Ai rồi cũng sẽ đến lúc phải già đi.

  Ai rồi cũng sẽ đến lúc phải già đi. Chỉ là hiện tại sức khỏe vẫn còn tốt, đầu óc vẫn còn minh mẫn nên ta cảm thấy mình hãy còn trẻ trung mà thôi. Nhưng tới khi thực sự già đi rồi, bạn biết trông mong vào ai đây?

  Nếu bạn có một tổ ấm, thì khi còn chưa nhắm mắt xuôi tay nhất định không được vứt bỏ nó. Nếu bạn có một người bạn đời, hãy bầu bạn và biết trân quý nhau. Nếu bạn có một sức khỏe tốt, hãy bảo trọng lấy mình.

Hãy thử ngẫm xem khi mình già đi, bạn nên làm gì trong chặng đường đời sau cùng ấy.

  Giai đoạn 60 – 70 tuổi: Hãy tự biết thu xếp 

Sau khi nghỉ hưu, từ 60 – 70 tuổi, sức khỏe của bạn vẫn còn khá tốt. Nếu có điều kiện, bạn thích ăn thứ gì thì hãy cứ nếm thử một chút, thích mặc thứ gì thì cứ mua về vài bộ, thích chơi thứ gì thì cứ thử xem sao (tất nhiên ngoại trừ những thứ xấu).

 Đừng quá hà khắc với bản thân bởi lẽ những ngày tháng như vậy không còn nhiều. Bạn hãy tranh thủ thời gian tận hưởng chúng. Bạn cũng cần học cách quán xuyến tiền bạc. Hãy giữ lại cho mình một căn phòng để ở, sắp xếp cho mình một con đường lui lại về sau.

 Con cái hiếu thuận là con cái ngoan. Nhưng dẫu sự nghiệp của con cái có khởi sắc thì tiền bạc vẫn là của con cái. Bạn không từ chối việc chúng hỗ trợ kinh tế, cũng không từ chối chúng hiếu kính với mình, nhưng vẫn phải dựa vào chính mình để tự thu xếp ổn thỏa cho phần đời còn lại.

 Giai đoạn 70 – 80 tuổi: Hãy giữ gìn sức khỏe

Sau tuổi 70, bạn vẫn có thể sống một cuộc đời bình yên, không tai ương hay bệnh tật. Đó là khoảng thời gian bạn vẫn có thể tự chăm sóc bản thân nên cũng chẳng có gì đáng lo ngại.

  Nhưng bạn nhất thiết phải biết rằng lúc này mình thực sự đã già, sức khỏe và tinh thần cũng dần suy kiệt, phản ứng cũng ngày càng chậm hơn.

Khi ấy bạn:

Ăn cơm phải nhai chậm để tránh bị nghẹn.

Đi đường phải bước chậm để tránh bị ngã.

Không được thể hiện bản thân mình nữa, phải biết tự lượng sức mình và chăm sóc bản thân.

 Hãy thôi lo lắng bao đồng việc nọ việc kia. Quả thực đây là tâm bệnh chung của những người già, có người còn lo lắng cho cả con cháu 3 đời. Bạn đã lo lắng cho người khác suốt cả cuộc đời rồi, giờ là lúc bạn cần nghỉ ngơi, học cách buông tay và thuận theo tự nhiên. Bạn chỉ cần chăm sóc cho bản thân mình thôi!

 Hãy làm mọi việc một cách thư thái. Không cần quá câu nệ rằng mọi ngóc ngách trong nhà đều phải tinh tươm, mọi chuyện đều phải hoàn hảo mà hãy để tâm hơn tới sức khỏe. Hãy kéo dài thêm thời gian tự chăm sóc mình, đừng nên làm lụng quá sức để phải đổ bệnh rồi lại chờ người khác đến chăm sóc mình.

 Đến tuổi này, nỗi khổ nào bạn cũng đã từng nếm trải nên chắc hẳn chặng đường cuối cùng trong đời cũng sẽ trôi đi êm đềm. Lúc này sức khỏe của bạn không còn tốt nữa và đã phải cầu cứu tới người khác.

Nhất định bạn phải chuẩn bị tâm lý trước. Đa số mọi người đều không tránh khỏi quan ải này. Bạn cần học cách điều chỉnh tốt tâm trạng của mình để có thể thích ứng nhanh nhất.

 Sinh, lão, bệnh, tử là chuyện thường tình trong đời người, vậy hãy cứ thản nhiên mà đối mặt với nó. Đây chính là giai đoạn cuối cùng của cuộc đời, không gì có thể khiến bạn sợ hãi cả. Chỉ cần bạn chuẩn bị tâm lý sẵn sàng, mọi chuyện rồi sẽ nhẹ nhàng qua đi mà thôi.

 Tùy thuộc vào điều kiện và sở thích, bạn có thể vào viện dưỡng lão, hoặc thuê người giúp việc chăm sóc ở nhà. Nhưng có một nguyên tắc là bạn không được dày vò con cái.

Bạn cũng đừng nên gây áp lực tâm lý, tạo thêm nhiều gánh nặng khác cho những đứa con của mình. Những gì có thể tự mình làm được thì bạn hãy cố gắng tự làm, đừng để con cái phải bận lòng.

 Giai đoạn sau tuổi 90: Hãy dựa vào chính mình

Lúc này có thể đầu óc bạn vẫn còn minh mẫn nhưng bệnh tật lại bám riết lấy mình. Bạn đã không thể tự chăm sóc bản thân được nữa. Khi ấy bạn sẽ có đôi chút hụt hẫng, cảm thấy cuộc sống thật bế tắc.

  Nhưng dù thế nào cũng vẫn phải dũng cảm đối mặt với cái chết. Hãy cứ coi như đó là sự khởi đầu một trang mới của kiếp người. Đây chỉ là kết thúc của một hành trình cũ, cũng là bước khởi đầu của một hành trình mới mà thôi.

  Chẳng phải một năm có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông vẫn luôn xoay vần như vậy hay sao? Cứ thuận theo mệnh trời, không phải quá cưỡng cầu, mong đợi người nhà chạy đôn chạy đáo khắp nơi tìm cách chạy chữa cho bạn, đừng để người thân và bè bạn phải thêm nhọc lòng, phiền muộn vì bạn.

“Già rồi biết trông mong vào ai đây?”. Câu trả lời là: “Chính mình và vẫn là chính mình”.

 4 việc cần chuẩn bị trước khi già đi

Cứ mỗi một ngày qua đi cuộc sống của ta lại bị rút ngắn thêm 24 giờ. Có người nói, về già cần phải có 3 điều tránh và 1 điều muốn:

Tránh bị sét đánh, tránh bị cắm ống thở bình ô-xy, tránh phải phẫu thuật cắt ống khí quản. Và muốn chiếc quan tài.

Người xưa nói: “Biết quản lý tiền bạc thì không nghèo, có kế hoạch thì không loạn, giỏi chuẩn bị thì không bận”.

Là người cao tuổi, phải chăng chúng ta cần chuẩn bị tốt hơn? Chỉ cần chuẩn bị trước, thì sau này bạn sẽ bớt phải lo lắng hơn. Nhưng cụ thể ta cần chuẩn bị những gì?

 Việc đầu tiên chính là già mà vẫn khỏe

Ba việc đơn giản, không phải đụng đến thuốc men mà vẫn đảm bảo sống khỏe chính là: Ăn đủ chất, chú ý giữ gìn sức khỏe và phải có sự tu dưỡng.

 Việc thứ hai cần chuẩn bị là một nơi ở khi về già

Nếu ở cùng con cháu mà phải sống một cuộc sống câm nín, nhẫn nhục để dung hòa sự khác biệt giữa các thế hệ chi bằng bạn hãy ra ở riêng, một mình hưởng thụ sự thanh thản, niềm vui đơn thân tuổi già.

Dẫu là nơi đô thành nhộn nhịp hay là vùng ngoại ô yên bình, hãy sống ở nơi bạn cảm thấy phù hợp nhất với mình. Nhưng phải nhớ là gần đó có nhà ăn mà bạn yêu thích, có một nơi thư thái để bạn dưỡng già!

 Việc thứ ba là kiếm tiền dưỡng già

Bạn đã nuôi con nên không còn tiền tiết kiệm để dưỡng già? Thực ra là cha là mẹ chúng ta cũng nên tự thân vận động, nên tự lo liệu cho mình lúc tuổi già.

 Bạn hãy tiết kiệm một khoản tiền để có thể làm những gì mình muốn, đi những nơi mình thích khi về già. Điều này cũng không có gì đáng xấu hổ cả. Ngược lại con cái chúng ta còn bớt đi một phần lo toan khi gánh nặng cơm áo gạo tiền vốn đã rất áp lực trong cuộc sống hiện đại này.

 Bạn đã nuôi con khôn lớn, dựng vợ gả chồng cho chúng, cũng đã coi như làm tròn trách nhiệm của người làm cha làm mẹ với con cái mình. Nên số tiền dưỡng già nhất định nên phải có một khoản cho mình. Khi chưa vào quan tài thì bạn cũng chưa cần phải phân chia cho ai cả.

 Việc thứ tư là tìm cho mình những người bạn già

Hãy mở rộng lòng mình, kết thêm nhiều thiện duyên hơn nữa. Đây cũng là một bí quyết hưởng thụ cuộc sống của những quý tộc đơn thân.

 Hình ảnh những đôi vợ chồng luôn yêu thương quấn quýt bên nhau từ thuở còn son tới khi đầu bạc răng long quả thực khiến rất nhiều người phải ngưỡng mộ. Nhưng nếu cuộc hôn nhân không được mỹ mãn như bạn mong muốn thì hãy mỉm cười mà chấp nhận nó. Âu cũng là cái duyên cái nợ từ đời trước, con người cũng chỉ nên vâng mệnh trời mà thôi.

 Khi tâm hồn trống trải, ta mới cảm thấy cô đơn. Nhưng nếu bạn có thể lấp đầy trái tim ấy bằng tình yêu cuộc sống, bằng sự biết ơn và quan trọng nhất là tìm cho mình một tín ngưỡng chân chính cho tâm hồn nương tựa, bạn sẽ thấy hạnh phúc tới tận giây phút cuối đời.

 Có những điều lỗi thời, không hề đúng đắn nhưng vẫn khiến nhiều người dao động, nào là “Người ở thiên đường, tiền ở ngân hàng”, “Sống một mình rất cô đơn”, “Già rồi sẽ không có người chăm sóc”… Bạn phải nhận thức rõ rằng, tiền tài chỉ là vật ngoài thân, danh lợi chỉ là hư ảo trong chốc lát, trải nghiệm cuộc sống mới là toàn bộ kiếp người.

  Nếu buộc phải trải qua những tháng ngày cuối đời một mình, hãy làm một người “độc thân vui vẻ”. Chẳng phải có câu rằng, đời người hai lần trẻ con đó sao? Khi còn thơ bé chúng ta rất ngây ngô, trong sáng, chẳng truy cầu, chẳng phiền muộn. Tới khi bạc đầu, khi đã nhìn thấu sự đời, chúng ta lại học được cách buông bỏ, ít truy cầu, ít buồn khổ. Như vậy chẳng phải ta lại hồn nhiên như một đứa trẻ hay sao?

Cuối cùng, xin hãy nhớ kỹ! Trước khi bạn già hãy chuẩn bị cho mình một sức khỏe tốt, một khoản tiền, những ngày tháng rảnh rỗi, những người bạn tốt, một không gian dành riêng cho mình và một tín ngưỡng chân chính mang lại sự bình yên trong tâm hồn của bạn.

XÉT ÐOÁN

XÉT ÐOÁN

LM Nguyễn Tầm Thường, S.J

Ðừng tự xét đoán, tự nó đã nói lên phần nào tính chất mơ hồ rồi.  Xét đoán được ghép bởi hai động từ khác nhau là xét và đoán.  Xét là tìm hiểu.  Ðoán là phỏng chừng.  Xét thì khó vì phải tìm hiểu hoàn cảnh, phải kiếm nguyên nhân, phải phân tích để có dữ kiện rõ ràng.  Ðoán thì dễ hơn, chỉ cần ước lượng là thế, phỏng chừng như vậy.  Ðộng từ đoán dựa trên những điều không đủ chắc, không rõ sự thật.  Khi nói xét đoán một người thì có phần xét và cũng có phần đoán.  Nhiều khi phần đoán lại nhiều hơn phần xét.  Sai lầm nẩy sinh từ đó.

Trước khi tìm hiểu Kinh Thánh nói về vần đề xét đoán, tôi muốn nhìn xét đoán trong một yếu tố liên hệ giữa con người trên bình diện tự nhiên.  Yếu tố đó là: phức tạp của vấn đề trong việc xét đoán.  Có hai thứ phức tạp.  Phức tạp nơi đối tượng bị xét đoán, chẳng hạn như hoàn cảnh, lương tâm của khách thể.  Và phức tạp nơi chủ thể xét đoán, chẳng hạn như giới hạn tri thức của chủ thể, ảnh hưởng tình cảm của chủ thể khi xét đoán.

