh thần ông, nghiền nát những gì là nhân tính trong ông, buộc ông phải thốt lên một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng được đầu gió. Vì ông đã cứng.

Tôi thường nghĩ, trong suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác Sĩ Phan Huy Quát có ý nghĩa lớn lao nhất, có ích cho quốc dân nhất, do đó quan trọng vào bậc nhất vì trực tiếp liên quan sâu sắc nhất đến tiền đồ tổ quốc, là ông đã giành được chủ quyền cho ngành giáo dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục trong chính phủ đầu tiên của Quốc gia Việt Nam mới được Pháp thừa nhận nền độc lập. Do lòng trí kiên nhẫn, thái độ khéo léo, mềm dẻo nhưng không thiếu cương quyết trong thương thảo rất khó khăn, nhiều khi đến độ rất căng thẳng với phái đoàn Pháp mà một số thành viên lại là thầy học cũ của ông ở Ðại học Y khoa Hà Nội. Ông đã thuyết phục được phía Pháp trao trả Việt Nam trọn quyền của ngành giáo dục. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình, mở đầu kỷ nguyên cải cách giáo dục toàn diện từ tiểu học, qua trung học, lên tới đại học và trên đại học mang tính chất hoàn toàn quốc gia mà dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không một ai, sau ông, có thể thay đổi được. Pháp ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh ngữ nào khác được giảng dậy trong mọi cấp học trình. Thành quả tranh đấu gay go trong thầm lặng nhưng thật rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc tiến hành cải cách giáo dục của ông đã được báo chí thời đó xưng tụng và mệnh danh một cách rất xứng đáng là “Kế hoạch giáo dục Phan Huy Quát.” Tên tuổi ông đã gắn liền với tương lai của biết bao thế hệ nam, nữ, thanh, thiếu niên trong lãnh vực giáo dục nó là chìa khóa của tiến bộ văn minh và phát triển văn hóa cho đất nước, cho dân tộc.

Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?

Một phòng lẻ loi dành cho lính gác ở ngoài vòng rào trại giam Chí Hòa đã được quét dọn khá tươm tất. Giữa phòng, một tấm ván gỗ khổ hẹp đặt trên đôi mẻ. Trên tấm ván một hình người nằm ngửa, chân duỗi thẳng, hằn rõ dưới tấm mền mỏng phủ kín từ đầu xuống chân.

Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.

Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây “Anh hùng nhất mực” và “ra ngõ là gặp anh hùng” lại sợ đủ thứ!

Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho chắc!

Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết “thần giao cách cảm” với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to.

Ðám tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng, quyến thuộc. Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là “nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu vi trùng”.

Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.

Nếu tôi biết hát, tôi sẽ cất giọng ca vừa đủ nghe tù khúc:

“Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm đây…”
 

Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.

THEO ĐỨC MẸ LÊN TRỜI

THEO ĐỨC MẸ LÊN TRỜI

GM GB. Bùi Tuần

Sắp đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời.  Lên Trời là lên thiên đàng.  Mẹ Maria lên trời là một sự kiện đầy hân hoan.  Sự kiện vui mừng này gợi lên trong chúng ta khát vọng chính chúng ta cũng được lên trời. 

Nhưng, để theo Đức Mẹ lên trời, ta không thể tự mình lên được.  Ta phải tuân theo chỉ dẫn của Mẹ.  Chỉ dẫn của Mẹ rất đơn sơ:  Hãy sống vâng phục thánh ý Chúa (Lc 1,18).  Thánh ý Chúa về ta là thế nào?  Tôi thiết nghĩ:  Trong một nơi đặt truyền giáo là ưu tiên như tại đây, thì thánh ý Chúa về ta là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người, trước khi Người về trời: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

Lời truyền dạy đó phải được coi là rất cần hiện nay.  Nó phải được áp dụng một cách sống động.   Nghĩa là đối với mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm chứng về Chúa tại nơi mình đang sống, trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mình.  Làm chứng cho Chúa tại nơi mình sống phải được coi như một nhiệm vụ sống còn.  Vì thế tôi thường nghĩ: “Làm chứng cho Chúa” tại đây lúc này là con đường tôi phải đi, để được lên trời với Đức Mẹ.

