Đi khắp thế gian không ai bằng mẹ

Nguồn:  Tran Dat shared Nguyen Hoang Phuc‘s post.
Image may contain: text
Nguyen Hoang Phuc

 

” Đi khắp thế gian không ai bằng mẹ 
Gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng Cha.”
_ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _

Cha mẹ có nghĩa là duy nhất
Một mặt trời, một mặt đất,một vầng trăng.
Cha mẹ không sống đủ trăm năm
Nhưng đã cho con, niềm vui với nụ cười.
Cha mẹ có nghĩa là ánh sáng
Một ngọn đèn, được thắp bằng,máu con tim.
Cha mẹ có nghĩa là mãi mãi
Cho con tất cả, không đòi lại bao giờ.

P/s : Trên đời không ai được so sánh hơn Cha Mẹ của mình.Là những người dám hy sinh tất cả cho con. Dù phải đánh đổi mạng sống,họ cũng chấp nhận.Cha Me chỉ mong con của mình được bình yên,vui vẻ và hạnh phúc.

BẤT CÔNG! TAO BỊ LỪA

Nguồn:   JB Nguyễn Hữu Vinh‘s post.
 
Image may contain: 1 person, standing, flower and outdoor
Image may contain: one or more people and eyeglasses
Image may contain: 1 person, standing

 
Image may contain: 1 person, text
+4
JB Nguyễn Hữu Vinh added 7 photos and a video.Follow

 

BẤT CÔNG! TAO BỊ LỪA

Sau khi Nguyễn Khắc Thủy bị tòa tuyên 3 năm tù về tội ấu dâm, lão ta dọa tự thiêu và ra sân Tòa đòi đốt thẻ đảng.
Có một người can ngăn lão nên lão thôi.

Tối hôm đó, con cháu lão đã đến an ủi, động viên lão, lão không nói gì. Đứa con trai lão thấy lão ngồi trầm ngâm rồi đi lại, bức bối khó chịu đành lựa lời an ủi:
– Bây giờ chỉ còn mấy bố con trong nhà, bố nói cho con biết bố có oan ức gì không mà khó chịu thế? Bố có sờ mấy đứa trẻ con không?
– Có, sờ chúng nó thì có, nhiều đứa là khác. Nhưng bực không chịu nổi.

– Thôi bố ạ, mình đã làm thì chấp nhận chịu thôi, thế mới là đàn ông.
– Mày nói như cứt, không phải là đàn ông mà tao chỉ sờ soạng mấy đứa con gái thôi à? Mày tưởng tao là Pede chắc? Nhưng chấp nhận thì làm sao mà chấp nhận được chứ, mày đã đi tù chưa mà biết?
– À, thì đã đành rồi, nhưng mình là đảng viên, phải nêu cao tinh thần trung thực, thẳng thắn và ngay chính của đảng viên chứ.
– Thế mà mày nói được à? Mày xem đảng viên cả mấy triệu thằng có thằng nào trung thực chưa mà mày bảo tao?

– Nhưng như vậy thì vào tù bố càng phải nêu cao tính đảng, tính chiến đấu trong tù, để góp phần cùng đảng ta cải tạo bọn tù nhân trong trại tốt hơn. Trong đó toàn bọn khốn nạn thôi bố ạ. Thôi bố cứ coi như đó là nhiệm vụ đảng giao cho bố đi.
– Tao không nêu cao tính đảng, tính chiến đấu mà tao chối tội đến cùng, còn phản đối cả tòa án đấy à?

– Nhưng hành động của bố đòi tự thiêu là không nên. Bố không thấy trên mạng người ta đang hô nhau gửi xăng cho bố đấy à?
– Đỗ mười nhà mày. Tao nói thế chứ tao có ngu đâu mà làm thế? Mày không biết tao đã là đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo và giờ vẫn còn là đảng viên à? Sao mày lại ngu đi tin những lời ấy.

– Vậy sao bố lại đòi đốt thẻ đảng?
– Vì chúng nó xử bất công với tao nên tao ức, tao dọa chúng nó thôi.
– Bất công như thế nào bố nói đi để bọn con còn khiếu nại cho bố.
– Bất công quá đi chứ. Mày có biết tao đã 51 tuổi đảng, có dư mấy ngày mà chúng nó còn tuyên án tù tao 3 năm. Trong khi có thằng nói ngay giữa Quốc hội là: “Tôi còn 3 ngày nữa là tròn 51 năm theo đảng. Đảng phân công thì tôi còn làm chứ không xin xỏ”. Thế rồi người ta đòi nó từ chức, nó cứ lỳ cái mặt ra mà đảng trưởng ngồi dưới mặt tím lại cũng không làm được gì nó. 
Thế mà tao đã hơn 51 năm tuổi đảng, còn hơn cả nó, lại đang giữ thẻ đảng hẳn hoi, vậy mà nó dám tuyên án tao là bất công.

– Nhưng nó không liên quan đến gái, không liên quan đến sờ mó, tiếp xúc và ấu dâm.
– Mày sao biết nó không? Mày có là đảng viên cao cấp chưa mà dám kết luận?
– Nhưng không ai thấy nó như vậy, đằng này bố thì người ta có đủ chứng cứ.
– Này nhé, còn có thằng khác hôn trẻ con gái ngay giữa thanh thiên bạch nhật, báo chí đưa ầm ầm. Ra nước ngoài, nước hồi giáo hẳn hoi mà còn cứ bám mấy đứa bé gái hôn… đến mức chủ nhà phải ngăn cản. Báo chí nước ngoài đưa ồn ào và chửi rủa, sao không đưa ra mà xử đi.

– À, thì ra con hiểu rồi.
– Mày hiểu cái gì?
– Bố vừa học tập xuất sắc và nay thì thực hành “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức…” Đúng không?
– Chứ sao. Tổ sư cái bọn nói một đằng, làm một nẻo làm bố mày mắc lừa.
19/11/2017
JB Nguyễn Hữu Vinh

P/s: Điều rất lạ mà không lạ, là khi lão đòi đốt thẻ đảng, các đồng chí công an, đảng viên đứng xung quanh không ai ngăn cản. Chỉ có một mụ không phải là đảng viên (chắc là đối tượng đảng) vào can ngăn mà thôi.
Theo các bạn, các chiến sĩ đó nghĩ gì khi đó?

Tấn Hiến Công mượn đường nước Ngu đánh nước Quắc

Tấn Hiến Công mượn đường nước Ngu đánh nước Quắc

Nguyễn Trọng Dân (Danlambao)  Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 8 đã tuyên bố Hàng Không Mẫu Hạm của Mỹ sẽ ghé thăm Việt Nam vào năm tới (1), dự đoán là vào cảng Cam Ranh. Dù không đưa ra thêm chi tiết sau lời tuyên bố, nhưng sự hiện diện Hàng Không Mẫu Hạm kéo theo cả dàn chiến hạm hộ tống hùng hậu cho thấy Hoa Kỳ dứt khoát quyết tâm hiện diện quân sự trở lại tại miền Trung Việt Nam.

