Ông Vũ Đức Đam cần xin lỗi quốc hội và dân Việt lẫn nước Đức

 
  
 
 Nguồn:  Thuong Phan shared Vu Hai Tran‘s post
 
 
 
Image may contain: 1 person, eyeglasses and suit
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
Vu Hai Tran added 3 new photos.Follow

 

Ông Vũ Đức Đam cần xin lỗi quốc hội và dân Việt lẫn nước Đức vì đã thông tin sai về mạng xã hội Đức! (Xin cư dân mạng chia sẻ và cùng yêu cầu này).

Ngày 17/11/2017, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói trên diễn đàn Quốc hội về mạng xã hội. Ông nói vo, được bà Chủ tịch Quốc hội khen hay, cho thêm 10 phút. Ông dẫn nhiều số liệu về mạng xã hội Việt nam và các nước khác, có vẻ các ông bà nghị tin sái cổ. Tuy nhiên một số thông tin ông cung cấp không chính xác.

Hôm qua, trong một STT tôi đã phân tích ông VĐĐ đã sai khi khẳng định Việt nam không thu thuế được từ doanh thu quảng cáo hàng trăm triệu đô la từ Việt nam của hai ông lớn Facebook và Google, vì thực tế các doanh nghiệp Việt chuyển tiền cho hai ông lớn này phải trích trả hộ thuế nhà thầu nước ngoài cho Việt nam.

Đặc biệt ông VĐĐ đã thông tin sai về mạng xã hội Đức, khi ông nói “Chỉ 37% người Đức dùng mạng xã hội, bởi họ biết rằng dùng là bị lấy mất thông tin cá nhân”. Ý nói rằng, dân Việt dễ dãi quá, đua nhau dùng mạng xã hội và bị các hãng cung cấp dịch vụ (chủ yếu của nước ngoài) lấy mất thông tin cá nhân. Tôi không rõ ông Đam lấy số liệu trên từ nguồn nào. Trong khi theo những số liệu chính thức từ nước Đức về người sử dụng Internet và sử dụng mạng xã hội tại nước này như sau:

Năm 2016, có 79% người Đức sử dụng Internet, và 80% số người sử dụng Internet dùng mạng xã hội. (Trong số người sử dụng mạng xã hội, 88% sử dụng Youtube, 87% sử dụng Facebook). Như vậy, trong năm 2016 trên 63% người Đức sử dụng mạng xã hội, năm 2017, tỷ lệ này còn gia tăng. (Xem nguồn http://social-media-atlas.faktenkontor.de/2015/index.php và https://de.statista.com/…/entwicklung-der-internetnutzung-…/)

Có lẽ ông VĐĐ do không biết tiếng Đức, nên không thẩm tra lại con số ” chỉ 37% người Đức sử dụng mạng xã hội”, đúng ra là “chỉ 37% người Đức không sử dụng mạng xã hội” và “có đến 63% người Đức sử dụng mạng xã hội”.

Ông Vũ Đức Đam cần xin lỗi quốc hội và dân Việt lẫn nước Đức vì đã thông tin sai về mạng xã hội Đức!
http://cafebiz.vn/pho-thu-tuong-vu-duc-dam-chi-37-nguoi-duc…

Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính , vì Nước Trời là của họ .

 
 
 
From facebook:  Mai Sương shared Mai Sương‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person, text
Image may contain: 1 person, text

Mai Sương added 2 new photos.

 

Cứ mỗi năm , đến ngày 1/11 – lễ các thánh nam nữ , một đại lễ của người Công giáo , thì chúng ta lại được nghe Chúa Giêsu công bố HIẾN CHƯƠNG NƯỚC TRỜI ( Tám mối phúc thật ).

Trong hiện tình đất nước hiện nay , tôi chú ý đến mối phúc cuối cùng : ” Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính , vì Nước Trời là của họ . Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta xỉ vả , bách hại và vu khống đủ điều xấu xa . Anh em hãy vui mừng hớn hở vì phần thưởng dành cho anh em ở trên Trời thật là lớn lao ” ( Mt 5 , 10 – 12) . Vâng , mối phúc thứ 8 này khiến tôi nghĩ đến những người đấu tranh dân chủ chân chính ở Việt nam , họ đã dấn thân đấu tranh cho SỰ THẬT, CÔNG BÌNH , BÁC ÁI … và cái giá họ phải trả là bị vu khống , bắt bớ , tù đầy … tôi tự hào vì chị NGUYỄN NGỌC NHƯ QUỲNH ( mẹ Nấm ) là một trong những người Công giáo dám đánh đổi tất cả để đấu tranh cho SỰ CÔNG CHÍNH !

Ta ngỡ mất, mà chưa đành đánh mất,

Suy Tư Tin Mừng tuần 33 thường niên năm A 19/11/2017

 Tin Mừng (Mt 25: 14-30)

Bấy giờ, Đức Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Người kia sắp đi xa, gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông đưa cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn, và gây lời được năm yến khác.

 Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy đến và yêu cầu họ thanh toán sổ sách. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây.” Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây.” Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông vẫn còn nguyên đây này” Ông chủ đáp: “Anh thật là tôi tớ xấu và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”

 “Ta ngỡ mất, mà chưa đành đánh mất,”

“Bởi mùi hương ngự trị, cánh hoa tàn.”

(dẫn từ thơ Vương Ngọc Long)

            Mất tình/mất tiền, nào mấy sợ. Bởi, tình/tiền xưa nay còn đó vẫn rất hiền. Cái dễ mất nhất, là niềm tin Chúa gửi nơi lòng dạ con người từ xưa đến nay. Lòng dạ ấy nay đà thấy ở trình thuật, ngày Chúa nhật.     Trình thuật Chúa nhật về niềm tin để luột mất, là ý tứ và ý từ được thánh Mat-thêu đềcập đến qua dụ ngôn kể lại hôm nay. Dụ ngôn, nay kể về “yến bạc” giao cho các người đầy tớ để sinh lời. Dụ ngôn, nay mang nặng tình tiết nối tiếp truyện kể đọc tuần trước, cũng đề cập việc sử dụng và đầu tư của cải vào mọi chuyện.

Thời xưa,“yến bạc” là đơn vị đo lường trọng lượng. Đó, là đồng cân nặng nhất trong hệ thống cần lường. Yến bạc, được dùng để cân đo vàng/bạc, kim loại, và đồ đồng. Mãi về sau, con người mới dùng nó làm đơn vị tiền tệ. Với người Do thái, một yến bạc tương đương với 3,000 shekels, tương tự định mức cân lượng mà người thường mang vác được.

Lịch sử sau thời của Chúa và vào thời thánh Mát-thêu, thì một yến bạc tương đương với 6,000 quan tiền người La Mã. 6,000 quan tiền, tương đương với lợi tức mà công nhân bình thường ở huyện có khả năng kiếm được trong vòng 15 đến 20 năm. Đó, cũng là lối nói thông thường về “một tấn tiền quan” người La Mã.

            Người chủ được nói đến ở dụ ngôn, là người bận rộn, phải đi xa một thời gian không biết trước được hạn định. Ông trao cho 3 người tớ của ông 3 lượng tiền khác nhau. Một người, những 5 yến bạc. Kẻ kia chỉ hai yến. Còn người chót, chỉ mỗi yến một. Tất cả đều tuỳ khả năng của mỗi người.

Nhưng, ông lại không cho họ biết phải làm gì với số bạc ấy. Ông coi mọi người như kẻ chín chắn. Chững chạc. Ông rất tôn trọng tự do và sức sáng tạo, của mỗi người. Và, ông cũng chẳng hề nghĩ là ông đã trao phần ít ỏi cho người đầy tớ thứ nhì và thứ ba. Bởi, mỗi yến bạc khi ấy nặng cả tấn tiền.

            Về cốt truyện thì ai cũng đều đã tỏ. Hai người tớ đầu, đều biết mình phải làm gì với số lượng yến bào do chủ ủy thác. Tức, sử dụng nó một cách mẫn cán, hiệu quả. Cả hai người này đều làm lợi cho chủ nhiều điều thấy rất rõ. Trong khi đó, người đầy tớ cuối lại không hành xử hệt như thế. Y đào đất chôn tiền quan xuống đó, tưởng rằng làm thế tức tạo sự an toàn, đúng đắn như bỏ vào két sắt/quỹ tiết kiệm, mà chẳng biết đầu tư cũng chẳng sinh lời sinh lãi.

            Đó là biện pháp an toàn tối thiểu mà người khờ-khạo nhất cũng nghĩ ra. Tức, không sinh lợi nhưng cũng chẳng làm hại, chẳng thua lỗ điều gì. Tức, không tạo tăng trưởng, nhưng cũng chẳng làm ai thiệt thòi hoặc mất mát. Y ta đem về cho chủ đúng số lượng buổi ban đầu do chủ giao, chẳng dùng vào việc chi hết. Cất như thế, có bỏ công tìm kỹ cũng chẳng thấy được dấu tay, hoặc vết tích.Thật ra, y ta chẳng làm điều gì sai trái cả vì có làm gì đâu mà có sai sót.

            Dụ ngôn cũng cho thấy: hai người đầy tớ đầu được chủ tặng thưởng rất hậu hỹ. Lại được chủ gọi đích danh “tôi tớ lương hảo và trung trực”. Tức, nhận nhiều trách nhiệm sẽgặt hái được nhiều niềm vui. Trong khi đó, người tớ chót bị chủ cho là thành phần bất hảo/lười biếng, đáng trách. Nói đúng ra, phải gọi anh ta là kẻ vô tích sự, chẳng làm được gì nên chuyện, loại người ăn không ngồi rỗi, rất đáng buồn. Thế nên, họ mới bị lên án, dù chẳng lỡ lầm hoặc sai trái.

            Có lẽ khi viết lên dụ ngôn này, thánh sử Matthêu đã mang trong đầu ý tưởng về hai nhóm người Do thái khá quan trọng, vào thời ấy, nếu đem so với nhóm thứ ba. Hai nhóm đầu, là những người đại diện cho cộng đoàn Qumran. Nhóm thứ ba tượng trưng cho đám Biệt Phái, rất Pharisêu.

            Qumran là nơi ta tìm ra Cảo Bản Biển Chết. Ở nơi đó, thấy có cộng đoàn sống chia cách/tách rời xã hội mình đang sống. Tách và rời, khỏi đền Giêrusalem để rồi đi vào chốn sa mạc lặng lẽ, trong hang động. Hang động họ sống, quanh Qumran, bị người La Mã phá huỷ vào thời chinh chiến suốt từ năm 68 đến 70 sau Công nguyên. Nên, cũng chẳng tồn tại khi thánh Matthêu viết lên Tin Mừng của thánh nhân vào niên biểu thứ 85. Và, thánh nhân cũng thừa biết là nhóm người này từng chôn giấu yến bạc đạo đức ở đâu đó, trong hầm tối của chính mình.

            Pharisêu là nhóm người có mặt nhiều hồi thánh Mat-thêu còn sống. Họ là những đối tác chuyên kình chống lại thánh nhân. Vào dạo trước, Đức Giêsu cũng có cảm tình với những người này. Và ngược lại, họ cũng biết điều với Ngài trong nhiều chuyện.

Nhưng 40, 50 năm về sau, thế giới của họ đã biến đổi một cách khác hẳn. Sau ngày đền thờ Giêrusalem bị phá huỷ, đám Pharisêu lại trổi lên thành nhóm lãnh đạo dân Do Thái quyết tập hợp lại với cuộc sống ở ngoài đời. Trước thời thánh Matthêu sống, đám Pharisêu đã củng cố chỗ đứng của họ và phô trương cho mọi người thấy cung cách chỉ biết sống theo luật và luật.    