Với ý nghĩ đó, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư, để xét mình, nhân dịp mừng lễ Mẹ lên trời.

Làm chứng cho Chúa

 Làm chứng cho Chúa là làm chứng cho Chúa Giêsu.  Chúa Giêsu phán: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8).  Làm chứng cho Chúa Giêsu là làm chứng Người là Đấng Cứu thế.  Người cứu độ nhân loại bằng chịu khổ hình và sống lại.  Phúc Âm ghi rõ nội dung làm chứng: “Bấy giờ Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.  Chính các con là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,45-48).

Chắc chắn chúng ta có làm chứng cho Chúa Giêsu theo chứng từ trên đây.  Làm chứng như thế cũng đã là việc tốt.  Nhưng điều tốt hơn, mà mục vụ và truyền giáo mong muốn nơi ta, là chúng ta làm chứng Chúa Giêsu đã và đang cứu độ ta, trong chính cuộc sống cụ thể của ta, một cuộc sống có vô vàn phức tạp.  Hơn nữa, ta cũng làm chứng rằng: chính ta cũng đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ những người xung quanh, cả đồng bào ta.

Hôm nay, nếu tôi và nhiều người khác biết sám hối, bỏ được tội lỗi, trở về đàng lành, giải quyết được nhiều vấn đề, thì chính là nhờ ơn cứu độ của Chúa, Đấng đã chịu nạn và phục sinh cho tôi và cho mọi người.  Tin Mừng qui chiếu vào hiện tại, vào hôm nay, vào cuộc sống và vấn đề của chúng ta.  Tôi có kinh nghiệm như vậy.  Những bước đường làm chứng một cách cụ thể như thế sẽ không dễ dàng.  Nhưng chúng ta sẽ thực hiện được nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần

 Khi sai các tông đồ đi làm chứng, Chúa Giêsu đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần” (Cv 1,8).

Kinh nghiệm cho tôi hiểu lời đó thế này: Chúa Giêsu cứu độ thường đến với ta qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần.  Sức mạnh ấy được thể hiện nhiều cách, nhất là ơn đổi mới tâm hồn.

Chẳng hạn, trước đây có những người dễ chạy theo những thú vui hưởng thụ thế gian, thì nay họ trở thành dửng dưng với những thứ đó, để hăng say chìm đắm trong sự bình an của ơn Chúa hiện diện.  Trước đây, có những tính tình rất tự phụ tự mãn, coi như đã xi măng-hoá rất vững trong chất kiêu căng, nhưng nay họ trở thành khiêm tốn nhã nhặn, từ các suy nghĩ, đến các cử chỉ thái độ và lời nói.  Các đổi mới như thế thường rất sâu xa, nhưng lại rất âm thầm.  Nơi từng cá nhân, nơi cả một tập thể.  Tôi coi những đổi mới như thế là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Nhiều khi, nhìn thấy những sự lạ lùng mà Chúa Thánh Thần đã và đang thực hiện tại đây trong các tâm hồn giữa những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi có cảm tưởng công việc Ngôi Lời nhập thể vẫn đang tiếp tục.  Rất lặng lẽ, rất ẩn dật, nhưng Chúa Thánh Thần đang đưa ơn cứu độ vào lịch sử từng người và từng địa phương.

Chính tôi đã cảm nghiệm được sự kiện đó. Chúa hiện diện trong đời tôi, nhất là trong những giai đoạn tăm tối nhất. Người hiện diện để ủi an, để nâng đỡ, để soi sáng, để thứ tha, để chia sẻ, để cải hoá, để thanh luyện.

Từ kinh nghiệm bản thân, tôi có thể tiên đoán được sự chuyển biến tốt của lịch sử đang diễn ra âm thầm, qua những đổi mới các tâm hồn, do sức mạnh của Chúa Thánh Thần.  Tôi càng có lý để tin điều đó, khi nghĩ đến sự Đức Mẹ đang đồng hành với chúng ta trên đường truyền giáo.

Nhờ Mẹ Maria cầu bầu

 Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan: “Này là mẹ con” (Ga 19,26).  Tôi coi lời trối quí giá đó cũng dành cho mọi người sẽ được sai đi làm chứng cho Chúa.  Xin tạm bỏ qua lý thuyết cắt nghĩa lời đó.  Tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm.  Kinh nghiệm làm chứng điều này:  Đức Mẹ giữ một địa vị rất quan trọng trong việc chúng tôi làm chứng cho Chúa.

