Cần một cuộc Cách mạng Lương tâm ở VN!

Cần một cuộc Cách mạng Lương tâm ở VN!

Mấy hôm nay cứ suy nghĩ hoài đến cụm từ “Tù Nhân Lương Tâm”. Không hiểu cụm từ TNLT do ai đặt ra, nhưng khi hỏi ACE thuộc Hội cựu TNLT kể lại thì biết rằng Tù nhân lương tâm là những người hoạt động vì lương tâm thúc đẩy và chính do các hoạt động đó mà họ bị nhà cầm quyền bỏ tù.

Đó là những người như Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), Tạ Phong Tần, Vũ Hùng, Nguyễn Xuân Nghĩa, Vũ Cao Quận …, họ là những người yêu nước, họ biểu tình, họ giương biểu ngữ, hay đi điều tra, viết báo… phản đối TQ xâm lấn Biên giới khu vực thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan…, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của VN. Những người đấu tranh cho quyền tự do của con người, cho quyền của công nhân như LS Nguyễn Văn Đài, Lê Thu Hà, Lê Thị Công Nhân, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương…

Những người muốn xây dựng Việt Nam thành một đất nước dân chủ, nhân bản, đa nguyên như Bác sỹ Nguyễn Đan Quế, Lm Phan Văn Lợi, Lm Nguyễn Văn Lý, nhà giáo Hoàng Minh Hoàng, LS Lê Công Định, KS Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, ThS Nguyễn Tiến Trung…

Đó là những trí thức chân chính, có tâm, có trí, họ trung thực, thẳng thắn, phản tỉnh; họ là người có chức vụ, có địa vị trong chế độ đương quyền nhưng họ mạnh dạn lên tiếng cảnh tỉnh XH, bênh vực những người bị chế độ coi là phản động , là thế lực thù địch và bị bỏ tù như các ông Phạm Quế Dương, Lê Hồng Hà, Hoàng Minh Chính, Hà Sỹ Phu…

Những người đấu tranh bảo vệ môi trường như thầy giáo Đinh Đăng Định, LS Cù Huy Hà Vũ … ( chống dự án Bauxite Tây Nguyên )
Những người thực hành các hoạt động tự do tôn giáo như Mục sư tin lành Dương Kim Khải, Nguyễn Hồng Quang, Hòa thượng Thích Không Tánh, Thích Thiện Minh, và nhiều chức sắc trong Phật Giáo Hòa Hảo như ông Nguyễn Văn Lía, Nguyễn Văn Phong, Võ Văn Bửu…

Nhưng người hoạt động báo chí, chống tham nhũng như ông cựu Tổng biên tập báo Người cao tuổi Kim Quốc Hoa, Phạm Chí Dũng, Phạm Bá Hải, và gần đây là Anhbasam Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Thị Minh Thúy, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh…

Những người thực hành nhân quyền như thực hiện quyền biểu tình, quyền tự vệ chính đáng, quyền khiếu kiện đòi quyền lợi chính đáng cho mình và cho những người bị oan ức khác như chị Trần Ngọc Anh, thiếu niên Nguyễn Mai Trung Tuấn, anh Nguyễn Trung Cang, các chị Phùng Thị Ly, Nguyễn Văn Thông, Bùi Thị Minh Hằng, Cấn Thị Thêu…
Và gân đây ( tháng 11-2012) là những người bị bắt vì bị nghi hoạt động lập hội có tiêu chí như một đảng chính trị, như Lưu Văn Vịnh, Nguyễn Văn Đức Độ, Phan Trung…

Còn nhiều cựu TNLT, và TNLT khác chưa được liệt kê ở trên, và việc liệt kê các hoạt động trên cũng chỉ mang tính sơ lược, tương đối, vì có những người đã tham gia nhiều hoạt động tự do Nhân quyền, Dân chủ, yêu nước ở các lĩnh vực khác nhau.

Những điểm chung của những người TNLT đã bị tù tội, hay đang bị giam giữ ở trên đều là những người hoạt động theo lương tâm chỉ dẫn, vì lương tâm thúc đẩy, và những hành động đó không bị Hiến pháp ngăn chặn, những hoạt động đó chỉ là biểu hiện của Quyền con người đã được minh định trong Tuyên Ngôn Quốc Tế 1948, trong Công ước Quốc tế về quyền Dân sự và Chính trị mà VN đã ký cam kết thực hiện.

Có lẽ cũng như nhiều người, tôi chỉ hiểu, lương tâm là thiện, là nhân ái, là yêu thương, là tự trọng, là nhân nghĩa, là trọng danh dự, là công chính, là công bằng, không làm hại người khác, là yêu nước, yêu con người, sẵn sàng làm và sẵn sàng chấp nhận rủi ro ( trả giá ) vì những điều tốt đẹp, …, tóm lại Lương Tâm là Tốt và dám hành động vì cái mình cho là Tốt.

Nhưng tôi cứ phân vân, như thế đủ chưa, và tôi đi tìm giáo sư Google để tìm hiểu hai chữ Lương Tâm là gì? 
Dưới đây là câu trả lời của GS Google:

“Lương tâm là cái thiện tâm của con người sẵn có. Lương tâm là đặc tính sẵn có trong con người, cũng như cảm quan về nghĩa vụ, trách nhiệm, về chân thiện mỹ. Nếu con người cần suy nghĩ là thấy nó ngay.

Lương tâm là dữ kiện chánh niệm, Có và Không hủy bỏ được. Vì lương tâm giúp cho con người, hướng dẫn cho con người được sáng đẹp, làm cho sự hành động con người có giá trị, mà lương tâm đó phải là lương tâm đạo đức.

Ví dụ: Con người mà không có lương tâm cũng như thuyền không lái, như Ngựa không cương, như vật vô tri vô giác. Lương tâm ví như một vị Thẩm phán để xét qua hành động của con người, như: tội, phước, tiến, thối. Vậy nên lương tâm giúp cho con người biết làm cái bổn phận đối với nhân sinh xã hội.

Lương tâm là năng lực mang tính tự giác của con người tự giám sát bản thân, tự đề ra cho mình nghĩa vụ đạo đức phải hoàn thành, tự đánh giá hành vi của mình. 

Nói rộng ra, lương tâm là ý thức chủ quan của cá nhân về nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với xã hội, được coi như là nghĩa vụ và trách nhiệm đối với bản thân.”
(ở đây tôi không trích tiếp Khổng nói về Lương Tâm, vì Khổng giáo phân biệt Nam- Nữ, Vua- Dân, Trò- Thầy không hợp với “tự do, bình đẳng” trong Tuyên Ngôn QT Nhân Quyền )

Tôi mất rất nhiều thời gian, suy ngẫm, đọc, học, quan sát để đưa ra trả lời câu hỏi:
Con đường nào đưa VN thành một đất nước văn minh, thịnh vượng, hùng mạnh?

Ở đây chữ đất nước văn minh, là một quốc gia (nhà nước) văn minh phổ quát, là trong quốc gia đó mọi cá nhân được bình đẳng cơ hội ở mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội của đất nước. 

Mọi người bình đẳng cơ hội trong lao động, sáng tạo, ở mọi ngành nghề, lĩnh vực mà mình yêu thích; được hưởng đầy đủ các Quyền tự do Nhân quyền, nhất là tự do chiếm hữu tài sản chính đáng và đóng góp cho xã hội một phần theo quy định mà mình có thể vui vẻ chấp nhận; khuyến khích từ thiện xã hội; được bảo vệ khỏi bạo lực bất công, được nâng đỡ và an ủi khi chẳng may bị tàn tật hay rủi ro.

Nhà nước văn minh phổ quát là nhà nước dân chủ thực sự, chính phủ là của dân, do dân và vì dân. Muốn vậy phải là Nhà nước tam quyền phân lập, và lấy tự do nhân quyền làm trọng tâm của Hiến pháp.

Như vậy Nhà nước phải tổ chức sao cho Chính phủ phải yếu hơn nhân dân, phải thua nhân dân, và chính phủ phải mạnh mẽ, khôn khéo, hùng dũng trước kẻ thù.

Có thể nói chính phủ là con lừa cho nhân dân lương thiện cưỡi, nhưng chính phủ phải là hổ báo, là sư tử, là cáo già với kẻ bạo lực, lừa đảo, bất lương và ngoại xâm.

Từ suy nghĩ, TNLT là người có lương tâm mà bị bỏ tù, vậy ai là người bỏ tù người có lương tâm?

Các quốc gia văn minh (phổ quát) có tù nhân lương tâm không?
Câu trả lời rõ ràng, là nước nào văn minh thì không có TNLT.

Vậy để nước Việt Nam thành văn minh, điều kiện tiên quyết là thả tù nhân lương tâm, không tiếp tục bắt giữ tù nhân lương tâm.

Điều đó sẽ thành hiện thực bền vững khi thay đổi Hiến pháp, cụ thể HP phải không còn câu nào tương tự cụm từ “Theo quy định của pháp luật” thòng vào các điều quy định về Quyền tự do Nhân quyền, như đang thòng vào sau các Điều, như Điều 25, HP 2013. Vì điều đó tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước tuỳ tiện ban hành “Quy định pháp luật ” vi phạm Tự do Nhân quyền.

Và phải bỏ các Điều luật mù mờ, dễ suy diễn như Điều 79,88, 258, 245 BLHS.

Muốn đạt được các điều trên, người VN cần làm gì, và làm như thế nào?

Theo thiển nghĩ của tôi thì người VN cần làm một cuộc cách mạng.

Nhưng đó là cuộc cách mạng gì?

Không phải cách mạng XHCN, không phải cách mạng dân chủ tư sản, không phải cách mạng công nghiệp (thế giới đã bước sang CM CN thứ 4), cũng không phải cách mạng giành độc lập dân tộc, không phải cách mạng nông nghiệp (CM xanh), không phải cách mạng văn hóa, không phải cách mạng giáo dục…, vậy đó là cuộc cách mạng gì?
Đó là cuộc Cách Mạng Lương Tâm!

Vì sao?

Vì nếu mọi người có lương tâm thì:

Giáo viên sẽ không nói rằng “vì đồng lương thấp nên tôi phải tìm mọi cách dạy thêm”.

Một bác sỹ sẽ không nói rằng ” không có phiếu đóng tiền nên tôi chưa khám, chưa mổ cấp cứu, chưa có phong bao nên tôi chưa chỉ dẫn kỹ càng…”

Một công chức sẽ không nói rằng “cái này sai là do cơ chế…”

Thẩm phán sẽ không đọc bản án viết sẵn của đảng hay AN.

AN sẽ không tìm cách lập thành tích, để rồi bắt người oan, lỡ bắt oan thì bắt luôn…, không thuê côn đồ đánh người bất đồng chính kiến, không nghe cấp trên, không vì thành tích đánh án mà bức cung, nhục hình…

Đại biểu Quốc hội sẽ không biểu quyết vì…” nghị quyết BCT đã quyết rồi”.