Bề ngoài thì sự hiện diện Hàng Không Mẫu Hạm của Hoa Kỳ tại Việt Nam vào năm tới như là nỗ lực khẳng định vị thế siêu cường tuyệt đối của Hoa Kỳ trong vùng Đông Nam Á không thể chối cãi. Thế nhưng điều ít người để ý rằng đây cũng là hành động nhằm trấn an hỗ trợ đại công ty lọc dầu và khí đốt ExxonMobil của Hoa Kỳ, khi công ty này vừa mới tung một khoản đầu tư lớn lên trên 600 triệu Mỹ kim để bao thầu toàn bộ mỏ dầu và khí đốt Cá Voi Xanh (2), dự kiến khởi công vào tháng 11 năm nay, ngay lúc hội nghị APEC khai mạc cũng tại Đà Nẵng. Đương nhiên, Exxon còn có nhiều hợp đồng khai thác dầu hỏa khác ngoài khơi Việt Nam.

Vào năm 2008, cũng chính đại công ty Exxon đã buộc phải nuốt nhục tháo chạy vội vã ra khỏi dự án khai thác dầu tại phía nam Côn Sơn trước sự hù dọa của Trung Cộng, nhưng lần này, với dàn Hàng Không Mẫu Hạm của Hoa Kỳ hùng hậu hiện diện cần kề kế bên, Exxon chắc chắn không dễ gì mà run sợ trước Hải quân Trung Cộng như năm 2008 nữa.

Mỏ Cá Voi Xanh này nằm chắn ngang vùng lãnh hải có hình lưỡi bò bao trùm cả biển Đông mà Trung Cộng tuyên bố là thuộc chủ quyền của mình không thể thay đổi hay chối cãi. Cho nên, Exxon hiện diện khai thác công khai tại nơi này khiến Bắc Kinh tức giận vô cùng, nhưng nếu Bắc Kinh thẳng tay đuổi Exxon đi thì gây chuyện quá lớn, mà nhịn im thì nhục vô cùng, các nước lân bang còn ai nể sợ nữa, chủ quyền hình lưỡi bò tự nhiên bị cắt ngang bể cả mặt mũi siêu cường. 

Hoa Kỳ kéo Hàng Không Mẫu Hạm và Hải quân trấn đóng tại Cam Ranh, đứng phía sau lưng dàn khí đốt của Exxon tại mỏ Cá Voi Xanh chực chờ, chỉ cần họ Tập nóng tiết bất cẩn không dằn được mà đem tàu chiến xua đuổi hãng Exxon là Hải quân Hoa Kỳ phản ứng can thiệp ngay lập tức.

Một điểm khá lạ là vào năm 2008, khi hãng này bị Trung Cộng hù dọa bỏ chạy té khói nhục cả mặt mũi khỏi dự án khai thác dầu tại nam Côn Sơn, thì kỹ sư cầu cống Rex Tillerson, nay là Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, đang đảm nhiệm chức Tổng giám đốc đại công ty này. 

Có thể nói, sự quay trở lại của Exxon lần này tại mỏ Cá Voi Xanh với dàn Hàng Không Mẫu Hạm hùng hậu mà chẳng thèm “đếm xỉa” gì đến mặt mũi của Bắc Kinh cho thấy Rex đang tát vào mặt Trung Cộng, trả cái hận vì yếu thế mà phải nuốt nhục, chịu bị mất mặt bỏ chạy rút lui khỏi dự án nam Côn Sơn ngày trước. Ai bảo là người Mỹ không biết trả thù?!

Để có được sự chống lưng về quốc phòng, cũng như bãi bỏ cấm vận mua bán vũ khí từ phía Hoa Kỳ, vào năm ngoái, Việt Cộng thông qua công ty Vietjet, đã phải chi ra trên 11 tỷ Mỹ kim để mua về khoảng 100 chiếc máy bay dân dụng của hãng Boeing dưới sự chứng kiến của Tổng Thống Obama (3). 

Trong tương lai, nếu việc mua thêm các chiếc phi cơ tuần tra biển như chiếc P-3 Orion, hay F-16 của đại công ty Lockheed Martin chẳng hạn, hay mua thêm nhiều loại vũ khí hiện đại khác từ Hoa Kỳ, được tiến hành, thì số tiền chi trả có thể vượt qua con số 11 tỷ một cách dễ dàng. Việt Cộng chỉ còn có cách là dùng lợi nhuận thu được từ dầu hỏa khí đốt khi hợp tác khai thác với Hoa Kỳ để chi trả thanh toán tiền mua vũ khí mà thôi. 

Như vậy là Hoa Kỳ kiếm lời ở cả hai đầu đối với Việt Cộng, một đầu là lợi nhuận từ khai thác dầu hỏa, khí đốt ngoài khơi Việt Nam và đầu kia là tiền bán vũ khí cho Việt Nam, được thanh toán bằng tiền khai thác dầu hỏa. 

Không phải vô cớ mà Hoa Kỳ bây giờ chiều chuộng Việt Cộng tối đa, nhắm mắt làm ngơ cho Việt Cộng ba hoa khoát lác đủ trò, chẳng hạn như cười nhạo giá trị tư do và nhân quyền mà Hoa Kỳ lúc nào cũng coi như là giá trị chính yếu của một quốc gia. Đó là chưa kể vác mặt tự hào một cách ngu xuẩn là đã đánh thắng nước Mỹ. 

Người Mỹ họ biết hết nhưng họ làm ngơ lờ đi, xởi lởi bắt tay tình bạn hữu với Việt Cộng, để tiếp tục lợi dụng chế độ Cộng sản độc tài này mà từng bước thâu tóm hết tài nguyên quan trọng và mọi cơ sở hạ tầng chiến lược của quốc gia vào trong tay tư bản Hoa Kỳ, từ dầu hỏa khí đốt, kim loại quý hiếm dùng trong công nghệ tân tiến, đến đất đai cảng bến, phi trường, v.v…

Cũng có thể ví chuyện Hoa Kỳ chiều chuộng Việt Cộng ngày nay giống như chuyện vua Tấn Hiến Công chiều chuộng vua nước Ngu để xin mượn đường nước Ngu đi diệt nước Quắc thưở Xuân Thu xa xưa, khoảng vào năm 658 trước Công Nguyên.

Nước Quắc vừa diệt xong thì nước Ngu cũng bị Tấn đánh úp mà mất, bởi Tấn Hiến Công đã có chủ tâm diệt Ngu từ lâu để trả hận năm xưa nước Ngu giúp nước Quắc hại nước Tấn. 

Chỉ có điều khác với thời nhà Chu ngày trước ở chỗ là nước Ngu ngày nay của anh Lú không cho mượn đường thì cũng bị nước Quắc xì dầu kề bên thôn tính mất. Cho nên câu hỏi đặt ra cho nước Ngu của anh Lú là muốn để mất vào tay ai, vào nước Quắc xì dầu của anh Tập hay nước Tấn nhiều đô la của anh Trump?

Hoa Kỳ hiện diện Hải quân ồ ạt vào ra ở Cam Ranh để sẵn sàng trợ chiến tại biển Đông khi cần thiết; thế nhưng lại để hở đầu chín tỉnh biên giới Bắc Hà, không thiết lập căn cứ Không quân, lục quân yểm trợ phòng thủ cho Việt Cộng, tạo điều kiện dễ dàng cho Trung Cộng sẵn sàng tràn qua trả đũa Việt Cộng bất cứ lúc nào cũng được khi tranh chấp biển Đông leo thang. 