Nhiều người biết Đức Mẹ trước khi biết Chúa.  Nhiều nơi cầu nguyện với Đức Mẹ trước khi cầu nguyện với Chúa.  Đức Mẹ là nơi ẩn náu của những ai tội lỗi, là nguồn an ủi cho những ai lo buồn.   Đặc biệt, Đức Mẹ là hy vọng của những ai bé nhỏ, mọn hèn.

Riêng với những người làm chứng cho Chúa, Đức Mẹ dạy cho họ cách riêng tinh thần khiêm tốn, khó nghèo.  Bởi vì, để làm chứng cho Đấng cứu thế là Đấng rất khiêm tốn, khó nghèo, người ta không thể phản chứng bằng đời sống của mình trái ngược với khó nghèo khiêm tốn.

Hơn nữa, Chúa chỉ ban ơn biết làm chứng về Chúa cho những ai có tinh thần khiêm tốn.  Như lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn.  Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21).  Người sống bé mọn với Chúa, luôn là người sống bé mọn với Đức Mẹ và với Hội Thánh của Chúa.

Trên đây là một thoáng nhìn về con đường tôi theo Mẹ lên trời.  Tôi thấy rõ tôi không đi một mình.  Chúng tôi đi với nhau, trong tình hiệp thông và phấn đấu, luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa, để làm chứng cho Đấng Cứu độ.  Người là Tin Mừng cho mọi người.  Loan báo Tin Mừng, sống Tin Mừng là con đường Mẹ đã đi để lên trời.  Con cái Mẹ cũng theo Mẹ mà đi trên con đường đó, để về trời.

GM GB. Bùi Tuần

From: Langthangchieutim

Đức Cha Nguyễn Thái Hợp: “Công ty Formosa, một tổ chức ma mãnh”

Đức Cha Nguyễn Thái Hợp: “Công ty Formosa, một tổ chức ma mãnh”

Thanh Trúc

RFA


  Đức cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp tại đại bản doanh của Formosa ở Đài Loan để bày tỏ thái độ thay mặt cho hơn 90 triệu dân Việt.

 Courtesy of Pham Quang Long FB

Hơn một năm sau khi thảm họa môi trường biển, do công ty gang thép Formosa gây ra tại 4 tỉnh bắc  miền Trung, cũng là địa phương có Giáo phân Vinh do Đức Giám Mục Phao Lô Nguyễn Thái Hợp phụ trách. Đại diên cho những giáo dân cũng là ngư dân bị tác động bởi thảm họa, Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã dẫn đầu phái đoàn đến tại Đài Loan nơi có trụ sở chính của công ty Formosa để đòi công lý cho người bị tác động.

Trở về từ Đài Loan, Đức Giám Mục đã dành cho Thanh Trúc cuộc nói chuyện về chuyến làm việc. Trước hết ông cho biết:

Đức GM Nguyễn Thái Hợp: Với tính cách là Ủy Ban Hỗ Trợ Các Nạn Nhân Của Thảm Họa Môi Trường Biển, nhóm chúng tôi có  ba bốn người, rồi cũng có một số trong nhóm hiện ở Đài Loan như Cha Hùng. Đặc biệt tại Đài Loan chúng tôi được gặp một số luật sư, giáo sư, những thành viên của xã hội dân sự cũng đang trong tiến trình khiếu kiện chống lại thảm họa môi trường mà công ty Formosa gây ra trên chính quê hương của mình trong những năm qua. Tôi  rất vui mừng về chuyến đi đó.

Tôi thấy hồ sơ đó mặc dù họ  làm rất kỹ, nhưng Formosa cũng là một tổ chức ma mãnh, không  phải vô lý mà một cơ quan của Đức đã tặng họ danh hiệu “Hành Tinh Đen”.
-Đức GM Nguyễn Thái Hợp

Tôi cũng được đi thăm một số làng, thấy những nơi đó coi như hoang tàn bỏ trống, có lúc làng này có lúc làng kia  trực tiếp hưởng khói  của công ty Formosa tùy theo chiều hướng gió. Đến đó mới thấy cái thảm trạng.