            Và từ đó, họ tìm cách rút khỏi tầm ảnh hưởng của người La Mã để còn áp đặt mọi chuyện lên dân con của chính mình. Nói theo ngôn từ đạo đức, thì thời đó, đám Pharisêu là nhóm hướng dẫn việc đạo hạnh quyết đưa mọi người rời thế giới thực tại thời bấy giờ. Họ chính là những người cột chặt tinh thần câu nệ lề luật sau hàng rào bảo vệ của Torah.

            Thánh Matthêu chẳng ưa gì nhóm người này. Thánh nhân chỉ muốn sống theo tinh thần của Đức Giêsu chủ trương bằng vào tương quan cởi mở, gọn gàng và nhẹ nhàng hơn. Thánh nhân chủ trương tinh thần biết sử dụng các “nén bạc” do Đức Giêsu và Thần Khí Ngài tặng ban. “Nén bạc” nói ở dụ ngôn hôm nay, không chỉ mang nghĩa kim tiền/của cải thôi; nhưng, còn biểu trưng quà tặng về năng khiếu như khi ta đề cập đến kỹ năng âm nhạc, ngôn ngữ, toán học hoặc những thứ khác.

            Thông điệp thánh Mátthêu gửi mọi người bằng dụ ngôn hôm nay, luôn mang tính giản đơn, thẳng thắn, trực tiếp. Ý thánh sử muốn nói, là: ân huệ Chúa ban cho mọi người vẫn thừa thãi, tràn đầy, không cạn tiệt. Nếu ta lại đem chôn ân huệ Ngài ban xuống đất, khác nào người đầy tớ vô tích sự, kể ở trên.

                                                     Truyện dụ ngôn hôm nay còn làm người đọc liên tưởng đến chuyện “Trân Châu Cảng”. Ở cảng này, tầu thuyền neo đậu đâu nào có nghĩa mình sẽ an toàn thoải mái mãi suốt đời? Chỉ hiện diện sống ở đó thôi, đâu có nghĩa mình sẽ được an toàn cả phần linh thánh lẫn mặt đời.

            Tình tự chuyên lo sống an toàn, được ghi rõ ở nhiều thông điệp được Đức đương kim Giáo Hoàng Bênêđíchtô XVI tỏ cho giới trẻ biết trên báo đài lẫn Đại Hội Giới Trẻ ở Cologne, Sydney lẫn Madrid. Đức Giáo Hoàng đề cập đến Đạo Chúa như tình yêu cao cả, và mặc khải quý hiếm.

Đối với ngài, làm tín hữu Đức Kitô là nhận lãnh ân huệ cao cả và quý hiếm Chúa vẫn ban. Ân huệ Ngài ban cho mọi người, sẽ là đôi cánh tiên để ta bay cao vút, lên cõi tiên. Ân huệ Chúa ban, còn là sứ mạng gửi đến mọi tín hữu. Sứ mạng ấy, là dự án để ta thực hiện vào mai ngày. Là, đem chân, thiện, mỹ vào cuộc sống rất thực để rồi ta tập trung đời mình vào những gì quan yếu, thiết thực thôi.

             Đức Giáo Hoàng từng bảo: giả như Hội thánh mình biết sống thực như thế, ắt hẳn cuộc sống của mình sẽ mãi mãi trẻ trung, suốt mọi thời. Có sống như thế, thánh hội của Chúa sẽ không bao giờ trở nên chai lì, cằn cỗi. Bởi, Hội thánh là hội của các thánh biết kết hiệp với Chúa, tức cội nguồn tuổi trẻ, rất sống động. 

            Nay, điều cần là mỗi người và mọi người nên để cho qua đi tâm tư mỏi mệt và tâm tình nhiều huỷhoại. Để rồi, sẽ hướng nhìn về phía về nơi có sự cao cả đích thực là di sản của Đạo Chúa. Đó, còn là “nén bạc” mà Chủ Tể vũ trụ đã trao cho mỗi một người, trong cuộc đời. Đó, là sứ mệnh khiến ta chọn lựa. Chấp nhận. Sứ mệnh, là: sử-dụng nén bạc Ngài trao hầu xây dựng tương lai mai ngày cho thế giới mình chung sống. Thế nên, hãy dấn bước thâm trầm mà tiến tới. Tiến về phía trước mặt, dù đời người muôn mặt, để còn sinh lợi “nén bạc’ hiếm quý Chúa trao ban, cho ta và cho mỗi người.

            Trong tâm tình cảm kích chấp nhận nén bạc Ngài ban, ta lại sẽ ngâm nga lời ca, còn đậm nét:

 “Xa tít tắp từ rừng xưa cổ tích,

Cỏ xanh mềm ảo hoá giấc phù vân.

Mùa thu ấy đôi mắt buồn man mác,  

Ngong ngóng chờ hoài niệm hoá rêu xanh.”

(Vương Ngọc Long – Đêm Nguyệt Quỳnh)

           Nguyệt Quỳnh đây, có thể không là “nén bạc” quý hiếm Chúa gửi gắm. Nhưng, vẫn là huệ ân/ân huệ mọi người trông ngóng biến thành những gì có lợi cho mình, cho mọi người, ở đời.

            Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.

Anh không chết đâu em,

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 33 thường niên năm A 19/11/2017

 “Anh không chết đâu em,”

anh chỉ về với mẹ mong con.
Anh vẫn sống thênh thang,

trong lòng muôn người biết thương đời lính.”

(Trần Thiện Thanh – Anh Không Chết Đâu Anh) 

(Rôma 12: 10-13)                  

Ấy chết! Đang sống đành rành như người thường là những người sẽ chết bất cứ lúc nào, mà sao anh cứ hát những lời thế? Hát thế, thật như “trù ẻo” tôi và bạn, vẫn từng muốn sống hết đời mình, cho trọn vẹn.

Thôi thì, anh muốn hát thế nào thì hát, nhưng cứ hát chữ “chết chóc” hoặc “chết bất đắc kỳ tử” là tôi đây thấy rợn xương với xương sườn rồi đấy anh ạ, hỡi Trần Thiện Thanh, rất lành của tôi và của bạn.

Thôi thì, anh đã hát rồi, thì tôi nay nghe tiếp những lời lẽ khác, như sau:

“Anh không chết đâu anh, người anh hùng mủ đỏ tên Đương,
Tôi vẫn thấy đêm đêm một bóng dù sáng trên đồi máu.
Nghe trong đêm kêu gào từng tiếng súng pháo đếm mau.
Và tiếng súng tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi anh đi.

Anh, anh không chết đâu em, anh chỉ về với mẹ mong con.
Anh vẫn sống thênh thang trong lòng muôn người biết thương đời lính.
Trong tim cô sinh viên hay buồn thường nhắc nhở những chiến công.
Chuyện nước mắt ướt sân trường đại học chuyện anh riêng anh riêng anh.
(Trần Thiện Thanh – bđd)

Về nỗi chết, hôm nay bạn và tôi, lại có những giòng chảy ý-tưởng cứ chảy mãi không ngừng, một thần học. Thần học đây, là môn học về thần linh, thánh ái có những điều rất cần để ý. Hệt như tác-giả ở bên dưới từng biện luận. Thế nhưng, trước khi đi vào luận-giải những tư-tưởng và/hoặc tâm-tư rất tưởng-tượng, mời bạn/mời tôi, ta nghe thêm những lời sau đây:

“Ôi đất mát trên đồi xanh tình yêu khóc ngất bên cỏ tranh
Đâu cánh dù ôm gió, đây cánh dù ôm kín đời anh
Trong những tiếng reo hò kia lẻ loi tiếng súng anh nhiệm màu
Ôi tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không anh

Không, anh không, anh không chết đâu em anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua
Tôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân
Giọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh cho anh …”

(Trần Thiện Thanh – bđd)

Và thêm vào đó, là những giòng kể lể rất chuyện đời của con người, mà rằng:

“Sáu giờ sáng. Bà lão bảy mươi tuổi , loắt choắt như chim sẻ ngồi ở bậc thềm ngắm bình minh. Có đôi chim nào dậy sớm đang ríu rít trên ngọn cây gần đó. Nhưng bà còn dậy sớm hơn chúng dù luôn thức tới khuya lơ để săn sóc cho chồng. Nhiều năm rồi, kể từ khi chồng bà bị tai biến. Cũng nhiều năm rồi, sử dụng đồ vật hay máy móc trong các phòng, xê dịch từ góc này sang góc khác lúc làm việc nhà, tất cả bà đều thao tác thành thục và chính xác bằng quán tính chứ không cần nhìn rõ qua cặp kính dày cộm.

Bẩy giờ bà trở vào phòng ngủ, Ông đang thở đều, lồng ngực nhẹ nhàng nhấp nhô lên xuống, đôi mắt nhắm kín. Nhưng một giọng nói thốt ra rõ ràng: “Anh thức rồi, mình à”. Bà mỉm cười: “Để em lấy khăn và thuốc nhỏ mắt cho mình.”

Ông dùng tay phải lau kỹ mặt với chiếc khăn ướt âm ấm. Cách nay nhiều năm cánh tay trái bị hỏng vì tai nạn lao động, thế rồi sáu tháng trước, chân phải bị tổn thương, ông đành để bác sĩ tháo khớp. Ông chỉ còn sử dụng được một cánh tay. Có lần ông bảo bà: “Anh chẳng còn gì cả,mình nhỉ?” Bà vỗ vỗ lên ngực ông: “Còn nhiều chứ và phần tốt nhất ở đây này”.

Khi ông đã sẵn sàng, bà nhấn nút điều khiển nâng chiếc giường dựng lên để ông dễ ngồi dậy, rồi giúp ông ngồi vào xe lăn. Trong phòng tắm bà giúp ông cạo mặt, làm vệ sinh cá nhân buổi sáng, thay áo quần…Đã lâu rồi, mọi việc lớn nhỏ hàng ngày ông đều phải nhờ đến bà. Có lần ông hỏi: “Mình chưa bỏ anh chứ?” Và bà lắc đầu, cười: “Đời nào! Đã ngần ấy năm mà…”

Hai người vào bếp ăn sáng. Trên bàn, các món đã bày biện sẵn sàng, hai ông bà ngồi đối diện nhau, hai bàn tay phải vói qua mặt bàn và mười ngón tay lồng vào nhau, nắm chặt. Họ cùng nhau cầu nguyện… Trong lúc cầu nguyện, nước mắt ông lặng lẽ lăn dài xuống đôi má nhăn nheo. Uống xong tách cà phê, ông bảo bà: “Giá mà biết có ngày sẽ như thế này, mình chẳng đời nào chịu ra nhà thờ với anh, mình nhĩ?”

Bà nhìn thẳng vào mắt ông, nhỏ nhẹ: “Mình biết không, chỉ cần thấy mình cười, thấy ánh mắt mình nhìn em, thế là quá đủ rồi. Em chẳng còn mongmuốn thay đổi gì hết, ngoại trừ một điều. Đó là, nếu như mỗi năm, giá như em có thể thế chỗ mình một nửa thời gian, để mình lại được chăm sóc em”. (Truyện kể trích từ điện thư trên mạng)

Truyện kể ở trên, bạn và tôi có trích-dẫn từ điện-thư hoặc thư tay gửi từ đâu, dù là bưu điện hay vi-tính cũng không thành vấn-đề. Chỉ thành như thế, khi tôi và bạn, ta cứ đinh ninh rằng: truyện ở đây không phải để kể qua loa cho xong chuyện rồi thôi; nhưng còn là bài học để đời giúp ta sống vui, quên chết, mỗi thế thôi.