Phức tạp nơi đối tượng

“Không ai tắm hai lần trên một dòng sông.”  Dòng nước chảy.  Ðã đi.  Sẽ mất mãi.  Chẳng ai có được hai lần cái tâm tình lúc tuổi mười tám.  Hôm qua đứng bên dòng sông.  Hôm nay trở lại.  Dòng sông còn đó.  Tôi còn đây.  Nhưng không phải là tôi của ngày hôm qua.  Không phải là dòng sông hôm cũ. Nước hôm qua của dòng sông đã mất.  Mây trên bầu trời hôm qua đã tan loãng.  Ðâu rồi?  Và tôi, tâm tình cũng đã đổi thay.  Hôm qua gặp dòng sông thì tâm tình của tôi không thể là nhớ dòng sông được, vì đã xa cách đâu mà nhớ.  Hôm nay trở lại, vì có nhớ dòng sông tôi mới tìm đến.  Như vậy, trong tôi đã mang chất nhớ nhiều hơn hôm qua.  Tất cả đều biến chuyển.  Khi xét một vấn đề mà xét trong hoàn cảnh mọi sự đều thay đổi thì khó mà chính xác.  Trong tôi có thương, nhưng đồng thời cũng có giận.  Tôi ghét đó, nhưng tôi vẫn yêu.  Ðâu là ranh giới mà phương pháp khoa học có thể vẽ lằn mức rõ ràng?

Khi xét một vấn đề phải xét trong bối cảnh của nó.  Mà hoàn cảnh của mỗi người là một thế giới chằng chịt những phức tạp chi ly.  Tôi cũng chưa biết rõ về tôi đủ thì làm sao có thể biết rõ về người?  Càng phức tạp thì càng dễ có sai lầm.

Xét một vấn đề lại phải có tiêu chuẩn để xét, nếu không có tiêu chuẩn người ta không thể đi đến kết luận.  Hai cộng với hai không phải là ba.  Vì tôi đã có tiêu chuẩn hai cộng với hai là bốn.  Sống trong tập thể, con người tuân theo tiêu chuẩn của xã hội.  Nhưng tiêu chuẩn luân lý sâu thẳm vẫn do chính Chúa trong tiếng nói lương tâm.  Câu chuyện người đàn bà ngoại tình trong Phúc Âm nói lên rõ điều này.  Với tiêu chuẩn của tập thể mà xét đoán thì bà phải ném đá chết vì những hành động tội lỗi.  Nhưng tiêu chuẩn của Chúa lại khác.  Trước mặt xã hội bà bị kết án.  Trước mặt Chúa bà được thứ tha (Yn 8,1-11).  “Ngươi chỉ nhìn thấy trước mắt còn Yavê trông thấy điều ẩn náu trong lòng” (1Sam 7).  Chính điều “ẩn náu trong lòng” này là yếu tố quyết định tối hậu cho việc xét đoán thì tôi lại không bao giờ biết được.

Ðiều “ẩn náu trong lòng” là lương tâm.  Ðề cập đến lương tâm là đề cập đến vấn đề riêng tư nhất.  Ðã là riêng tư thì làm sao tôi biết.  Mà không biết thì làm sao tôi định lượng giá trị.  Tôi có kinh nghiệm của riêng đời tôi.  Lương tâm người khác thì tôi đành chịu.  Thí dụ, một người ăn trộm một trăm đồng.  Hành động ăn trộm chưa phải là tội.  Nếu họ bị khủng bố, cưỡng bách thì sao có thể là tội?  Tôi thấy hành động ly dị, ngoại tình.  Nhưng nguyên do đưa đến?  Mức độ ý chí lương tâm của họ ra sao?  Tôi không thể biết.  Khi không xét được, không biết đủ sự kiện thì tôi đoán chừng.  Có đoán chừng là có sai lạc.

Hành động phạm tội chưa phải là tội cho đến khi có mặt của ý chí và lý trí.  Mà mức độ ý chí, khả năng lý trí, lương tâm kẻ khác thì tôi không biết.  Như vậy, xét đoán của tôi có thể dựa trên hành động ngoại tại.  Mà hành động bên ngoài, tự nó chưa có giá trị quyết định, thì công việc xét đoán của tôi có giá trị không?  Làm sao có thể có một giá trị vững chắc khi mà giá trị đó xây dựng trên một nền tảng không có giá trị vững chắc?  “Ngươi là ai mà xét đoán gia nhân người khác?  Nó đứng hay nó ngã, mặc chủ nó, song nó sẽ đứng vững, vì Chúa có đủ quyền năng cho nó đứng vững” (Rom 14,4).

Phức tạp nơi chủ thể

Cái phức tạp rõ ràng nơi tôi là sự giới hạn tri thức của tôi.  Có điều hôm qua nhớ, hôm nay đã quên.  Trí tuệ và sự hiểu biết không hoàn hảo thì không bao giờ tôi có một xét đoán hoàn toàn trung thực.  Muốn xét đoán đúng, tôi phải biết rõ, thông suốt.  Ðiều này chỉ có Chúa mới đủ khả năng mà thôi.

Tôi đã có hình ảnh không đẹp về một linh mục.  Gần một năm trời tôi nhìn linh mục với hình ảnh như vậy.  Mùa hè năm đó, linh mục mua cây về trồng chung quanh nhà xứ.  Việc đào hố trồng cây đã không được tính toán kỹ, nên phải làm đi làm lại nhiều lần.  Số tiền trả nhân công quá tốn.  Tôi thấy linh mục làm việc không có chương trình, kế hoạch rõ ràng.  Số tiền ấy để làm được bao nhiêu việc quan trọng khác?  Mùa hè năm sau, trở lại giáo xứ cũ, Chúa đã cho tôi một ân sủng, một kinh nghiệm về xét đoán tha nhân.  Ðối với tôi, linh mục đã là người tiêu tiền của nhà xứ không tính toán.  Mùa hè lần này, trong lúc nói chuyện với cha già đã về hưu, tôi phàn nàn về việc cha xứ tiêu tiền như vậy.  Lúc đó, cha già cắt nghĩa cho tôi hiểu là trong giáo xứ có mấy gia đình nghèo quá không đủ gạo ăn.  Cha xứ thì tế nhị không muốn giúp đỡ họ bằng tiền bạc vì họ sẽ mang ơn.  Cha đã bày việc để gọi mấy đứa con của họ đến nhà xứ làm, hầu cha xứ lấy cớ trả công cho họ.  Hành động quá tế nhị đến nỗi họ không hề biết là cha xứ muốn giúp đỡ gia đình họ.  Cha muốn họ nghĩ là tiền lương do công của con họ làm để họ khỏi phải mang ơn ngài.

Nghe xong câu chuyện, tôi thấy như nắng chiều nhạt xuống.  Nặng nề trong hồn.  Ðó là hình ảnh quá đẹp của một linh mục sống đức tin.  Tôi thấy mình đã nhỏ nhoi và tầm thường.  Gần một năm trời tôi đã giữ hình ảnh không đẹp về linh mục đó.  Bây giờ tôi mới hiểu những việc rất thường mà tiền công thì cha trả rất nhiều.  Ðối với tôi, linh mục đã là người không biết tính toán để tốn tiền bạc.  Nhưng chính ngài đã tính toán rất cẩn thận để tìm lối giúp đỡ giáo dân của mình.  Tình thương bao giờ cũng có sáng kiến.

Nếu tôi đem câu chuyện linh mục tiêu phí tiền bạc của nhà xứ mà nói cho những người khác để họ cũng có hình ảnh xấu về linh mục như vậy thì tội nghiệp cho ngài biết bao.  Nếu tôi có nói xấu thì chắc ngài cũng không đính chính việc ngài làm.  Những tâm hồn cao thuợng là những tâm hồn dám âm thầm chấp nhận đau đớn cho một lý tưởng.  Những tâm hồn nhỏ nhen khi thấy người khác im lặng thường coi đó như một chiến thắng.  Những xét đoán sai lầm và nói cho người khác để rồi họ không hiểu đúng về một người, trước mặt Chúa có thể là lỗi rất nặng.  Phúc Âm thánh Yoan gọi những xét đoán đó là: “Các ngươi căn cứ vào xác thịt mà xét đoán” (Yn 8,15).

Tôi thiếu tri thức nhận diện dữ kiện để nhìn ra sự thật.  Tri thức nào có đủ khả năng để đi vào những chi ly, phức tạp như văn hóa, giáo dục, tập quán, gia đình, tâm lý, sức khỏe của cả chủ thể xét đoán và khách thể bị đoán xét?

Một nghịch cảnh thông thường, nhưng đáng sợ nằm ẩn kín trong tôi đó là tình cảm của mình.  Thương ai tôi muốn làm vừa lòng người đó.  Tôi nhớ.  Tôi mong.  Nếu nỗi nhớ càng sâu và nỗi mong càng cao thì những sai lầm mà tôi sẵn sàng làm để chiều lòng người đó càng nặng.  Tình cảm có sức ma thuật che mờ lý trí và đẩy ý chí vào hành động cuồng dại.  Nó quá nhẹ nhàng nên tôi không nghe tiếng động. Nó quá sắc nên tôi không thấy vết thương.  Xét đoán của tôi không sao tránh khỏi “căn cứ vào xác thịt mà xét đoán.”

Lạy Chúa, con không thể nhìn thấu suốt tâm hồn tha nhân được, vì thế xét đoán của con bao giờ cũng là xét đoán “căn cứ vào xác thịt.”  Căn cứ vào xác thịt thì có sai lầm.  Khi con xét đoán sai lầm là con gây bất công cho kẻ khác.  Xét đoán của con không làm tha nhân ra xấu thêm, nhưng hậu quả của nó là làm con mất bình an.  Tâm hồn con không còn thanh thản, tươi sáng nữa, mà vương vấn vì những ý nghĩ đen tối.  Con đã tự đem mảnh trời u ám mặc lấy hồn mình.

Từ ý nghĩ xấu về tha nhân sẽ làm con xa tha nhân.  Từ chỗ xa cho đến chỗ nói thêm về tha nhân những điều họ không có là một bước rất gần.  Từ đó, bức tường ngăn cách cứ thế mà xây cao.  Nghi kỵ loang ra như một vềt dầu, làm hoen ố tất cả hồ nước xinh đẹp của cuộc sống.  Khi con xây tường cũng ngăn cách chính mình.  Thí dụ, Phúc Âm đã thuật lại thái độ của Pharisiêu.  “Các người thu thuế cùng những kẻ tội lỗi thường lui tới bên Ngài để nghe Ngài.  Và Biệt Phái kêu trách.  Họ nói: ông ấy tiếp nhận quân tội lỗi và cùng ăn với chúng” (Lc 15,1-2).  Thái độ của những người Pharisiêu luôn luôn là xét đoán.  Xét đoán đem đến đối nghịch.  Pharisiêu đã tự tách biệt họ ra, nhưng sự tách biệt này lại cô lập chính họ với ân sủng thiêng liêng là chính Chúa.

Phúc Âm dạy về xét đoán

Chỉ có Chúa mới thấu suốt tâm hồn mọi người, nên Chúa Cha đã dành quyền xét xử cho một mình Chúa mà thôi: “Mọi việc xử án ban cho Con” (Yn 5,22).  Như thế, khi con phán đoán để xét xử về một người là con giành quyền đó của Chúa.  Thánh Yacôbê cũng viết: “Xét đoán anh em là xét đoán Lề Luật.  Nếu ngươi xét đoán Lề Luật thì ngươi không còn là kẻ giữ Luật, mà là Thẩm Phán.  Chỉ có một Ðấng lập Luật và là Thẩm Phán, Ðấng có quyền cứu rỗi và tiêu diệt.  Ngươi là ai mà dám xét đoán đồng loại” (Yc 4,11-12).  Con lấy quyền không thuộc về con là con đã tái lập lại tội của Adong, Evà ngày xưa là “muốn trở nên như Thiên Chúa biết cả tốt xấu” (Kn 3,5).  Ý nghĩa sâu xa của tội xét đoán là ở đó, chứ không phải chỉ là gây bất công.

Với tiêu chuẩn của xã hội, khi thấy một người sa ngã, xã hội kết án ngay.  Kẻ bị kết án thì đau khổ một mình.  Nhưng nguyên nhân của sa ngã có thể là do một người khác đã rải gai xuống lối đi của họ.  Biết đâu những gai đó đã do chính con gây ra.

Hoàn cảnh, lương tâm của một người là vùng đất vô cùng thánh, con không thể dẵm chân vào được, chỉ có Chúa mà thôi.

Chúa đã căn dặn con trong Phúc Âm thánh Yoan rất chi tiết: “Ta không xét xử ai, và nếu ta có xét xử, thì án của Ta chân thật, vì Ta không chỉ một mình nhưng có Ta và Ðấng đã sai Ta” (Yn 8,15-16).  Trong mọi biến cố, Chúa cầu nguyện với Chúa Cha, rồi thi hành ý của Chúa Cha.  Riêng việc xét xử, thì chẳng những Chúa xét xử theo ý Chúa Cha, hơn nữa, Chúa không xét xử một mình, mặc dù đã được Chúa Cha trao quyền, mà Chúa lại còn xin Chúa Cha xét xử cùng với mình.  Cách cư xử cẩn thận của Chúa làm con lo sợ vì đã bao lần con quá coi thường, xét xử tha nhân.

Thánh Phaolô cũng căn dặn con: “Chính điều ngươi xét đoán kẻ khác, ngươi kết án chính mình ngươi” (Rom 2,1).  Và khi con xét đoán người khác là con “khinh thường kho tàng phong phú là lòng nhân từ, kiên nhẫn và quảng đại của Chúa” (Rom 2,4).