Có những người dân Đài Loan, có lẽ bị công ty Formosa tuyên truyền như thể là chính phủ Việt Nam ép buộc họ phải trả 500 triệu USD cho người dân ở Kỳ Anh, Vũng Áng. Họ biến họ thành một thứ nạn nhân thì chúng tôi cũng có giải thích là chính phủ Việt Nam đang bắt tay với Formosa để làm  giảm nhẹ thảm họa môi trường, hơn nữa rất nhiều lần đàn áp những người ủng hộ các nạn nhân của thảm họa môi trường.

Thanh Trúc: Thưa Đức Cha Nguyễn Thái Hợp, nhiều người dân ở các tỉnh miền Trung nói rằng họ chưa  nhận được tiền bồi thường. Lúc qua Đài Loan chắc Đức Cha cũng có nêu điều đó ?

Đức GM Nguyễn Thái Hợp: Nói đa số chưa nhận được đồng nào thì cũng không đúng, có nhiều nạn nhân đã nhận được rồi nhưng mà có những nạn nhân vẫn chưa nhận được, con số đó thì ít hơn con số đã nhận. Vấn đề đặt ra là Nhà Nước với công ty Formosa tiên thiên xác định được nhận đền bù là 4 tỉnh  Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, nhưng Nghệ An là tỉnh thiệt hại cũng nhiều mà lại không được vào danh sách. Thành thử ra ai đưa ra  danh sách đó, dựa trên cái gì, tại sao Nhà Nước với công ty Formosa lại có thể tiên thiên xác định số tiền đền bù là bao nhiêu, ai được đền bù. Vấn đề công bằng và công lý thì chúng tôi cũng đã đặt ra với chính quyền tỉnh Nghệ An. Rất may nhà cầm quyền Nghệ An đã công nhận chuyện còn nợ của dân nhưng mà chưa có tiền để đền bù.Vấn đề  là đòi hỏi Formosa cũng như nhà cầm quyền trả lại cho dân  số tiền dựa trên phân tích cụ thể số thiệt hại của dân.

Hơn nữa tiền đền bù đó trên nguyên tắc cho đến cuối 2016  thì từ đó đến đây, từ rày về saunhư thế nào là  vấn để đặt ra.

Thanh Trúc: Thưa khi Đức Cha trình bày những vấn đề này với những người Đức Cha gặp bên Đài Loan thì họ có đóng góp ý kiến gì không?

Đức GM Nguyễn Thái Hợp: Chúng tôi đã học được khá nhiều kinh nghiệm của tổ hợp luật sư bên đó, học được kinh nghiệm của các giáo sư, nhất là Đại Học Đài Loan họ đã bỏ ra hàng năm trời cùng với các sinh viên để nghiên cứu về nước biển, về khói, để đưa ra một hồ sơ mang tính khoa học.

Trong một xã hội mà quyền ngôn luận quyền con người chưa được công nhận thì vấn đề khiếu kiện một công ty được nhà nước bảo trợ là chuyện rất khó, chúng tôi đang ở trong hoàn cảnh rất là bất thuận lợi.
-Đức GM Nguyễn Thái Hợp

Tôi thấy hồ sơ đó mặc dù họ  làm rất kỹ, nhưng Formosa cũng là một tổ chức ma mãnh, không  phải vô lý mà một cơ quan của Đức đã tặng họ danh hiệu “Hành Tinh Đen”. Họ cũng mượn luật sư và những luật sư đó cũng dùng những mưu mẹo để đặt những câu hỏi, nêu nghi vấn về những bằng chứng mà các nhà khoa học Đài Loan đưa ra để tiếp tục tranh kiện. Nhìn vậy để thấy  rằng có nhiều cái chúng tôi không thể đi vào con đường khiếu kiện vì Nhà Nước ở Việt Nam không cho phép, không tạo điều  kiện để có những nghiên cứu khoa học chính thức. Ngay cả đến bây giờ Nhà Nước chỉ tuyên bố là nước sạch hay nước không sạch dựa trên lời nói, tuyên truyền, nhu cầu chính trị chứ không dựa trên một phân tích khoa học nào.