Truyện, có kể ra đây lại cũng chỉ để làm bàn đạp ngon trớn giúp bạn và tôi ta cứ thế tiếp tục bàn về những chuyện “không vui” cứ xảy đến mỗi ngày ở huyện dân gian hay trong khuôn viên nhà Đạo, cho mọi người lưu tâm, mà nhận xét. Những câu chuyện không vui, nhưng vẫn thành chuyện, hệt như chuyện an-tử lại khiến tôi và khiến bạn lưu-tâm thêm lần nữa, qua mục hỏi đáp, rất như sau:

“Thưa cha,

Con đây muốn viết cho vị dân biểu đại diện cử tri trong vùng về dự luật “an-tử” sẽ được thông qua ở Quốc hội tiểu bang New South Wales những ngày gần đây. Nhưng trước khi làm thế, con muốn hội ý với cha đôi ba sự việc để có được một số ý-kiến mà biện luận. Vậy bằng thư này, xin cha phúc-đáp cho vài ý-tưởng để khỏi trông ngóng. Cảm ơn cha rất nhiều. Xin cho được giữ kín tên tuổi.”

 Giữ kín tên tuổi, vẫn là việc của “chàng”, những chàng trai hay con gái ở huyện nhà rất quan tâm đến chuyện nhà Đạo đang diễn ra ở đây và ở đó, cũng rất nhiều. Chính vì thế, nên cha/cố đã săn sang giấy bút để trả lời/trả vốn cho đàn con nhỏ như sau:

“Việc cần-thiết, là tất cả mọi người chúng ta quyết phải làm để tránh “an-tử” tức: hành động giúp người khác tự sát đang được chính quyền hợp thức hoá, tại nước này. Những điều ẩn-hàm trong đó xem ra rất lớn. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị có bàn đến an-tử trong tông-thư mang tựa đề “Đời sống Phúc Âm” có bảo rằng: “Nay, ta đang giáp mặt một trong các triệu-chứng rất báo-động của “văn-hoá sự chết” đang tiến mạnh trong các xã-hội trù phú, được đánh dấu bằng thái-độ đối với mối bận tâm về hiệu-năng và thấy con số người già và người khuyết tật đang gia tăng đến mức độ khó lòng chịu đựng được là gánh nặng đối với nhiều người.” (X. Đời sống Phúc Âm đoạn 64)

Ở đây, tôi sẽ đưa ra sáu luận cứ để trả lời cho câu hỏi của anh/chị. Trước nhất, dự-luật đưa ra với quốc hội tiểu-bang New South Wales cho phép bất cứ ai trên 25 tuổi đang chịu đau đớn đến cùng cực được giúp đỡ để kết thúc sự sống của họ nều như có hai bác-sĩ chứng-thực rằng người ấy đang bị bệnh nặng hoặc ở trong tình trang sẽ phải chết trong không đầy một năm.

 Tất cả chúng ta thừa biết là mọi người khi trước đều nói rằng: bệnh nhân này chỉ sống được vài tháng nữa là cùng, thì nay người này lại hoàn toàn mạnh khoẻ trở lại, thế mới lạ. Giả như những người chọn kết liễu đời mình khi cảm thấy đau đớn quá sức mình, thì đó là mất mát lớn đối với chính họ, với bạn bè người thân trong gia đình! Người ta cũng phạm phải sai lầm khi nghĩ đến tuổi thọ. Hợp-thức-hoá an-tử chỉ tổ gia tăng vấn đề ấy mà thôi.

 Thứ hai là, cho phép được an-tử là dựng ra tiêu-chuẩn kép về tình-trạng xã-hội đặt giá-trị lên sự sống như thế nào. Một đằng, ta có lý để ân-hận chuyện chấm dứt sự sống bằng việc tự sát, chí ít là khi việc ấy do người trẻ tuổi nào đó thực-hiện và ta đang cố gắng ngăn chặn mọi người chớ có tự sát.

 Thế nhưng, đằng khác, ta lại hợp-thức-hoá an-tử đến độ có thể giúp đỡ người chấm dứt sự sống của họ nữa. Vậy thì, ta gửi cho những người muốn tự sát thứ thông-điệp nào đây? Ta có còn đặt giá-trị lên cuộc sống và xót xa/ân-hận khi có người tự sát hay không?          

 Thứ ba là, việc hợp-thức-hoá việc giúp đỡ người khác tự sát có lẽ sẽ làm gia-tăng tỷ-lệ tự sát, nói chung. Một khi việc giúp đỡ người khác tự sát được xã-hội chấp-thuận theo luật pháp có thể dẫn mọi người đến tình-trạng không còn đau đớn vì các bệnh nan-y bằng cách chấm dứt sự sống của họ.

 Chuyện này đầu tiên xảy ra ở bên Mỹ, tiểu bang Oregon là tiểu bang đầu tiên hợp-thức-hoá an-tử, thì tại đây việc tự sát nói chung lên đến 40% nhiều hơn con số bình quân trên toàn nước Mỹ. Vậy, ta có muốn tình-trạng ấy xảy ra ở nước mình không? 

Thứ tư là, tiếp theo chuyện đang bàn, thì: giả như ta mở rộng cửa cho việc hợp-thức-hoá việc giết chóc thì việc đẩy mạnh nói đây còn mở rộng hơn nữa. Lấy ví dụ, tại sao người trẻ 25 tuổi kia đang đau đớn vì bệnh ung-thư lại có thể kiếm được bác-sĩ giúp anh đi đến chỗ chết; trong khi đó, một thanh-niên 25 tuổi khác đau đớn vị bệnh trầm thống khập khễnh vì bệnh xốp xương lại không thể làm thế được?

 Nói cho cùng, thì cái đau của người bị ung-thư sẽ chấm dứt trong vòng một năm vì căn bệnh ở vào giai đoạn cuối, trong khi cơn đau của người bị trầm-thống hoặc xốp xương lại cứ tiếp diễn trong nhiều năm tới. Xem thế thì, luật-pháp quả là có kỳ-thị bệnh tật. Bởi thế nên, ta không thể mở rộng cửa cho việc này được. 

Thứ năm nữa, trợ tử hoặc giúp người khác chết cho xong không có nghĩa là công việc đầy lòng thương xót chút nào hết. Như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị từng viết trong tông-thư Đời sống Phúc Âm có bảo rằng: Cả vào khi không do động cơ ích-kỷ thúc đẩy vì phải chịu gánh nặng sự sống của người khác đang đau đớn đi nữa, phải gọi an-tử là lòng xót thương tầm bậy và đích thực là lòng thương người một cách méo mó gây bất an.

 Sự “khoan-dung” đích-thực đưa ta đến việc sẻ san cơn đau của người khác; nó không giết chết người đang đau mà ta không thể chịu nổi. Hơn nữa, hành-động trợ-tử hay an-tử hiện rõ bên ngoài càng quái ác hơn nếu nó lại do những người như thế thực-hiện, chí ít là bà con, thân thuộc là những người đáng lẽ phải cư xử với người trong gia đình bằng sự kiên-nhẫn và tình thương yêu, hoặc từ những người như bác sĩ/y tá là những người theo định nghĩa phải là những người chăm sóc người bệnh cả vào giai-đoạn đau đớn đi đến chỗ chết.(X. Tông thư Đời sống Phúc Âm đoạn 66)

Thứ sáu là, các chuyên gia y-tế được huấn luyện để chữa lành và cứu sống người bệnh, chứ không phải giúp họ mau đi đến chỗ chết. Lời thể Hippôcrát ở thế kỷ thứ tư hoặc thứ năm trước Công nguyên, mà các y- sĩ/bác sĩ buộc phải tuyên hứa có ghi như sau: “Tôi nguyện sẽ sử-dụng việc chữa-trị để giúp đỡ người bệnh thể theo khả năng và suy-xét của tôi, nhưng tôi không bao giờ có lập trường làm thương-tổn và hành-xử sai trái bao giờ hết.”

 Và lời cuối cùng thường là lời khuyên ngắn gọn bảo rằng: “Trước tiên, không bao giờ được làm hại ai hết.” An-tử gây tại hại lớn lao đến chết người. Nó dẫn đưa y sĩ và bác sĩ đi ngược lại những gì đi ngược lại mục tiêu mà họ nhắm đến.

 Ta không nên trông chờ các bác sĩ sử-dụng kỹ năng của họ để chấm dứt sự sống của bệnh nhân mà họ đang chữ trị. Nói chung, ta phải làm bất cứ thứ gì để chống-cự lại việc hợp-thức-hoá hành động tự sát có trợ giúp.” (X. Lm John Flader, Euthanasia is atrocious: let me count the ways, The Catholic Weekly 29/10/2017, Question Tỉme tr. 29)

Nói cho cùng, là người đi Đạo chỉ quan-tâm đến việc thương yêu giúp đỡ hết mọi người, dù họ đang trong tình trạng đau yếu, bệnh tật hoặc mạnh khoẻ. Bằng không đi Đạo, chỉ là đi đứng mà không theo Đạo làm người biết yêu thương, giùm giúp một ai hết.

Nói cho cùng, an-tử hay trợ-tử phải là vấn đề đặt ra cho ta và cho người suốt mọi thời, ở mọi nơi, mới được. Để có được một quyết tâm sống chính-đáng cho phải phép, với mọi người, có lẽ cũng nên quay về với lời khuyên từ bậc thánh-hiền trong Đạo, khi xưa vẫn bảo:

“Anh em hãy gớm ghét điều dữ,

tha thiết với điều lành;

thương mến nhau với tình huynh đệ,

coi người khác trọng hơn mình;

nhiệt thành, không trễ nải;

lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa.

Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng,

cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân,

và chuyên cần cầu nguyện.

Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn,

và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.”

(Rôma 12: 10-13)                    

 Xem thế thì, nay đề nghị với bạn và với tôi, ta cùng nhau thực hiện ý-hướng ở trên qua lời lẽ gặp được trong ca-từ đầy “chết chóc” mà người xưa từng hát:

 “Không, anh không, anh không chết đâu em,

anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua!
Tôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ.
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân.
Giọt nước mắt nóng bây giờ

và còn hằng đêm cho anh cho anh …”

(Trần Thiện Thanh – bđd)

Nước mắt nóng, hay nến vàng hắt hiu niềm nhớ, không là “nỗi chết: của ai đó, nhưng sẽ là lời cảnh tỉnh từ ca, nhạc sĩ vẫn gửi đến với tôi và với bạn, để sống hùng sống mạnh, sống đẹp đẽ trong đời người đầy chết chóc.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và những tự nhủ như thế

suốt chuỗi ngày còn lại

trong đời mình. 

– Nghe chừng các quan VN muốn học tập làm theo bác… Tập?

From facebook: Trần Bang
Bài dưới viết mâu thuẫn giữa phát biểu của quan chức VN với YouTube, google …, vậy bạn tin bên nào?

– Nghe chừng các quan VN muốn học tập làm theo bác… Tập? Nhưng quan trọng là người dân VN có muốn học theo mánh lới, gian dối kiểu Tàu không?

BBC: Hôm 17/11 tại phiên họp chất vấn Quốc hội, Bộ trưởng TT&TT cho biết Google đã “tuân thủ” trong việc gỡ bỏ hơn 5000 video “nội dung xấu, độc hại, bôi nhọ và làm xấu danh tính của nhiều lãnh đạo Việt Nam” trên Youtube.
Còn “Facebook tỏ ra kém hợp tác hơn,” VnExpress English dẫn lời ông Tuấn.

Tuy nhiên, Google, công ty mẹ của Youtube nói chỉ mới nhận được khoảng 50 yêu cầu gỡ bỏ, và từ 2009 đến tháng 12/2016 chỉ có 5 yêu cầu từ chính quyền Việt Nam, theo báo cáo minh bạch của Google.

Cũng theo VnExpress, ông Trương Minh Tuấn cũng “phàn nàn” về Facebook với các quan chức ngoại giao Hoa Kỳ trong một cuộc họp gần đây và bộ TT&TT cũng sẽ gia tăng xử lý các hành vi vi phạm trên Facebook.