Điều này cho thấy Hoa Kỳ muốn dụ bộ binh tinh nhuệ trung thành của họ Tập bị xa lầy vướng chân ở miền Bắc Việt Nam; khiến không thể nào tiếp ứng cho họ Tập nếu có chính biến xảy ra ngay tại Bắc Kinh, điều mà nhiều phân tích gia lỗi lạc như chiến lược gia Thomas Vien, luật sư Gordon Chang hay giáo sư Sulmaan Khan đã dự đoán từ trước. 

Có thể nói nếu cuộc chiến chống sự bành trướng của Cộng Sản tại Đông Á vào thời chiến tranh Lạnh, miền Nam Việt Nam là bãi chiến trường thì cuộc đối đầu giữa nước Quắc xì dầu và nước Tấn nhiều đô la tại Đông Nam Á trong tương lai, khả năng miền Bắc Việt Nam trở thành bãi chiến trường là rất cao.

Ngày xưa, người dân miền Bắc gây ác nghiệp nên bây giờ gặp quả báo chăng? 

Người dân miền Bắc ngày nay phải hứng chịu thù hận từ ba phía:

  1. Hứng chịu thù hận từ nước Tấn nhiều đô la, đã phải ngậm ngùi nhìn anh linh của hơn năm mươi ngàn quân nhân tử trận trong oanh liệt nhưng vào phút chót, phải chịu mang tiếng là phản bội đồng minh Việt Nam Cộng Hòa. 
  2. Hứng chịu thù hận từ người dân nước Quắc xì dầu, vốn coi nước Ngu là anh em, giúp nước Ngu bao vạn tỷ tiền để nước Ngu đánh nước Tấn nhiều đô la, ấy vậy mà nước Ngu cứ năm lần bảy lượt ăn cháo đá bát, vô ơn bội nghĩa với nước Quắc xì dầu.
  3. Thù hận từ cả chục triệu người dân sống ở miền Nam Việt Nam, già cũng như trẻ, thế trước cũng như thế hệ sau, bất kể là gốc Bắc kỳ di cư hay gốc sầu riêng, gốc Minh Hương, gốc thiểu số, v.v…, gốc nào cũng bị tan nhà nát cửa tù tội mấy thế hệ hận vong quốc sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 cho đến nay.

Bởi vậy về sau này, người dân miền Bắc Việt Nam gánh chịu khổ đau bom đạn của anh Quắc xì dầu dội ầm ỉ khắp chín tỉnh, nước Tấn nhiều đô la thì hả dạ cười thầm, nước Quắc xì dầu thì hả giận là đã đập được nước Ngu phản bội, còn người dân sống ở miền Nam Việt Nam thì chẳng ai chịu thương tâm gì hết mà lại nghĩ rằng: “Bọn Bắc Kỳ Cộng Sản chúng mày thờ Mao bất diệt, nhận vũ khí của nước Quắc xì dầu gây chiến tranh hại dân hại nước tao thì bây giờ quân Mao đập cho mày chết cũng là đáng đời!” 

Nói tóm lại, cứ hể Bắc Kỳ Việt Cộng đi đâu là ai cũng ghét, hể Việt Cộng đi đâu là cũng thù.

Bởi vậy, muốn hòa hợp hòa giải dân tộc thì chỉ có Việt Nam Cộng Hòa và lá cờ Vàng mới có thể hiệu triệu nỗi lòng tha thứ của muôn dân mà giải bớt ác nghiệp.

Việt Nam Cộng Hòa có quyền thừa kế rõ ràng minh bạch tại biển Đông, lại là thừa kế nhân duy nhất từ triều Nguyễn thông qua trưng cầu dân ý, cho nên, nếu Việt Nam Cộng Hòa hiện diện trở lại thay thế Cộng Sản, nước Quắc xì dầu của anh Tập lấy cái cớ gì mà đánh chín tỉnh miền Bắc Việt Nam?! 

Mà nếu nước Quắc xì dầu chơi ngang đánh bừa ở các tỉnh phía Bắc vì tranh chấp biển Đông leo thang thì cả miền Nam kinh tế tài lực hùng hậu nhào ra tổng tấn công hổ trợ phòng thủ theo tình đoàn kết cờ Vàng, thì người dân miền Bắc cũng không bị trơ trọi hứng đạn cho đến chết như tình trạng sẽ xảy ra sắp tới, khi nước Ngu bị nước Quắc xì dầu đàn anh đập thẳng tay cho chừa cái thói ăn cháo đá bát.

Việt Nam Cộng Hòa có khả năng hòa hợp hòa giải thù hận dân tộc như Phật giải oán nghiệp chúng sanh. Cụ Trạng Trình nói: “Thờ Phật thì ăn oản,” thờ Việt Nam Cộng Hòa thì thoát ác nghiệp quả báo tang thương chết chóc đang từ từ trờ tới.

Về phần nước Tấn nhiều đô la, mang thân phận phản bội đồng minh ê chề bốn mươi năm, nếu nay Việt Nam Cộng Hòa trở lại thì toàn bộ cam kết đồng minh từ kinh tế, quân sự năm xưa, đâu thể nào nuốt lời!

Hơn nữa, công trái phiếu của nước Tấn nhiều đô la mà Việt Nam Cộng Hòa mua năm xưa còn sờ sờ ra đó trong Quốc Khố Viện của nước Tấn, là bằng chứng cụ thể cam kết quan hệ đối tác. Không biết, mấy chục năm lời đẻ ra lời, bây giờ là bao nhiêu tỷ Mỹ kim đây! Cho nên, nước Tấn nhiều đô la đâu thể nào mà dùng dầu hỏa của dân Việt để đổi lấy vũ khí như hiện nay được. 

Tiền dầu hỏa thì dân Việt bỏ túi, ban phát cho các chương trình an sinh xã hội để cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao dân sinh dân trí; còn vũ khí để nện anh Quắc xì dầu nếu cần thiết, nước Tấn muốn quỵt cam kết như năm xưa, lấy cái cớ gì để mà quịt khi Việt Nam Cộng Hòa hiện diện trên toàn cõi Nam Bắc không có nội thù?

Những nguyên tắc căn bản về công pháp trong mối liên hệ đồng minh và liên hệ ngoại giao đa quốc gia buộc nước Tấn nhiều đô la phải tuân thủ để giữ vững vị thế siêu cường. 

Nếu Việt Nam Cộng Hòa trở lại thì âm mưu dơ bẩn của nước Tấn nhiều đô la hiện nay đâu thể nào thực hiên được nữa – tức là biến cả một dãi đất hình chữ S của dân Việt, phân nữa (4) trở thành thuộc địa cho tư bản ngân hàng của nước Tấn nhiều đô la; phân nữa (5) thành bãi chiến trường cho nước Quắc xì dầu nã súng. 

Nước Tấn nhiều đô la rất sợ làm trái chính nghĩa mất mặt siêu cường. Nước Ngu còn tồn tại thì nước Tấn nhiều đô la mới có thể trì hoãn trách nhiệm chính nghĩa của mình mà lợi dụng kiếm lời chút chút trước khi Việt Nam Cộng Hòa quay trở lại. 

Nói như thế không có nghĩa là nước Tấn nhiều đô la nuốt lời phục hận. Trước hay sau gì Việt Nam Cộng cũng quay trở lại để nước Tấn nhiều đô la minh bạch danh dự của quốc gia mình. 