Trong một xã hội mà quyền ngôn luận quyền con người chưa được công nhận thì vấn đề khiếu kiện một công ty được nhà nước bảo trợ là chuyện rất khó, chúng tôi đang ở trong hoàn cảnh rất là bất thuận lợi.

Thanh Trúc: Thưa Đức Giám Mục, lên đường đi tìm công lý cho nạn nhân Formosa ở Việt Nam, lệnh của bề trên hay lý do nào thúc đẩy ông đứng ra gánh vác việc này?

Đức GM Nguyễn Thái Hợp: Không có lệnh nào cả, nhưng mà luôn luôn có tiếng gọi giáo huấn của  xã hội Công Giáo, nhất là của Đức Giáo Hoàng Phan Xi Cô. Ngài mời gọi chúng ta đồng hành với các nạn nhân, đồng hành với người nghèo.

Hơn nữa  thuộc thành phần lãnh đạo của Giáo phận Vinh thì chúng tôi không thể khoanh tay trước những thiệt thòi của người dân ở đấy. Chính vì vậy chúng tôi lên đường  nói lên tiếng nói, làm được cái gì. Hơn nữa  Formosa là một ty ma mãnh, nhiều tiền nhiều thế lực, vấn đề không  phải ta  thành công hay không mà từ đó ta thành nhân, ta nói lên tiếng nói của công lý, và ít ra các nạn nhân cũng thấy có người đang đứng về  phía họ, đang muốn làm cái gì cho họ.

Thanh Trúc: Xin cảm ơn Đức Cha Phao Lô Nguyễn Thái Hợp về bài  nói chuyện này.

Phải chăng thất bại của TBT Nguyễn Phú Trọng và sự đổ vỡ đã cận kề?

Phải chăng thất bại của TBT Nguyễn Phú Trọng và sự đổ vỡ đã cận kề?

Kami
 
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (trái) bắt tay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại một cuộc họp của Quốc hội tại Hà Nội ngày 12 tháng 4 năm 2016.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (trái) bắt tay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại một cuộc họp của Quốc hội tại Hà Nội ngày 12 tháng 4 năm 2016.

 AFP
  

Không thể chối bỏ việc nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và đàn em thân tín đã cố ý làm trái để trục lợi cho phe cánh, nhóm lợi ích cũng như bản thân đã để lại những hậu quả vô cùng lớn trong việc tàn phá nền kinh tế quốc gia.

Chắc hẳn việc ông Trọng muốn tiêu diệt ông Dũng hoàn toàn không phải xuất phát từ lý do vì việc chống tham nhũng, làm trong sạch đảng hay quyền lợi của quốc gia mà hoàn toàn chỉ là việc tư thù cá nhân. Vì nếu không như thế thì làm gì có chuyện có lúc ông Trọng đã phải than thở rằng là “đánh chuột sợ vỡ bình”?

Việc Trịnh Xuân Thanh được bộ tham mưu của Tổng BT Nguyễn Phú Trọng chọn làm ngòi nổ để khởi động cuộc chiến, nhằm hủy diệt thế lực chính trị của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là điều có thật. Từ cái mắt xích Trịnh Xuân Thanh  chia thành 2 hướng, một hướng nhắm tới Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng, còn hướng kia là tới Bí thư Thành ủy TP. Hồ Chí Minh Đinh La Thăng. Song 2 hướng cũng tìm về một cái đích chung là ông Ba Dũng. Cho đến thời điểm này, hai cứ điểm Vũ Huy Hoàng và Đinh La Thăng đã coi như bị ông Trọng xóa sổ và sẽ có thêm nữa khi cái “lò tôn” của Tổng Bí thư Trọng nóng lên. Khi đó ông Nguyễn Phú Trọng có thể xử lý hình sự các đối tượng vừa kể. Nhưng cho đến lúc này cái đích cuối cùng vẫn là nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Và vào lúc này họ – phe ông Trọng đã và đang rờ tới đại gia Trầm Bê, một kẻ thân tín và kẻ tay hòm chìa khóa và đang xục xạo Ban chỉ đạo Tây Nam bộ một trong những cứ điểm quan trọng tiến tới xử lý ông Ba Dũng là việc làm cần thiết.