Chủ tịch nước, Thủ tướng, TBT đã không để cho bảo vệ đuổi, đánh, bắt dân oan khi dân oan đến kêu cứu …

Người dân đã không sợ hãi mà cứ đi bầu cử cho kẻ mình không biết mặt, không ưa, không tín nhiệm…

Người tham gia giao thông đã không đưa tiền cho CSGT

Việt Kiều đã không đưa tiền cho Hải quan, an ninh cửa khầu…

Phụ huynh đã đồng loạt lên tiếng khi có học sinh bị đánh đập, bị thày giáo hiếp dâm, lừa tình…

Các nữ giáo viên đã đồng loạt bỏ dạy để phản đồi cấp trên điều đi tiếp khách..

Tiểu thương cả nước đã đồng loạt bãi chợ, khi một chợ bị giải tỏa oan…

Những anh em đấu tranh dân chủ đã không loan tin nghi ngờ nhau là AN chỉ vì mâu thuẫn cá nhân…

Những người làm từ thiện đã không lừa đảo, và ăn chặn tiền của bá tánh…

Các trí thức đã chịu đọc của nhau, tham khảo nhau để cùng tiến bộ, không còn kiều “văn mình, vợ người”…

Nếu đảng viên cộng sản có lương tâm thì họ đã đồng loạt bỏ đảng, khi họ phát hiện ra lãnh tụ CS như Stalin, Mao, Polpot, Kim.. đã giết người, giết đồng đội của mình nhiều hơn cả Hitler…, và nó đã kìm hãm sự phát triển của xã hôi loài người từ 1917 đến nay…

Nếu nhà khoa học, GS, TS, ( Viện NC, Trường ĐH, HV ) có lương tâm đã không mua bán bằng cấp; không làm đề cương khoa học chiếu lệ, đề tài tầm phào để chủ yếu giải ngân, rút ruột ngân sách…

Thầy giáo dạy chính trị có lương tâm thì đã bỏ dạy cái lý thuyết ngụy biện Mác Lê. Khi biết việc học nó chỉ để thấy nó sai, làm lãng phí thời gian, tiền bạc của thầy, trò, phụ huynh và xã hội.

Nếu nông dân có lương tâm, họ sẽ không hôm nay phun thuốc rầy vào rau, mai bán cho đồng bào ăn…

Thương nhân có lương tâm sẽ không vì hám lời mà tiếp tay cho hàng TQ độc hại vào VN để đầu độc đồng bào.

Doanh nhân có lương tâm sẽ không vì lợi nhuận trước mắt mà mua hàng hoá độc hại, công nghệ, máy móc rẻ tiền, lạc hậu của TQ về để làm ô nhiễm môi trường, tiêu tốn nguyên liệu, tài nguyên của đất nước, gây ra dịch bệnh, ung thư lâu dài cho dân chúng.

Nhà báo, tổng biên tập có lương tâm sẽ không viết bài theo ý tuyên giáo, họ sẽ phản ánh công lý, sự thật…, và hàng ngày trên TV với gần 70 đài truyền hình, trên cả ngàn tờ báo sẽ có hình ảnh, tiếng thét của dân oan mất đất, mất nhà ở khắp cả nước, và ở ngay HN…

Nhà báo có lương tâm thì VTV, các báo phải xin lỗi Trương Minh Tam, Chu Mạnh Sơn khi các báo loan tin rằng “Tam, Sơn tuyên truyền kích động cá chết do Formosa”, và phải khen Sơn, Tam đã phản ánh đúng sự thật, Formosa HT đã đầu độc biển miền Trung…

( Bài đã đăng FB 28/11/2016)

Image may contain: 22 people, people smiling
 

Sinh nhật thứ 426 năm cha đẻ chữ Quốc ngữ: Xứ sở này nợ ông ấy lời tri ân

 

Sinh nhật thứ 426 năm cha đẻ chữ Quốc ngữ: Xứ sở này nợ ông ấy lời tri ân

 

17155689_455850321417921_824731054655270838_nThái Hà (13.03.2017) – Kỷ niệm 426 năm ngày sinh Cha Alexander Rhodes, người khai sinh chữ Quốc ngữ (15/3/1591 – 2017)

Khi đọc những dòng chữ Việt ngữ này, là bạn đang chiêm ngưỡng tác phẩm của các linh mục thừa sai Dòng Tên gồm các cha Gaspar De Amaral, cha Antonio Barbosa, cha Francisco De Pina và cha Alexandre De Rhodes, tất cả họ đều là tác giả của quốc ngữ mà người Việt ta đang sử dụng hàng ngày.

Với linh mục Gaspar De Amaral, cha đã soạn cuốn từ điển Việt – Bồ. Với linh mục Antonio Barbosa, cha soạn cuốn từ điển Bồ – Việt. Với linh mục Francisco De Pina, được cho là cha đã dựa vào cách phát âm tiếng Bồ để chuyển tự ghi chép tiếng Việt khi ông vào Đàng Trong (Từ sông Gianh trở vào Nam). Nhưng các cha đều mất khá sớm, tuy vậy, cùng với một số linh mục khác trong giai đoạn tiên khởi này, các cha đã giúp đặt nền móng đầu tiên cho quốc ngữ Việt Nam.

Với linh mục Alexandre De Rhodes, thì cha đã dựa vào hai công trình từ điển nêu trên và bổ sung thêm phần La tinh để hình thành nên cuốn từ điển Việt – Bồ – La.

Thực tế, chính việc bổ sung phần La tinh của cha Alexandre De Rhodes đã trở thành đóng góp quan trọng bậc nhất giúp hình thành nên chữ viết theo lối La tinh mà sau đó nhanh chóng trở thành quốc ngữ Việt Nam.

Đánh giá về vai trò của linh mục Alexandre De Rhodes trong việc khai sinh nên quốc ngữ Việt Nam, tờ Nguyệt San MISSI do các linh mục Dòng tên người Pháp quản lý đã từng viết nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày sinh của ông, đại lược như sau: “Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, cha Alexandre De Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến ba thế kỷ”.

Quả vậy, khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách in quyển từ điển và các sách đầu tiên bằng chữ quốc ngữ tại nhà in Vatican – Roma, thì cha Alexandre De Rhodes đã giải phóng cho nước Việt Nam về chữ quốc ngữ.

Bởi lẽ trước đó, tương tự như Nhật Bản và Cao Ly (Triều Tiên), thì người Việt Nam sử dụng lối chữ viết tượng hình, biểu ý của người Tàu hoặc chữ nôm do tự sáng chế và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Cao Ly mới chế biến ra chữ viết riêng của họ, nhưng vẫn không theo cách viết La tinh nên bị hạn chế nhiều. Còn người Nhật Bản thì sau nhiều lần thử nghiệm chế biến lối chữ viết khác, nhưng cuối cùng đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình, biểu ý của người Tàu.

Trong khi đó, chính người Tàu dưới chế độ cộng sản của Mao Trạch Đông cũng đã từng tìm cách dùng các mẫu tự La Tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn của cha Alexandre De Rhodes, đã tiến bộ trước người Tàu đến hơn ba thế kỷ rưỡi (1651 – 1017 – tính từ năm in cuốn từ điển Việt – Bồ – La đến thời điểm hiện nay.

Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng mình cha Alexandre De Rhodes khởi xướng ra chữ Quốc ngữ. Trước đó, các cha thừa sai Dòng Tên người Bồ Đào Nha ở Ma Cao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng các mẫu tự La Tinh rồi. Tuy nhiên, chính cha Alexandre De Rhodes là người hệ thống hóa, hoàn tất công trình làm ra chữ quốc ngữ thành công vào năm 1651, tức là năm mà cuốn tự điển Việt – Bồ – La chào đời tại nhà in Vatican – Roma.

Thế nên, chính tại nhà in Vatican ở Roma là nơi mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình, và chính năm 1651 cũng là năm khai sinh chính thức của chữ quốc ngữ Việt Nam.

Theo đó, chữ viết theo lối La tinh ban đầu được các nhà truyền giáo đặt nền móng cho việc sử dụng trong cộng đồng Ki-tô giáo Việt Nam, đến khi được người dân Việt Nam chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, thì mặc nhiên nó đã tự mình được nâng cấp thành chữ quốc ngữ.

Ghi nhận công nghiệp của cha Alexandre De Rhodes đối với xứ sở, năm 1941, một tấm bia kỷ niệm nhân ngày sinh nhật thứ 350 của cha đã được dựng ở gần bên bờ Hồ Gươm trước cửa đền bà Kiệu – Hà Nội. Đến năm 1957, khi Hà Nội thuộc sự quản lý của chính quyền Cộng Sản thì bia đã bị gỡ bỏ.

Chính quyền Sài Gòn cũ đặt tên ông cho một con đường tọa lạc trước mặt Dinh Độc Lập, nay là Dinh Thống Nhất, đối xứng với phía bên kia là đường Hàn Thuyên, tên danh sĩ được ghi nhận có công phát triển và phổ biến lối chữ Nôm. Sau năm 1975, chính quyền cộng sản đổi tên đường thành Thái Văn Lung và bây giờ thì đã trả lại tên cũ là Alexandre De Rhodes cho con đường này.

Về tiểu sử: Nguyên, cha Alexandre De Rhodes (Đắc Lộ) sinh ngày 15/03/1591 (hay 1593?) tại vùng Avignon, miền nam nước Pháp. Gia đình ông thuộc gốc Do Thái ở thành phố Rhodes (bán đảo Iberia), tổ tiên sang tị nạn ở vùng Avignon là đất của Giáo Hoàng. Ông gia nhập Dòng Tên tại Roma năm 1612, thời kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà phát triển mạnh mẽ.

Đầu năm 1625, cha Alexandre De Rhodes đến Việt Nam bắt đầu từ Hội An. Cha bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc-Lộ. Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của cha. Nhưng cuộc đời truyền giáo của cha ở đây rất gian nan, trong vòng 20 năm, cha bị trục xuất đến sáu lần. Đến năm 1645, cha bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. Cha mất ngày 5/11/1660 ở Iran, thọ 69 tuổi.