Phần lớn thị phần thương mại điện tử của nước ngoài
Cũng trong chiều 17/11, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam chỉ trích các công ty nước ngoài nẫng tay trên “trăm triệu đôla” mà không đóng thuế.
Báo Thanh tra hôm 17/11 dẫn lời ông Đam nói: “Tiền quảng cáo các công ty nước ngoài điển hình là Facebook và Youtube chiếm tới 80% thị phần. Riêng số tiền mà hai công ty Facebook và Youtube năm vừa rồi thu được là 320 triệu đô la. Thời gian tới chúng ta phải có thái độ kiên quyết hơn với những vấn này”
Dẫn lời Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, báo này viết ở Việt Nam, “mạng xã hội 95% thị phần của nước ngoài; công cụ tìm kiếm 98% của nước ngoài; thương mại điện tử 80% của công ty nước ngoài…”
“Google có chính sách chia sẻ doanh thu cho người sản xuất nội dung nên các phần tử chống đối, thế lực thù địch lợi dụng người dân vì hám lợi tham gia sản xuất, đăng tải clip phản động lên mạng, coi đó là việc làm nhẹ nhàng thu nhập cao,” Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói theo báo Thanh tra.

Theo báo cáo năm 2017 của Freedom House, Việt Nam vẫn nằm trong những nước không có tự do internet

Xây dựng thương hiệu Việt thay thếGoogle, Facebook
Bộ trưởng Trương Minh Tuấn bày bỏ “tham vọng xây dựng thương hiệu cạnh tranh” với Google và Facebook.
Ông dẫn chứng một số quốc gia đã thành công trong việc này như Trung Quốc, vốn có mạng xã hội Weibo thống lĩnh thị trường nội địa và Nga, quốc gia có công cụ tìm kiếm riêng, Yandex.
Ông cũng đề cập đến một số trang mạng xã hội Việt Nam như Bamboo, Zalo, Zingme, vốn không cạnh tranh thành công đối với Facebook.
Ông Tuấn đề nghị “thí điểm triển khai một số cơ chế chính sách, với điều kiện ưu tiên đồng bộ cả thuế, tài chính, giảm thủ tục hành chính, có chính sách ưu tiên đặc biệt để quản lý thông tin hỗ trợ” các doanh nghiệp Việt Nam phát triển.
Theo báo cáo mới nhất của tổ chức Freedom House, Nga, Trung Quốc và Việt Nam đều nằm trong những nước bị đánh giá “không có tự do Internet”.

Image may contain: one or more people and text

Đại diện XHDS nói gì với phái đoàn ngoại giao EU?

Đại diện XHDS nói gì với phái đoàn ngoại giao EU?

Nhà báo và nhà hoạt động Phạm Đoan Trang nói với BBC là bà đã được công an thả về vào tối khuya 16/11
Bản quyền hình ảnh PHAM DOAN TRANG
Nhà báo và nhà hoạt động Phạm Đoan Trang nói bà được công an thả về vào tối khuya 16/11

Một nhóm các nhà hoạt động của Việt Nam ở Hà Nội vừa có cuộc gặp với một số thành viên của đoàn ngoại giao EU trong một sự kiện được cho là chuẩn bị cho đối thoại thường niên được dự kiến vào tháng 12/2017.

Blogger Phạm Đoan Trang cùng ba nhà hoạt động khác gồm ông Nguyễn Quang A, Nguyễn Chí Tuyến và bà Bùi Thị Minh Hằng hiện diện trong buổi trao đổi hôm 16/11.

Bà Trang cho BBC biết khi trao đổi với phía đoàn ngoại giao, bà trình bày về ba vấn đề nổi cộm về nhân quyền ở Việt Nam.

“Về lao động, quyền người lao động, quyền mặc cả thương lượng tập thể, quyền đình công, quyền thành lập công đoàn độc lập ở Việt Nam chưa được đảm bảo,” blogger Đoan Trang nói.

“Những nhà hoạt động làm về vấn đề lao đồng là bị đàn áp mạnh nhất, như Nguyễn Thị Minh Hạnh, Hoàng Bình, dựa trên xác suất so với các tổ chức khác.”

“Tôi có đề cập đến Hội Anh em Dân chủ, bị dán nhãn là tổ chức phản động dù rất ôn hòa. Bị gán cho cái nhãn như thế thì không hội hiệp nào tồn tại được. Trong khi đó, Hội Cờ đỏ vốn có các hoạt động chia rẽ lương giáo và công giáo thì lại được bảo kê.”

“Tôi cũng nói đến quyền môi trường, quyền được sống trong một môi trường trong sạch, đặc biêt là môi trường Việt Nam bị tàn phá trầm trọng. Để đối phó thảm hoạ Formosa, làm sạch biển như thế nao làm gì để đảm bảo thực phẩm hải sản thì không thấy nói, chỉ thấy thấy đàn áp,” bà Phạm Đoan Trang nói.

Còn ông Nguyễn Quang A cho BBC biết ông “lưu ý các nhà ngoại giao EU về hai điểm”.

“Một là quá trình UPR, tức là kiểm điểm phổ quát chính quyền. Trong vấn đề này, Việt Nam đã thiếu sót rất nhiều. Tôi khuyến nghị EU xem lại xem [Việt Nam] thực hiện cái gì không hay không thực hiện gì cả.”

“Điểm thứ hai là thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam. Có rất nhiều cách để làm, chẳng hạn như bằng cách hỗ trợ chính phủ Việt Nam những biện pháp trợ giúp kĩ thuật, đào tạo, khuyến khích, những biện pháp mang tính xây dựng. Tuy nhiên, cùng lúc cũng cần phải lưu ý đến bản thân Việt Nam có nghĩa vụ tuân thủ luật quốc tế, tuyên ngôn về nhân quyền,” ông Quang A nói.

Blogger Phạm Đoan Trang cho biết bên EU tiếp nhận kiến nghị của các đại diện xã hội dân sự, nhưng nói “không thể đảm bảo dân chủ đến Việt Nam nhanh được.”

“[Nhóm xã hội dân sự] đề xuất rõ ràng là phải tăng cường sự tham gia của các xã hội dân sự vào trong việc giám sát quá trình thực thi thương mại tự do giữa EU và Việt Nam, như thành lập nhóm tư vấn… làm báo cáo hằng năm, mà người làm báo cáo không bị đàn áp, tham gia hội họp thì không bị bắt giữ như thế này.”

Theo bà Đoan Trang, nhóm các nhà hoạt động phản ánh với đại diện EU rằng năm qua là một năm tăm tối cho các nhà hoạt động.

“Hai bên thống nhất là chỉ có thể cố gắng thêm, cố gắng tác động bằng các cách để chính quyền thay đổi, bớt sự kiểm soát, tạo không gian cho xã hội dân sự để văn minh hơn, chuẩn quốc tế hơn. Cộng đồng quốc tế chỉ có vai trò thúc đẩy,” bà Đoan Trang nói.

Sau khi bị câu lưu ở đồn công an, Tiến sĩ Nguyễn Quang A viết trên Facebook
Bản quyền hình ảnh  NGUYEN QUANG A
Sau khi bị câu lưu ở đồn công an, Tiến sĩ Nguyễn Quang A viết trên Facebook “Cực lực phản đối an ninh chà đạp lên pháp luật”

‘Bị sách nhiễu, câu lưu’

Sau cuộc gặp kéo dài gần hai tiếng đồng hồ, kết thúc trước 12 giờ trưa, ngoài ông Nguyễn Chí Tuyến, ba nhà hoạt động còn lại đều bị phía công an “đưa về đồn làm việc”.

Ông Quang A và bà Minh Hằng được thả không lâu sau đó.

Tuy nhiên, bà Phạm Đoan Trang nói bà đã bị giữ lại tới tận khuya, sau vài tiếng đồng hồ ‘đôi co’ với phía lực lượng công an.

Nghệ An: ‘Hội Cờ Đỏ’ tự phát nhưng được phép?

Bà nói phía công an lấy điện thoại của bà và yêu cầu bà cung cấp thông tin cuộc gặp.

“Tôi nói nguyên tắc cùa nghề báo… tôi là người thu thập thông tin chứ không phải người chia sẻ thông tin,”

Bà sau đó được công an đưa về nhà và cho biết phía công an vẫn canh chừng trước nhà bà.

“Tôi không sợ, tôi luôn chuẩn bị tinh thần là đã vào là không ra nữa. Lúc họ thả về, tôi cũng không tin, ngay cả khi họ thả, họ có thể chuyển hướng lái.”

Đối thoại nhân quyền giữa EU-Việt Nam dự kiến sẽ diễn vào vào 2/12. Trước đó, Bộ trưởng Ngoại giao Thụy Điển bà Margot Wallström sẽ có chuyến thăm châu Á, trong đó có Việt Nam từ ngày 19-23 tháng 11.

Nền giáo dục Việt Nam: Vẫn lạc đường sau 35 năm

Nền giáo dục Việt Nam: Vẫn lạc đường sau 35 năm

Cát Linh, RFA
2017-11-15 
Các em học sinh trong ngày khai giảng.

Các em học sinh trong ngày khai giảng.

 Courtesy photo
 

Chỉ vài ngày nữa, Việt Nam sẽ kỷ niệm 35 năm ngày Nhà giáo Việt Nam, ngày lễ  ‘tôn sư trọng đạo’ được ra đời từ ngày 28 tháng 9 năm 1982 sau khi có quyết định của chính phủ lấy ngày 20 tháng 11 hàng năm là ngày Nhà giáo Việt Nam.

Nhân sự kiện này, hãy cùng nhìn lại nền giáo dục Việt Nam sau 35 năm.

Nền giáo dục đi lạc đường

Trong chuyến xe hành trình của một người, giáo dục là vết khắc đầu tiên và kéo dài không bao giờ chấm dứt cho đến khi người ấy đặt chân đến ga cuối cùng.

Còn đối với một quốc gia, hơn năm trăm năm trước, dưới thời Lê Thánh Tông, đã có câu nói nổi tiếng được khắc trên tấm bia ở Văn Miếu “… Các bậc hiền nhân tài giỏi là yếu tố cốt tử đối với một chỉnh thể. Khi yếu tố này dồi dào thì đất nước tăng tiến mạnh mẽ và phồn vinh. Khi yếu tố này kém thì quyền lực đất nước bị suy giảm. Những người tài giỏi là một sức mạnh đặc biệt quan trọng đối với đất nước”.

Chỉ bấy nhiêu đã đủ để thấy uy lực và tầm quan trọng của giáo dục ảnh hưởng lên sự phát triển và thịnh vượng của một quốc gia như thế nào? Có lẽ thế mà những người quan tâm đến vận mệnh của giáo dục, cũng là vận mệnh của đất nước, thời nào cũng có.

mang cap den truong
mang cap den truong Courtesy of phunuonline.com.vn

Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, Việt kiều Bỉ, là người tâm huyết với nền giáo dục nước nhà từ rất lâu. Từ năm 1976, 1977, ông đã quay về Việt Nam làm giảng viên thỉnh giảng cho các trường đại học ở Hà Nội. Hơn 20 năm ông gọi là thời gian “can qua những trở ngại, nghịch cảnh để đóng góp tiếng nói vào sứ mệnh phát triển giáo dục”, giờ đây, khi nói về nền giáo dục Việt Nam, lời nói đầu tiên của ông là quá chậm trễ cho sự thay đổi.

“Ngồi bình thản bình yên tôi nhìn lại, tôi phải thấy rằng muốn là một chuyện mà thực tế thay đổi được hay không là một chuyện khác. Tôi phải đi đến kết luận ngay ngày hôm nay là thay đổi quá chậm, nền giáo dục của Việt Nam vẫn còn ngụp lặn trong cái tụt hậu.”