– Nếu con cần lòng nhân từ của Chúa đối với con thì tại sao lại khinh thường lòng nhân từ của Chúa với người khác?

– Nếu con cần lòng kiên nhẫn của Chúa để con có thời gian làm lại cuộc đời sau khi lầm lỗi thì tại sao con lại khinh thường lòng kiên nhẫn của Chúa với người khác?

– Nếu con cần lòng quảng đại của Chúa đối với sa ngã của con thì tại sao con lại khinh thường lòng quảng đại của Chúa với người khác?

Lạy Chúa, con cần ơn Chúa rất nhiều để kìm hãm mình khi con muốn xét đoán kẻ khác, vì đây là lời mời gọi cám dỗ rất nguy hiểm, nó đã gây nên biết bao đổ vỡ, xa cách.  Một thứ cám dỗ rất nguy hiểm được bao bọc bằng những lý do hết sức tinh vi.

LM Nguyễn Tầm Thường, S.J

 Trích trong “Nước Mắt và Hạnh Phúc”

From langthangchieutim

Tên độc tài đã chết

From facebook: Trần Bang and Thomas Trung shared Lê Công Định‘s post.
Image may contain: 2 people
Image may contain: one or more people
Image may contain: one or more people and people sitting
Lê Công Định added 3 new photos.Follow

Trong Art Basel cuối tháng 3 vừa rồi ở Hong Kong, có trưng bày tác phẩm “Tên Độc Tài Đã Chết” (trước đó đặt ở bảo tàng Singapore), được người xem tại đấy đón nhận đầy phấn khích.

Một nhà sưu tập tranh người Việt ở nước ngoài đã nhận xét: “May cho tác giả không ở VN chứ không thì được mời vào Hỏa Lò sáng tác lâu rồi!”

Tác phẩm trông như thật! Mà nhiều khi cái tưởng thật cũng chỉ là sản phẩm chế tác như thế thôi.

https://www.google.com.vn/…/Dead-dictators-draw-Hong-Kong-a…

Chân Dung Một H.O. — “Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Sẳng”


Chân Dung Một H.O. — “Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Sẳng”
 

LTS. – Anh Chị Em cựu tù nhân chính trị sang định cư tại Hoa Kỳ theo các danh sách H.O. từ năm 1990 đến nay, người đầu tiên lâu nhất là gần mười lăm năm, người trễ nhất cũng đã đến đây được sáu bảy năm. Gia đình, công việc coi như đều đã ổn định, nhưng số phận đã đem mỗi con người đi theo những con đường khác nhau. Sang đây, tùy cuộc đời đưa đẩy, có người đi học lại có cấp bằng để gia nhập vào đời sống Mỹ một cách dễ dàng, có người chịu làm nghề tay chân để sống qua ngày, không ít bạn xoay sang các ngành nghề thương mãi, cũng có người xuống tóc xuất gia ngày đêm kinh kệ…Sau bao nhiêu năm lao tù, đói khát, nhọc nhằn, sang đến đây, sức tàn lực kiệt, đã có rất nhiều người hiện đang đang nằm trong nursing home hay đã qua đời. Chúng tôi hy vọng, trong khả năng hạn hẹp, sẽ tìm hiểu và vẽ lại chân dung đa dạng của những người anh em mà chúng ta tạm gọi là những người H.O.

 Đây là một tấm gương sáng không những chỉ cho những người đồng hoàn cảnh với Ông, mà cả đối với lớp trẻ, con cháu.

Nguyễn Ngọc Sẳng sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Tân Chánh, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Thuở nhỏ ông theo học trường làng, vào trung học mới về được trường Quận, cấp hai mới lên Saigon theo học tại trường Chu Văn An. Năm 1962, mới đậu xong tú tài phần 1, phận nhà nghèo, không thể tiếp tục đi học, ông thi vào trường Sư Phạm Saigon khóa hai năm, về dạy trường tiểu học ở Vũng Tàu, rồi lấy vợ tại đây. Ba năm sau, 1967, Nguyễn Ngọc Sẳng bị động viên khóa 24 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ra trường ông đổi về phục vụ tại Tiêu Khu Long Khánh và giữ chức vụ Trung Đội Trưởng thuộc Đại Đội 624 tại Chi Khu Định Quán, Long Khánh. Năm 1969, Nguyễn Ngọc Sẳng cầm lệnh giải ngũ về lại quê vợ, đỗ xong Tú Tài phần 2 và được bổ nhiệm dạy học tại trường Trung Học Thắng Nhì.

Nhờ tinh thần hiếu học và cần cù, sáu năm sau, Nguyễn Ngọc Sẳng đã tốt nghiệp Cử Nhân Văn Chương tại Đại Học Văn Khoa Saigon, và từ một giáo viên tiểu học, ông đã được nhập ngạch giáo sư Trung Học Đệ Nhị Cấp, bổ nhiệm về dạy tại trường Trung Học Thị Xã Vũng Tàu. Chỉ ở trong quân đội hai năm, nhưng chế độ Cộng Sản xem chuyện biệt phái về ngành giáo dục của một sĩ quan là một trọng tội, do đó trung úy Nguyễn Ngọc Sẳng đã bị tập trung cải tạo đúng 5 năm rưỡi qua các trại Vũng Tàu, Long Khánh và Hàm Tân ở trại Z.30C.

Năm 1981, Nguyễn Ngọc Sẳng được ra tù và về sống tại quê vợ và cũng là nơi ông đã dạy học trong nhiều năm. Trong thời gian ấy, vùng biển Vũng Tàu cũng là nơi người ta chọn để vượt biên nhiều nhất, tuy vậy gia đình ông nhà giáo Sẳng quá nghèo, không kiếm đâu ra vài chỉ vàng để đóng góp với chủ tàu. Nghề nghiệp nuôi sống của một người đi tù “cải tạo” mới về ít vốn liếng như ông là đi bán vé số dạo trong các quán giải khát và ăn nhậu trên bãi biển Vũng Tàu trong gần hai năm trời, nghề mà ông không khỏi ngượng ngập khi phải gặp không ít những khuôn mặt quen thuộc tại địa phương hay buồn phiền khi cầm trên tay nắm vé số trong những chiều mưa ế ẩm.

Nghề bán vé số không khá, nhất là khi phải nài nỉ khách mua và phải đi lang thang suốt ngày. Sau đó, ông nhận một việc làm tưới cây kiểng cho một Hotel, nhưng chỉ trong một tuần đã bị chủ đuổi vì bắt gặp ông ngồi nhâm nhi bên ly cà phê, mặc đầu chưa tới giờ làm việc. Thấy ông có chút sức khỏe, một chủ khách sạn ở bãi sau đề nghị ông về làm cho họ với một số tiền hằng ngày ổn định hơn.

Công việc hằng ngày của ông là xách nước ngọt cho khách tắm biển tại các phòng tắm trên bãi của nhà hàng. Mỗi ngày, “ông thầy” Nguyễn Ngọc Sẳng phải xách hơn 150 thùng nước ngọt cho khách hàng từ chỗ nước máy ra các phòng tắm trên bãi, và vì ở ngoài bãi suốt ngày, da ông đen nhẽm, đám môn sinh Vũng Tàu cũng khó nhìn ra ông.

Tuy công việc khá cực nhọc, nhưng bù lại, với tiền công mỗi ngày ông mua được 6, 7 kg gạo, đủ ăn và chi dùng cho gia đình. Làm việc như thế ròng rã suốt hai năm cho tới một ngày nọ, ông may mắn gặp được một người phụ huynh học sinh có lòng tốt, thấy ông thầy giáo cũ quá vất vả, muôn giúp đỡ ông. Vị này có quen một người vừa trúng số độc đắc, đang mở một cửa hàng xe đạp, giới thiệu cho ông Sẳng về đó làm kế toán cho cửa hàng. Cuộc đời ông từ đó khá thêm một bậc, được ở trong bóng mát, đỡ phải vất vả lăn lộn ngoài bãi biển.

Dần dà ông dành dụm được tí vốn, và nhờ sự giúp đỡ của người chủ cũ, Nguyễn Ngọc Sẳng đã mở được một cửa hàng xe đạp nhỏ. Nhờ sinh vào thời buổi “toàn dân đi xe đạp”, gia đình ông cũng kiếm được chút tiền, vừa lúc chương trình H.O. tới, ông có đủ tiền để lên Saigon dịch vụ xuất cảnh, muốn đi sớm phải có “chỉ” và được xếp vào danh sách H.O.4. Tháng 11-1990, gia đình ông giáo Sẳng đã tới được đất Mỹ, thuộc diện “mồ côi”, do một nhà thờ bảo lãnh, về định cư tại thành phố Tucson, tiểu bang Arizona.

Cũng như các cựu tù nhân chính trị mới sang Mỹ, ông phải làm nhiều nghề để sinh tồn...Thoạt đầu, ông theo một người bạn làm nghề cắt cỏ, trong khi không có tay nghề, công việc của ông là cào lá, hốt cỏ, rác cho vào bao đem đi. Năm sau ông xin được một chân làm assembly trong một hãng nhỏ, sau đó hãng đem công việc sang Mễ, ông lại đổi nghề. Lần này ông làm công việc là đóng bao bì cho cho một hiệu sản xuất dụng cụ học sinh. Trong sáu năm cuối cùng, Nguyễn Ngọc Sẳng làm janitor quét dọn cho nhà thương Tucson Medical Center vào ban đêm.

Điều đáng nói là từ lúc sang Hoa kỳ, ban ngày đi làm kiếm sống, nhưng ban đêm ông lại tới trường để theo học các lớp ESL vì ông vốn là giáo sư dạy Việt Văn vốn liếng tiếng Anh không có bao nhiêu. Ròng rã như thế, trong 7 năm, vừa đi làm vừa đi học, Nguyễn Ngọc Sẳng lấy xong văn bằng Master of Education vào năm 1998 và từ đấy ông mới chính thức có công việc tại Khu Học Chánh Tucson. Có lẽ cá nhân ông Nguyễn Ngọc Sẳng chưa bao giờ cho mình là già, và tuy đã có viêc làm ổn định, ông vẫn còn đi học… Cuối năm 2004 vừa qua, vào ngày 18 tháng 12, ông giáo Nguyễn Ngọc Sẳng, mới ngày nào sang Mỹ ban đêm còn ngồi trong các lớp ESL, đã vinh dự nhận văn bằng Ph.D. của University of Arizona.

Số các cựu tù nhân chính trị đến Mỹ theo diện H.O. nhận văn bằng Ph.D. không nhiều, hầu hết đều đã có vốn liếng Anh Ngữ từ trước, Nguyễn Ngọc Sẳng là một trường hợp đặc biệt. Phải nói là ông đã nổ lực nhiều lần hơn những người đồng hoàn cảnh để vươn lên. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Ngọc Sẳng là “The Role of Cultural Factors Affecting the Academic Achievement of Vietnamese Immigrant/Refugee Students in the United States” (Những Yếu Tố Văn Hóa Ảnh Hưởng Đến Sự Thành Công Trong Học Vấn của Học Sinh Di Dân/ Tỵ Nạn Việt Nam trên đất Mỹ).

Mọi sự chưa bao giờ là chậm. Nguyễn Ngọc Sẳng đỗ bằng Ph.D. lúc ông đã 62 tuổi cũng chưa phải là già. Xin chào mừng người bạn tù H.O.4.

 Huy Phương 

www.vietthuc.org

Trại súc vật của George Orwell: Biếm họa sâu cay về “các thế lực thù địch”

 Trại súc vật của George Orwell: Biếm họa sâu cay về “các thế lực thù địch”

Trại súc vật của George Orwell: Biếm họa sâu cay về “các thế lực thù địch”
Tác phẩm Trại súc vật (Ảnh qua Pinterest)

Trại súc vật bắt đầu bằng việc một bầy súc vật không chịu nổi sự “bóc lột” của con người mà vùng lên làm cách mạng tạo phản, cuối cùng đã đuổi được con người và thành lập một “Trại súc vật” do mình làm chủ.

Nhưng không lâu sau đó, con heo lãnh tụ, kẻ dẫn đầu bầy động vật tiến hành “cách mạng”, lại được hưởng đặc quyền, một mình hưởng thụ sữa bò và táo. Khi các loài động vật khác, những kẻ từng ôm giữ ý niệm “tất cả các loài động vật đều bình đẳng như nhau” mà tham gia cách mạng, nghi ngờ con heo lãnh tụ, con heo phụ trách tuyên truyền đã giải thích rằng:

Chúng tôi ăn những thứ này mục đích duy nhất là phải giữ gìn sức khỏe cho chúng tôi. Toàn bộ việc quản lý và tổ chức công việc trong khu vườn đều dựa vào chúng tôi. Chúng tôi vì hạnh phúc của mọi người mà ngày đêm tận tâm tận lực. Do đó, điều này là vì các bạn, chúng tôi mới uống sữa bò và mới ăn táo. Các bạn có biết không, lỡ khi loài heo chúng ta mất chức, vậy chuyện gì sẽ xảy ra? Jones sẽ cuốn bụi mà quay trở lại! Đúng vậy Jones sẽ cuốn bụi mà quay trở lại! Quả thực, các đồng chí! Jones vốn là ông chủ của khu vườn, cũng là kẻ thống trị của ‘xã hội cũ’.