Hiện nay, ở Việt Nam đã từng xuất hiện ý kiến phủ nhận công lao đóng góp của cha Alexandre De Rhodes trong việc khai sinh chữ quốc ngữ, một trong số họ nêu quan điểm : “Alexandre De Rhodes làm sách bằng chữ quốc ngữ là để phụng sự cho việc truyền bá đức tin Ki-tô giáo, chứ tuyệt đối không vì bất cứ một lợi ích nhỏ nhoi nào của người Đại Việt cả. Người Việt Nam đã tận dụng chữ quốc ngữ, mà một số cố đạo đã đặt ra, với sự góp sức của một số con chiên người Đại Việt, để làm lợi khí cho việc giảng đạo, thành lợi khí của chính mình để phát triển văn hóa dân tộc, để chuyển tải một cách đầy hiệu lực những tư tưởng yêu nước và những phương thức đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp. Đây chẳng qua là chuyện “gậy ông đập lưng ông” mà thôi. [1]

Riêng đối với công chúng, thì:

– Lối chữ viết đã trở thành quốc ngữ của xứ sở với chín mươi triệu đồng bào cả trong và ngoài nước cùng sử dụng;

– Lối chữ viết được dùng để thể hiện những dòng lịch sử oai hùng của dân tộc từ thuở hồng hoang đến nay;

– Lối chữ viết được dùng để thể hiện lời ru “Ầu ơ …” ân cần của mẹ từ ngày sinh ra ta làm kiếp người;

– Lối chữ viết được dùng để thể hiện sự yêu thương giữa những thành viên trong gia đình, giữa những đôi tình nhân, giữa những người tri kỷ …

– Lối chữ viết được dùng thể hiện ca từ những nhạc phẩm bất tử như Bạch Đằng Giang, Hội nghị Diên Hồng, Trưng Nữ Vương, Lòng mẹ, Tình ca …

– Lối chữ viết mà dân ta có thể tự hào là riêng biệt trong khi rất nhiều quốc gia khác, kể cả nhiều cường quốc vẫn còn phải vay mượn (Úc, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Ấn Độ, Gia Nã Đại, Nhật Bản, Đại Hàn …);

Thì người khai sinh của lối chữ viết ấy chắc chắn phải là ÂN NHÂN của xứ sở mình, bất kể đến quốc tịch của họ, bất kể đến tôn giáo của họ và bất kể đến động cơ của họ khi khai sinh lối chữ ấy !

Và với chế độ :

– Lối chữ viết được Ông Hồ Chí Minh dùng để viết lời Tuyên ngôn độc lập khai sinh chế độ;

– Lối chữ viết được dùng để thể hiện Hiến pháp quy định sự độc tôn chính trị của Đảng Cộng Sản;

– Lối chữ viết được dùng trong tất cả mọi sinh hoạt chính trị, hành chính, xã hội, kinh tế, giáo dục, văn hóa …

– Lối chữ viết mà hơn 700 tờ báo của chế độ đang dùng;

– Lối chữ viết mà hơn 24.000 vị tiến sĩ khoa bảng quốc gia đang dùng;

– Lối chữ viết mà hơn 400 trường Đại học, cao đẳng các loại và hàng vạn trường học các cấp đang dùng;
Nhưng lại không mấy ai trong số họ nhắc đến ngày sinh nhật của cha Alexandre De Rhodes, người có công khai sinh lối chữ viết mà nghiễm nhiên đã là quốc ngữ của xứ sở, như là một trong những ân nhân của dân tộc này thì thật là đáng thất vọng !

Tôi tin rằng, xứ sở này nợ ông ấy lời tri ân!

LS Đặng Đình Mạnh
12-3-2017

Nguồn @Đinh Hữu Tho

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vọng Ngoại & Trọng Ngoại

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vọng Ngoại & Trọng Ngoại

RFA

Tôi chẳng có tư tưởng gì ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác –Lê.

Hồ Chí Minh

Khi còn sống trong vùng tạm chiếm, người dân miền Nam có thói quen hay gọi “thiên hạ” bằng thằng: thằng Pháp, thằng Anh, thằng Mỹ, thằng Nga, thằng Nhật, thằng Trung Cộng … Nghe kỳ thấy rõ.

Cho đến khi được hoàn toàn giải phóng thì họ mới học được cách ăn nói đàng hoàng, và lịch sự hơn, chút xíu: Nước Đàn Anh Trung Quốc, Thành Trì Của Phe Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô… Cũng có thể nói cho nó gọn nhưng vẫn giữ được nguyên tinh thần tôn kính: ông Liên Xô, hoặc ông Trung Quốc. Hay thân mật hơn chút xíu cũng không sao: anh cả Liên Xô, anh hai Trung Quốc.

Từ đây, anh hay chị thường dân dấm dớ nào mà lỡ miệng vẫn quen thói ăn nói bạt mạng (thằng Nga, thằng Tầu) thì đi tù ráng chịu. Cùng lúc, dân miền Nam cũng được biết thêm thông tin về một số người cầm lái vỹ đại (những vị lãnh tụ kính yêu của toàn thể nhân dân vô sản trên toàn thế giới) qua hình ảnh tràn ngập khắp nước, với danh xưng hết sức thân thương – cứ y như thể là bà con ruột thịt trong nhà vậy: bác Hồ, bác Mao, bác Kim, bác Lê-nin, bác Xít-ta-lin, bác Phi-đen Cát-xtơ-rô …

Sự thương mến qúi Bác – thường khi – vẫn vượt quá xa mức độ bình thường:

Hôm qua loa gọi ngoài đồng

Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao

Làng trên xóm dưới xôn xao                  

Làm sao, ông đã làm sao, mất rồi!

Ông Sta-lin ơi! Ông Sta-lin ơi!

Hỡi ôi Ông mất! Đất trời có không?

Thương cha thương mẹ thương chồng

Thương mình thương một thương Ông thương mười

Ngay cả thú vật có liên quan xa gần đến “qúi Ông” cũng thế, cũng được “đối xử” cách riêng – theo như tường thuật của cựu tù nhân lương tâm Vũ Thư Hiên, về chuyện nuôi dưỡng một con bò của bác Phi Đen gửi tặng bác Hồ:

“Con bò Hà Lan tới Nhân Hậu trong cảnh trống giong cờ mở. Cái xe tải duy nhất của trại, vừa dùng để chở tù khi chuyển trại, vừa dùng để chở sản vật tù làm ra đi bán, được cọ rửa sạch như li như lau từ một tuần trước, chở nó từ Trung ương về. Món quà Cục cho quý đến nỗi chỉ có công chở nó về thôi mà mặt anh lái xe cũng vác lên, như thể vừa lập chiến công huy hoàng.

Cả trại được nghỉ lao động một ngày để đón món quà quý của Bác Hồ. Khi con bò Hà Lan, được mấy người tù khoẻ mạnh tiền hô hậu ủng, quát tháo om xòm, từ thùng xe bước từng bước bướng bỉnh và rụt rè rồi lao phốc một cái xuống sân trong tiếng vỗ tay đôm đốp và tiếng reo hò ầm ĩ của cả các cán bộ lẫn tù nhân …  trung uý Thuỳ thậm chí còn rút mu soa chấm lên mắt…

 Đúng là một con bò quý. Quý từ cái vóc dáng quý đi. To lớn, bằng hoặc xấp xỉ bằng con voi cái, với bộ lông đen trắng loang lổ, hai bên hông phẳng lì, nó đứng lù lù một đống giữa đám đông những người ngất ngây chiêm ngưỡng… Được ba người chăm nom, con bò ngày một mỡ màng, béo mượt …”       

Tuy bác Hồ và bác Phi Đen đều đã từ trần nhưng tinh thần vô sản quốc tế vẫn còn sống (lai rai) giữa các nước XHCN anh em (hiếm hoi) còn sót lại, và truyền thống “trọng ngoại” (“hướng ngoại” hay “vọng ngoại,” nói sao cũng được, tùy tạng mỡ của mỗi người) vẫn được lưu truyền cho mãi đến hôm nay – theo bản tin của báo Tuổi Trẻ, số ra ngày 8 tháng 11 năm 2017:

“Nhiều người chỉ trích anh thanh niên quỳ xuống vái doanh nhân giàu có bậc nhất châu Á, và kết luận người trẻ thời nay thích hôn ghế thần tượng, liếm giày tỉ phú.

Trong cuộc Đối thoại với Jack Ma ngày 6-11 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia (Hà Nội), một thanh niên vì quá hâm mộ đã đứng lên nói ‘I love you Jack Ma’, sau đó quỳ xuống lạy nhân vật này.

Hành động nói trên đã nhận được vô số ‘gạch đá’, và bị đánh giá là nhục nhã ngang với việc fan hôn ghế ca sĩ – diễn viên Bi (Rain) từng ngồi khi ngôi sao Hàn Quốc này đến Hà Nội năm 2012.”

Giữa “vô số gạch đá”  – may thay – cũng có xen lẫn những lời chia sẻ, và thương cảm, rất chân thành. Trên trang VNTB có bài viết với tựa đề cảm động (“Hãy Thương Cảm Các Em: Một Thế Hệ Mất Thần Tượng Nội”) của tác giả Mẫn Nhi:

“Xin đừng trách thanh niên, bởi nó không hẳn về mặt giáo dục, mà còn cả sự thiếu vắng ‘thần tượng Việt’ đúng nghĩa trong thời đại hiện nay… Nếu thử đối sánh với thanh niên đầu thế kỷ XX, thì giới trẻ Việt hiện nay thiệt thòi toàn diện. Ít nhất, giới trẻ thế kỷ XX, chỉ riêng trong lĩnh vực kinh tế cũng đã có thần tượng đúng nghĩa là Trương Văn Bền, Bạch Thái Bưởi, Quách Diệm; trong văn hóa – giáo dục – chính trị thì có học giả Nguyễn Văn Vĩnh,…

Ít nhất những con người đó đã tạo nên giá trị thật và đủ làm gương cho lớp trẻ; còn hiện tại – giới trẻ chỉ thấy toàn sự giả dối, ăn xổi ở thì,…Do đó, hãy thương cảm các em: một thế hệ mất mát thần tượng nội!”

Nguồn ảnh:chuthapdophutho.org

Ơ hay, thế bác Hồ kính yêu đâu? Ít nhất thì cũng đã có vài trăm hình tượng của Bác được dựng lên trên mọi nẻo đường đất nước, và sẽ có hằng trăm cái khác sắp được “thi công” đến nơi mà. Đó là chưa kể hằng triệu trang sách, chục ngàn câu thơ, ngợi ca tài trí và công đức của Người:

Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về… Im lặng. Con chim hót 

thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ…

Năm 1941, bác Hồ vừa mới bước chân về đến biên giới thôi mà chim chóc, lau sậy đều vui đến “ngẩn ngơ” luôn. Ngày ấy đến nay, hình tượng Bác vẫn được Ban Tuyên Giáo & Bộ Thông Tin Tuyên Truyền bồi đắp, tân trang đều đều (khiến ngân qũi quốc gia muốn cạn kiệt luôn ) vậy sao thế hệ trẻ hôm nay tự nhiên lại bị “mất mát thần tượng nội” – vậy cà?

Nguyên do của sự “mất mát” vô cùng đáng tiếc này, phần nào, có thể là do bản tính quá khiêm tốn của Bác nên hình ảnh của Người đã không thể sống mãi trong lòng quần chúng, như mong đợi.

Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi!