Nước Tấn nhiều đô la chỉ cố trì hoãn sự trở lại của Việt Nam Cộng Hòa để lợi dụng nước Ngu mà nắm thêm nhiều tài nguyên, cơ sở hạ tầng, nhân sự có lợi cho việc gây khó dễ Việt Nam Cộng Hòa sau này.

Dầu hỏa đâu mà chẳng có, tại sao Exxon của nước Tấn nhiều đô la cứ nhất thiết phải đâm đầu vào chổ dầu sôi lửa bỏng tranh chấp mà mua mà khai thác cho bằng được. Ấy là vì ngoài việc mua rẻ ra, chủ đích cũng chỉ là để khích nước Quắc xì dầu nổi nóng mà đâm hận nước Ngu, đập nước Ngu tả tơi dùm cho nước Tấn. Nước Ngu vì nông nỗi, lại đang túng quẫn, cần đô la vũ khí để trấn áp người dân nên nhắm mắt mà nghe lời nước Tấn nhiều đô la, bán rẻ hết mỏ dầu này đến mỏ khí nọ, lại cho Hải quân nước Tấn nhiều đô la vào bến cảng gầm gừ Hải quân của nước Quắc xì dầu.

Thế là một công đôi ba chuyện, nước Tấn nhiều đô la vừa được mỏ dầu giá rẻ, vừa được lời tiền bán vũ khí, mà rồi sau cùng, nước Ngu cũng bị đập, nước Quắc xì dầu cũng chảy máu rồi do nội loạn mà yếu đi và bị nước Tấn nhiều đô la xóa xổ. 

Thì ra đây là cái cách mà nước Tấn nhiều đô la đang giúp để Việt Nam Cộng Hòa trở lại.

Người dân nước Ngu không muốn làm dân nước Ngu nữa để tránh trở thành bị thịt cho nước Quắc xì dầu đập tan nát, cũng như muốn thoát ác nghiệp do bắn giết cướp bóc đồng bào miền Nam, gây ra thù oán khôn nguôi, thì nên tự mình ôm lá cờ Vàng vào tim. Trước hay sau gì Việt Nam Cộng Hòa cũng trở lại, ôm cờ Vàng vào tim càng sớm càng tốt.

Hãy cương quyết chú trọng tập trung đấu tranh cho một mục tiêu duy nhất mà thôi- đó là phục hồi Việt Nam Cộng Hòa!

“In front of the Yellow flag, we believe!”

Nguyễn Trọng Dân

danlambaovn.blogspot.com

CHỐNG LẠI CƠN CÁM DỖ

CHỐNG LẠI CƠN CÁM DỖ

Trong cuộc sống, tất cả chúng ta đều luôn phải đối mặt với đủ loại cám dỗ, đủ kiểu mưu ma chước quỷ rất tinh vi, nhưng Thiên Chúa muốn chúng ta chiến thắng chúng. Hãy tin tưởng và quyết tâm chiến đấu. Đây là vài cách khả dĩ giúp chiến thắng chước cám dỗ.

  1.  CẦU NGUYỆN TRƯỚC KHI BỊ CÁM DỖ

Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu xin về phần hồn:“Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”. Và Ngài cũng dạy chúng ta cầu xin cho phần xác:“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Hàng ngày, thực sự cần thiết để chúng ta cầu xin Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi các chước cám dỗ.

  1. TẨU VI THƯỢNG SÁCH

Hãy cố gắng tránh xa dịp tội. Đừng nghĩ rằng mình sẽ không sa ngã. Nếu bạn thuê một người vận chuyển đồ quý giá, bạn sẽ không bảo họ cố gắng chạy xe sát vách đá. Chương 7 của sách Châm Ngôn có nói tới câu chuyện về “một thanh niên thiếu ý thức”. Anh ta đi thơ thẩn gần nhà một phụ nữ vào lúc chạng vạng tối, rồi thấy một phụ nữ đã có chồng và ăn mặc hớ hênh như gái điếm. Ả nói rằng chồng ả vắng nhà, ả mô tả về cái giường của ả xịt nước hoa thơm phức. Miệng ả dẻo quẹo, lời nỉ non như rót vào tai khiến chàng thanh niên kia đi theo ả vô nhà y như con bò lao vào lò mổ. Bà Eva gặp rắc rối cũng chỉ vì “dính líu” tới Satan, cặp mắt liên láo của bà Eva liếc thấy trái cấm hấp dẫn lắm. Thế là sập bẫy ma quỷ. Chỉ vì máu tò mò mà người ta “chết”. Tốt nhất là chạy trốn ma quỷ, vì “tránh voi chẳng xấu mặt nào” (tục ngữ Việt Nam). Trong cuốn “Tôn Tử Binh Pháp” có 36 kế của Tôn Tử, kế hay nhất là “nếu thấy không đủ sức chiến đấu thì CHẠY để bảo toàn lực lượng”. Kế “đào tẩu tthật chí lý và khôn ngoan!

  1. CẦU NGUYỆN TRONG KHI BỊ CÁM DỖ

Thánh Phaolô nói: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:14-16).

  1. XIN NGƯỜI KHÁC CẦU NGUYỆN

Tác giả sách Giảng Viên đặt vấn đề: “Một mình dễ bị tấn công, có hai người, ắt sẽ đương đầu nổi ; dây chập ba đâu dễ gì đứt?” (Gv 4:12). Người Việt cũng nói: “Một cây làm chẳng nên non – Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Đừng ảo tưởng mà cậy vào sức riêng mình!

  1. TRUNG THÀNH VÀ CHỊU ĐỰNG

Thánh Phaolô nói: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1 Cr 10:13). Thiên Chúa không bao giờ để chúng ta bị cám dỗ quá sức, nếu chúng ta cầu xin thì Ngài sẽ “mách nước” để chúng ta chiến thắng ma quỷ.

  1. HỆ LỤY CỦA TỘI LỖI

Hãy ghi nhớ điều này: “Anh em đừng có lầm tưởng: Thiên Chúa không để cho người ta nhạo báng đâu! Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy” (Gl 6:7).

Khi vua Đa-vít phạm tội ngoại tình với bà Bát Se-va (Bathsheba) và đẩy chồng bà ra trận để phải chết, Thiên Chúa tha thứ cho ông nhưng nói với ông: “Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của U-ri-gia, người Khết, làm vợ ngươi. Ta sắp dùng chính nhà của ngươi mà gây hoạ cho ngươi. Ta sẽ bắt các vợ của ngươi trước mắt ngươi mà cho một người khác, và nó sẽ nằm với các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. Thật vậy, ngươi đã hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt toàn thể Ít-ra-en và giữa thanh thiên bạch nhật (2 Sm 12:10–12). Bấy giờ vua Đa-vít nói với ông Na-than: “Tôi đắc tội với Đức Chúa”. Ông Na-than nói với vua Đa-vít: “Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết. Thế nhưng vì trong việc này ngài đã cả gan khinh thị Đức Chúa, nên đứa trẻ ngài sinh được, chắc chắn sẽ phải chết (2 Sm 12:13–14). Đó chính là hệ lụy của tội lỗi, gọi là liên đới tội lỗi!