Chậm trễ đến đâu? Vì sao không thể sửa? Câu trả lời của Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng là “vì đó không phải là sai lầm”

“Nếu chúng ta sai lầm, chúng ta có thể sửa đổi được. Nhưng vấn đề của chúng ta hiện nay là chúng ta đi lạc đường. Nền giáo dục của Việt Nam là nền giáo dục lạc đường. Mình chủ quan mình cho mình là con đường tốt hơn hết, rực rỡ hơn hết, nhưng mình đâu dè đây là ngõ cụt.”

Ngồi bình thản bình yên tôi nhìn lại, tôi phải thấy rằng muốn là một chuyện mà thực tế thay đổi được hay không là một chuyện khác. Tôi phải đi đến kết luận ngay ngày hôm nay là thay đổi quá chậm, nền giáo dục của Việt Nam vẫn còn ngụp lặn trong cái tụt hậu. – GS Nguyễn Đăng Hưng

Triết lý giáo dục sai lầm

Ở nơi gọi là ngõ cụt ấy, theo Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, đang tồn tại rất nhiều những thành viên xã hội không thể gánh vác những yêu cầu của một nền kinh tế ngày càng hoà nhập với thế giới. Nền giáo dục Việt Nam không thể khoác lên chiếc áo vừa vặn với tốc độ phát triển của thế giới. Điều này ông gọi là ‘sự đi lạc đường’ ngay từ trong tư duy và triết lý giáo dục.

“ Cái tư duy giáo dục của ta, triết lý giáo dục của ta sai lạc. Ta không coi chuyện giáo dục là tạo những thực thể, những con người tự do. Tự do thì mới có sáng tạo, mà sáng tạo thì mới làm khoa học kỹ thuật, làm công nghiệp. ngay cả làm quản trị kinh doanh, phải có những con người có đầu óc độc lập. Cách đào tạo của mình đi lạc đường mình tạo ra những con vẹt, những lò xo, tạo những con người làm việc máy móc thì không thể thích ứng cho nền kinh tế phát triển.”

Ông nhấn mạnh điều này khởi nguồn từ tư duy của những các nhà giáo dục, của chương trình giáo dục, của những giáo sư đang dạy cho các sinh viên bị đóng khung trong đường hướng sai lạc từ mấy chục năm qua.

Với mong muốn nghe thêm nhận định về nền giáo dục Việt Nam, chúng tôi liên lạc với Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Trần Ngọc Thêm, vì qua các tài liệu ghi nhận được từ báo trong nước, chúng tôi được biết ông từng đưa ra ý kiến rằng “Giáo dục hỏng chính là do triết lý giáo dục sai lầm”.

Tuy nhiên, với lý do đây là vấn đề đang được ông nghiên cứu nên không thể đưa ra câu trả lời ngay lúc này. Thế nhưng, liên quan đến những tiến bộ nếu có của giáo dục Việt Nam, ông có nhận định thoáng hơn. Ông nói rằng “có sự thay đổi”.

“Trong thời gian vừa qua có rất nhiều cố gắng để thay đổi. Có thay đổi, nhưng tốt lên hay không thì là chuyện khác. Tôi nghĩ thay đổi theo hướng tốt lên thì nó hơi chậm.”

Không chú trọng đào tạo đạo đức

Một đánh giá khác nghiêng về góc độ nhân văn được chia sẻ từ Thạc sĩ Nguyễn Minh Hiệp, Giám đốc thư viện Đại Học Khoa Học Tự Nhiên, thuộc Đại Học Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh. Bày tỏ với chúng tôi, ông nói rằng mặc dù trong nghề giáo nhưng ông không hài lòng với giáo dục Việt Nam, vì không có tiêu chí để đào tạo rõ ràng. Điều mà theo ông, quan trọng hơn cả là đạo đức của con người.

“Khi dạy dỗ, từ chương trình tiểu học cho đến khi lớn hơn, không chú trọng đến vấn đề gọi là nhân văn, mà đào tạo thực dụng. Cho nên khi con người được đào tạo lên rồi thì chỉ có khuynh hướng thực dụng, còn vấn đề đạo đức rất thấp.”

Một minh chứng thực tế được Thạc sĩ Nguyễn Minh Hiệp dẫn dụ, đó là chương trình giáo dục Việt Nam vô tình đã dạy cho một đứa trẻ nói dối.

“Ví dụ bắt tả 1 con chó ở nhà em, đứa bé đó nói nhà em không có nuôi chó nên không tả được. Nhưng cũng phải tả, phải làm cho được.

Hay 1 đứa bé học ở trên Tây Nguyên, nói là tả gia đình đi biển, thì nó nói thẳng là thưa cô em không biết biển là gì hết, chưa bao giờ đi. Nhưng em phải bịa ra để nói. Còn trong lịch sử thì…nhiều cái giả dối quá.”

…Hay 1 đứa bé học ở trên Tây Nguyên, nói là tả gia đình đi biển, thì nó nói thẳng là thưa cô em không biết biển là gì hết, chưa bao giờ đi. Nhưng em phải bịa ra để nói. Còn trong lịch sử thì…nhiều cái giả dối quá. – Thạc sĩ Nguyễn Minh Hiệp

Đó là giáo dục phổ thông. Cao hơn nữa là cấp bậc đại học. Với Thạc sĩ Nguyễn Minh Hiệp, đào tạo cấp bậc đại học, tiến sĩ hiện nay chẳng khác nào tạo nên những cây kiểng đắt tiền với mục đích làm đẹp.

“Ví dụ như trường tôi người ta đến người ta đề nghị trong 4 năm đào tạo mấy trăm tiến sĩ. Vị hiệu trưởng trường tôi thành thật nói rằng 20 năm rồi trường tôi không thể đào tạo được số đó thì làm sao trong 4 năm được?”

Nói một cách khác, theo Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, giáo dục chính là sinh hoạt của con người, mà mọi chuyện trên thế gian này, xấu tốt, độc, ác đều phát xuất từ con người mà ra. Chính vì vậy, ông cho rằng những gì con người làm ra mà không đúng thì có thể làm theo cách khác.

“Vấn đề là căn bệnh đã quá lây lan, đã vào cốt tuỷ rồi. Cho nên không thể nào chữa trị ngoài da, không thể bằng cách uống thuốc, phải cắt đi tế bào hư hao để thay đổi bản chất, cắt đi những tệ hại, những ung nhọt thì mình mới có thể thay đổi được. Nếu cần phải khai thông con đường mới vì không cắt được. Cắt là chết.”

Ai sẽ là người khai thông con đường mới ấy? Ai sẽ là kiến trúc sư trưởng như cách gọi của giáo sư Nguyễn Đăng Hưng để kiến thiết lại con đường mang tên giáo dục ở Việt Nam? Mặc dù Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng cho rằng điều này phải bắt đầu từ những người lãnh đạo can đảm và tin tưởng vào sự thay đổi, nhưng ông vẫn nói rằng rất khó để ông tìm thấy sự lạc quan khi nhìn về tương lai.

BÀN VỀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN Ở VN

From facebook: Christina Le

BÀN VỀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN Ở VN
(Nguyễn Hưng Quốc)

Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay như một đám lục bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn tại của nó chỉ dựa vào sự trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng cộng sản đưa ra sự khuyến dụ đối với công an: “Còn đảng, còn mình”; mặt khác, họ ngoảnh mặt làm ngơ trước hai tệ nạn do công an gây ra: tham nhũng và trấn áp dân chúng một cách dã man.

Trước đây, trên thế giới, có 15 quốc gia chính thức theo chủ nghĩa cộng sản và 11 quốc gia tự nhận là cộng sản hoặc theo khuynh hướng cộng sản. Mười lăm quốc gia ở trên là: Albania, Bulgaria, Czechoslovakia, Đông Đức, Hungary, Mông Cổ, Ba Lan, Romania, Liên Xô, Yugoslavia, Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam. Mười một quốc gia ở dưới là: Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Mozambique, Zimbabwe, Grenada, Nicaragua, Campuchia, Afghanistan và Nam Yemen. Tổng cộng, từ hai bảng danh sách ấy, có cả thảy 26 nước cộng sản hoặc có khuynh hướng theo cộng sản. Từ đầu thập niên 1990, tất cả các chế độ cộng sản ấy đều lần lượt sụp đổ. Hiện nay, trên cả thế giới, chỉ còn năm nước mang nhãn hiệu cộng sản: Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam.

Chưa có dấu hiệu nào cho thấy chủ nghĩa cộng sản ở năm quốc gia này sẽ sụp đổ sớm. Trong năm nước, có ba nước có quan hệ chặt chẽ với nhau: Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Có lẽ Lào chỉ thay đổi được thể chế chính trị nếu, trước đó, Việt Nam cũng thay đổi; và Việt Nam có lẽ chỉ thay đổi nếu trước đó Trung Quốc cũng thay đổi. Như vậy, quốc gia có khả năng châm ngòi cho bất cứ sự thay đổi lớn lao nào là Trung Quốc.

Tuy nhiên, ngay cả khi Trung Quốc và Việt Nam chưa thay đổi và chưa từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, giới nghiên cứu cũng phát hiện những dấu hiệu suy tàn âm thầm của chủ nghĩa cộng sản bên trong hai quốc gia này.

Ở đây, tôi chỉ tập trung vào Việt Nam.

Nhìn bề ngoài, chế độ cộng sản tại Việt Nam vẫn mạnh. Hai lực lượng nòng cốt nhất vẫn bảo vệ nó: công an và quân đội. Dân chúng khắp nơi bất mãn nhưng bất mãn nhất là nông dân, những người bị cướp đất hoặc quá nghèo khổ. Có điều nông dân chưa bao giờ đóng được vai trò gì trong các cuộc cách mạng dân chủ cả. Họ có thể thành công trong một số cuộc nổi dậy nhưng chỉ với một điều kiện: được lãnh đạo. Trong tình hình Việt Nam hiện nay, chưa có một tổ chức đối kháng nào ra đời, hy vọng nông dân làm được gì to lớn chỉ là một con số không. Ở thành thị, một số thanh niên và trí thức bắt đầu lên tiếng phê phán chính phủ nhưng, một, số này chưa đông; và hai, còn rất phân tán. Nói chung, trước mắt, đảng Cộng sản vẫn chưa gặp một sự nguy hiểm nào thật lớn.

Thế nhưng, nhìn sâu vào bên trong, chúng ta sẽ thấy quá trình mục rữa của chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu và càng ngày càng lớn. Như một căn bệnh ung thư bên trong một dáng người ngỡ chừng còn khỏe mạnh.

Sự mục rữa quan trọng nhất là về ý thức hệ.

Khác với tất cả các hình thức độc tài khác, chủ nghĩa cộng sản là một thứ độc tài có… lý thuyết, gắn liền với một ý thức hệ được xây dựng một cách có hệ thống và đầy vẻ khoa học. Thật ra, chủ nghĩa phát xít cũng có lý thuyết, chủ yếu dựa trên sức mạnh và tinh thần quốc gia, nhưng không phát triển thành một hệ thống chặt chẽ và có ảnh hưởng sâu rộng như chủ nghĩa cộng sản. Còn các chế độ độc tài ở Trung Đông chủ yếu gắn liền với tôn giáo cộng với truyền thống quân chủ kéo dài (thường được gọi là độc tài quốc vương, sultanistic authoritarianism) hơn là lý thuyết. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh: các chế độ cộng sản không thể tồn tại nếu không có nền tảng ý thức hệ đằng sau.

Ý thức hệ cộng sản một thời được xem là rất quyến rũ vì nó bao gồm cả hai kích thước: quốc gia và quốc tế. Ở bình diện quốc gia, nó hứa hẹn giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân; ở bình diện quốc tế, nó hứa hẹn giải phóng giai cấp vô sản và tạo nên sự bình đẳng và thịnh vượng chung cho toàn nhân loại. Ở bình diện thứ hai, chủ nghĩa cộng sản, gắn liền với một ước mơ không tưởng, rất gần với tôn giáo; ở bình diện thứ nhất, đối lập với chủ nghĩa thực dân, nó rất gần với chủ nghĩa quốc gia. Trên thực tế, hầu hết các nước cộng sản trước đây đều cổ vũ và khai thác tối đa tinh thần quốc gia trong cả quá trình giành chính quyền lẫn quá trình duy trí chế độ. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa quốc gia dễ thấy nhất là ở các nước thuộc địa và cựu thuộc địa như Việt Nam.