Đi xa thế, lâu thế mà Bác lại về … tay trắng. Tiền bạc vốn không, đã đành. Nhân cách, đầu óc cũng thế: “Tôi chẳng có tư tưởng gì ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác –Lê.” Nói vậy, nghe đã “nhún nhường” lắm rồi nhưng lắm lúc Người còn hạ mình hơn nữa: “Bác tự nhận mình chỉ nêu ra được tác phong, còn tư tưởng lý luận thì để cho Mao Chủ tịch.”

Khiêm cung đến vậy quả là hiếm thấy!

“Từ 1951, tuần nào báo Nhân Dân cũng có vài mẩu của CB (tức Cụ Hồ) phổ biến kinh nghiệm mọi mặt của Trung Quốc… dần dà đảng viên cộng sản Việt Nam lại tìm ra chỗ để tự hào: được làm em của hai nước vĩ đại, Liên Xô anh cả, Trung Quốc anh hai… sau khi kết thúc thắng lợi chiến dịch biên giới, ngày 14-10- 1950, Hồ Chí Minh gửi thư cho Mao Trạch Đông, Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc: ‘Tóm lại, tôi cho rằng thắng lợi này là thắng lợi của đường lối Mao Trạch Đông cách mạng, quốc tế chủ nghĩa. Tôi không nói lời khách sáo: ‘Cảm ơn các đồng chí’, mà nói các đồng chí Việt Nam và nhân dân chúng tôi sẽ nỗ lực hơn nữa giành lấy thắng lợi cuối cùng lớn hơn, lấy thành công để đền đáp sự kỳ vọng tha thiết và giúp đỡ to lớn của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Liên Xô anh em’.

Chả ai thấy chữ ‘đền đáp kỳ vọng’ nghe nó quá bề dưới… Không phải ngẫu nhiên mà đến Đại hội 2 (1951), điều lệ đảng đã ghi ‘Tư tưởng Mao Trạch Đông là kim chỉ nam’ của đảng.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù I. Westminster, CA: Người Việt, 2014).            

Mà Đảng thì lãnh đạo toàn diện, và tuyệt đối gần cả trăm năm qua. Tuy thế, mãi cho đến nay mới chỉ có một thanh niên Việt Nam duy nhất qùi lậy bác Jack Ma thôi. Vậy là phúc đức lắm rồi. (Còn bầy đặt phàn nàn, hay ném gạch, ném đá, làm chi nữa – hả Trời).

Dù sắp nhỏ có liếm ghế chăng nữa, nói nào ngay, cũng vẫn là cách hành sử rất đúng … qui trình. Tụi nó chỉ tiếp tục cái truyền thống trọng ngoại (hướng ngoại hay vọng ngoại) do các bậc lão thành cách mạng khởi xướng thôi mà, chớ đâu có gì sai quấy lắm đâu.  

Ai ám sát công lý ở Phú Yên?

 

Ai ám sát công lý ở Phú Yên?

 

LS Đôn bên những thân chủ nghèo khó, thấp cổ bé họng, nạn nhân của bạo quyền hắc ám. Ảnh: internet

Luật sư tâm huyết và can đảm, chính trực hiếm có – chuyên bảo vệ nạn nhân của bạo quyền hắc ám – Võ An Đôn vừa bị 2/3 thành viên Ban CN Đoàn LS Phú Yên tán thành ra quyết định xoá tên khỏi đoàn LS tỉnh vào chiều 26/11/2017.

Những người theo dõi vụ án thanh niên Ngô Thanh Kiều, bị C.A điều tra TP Tuy Hoà bắt giam và tra tấn đến chết, đều biết ban đầu Phó C.A Tuy Hoà là thượng tá Lê Đức Hoàn lọt lưới pháp luật. LS Võ An Đôn đã cương quyết và kiên trì đòi công lý cho nạn nhân và gia đình. Rốt cục, tên Hoàn bị cách chức, truy tố, 9 tháng tù treo.

Với những vụ án được coi là “nhạy cảm” tương tự vụ này, chóp bu đảng CS luôn dài tay chỉ đạo. Ở đây, trực tiếp là Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy Phú Yên Nguyễn Thái Học. File ghi âm lời Học cay cú, hằn học, trịch thượng và vô pháp đòi “truy sát” bằng được Đôn trong cuộc họp do Ban Nội chính chủ trì với đại diện Sở Tư pháp và toàn thể thành viên Đoàn LS tỉnh bị trưng lên mạng cho công chúng tỏ tường, bộc lộ dã tâm đen tối ấy.

Những vụ Đôn bảo vệ cho giới tranh đấu vì nhân quyền, dân oan thấp cổ bé họng… làm giới chức hắc ám không chỉ của Phú Yên điên tiết.

Nại cớ Võ An Đôn viết FB, trả lời phỏng vấn truyền thông quốc tế, giới chức hắc ám xuyên tạc sự thật mà Đôn phanh phui thành “nói xấu” đồng nghiệp và các cơ quan tố tụng. Chúng giật dây Đoàn LS tỉnh loại Đôn khỏi đội ngũ vốn ít ỏi LS VN tâm huyết, can đảm bênh vực nạn nhân của bạo quyền.

Được biết, những “tên lính xung kích” trong vụ trả thù bẩn thỉu và hèn hạ này là Ngô Thiên Phương – Trưởng Ban và Ngô Minh Tùng – Uỷ viên Ban Khen thưởng & kỷ luật của Đoàn LS Phú Yên. Hai thành viên trong Ban Chủ nhiệm Đoàn LS Phú Yên là Chủ nhiệm Nguyễn Hương Quê và PCN Nguyễn Tâm Hoàng đã cam chịu nhục nhã cúi đầu trước cái ác.

***

Theo quy định của luật pháp, LS Đôn có quyền khiếu nại quyết định hắc ám nói trên lên Liên đoàn LSVN. Động thái tới đây của Liên đoàn sẽ một phần cho thấy ở VN có công lý hay không? Danh dự, uy tín của giới LS VN.

Bộ Tư pháp VN, với trách nhiệm và thẩm quyền nhà nước trong vụ này, nên coi đây là một dịp để minh chứng với quốc tế rằng VN đang nỗ lực hướng tới một VN thượng tôn pháp luật theo khuyến cáo, hỗ trợ và mong đợi lâu nay của cộng đồng quốc tế, nhất là trong bối cảnh hình ảnh không mấy hay ho của VN sau vụ Trịnh Xuân Thanh với CHLB Đức và EU.

Cải cách záo zụk? Hay ông lừa dối?

No automatic alt text available.

Phạm Đăng Quỳnh is with Quynh Pham.

 

Chị Hoài Hương phát hiện PHÓ GS TS BÙI HIỀN ĂN CẮP???
Cải cách záo zụk?
Hay ông lừa dối?

Có sự “trùng hợp” như sinh đôi, và kg thể là “tư tưởng lớn gặp nhau”. Lẽ nào ông PGS-TS này lại ăn cắp ý tưởng và cách viết của một nhà báo, nhà văn Miền Nam đã viết cách đây 70 năm, ông Nguiễn Ngu Í (Nguyễn Hữu Ngư, 1921-1979). Trên danh thiếp của ông ghi: “Nguiễn Ngu Í – cí jả kông chuiên ngiệb” (ký giả không chuyên nghiệp).

Ông Nguiễn Ngu Í quê ở Hàm Tân, Bình Thuận, bạn học cùng thời với các ông Lưu Hữu Phước, Trần Văn Khê, Huỳnh Văn Tiểng… và là cậu ruột bác sĩ, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc (bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc có thể đối chứng).

Từ những năm 1960, diễn đàn văn học Miền Nam Việt Nam đã xuất hiện cách dùng chữ khác thường của nhà báo Ngu Í.

Phường = fường, Chết, Chiếc= chêt, chiêc (không dấu), Quả = Qả; Quê = Qê; Không = Kông….

Năm 1977, ông Ngu Í bị điên, phải vào Nhà thương điên Biên Hòa, tháng 2/1979, ông mất, và được cải táng tại Bình Thuận.

Chính Đảng Hay Băng Đảng? – Tạp Ghi Huy Phương

Van Pham
Bề ngoài, đảng Cộng Sản là một chính đảng, nhưng thực chất hiện nay là một băng đảng có phân chia ngôi thứ, cấu kết khắng khít với nhau vì quyền lợi.

“Tại Việt Nam hiện nay, không còn chủ nghĩa Cộng Sản, mà đó chỉ là một xứ độc tài đảng trị nhưng theo đuổi chủ nghĩa tư bản ‘cuồng nhiệt.’”

Hiện nay chính đảng không còn, mà chỉ còn là băng đảng! Chúng ta nên gọi chúng: “Băng đảng Cướp Mafia Hồ Chí Minh” thay vì “đảng CSVN”!!!
************

Chính Đảng Hay Băng Đảng? – Tạp Ghi Huy Phương

Ngày 13 Tháng Mười, Ngoại Trưởng John Kerry đến vùng Silicon Valley của California tham dự một cuộc hội thảo bàn tròn về an ninh cũng như vai trò của Internet đã và đang làm thay đổi thế giới, do tổ chức Virtuous Circle mời ông làm diễn giả. Tại đây, trong bài diễn văn, ông Kerry cho rằng tại Việt Nam hiện nay, không còn chủ nghĩa Cộng Sản, mà đó chỉ là một xứ độc tài đảng trị nhưng theo đuổi chủ nghĩa tư bản “cuồng nhiệt.”

Ông John Kerry nói trong buổi hội luận này như thế và cho rằng Việt Nam hiện chỉ là một nước hăm hở đuổi theo tư bản chủ nghĩa mà trong đó người dân tiếp cận được với Internet. Ông Kerry nhìn nhận rằng nước Việt Nam “theo thời gian, đang có dấu hiệu thay đổi,” nhưng bây giờ vẫn còn là “một nước độc tài độc đảng và vẫn còn đàn áp nhân quyền bên cạnh những vấn đề khác.” Ông cũng nói thêm: “Cộng Sản là một lý thuyết kinh tế, và bạn không thấy một chút hơi thở nào của chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam.”

Đảng Cộng Sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam hiện nay đồng thời là chính đảng duy nhất được phép hoạt động trên đất nước Việt Nam. Theo cương lĩnh và điều lệ chính thức được công bố hiện nay, đảng Cộng Sản Việt Nam là “đại biểu trung thành” của liên minh giai cấp công nhân, nông dân và lấy chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của đảng.

Bề ngoài, đảng Cộng Sản là một chính đảng, nhưng thực chất hiện nay là một băng đảng có phân chia ngôi thứ, cấu kết khắng khít với nhau vì quyền lợi.