Một vài loài động vật cá biệt mơ hồ nhớ rằng khi Jones còn ở đây, tình hình cuộc sống của các loài động vật hầu như không kém hơn so với hiện tại. Nhưng theo sự tuyên truyền ngày qua ngày, nỗi sợ hãi Jones sẽ cuốn bụi mà quay trở lại đã ăn sâu vào đầu những loài động vật như một phản xạ có điều kiện. Vậy là lũ động vật không còn lời nào để nói về đặc quyền của heo. Rất nhanh, đặc quyền của heo càng ngày càng nhiều…

Trại súc vật của George Orwell: Biếm họa sâu cay về “các thế lực thù địch”
Lũ động vật nghe tuyên truyền. (Ảnh qua Pinterest)

Mặt khác, làm thế nào để đề phòng việc Jones lại cuốn bụi quay trở lại, đặc biệt là sự câu kết giữa kẻ đồ tể và Jones, phá hoại trang trại mà lũ động vật vận hành, đã trở thành một nội dung quan trọng trong cuộc sống thường nhật của các loài động vật. Đối mặt với “đại sự hàng đầu”như vậy, những bất mãn và ý kiến bất đồng khác đã trở thành chuyện vặt vãnh không quan trọng. Hơn nữa, luôn luôn “đề cao cảnh giác”“chuẩn bị chiến đấu” đã trở thành một nội dung quan trọng bậc nhất vượt qua mọi điều trong cuộc sống xã hội. Bên cạnh đó, dưới sự điều động của con heo lãnh tụ, lũ động vật làm việc ngày càng chăm chỉ hơn, hứa hẹn cho một “cuộc sống tương lai dễ chịu”.

Cá biệt trong lũ động vật, có một con ngựa cần cù chăm chỉ, làm việc cho đến khi gục ngã. Thế là con heo lãnh tụ cử một chiếc xe kéo tới, nói là để đưa ngựa tới bệnh viện an dưỡng. Tuy nhiên, con lừa biết đọc lại phát hiện ra rằng đó là chiếc xe của một tay giết thịt. Vậy là con heo tuyên truyền phải vào cuộc, nói rằng chiếc xe đó đã được mua lại từ tay kẻ đồ tể, và rằng con ngựa sẽ được an dưỡng thích đáng.

Trại súc vật của George Orwell: Biếm họa sâu cay về “các thế lực thù địch”
Con ngựa làm việc đến gục ngã. (Ảnh qua Pinterest)

Một thời gian sau, con heo tuyên truyền công bố rằng con ngựa đã ra đi hạnh phúc trong bệnh viện, và lũ heo tổ chức một ngày lễ để tôn vinh con ngựa, cùng trại súc vật vinh quang, và khuyến khích các con vật khác noi gương con ngựa…

Nhưng sự thật là con ngựa đã bị bán cho kẻ đồ tể, để lũ heo có tiền mua rượu whisky.

Nhiều năm sau đó, trại súc vật ngày càng hoạt động tốt hơn, và thu được nguồn lợi nhiều hơn. Nhưng những gì được hứa hẹn như đèn điện, hệ thống sưởi, nước uống đều bị quên lãng. Con heo lãnh tụ đã khiến lũ động vật tin rằng sống một cuộc sống giản dị là điều hạnh phúc nhất. Những con heo bắt đầu bắt chước lối sống của người, đi bằng hai chân, mang theo roi da, mặc quần áo. Lý niệm “tất cả các loài động vật đều bình đẳng như nhau” được thay thế bằng lý niệm “tất cả các loài động vật đều bình đẳng như nhau, nhưng một số thì bình đẳng hơn những con khác”.

Trại súc vật của George Orwell: Biếm họa sâu cay về “các thế lực thù địch”
“Tất cả các loài động vật đều bình đẳng như nhau, nhưng một số thì bình đẳng hơn những con khác” (Ảnh qua cageyfilms.com)

Khi con heo lãnh tụ mở một bữa tiệc và mời những người nông dân ở địa phương tới, lũ động vật trong trại nhìn từ heo sang người, và chợt nhận ra rằng, chúng không còn phân biệt được heo và người nữa…

Mặc dù Trại súc vật vẫn còn thể hiện rõ những luyến tiếc về quan niệm bình đẳng xã hội không tưởng của tác giả, nhưng quả thật George Orwell đã thành công trong việc khắc họa bản chất triết học đấu tranh của kẻ thống trị chuyên chế một cách giàu hình tượng và sâu sắc.

Trại súc vật của George Orwell: Biếm họa sâu cay về “các thế lực thù địch”
“Thế lực thù địch” vô hình… (Ảnh qua illustrators.ru)

Thông qua hình tượng kẻ địch vô hình được tạo ra và lưu giữ mọi thời khắc trong đầu óc lũ động vật, thông qua việc cường điệu sự nguy hiểm của kẻ địch mọi lúc, cường điệu tính tất yếu của việc “đoàn kết nhất trí”, kẻ thống trị đã khiến lũ động vật phải “tạm thời nhẫn nhịn” tất cả sự bạo ngược. Lũ động vật ngây thơ tin rằng hành vi bạo lực này xuất phát từ một nguyện vọng bình đẳng tốt đẹp, và cuối cùng sẽ mang lại hạnh phúc cho mọi người.

Nhưng tất nhiên, người ta có nam có nữ, có giàu có nghèo, có sướng có khổ, có ngọt bùi có đắng cay, có chăm chỉ có lười biếng, có giỏi có kém, có cảm nhận khác nhau, có tính cách khác nhau, có hoàn cảnh khác nhau, vậy thì cuộc sống mới thật là phong phú và có hương vị. Cái gọi là nguyện vọng bình đẳng không tưởng bên trong nguồn tài nguyên có hạn là trái đất này, và thứ học thuyết đấu tranh luẩn quẩn kia, đều chỉ là ngụy biện mà thôi…

Blogger Thuận Nhân

Công dân chính trực có thể né tránh chính trị?

From facebook: Trần Bang
 

Công dân chính trực có thể né tránh chính trị?

Kinh tế đất nước không chịu ( tự do) phát triển là do chính trị.
Quốc gia bị kẻ thù truyền kiếp gặm dần từng phần chủ quyền đất rừng, biển đảo mà chỉ hèn nhát phản ứng yếu ớt lấy lệ là do chính trị.

Đạo lý xã hội suy đồi, dối trá, tham nhũng, độc ác, cơ hội lũng đoạn lên ngôi là do chính trị.
Đời sống người dân bất an trước các tệ nạn đầy rẫy rình rập là do chính trị.

Tự do nhân quyền của người dân bị xâm phạm trắng trợn là do chính trị.

Môi trường đất, nước, không khí…. bị ô nhiễm nặng nề, thực phẩm độc hại tràn lan là do chính trị.

Nhóm lợi ích vài ngàn người ngốn hết tài nguyên, nguồn lực, quyền lực của 95 triệu người dân VN là do chính trị.

Nền giáo dục cải cách liên miên chỉ ngốn tiền dân, người dân có khả năng vẫn phải cho con em đi tị nạn giáo dục, bằng cấp không được thế giới văn minh công nhận là do chính trị.
Công dân có năng lực tìm mọi cách chạy khỏi đất nước là do chính trị.

Người bệnh có tiền phải chạy ra nước ngoài chữa bệnh là do chính trị.
Chết do ung thư, tai nạn giao thông nhiều hàng đầu thế giới là do chính trị.

Cử nhân, kỹ sư… đua nhau đút lót để thành người nhà nước ( để chầu rìa nhặt miếng ăn béo bở rơi rụng và đợi cơ hội ra nhập nhóm lợi ích ( được quy hoạch, được thăng tiến nhờ hậu duệ, tiền tệ, quan hệ … ) tham tàn là do chính trị.

Đồng tiền bị mất giá sau 40 năm ở hàng chục vạn lần ( năm chữ số, 1₫ năm 1977 bằng khoảng 35.000₫ năm 2017, tính đổi tiền 1985 10₫ cũ= 1₫ mới, tiền mất giá sau 40 năm : 1₫ = 350.000₫ ) là do chính trị.
Con người mất lòng tin vào con người là do chính trị.

Ra chợ, vào siêu thị không còn tin vào hàng hoá thực phẩm… đành liều với câu ” không ăn thì chết ngay, ăn thì chờ ung thư, bệnh hoạn phát ra lúc nào thì biết lúc đó” là do chính trị.

Người tài năng, đức độ, chính trực nhiệt tâm phụng sự đất nước thì phải câm lặng nhẫn nhục đến hết đời hoặc thành ” thế lực thù địch”, hoặc phải đi khỏi đất nước là do chính trị.

“Con người là động vật chính trị”, nhưng công khai nói lên quan điểm chính trị, hoặc thực hiện quyền chính trị dân sự độc lập thì bị coi như kẻ thù của an ninh, bị hình sự hoá, bị tù đầy, bị trục xuất… 
Mất quyền tự do chính trị, con người chỉ như nô lệ, như công cụ, như những con cừu, bị chăn dắt bởi một nhóm người nắm quyền lực là do chính trị.

Nội dung, ý nghĩa của ngôn ngữ của cả một dân tộc bị đánh tráo, bị đảo lộn, bị lường gạt…, lịch sử bị thiến hoạn, bị bóp méo, bị xuyên tạc một chiều là do chính trị.

Quốc gia bị các nước văn minh, nhân bản không còn tin tưởng và tôn trọng là do chính trị ( vụ TXT bị bắt cóc ở Đức, vụ TVB kiện VN ở Toà ICC là ví dụ )

Ra đường là gặp BOT, con sâu gặm tiền (CSGT) là do chính trị.

Hàng ngàn vạn dân oan, tù oan, mất đất mất nhà là do chính trị.

Công lý là thằng hề là do chính trị.

Cái gì, làm gì, đụng đâu cũng phải ” chạy” là do chính trị.

Ăn cả mộ phần liệt sỹ, thương binh giả, nạn nhân chất độc da cam giả …. do chính trị.

Công thần, địa vị, kiêu ngạo cộng sản là do chính trị.

Quốc gia thành con bài, thành con mồi, thành công cụ, thành khu tự trị tự nguyện cho các thế lực bành trướng độc ác nham hiểm Bắc Kinh; biến 95 triệu dân thành nô lệ, làm con mồi cho học thuyết ảo tưởng, dối trá, bạo lực và phi nhân bản cũng là do chính trị.

Tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tự do xuất bản, tự do học thuật không có ( tất cả đều do nhóm quyền lực ( nhân danh nhà nước ) quản lý, khống chế ) cũng do chính trị.

Phát minh, sáng chế, năng suất lao động, giáo dục thì đứng cuối bảng; những tham nhũng, gian dối, lừa đảo, ăn cắp, bạo lực, rượu chè, cờ bạc, làm điếm, ung thư, ô nhiễm, tai nạn giao thông thì đứng nhóm đầu bảng trên thế giới cũng do chính trị.
….

Định nghĩa ” Quốc gia là một cộng đồng chính trị, là tập hợp tất cả ( 95 triệu ) công dân tự do, bình đẳng trước pháp luật (mà trên hết là Hiến pháp tam quyền phân lập… để người dân có thể kiểm soát, khống chế những kẻ được dân giao quyền có thời hạn…, do toàn dân phúc quyết) ” không còn đúng nữa cũng là do chính trị.
….

Những công dân chân chính còn né tránh, không dám động đến chữ ” chính trị” đến khi nào?
Hay dân tộc này phải chịu qua ngàn năm Bắc (TQ Cộng sản) thuộc lần hai mới tỉnh ngộ?

Nhìn lại Chiến tranh Việt Nam


Trong bức ảnh chụp ngày 28/4/1965, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tiến vào một ngôi làng tình nghi do Việt Cộng kiểm soát gần tp Đà Nẵng trong chiến tranh Việt Nam. Phim tài liệu10 tập của đạo diễn Ken Burns về cuộc chiến sẽ bắt đầu được công chiếu ngày 17/9/2017 trên đài PBS. (AP Photo/Eddie Adams)

Trong bức ảnh chụp ngày 28/4/1965, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tiến vào một ngôi làng tình nghi do Việt Cộng kiểm soát gần tp Đà Nẵng trong chiến tranh Việt Nam. Phim tài liệu10 tập của đạo diễn Ken Burns về cuộc chiến sẽ bắt đầu được công chiếu ngày 17/9/2017 trên đài PBS. (AP Photo/Eddie Adams)

Buổi ra mắt và thảo luận về phim “The Vietnam War” đêm thứ Ba 12/9 của hai đạo diễn Mỹ nổi tiếng về các phim tài liệu có giá trị lịch sử: Ken Burns và Lynn Novick diễn ra tại Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Kennedy ở thủ đô Washington. Dẫn đầu cuộc thảo luận, ngoài hai nhà đạo diễn và MC là ký giả Martha Raddatz của chương trình tin tức đài ABC, còn có 3 khách mời đặc biệt, Thượng nghị sĩ John McCain, cựu Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel, cả 3 đều là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam.