Nếu với tốc độ thừa thắng tiến tới, khi mà “Củi khô, củi vừa vừa cháy trước, rồi cả lò nóng lên, tất cả các cơ quan vào cuộc, có ai đứng ngoài đâu. Và không thể đứng ngoài được. Cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được, thế mới là thành công.”, như phát biểu của Tổng BT Nguyễn Phú Trọng tại cuộc họp Ban Chỉ đạo PCTN ngày 31/7/2017. Như thế thì chả mấy chốc nguyên Thủ tướng Dũng cũng sẽ trở thành một Bạc Hy Lai của Trung Quốc, một nạn nhân của chiến dịch đả Hổ diệt Ruồi của ông Tập Cận Bình. Với kết cục là Bạc Hy Lai bị tù chung thân, tịch thu hết tài sản và bị tước vĩnh viễn quyền tham gia các hoạt động chính trị. Điều này không chỉ riêng ông Nguyễn Phú Trọng muốn mà cả ban lãnh đạo Bắc Kinh cũng muốn điều như thế.

Nhìn sang Trung Quốc, Chủ tịch Tập cận Bình làm được điều đó vì ông Tập nắm quyền lực hầu như tuyệt đối, quyền lực của họ Tập bao trùm cả công an và quân đội Trung Quốc. Có khả năng “nhất hô, bá ứng”. Còn ở Việt Nam muốn biết ông Trọng có khả năng làm được hay không thì cứ điểm xem quyền lực trong tay của ông Trọng hiện nay có được những gì?

Trong Bộ Quốc phòng uy tín của ông Nguyễn Phú Trọng có vẻ lớn, song việc tay chân của ông Trọng chỉ là một lũ quan văn xuất thân từ sĩ quan chính trị “văn dốt, vũ dát” như Ngô Xuân Lịch, Lương Cường… được tin tưởng cho nắm giữ quyền bính, trong lúc các tướng lĩnh giỏi trận mạc thì bị vô hiệu hóa và bị lũ quan văn đè đầu cưỡi cổ. Bức thư của Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương tố cáo Đại tướng Ngô Xuân Lịch (http://bit.ly/2ufrGsy) gần đây xuất hiện trên mạng đã phần nào cho thấy điều đó. Việc Nguyễn Phú Trọng và Ngô Xuân Lịch là 2 trong 19 UV Bộ Chính trị bỏ phiếu thuận (2/19) quyết định việc Việt Nam rút việc thăm dò dầu khí khỏi lô 136 -03, bãi Tư Chính đã khiến các tướng lĩnh quân đội phe chủ chiến vô cùng phẫn nộ. Nhất là Trung tướng Phan Văn Giang, Tổng tham mưu trưởng người giữ trọng trách điều binh khiển tướng vào lúc này.

Còn bên Bộ Công an thì Tổng BT Nguyễn Phú Trọng dẫu cố gắng tham gia đảng ủy Công an Trung ương để nắm quyền lực, song tiếng nói của ông Trọng hầu như không có trọng lượng, vì lãnh đạo Bộ Công An hiện nay gồm 8 Thứ trưởng và kể cả Bộ Trưởng Tô Lâm là 9 đều là những người được nguyễn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cất nhắc. Chưa kể đến 4/8 thứ trưởng toàn là đồng hương Ninh Bình của ông Trần Đại Quang. Việc thời gian vừa qua Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không dám rời thủ đô Hà Nội để đi đến các tỉnh khác, nhất là các tỉnh xa biên giới Việt Trung, từ Hà Nam trở vào phía trong, vì lý do sợ không an toàn và vì sợ nhỡ xảy ra việc gì bất thường thì đặc nhiệm của Bắc Kinh không ứng cứu được.

Nói như thế để thấy việc ông Nguyễn Phú Trọng muốn hủy diệt ông Ba Dũng cũng chẳng dễ như nhiều người tưởng.

Quan trọng hơn, với 2 nhiệm kỳ nắm giữ chức thủ tướng ông Ba Dũng đã xây dựng một hệ thống chân rết ở mọi ngóc ngách trong bộ máy nhà nước từ trung ương tới các địa phương, ông Trọng có muốn nhổ hết thì không thể làm được trong một thời gian ngắn chưa đến 2 năm. Chưa kể đến việc ông Nguyễn Tấn Dũng nhận được sự ủng hộ của các đại thần trong đảng như Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh và Đỗ Mười khi uy tín còn bao trùm.