Nói đến “chủ nghĩa” và “tư tưởng” thì liệu rằng 4.5 triệu đảng viên, 200 ủy viên trung ương, và 19 ủy viên Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay có tin rằng chủ nghĩa Cộng Sản đem lại no ấm cho nhân loại, Hồ Chí Minh là vị cứu tinh của dân tộc Việt Nam hay không? Tôi tin rằng tất cả đều không, nhưng những người này vẫn giả vờ dối trá với nhau, dối trá với cả nước, dối cả với mình, dối với vợ con, để giả vờ tin đảng. Không ai dám nói thật với ai, để vin vào sự gắn bó keo sơn vì quyền lợi thiết thân của họ. Đảng không còn thì số đông quyền lực này không còn gì để bám víu vào nhau như bầy nghêu, hà bám vào ghềnh đá.

Trong hội trường, dinh cơ, những người Cộng Sản hôm nay vẫn còn treo cờ búa liềm, hình Lenin, hình Karl Mark, và hình tượng Hồ Chí Minh, như thể họ tôn sùng và tin tưởng vào những hình ảnh ấy. Thực tế là không! Họ tự dối mình, với lương tâm mình, giả dối với đồng chí và quần chúng chung quanh mình, để có địa vị và được sống còn. Không ai có thể nói khác, cười khác đi, mà không theo đường lối đã quy định của đảng.
Họ cam phận hèn khi biết mình bị dối trá, bản thân mình cũng dối trá và cư xử với người khác cũng dối trá, y như Alexander Solzhenitsyn đã lên án: “Mình thà ở lại đàn làm một thằng hèn. Sao cũng được, miễn no bụng ấm lưng thì thôi…”

Nhưng dư luận gần đây cũng đã nêu lên câu hỏi: Chống Cộng? Bây giờ làm gì còn Cộng Sản mà chống? Không còn Cộng Sản để chống, nhưng phải chống lại với băng đảng và cái ác đang thống trị đất nước.

Băng đảng có cơ chế và qui luật của băng đảng, nhất là chuyện chia chác quyền lợi. Sau một vụ cướp nhà băng, việc đầu tiên của bọn cướp là kiếm chỗ để tụ họp chia tiền. Ngày xưa Việt Minh đi đánh đồn Tây, hay phục kích “con voi, “chiếm được đồn hay chiếm được xe là có gạo, có đường, có bơ, có thịt hộp, ai cũng hăng hái. Đánh thắng miền Nam, chiến lợi phẩm đầu tiên là 16 tấn vàng, trả nợ máu xương hay Bộ Chính Trị chia chác, bấu véo với nhau thì đã rõ. Rồi sau đó cơ man là gạo, đường, bột mì, sắt thép, xi măng, đồ điện khí, xe cộ, từ cái quạt máy, chiếc đồng hồ cho đến cái TV, bom đạn, máy bay, xe tăng… gấp triệu lần một lần đánh đồn Tây.

Đất nước “thu về một mối,” có quyền lực trong tay rồi, thì nhân dân, tài năng mà không có đảng, không ở trong băng đảng phải lo tìm đường bỏ nước ra đi. Tài năng của đất nước, chuyên viên cấp cao được đào tạo từ nước ngoài, trừ Liên Xô, không ai dùng. Chúng ta nhìn xem chuyện chia chác quyền lực của đảng Cộng Sản Việt Nam ra sao?

Theo cơ cấu của đảng, 19 ủy viên Bộ Chính Trị, đương nhiên nắm giữ tất cả những cương vị chủ chốt trong đảng và nhất là trong bộ máy chính quyền: Chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch Quốc Hội, phó thủ tướng thường trực, bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, bộ trưởng Bộ Công An, bộ trưởng Bộ Ngoại Giao, những người này được gọi là “các cán bộ chủ chốt của đảng và nhà nước.”

Hai trăm ủy viên trung ương đảng nắm giữ tất cả vị trí then chốt của quốc gia, không ai ngoài đảng được lọt vào như bí thư tỉnh, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành, các bộ trưởng, thứ trưởng trong chính phủ, các tướng lãnh tư lệnh các binh chủng, các quân khu cho đến các ngành quan trọng của quốc gia như các đại học quốc gia, công ty hàng không, ngân hàng, đài truyền hình, thông tấn xã, viện kiểm sát nhân dân…

Việt Nam hiện nay có 4.5 triệu đảng viên Cộng Sản thì được phân phối, chia nhau trong các lãnh vực công quyền, từ chức giám đốc, trưởng ty, trưởng, phó phòng cho đến anh công an đứng đường thổi còi phạt mang đến cấp bậc trung tá, không một con muỗi ngoài đảng nào lọt được vào trong lưới quyền lực. Ai cũng có đặc quyền, đặc lợi, nên ai cũng ôm đảng và giữ đảng cho đến chết.
Đại hội đảng Cộng Sản lần thứ 11 năm 2011 chỉ có 3.6 triệu đảng viên, sang đến đại hội 12 năm 2016, số đảng viên tăng lên tới 4.5 triệu, rõ ràng là đảng có chủ trương lấy thịt đè người, tăng nhân sự, thêm vây cánh, thêm quyền lợi để giữ đảng.

Ali Baba chỉ có vây cánh là 40 tên cướp. Đảng nay có đến 4.5 triệu tên cướp. Câu thần chú của Ali để mở và đóng cửa hang động chứa kho tàng là: “Vừng ơi! Mở ra!” và “Vừng ơi! Đóng lại,” nay câu thần chú của đảng là: “Chủ nghĩa Mác- Lenin bách chiến bách thắng” và câu kinh nhật tụng là: “Hồ chủ tịch sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!”

Xin nhắc lại câu nói của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ John Kerry, có thể là một câu nói để đời: “Tại Việt Nam hiện nay, không còn chủ nghĩa Cộng Sản, mà đó chỉ là một xứ độc tài đảng trị nhưng theo đuổi chủ nghĩa tư bản ‘cuồng nhiệt.’”

Hiện nay chính đảng không còn, mà chỉ còn là băng đảng!

Image may contain: 6 people, people sitting, suit and indoor
 

KIẾP NGƯỜI

KIẾP NGƯỜI

  Trầm Thiên Thu

Sách Huấn ca gọi con người là “kiếp khốn khổ”: “Kể từ khi từ lòng mẹ sinh ra cho đến lúc trở về lòng đất mẹ, mang thân phận con người, ai cũng canh cánh bên lòng một nỗi lo, là con cháu Ađam, nợ phong trần đương nhiên phải trả.  Điều không ngừng ám ảnh khiến lòng người sợ hãi âu lo là cứ phải nghĩ rằng mình đang chờ chết.  Từ bậc vua chúa trên ngai vinh hiển đến kẻ cùng đinh chân lấm tay bùn, từ người cân đai áo mão đến kẻ khố rách áo ôm, ai cũng đều giận dữ, ghen tương, băn khoăn, lo lắng, rồi sợ chết, rồi hận thù cãi cọ” (Hc 40:1-4).  Nghe mà “não lòng” quá!  Tuy nhiên, “Chúa vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt, nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí.  Người vẫn nhớ thân phận chúng bọt bèo mỏng mảnh, gió thoảng qua, không hẹn ngày về” (Tv 78:38-39).

GIAN KHỔ

Ông Gióp đặt vấn đề: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?  Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?” (G 7:1), và đó cũng chính là câu trả lời.  Ông so sánh: “Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công.  Gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề” (G 7:2-3).  Đó là thực tế của kiếp người, vì ai sinh ra cũng tay trắng và khi chết ai cũng trắng tay, thế mà người ta vẫn tìm cách giành giật và kèn cựa nhau đủ cách – thậm chí có thể giết người để mình hưởng lợi!

Kiếp người như giọt nước mắt, buồn nhiều hơn vui, và luôn bị giằng co dữ dội, như thánh Phaolô thú thật: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19). Trong ca khúc “Một Cõi Đi Về”, cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng trăn trở: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi.  Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.  Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt.  Rọi suốt trăm năm một cõi đi về.”  Và rồi ông lại tự nhủ: “Tôi ơi, đừng tuyệt vọng!”  Hoặc như cố nhạc sĩ Y Vân than thở: “Buồn như ly rượu đầy, không có ai cùng cạn.  Buồn như ly rượu cạn, không còn rượu để say.” Còn thi sĩ Cao Bá Quát có cái nhìn khác: “Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy?  Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.”

Ông Gióp tiếp tục băn khoăn: “Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: “Khi nào trời sáng?” Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: “Bao giờ chiều buông?” Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng” (G 7:4).  Lý do?  Vì “thịt tôi chai ra, dòi bọ lúc nhúc, da tôi nứt nẻ, máu mủ đầm đìa.  Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng” (G 7:5-6).  Và ông chỉ còn biết cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:7).  Tín thác vào Chúa thì mới khả dĩ an tâm mà sống, và khả dĩ cảm tạ Chúa trong mọi sự:

Cảm tạ Ngài đã để con sống nghèo thê thảm

Nhờ đó con mới cảm nhận đêm Chúa giáng trần

Cảm tạ Ngài đã để con bị hàm oan

Nhờ đó con mới cảm nhận lúc Ngài bị xét xử

Cảm tạ Ngài đã để con bị người ta ghét bỏ

Nhờ đó con mới thấy cảm thương những người cô đơn

Cảm tạ Ngài đã để con là người bình thường

Nhờ đó con mới cảm nhận thế nào là mơ ước

Cảm tạ Ngài đã để con bị thua thiệt

Nhờ đó con mới biết khao khát vươn lên

Cảm tạ Ngài đã để con không hiểu thấu những điều cao siêu hơn

Nhờ đó con mới không sa vào hố kiêu ngạo

Cảm tạ Ngài đã để con được là người Công giáo

Nhờ đó con mới cảm nhận mầu nhiệm Lòng Chúa Xót Thương

Cảm tạ Ngài đã để con tha phương

Nhờ đó con mới có thể hòa đồng với người xa, kẻ lạ

Cảm tạ Ngài đã để con con mồ côi cả Cha lẫn Mẹ

Nhờ đó con mới biết trân quý tình cảm gia đình

Cảm tạ Ngài đã để con “lạc loài” giữa cuộc đời loanh quanh

Nhờ đó con mới cảm nhận thế nào là bóc lột, áp bức

Chính Chúa Giêsu cũng đã phải qua gian khổ mới tới vinh quang.  Tất cả là hồng ân(Rm 4:16), nhờ Lòng Chúa Xót Thương, vì “nếu Chúa chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3).  “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta” (Ep 2:4) cho nên “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136).

Do đó, “hãy ca ngợi Chúa đi!  Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào!  Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy!” (Tv 147:1).  Chính Chúa “chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, và băng bó cho lành những vết thương” (Tv 147:3).  Chúa đã “ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một” (Tv 147:4).  Chúa còn “nâng đỡ kẻ thấp hèn và hạ bọn gian ác xuống đất đen” (Tv 147:6).