Sau năm 1991, tức sau khi chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ý thức hệ cộng sản cũng bị phá sản theo. Thực trạng nghèo đói, bất công và áp bức dưới các chế độ cộng sản ấy đều bị vạch trần và phơi bày trước công luận. Sự hứa hẹn về một thiên đường trong tương lai không còn được ai tin nữa. Tính hệ thống trong chủ nghĩa Marx-Lenin cũng bị đổ vỡ. Nền tảng ý thức hệ của các chế độ cộng sản bị tan rã tạo thành một khoảng trống dưới chân chế độ.

Để khỏa lấp cái khoảng trống ấy, Trung Quốc sử dụng hai sự thay thế: chủ nghĩa Mao và Nho giáo (trong chủ trương tạo nên một xã hội hài hòa, dựa trên lòng trung thành). Việt Nam, vốn luôn luôn bắt chước Trung Quốc, không thể đi theo con đường ấy. Lý do đơn giản: Đề cao chủ nghĩa Mao là một điều nguy hiểm cả về phương diện đối nội lẫn đối ngoại; còn với Nho giáo, một là Việt Nam không am hiểu sâu; hai là, nó đầy vẻ… Tàu, rất dễ gây phản cảm trong quần chúng. Bế tắc, Việt Nam bèn tạo nên cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng ông Hồ Chí Minh lại không phải là một nhà lý thuyết. Ông chỉ là một người hành động. Ông viết nhiều, nhưng tất cả đều rất thô phác và đơn giản. Hơn nữa, ở Việt Nam hiện nay, cũng không có một người nào giỏi lý thuyết để từ những phát biểu sơ sài của Hồ Chí Minh xây dựng thành một hệ thống sâu sắc đủ để thuyết phục mọi người. Thành ra, cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn không trám được khoảng trống do sự sụp đổ của ý thức hệ Marx-Lenin gây ra. So với Trung Quốc, khoảng trống này ở Việt Nam lớn hơn gấp bội.

Mất ý thức hệ cộng sản, chính quyền Việt Nam chỉ còn đứng trên một chân: chủ nghĩa quốc gia.

Nhưng cái chân này cũng rất èo uột nếu không muốn nói là đã lung lay, thậm chí, gãy đổ.

Trên nguyên tắc, Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước rất cao. Bao nhiêu chế độ ra đời từ giữa thế kỷ 20 đến nay đều muốn khai thác và tận dụng lòng yêu nước ấy. Tuy nhiên, với chế độ cộng sản hiện nay, việc khai thác vốn tài sản này gặp rất nhiều khó khăn. Lý do là lòng yêu nước bao giờ cũng gắn liền với sự căm thù. Không ai có thể thấy rõ được lòng yêu nước trừ phi đối diện với một kẻ thù nào đó của đất nước. Hai kẻ thù chính của Việt Nam, trong lịch sử mấy ngàn năm, là Trung Quốc; và gần đây nhất, là Mỹ. Nhưng Việt Nam lại không dám nói quá nhiều về hai kẻ thù này. Với Mỹ, họ cần cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện chiến lược. Đề cao truyền thống chống Mỹ, do đó, là điều rất nguy hiểm. Đề cao truyền thống chống Trung Quốc lại càng nguy hiểm hơn: Trung Quốc có thể đánh hoặc ít nhất đe dọa VIệt Nam bất cứ lúc nào.

Bởi vậy, Việt Nam, một mặt, phải hạ giọng khi nói về truyền thống chống Mỹ và phải né tránh việc nhắc nhở đến truyền thống chống Trung Quốc. Hai hành động này có lợi về phương diện đối ngoại nhưng lại có tác hại nghiêm trọng về phương diện đối nội: chính quyền hiện ra, dưới mắt dân chúng, như những kẻ hèn, hèn nhát và hèn hạ. Từ một chế độ được xây dựng trên thành tích chống ngoại xâm, chế độ cộng sản tại Việt Nam lại bị xem như những kẻ bán nước, hoặc bán nước dần dần bằng cách hết nhượng bộ điều này sang nhượng bộ điều khác trước sự uy hiếp của Trung Quốc.

Trước sự sụp đổ của cả hai nền móng, ý thức hệ cộng sản và chủ nghĩa quốc gia, đảng Cộng sản Việt Nam bèn chuyển sang một nền tảng khác: kinh tế với phương châm ổn định và phát triển. Nội dung chính của phương châm này là: Điều cần nhất đối với Việt Nam hiện nay là phát triển để theo kịp các quốc gia khác trong khu vực cũng như, một cách gián tiếp (không được nói công khai), đủ sức để đương đầu với Trung Quốc. Nhưng để phát triển, cần nhất là phải ổn định về chính trị, nghĩa là sẽ không có thay đổi về thể chế và cũng không chấp nhận đa đảng.

Phương châm ấy, thật ra, là một sự bịp bợm: Nó chuyển vấn đề từ chính trị sang kinh tế với lý luận: nếu vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam hiện nay là vấn đề kinh tế thì mọi biện pháp sửa đổi sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế. Với lập luận này, chính quyền có thể trì hoãn mọi yêu cầu cải cách chính trị.

Tuy nhiên, nó hoàn toàn không thuyết phục, bởi, ai cũng thấy, lãnh vực kinh tế là mặt mạnh nhất của chủ nghĩa tư bản và cũng là mặt yếu nhất của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản. Tất cả các quốc gia dân chủ ở Tây phương đều có hai đặc điểm nổi bật: về chính trị, rất ổn định và hai, về kinh tế, rất phát triển. Ở Việt Nam, người ta cố thu hẹp phạm vi so sánh: các cơ quan truyền thông chính thống chủ yếu tập trung vào các nước Đông Nam Á, đặc biệt Thái Lan với một thông điệp chính: đa đảng như Thái Lan thì lúc nào cũng bị khủng hoảng. Nhưng ở đây lại có hai vấn đề: Một, dù liên tục khủng hoảng về chính trị, nền kinh tế của Thái Lan vẫn tiếp tục phát triển, hơn hẳn Việt Nam; hai, ngày nay, do xu hướng toàn cầu hóa, tầm nhìn của dân chúng rộng rãi hơn nhiều; chính quyền không thể thu hẹp mãi tầm nhìn của họ vào tấm gương của Thái Lan được.

Về phương diện lý luận, chiêu bài ổn định và phát triển, do đó, không đứng vững. Về phương diện thực tế, những sự phá sản của các đại công ty quốc doanh và đặc biệt, khối nợ nần chồng chất của Việt Nam khiến dân chúng càng ngày càng thấy rõ vấn đề: các chính sách kinh tế của Việt Nam không hứa hẹn một sự phát triển nào cả, nếu không muốn nói, ngược lại, chỉ lún sâu vào chỗ bế tắc.

Thành ra, có thể nói, tất cả các nền tảng chế độ cộng sản Việt Nam muốn nương tựa, từ chủ nghĩa Marx-Lenin đến chủ nghĩa quốc gia và lập luận ổn định để phát triển, đều lần lượt sụp đổ. Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay như một đám lục bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn tại của nó chỉ dựa vào sự trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng cộng sản đưa ra sự khuyến dụ đối với công an: “Còn đảng, còn mình”; mặt khác, họ ngoảnh mặt làm ngơ trước hai tệ nạn do công an gây ra: tham nhũng và trấn áp dân chúng một cách dã man. Nhưng chính sách này chỉ càng ngày càng biến công an thành một đám kiêu binh và càng ngày càng đẩy công an cũng như chính quyền trở thành xa lạ với dân chúng. Sự xa lạ này càng kéo dài và càng trầm trọng, đến một lúc nào đó, trở thành đối nghịch với quần chúng.

Một nhà nước được xây dựng trên một đám kiêu binh, trong thời đại ngày nay, không hứa hẹn bất cứ một tương lai nào cả.

(Nguyễn Hưng Quốc)

Quân đội Zimbabwe bắt giữ vợ chồng TT Mugabe, kiểm soát thủ đô

 Quân đội Zimbabwe bắt giữ vợ chồng TT Mugabe, kiểm soát thủ đô

Hai vợ chồng Tổng Thống Mugabe của Zimbabwe. (Hình: AP)

HARARE, Zimbabwe (AP) – Quân đội Zimbabwe hôm Thứ Tư cho hay họ bắt giữ Tổng Thống Robert Mugabe, người cầm quyền đã 37 năm, và bà vợ của ông ta, đồng thời kiểm soát các cơ quan chính phủ, tuần tiễu đường phố thủ đô tiếp theo một đêm có các biến động. Quân đội đã chiếm giữ đài phát thanh và truyền hình.

Các hoạt động quân sự đêm Thứ Ba khiến nhiều người cho rằng có cuộc đảo chánh, tuy nhiên giới ủng hộ quân đội cho hay đây chỉ là “cuộc chỉnh lý không đổ máu”. Tổng Thống Nam Phi cho hay có nói chuyện với ông Mugabe và ông này khỏe mạnh nhưng bị quản thúc tại gia. 

Đây là lần đầu tiên quốc gia ở vùng Nam lục địa Phi Châu này thấy quân đội chống lại ông Mugabe, năm nay 93 tuổi, nhà lãnh đạo cao niên nhất của thế giới và cũng là một trong những nhà độc tài tồn tại lâu nhất. Ông Mugabe cầm quyền từ khi Zimbabwe được hình thành vào năm 1980, từ quốc gia Rhodesia, do thành phần thiểu số da trắng cai trị trước đó.

Hành động của quân đội Zimbabwe diễn ra sau khi ông Mugabe giải nhiệm phó tổng thống nước này, để mở đường cho đệ nhất phu nhân Grace Mugabe lên nắm quyền. Tuy nhiên, bà Mugabe không được dân chúng Zimbabwe ưa thích, trong khi phó tổng thống bị giải nhiệm, ông Emmerson Mnangagwa, được sự ủng hộ của quân đội.

Hôm Thứ Tư người ta không rõ ông Mnangagwa ở đâu, dù rằng tuần qua ông rời khỏi nước sau khi cho hay có đe dọa đến tính mạng cá nhân và gia đình.

Các binh sĩ võ trang đi trên các thiết vận xa thấy đóng ở các ngã tư trọng yếu ở thủ đô Harare, trong khi người dân Zimbabwe sắp hàng dài trước ngân hàng để rút tiền, một điều thường thấy ở quốc gia trong cơn khủng hoảng tài chánh này.

Trong bài diễn văn phát đi sau khi quân đội chiếm quyền kiểm soát đài phát thanh và truyền hình, Thiếu Tướng Sibusiso Moyo vào lúc rạng sáng ngày Thứ Tư cho hay quân đội nhắm vào “thành phần tội phạm” quanh ông Mugabe và tìm cách tái lập an ninh trật tự.

Hai tòa đại sứ Mỹ và Anh ở Harare đều đóng cửa ngày Thứ Tư và kêu gọi kiều dân của mình ở yên trong nhà vì tình hình bất ổn lúc này. (V.Giang)

Những nhà văn bị cầm tù

Kính Hòa RFA
2017-11-15
 
Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tại phiên tòa sơ thẩm ở Nha Trang, 6/2017.

Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tại phiên tòa sơ thẩm ở Nha Trang, 6/2017.