TRẦM THIÊN THU

(chuyển ngữ từ BibleStudyTools.com)

Cuộc sống của chúng ta sẽ có kết thúc. Chết là gặp gỡ với Thiên Chúa

Cuộc sống của chúng ta sẽ có kết thúc. Chết là gặp gỡ với Thiên Chúa

11/17/2017

Suy tư về ngày cùng tận của thế giới và cũng là ngày cuối cùng của mỗi người chúng ta: đó là lời mời gọi mà Giáo hội ngày nay cũng nói với chúng ta qua đoạn Tin mừng thánh Luca 17,26-37 trong Thánh lễ ngày hôm nay. Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ điều này trong Thánh lễ tại nhà nguyện thánh Marta sáng hôm nay.

Đoạn Tin mừng thuật lại cuộc sống bình thường của những người nam nữ trước đại hồng thủy và trong thời ông Lot. Họ ăn uống, mua bán, cưới vợ lấy chồng …, nhưng rồi ngày Thiên Chúa tỏ hiện đến và mọi sự đều thay đổi. Giáo hội, Mẹ của chúng ta, muốn mỗi người chúng ta suy nghĩ về chính cái chết của mình.

Tất cả chúng ta đều quen thuộc với sự bình thường đều đặn của cuộc sống, giờ giấc, công việc, nhiệm vụ, nghỉ ngơi và chúng ta nghĩ rằng cuộc sống thì luôn luôn như thế. Nhưng rồi một ngày, Chúa Giêsu sẽ gọi chúng ta “hãy đến!”. Với một số người, tiếng gọi của Chúa sẽ là bất ngờ, còn đối với những người sau một thời gian dài nằm bệnh, chúng ta không biết có bất ngờ đối với họ không. Tiếng gọi của Chúa sẽ đến. Tiếng Chúa gọi sẽ là một sự ngạc nhiên, nhưng rồi sẽ có một ngạc nhiên khác của Chúa, đó là sự sống đời đời. Bởi thế, Giáo hội trong những ngày này nói với chúng ta: dừng lại một tí, dừng lại để suy nghĩ về cái chết.

Ngày nay việc tham dự các đám tang, hay ngay cả đi đến đất thánh (nghĩa trang), đôi khi trở thành một biến cố xã hội. Người ta đi đến đó, nói chuyện với những người khác, trong một số trường hợp người ta còn ăn uống. Nó trở thành dịp hội họp gặp gỡ thêm, để không phải suy nghĩ. Ngày hôm nay, Giáo hội và Thiên Chúa, với sự tốt lành của mình, nói với mỗi người chúng ta: Hãy dừng lại, dừng lại, không phải mọi ngày sẽ luôn như hôm nay. Đừng trở nên quen thuộc với suy nghĩ rằng cuộc sống hôm nay sẽ là vĩnh cửu. Sẽ có một ngày bạn sẽ bị mang đi, người khác sẽ ở lại, bạn sẽ bị mang đi, bạn sẽ bị mang đi và đi với Thiên Chúa. Hãy nghĩ rằng cuộc sống của chúng ta sẽ có kết thúc. Nghĩ như thế là điều tốt.

Nó là điều tốt vì ví dụ, trước khi bắt đầu một ngày làm việc mới, chúng ta có thể suy nghĩ: Hôm nay có thể là ngày cuối cùng, tôi không biết, nhưng tôi sẽ làm công việc thật tốt. Và chúng ta làm tốt như thế, trong các mối liên hệ trong gia đình hay khi chúng ta đi khám bệnh.

Suy nghĩ về cái chết không phải là một sự tưởng tượng tồi tê.Tồi tệ hay không, tùy thuộc ở tôi, tôi nghĩ đến nó như thế nào. Nhưng nó sẽ đến, cái chết sẽ đến. Và ở đó sẽ là cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, và điều này sẽ là nét đẹp của cái chết. Nó sẽ là cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, sẽ là Chúa đến gặp, sẽ là Ngài nói: “hãy đến, hãy đến, kẻ được Ta chúc phúc, hãy đến với Ta.”

Khi Chúa gọi thì sẽ không còn thời giờ để sắp xếp mọi vấn đề của chúng ta. Đức Thánh Cha kể lại điều một linh mục đã kể với ngài: Một ngày kia tôi gặp một linh mục, hơn kém 65 tuổi, vị linh mục đó không cảm thấy khỏe. Linh mục đó đi khám bệnh và bác sĩ nói: “Xem kìa, sau khi khám bệnh, cha có bệnh này. Đây là một điều xấu nhưng có lẽ chúng ta đang trong thời gian để chặn bệnh này lại. Nếu nó không dừng lại, chúng ta sẽ chữa cách khác và nếu nó không hết, chúng ta sẽ bắt đầu bước đi và tôi sẽ đồng hành với cha cho đến phút cuối.” Kết thúc câu chuyện, Đức Thánh Cha khuyến khích: Chúng ta cũng thế, chúng ta cùng đồng hành với nhau trên con đường này, chúng ta làm tất cả nhưng luôn luôn hướng về lúc đó, về ngày mà Thiên Chúa sẽ đến để đưa tôi đến với Ngài.

(Hồng Thủy, RadioVaticana 17.11.2017/ REI 17/11/2017)

Đối diện với cái chết

Đối diện với cái chết

01-11-2017

 Ronald Rolheiser, 2010-01-03

Vài năm trước đây, người em họ của tôi chết trong một tai nạn nghề nghiệp. Anh phụ trách chất hàng lên toa xe lửa và khi sợi giây cáp bật đứt dưới sức nặng ngàn cân của sức ép, thì người anh như bị cắt đôi. Anh chết trên đường đến bệnh viện. Anh còn trẻ, đang độ tuổi xuân, là lực sĩ tài năng có mặt trong các đội thể thao địa phương.

Cái chết của anh thật đau đớn và buồn thảm, tuy vậy gia đình và bạn bè anh có vài chuyện an ủi: Những ngày cuối cùng của anh thật dễ thương, các hành vi cuối cùng của anh thật nồng ấm: Trước đó vài ngày, anh tạt qua thăm mẹ và ăn trưa với mẹ, có một thời gian vui vẻ tuyệt vời, và khi đi về anh hôn mẹ chào từ giã, mẹ anh yên lòng biết anh thương mẹ. Cách đó mấy tuần, anh đưa người em út, người em rất thần tượng anh, đi nghỉ vài ngày để xem các trận đấu bóng bầu dục. Theo cách mọi người vẫn nghĩ, anh đã từ giã thế gian trong bình an, anh chết trong khi làm việc. Chất hàng là công việc của anh, khi giây cáp bị đứt, anh bị chết, anh ở đúng nơi anh phải ở, đúng giây phút làm việc của anh. Nếu anh không ở đó vào lúc đó, một người khác cũng sẽ ở đó và họ sẽ chết. Anh chết ở cương vị của anh, đang làm công việc của anh, làm việc lương thiện, anh kiếm sống, anh là nạn nhân của một chuyện bất ngờ, ở nơi mà anh phải ở.

Rốt cùng đó là những gì chúng ta cố gắng để đảm trách cho chính chúng ta. Chúng ta cố gắng trụ nơi chúng ta phải trụ.

Mỗi người chúng ta, không ngoại trừ ai, bất kể tuổi tác, sức khỏe như thế nào, chúng ta đều mong manh, đều không biết gì trước, đều có thể chết, một nhịp tim hụt là rời thế gian, một cú đột quỵ là mất cuộc sống, một tai nạn cho chúng ta biết sức mạnh của chúng ta là phù du, sợi giây cáp đứt và chết trong xe cứu thương. Chúng ta có thể cẩn trọng với mạng sống của mình, sống thận trọng, cố gắng đảm bảo an toàn cho mình, cho người thân, nhưng cuối cùng vẫn không đủ. Chúng ta không thể bảo đảm tim của chúng ta luôn đập.