PHẦN THƯỞNG

Với kinh nghiệm đầy mình, thánh Phaolô nói: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm.  Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16).  Vì “tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công, còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” (1 Cr 9:17).  Với thánh Phaolô, phần thưởng là “rao giảng Tin Mừng không công.”  Thánh Phaolô xác định: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu.  Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người.  Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).  Vậy mới thực sự hành động vì sáng Danh Chúa, vì nếu không khéo thì chỉ sáng danh chúng ta mà thôi!

Có chuyện kể về thánh Tôma Tiến sĩ (Thomas Aquinas, 1225-1274) thế này: Có tiếng nói từ Thập giá: “Tôma, con đã viết hay về Ta.  Con muốn phần thưởng gì cho công việc của con.”  Thánh Tôma trả lời: “Lạy Chúa, con chỉ muốn chính Ngài.”  Và đó là phần thưởng tuyệt vời nhất!

Phúc âm cho biết rằng nhạc mẫu của ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường.  Chúa Giêsu lại gần, “cầm tay bà mà đỡ dậy”, thế là “cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài” (Mc 1:31).  Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Chúa Giêsu chữa.  Ngài đã chữa khỏi đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ.  Ngài không cho quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai.

Sinh, lão, bệnh, tử là quy trình tự nhiên của con người.  Đức Phật là người sống sung sướng trong hoàng cung, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi ra khỏi hoàng cung và thấy thực tế cuộc đời, thế là ông có tứ diệu đế: Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, và khổ là khổ.

Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó (Mc 1:35).  Tĩnh lặng và cầu nguyện là hai điều cần thiết, nhất là khi thức dậy mỗi sáng, đối với những người muốn giao tiếp mật thiết với Thiên Chúa.  Trước khi làm gì thì phải đắn đo suy nghĩ.  Cũng vậy, trước khi hành động thì phải cầu nguyện.  Các môn đệ kéo nhau đi tìm Ngài thì Ngài bảo: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1:38).  Ngài đã đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ.

Chúng ta cũng có trách nhiệm rao giảng về Chúa mọi nơi và mọi lúc, tùy theo hoàn cảnh và cương vị của mình, chính cách sống của chúng ta sẽ “nói” nhiều và có tác dụng nhất.  Nói ít và làm nhiều luôn tốt hơn nói nhiều mà làm ít.  Chúa cũng rất muốn ngôn hành song song: “Hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em, nhưng bên trong họ là sói dữ tham mồi.  Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai.  Ở bụi gai làm gì có nho mà hái?  Trên cây găng làm gì có vả mà bẻ?  Hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu” (Mt 7:15-17; Lc 6:43-45).

Lạy Chúa, xin giúp chúng con cố gắng vẽ bức-tranh-cuộc-đời bằng nét-cọ-số-phận của chính mình hoàn toàn vì Chúa, thực sự mong làm sáng Danh Chúa, và sinh hoa kết trái tốt. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con.  Amen. 

Trầm Thiên Thu

From Langthangchieutim

Không đùa

 Phan Xuân Trung‘s post.

Phan Xuân Trung

Không đùa

Tôi đã có 3 stt đùa chơi với kiểu thay chữ của Bùi Hiền. Tuy nhiên, đã cười hết rồi, giờ là lúc không cười.

Chuyện chế chữ không có gì mới. Người ta vẫn thường chế chữ “iu” thay cho chữ “yêu” hay “ăn fở” thay cho “ăn phở”.

Từ khi có internet thì các bạn trẻ đã chế không biết bao nhiêu là chữ như j (gì), hok (không), ck (chồng), vk (vợ)… nhưng chỉ quanh quẩn trong phạm vi tin nhắn, chít chát.

Bộ Giáo dục đã từng có đề nghị đưa các chữ cái quốc tế như W, F, Z, J vào tiếng Việt, do ông Quách Tuấn Ngọc, cục trưởng cục CNTT Bộ Giáo Dục đề nghị.

Bạn Nguyễn An Biên đề nghị cải tổ tiếng Việt theo cách dùng 4 ký tự quốc tế W, F, Z, J thay cho một số từ hiện hữu
– Bỏ chữ ghép PH, vì có chữ F thay thế. 
– Bỏ chữ ghép GI, vì có chữ J thay thế. 
– Bỏ chữ Ư, vì có chữ W có thể thay thế. 
– Đổi chữ Đ hiện tại thành D, và chữ Z sẽ dùng thay vai trò của chữ D hiện tại.
– Bỏ các chữ GH, vì chữ đơn G đã đủ để gánh cả vai trò của nó. 
– Bỏ chữ NGH vì chữ NG đã thay thế được nó.

Tất cả các sự thay thế đó chỉ nhằm mục đích làm gọn chữ mà không làm thay đổi ý nghĩa của tiếng Việt. Đó là những suy nghĩ nghiêm túc dù không được chấp nhận.

Tuy nhiên, điều gây chấn động của Phó Giáo Sư – Tiến Sĩ Bùi Hiền là ngoài việc ông thay chữ một cách thô bạo, thiếu căn cứ (thay W cho TH, Q thay cho NG…), ông đã đạp đổ hầu như tất cả hệ thống tiếng Việt khi gom chữ lại với nhau. Chuyện ông muốn thay chữ này bằng chữ khác thì không mới, nhưng chuyện ông gom chữ mới là mới.

– Ông gom chữ CH với TR làm một.
– Chữ D, Gi, R làm một.
– C, Q, K làm một.
– S và X làm một.

Điều đó có nghĩa là trong tâm trí của ông thì Chí và Trí là như nhau, Trung và Chung là như nhau, Trước và Chước là như nhau, Trồng và Chồng là như nhau… Hai Bà Trưng và Hai Bà Chưng là như nhau. Hồ Chí Minh và Hồ Trí Minh là như nhau?

Điều đó có nghĩa là trong tâm trí của ông, trong kiến thức của ông, trong sự nhìn nhận của ông trong suốt cuộc đời thì Da và Ra là như nhau, Giầy và Dầy là như nhau, Giữ và Dữ là như nhau…

Điều đó có nghĩa là cho đến gần cuối đời, ông không phân biệt được Ký và Quý, Kéo và Quéo.

Điều đó có nghĩa là ông không hiểu sự khác nhau của Xuất và Suất, Xa và Sa, Xo và So, Xe và Se.

Có lẽ ông nghe dân miền Bắc không phân biệt được TR và CH, không phân biệt được Gi, D và R khi phát âm mà gom cả hai vào một chăng? Nếu ông có ý nghĩ đó thì sẽ không còn lạ khi mà sách vỡ lòng tiếng Việt dạy cho trẻ con là “cây lêu” thay vì “cây nêu”, “đám dỗ” thay vì “đám giỗ”. Điều này đã xảy ra trong thực tế, sách do nhà xuất bản Giáo dục ấn hành. Và như vậy thì ông sẽ gom luôn N và L làm một cho đủ bộ.

Thực tế thì dân miền Nam vẫn thường gọi “ông Trời” là “ông chời”, nhưng không vì vậy mà viết “ông Chời”. Dân miền Nam cũng đọc R thành Z hay G, “đi ra, đi vô” đọc thành “đi za, đi zô”, hoặc “bắt con cá gô bỏ zô gổ nó kêu gột gột”… nhưng không vì vậy mà không phân biệt được sự khác nhau giữa da, dô và ra, vô, cá rô và cá gô.

Thật sửng sốt khi ông lại là Phó Giáo Sư, Tiến Sĩ của ngành giáo dục, đã từng giữ các chức vụ quan trọng (nguyên Hiệu phó trường ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội).

Lẽ nào câu nói “trăm năm trồng người” lại có thể tương đương với “chăm năm chồng người?”.

Không thể cười được với cái trò ma quỷ làm ảo thuật này. Trong khi sự thay đổi mẫu tự chỉ làm cho câu chữ trở thành ngây ngô, quái đản mà trước đây không ai chấp nhận thì việc đánh đồng âm vần trong ngôn ngữ Việt Nam lại chính là một hành vi có tính phá hoại văn hóa, phá hoại ngôn ngữ quốc gia, sỉ nhục tri thức người Việt.

Nếu không nói rằng đây là những kiến thức và phát minh ma quái thì chỉ còn một đường duy nhất là ông Bùi Hiền bị bệnh tâm thần, cần chữa trị.

Để đừng ai phải bỏ nước ra đi

Để đừng ai phải bỏ nước ra đi

Bởi AdminTD –

Trung Nguyễn

24-11-2017

Có hai hình ảnh trên thế giới khiến tôi rất xúc động trong những ngày qua. Thứ nhất là đoạn video clip một người lính Bắc Hàn bỏ trốn sang Nam Hàn và bị bắn trọng thương. Thứ hai là hình ảnh người dân Zimbabwe đổ ra đường hò reo ăn mừng việc cựu Tổng thống Robert Mugabe từ chức.

Chế độ độc tài đảng trị hủ bại ở Bắc Hàn

Đã qua thế kỷ 21 được gần 20 năm rồi nhưng vẫn còn những người phải liều chết để trốn chạy các chế độ độc tài, ở đây là chế độ cộng sản Bắc Hàn. Người lính Bắc Hàn đó đã bị chính các đồng đội bắn trọng thương nhằm ngăn cản anh bỏ trốn.

Theo những người Bắc Hàn đã trốn thoát chế độ thành công, thanh niên Bắc Hàn bị buộc đi nghĩa vụ quân sự 10 năm. Tuy nhiên, thường thì họ tự nguyện đi vì nếu họ làm dân thì sẽ không có gì để ăn. Ít nhất ở trong quân ngũ họ còn có khẩu phần ăn để không bị chết đói. Cuộc sống kham khổ đến nỗi phụ nữ cũng phải xung phong vào quân đội và thậm chí bị tắt kinh.

Ở trong ruột người lính Bắc Hàn bị bắn, các bác sỹ phát hiện ra rất nhiều giun, có con dài tới 27 cm, cho thấy cuộc sống của người dân ở chế độ cộng sản Bắc Hàn thê thảm như thế nào. Và những người đang cai trị đất nước đó vẫn được những giới cầm quyền Việt Nam gọi là “đồng chí”.

Tôi đoán là các đồng đội của anh lính Bắc Hàn đó cũng rất muốn có thể trốn thoát thành công như anh dù phải trả giá bằng việc bị trúng đạn. Họ cũng muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn và được sống với đúng nghĩa một con người, có những quyền con người tối thiểu. Tuy nhiên, chế độ Bắc Hàn khống chế họ qua gia đình, người thân. Nếu họ bỏ trốn thì gia đình họ sẽ phải trả giá rất đắt.

Vì vậy, tôi đoán anh lính Bắc Hàn đó không còn người thân thích nào, là trẻ mồ côi.