AFP
 

Ngày 30 tháng 10, năm 2017, Tổ chức Văn bút quốc tế có trụ sở tại Thụy sĩ gửi một bức thư đến Chủ tịch nước Việt Nam, ông Trần Đại Quang, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, và Ngoại trưởng Phạm Bình Minh yêu cầu Chính phủ Việt Nam trả tự do cho blogger Mẹ Nấm, cũng như những người cầm bút bị bắt giam vì thể hiện quan điểm của mình một cách hòa bình qua ngòi bút.

Nhân sự kiện này, chúng tôi xin điểm lại sơ lược câu chuyện những người cầm bút Việt Nam bị bỏ tù từ năm 1956 đến nay.

Bắt đầu là Nhân văn Giai phẩm….

Việc đàn áp những người cầm bút diễn ra chỉ hai năm sau khi những người cộng sản lên cầm quyền ở miền Bắc Việt Nam vào năm 1954. Vào năm 1956, một phong trào văn học nghệ thuật bùng lên tại Hà Nội mang tên Nhân văn Giai phẩm, do những văn nghệ sĩ nổi tiếng nhất Việt Nam thời ấy chủ trương, với hai tờ Giai phẩm và Nhân văn, đòi hỏi tự do chính trị, tự do sáng tác, không phải chịu sự giám sát của Đảng Cộng sản cầm quyền.

Chỉ đến cuối năm 1956, hai tờ báo này đã bị đình bản, các văn nghệ sĩ bắt đầu bị đàn áp bằng nhiều hình thức khác nhau, như là phải đi lao động ở vùng rừng núi, bị gạt ra khỏi việc cầm bút, hoặc bị cầm tù.

Theo tìm hiểu của nhà văn Song Nhị, hiện sống ở thành phố San Jose, Hoa Kỳ, thì có bảy người bị cầm tù, đó là các nhà văn, nhà thơ Hoàng Cầm, Hữu Loan, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Thụy An, và Phùng Cung. Có những người trong nhóm này bị đến 15 năm tù và nhiều năm quản chế sau đó. Tất cả những người vừa nêu đều đã mất.

Lý do được đảng cầm quyền đưa ra để bỏ tù những người này là họ có tư tưởng chính trị thù địch phản động chống lại giai cấp công nông của Đảng Cộng sản.

Sang đến những năm 1960, lại xảy ra một vụ án gọi là xét lại chống đảng, trong đó có một số nhà văn bị liên lụy. Một trong số đó là nhà văn Bùi Ngọc Tấn bị án 5 năm tù giam vào năm 1968.

Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, hiện sống ở Hải Phòng, nói về việc này:

Khi đã tách ra khỏi sự quản lý của Hội nhà văn Việt Nam, chính quyền Cộng sản Việt Nam, thì tác phẩm của họ phải có vấn đề, phải biểu thị sự tách ra đấy, mà nếu biểu thị sự tách ra của mình thì sự an nguy của họ bị ảnh hưởng.
-Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa.

“Nhà văn Bùi Ngọc Tấn là một cây bút có tài, và ông ấy đã trải qua một quảng đời cực kỳ khó khăn, với năm năm tù đày, do cái tư tưởng của ông ấy, trong cái thời điểm mà Liên Xô và Trung Quốc đang tranh giành ảnh hưởng đối với Việt Nam đang đu giây. Khi tư tưởng thân Trung Quốc chiếm ưu thế ở ban lãnh đạo, thì nhà văn Bùi Ngọc Tấn đi tù, tù không có án, mà ở Việt Nam gọi là án cao su, hết năm năm.”

Trong những năm 1960 này thế giới cộng sản bắt đầu bị phân liệt thành hai nhóm, do Liên Xô và Trung Quốc đứng đầu và cạnh tranh với nhau rất quyết liệt, đỉnh điểm là cuộc chiến tranh biên giới Trung Xô nổ ra vào năm 1969.

Sau khi ra tù, ông Bùi Ngọc Tấn đã viết tác phẩm Truyện kể năm 2000 vào năm 1990. Ông nói với đài RFA về tác phẩm này trong một lần trao đổi trước khi mất vào năm 2014:

Câu chuyện nó báo hiệu cái tình trạng mất dân chủ, tình trạng đàn áp, tình trạng bất công với những người lương thiện kiểu như tôi. Quyển đó nó chỉ nói một cái tiền đề về tình trạng mất dân chủ, tình trạng ức hiếp quần chúng hoặc ở dạng này dạng khác.

Quyển sách của ông được nhà xuất bản Thanh Niên trong nước cho in, nhưng sau đó bị thu hồi ngay lập tức.

Năm 1986 Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố cải cách kinh tế, chấp nhận nền kinh tế thị trường. Một số nhà văn bắt đầu cảm thấy được tự do sáng tác hơn với một số tác phẩm mang tính phê bình chế độ chính trị xã hội, không theo định hướng của đảng. Nổi tiếng nhất trong giai đoạn này là nhà văn Dương Thu Hương với các tác phẩm như Những thiên đường mù, Bên kia bờ ảo vọng,…

Tuy nhiên sự kềm chế các nhà văn lại trở lại ngay sau đó, bà Dương Thu Hương bị cầm tù trong một giai đoạn ngắn vào năm 1991. Sau khi được trả tự do, bà sống như một người tị nạn chính trị tại Pháp.

Trải qua suốt hai thời kỳ vừa nêu, có một nhà thơ bị bỏ tù rất lâu là ông Nguyễn Chí Thiện. Ông bị bỏ tù vào năm 1961 vì tội “phản tuyên truyền”. Ông bị giam giữ làm nhiều lần với tổng cộng thời gian ở tù là 27 năm. Ông sang Mỹ định cư vào năm 1995. Ông Nguyễn Chí Thiện có tập thơ nổi tiếng Hoa Địa ngục, mô tả cảnh sống trong xã hội cộng sản.

….. và hiện nay

Năm 1995 có một nhà văn nữa bị bỏ tù là Tiến sĩ Hà Sĩ Phu. Ông bị án tù một năm với tội danh làm tiết lộ bí mật nhà nước khi ông trao đổi với một số bạn bè, lá thư của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi cho Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng theo ông lý do làm ông bị bắt là ông đã viết hai bài tiểu luận trước đó là Dẫn tay nhau đi dưới tấm bảng chỉ đường, và Chia tay ý thức hệ, với những chỉ trích phê bình lý thuyết cộng sản.

Ông kể lại với chúng tôi cuộc hỏi cung sau khi ông bị bắt:

Sau khi hỏi lăng nhăng thì họ xoáy vào chuyện tôi viết bài Chia tay ý thức hệ. Thế chứ, họ quan tâm, và bắt tôi là vì tôi viết bài Chia tay ý thức hệ.”

Năm 2008, một nhà văn nữa bị cầm tù với tội danh tuyên truyền chống nhà nước, là nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa tại Hải Phòng. Ông Nguyễn Xuân Nghĩa có một tiểu thuyết và một truyện ngắn viết trước khi bị bắt, trong đó truyện ngắn nói về cuộc sống cơ cực của những người thợ Việt Nam đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Cả hai tác phẩm này đều không được xuất bản. Ông nói với chúng tôi:

Tôi không bị cầm tù vì hai tác phẩm, vì họ không xuất bản, nên không ghi tội tôi vào đấy, nhưng họ qui tội tuyên truyền chống nhà nước ở những bài chính luận, những bài thơ, những bài văn xuôi tả cảnh nghèo khổ, bất công của xã hội.”

Ông Nguyễn Xuân Nghĩa được trả tự do vào năm 2014. Đến tháng 10 năm 2017, ông lại bị thẩm vấn về thời gian ngắn ông gia nhập một tổ chức chính trị có tên là Hội Anh Em Dân chủ, chủ trương cạnh tranh chính trị hòa bình với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong thời gian vài năm trở lại đây, trong số những người cầm bút bị bỏ tù, số lượng những blogger chính trị tăng dần lên như các ông Phạm Viết Đào, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Ngọc Già, Hồ Hải,… bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh,…. Theo tổ chức Phóng viên không biên giới, nội trong năm nay 2017, Việt Nam đã bắt và trục xuất ít nhất 15 blogger, đa số các trường hợp họ bị gán cho tội danh tuyên truyền chống nhà nước theo điều luật số 88 của Bộ Luật hình sự Việt Nam, mà các tổ chức nhân quyền cho là có nội dung không rõ ràng nhằm trấn áp những người chỉ nêu lên chính kiến của mình một cách hòa bình.

Bên cạnh đó một số nhà văn lại lên tiếng tách khỏi Hội nhà văn, tổ chức quản lý các nhà văn của Đảng Cộng sản, và Nhà nước Việt Nam, và những người này đã thành lập một tổ chức gọi là Văn đoàn độc lập vào tháng Ba năm 2014 với số thành viên ban đầu là 62 người.

Tuy nhiên theo nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, cho đến nay chưa có công trình nào đáng kể do những người thuộc Văn đoàn độc lập này tạo ra, lý do theo ông là sự đe dọa bị bỏ tù vẫn còn treo lơ lửng:

Khi đã tách ra khỏi sự quản lý của Hội nhà văn Việt Nam, chính quyền Cộng sản Việt Nam, thì tác phẩm của họ phải có vấn đề, phải biểu thị sự tách ra đấy, mà nếu biểu thị sự tách ra của mình thì sự an nguy của họ bị ảnh hưởng. Cũng có thể là họ sẽ bị qui tội tuyên truyền chống nhà nước, mà đối với một nhà văn mà bị truy tố tội đó, bị cầm tù, thì là một điều người ta kiêng kỵ.”

Công việc xuất bản và phát hành sách hiện nay của Việt Nam vẫn thuộc quyền quản lý của nhà nước do cơ quan tuyên giáo của Đảng chịu trách nhiệm. Việc xuất bản sách trên mạng, hay in không chính thức cũng được tiến hành, nhưng theo ông Nguyễn Xuân Nghĩa những người viết sách không có đủ tài lực để theo đuổi chuyện đó dài lâu.

Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa có cái nhìn khá bi quan về sáng tác văn học của Việt Nam hiện nay, đó là các nhà văn không còn muốn viết nữa.

MUỐN SINH LỢI PHẢI DÁM LIỀU

MUỐN SINH LỢI PHẢI DÁM LIỀU

“Ông chủ đi vắng…”

Dụ ngôn những nén vàng là dụ ngôn cuối cùng trong ba dụ ngôn được thánh Mátthêu gom lại để nói lên chủ đề “Thời cuối cùng.”  Trong câu chuyện này, ai là ông chủ sắp đi xa, nếu không phải là chính Đức Giêsu? Trước đây một khoảng thời gian ngắn, chính Người đã tuyên bố: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ thấy Thầy.” (Ga 16,16).  Người sẽ ra đi để được Chúa Cha tôn vinh cách công khai và long trọng, Người cũng sẽ trở lại để tính sổ.  Vì vậy, Tin Mừng Mát-thêu đã nối kết câu chuyện xét xử tên gia nhân bất tài với cuộc phán xét chung (Mt 25,31-46).

Ngoài ra, trình thuật hôm nay được đặt trong bối cảnh Đức Giêsu sắp tiến vào Giêrusalem và chịu khổ nạn.  Con Người sắp ra đi và trao phó vương quốc lại cho những người được tín nhiệm.  Các ông có nhiệm vụ làm cho vương quốc ấy được tiến triển.

“Một người kia sắp đi xa, liền gọi gia nhân đến mà giao phó của cải mình cho họ.”

Trước hết, tất cả các gia nhân đều được trao một số nào đó, không ai trắng tay, không có vốn ban đầu.  Tuy vậy, mỗi người nhận được số vàng không như nhau.  Sau này, khi trở về, ông chủ tính sổ với mỗi người theo tình trạng không đồng đều này: ông không đòi người nhận hai nén phải trả lại năm nén.  Ông đòi mỗi người theo mức độ ông đã giao, và chỉ chừng đó thôi.