Vậy chúng ta phải làm gì?

Chúng ta có thể sống cẩn thận, săn sóc sức khỏe và sự an toàn của chúng ta, và nếu chúng ta có đức tin, chúng ta có thể xin Chúa quan phòng. Đương nhiên đó là điều tốt. Nhưng chúng ta có thể làm những chuyện khác, những chuyện còn quan trọng hơn.

Chúng ta cố gắng trụ nơi chúng ta phải trụ. Chúng ta có thể luôn luôn cố gắng giữ nhiệt tâm, phòng hờ đó là những hành vi cuối cùng của chúng ta. Chúng ta có thể ăn điểm tâm với mẹ và tỏ lòng âu yếm mẹ. Chúng ta có thể đưa người thân đi xem trận đấu bóng bầu dục và cố gắng hoà thuận với mọi người. Cốt yếu, chúng ta có thể trung tín, chân thật với những người chúng ta thương, chân thật với những gì chúng ta tin. Chúng ta ở đúng trách vụ của mình, trong dấn thân, trong tình yêu và bổn phận.

Rốt cùng, đó là những gì chúng ta có thể làm, và rốt cùng, như thế là đủ. Ý thức về tính mong manh và về cái chết không có nghĩa là chúng ta sợ hãi, khiếp nhược, rụt rè trước cuộc đời hay cảm thấy tội lỗi vì vui sướng. Chúng ta không buộc phải hướng về một cuộc sống ở thế giới khác mà buông bỏ cuộc sống này. Ngược lại, chúng ta cũng không buông tuồng vui hưởng vì cuộc sống này ngắn ngủi và đầy chuyện không ngờ tới được. Đó là lời mời gọi lòng trung tín; luôn luôn cố gắng để trụ nơi chúng ta phải trụ, trong nhiệt tâm, tình yêu, bổn phận và vui hưởng.

John Powell đã viết có thể có hai thảm kịch trong cuộc sống, mà chết trẻ không nằm trong số đó. Hai thảm kịch đó là: Sống mà không yêu, yêu mà không bao giờ nói lên được tình yêu và lòng biết ơn. Quả đúng như vậy.

Có thể vì tuổi của tôi và cũng có thể đó là chỉ là một thời gian khác thường, nhưng suốt năm vừa rồi, không một tháng nào trôi qua mà thần chết không lấy đi một người tôi thương mến. Chưa bao giờ tôi ý thức tính mong manh của cuộc sống như bây giờ. Về mặt bên ngoài nó làm cho tôi phải nhìn lại sức khỏe của tôi: Tôi đã săn sóc đủ cho tôi? Tập thể dục đủ chưa? Chế độ ăn uống đúng không? Nghỉ ngơi đủ không?

Tuy nhiên, ở tầng mức sâu hơn, nó buộc tôi nhìn lại sức khỏe của tôi theo nghĩa rộng hơn: Tôi có đang trụ nơi tôi phải trụ? Liệu tôi có trung tín với con người của tôi và với những gì tôi tin để mà thanh thản biết rằng tôi đang làm những việc tôi phải làm, giả như hôm nay là ngày cuối cùng của đời tôi? Những gì tôi làm có nồng ấm không?

Tôi cố gắng trung tín mỗi ngày – cầu nguyện, dâng thánh lễ, nhiệt tâm với mọi người, làm công việc của tôi tốt nhất có thể, biết rằng, nếu tôi làm như vậy, tôi đang trụ nơi tôi phải trụ và tôi có thể vui hưởng cuộc sống tốt đẹp này, không mặc cảm tội lỗi, không sợ hãi, sẵn sàng, đứng trụ ngay thẳng, dù sợi giây cáp có đứt thình lình.

J.B. Thái Hòa dịch

(phanxico.vn)

Các luật sư Việt Nam nên xem series phim American Crime Story,

From facebook:   Trần Bang‘s post.
“Các luật sư Việt Nam nên xem series phim American Crime Story, đặc biệt bộ phim đầu tiên về vụ án O.J. Simpson, cầu thủ bóng bầu dục da đen huyền thoại của Mỹ, năm 1994.

Tiến trình xét xử vụ án này diễn ra một cách ngoạn mục với sự đấu trí giữa hai phía công tố và luật sư, gồm những cao thủ lão luyện bậc thầy trong ngành tư pháp Mỹ đương thời.

Trong khi bên công tố nắm trong tay hàng loạt chứng cứ (evidence), đặc biệt về vết máu và tóc, đủ để truy tố O.J. Simpson về tội mưu sát, thì đội ngũ luật sư của bị cáo biện luận theo hướng khiến bồi thẩm đoàn (jury) tin vào câu chuyện (story) điều tra viên nguỵ tạo chứng cứ lúc tiếp cận hiện trường vụ án đầu tiên.

Johnnie Cochran, trưởng nhóm luật sư (lead attorney) của O.J. Simpson vạch ra chiến lược chiến thắng vụ án như sau: kết quả vụ án không chỉ tùy thuộc vào chứng cứ, mà quan trọng hơn còn được dẫn dắt bởi một câu chuyện mà các luật sư trình bày trước bồi thẩm đoàn.

Với chiến lược đó, bất chấp các chứng cứ vững chắc của công tố viên, đội ngũ luật sư đã chứng minh rằng điều tra viên Mark Fuhrman có thể đã bỏ máu và tóc của của nghi phạm vào hiện trường, đồng thời bỏ máu và tóc của nạn nhân vào nhà nghi phạm, bởi lý do Mark Fuhrman kỳ thị dân da đen.

Tại tòa, Mark Fuhrman tuyên thệ khai trung thực và khẳng định chưa bao giờ dùng từ “Nigger” (một từ miệt thị, tạm dịch là “Mọi đen”) khi nói chuyện với bất kỳ người da đen nào. Tuy nhiên, sau đó nhóm của luật sư Johnnie Cochran đã tìm được các băng ghi âm ở một tòa án khác ghi nhận các mẩu đối thoại của Mark Fuhrman với người da đen, trong đó rất nhiều lần y dùng từ “Nigger”.

Thái độ kỳ thị chủng tộc đó hiển nhiên không loại trừ khả năng Mark Fuhrman cố tình hủy hoại O.J. Simpson bằng cách nguỵ tạo chứng cứ để đổ tội cho anh ta. Kết luận điều tra do vậy không đáng tin cậy, bởi có thể đã bị định hướng một cách chủ quan từ phía cơ quan điều tra.

Câu chuyện mà đội ngũ luật sư dẫn dắt đã thuyết phục đa số thành viên bồi thẩm đoàn tin vào sự thiếu trung thực và thiếu khách quan của mọi chứng cứ mà bên công tố đệ trình trước tòa. Nhờ đó bồi thẩm đoàn tuyên O.J. Simpson vô tội và trắng án.

Đội ngũ luật sư do Johnnie Cochran, một luật sư hình sự người da đen, làm thủ lĩnh, được dư luận lúc đó gọi là “Dream Team” nhờ chiến lược tiếp cận và giải quyết vụ án một cách xuất sắc.