Cây cột điện cũng bỏ nước mà đi

Thuyền nhân Việt Nam bỏ nước ra đi sau năm 1975. Nguồn: QPOL

Nhìn cảnh anh bỏ chạy, tôi nghĩ những người sinh sau 1975 có thể hình dung ra được lý do đồng bào miền Nam nói riêng và cả nước nói chung phải lên thuyền vượt biên sau khi chế độ cộng sản được thiết lập trên toàn quốc. Họ sẵn sàng chấp nhận cái chết để có thể có “quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc” mà ông Hồ Chí Minh đã trích từ Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và đọc trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam ngày 2/9/1945.

Không phải từ thời vượt biên những năm 80, mà ngay mới đây thôi, vào tháng 3/2017, ba gia đình ở Bình Thuận đã quyết định lên một con thuyền gỗ mỏng manh để vượt biên đến Úc. Họ đã tuyên bố nếu chính phủ Úc trục xuất họ về Việt Nam thì họ sẽ nhảy xuống biển tự tử chứ không bao giờ trở lại Việt Nam.

Ngay cả một cô bạn của tôi, một doanh nhân trẻ thành đạt, mới đây cũng đã lên đường đi Canada định cư. Lý do cô nói với tôi là cô chán phải đối phó với nạn “hành dân là chính”. Cô cũng không muốn đứa con nhỏ của cô phải ăn thực phẩm bẩn, hít thở bầu không khí ô nhiễm, và phải chấp nhận nền giáo dục lạc hậu, tẩy não ở Việt Nam.

Câu nói dân gian hay truyền tụng là “ở Việt Nam, nếu cây cột điện biết đi thì nó cũng đã bỏ đi” chưa bao giờ thấm thía với tôi như thế! Và tôi nghĩ nếu các nhà lãnh đạo Việt Nam có lương tri thì tối ngủ họ cũng phải vắt tay lên trán suy nghĩ xem tại sao dưới sự lãnh đạo “sáng suốt và tài tình” của họ mà dân muốn bỏ nước ra đi.

Vận mệnh [sụp đổ] tương quan

Có đau đớn như vậy thì tôi mới cảm nhận được niềm vui vỡ òa của người dân Zimbabwe khi nhà độc tài tự nhận là người Mác-xít đã cầm quyền 37 năm của họ, ông Robert Mugabe, từ chức. Từ đây báo hiệu một chặng đường lịch sử mới của Zimbabwe.

Nhà độc tài Mugabe đã ra đi nhưng đảng độc tài ở Zimbabwe là Zanu PF vẫn còn đó. Và người dân, các chính trị gia dân chủ ở Zimbabwe còn rất nhiều việc phải làm ở phía trước.

Tôi biết thâm tâm các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam đang rất run. Cứ mỗi lần một chế độ độc tài trên thế giới sụp đổ là họ biết họ thêm cô đơn. Lúc cuộc cách mạng dân chủ Mùa Xuân Ả-rập bắt đầu từ năm 2010 diễn ra, quản giáo không cho các tù nhân chính trị ở Việt Nam đọc báo nữa vì sợ nắm bắt tin tức mà… lên tinh thần. Còn bên Trung Quốc cũng vậy, an ninh được bố trí dày đặc ở các nơi công cộng, hễ ai cầm hoa nhài là sẽ bị bắt ngay vì sợ kích động Cách mạng hoa Nhài giống Tunisia ở Trung Quốc.

Đó cũng là lý do mà hai đảng cộng sản ở Việt Nam và Trung Quốc phải ôm nhau mà hò hét “vận mệnh tương quan”. Đảng nào sụp đổ thì đảng còn lại sẽ rất cô đơn và nhanh chóng… đi theo.

“Thanh gươm và lá chắn” an ninh rệu rã

Tôi từng ngồi nói chuyện với một đại tá, chính ủy một đơn vị quân đội lớn ở Việt Nam. Ông nói rằng ông và các bạn của ông trong Tổng cục 2 (Tình báo quân đội) hiểu rất rõ dân chủ rất cần thiết cho Việt Nam. Ông cũng biết rõ lãnh đạo đảng cộng sản đang làm sai, lạm dụng quân đội để thi hành chế độ độc tài đảng trị. Tuy nhiên, vì miếng cơm manh áo nên ông phải tiếp tục phục vụ cho chế độ.

Một số sỹ quan an ninh công an mà tôi biết cũng xin bỏ ngành vì họ thấy những việc họ làm là bất nhân và vi phạm pháp luật, đạo lý.

Các lãnh đạo đảng cộng sản thừa biết điều này. Đó cũng là lý do Nghị quyết Trung ương 4, đại hội 12 của đảng cộng sản kêu gọi “chống tự diễn biến, tự chuyển hóa”.

Nghĩa là tiếng nói phản đối chế độ đảng trị của chính các đảng viên cộng sản còn gây lo lắng cho họ hơn các “thế lực thù địch” bên ngoài nhiều.

Do đó, tôi sẽ không ngạc nhiên nếu một ngày đẹp trời nào đó, các tướng lãnh Việt Nam cũng “mời” dàn lãnh đạo của đảng cộng sản phải chấp nhận trả lại quyền làm chủ cho người dân, chấp nhận bầu cử tự do và công bằng.

Chế độ sụp đổ là chắc chắn

Dù các tướng lãnh không hành động thì tôi cũng biết là chắc chắn chế độ độc tài đảng trị sẽ ra đi vì đó là quy luật bất biến của lịch sử. Chỉ có điều sau đó sẽ là một chế độ dân chủ tốt đẹp hay lại là một tình trạng hỗn loạn thì tôi không biết.

Các quan chức cộng sản cũng biết rõ điều này. Do đó con cái họ đi du học nước ngoài và không trở về. Chính nguyên thứ trưởng bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng cũng phát biểu tại kỳ họp Quốc hội năm 2015:

“Tôi nghĩ con em nhiều người ngồi ở đây cũng không về. Cá nhân gia đình tôi cũng vậy, 2 đứa không về.”

Do đó, thật sự dân chủ hóa ở Việt Nam không khó như các quốc gia khác vì tâm lý của các lãnh đạo, cán bộ cộng sản đã rệu rã vì họ biết họ sai và họ sẽ sụp đổ. Họ chỉ đang cố gắng câu giờ, kéo dài thời gian càng lâu càng tốt. Họ đã chuẩn bị để bỏ chạy thì sự sụp đổ sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc họ quyết tử ở lại Việt Nam giữ chế độ tới cùng.

Người Hàn Quốc nhìn Việt Nam và ghen tị vì ít ra, Việt Nam đã thống nhất được hai miền Nam Bắc về mặt địa lý. Tuy nhiên, do chế độ độc tài đảng trị tước đoạt quyền làm chủ bình đẳng của người dân nên lòng người Việt Nam đang chia rẽ nặng nề giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.

Trả lại quyền làm chủ cho dân là giải pháp cho lãnh đạo

Thế thì lời khuyên cho các nhà lãnh đạo cộng sản là hãy trả lại quyền làm chủ cho người dân, thực hiện đoàn kết quốc gia trên nền tảng pháp luật chuẩn mực như những gì đảng cộng sản đã hứa hẹn với người dân. Cùng là đồng bào Việt Nam với nhau thì người dân cũng dễ tha thứ, bao dung hơn để cùng nhau đi tới, xây dựng lại đất nước có được “dân quyền hiện thực, pháp quyền chuẩn mực, chính quyền chính trực”.

Dựa vào dân thì thế và lực của lãnh đạo Việt Nam sẽ mạnh hơn rất nhiều là đi dựa vào các thế lực bên ngoài.

Còn nếu các nhà lãnh đạo cộng sản cứ cương quyết bám vào Trung Cộng để tồn tại thì số phận họ sẽ rất thê thảm vì Trung Cộng chẳng thương xót gì người dân Việt Nam, và càng khinh những kẻ bán nước như họ. Lịch sử không thiếu những bài học như thế này.

Đoàn kết với nhau một cách có tổ chức là giải pháp cho người dân

Trở lại với người dân Việt Nam, trong hoàn cảnh về tâm lý và tổ chức của đảng cộng sản cầm quyền đã rệu rã như vậy, nếu trong nước không thể hình thành các tổ chức chính trị, các chính đảng dân chủ chân chính, có tổ chức chặt chẽ thì sẽ rất khó để chế độ đảng trị bị lung lay.

Hãy nhớ lại vào cuối những năm 80, đầu những năm 90, kinh tế trong nước khó khăn do tham chiến ở Campuchia, siêu lạm phát, Liên Xô và Đông Âu sụp đổ không còn viện trợ, giới lãnh đạo đảng cộng sản khi đó rất lo sợ nhưng cuối cùng họ đã vượt qua được vì người dân Việt Nam khi đó đã không biết đứng cùng nhau tạo thành tổ chức để có sức mạnh.

Tôi nghĩ vẫn nên nhắc lại lời của Lênin, bậc thầy của người cộng sản: “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo lộn nước Nga lên”. Theo đó, không có các tổ chức đảng dân chủ mạnh thì cuộc cải cách dân chủ sẽ không thể thành công.

Dĩ nhiên, làm sao để hình thành các tổ chức chính trị dân chủ lớn mạnh ở Việt Nam thì đó là câu hỏi mà các chính trị gia dân chủ ở Việt Nam phải trả lời và thực hiện. Và tôi biết đó là một con đường dài.

© Copyright Tiếng Dân

SỐNG LÀ CHUẨN BỊ CHẾT

SỐNG LÀ CHUẨN BỊ CHẾT

Suy tư về cái chết là suy tư về cái sống. Chết là một phần của sự sống bỡi lẽ trong sự sống đã có sự chết. Nó là cánh cữa nối liền hai thế giới như cữa sông đưa giòng nước vào nguồn biển rộng mênh mông. Nó là người bạn trung thành nhất của chúng ta. Nó là người bạn duy nhất không bao giờ quên chúng ta và nó có thể đến viếng thăm chúng ta bất cứ lúc nào, vào sáng sớm tinh sương hay vào lúc đã về xế chiều.