Trong cử tọa ngồi hầu như chật kín cả hội trường, người ta ghi nhận sự hiện diện của nhiều giới chức trong quân đội và chính phủ, các cựu chiến binh, lãnh đạo doanh nghiệp, các nhà lập pháp và nhân viên quốc hội, cũng như truyền thông báo chí. Mở đầu sự kiện, đạo diễn Ken Burns đã gây hào hứng lập tức khi ông mời các cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam có mặt trong cử tọa hãy đứng dậy. Nhiều người đàn ông tóc điểm sương đứng lên. Hội trường òa vỡ với những tiếng vỗ tay không dứt. Ngay sau đó nhà đạo diễn mời những người từng tham gia phong trào phản chiến chống chiến tranh Việt Nam đứng lên, một số người đã ôm chầm các cựu chiến binh, những người mà họ từng nguyền rủa và ruồng bỏ trong cao trào phản chiến. Cử tọa lại òa vỡ với nhiều tràng vỗ tay vang dội.

Đạo diễn Ken Burns tiết lộ rằng khi bắt đầu cuộc hành trình chông gai để thực hiện dự án này, những người đầu tiên mà hai đạo diễn tìm đến là Thượng nghị sĩ McCain, và ông Kerry, lúc đó cũng là một Thượng nghị sĩ.

“Chúng tôi nói chúng tôi cần sự giúp đỡ của hai ông, nhưng chúng tôi sẽ không phỏng vấn, mặc dù câu chuyện của hai người được kể lại trong phim, tự nó đã đầy kịch tính. Chúng tôi cho rằng vì hai ông còn là những nhân vật của công chúng, như ông Kissinger, như Jane Fonda, Daniel Ellesberg, chúng tôi tránh phỏng vấn họ mà chọn những người khác. Nhưng tôi tin rằng Lynn và tôi đã không thể hoàn thành bộ phim này mà không có sự giúp đỡ của hai ông.”

Những clip mà đạo diễn Burns chọn cho công chiếu để giới thiệu bộ phim thực hiện cùng với đạo diễn Lynn Novick, nêu bật những sự chia rẽ sâu sắc và tình trạng hoang mang trong xã hội Mỹ trong và sau cuộc chiến. Những hình ảnh, đoạn phim tài liệu sống động của thời chiến chen lẫn với các cuộc phỏng vấn thực hiện hồi gần đây hơn với tất cả những người thuộc mọi bên trong cuộc xung đột, gợi lại những kinh hoàng trên chiến trường Việt Nam, sự phẫn nộ tột độ thể hiện trong các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam, về hậu quả bi thương của cuộc chiến, chiến tranh đầu tiên của người Mỹ không kết thúc trong chiến thắng. Kết thúc là đoạn clip khá dài về những sự xúc động mà Đài Tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam gợi lên cho mãi tới ngày hôm nay, phơi bày những vết thương sâu đậm vẫn chưa lành hẳn, gần nửa thế kỷ sau khi chiến tranh kết thúc.

Nên rút ra bài học nào từ chiến tranh Việt Nam? Thượng nghị sĩ John McCain:

“Tôi nghĩ đây là thời điểm đúng lúc để kể lại Chiến tranh Việt Nam, sau một cuộc xung đột, phải có một thời gian để những cảm xúc dịu bớt, nhường chỗ cho một cái nhìn khách quan hơn, và như thế chúng ta mới nắm được câu chuyện nó thực sự xảy ra như thế nào. Tôi tin nó đúng lúc đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới đang xáo trộn như bây giờ. Có thể chúng ta sẽ nhìn lại cuộc xung đột tại Việt Nam để bảo đảm chúng ta không lặp lại những sai lầm đã phạm trong cuộc chiến đó. Bài học rút ra là, chúng ta phải đảm bảo các nhà lãnh đạo quân sự và dân sự phải thành thực với công chúng, và tránh thi hành lệnh nhập ngũ chỉ nhắm vào các thành phần có thu nhập thấp.”

Ông McCain, cựu tù binh chiến tranh từng bị giam cầm ở nhà tù Hỏa Lò, tiết lộ ông thường xuyên tới thăm Đài Tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam, nơi ghi khắc tên tuổi của 58,000 binh sĩ Mỹ đã nằm xuống trên chiến trường Việt Nam. Ông cho biết là thường đến vào sáng sớm hoặc giấc chiều tối, chỉ để bắt tay và trò chuyện với những cựu chiến binh và tưởng nhớ các đồng đội đã ra đi.

“Những người trẻ tuổi này phải hy sinh mạng sống bởi vì lãnh đạo thiếu tài năng và bị hủ hóa – Chúng ta cần các nhà lãnh đạo có khả năng lãnh đạo, giúp vạch ra một lộ trình dẫn tới chiến thắng để chúng ta không bao giờ còn phải hy sinh tính mạng của các quân nhân vào một cuộc chiến không có lối thoát.”

Cựu Ngoại Trưởng John Kerry, một chiến binh từng được trao nhiều huân chương, kể cả Chiến Thương Bội Tinh, thì nêu bật tầm quan trọng của các nỗ lực ngoại giao.

“Bài học mà chúng ta rút ra thật đáng giá. Chúng ta phải biết chúng ta đang làm gì, phải thành thực với dân chúng, chiến tranh phải là giải pháp cuối cùng sau khi đã khai thác triệt để giải pháp ngoại giao. Tất cả những điều đó đều đúng cho chiến tranh Việt Nam và đúng cho tất cả mọi sự lựa chọn mà bây giờ chúng ta đang đối mặt.”

Ông Kerry nói nếu có một điều gì có thể giúp hàn gắn những sự chia rẽ trong xã hội Mỹ, khiến những người theo phong trào phản chiến có thể ôm lấy các cựu chiến binh đã cầm súng chiến đấu tại Việt Nam, thì đó là phim tài liệu Chiến tranh Việt Nam của Ken Burns và Lynn Novick.

Một cựu chiến binh cũng từng được trao Chiến thương Bội tinh như ông Kerry, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel ca ngợi những nỗ lực của ông McCain và Kerry trong việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Ông nói phim The Vietnam War sẽ có ảnh hưởng sâu rộng không những ở Hoa Kỳ mà còn ở cả Việt Nam.

“Tôi chưa xem hết phim, nhưng đã xem khá nhiều. Tôi tin rằng nó đại diện cho và sẽ tiếp tục có ảnh hưởng đáng kể tới xã hội của chúng ta và cả Việt Nam nữa. Bộ phim này là bộ phim hấp dẫn, có tính thuyết phục nhất, đầy đủ nhất, trung thực nhất khi kể lại câu chuyện về chiến tranh Việt Nam.”

Ông Hagel nói tuy xem phim khơi lại những vết thương cũ, nhưng là điều có ích, nhất là cho các thế hệ lãnh đạo tương lai của nước Mỹ.

“Vâng, xem phim rất là đau lòng, nhưng rất quan trọng cho các thế hệ lãnh đạo kế tiếp của Mỹ phải hiểu được những hậu quả của chiến tranh và những hậu quả của các quyết định của chúng ta. Có thể chúng ta không bảo đảm được là tất cả các quyết định đều đúng nhưng bộ phim này sẽ mang lại cho chúng ta một kích thước khác.”

Một chi tiết có lẽ sẽ gây rất nhiều chú ý đối với khán giả Việt Nam là biến cố Tết Mậu Thân năm 1968, khi nhiều thường dân bị cộng sản Bắc Việt thảm sát, có người bị chôn sống, đã được nhắc đến trong phim. Đây có lẽ là phim tài liệu có tầm cỡ đầu tiên của Mỹ nhắc đến vụ thảm sát ở Huế.

Bà Duong Vân Mai Elliott, tác giả cuốn “The Sacred Willow” về 4 thế hệ của một gia đình Việt Nam, được các nhà làm phim yêu cầu cộng tác và xuất hiện nhiều lần trong phim. Bà có gia đình ở cả hai bên chiến tuyến, nói bà kinh ngạc khi thấy đạo diễn Ken Burns nhắc đến biến cố Tết Mậu Thân.

“Tôi xem tôi rất là sửng sốt, tôi cũng nói với ông (đạo diễn Burns) đây là lần đầu tiên mà một người ngoài Bắc đã tham chiến, công nhận vụ thảm sát ở Huế xảy ra năm Mậu Thân 1968. Tôi rất là ngạc nhiên. Nếu mà ông ấy phỏng vấn như thế này cách đây mười mấy năm thì chưa chắc họ đã dám nói như vậy, nhưng mà lúc ông phỏng vấn thì tôi thấy họ nói trung thực lắm.”

Thẩm phán Phan Quang Tuệ, từng phục vụ tại Tòa án Di trú San Francisco nay đã về hưu, cũng xuất hiện trong phim. Ông nhận xét:

“Nhìn qua những bộ phim đã có, tôi thấy không có phim nào có thể trung thực hơn, và tôi không nghĩ là tương lai sẽ có một cuộn phim nào khác nữa vì cho tới khi phim này ra thì đã 42 năm sau cuộc chiến. Hai, ba thế hệ đã lớn lên, cuộn phim này ghi lại trung thực lịch sử, không phải của cuộc chiến mà qua cái lịch sử cuộc chiến đó, lịch sử Việt Nam, Nam cũng như Bắc. Tôi thấy điều cần làm là phải phổ biến rộng rãi phim này ở Việt Nam.”

Chiến tranh Việt Nam, hơn 4 thập niên sau, vẫn là một chủ đề hóc búa cho một phim tài liệu, và chắc chắn trong những ngày tới, “The Vietnam War” sẽ còn gây rất nhiều tranh cãi tại Hoa Kỳ, tại Việt Nam và trong các cộng đồng người Việt hải ngoại khắp nơi.

Phim tài liệu 10 tập “The Vietnam War” của đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick sẽ lần lượt được công chiếu trên đài PBS, bắt đầu từ ngày Chủ nhật 17 tháng 9.

ĐỐI THOẠI MÙA THU

 
 
From facebook:  Trần Bang
 

ĐỐI THOẠI MÙA THU 

Hai lá thư, một của ông Hữu Thỉnh, quan chức văn CSVN, một của ông Phan Nhật Nam, lính viết văn VNCH giúp công luận thêm tin tức để nhận định thời cuộc.

THƯ CỦA THỦ ĐÔ HÀ NỘI:
Thư gửi : Nhà văn PHAN NHẬT NAM

Thưa anh,

1/ Để đỡ đường đột, xin giới thiệu. Tôi là Hữu Thỉnh, người từng đọc anh đã lâu, hiện nay đang làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Tôi mới gặp Thụy Kha vừa ở bên ấy về, cho biết có gặp anh và hai người đã từng cùng nhau uống bia vui vẻ. Đấy quả là một sự kiện bất ngờ thú vị. Với dư âm của các cuộc gặp ấy, tôi viết thư này thăm anh và bày tỏ nguyện vọng “tái bản” cuộc gặp ấy, và di chuyển nó về quê nhà với quy mô rộng hơn, thời gian dài hơn trong khuôn khổ một cuộc gặp mặt của Hội Nhà văn Việt Nam với các nhà văn Việt Nam đang sống và làm việc tại nước ngoài. Đây là một cuộc hội ngộ mà chúng tôi mong mỏi từ lâu, nay mới có thể thực hiện được. Với ý nghĩa cao cả, góp phần làm giàu các giá trị truyền thống của dân tộc, xứng đáng để chúng ta vượt qua mọi xa cách và trở ngại, cùng ngồi lại với nhau trong tình đồng nghiệp. Tôi chờ đợi được anh chia sẻ điều đó và chân thành mời anh tham gia sự kiện nói trên.

Anh Nam ơi, tôi muốn nói thêm rằng, chúng ta đều không còn trẻ nữa. Tôi hình dung cuộc gặp này là rất có ý nghĩa cho những năm tháng còn lại của mỗi chúng ta. Tôi cũng dự đoán rằng, có thể có những khó khăn. Nhưng từ trong sâu thẳm thiên chức nhà văn, chúng ta cùng chọn Dân Tộc làm mẫu số chung để vượt qua tất cả.

2. Cuộc gặp mặt dự kiến sẽ diễn ra từ 20 đến 25 tháng 10 năm 2017 tại Hà Nội và một số địa phương ở phía Bắc. Trường hợp anh Nam, Ban tổ chức sẽ lo chi phí toàn bộ đi về và thời gian tham gia Cuộc gặp mặt. Vì là lần đầu, còn nhiều bỡ ngỡ, xin anh vui lòng lấy vé giúp và cho biết thời gian chuyến bay để chúng tôi ra đón anh tại sân bay Nội Bài. Quá trình chuẩn bị có gì cần trao đổi, xin anh cho chúng tôi biết sớm.