Trong lúc Ủy Ban Kiểm tra TW đang xục xạo ở Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ – cơ quan lãnh đạo toàn bộ vùng đồng băng sông Cửu Long để xử lý các sai phạm ở cơ quan này, thì có thông tin đáng chú ý cho rằng, gần đây nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và gia đình đã chuyển về ở tại nhà khách Bộ Tư lệnh Quân khu 9.

Có người không ít người đặt câu hỏi rằng, không lẽ ông Nguyễn Tấn Dũng và các đàn em của ông ta ngồi im chịu chết và tại sao họ không có bất kỳ động thái phản ứng nào?

Có lẽ câu trả lời sẽ là, không dễ gì “con rắn độc” Nguyễn Phú Trọng nuốt nổi “con ếch” Nguyễn Tấn Dũng, vì tương quan bàn cờ chính trị Việt Nam không cho ông Tổng BT Trọng làm được như họ Tập ở Bắc Kinh. Nhất là khi thế và lực của phe Nguyễn Tấn Dũng và Trần Đại Quang vẫn còn không hề nhỏ, việc họ đã đón Đinh Thế Huynh về an dưỡng tại Phú Quốc sau hơn 2 tháng điều trị nhiễm độc phóng xạ tại Nhật bản đã cho thấy điều đó. Hiện tượng hàng loạt các lãnh đạo Việt Nam gần đây mắc chứng bệnh giống như ông Đinh Thế Huynh đã khiến nhiều người buộc phải tránh xa ông Trọng nếu họ không muốn chết sớm.

000_Hkg10247972-400.jpg
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và TBT Nguyễn Phú Trọng tại lễ khai mạc Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 21 tháng 01 năm 2016. AFP

Theo một bản tin của VOV mới đây, trong mục hoạt động của Nguyên Thủ tướng dưới nhan đề “Họp mặt Đảng ủy viên Đảng ủy Quân khu 9 các thời kỳ” (http://bit.ly/2vBY3kR) cho biết, sáng 25/7, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 tổ chức họp mặt các Đảng ủy viên Đảng ủy Quân khu qua các thời kỳ.

Tham dự buổi lễ có các vị nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước: nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu; nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh; nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng; nguyên Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh; cùng các vị lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Đảng ủy Quân khu 9 qua các thời kỳ.

Tại buổi lễ, Trung tướng Nguyễn Hoàng Thủy, Tư lệnh Quân khu 9 nhấn mạnh: việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ Quân khu đối với lực lượng vũ trang là một nguyên tắc, là nhân tố cơ bản quyết định đến sự lớn mạnh, trưởng thành và chiến thắng của lực lượng vũ trang Quân khu. Đồng thời khẳng định Quân khu 9 sẽ trở thành một pháo đài bất khả xâm phạm trước mọi kẻ thù.

Tại buổi họp mặt, còn có sự có mặt của Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh, tại đây bà Phó CTN nhấn mạnh: Sẽ sát cánh cùng Đảng bộ và lực lượng vũ trang Quân khu 9 để xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Lực lượng vũ trang Quân khu 9 cần chủ động phối hợp chặt chẽ với Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ và cấp ủy, chính quyền các địa phương trong khu vực ĐBSCL, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn…

Theo các chuyên gia phân tích chính trị về Việt Nam thấy rằng, việc xuất hiện của các đại thần như nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu; nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh; nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng; nguyên Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh… tại trụ sở Bộ Tư lệnh Quân khu 9 dưới danh nghĩa họp mặt là một động thái bất thường của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Đó được coi là một hành động có tính toán nhằm gửi đi một thông điệp đến Tổng BT Nguyễn Phú Trọng rằng họ sẽ không chịu ngồi im để chờ chết, vì ai cũng biết Quân khu 9 vốn là thánh địa và là nơi họp bàn những việc cơ mật của nguyên TT Nguyễn Tấn Dũng.