Chúng ta không cần nói đến những cái chết đến với chúng ta từ những nguyên nhân bên ngoài như do tai nạn, sự mưu sát, hay một nguyên nhân nào khác không cần biết. Chỉ cần nói đến sự chết đang nằm sẵn trong bản tính con người chúng ta. Như một hoa trái đang chín dần, mỗi ngày sống là một bước đi chúng ta đang tiến dần về với cái chết đang chờ đợi mỗi người chúng ta. Bên cạnh đó, trong cuộc sống hằng ngày cũng còn có rất nhiều những mất mát, những thua thiệt khiến chúng ta cũng đã chết đi phần nào trong con người chúng ta như mỗi khi chúng ta phải lựa chọn hay mỗi khi phải ra đi. Mỗi lúc lựa chọn là mỗi lúc phải quyết định từ bỏ. Từ bỏ khiến chúng ta phải mất đi một phần những cái thuộc về chúng ta và điều đó làm chúng ta đau khổ và chết đi không ít. Mỗi khi chúng ta phải lên đường ra đi vì công việc hay vì cuộc sống cũng vậy. Chúng ta phải dứt bỏ tình cảm quen thuộc, dứt bỏ sự quyến luyến tự nhiên mà một khi đã quen nhau chỉ muốn ở gần nhau. Sự ra đi lúc nầy quả thật là một sự thương đau và cũng là một sự chết đi trong lòng không ít cho người phải ra đi, vì không có ra đi nào không làm lòng mình tê tái, cũng không có ra đi nào không để lại nỗi nhớ thương. Nhưng chưa hết, không phải chỉ lúc chúng ta ra đi chúng ta mới cảm thấy đau thương mà cả sự ra đi của những người thân yêu chúng ta cũng để lại những cảm giác thương đau rất nhiều. Mỗi người chúng ta thảy đều có kinh nghiệm nầy: cứ mỗi lần có một người bạn thân hay một người trong gia đình chúng ta vĩnh viễn ra đi, chúng ta thấy gì trong con người chúng ta ? Chúng ta cảm thấy con người chúng ta cũng chết đi với họ, bằng chứng là chúng ta thấy mất hẳn sinh lực, mất hẳn tinh thần, cũng như mất hẳn niềm vui để sống.

Cứ theo định luật tự nhiên, con người được sinh ra, lớn lên, già đi và chết. Đó là định luật chung của con người. Không ai có thể sống mãi mà không chết ngay dầu các vua chúa ngày xưa đã cố gắng đi tìm thuốc trường sinh bất tử nhưng họ cũng không tránh khỏi định luật khắc nghiệt ấy. Vì thế, chối từ sự chết là lừa dối chính mình. Để sống cách trọn vẹn, người ta phải can đãm chấp nhận sự sống lẫn sự chết. Sự sống quá tự nhiên đến nỗi chúng ta không nghĩ đến ngày nó kết thúc.  

Thái độ của con người đối với sự chết luôn là một sự giằng co giữa sự lôi cuốn và sự khước từ. Mọi người đều nhận ra rằng sự sống là mỏng manh, là ngắn ngủi và nó có thể kết thúc bất cứ lúc nào.

Chính những tư tưởng về sự chết đưa chúng ta đến vấn nạn nầy: Cái gì là chính yếu, là trường cửu đối với con người chúng ta ? Chúng ta cần phải làm gì để đối đầu với cái chết đang đến với chúng ta ? Vì thế, phản ảnh về sự chết là học cách chúng ta phải sống hôm nay.

Người xưa đã sống đời sống như có một sự sống khác quan trọng hơn là cuộc sống ở đây và bây giờ, khiến họ sống cách xa cuộc sống hiện tại. Nhưng đối với giới trẻ hôm nay, họ không thể chấp nhận cuộc sống như thế.

Thật vậy, nếu chối từ cuộc sống chúng ta đang sống hiện tại hoặc chỉ chú trọng đến cuộc sống hôm nay mà không nghĩ đến ngày mai chúng ta sẽ chết, cả hai đều không thực tế. Vì thế, một số các nhà tâm lý học có khuynh hướng KiTô giáo hiện đại đang có khuynh hướng nầy: Sống là chuẩn bị cho con người đi về với cái Chết. Chính tư tưởng nầy đã giúp rất nhiều người thoát khỏi khủng hoảng trầm trọng khi con người đối diện với cái chết, và nhờ đó cũng đã giúp nhiều người chuẩn bị sẵn sàng để lên đường ra đi cách an bình về với Thiên Chúa và về với những người thân yêu của họ bên kia thế giới. Cũng chính những tư tưởng nầy đã giúp rất nhiều nhà giàu sang phú quí thực thi đức bác ái, biết dùng của cải đời nầy để mua lấy nước trời bằng cách chia xẻ phần nào những của cải của họ cho những người nghèo khổ và nhờ thế nhiều người bất hạnh đã có được một đời sống tương đối xứng đáng với phẩm giá con người hơn.

Nói đến đây, tôi nhớ đến câu chuyện về hành vi thiếu bác ái của một người bạn đồng nghiệp của tôi. Câu chuyện xem ra quá bình thường nhưng đã để lại một ký ức không mấy tốt đẹp cũng như đã để lại một sự hối hận suốt đời cho người bạn già của tôi. Hy vọng nó có thể giúp chúng ta có thêm kinh nghiệm sống cho những ngày còn lại của chúng ta trên trần gian nầy.

Trong chuyến du hành sang Hy Lạp, trên con đường từ Athens đến Kalambaka, người bạn già của tôi đã kể cho tôi nghe câu chuyện của ông như sau:

Chiều hôm đó, khi đi ngang qua một làng nhỏ của người da đen trong sa mạc Sahara. Như thường lệ, khi có một người khách đến, mọi người trong làng chạy ra vây bao quanh xe khách hoặc tò mò, hoặc để giành lấy những thực phẩm mà du khách thường mang theo để tặng họ. Hôm đó, tôi có nhìn thấy một ông lão già đang run lập cập vì lạnh. Nói về cái lạnh trong sa mạc xem ra là khó tin nhưng thực tế là thế. Sahara thường được gọi là xứ lạnh vào đêm nhưng rất nóng dưới ánh quang mặt trời. Mặt trời lặn rồi, ông lão lạnh cóng. Bấy giờ, tôi có ý nghĩ cho ông ta một trong những chiếc mền của tôi, nhưng tôi lại để tư tưởng đó qua đi vì tôi nghĩ đêm đến tôi cũng sẽ cóng lạnh như vậy. Dầu tôi lý luận: ông có thể quen với thời tiết ở đây hơn tôi, nhưng một chút bác ái trong tôi cũng đã khiến tôi suy nghĩ lần nữa, tốt hơn là cho ông ta một chiếc dẫu tôi có lạnh hơn một chút. Tuy vậy, khi tôi rời bỏ ngôi làng, những chiếc mền vẫn còn nằm nguyên vẹn trên chiếc xe của tôi. Bấy giờ, lương tâm tôi bắt đầu cắn rứt.

Khi đến nơi tôi có ý định đến, tôi rảo một vòng đi tìm một chỗ để yên nghỉ và tôi đã tìm được một nơi vừa ý thích. Tôi cố gắng nằm yên tựa chân lên một hòn đá lớn, nhưng rồi tôi vẫn không yên tâm được. Tôi nhớ cách đó một tháng, một người da đen đã bị nghiền nát bỡi một tảng đá to rơi xuống. Nên tôi đã ngồi dậy để xem tảng đá chỗ tôi đang nằm có bảo đảm không. Tôi thấy nó không được cân bằng cho lắm nhưng không đến nỗi nguy hiểm.

Tôi lại nằm xuống. Nếu tôi kể lại điều mà tôi mơ thấy, có lẽ bạn sẽ cảm thấy lạ lùng. Điều đáng buồn cười là tôi mơ thấy tôi đang ngủ dưới một hòn đá lớn và rồi vào một lúc, tôi thấy hòn đá di động và rơi xuống trên tôi. Tôi nghe thấy tiếng xương kêu răng rắc và tôi cảm thấy mình sắp chết vì cả thân xác bị nghiền nát dưới tảng đá ấy. Nhưng tôi ngạc nhiên vì không cảm thấy mình đau đớn gì cả, chỉ có một điều là không thể cử động được. Bấy giờ tôi thấy ông lão đang run rẩy trước mặt tôi. Không do dự một chút nào cả, tôi vội vàng lấy ngay một chiếc mền không được dùng đến đang nằm đàng sau tôi để trao cho ông. Tôi cố gắng giang tay ra để đưa nó cho ông. Nhưng viên đá khổng lồ ấy khiến tôi ngay cả một cử động nhỏ cũng không thể làm được. Tôi sợ quá nên chợt tỉnh giấc. Chính cơn ác mộng ấy đã giúp tôi suy nghĩ và hiểu được luyện ngục là gì, cũng như đã hiểu được nỗi khổ đau của các linh hồn là không còn có thể làm được điều mà trước đây họ có thể và lẽ ra nên làm.

Có ai biết được bao nhiêu năm trời sau đó tôi cứ phải bị ám ảnh và ray rứt trong lương tâm mỗi khi nhìn thấy chiếc mền như một bằng chứng cho sự ích kỷ của tôi cũng như cho sự chưa đủ trưởng thành của tôi để vào nước của Tình Yêu?

Tôi cố gắng nghĩ đến bao lâu tôi đã phải ở dưới hòn đá khổng lồ ấy ? Và có sự đáp trả cho tôi rằng cho đến khi tôi có thể làm được một hành động của tình yêu trọn vẹn. Bấy giờ, tôi cảm thấy mình hoàn toàn bất lực.

Tôi đưa mắt hướng nhìn đi nơi khác và tôi đã nhìn thấy những bia đá đang nằm trước mặt tôi không gì khác hơn là những nấm mồ của những người đã nằm xuống. Họ cũng vậy, cũng bị xét xử theo hành động trọn vẹn của tình yêu của họ, và giờ đây họ nằm ở đó đang mong chờ Vị Cứu Thế đến giải cứu họ trong ngày sau hết.

Hành động trọn vẹn của tình yêu là gì ? Là Chúa Giêsu đi lên đỉnh đồi Calvê để chết cho hết thảy chúng ta. Như những phần tử của nhiệm thể, chúng ta cũng sẽ được hỏi để cho thấy chúng ta có đủ tình yêu trọn vẹn ấy để theo Ngài lên đỉnh đồi Calvê không ? Sự khước từ làm những việc bác ái cho những người anh em chúng ta nói lên cho chúng ta thấy rằng chúng ta còn có cả một con đường dài nữa phải đi. Nếu chúng ta đã có thể đi qua một người anh em đang run rẩy vì lạnh, một người anh em đang gặp hoạn nạn bên vệ đường, làm cách nào chúng ta có thể dám chết đi cho những người anh em khác như Chúa đã chết đi cho hết thảy chúng ta.

Nếu chúng ta không muốn nằm lâu bất động dưới những viên đá khổng lồ đó thì bây giờ ngay khi còn sống, hãy làm những gì chúng ta có thể làm được cho những người anh em chúng ta để làm hành trang chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa gọi chúng ta lên đường về bên kia thế giới.

Lm. Lê Văn Quảng

HẬN ĐÈO NGANG !

Nguyen Tuan Anh added 3 new photos.
HẬN ĐÈO NGANG !

Lác đác đèo ngang bóng Việt ta
Đâu đâu cũng thấy một lũ tà
Tà ma quốc cộng thi nhau phá
Hủy hoại môi sinh nát cửa nhà

Ích Tắc , đười ươi phỡn mặt ra
Đồng hành tiểu quốc Fóc -mo -sa
Nhân dân phản đối vào nhà đá
Uất hận đèo ngang ghét lũ tà

Image may contain: outdoor
No automatic alt text available.
Image may contain: sky and outdoor