3. Ngay sau khi được hồi âm của anh, tôi sẽ gửi giấy mời chính thức cùng chương trình của Cuộc gặp mặt. Mùa Thu Hà Nội cùng những giá trị bền vững của tâm hồn Việt đang chờ đón Cuộc gặp mặt của chúng ta.
Chúc anh sức khỏe, may mắn, gia đìnhh hạnh phúc và mong sớm nhận tin tốt lành.
Hà Nội 1/9/2017

Thư gủi Ông Hữu Thỉnh,
Hội Nhà Văn Hà Nội

Qua địa chĩ điện thư Cô Đào Kim Hoa
Phụ Tá Ngoại Vụ Hội Nhà Văn

Tôi, Phan Nhật Nam nguyên là một sĩ quan cấp Đại Úy Hiện Dịch Thực Thụ thuộc Sư Đoàn Nhẩy Dù/Quân Lực VNCH gởi đến Ông Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội Nhà Văn Hà Nội để trả lời thư đề ngày 1 tháng 9, 2017 qua điện thư của Cô Đào Kim Hoa

#1-Từ vị thế một quân nhân thuộc đơn vị tác chiến của Quân Lực Miền Nam như trên vừa kể ra, với tính khách quan, độc lập của người không liên hệ đối với sinh hoạt của giới văn hóa, học thuật trong nước, ở Hà Nội trước, sau 1975.. Tôi có thư nầy để trả lời mời gọi mà ông Hữu Thỉnh đã trực tiếp gởi đến cá nhân tôi nhằm thực hiện tiến trình gọi là “Hòa Hợp Hòa Giải”. Câu trả lời trước tiên, dứt khoát là: Tôi xin được hoàn toàn từ chối sự mời gọi vì những lẻ…

#2- Là một người sinh trưởng từ thập niên 1940, tiếp sống qua hai cuộc chiến 1945-1954; 1960-1975, thực tế lịch sử, chiến tranh, xã hội Việt Nam trước, sau 1975 đã cho người lính chúng tôi xác chứng: KHÔNG HỀ CÓ CHỦ TRƯƠNG HÒA HỢP HÒA GIẢI từ người/chủ nghĩa/chế độ cộng sản trong lý thuyết cũng như qua sách lược hành động.

#3-Từ thực tiễn của #2 thêm kinh nghiệm mà bản thân cá nhân là một đối tượng thụ nạn của thành phần gọi là “Ngụy Quân-Ngụy Quyền” thuộc chế độ Quốc Gia Việt Nam (1948-1954); Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975) đến hôm nay vẫn tiếp tục bị miệt thị, xuyên tạc, và triệt hạ dẫu chiến tranh đã chấm dứt từ 1975.

#4- Trong tình thế chung nhất của #2;#3, chắc chắn rằng không thể nào thực hiện được “Hòa Hợp Hòa Giải” như thư ông Hữu Thỉnh đề nghị! Cũng bởi, giới Nhà Văn chính là đối tượng hàng đầu bị bách hại đối với tất cả chế độ cộng sản Đông-Tây. Lịch sử đẫm máu 100 năm của chế độ cộng sản từ 1917 đến nay như một vũng tối ghê rợn phủ chụp lên lương tri nhân loại.. Hỏi thử buổi gặp mặt Tháng 10 tại Hà Nội (cho dẫu thực lòng đi nữa) sẽ gây được tác dụng gì? Nhà Văn? Nhà Văn Việt Nam đích thực là những ai? Nhưng đây không phải là vấn đề của cá nhân tôi – Trước sau chỉ là một Người Lính-Viết Văn. Cũng bởi, tôi chưa hề nhận Chứng Chỉ Giải Ngũ của Bộ Quốc Phòng/VNCH cho dù đã không mặc quân phục từ 1975

#5- Cuối cùng, với bản chất đơn giản, chân thật của một Người Lính, tôi có một đề nghị như sau: Để thực hiện tinh thần và nội dung “Hòa Hợp, Hòa Giải Dân Tộc” như lá thư mời của ông Hữu Thỉnh đã đề cao.. Hệ thống cầm quyền, cụ thể thành phần cán bộ làm công tác văn hóa, học thuật, truyền thông, báo chí.. dưới chỉ đạo của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng nơi Hà Nội chấm dứt, điều chỉnh MỘT CÁCH THÀNH THỰC danh xưng miệt thị “Ngụy Quân/Ngụy Quyền” trong tất cả sử liệu, văn khố, tài liệu giáo khoa, văn thư hành chánh, sinh hoạt xã hội.. Cụ thể hơn hãy chấm dứt cách biểu tình với lời hô “Đả đảo Thương Phế Binh VNCH!!” như đã xẩy ra nơi Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn! Hãy nhìn lại.. Thương phế binh VNCH là những lão nhân phế binh, thương trận đã không được sống với dạng Con Người từ 30 Tháng 4, 1975. Hãy để cho Người Lính QLVNCH còn sống sót và gia đình được trở lại Miền Nam sửa sang phần mộ Chiến Hữu nơi Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa là nơi giới cầm quyền Hà Nội chủ trương phá bỏ một cách có hệ thống, dẫu người chết gần nửa thế kỷ qua không thể nào đe dọa đối với Chế độ XHCN! Xin hãy “Hòa Hợp Hòa Giải” với những người đã chết. Với người đang cố sống sau thảm họa Formosa, Nghệ An. Hãy hoà hợp, hòa giải với “Khúc ruột ở trong nước” trước. Khi ấy không cần mời, chúng tôi “Khúc ruột ngàn dặm” sẽ về. Về rất đông. Người Viết Văn – Lương Tri và Chứng Nhân của Thời Đại sẽ VỀ. TẤT CẢ CÙNG VỀ VIỆT NAM .

Kính thư,
Người Lính-Viết Văn,
Công Dân Mỹ gốc Việt,
Phan Nhật Nam
Washington DC, 9 Tháng 9, 2017
( Nguồn FB Lm Lê Ngọc Thanh )

Tha bảy mươi lần bảy

Tha bảy mươi lần bảy 

 Khổng Nhuận

Trích Tin Mừng theo Thánh Mat-thêu 18 : 21-22

Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng :

“Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không ?”

Đức Giê-su đáp :

“Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đếnbảy mươi lần bảy.”

Theo tục ngữ Việt Nam : Quá tam ba bận. Ý nói chỉ tha 3 lần thôi.

Phê-rô đặt giả sử tăng lên gấp đôi… tha tới 7 lần..!!!

Còn Thầy Giêsu tăng lên gấp mười lần: bảy mươi lần bảy…

Điều này mang tính lý thuyết và đầy lý tưởng. Hầu như không ai có thể thực hiện được.

Đào đâu ra một người sẵn sàng tha thứ cho kẻ xúc phạm mình tới 5 lần thôi.!!!

Khó lắm…một là đập cho hắn một trận… khiến hắn tởn tới già.

Hai là không làm gì được thì gặm nhấm nỗi bực bội khó chịu một thời gian… dài ngắn tùy mức độ nghiêm trọng…

Vấn đề quan trọng không phải là bao nhiêu lần…

Mà là Lối nhìn trước tình huống xúc phạm tới cá nhân mình.

Phản ứng đầu tiên: Ai cũng bức rức, khó chịu, bực mình…

Sau đó, chúng ta có thể phản ứng bằng nhiều cách tùy mỗi người:

Giận dữ: Đây là cách đáp trả ít tích cực nhất bởi vì ba lý do.

Thứ nhất, nó chứng tỏ là chúng ta coi những lời sỉ nhục đó và kẻ sỉ nhục chúng ta là quan trọng.

Thứ hai, nó chứng tỏ rằng lời xúc phạm đó có vài phần đúng.

Và thứ ba, khiến chúng ta bối rối và đau đớn.

Chấp nhận: Nếu lời xúc phạm ấy là đúng, đến từ người biết lý lẽ, và người đó có động lực tốt, vậy thì đó lời trần thuật về một điều thực tế, và hơn nữa, điều này có khả năng có ích cho chúng ta. Vậy cho nên, chúng ta không nên cảm thấy bị xúc phạm trước những lời góp ý của thầy cô, ba mẹ, hay bạn thân.

Hài hước: Sự hài hước là một phản ứng cực kỳ hữu dụng với ba lý do,

thứ nhất, làm nhẹ đi sự sỉ nhục,

thứ hai, kéo người xem (nếu có) về phía chúng ta

thứ ba, khuếch tán đi sự căng thẳng của tình huống.

Ta có thể  phóng đại về sự xúc phạm như là một cách đùa giỡn với người đó có thể phù hợp,

“À, nếu cậu quen tôi từ lâu thì sẽ biết rằng tôi từng phạm phải lỗi còn lớn hơn thế này nữa kia.”

Lờ đi sự sỉ nhục:

Nếu tôi nghĩ người xúc phạm tôi chẳng đáng để tôi quan tâm.

Một câu chuyện nổi tiếng về đức Phật Thích Ca

Sau một tràng chửi rủa của Akkosina, Phật mới hỏi rằng ông ta

Khi ông biếu bánh trái hay đồ ăn để cho bạn bè mang về…nhưng nếu họ không nhận quà biếu đó, thì ai sẽ nhận?

– Nếu họ không nhận, thì tôi sẽ nhận lại chứ còn ai nữa.

– Cũng vậy, này Bà-la-môn, ông nhục mạ chúng tôi, nhưng chúng tôi không nhận. Vậy thì ông nhận lại; tất cả là thuộc về ông.

Quay về với con người đích thực của mình

Lâu lâu được nếm mùi xúc phạm. Đây cũng chính là cơ hội ngọc vàng để trở về với con người đích thực của mình.

Với Kitô hữu, tôi là con yêu dấu của Chúa, đầy Thần Khí sức mạnh của Ngài, nhờ đó tôi vượt qua cái tôi tương đối dễ dàng hơn. Thêm vào đó nhờ khối tình yêu của Chúa tôi bỏ qua, tha thứ… tương đối dễ dàng hơn.

Với Phật tử, chân tánh đích thực của tôi chính là Phật tánh…cũng  chính là tánh giác, tánh biết trung  thực… không bị mê mờ điên đảo trước sân si thế gian…

Riêng tôi, tôi phản ứng thế nào trước sự xúc phạm??? 

Tamlinhvaodoi gởi

Việt Nam “Đất nước của những kẻ lười biếng”

 Việt Nam “Đất nước của những kẻ lười biếng”                             

 

nếu bạn chưa sẵn sàng nhìn nhận thực tại bản thân hay thế hệ, có lẽ bạn sẽ thấy một chút khó chịu khi đọc. 

 
 

Nếu bạn muốn thay đổi đất nước, nếu bạn đã 18 hay 20 tuổi hoặc hơn, hẳn là bạn cũng sẽ sớm trở thành những ông bố, bà mẹ. Thế nên, hãy chuẩn bị cho thay đổi, không cần biết trước đây bạn được giáo dục như thế nào, hãy chắc rằng, bạn sẽ trở thành hình mẫu mà bạn muốn con cái mình trở thành trong tương lai.. 

  Bạn có biết lý do chính dẫn tới việc nước Việt :

Người ta cứ đang kéo cố gắng đất nước này đi lên. Hàng loạt bài báo được viết nên. Trong đó chỉ ra rằng đất nước này đang bị ô nhiễm hóa, đang bị bóc lột hóa, đang bị bất công hóa, và đang bị căng thẳng hóa… Nhưng rồi các bạn biết được điều gì là quan trọng? Ừ, CHẲNG AI THÈM ĐỌC NHỮNG BÀI BÁO ĐÓ. Nghĩa là người ta không biết chuyện gì đang xảy ra chung quanh họ, không biết được mức độ căng thẳng leo thang của thế giới xung quanh. Tóm lại là, người viết thì cứ viết, người chơi thì cứ chơi, không ai thèm đọc. Dĩ nhiên là ta đang nói đến số đông thôi. 

Vậy ra, người ta đang cố gắng thay đổi mọi thứ ở phần ngọn. Nghĩa là kêu gọi những con người đã góp sức gây nên hiện trạng này, hãy thôi đừng phá hủy đất nước nữa, hãy thôi xả rác, hãy thôi chém giết. Đó là một ý tưởng điên rồ. Kêu gọi người từng sát hại đất nước này hãy suy nghĩ lại, rũ chút lòng thương, đừng phá hoại nữa. 

Bạn biết vì sao mà đất nước này cứ thụt lùi, thậm chí bây giờ thua cả Lào và Campuchia không? Nếu bạn định trả lời là chính phủ thì hãy tạm gác lại cái ý nghĩ đó. Bởi vì vấn đề là dân chúng ở đây mang một căn bệnh nan y không thể chữa nỗi: LƯỜI! 

LƯỜI VẬN ĐỘNG, TẬP THỂ DỤC 

So với số người tập thể dục, thì số người không tập chiếm gấp nhiều lần, nếu không muốn nói là áp đảo hoàn toàn. Bạn không tin? Sáng thức dậy 4 giờ sáng chạy bộ. Rất nhiều ông cụ, bà già sẽ chạy cùng bạn. Số trung niên cũng rất nhiều.. Còn số thanh niên thì chiếm trên đầu ngón tay thôi nhé. 

Mà không tập thể dục thì chẳng đào đâu ra sức khỏe, không có sức khỏe thì làm cái gì cũng mau mệt, mau mệt thì sẽ nhanh chán, mà nhanh chán thì sẽ sớm bỏ cuộc. Những người có sức khỏe yếu thường làm mọi việc qua loa. Tin tôi đi. Họ không chịu đựng nỗi bất cứ chuyện gì hết. Đó là khi chúng ta nên nói tiếp các kiểu lười khác là hệ lụy của lười vận động. 

LƯỜI HỌC 

Cái này thì khỏi nói rồi. Trừ các học sinh trường chuyên và công lập, đa số những trường khác, học sinh rất chi là lười. Khoan hãy nói đến việc kiến thức có hàn lâm hay không, có khó nuốt hay không, có kém thực tiễn hay không. Mà hãy tự hỏi, tại sao lại như vậy? Không ai chịu đựng nỗi 2 3 tiếng học bài ở nhà. Nói trắng ra là họ quá lười chịu đựng. Alan Phan đã từng nói rằng ông không hiểu tại sao một đất nước dân số vàng như Việt Nam lại có vẻ lù khù như các cụ già đến vậy. 