Thời gian của lịch sử nhân loại, đó là thời gian “ông chủ đi vắng”: mỗi người bị đặt trước thử thách, như gia nhân được ông chủ trao phó những trách nhiệm lớn lao.  Quả thế, đời sống của con người qua đi trong lúc dường như Thiên Chúa vắng mặt hay rút lui để cho các thụ tạo có thể phát huy sáng kiến của mình.  Điều này cho thấy Thiên Chúa rất tin tưởng và tôn trọng con người.

Với các môn đệ của Đức Giêsu, nén vàng chính là “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ…, dạy họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em…” (Mt 28,19.20).  Ngay từ lúc ấy, các môn đệ của Đức Giêsu, đặc biệt là ông Phêrô, được tung vào một thử thách ghê gớm: cuộc đối đầu với các vị lãnh đạo cao nhất về tôn giáo của đất nước.  Ông sẽ mạnh mẽ lên tiếng làm chứng: “Anh em đã giết chết Đấng khơi nguổn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết.” (Cv 3,15).  Chẳng có ai ban sức mạnh cho ông, ngoại trừ Thánh Thần của Thiên Chúa.  Tất cả đã được trao cho các môn đệ, cho ông Phêrô.

Ít lâu sau, một cuộc khủng hoảng xảy ra: Có nên từ bỏ Giu-đa giáo không?  Câu trả lời không dễ dàng và cũng không có ngay được.  Dường như chính Đức Giêsu đã không giới hạn sứ vụ của Người nơi đoàn chiên Israel.  Cuối cùng, Hội Thánh đã can đảm tiến lên phía trước: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…” (Cv 15,28).

Tiếp đó là cuộc đụng đầu với bộ máy cầm quyền ở Rô-ma, rồi với cuộc xâm lăng của dân man-di, việc tiếp xúc với những nền văn minh xa lạ.  Mỗi lần lại là những vấn đề mới.

Nhìn chung chỉ khi nào vượt lên khỏi sự sợ hãi, lúc ấy Hội Thánh mới ý thức được rằng Tin Mừng không phải là một kho tàng để cất giữ, nhưng là một hạt giống cần được gieo xuống, một vườn nho phải sinh hoa trái, một nắm men phải dậy lên, một cuộc phiêu lưu cần mạo hiểm, một số vốn phải sinh lời, và cuối cùng, một trách nhiệm phải chu toàn cho đến ngày ông chủ trở về.

Như thế, ông chủ đi vắng, nhưng ông đã tin tưởng vào các gia nhân.  Ông đã trao toàn bộ tài sản của ông cho họ.  Bổn phận của họ là làm lợi thêm để khi ông trở về, ông sẽ tính sổ và ban thưởng.

“… nhưng ông sẽ trở về”

Ông chủ ra đi khá lâu và cuộc thử thách vẫn kéo dài.  Người ta có cảm tưởng rằng ông không trở về, hay là ông đã chết rồi.  Nhưng không, ông sẽ trở về, vào giờ phút không ngờ.  Không ai biết được lúc nào ông chủ trở về.  Chính vì vậy, Đức Giêsu khuyên các môn đệ luôn phải sẵn sàng, phải tỉnh thức trong khi chờ đợi.

Rồi đến lúc ông chủ trở về và đòi các gia nhân tính sổ.  Những người đã sử dụng vốn liếng ông đã trao để sinh lợi, ông ban tặng phần thưởng xứng đáng.  Riêng với người đem cất kỹ nén vàng ông đã trao, ông xử phạt.  Tại sao thế?  Anh đã không sinh lợi thêm, nhưng ít ra vẫn bảo toàn nén vàng, không suy suyển, mất mát.

Thật ra, anh ta không phải là người bất lương; không sinh lợi thêm không có nghĩa là ăn cắp.  Vậy, anh không làm điều bất công, không lỗi đức công bằng, tại sao anh lại bị quở trách và bị xử phạt?

Ông chủ quở trách anh, không phải vì anh đã phạm tội làm trái lẽ công bằng, nhưng tại vì anh đã cư xử trái ngược với sự tín nhiệm ông đặt nơi anh.  Thái độ đáng bị khiển trách của anh, không phải là không làm lợi thêm cho ông chủ, nhưng chính là không dám làm.  Lý do anh đưa ra để bào chữa cho thái độ của mình: anh sợ ông chủ “là một người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi.”  Anh đã tính toán và nghĩ rằng tốt hơn cả là không nên liều.  Anh đã nghĩ sai về ông chủ, anh đã hồ nghi.  Tội của anh là ở chỗ đó.

Và ông chủ đối xử với anh như anh đã nghĩ về ông.  Anh sợ ông, anh nghi ngờ ông, anh nghĩ ông là người hà khắc; vậy ông xử với anh như anh nghĩ.  Ông đã quở trách anh là bất tài, là vô dụng, thu lại nén vàng đã giao và hơn nữa, còn giam anh vào nơi tối tăm.

Như thế, khi ông chủ tính sổ, thái độ tin tưởng hay hồ nghi sẽ là mức độ để ban thưởng hay xử phạt. Anh gia nhân được giao một nén chỉ nghĩ đến sự hà khắc của ông chủ, nên anh bị phạt, còn những người khác lại nghĩ đến lòng đại lượng của ông chủ, và họ đã sống theo đó, nên được ban thưởng.  Càng tính toán kỹ, người ta lại trở về tay trắng, còn khi tin tưởng, người ta được tràn trề, vượt quá lòng mong ước.

Đây là một thử thách lớn với con người, kể từ thời A-đam. Người ta vẫn có thói quen coi Thiên Chúa như một vị bạo chúa hơn là một người cha đầy tình yêu thương, Đấng đã thiết lập “giao ước” với con người, sau khi họ phạm tội.  Đây cũng là ý nghĩ của những người biệt phái và kinh sư: họ nghĩ rằng chỉ có họ là người công chính, còn người khác thì không.  Họ chẳng yêu mến gì Thiên Chúa, nhưng chỉ vì muốn an toàn và thu lợi về cho mình.  Vì vậy, đương nhiên họ cũng hiểu Đức Giêsu muốn ám chỉ họ khi kể dụ ngôn này.

Như vậy, chắc chắn ông chủ sẽ trở về.  Ông sẽ ban thưởng cho người yêu mến ông, sống xứng đáng với lòng tín nhiệm của ông, ai sống ngược lại, sẽ bị xử phạt.

Mỗi người có vị trí riêng

Một cách gián tiếp, dụ ngôn này đặt nền cho sự tự do của chúng ta.  Nhờ bí tích thanh tẩy, mỗi người đã đón nhận những nén vàng, và phải sinh lợi thêm.  Mỗi người đều có trách nhiệm phát huy sáng kiến để làm tăng thêm những nén vàng.  Tự do cũng đồng nghĩa với dám liều.  Thiên Chúa không muốn chúng ta sống như những người nô lệ, nhưng là như những người tự do, tức là biết quyết định về đời sống hiện tại cũng như tương lai của mình.

Trong thời gian chờ đợi ngày Chúa trở lại, mỗi người chúng ta sẽ sử dụng, điều hành mọi sự không phải như là tài sản của riêng mình, nhưng là của Đấng Sáng Tạo.  Việc sử dụng tốt nhất chính là cộng tác tích cực vào việc xây dựng Nước Thiên Chúa.  Chúng ta sẽ không phân bì, tính toán mình nhận được nhiều hay ít, nhưng hiểu rằng mỗi người có những nén vàng, có vai trò và trách nhiệm riêng của mình.  Thiên Chúa tín nhiệm mỗi cá nhân và giao cho mỗi cá nhân một vị trí đặc biệt, có thể nói mạnh rằng, không ai giống ai.  Điều cần thiết là mỗi người phải hoàn thành “vai trò lịch sử” của mình; bởi vì, vào ngày Chúa trở lại, Người đòi mỗi người phải tính sổ, phải trả lời về những nén vàng mình đã nhận.

Để được như thế, chắc chắn chúng ta phải vượt ra khỏi ý nghĩ cho rằng Thiên Chúa là người hà khắc, trái lại phải sống với Người như với một người cha đầy tình âu yếm.  Thái độ này sẽ khơi dậy lòng tin để dám thoát ra khỏi sự an toàn cá nhân, kể cả việc tỉ mỉ tuân giữ Lề Luật, và vươn tới tinh thần tự do, tinh thần của những người dám đưa ra sáng kiến và đảm nhận trách nhiệm của mình.

Thiên Chúa vắng mặt,

nhưng Người đã tín nhiệm chúng ta,

Người mong muốn chúng ta tỉnh thức

và đảm nhận tương lai của mình.

Chúng ta không có quyền coi thường hay hồ nghi sự tín nhiệm đó,

không có quyền ngủ yên trong hiện tại,

nhưng nhận ra đó là một vinh dự

để nỗ lực hướng tới tương lai, đợi ngày Người trở lại và tính sổ.

 Lm. G Nguyễn Cao Luật, OP

From Langthangchieutim

Trương Minh Tuấn – ngu toàn tập!

From facebook:  Thuc Tran
Trương Minh Tuấn – ngu toàn tập!

Người Quan Sát (Danlambao) – Bộ trưởng Thông tin Truyền thông Trương Minh Tuấn vừa tuyên bố mặc dù Việt Nam đang có đến 363 trang mạng xã hội do “tổ chức trong nước” cung cấp nhưng người dân chủ yếu vẫn dùng Facebook và YouTube (*).

Trương Minh Tuấn cho biết hiện tại có khoảng 53 triệu người Việt trong nước sử dụng Facebook và 35 triệu người dùng YouTube. Cũng theo Trương Minh Tuấn thì lý do chừng đó người dùng 2 mạng xã hội trên vì đây là nơi “Các thông tin tiêu cực như xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ, kêu gọi kích động biểu tình, chống phá nhà nước… chủ yếu tồn tại trên các mạng xã hội nước ngoài, do nhận thức của người sử dụng cho rằng mạng xã hội là môi trường ảo nên có thể tự do phát ngôn mà không phải chịu trách nhiệm, gây ảnh hưởng đến tổ chức, cá nhân”.

Nói như vậy thì chẳng khác gì thú nhận có nhiều triệu người dân đã “xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ, kêu gọi kích động biểu tình, chống phá nhà nước”?

Để giải quyết tình trạng không kiểm soát và che giấu được thái độ của người đối với chế độ, Trương Minh Tuấn hô hào sẽ thúc đẩy mạng xã hội do doanh nghiệp trong nước cung cấp.

Nói cho đầy đủ và chính xác thì đó là những “tổ chức trong nước” do đảng và nhà nước cộng sản toàn quyền kiểm soát.

Trương Minh Tuấn nghĩ rằng khả năng công nghệ trong nước sẽ vượt trội hơn Facebook hoặc YouTube để người dân chọn lựa sản phẩm tốt hơn!? Và người dân sẽ chọn lựa những trang mạng xã hội do “tổ chức trong nước” cung cấp để không còn có thể tự do phát ngôn và chui vào vòng kiểm soát của Bộ 4T và tập đoàn côn an theo như lời Trương Minh Tuấn tuyên bố: “Bộ Thông tin Truyền thông cũng đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an để ngăn chặn, xử lý các trường hợp vi phạm ẩn danh tính…”

Câu trả lời đương nhiên là không. Cách giải quyết duy nhất của tà quyền là tống cổ Facebook, YouTube ra khỏi không gian Việt Nam hay tìm cách sửa luật lệ thông tin mạng để 2 công ty này buột phải rút khỏi Việt Nam vì không thể kinh doanh theo những luật rừng. Đó là điều mà đảng và nhà nước CSVN đang nhắm để tiếp tục thực hiện chính sách bịt mồm cả nước và ngu dân để trị.

16.11.2017

Người Quan Sát
danlambaovn.blogspot.com

Image may contain: 1 person, eyeglasses