Dù kết quả phiên tòa đó làm thất vọng nhiều người da trắng vì họ tin chính O.J. Simpson là thủ phạm giết vợ cũ và bạn trai của cô, nhưng đó là chiến thắng vang dội của nền công lý đặt trên nền tảng triết lý tôn trọng tự do cá nhân, theo đó xã hội chấp nhận bỏ sót tội phạm còn hơn bắt lầm người vô tội.

Triết lý hình sự nói trên được công nhận và dung nạp trong hầu hết nền pháp lý hiện đại trên thế giới, trừ vài nước như Việt Nam, Trung Quốc, v.v…, vốn thà bắt lầm hơn bỏ sót, thậm chí cố tình dàn dựng chuyện để bắt! “

(Copy FB LS Lê Công Định )

TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

ĐGM. Giuse Nguyễn Năng

  1. Không một tôn giáo nào có một lịch sử kỳ lạ như Kitô giáo.  Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng cả về phẩm chất lẫn số lượng.  Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.

Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các hoàng đế Roma.  Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại trừ.  Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.

Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.

Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, 117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm 1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn.  Đó là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh.

Bức tranh trên đây là một thực tế, và đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh.  Các Kitô hữu bị ghét, vì trước hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá.  Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng.  Ngài là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.

Chúa nói: “Vì anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em…  Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em…  Họ chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15, 19-21).  Đơn giản chỉ là thế.  Sâu xa là như vậy.

Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu diệt Hội Thánh.  “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó.  Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).

  1. Chúng ta hãy cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.  Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt bớ và giết chết?  Các thánh tử đạo đã làm gì?

Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu.  Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá Chúa.  Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được!”  Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”

Chắc chắn không phải vì các ngài đã theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc.  Các ngài tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương.  Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ.  Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được.”

Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân đội bảo vệ đất nước.  Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ.”  Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng.”  Yêu nước không có nghĩa là phải thù ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.

  1. Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa.  Các ngài đã sống đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.

Trước hết, đời sống đức tin của các thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống gia đình.

Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang thịnh hành trong xã hội Việt Nam, nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc Âm.  Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân, như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy… đã có thời gian sa ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của mình.

Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy con cái theo tinh thần đức tin.  Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù: “Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng.  Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ.  Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình.  Các con nhỏ phải biết kính trọng vâng lời anh chị.  Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ.  Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày.  Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo.”

Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ hai của ngài là cô Anna Năm xác nhận: “Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người thanh niên đạo hạnh.  Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những lời tốt lành.  Có lần mẹ dạy tôi: “Tuân theo Ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng.  Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng.  Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho.”  Người cũng thường khuyên vợ chồng tôi:“Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ.”

Kế đến, sống đức tin là sống Tin Mừng yêu thương.

Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa.  Thánh Martinô Thọ nói: “Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện”, nên ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn.  Người cùng tử đạo với ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách đòi sưu cao thuế nặng.  Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng. Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình.

 Điều quan trọng trong đời sống đức tin của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.

Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng vì lý do khác.

Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng.  Các vị chắc chắn không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp tục yêu thương vua quan, và những người hành xử mình.

Khi viên quan nói: “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, linh mục Théophane Ven đáp: “Tôi chẳng ghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan.”  Thánh Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quan trị nước cho yên, càng ngày càng thịnh.”

 Lời tuyên xưng và đời sống đức tin của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam thân yêu này.  Chính đời sống của các thánh tử đạo đã cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm.  Dù triều đình nhà Nguyễn ra chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công giáo.

Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ”, ngài không bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho.  Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái.  Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé.”  Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi.  Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ.”

Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa.  Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng không ngừng lớn lên trong đất nước này.  Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.

Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta.  Đức tin ấy đã lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ.  Bao nhiêu thế hệ đã nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.

Ngày nay, tuy không còn phải chịu những đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc, địa vị, khoái lạc, tự do buông thả.  Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết bao người quên Thiên Chúa.

Chúng ta hãy bắt chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức.  Chúng ta có thể nói như thánh Phaolô không: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1, 12)?  Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức mạnh của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để đưa họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế.

ĐGM. Giuse Nguyễn Năng

From Langthangchieutim

Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì

Dang Tuong
Nhiều người hay trách DLV là bọn đầu tôm hay là bọn bị nhồi sọ nặng nhưng tôi thấy có những cái họ phát biểu rất chính xác. Trong số các câu nói bất hủ mà DLV đưa ra khi bảo vệ quan điểm của mình, thì câu nói tôi ưng nhất là: Không có Đảng, không có Bác Hồ thì làm gì có Việt Nam hôm nay.

Quả thật câu này nó chính xác đến 100%, cố tìm cũng chẳng thấy tý tẹo cái sai nào trong đó. Hãy nhìn cái cách hiện tại mà người Việt Nam đối với người Việt Nam, hay cái nhìn khinh khi của người dân các nước có người Việt Nam đến lao động, học tập và sinh sống là chúng ta thấy câu nói ấy nó giá trị thế nào.

Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì có một Việt Nam lẹt đẹt trên các bảng xếp hạng của thế giới, làm gì có một Việt Nam không sản xuất nổi con ốc vít hay phải nhập cả cái tăm xỉa răng.

Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì có một Việt Nam nổi tiếng với việc xuất khẩu culi và gái điếm, nổi tiếng với nạn trộm cắp, giết, hiếp xảy ra hằng ngày như cơm bữa trên mảnh đất hình chữ S này.
Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì có lãnh đạo lương tuy không quá 15 triệu/tháng mà ông nào cũng nhà lầu, xe hơi, cũng con du học nước này, nước nọ. Không có Đảng, không có Bác thì làm gì có chuyện mỗi người dân được vinh dự gánh 1200 đô tiền nợ công, 432 loại thuế phí, và vô số các chiêu trò bóc lột khác.

Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì chúng ta có con đường đắt nhất hành tinh, rồi tới đây là tháp truyền hình cao nhất thế giới, hay việc biển đảo ngày càng mất dần vào tay Trung Cộng.

Tôi cố liệt kê, nhưng liệt kê mãi cũng không hết những cái mà nhờ có Đảng, có Bác mới có một Việt Nam như ngày hôm nay trên bản đồ thế giới. Cảm ơn các bạn DLV đã thông não, đã cho tôi được sáng mắt, sáng lòng.
Quả thực công ơn trời biển của Đảng, của Bác không một lời lẽ hay bút mực nào có thể tả hết được, nói gì đến một thằng ngu lâu, dốt bền, lại khó cải tạo như tôi đây.

Tác giả: Nhân Thế Hoàng.

Image may contain: 3 people, meme and text

Hồi kết đảng cộng sản chắc chắn cũng sẽ như tên độc tài bị lật đổ ở Zimbabwe.

Hoang Le Thanh added 3 new photos — with Phan Thị Hồng.
Những tên độc tài thích tự xưng là nhà lãnh đạo.

Chúc Mừng Người Dân Zimbabwe đã được tự do !!!

Hồi kết đảng cộng sản chắc chắn cũng sẽ như tên độc tài bị lật đổ ở Zimbabwe.

Lê Công Định

Nhà độc tài già nua Robert Mugabe vừa bị lật đổ ở Zimbabwe từng luôn nghĩ rằng không có lực lượng chính trị và nhân vật chính trị nào đủ năng lực và uy tín quản lý đất nước … ngoài chính ông ta.