Bạn hỏi tại sao? Hãy tạm trách Internet, Smartphone, Karaoke, Nhậu nhẹt, Lotte, Starbuck và các loại ăn chơi thời hiện đại nhé. Bạn lại hỏi tại sao nữa à? Bởi vì đó là thách thức của thời đại này. Thú vui hưởng thụ bao vây xung quanh, nhan nhãn đông tây nam bắc hướng nào cũng có.. Tại sao phải chịu đựng học bài khi tụi bạn đi nhậu, đi hẹn hò, đi Lotte? À, quên nữa, đừng ai nói với tôi một câu mà đứa trẻ trâu nào cũng biết: Cái nào cũng có mặt lợi, quan trọng là đừng dùng quá liều lượng. Bởi vì, không có mấy ai biết kiểm soát chính họ ở cái vùng đất này đâu. 

LƯỜI LÀM 

Tất cả những người chủ ở Việt Nam đều khó tính, họ thường đốc thúc công nhân của mình. Bởi vì họ biết, không đốc thúc, bọn công nhân chỉ ngồi chơi, và làm kiểu đối phó, chủ tới thì luôn tay luôn chân, chủ đi thì phì phèo điếu thuốc, thậm chí là lướt facebook chat chit nữa là đằng khác. Nếu cha mẹ bạn là người trả tiền cho công nhân, chắc bạn sẽ rõ điều đó hơn cả. 

Bạn hỏi vì sao họ lười làm, họ bắt đầu lười từ khi nào? Vì sao? Vì họ chẳng có thích thú gì với công việc. Bởi vì họ từ cái giây phút họ lười học, họ chẳng có kiến thức gì để giải quyết vấn đề nên họ chẳng muốn xảy ra thêm vấn đề gì nữa. Mà đấy, cách hay nhất để không có vấn đề gì để giải quyết là ngồi chơi. Làm việc thì tạo nên vấn đề, giải quyết vấn đề chính là một bước thăng tiến. Nhưng họ lại sợ gặp vấn đề biết bao. Không giải quyết được lại bị chửi, lại bị sỉ nhục, lại quê với người khác. Nên họ thà làm người nhàn rỗi tay chân, áo sạch đồ đẹp, không một vết bẩn còn hơn lấm lem mồ hôi, nhếch nhác không ai thèm dòm.. 

LƯỜI SUY NGHĨ 

Lướt dạo hết vòng facebook là điều bạn có thể làm ngay. Nếu facebook bạn không có gì đáng để xem, không có gì để làm bạn cảm động, làm bạn thấy phải nhìn lại bản thân mình thì bạn chính là một ví dụ. Còn nếu có thông tin gì đó hay, viết về thực trạng của đất nước, về ô nhiễm môi trường, về động vật tuyệt chủng, hay các bài viết học thuật, hãy xem nó được bao nhiêu người like? À, thường thì không có bao nhiêu người like đâu. Không tin lướt ngay facebook là biết. 

Chúng ta không có gì để học sao? Hay chúng ta chỉ quan tâm về tự sướng, em nào đẹp, em nào xài camera 360, anh nào GAY, chỗ nào chơi tốt, khu nào ăn ngon, quần áo chỗ nào bán đẹp? Nếu facebook của bạn không có bất cứ cái gì liên quan tới học thuật, kiến thức, thay vào đó là 90% ảnh girl xinh, trai đẹp, hãy yên tâm một cách chắc nịch rằng bạn là một trong những đứa lười suy nghĩ bậc nhất thế giới. 

LƯỜI TRANH ĐẤU 

Cái này thì khỏi phải nói luôn rồi. Cha chung chả ai khóc mà. Đất nước ngày càng đi xuống thì cũng mặc. Nói thật, chả ai quan tâm cả.. Những người có tâm, những người làm báo cứ như những kẻ thui thủi một mình tự kỷ vậy. Bài nào họ viết ra, họ tự đọc, chả mấy ai đọc nói chi đến like và comment. Đi chơi noel xong rác thải đầy đường để phải viết lên báo, cũng chả cần thấy nhục mặt cho bản thân hay cho đất nước này, cứ thế năm nào cũng vậy, cũng lên báo, rồi cũng thôi, vì chẳng ai còn hơi sức để nói nữa. 

Thờ ơ là căn bệnh của người Việt. Nếu không tin, search bài báo: “Người Việt vô cảm thứ 13 thế giới” là biết. Họ chẳng muốn tranh đấu. Họ chẳng muốn gì cả ngoài việc hưởng thụ những gì đang có. Tài nguyên chúng ta bán, cây rừng chúng ta cưa, voi rừng chúng ta giết, thú rừng chúng ta ăn, chả còn gì mà chúng ta “tha” cả. Khai thác triệt để cho thế hệ này tận hưởng, có thể đoán là trong vòng 10 năm tới sẽ cạn sạch. Nhưng mọi người thì cứ thờ ơ để mọi thứ ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Miễn là họ không ở những vùng hiểm trở, thiên tai; miễn là họ không bị gì hết. Càng ngày, người ta càng rút về thành thị, co cụm, bạn thấy không? Cả đám ăn chơi phè phỡn với nhau, rồi chuốc độc nhau trong từng thớ thịt, dĩa cơm… Nhưng không ai muốn tranh đấu! Chẳng ai muốn cả, vì họ bận phải hưởng thụ sự hiện đại này. 

Đấy là những thế hệ đã được đào tạo. Việt Nam thuộc loại khủng của thế giới trong việc chi ngân sách cho giáo dục. Họ đã làm gì, và chúng ta đã tôi luyện bản thân như thế nào? Có khi nào chúng ta thấy nhục nhã, chẳng cần gì cao siêu, mà chỉ bởi vì chúng ta vừa quăng một cục rác xuống đường. Ai đó nhắc nhở, và chúng ta phản bác: TRƯỚC SAU CŨNG CÓ NGƯỜI QUÉT THÔI. Liệu có bao giờ chúng ta thấy nhục mặt vì cái độ lười nó ghê tởm đến nỗi những con chó thông minh, biết đi ị đúng chỗ cũng phải khinh thường? 

Những thế hệ đi qua, và những bài học của các bậc mẹ cha ngày càng thực dụng. Bạn không thấy xã hội này quá co cụm từ khi bạn chuẩn bị cắp đồ lên thành phố học? 99,9% tôi đảm bảo sẽ được nhắc: Giữ tiền cẩn thận nha con, trộm cắp dữ lắm; Ở ký túc xá coi chừng nhà con, trộm cắp phức tạp lắm; ở Sài Gòn cẩn thận nha con, dân tứ xứ chẳng biết ai là ai đâu… 

Bạn đã từng nghe, chắc chắn như vậy, và hãy thừa nhận là lũ người xung quanh bạn thật gớm ghiếc. Và bạn, tôi chỉ đích danh bạn đó, cũng chưa chắc là một trường hợp đặc biệt gì ngoài lũ gớm ghiếc đó đâu. Một lũ tệ hại, cười với nhau những nụ cười giả tạo, đôi tay vịn chắc túi tiền và trôi vào dòng cuộc sống. Chúng ta chắp vá đất nước này, rách chỗ nào vá chỗ đó, nhưng đúng như Lưu Quang Vũ nói: 

“Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá, gượng ép chỉ càng sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc làm đúng khác.” 

Nhưng chúng ta chẳng quan tâm lời dạy này. Chúng ta chắp vá nhiều hơn là đằng khác. Ai đó đút lót, chúng ta đút lót nhiều hơn. Ai đó đối phó để được điểm cao, chúng ta quyết tâm biết được đề thầy sắp ra giờ kiểm tra. Ai đó quăng rác bừa bãi, chúng ta quăng rác một cách tinh vi. Ai đó lừa đảo ta, ta học cách đó để lừa đảo lại người khác. Và chúng ta có một xã hội như ngày hôm nay. Chẳng ra một cái gì cả. 

Một dân tộc ghê tởm nhau, đề phòng nhau đến những chuyện nhỏ nhặt đến như vậy thì làm sao còn đầu óc để đầu tư vào những thứ tiến bộ khác hơn? Một xã hội co cụm, những ánh mắt đầy hoài nghi, ghê tởm thay cho chúng ta! 

Chúng ta lười mọi thứ. Chúng ta lười vận động, rồi thì sức khỏe chúng ta kém, sức chịu đựng không có nên chúng ta nhác học, lười làm, buồn ngủ khi phải nghĩ và chán ngán khi phải chịu đựng. Tất cả những gì chúng ta có là đối phó, từ trong ra ngoài. Không đối phó bằng cách hối lộ tiền, thì đối phó bằng cách mua bằng cấp giả, nếu không được thì học đại cho xong, và trong lúc học cũng đối phó với thầy cô. Vâng, chúng ta đối phó n+1 các loại. Nhưng điều làm tôi ghê tởm hơn cả tật đối phó, chính là không thèm đối phó nữa mà sẵn sàng thải rác ra đường như không giữa ban ngày ban mặt, buông lời tục tĩu, dâm dục giữa thiên hạ. Số đó không hề ít, xin chớ coi thường. 

Chịu đựng! Những người đi ra từ chiến tranh với sức chịu đựng ghê gớm lại nuôi dạy con họ một cách đầy nuông chiều. Quá nhiều người đi ra từ chiến tranh, quá nghèo khổ để nói đến đức hạnh, tất cả những gì họ lo lắng là tiền, là mưu sinh. Đó là lý do chúng ta ở đây. Cả một lũ không được giáo dục tốt. Cả một lũ đang làm đất nước này đi xuống. Đó không phải là lỗi của họ, hãy thông cảm vì điều đó. Họ đã cố phải xây dựng lại mọi thứ từ đống tro tàn. Nhưng còn chúng ta thì sao? Được nuông chiều từ nhỏ tới lớn, chẳng phải chịu đựng bất cứ cái gì, và giờ thì sẵn sàng ngồi quán cafe chém gió suốt ngày. 

Bạn biết bọn nhậu nhẹt và ngồi quán cafe chém gió thường nói gì khi gặp nhau? Tao mới xin làm chỗ kia, lương 4 triệu mà toàn ngồi chơi. Liền lập tức, thằng đối diện sẽ bảo: NGON VẬY! 

Cái tư duy ở xứ này là: Ngồi chơi và “khỏe”! Nhưng yên tâm đi, vũ trụ rất công bằng. Cái chỏm nhỏ ở chỗ này trước sau gì cũng bị trừng phạt nếu tiếp tục tồn tại theo kiểu đó. 

Nếu bạn muốn thay đổi đất nước, nếu bạn đã 18 hay 20 tuổi hoặc hơn, hẳn là bạn cũng sẽ sớm trở thành những ông bố, bà mẹ. Thế nên, hãy chuẩn bị cho thay đổi, không cần biết trước đây bạn được giáo dục như thế nào, hãy chắc rằng, bạn sẽ trở thành hình mẫu mà bạn muốn con cái mình trở thành trong tương lai. 

Đừng uống cạn tài nguyên này, đừng ăn mặn để con cháu khát nước. Đừng để thế hệ nối tiếp thế hệ sống cuộc sống như thế này. Và xin cũng đừng, đừng xấu xa cho đã để rồi sau này bắt con mình trở thành một người tốt. Con nít học qua hình ảnh, nó bắt chước tất cả những gì nó thấy. Đừng bao giờ cho phép bản thân tệ hại, và dạy con bằng cái lối nói rằng bạn dù có xấu xa thế nào cũng là hy sinh cho tương lai của nó. Bởi vì, cách đó nhàm quá rồi, một lời biện hộ không có nghĩa gì hết. 

Tôi biết là Việt Nam vẫn chưa đến lúc có một cuộc cách mạng cải tổ lại tư duy người Việt. Nhưng từ giờ cho tới lúc đó, hy vọng tôi có thể giúp ai đó hiểu rằng, hãy luyện tập, hãy chịu đựng để bước đi những ngày tháng trưởng thành. Bạn không thể lớn thêm nếu không chịu đựng. Nếu bạn muốn đi lên, bạn phải chịu đựng, dù xung quanh không có ai hỗ trợ bạn, dù xung quanh mọi người đang say ngủ… 

NẾU BẠN MUỐN TRƯỞNG THÀNH, HÃY CHỊU ĐỰNG 

Trong nghĩa của từ chịu đựng, không có lười biếng. Trong nghĩa của từ chịu đựng là sức mạnh. Mỗi một cá nhân có sức mạnh, khỏi cần phải bàn tới chuyện đất nước có đi lên hay không, vì đôi tay của họ thậm chí có thể nhấc bổng cả bầu trời… 

(Nếu bạn nào đặt một dấu chấm hỏi vì sao bài trước tôi viết là chẳng có ai lười thì bài này tôi lại đỗ lỗi cho việc người ta lười, thì xin hãy hiểu rõ là trong 2 bài tôi đang đề cập đến 2 chuyện khác nhau. Bài trước là cảm thông với những người chưa tìm ra họ là ai trong cuộc đời. Bài này nói về những con người xung quanh tôi mà đầu óc bị mụ mẫm hóa hết rồi, không còn biết gì ngoài những lạc thú tầm thường nữa.) 