Hiện nay truyền thông Đức cho biết, vụ việc Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc bởi tình báo Việt Nam đã có nhiều hệ lụy trên nhiều bình diện khác nhau cho các quan hệ Đức-Việt. Việc trục xuất tùy viên quân sự làm việc cho tình báo đã làm cho tình hình càng tăng thêm căng thẳng. Bây giờ thì việc hợp tác của hai nước cũng đang đứng trước một thời kỳ khó khăn. Theo đó, Chính phủ CHLB Đức đang xem xét bảo lưu việc ngưng chi trả các khoản tiền viện trợ cho Việt Nam.

Một cán bộ cao cấp đã nghỉ hưu cho biết, không chỉ sự kiện Bãi Tư Chính mà việc khủng hoảng ngoại giao của Việt Nam đối với phương Tây sau vụ Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin, sẽ tiếp tục lan rộng với các biện pháp trả đũa thẳng thừng từ CHLB Đức nói riêng đến EU nói chung. Điều này sẽ tạo ra các tình huống phức tạp có khả năng xoay chuyển tình thế trên bàn cờ chính trị Việt Nam vào lúc này. Và nhiều khả năng phía Việt Nam sẽ chấp nhận trả lại nghi can Trịnh Xuân Thanh và chờ đợi các thủ tục hợp pháp từ phía Đức để tiến hành thủ tục dẫn độ nhằm hạ nhiệt.

Một nguồn tin chưa được kiểm chứng cho biết, theo cảnh sát Berlin đã có một nhân vật thứ 3 người Á Châu lạ mặt đã sử dụng điện thoại Iphone của Trịnh Xuân Thanh để quay lại cảnh bắt cóc, rồi sau đó cầm điện thoại (đã mở khóa sẵn) chuyển lại cho an ninh Đức và nói là ông đã vô tình nhặt được tại nơi bắt cóc trong ngày 23/7/2017. Khi cảnh sát Berlin nghi ngờ và đã tra hỏi người đàn ông đưa điện thoại cho an ninh, thì ông này đã khai thật rằng, một người đã trả ông 50 EURO để nhờ ông giao chiếc iPhone cho Cảnh sát và chuyển lại lời là iPhone này nằm ở hiện trường bắt cóc. Vẫn theo Cảnh sát Berlin, điều này đã càng khẳng định rằng mật vụ Việt Nam đã cố gắng dàn dựng một màn kịch bắt cóc để thực hiện cho một kế hoạch có động cơ chính trị.

Có nghĩa là, việc Bộ Công An “bố trí” đưa Trịnh Xuân Thanh sang Đức rồi cũng Bộ Công An chủ động “bắt cóc” Trịnh Xuân Thanh về Hà Nội, để khai thác và giam giữ theo một chế độ nghiêm ngặt đặc biệt thì Tổng cục 2 và Tổng Bí thư Trọng đâu biết Trịnh Xuân Thanh đã khai những gì? Và nếu như trả lại họ Trịnh cho CHLB Đức thì khả năng CHLB Đức cho phép phía Việt Nam dẫn độ Trịnh Xuân Thanh về nước chỉ là con số không. Vậy rõ ràng là, họ tổ chức bắt cóc Trịnh Xuân Thanh hoàn toàn chỉ nhằm mục đích gây tai tiếng, hay nói cách khác nếu không muốn nói là họ chỉ muốn diễn kịch trong cuộc chiến tranh chấp quyền lực.

Không chỉ thế nhiều tin đồn đoán cho rằng ông Dũng có nhiều khả năng lật ngược được thế cờ ở phút thứ 89, nếu như ông Dũng biết khơi dậy lòng yêu nước, chống Trung Quốc từ các số đông các tướng lĩnh trận mạc, vốn làm nhiều nhưng ăn ít và có thừa sự bất mãn.

Hơn bao giờ hết ban lãnh đạo Hà Nội đang phải ở trong tình cảnh không chỉ tứ bề thọ địch, mà trong nội bộ lãnh đạo đảng cũng càng ngày càng bung bét hơn bao giờ hết, kể cả vấn đề sức khỏe của các lãnh đạo cao cấp. Tới nước bọn họ đã dùng cả danh dự cũng như quyền lợi đất nước như trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, để triệt hạ lẫn nhau, thì khó có thể dự báo một viễn cảnh tăm tối nhất, kể cả sự đổ vỡ cũng là điều rất có thể.

Ngày 08 tháng 08 năm 2017

© Kami