Luận điệu tự huyễn hoặc mình và huyễn hoặc thiên hạ của mọi kẻ độc tài trên khắp thế giới có vẻ giống nhau. Lão đãng ở Việt Nam cũng không khác, luôn cho rằng không tổ chức chính trị nào ngoài “đảng quang vinh muôn năm” có khả năng lèo lái con thuyền đất nước, vì đó là “lựa chọn của lịch sử”(!).

Độc tài như nhau, tham lam như nhau, tàn phá quốc gia như nhau, nguỵ biện như nhau, nên kết cuộc chắc chắn cũng sẽ như nhau.

Ảnh 1: Nhà độc tài Zimbabwe, tổng thống Robert Mugab khi còn quyền hành.

Ảnh 2: Tổng thống Robert Mugabe bị cô lập, mọi kẻ thân cận đều lìa bỏ ông và lên tiếng buộc ông ta từ chức.

Ảnh 3: Người dân Zimbabwe biểu tinh, họ trương biểu ngữ trên đường phố kêu gọi ông Mugabe phải ra đi.

Image may contain: 1 person, hat
Image may contain: one or more people, eyeglasses, hat and text
Image may contain: 6 people

Chúng tôi không là Việt Kiều… – Ts Nguyễn Đình Thắng.

Nguồn:  Van Pham
 

Chúng tôi không là Việt Kiều… – Ts Nguyễn Đình Thắng.

Năm ngoái, một cô du sinh Việt Nam theo học chương trình tiến sĩ ở Hoa Kỳ phỏng vấn tôi cho luận án của cô ấy với đề tài: Cách nào để chính quyền Việt Nam đến với Việt kiều ở Mỹ.

“Trước hết hãy ngưng gọi chúng tôi là Việt kiều,” tôi trả lời.

Thấy cô ấy lúng túng, tôi giải thích: “Chúng tôi là công dân Mỹ gốc Việt, không phải công dân của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.”

Chính quyền Việt Nam muốn xem người Việt ở hải ngoại là công dân Việt mang “hộ chiếu” nước ngoài.

Cứ xem thái độ của Ông Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang của họ thì rõ. Khi gặp Tổng Thống Mỹ Barack Obama ở Toà Bạch Ốc hồi tháng 7 năm ngoái, Ông Sang cảm ơn chính phủ Mỹ đã chăm lo cho các người Việt ở Hoa Kỳ. Đây là lời cám ơn không đúng cương vị. Chính phủ Mỹ lo cho dân Mỹ là việc đương nhiên; hà cớ gì Ông Sang cảm ơn nếu không là muốn nhận vơ chúng tôi là dân của ông ấy?

Nhận vơ như vậy không ổn, vì nhiều lý do.

Những người không còn, hoặc chưa bao giờ mang hộ chiếu CHXHCN VN liệu có phải là Việt Kiều?

Trước hết, rất nhiều người chưa hề một ngày là công dân của nhà nước cộng sản Việt Nam: những người ngoài Bắc di cư vào Nam trước khi đảng cộng sản lập ra Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, và những người trong Nam bỏ nước ra đi trước khi đảng cộng sản ấy xâm chiếm miền Nam.

Kế đến là những người bỏ nước đi tị nạn. Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc, tị nạn có nghĩa từ bỏ sự bảo vệ của chế độ cầm quyền ở quốc gia nguyên quán. Theo nguyên tắc này, khi chúng ta đang xin hay còn mang quy chế tị nạn mà đặt chân về Việt Nam, dù chỉ để thăm gia đình, thì xem như tự đặt mình trở lại dưới sự bảo vệ của chế độ cầm quyền và sẽ tự động mất tư cách tị nạn. Pháp áp dụng đúng nguyên tắc này trong khi một số quốc gia khác thì nhân nhượng hơn.

Dù không thuộc các thành phần trên, một khi giơ tay tuyên thệ nhập quốc tịch Hoa Kỳ, mỗi người trong chúng tôi đã chính thức từ bỏ quốc tịch Việt Nam. Trước luật pháp Hoa Kỳ, chúng tôi là công dân Mỹ chứ không là công dân của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Cô sinh viên tiến sĩ xem chừng hiểu ra câu trả lời: “Chúng tôi không là Việt kiều. Chúng tôi là người Mỹ gốc Việt,.”

Tôi giải thích thêm: “Cái gốc Việt ấy cho phép chúng tôi lên tiếng về các vi phạm nhân quyền và một số vấn đế khác nữa ở Việt Nam. Chúng tôi có thân nhân bị đàn áp. Chúng tôi có tài sản bị cưỡng chiếm. Đó là những vấn đề quyền lợi của công dân Mỹ, khi bị xâm phạm thì chính quyền Mỹ có nhiệm vụ can thiệp. Hơn nữa, chúng tôi có sự hiểu biết sâu sắc về hiện tình xã hội Việt Nam để giúp cho sự can thiệp ấy đạt hiệu quả.”

Nói đi thì cũng phải nói lại. Khi nhà nước cộng sản Việt Nam nhận vơ thì lỗi của họ chỉ có phân nửa. Phân nửa còn lại là lỗi của chúng ta.

Gần đây, cộng đồng Việt ở vùng Hoa Thịnh Đốn xôn xao về cuộc phỏng vấn video của một người Việt bị chặn ở phi trường, không được nhập cảnh, khi về thăm nhà ở Việt Nam. Cuộc tranh luận đã bỏ sót một yếu tố quan trọng: Cả hai phía của cuộc tranh luận đứng trên cương vị Việt kiều hay trên cương vị công dân Mỹ?

Khi công dân Mỹ bị gây khó dễ ở phi trường, thì người ấy dứt khoát đòi liên lạc với toà lãnh sự Mỹ ở Việt Nam; nếu bị công an câu lưu “làm việc” thì người ấy tuyệt nhiên không hợp tác cho đến khi đã nói chuyện được với toà lãnh sự Mỹ; nếu bị tống tiền, chèn ép bởi giới chức chính quyền Việt Nam thì cũng báo ngay cho toà lãnh sự Mỹ. Khi về lại Hoa Kỳ thì nạn nhân phải báo động ngay với Bộ Ngoại Giao.

Chính quyền Mỹ có nhiệm vụ bảo vệ công dân Mỹ. Khi nhận được nhiều báo cáo từ các công dân Mỹ bị sách nhiễu, thì chính quyền Mỹ sẽ phải đặt vấn đề với phía Việt Nam.

Nhà nước Việt Nam có dám đối xử tệ với những công dân Mỹ khác đâu, mà chỉ sách nhiễu người Mỹ gốc Việt. Chẳng qua chúng ta cho phép họ làm vậy. Lỗi ấy là của chúng ta.

Thành ra, muốn khẳng định “chúng tôi không là Việt kiều” với nhà nước Việt Nam thì trước hết chúng ta phải tự nhủ và nhắc nhở lẫn nhau: “Chúng ta không là Việt kiều”. Khi người người trong chúng ta ý thức điều này và hành xử đúng cương vị thìnhà nước Việt Nam sẽ phải thay đổi theo. Tôi tin là vậy.

VAWA,Hiệp Hội An Sinh Xã Hội Việt Úc, Vietnamese-Australian Welfare Association, hướng dẫn, giúp đỡ…
VAWANSW.ORG.AU