Anh chị Thụ & Mai gởi

Khoảng Cách

Khoảng Cách

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

 

 

tuongnangtien

RFA

Tôi không tán thành chủ trương quay lại Đảng Lao động và tư tưởng HCM của GS Tương Lai, nhưng tôi tôn trọng và hoan nghênh quyết định của ông (nhất là quyết định cắt đứt quan hệ với ĐCSVN).

Tiến Sĩ Nguyễn Quang A

Tôi than thở với hai ông anh (Bùi Xuân Bách & Phạm Nguyên Trường) là sao mình sống ở Hoa Kỳ rất lâu mà vốn liếng Anh Ngữ vẫn vô cùng nghèo nàn và hạn hẹp, dùng để đi chợ thì dư nhưng đi dậy thì e thiếu. Cả hai vị này đều là những dịch giả thế giá, và đều trả lời y hệt: “Chú lười bỏ mẹ, không chịu mở tự điển tra cứu thường xuyên thì làm sao mà khá được.”

Thì ra thế!

Thế là tôi lật đật mở đại một trang của cuốn Cambridge, đang nằm chình ình rước mặt, và thấy hạn từ generation gap  được ghi nhận như sau: “Lack of understanding between older and younger people that results from different experiencesof life. (Thế hệ già và thế hệ trẻ khó hiểu nhau do kinh nghiệm sống khác nhau).

Khó hiểu nhau về chuyện gì?

Merriam – Webster, xem ra, có vẻ ngắn gọn nhưng trọn

nghĩa hơn: “Sự khác nhau về quan điểm, giá trị ..v..v giữa thế hệ già và thế hệ trẻ. (The differences in opinions, values, etc., between younger people and older people).

Thì cũng ngó qua cho biết, ra vẻ là mình cũng có tra cứu (vậy thôi) chứ tôi vẫn nghĩ rằng giữa ông tằng, ông tổ, ông cố, ông nội, và ông bố tôi – có lẽ – chả có một khoảng cách nào đáng kể. Quan niệm sống của tất cả các ông (cũng như các bà) chắc đều rất giản dị, và giống y như nhau thôi: Trai thời trung hiếu làm đầu. Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình. Đại khái là như thế!

Tôi còn tin rằng, từ Âu sang Á, nơi nào cũng như rứa cả. Sử sách, suốt Thời Trung Cổ, có thấy trang nào đề cập đến sự dị biệt (hay xung đột) ý tưởng giữa thế hệ này với thế hệ khác đâu. Nói chi đến những giai đoạn xa lắc (xa lơ) trước nữa – vào Thời Đồ Đồng, Đồ Đá, Đồ Sắt, Đồ Nhôm … gì đó.

Tôi ra đời sau thế chiến thứ II. Có lẽ bắt đầu từ thế hệ của tôi mới phát sinh ra lắm chuyện rất lôi thôi, và vô cùng phiền hà, về …  khoảng cách. Sau những năm tháng ấu thơ rất an bình dưới Chế Độ Đệ I Cộng Hoà, tuổi thanh xuân của tôi cũng được bảo bọc rất kỹ trong những phố thị (“phồn vinh giả tạo”) của nền Đệ II Cộng Hòa – ở miền Nam.

Tuy thế, đúng ngày sinh nhật thứ hai mươi (khi đang theo học ban Triết của trường Đại Học Văn Khoa Đà Lạt) tôi quyết định uống thuốc ngủ quyên sinh – sau khi kẻ lên tường một dòng chữ ngắn ngủi (“Je vais sur un chemin qui ne mène null part.”) thay cho lời trăn trối! Bố tôi ngồi cả buổi nhìn chằm chằm vào bức tường này nhưng vẫn không tìm ra được “thông điệp” nào từ “qúi tử,” dù ông cũng đọc được tiếng Tây.

Cả bố lẫn mẹ tôi đều là những thường dân chất phác. Cả đời họ chỉ biết cặm cụi với công việc để tôi có cơm ăn, áo mặc và có cơ hội đến trường nên làm sao hiểu được những “vấn nạn siêu hình” đã dằn vặt thằng con: Loài người từ đâu đến, và sẽ đi về đâu, chúng ta hiện hữu để làm gì ?

Tôi không tìm ra được ý nghĩa nào ráo trọi trong cuộc sống. Tôi đi trên đi trên trên một con đường chả dẫn đến đâu cả (“Je vais un chemin qui ne mène null part,” theo như cách nói của ông triết gia nào đó) nên muốn chấm dứt cuộc tồn sinh thừa thãi của mình, vậy thôi.

Vâng, chỉ có “vậy thôi” nhưng tôi biết giải thích sao với hai đấng sinh thành về ý muốn tự hủy vào lúc tuổi đôi mươi. Giữa chúng tôi – rõ ràng – có một khoảng cách đáng kể, và cũng đáng buồn. May mà cái thứ “công tử” miền Nam như tôi cũng ít thôi. Chứ không thì vùng đất này chả phải đợi đến tháng 4 năm 1975 mới hoàn toàn thất thủ!

Ở bình diện quốc gia cũng thế. Đôi khi, cũng có những khoảng cách khá xa tạo ra sự dị biệt – và xung đột – đáng tiếc trong nhận thức giữa thế hệ người già và người trẻ. Xin đan cử một thí dụ:

Vào ngày 2 tháng 9 năm 2017 vừa qua, Giáo sư Tương Lai “tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam, đảng của Hồ Chí Minh.”

Lời tuyên bố thượng dẫn được không ít người, cùng thế hệ với ông, tán thưởng. Tác giả Nguyễn Đăng Quang cho biết:

“Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đánh giá quyết định của Gs Tương Lai là đúng đắn và đúng thời điểm. Cụ nói: ‘Quyết định chính trị là tùy theo quan điểm, nhận thức và hoàn cảnh của mỗi người. Tôi tôn trọng và tán thành quyết định của anh Tương Lai khi tuyên bố từ bỏ và đoạn tuyệt với ĐCSVN của Nguyễn Phú Trọng. Song tôi đặc biệt đánh giá cao việc anh ấy vẫn nguyện tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao động Việt Nam…’

Một vị cựu Đại sứ khác, nguyên Ủy viên Trung ương ĐCSVN viết trong email gửi Gs Tương Lai, xin trích: ‘Tôi xúc động không thể không viết ngay mấy dòng vắn tắt gửi GS để bày tỏ sự đồng tình hoàn toàn của tôi đối với những điều GS trình bày trong 2 văn bản này (tức Tuyên bố ra Đảng và Bản tường trình của Gs Tương Lai viết gửi Đảng ủy Phường Tân Phong, Quận 7, Tp HCM) và sự ngưỡng mộ của tôi đối với GS, người chiến sỹ cộng sản, người trí thức, người công dân chân chính và tài năng!”

Tương tự, nhà báo Lê Phú Khải cũng bầy tỏ sự đồng tình:

“… những người thiết tha bảo vệ đất nước , thiết tha muốn dân chủ hoá đất nước, trong đó có tôi, đã vui mừng đón nhận giáo sư Tương Lai. Xã hội bao giờ cũng phát triển theo quy luật tiệm tiến, đột phá chỉ là bất ngờ…”

Quan niệm “tuần tự nhi tiến” của nhà báo Lê Phú Khải, cũng như quyết định “tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam, đảng của Hồ Chí Minh” của GS Tương Lai – buồn thay – không được những người thuộc thế hệ kế tiếp nhiệt tình chia sẻ. Xin ghi lại ý kiến tiêu biểu của vài vị, theo thứ tự (abc) alphabetique:

–  Phạm Chí Dũng: “Tôi tôn trọng quan điểm của giáo sư Tương Lai, nhưng tôi thấy khó chia sẻ suy nghĩ trở về đảng Hồ Chí Minh của ông.” Top of Form

– Phạm Thanh Nghiên: “Chẳng có đảng nào là đảng ‘của ông Hồ’ hay ‘của ông Trọng’ đâu ông Tương Lai ạ. Nó đích thị chỉ là một, tên gọi của nó là đảng cộng sản Việt Nam, thủ phạm gây ra mọi tội ác với nhân dân Việt Nam trong suốt mấy chục năm kể từ ngày ra đời 3-2-1930 đến nay. Hồ, Duẩn, Linh, Mười, Mạnh, Trọng… chỉ là những kẻ luân phiên nhau cầm đầu cái đảng ấy để làm khổ người dân VN thôi ông ạ.”

– Phạm Hồng Sơn: “Ai là người có thẩm quyền chính trị cao nhất đã để cho đất tư từ hàng ngàn năm biến hết thành đất ‘sở hữu toàn dân’, đã tiến hành cuộc ‘cách mạng long trời lở đất’ ở nông thôn cách đây hơn nửa thế kỷ mà vẫn khiến lòng người hôm nay bấn loạn, hãi hùng, rồi cũng chính người ấy lại đưa tay chấm nước mắt tiếc thương nhưng vẫn giữ trọn ngai vàng cho tới lúc chết?

Ai là người vừa là Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch đảng cầm quyền trong lúc ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng hạ bút ký một công hàm công nhận lãnh hải Trung Quốc bao phủ cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa? Chắc chắn 54 năm chưa phải là thời gian quá lâu để mọi người quên mất người đó là Hồ Chí Minh …

Cái đau xót và đau buồn chính là việc những người bị trị, những người đang mất tự do, bị áp bức, những người không muốn đi theo cái ác lại vẫn quì lạy, sùng kính một con người đã đưa họ từ những xiềng xích thô kệch, rỉ sét sang những gông xiềng êm ả, tinh vi, bền chắc hơn, đã khai sinh ra một chế độ suy đồi mà họ đang ta thán, đã là một ông trùm của các thủ đoạn dân chủ giả hiệu vẫn được duy trì cho tới hôm nay, đã là một chuyên gia về các kỹ thuật mị dân lão luyện tới mức khiến cho cả một dân tộc đa phần vẫn cứ an tâm, ngáo ngác, trông đợi tự do trong gông cùm và thờ kính chính kẻ đã quàng vào họ bộ gông cùm mới.

– Vũ Quang Thuận: “Thằng đó nó khốn nạn lắm. Nó lừa dân mình. Dân mình ngu si không biết lại còn tung hô, dựng nó lên thành thánh.”

Ông bà chúng ta thường nói: “Khôn đâu đến trẻ khoẻ đâu đến già.” Câu nói này, nghe lại vào ngày hôm nay, e chỉ còn đúng được (cỡ) chừng phân nửa. Bởi thế, và nghĩ cho cùng, khoảng cách trong lòng người Việt hôm nay – không chừng – lại là một điều may. May là lớp sóng sau đã đè lớp sóng trước.

“Nhưng nói gì thì nói tôi vẫn cảm phục lòng nhiệt huyết, thái độ thẳng thắn, tinh thần trách nhiệm với non sông đất nước của Giáo sư Tương Lai.” Tôi lại vừa nghe nhà thơ Nguyễn Tường Thụy nói thế, và cũng đồng ý như vậy.

Tôi sinh cùng năm với ông Thụy. Nói một cách hơi kiểu cọ thì chúng tôi là những kẻ thuộc thế hệ bắc cầu, với hy vọng (mỏng manh) làm được cầu nối để cho hai lớp người – trước/sau – dễ gần gụi và thông cảm với nhau hơn. Đất nước đang đối diện với cả nạn ngoại xâm lẫn nội xâm. Đoàn kết là điều tối cần thiết.

TT Trump: Dự thảo luật di trú không cho phép ‘di dân dây chuyền’

TT Trump: Dự thảo luật di trú không cho phép ‘di dân dây chuyền’

Hình minh họa. (AP)

WASHINGTON, DC (NV) – Tổng Thống Donald Trump hôm Thứ Sáu cảnh cáo rằng “di dân dây chuyền-chain immigration”, một từ ngữ thường được dùng để nói về việc các công dân hay thường trú nhân bảo trợ người thân, hay một số thành phần di dân cùng tụ tập vào một nơi cư trú, sẽ không được đưa vào bất cứ dự luật di trú nào.

Bản tin hãng thông tấn Reuters cho biết vào sáng sớm Thứ Sáu, Tổng Thống Trump gửi tweet ra nói rằng  “di dân dây chuyền sẽ không được cho phép là một phần của bất cứ luật di trú nào!”.

Lời cảnh cáo được đưa ra sau khi Tổng Thống Trump làm nhiều người phía Cộng Hòa tuần này rất ngạc nhiên khi ông thương thảo với giới lãnh đạo đảng Dân Chủ tại Quốc Hội về tương lai chương trình DACA, nhằm bảo vệ thành phần di dân bất hợp pháp trẻ tuổi, vào Mỹ khi còn nhỏ.

Các tổ chức đòi kiểm soát vấn đề di dân ở Mỹ như  “Federation for American Immigration Reform” và “NumberUSA” thường xuyên lên án “chain migration”, gọi đây là tiến trình nhận vào “vô hạn định” những người không có nghề nghiệp chuyên môn chỉ vì có liên hệ gia đình và khiến người ngoại quốc coi việc sang Mỹ là “quyền” của họ.

Các nhóm ủng hộ di dân lại cho rằng việc di dân theo gia đình giúp hội nhập dễ dàng hơn vào xã hội Mỹ. (V.Giang)