ĐIỂM MẶT CHẤT LƯỢNG VÀI CÔNG TRÌNH CỦA TÌNH HỮU NGHỊ DÀI LÂU TRUNG QUỐC – VIỆT NAM, XƯA NAY

From: Hoa Kim Ngo shared BNùi Quang Minh‘s post.
Image may contain: sky and cloud

Bùi Quang MinhFollow

 

 

ĐIỂM MẶT CHẤT LƯỢNG VÀI CÔNG TRÌNH CỦA TÌNH HỮU NGHỊ DÀI LÂU TRUNG QUỐC – VIỆT NAM, XƯA NAY:

Qua những gì mình nghe được thì đây là những công trình, dự án lớn biểu tượng của tình hữu nghị dài lâu giữa quốc gia và nhân dân hai nước:

1. Khu gang thép Thái Nguyên: chỉ làm ra gang, không làm ra thép

2. Phân đạm Hà Bắc: ra đạm nước không ra đạm hạt, đất đai quanh vùng ô nhiễm, lúa ra bông nhưng không ra hạt

3. Cầu Thăng Long: do Trung Quốc thi công lấy thiết kế cầu Trường Giang do Nga làm, làm từ 1976 đến 1978 được 9 trụ cầu thì bỏ, rút công nhân về nước.

4. Nhà máy điện Ninh Bình chạy bằng than, khói tạt khu dân cư

5. Nhà máy đạm Ninh Bình mỗi năm thua lỗ 30 – 50 tỷ VNĐ

6. Khu liên hiệp công nghiệp giấy Việt Trì: chỉ làm được giấy bổi bao bì, không làm được giấy kẻ ca rô học sinh, càng không làm được giấy báo.

7. Nhà máy mì chính miến Việt Trì: chỉ lên được mầm đậu xanh, không ra được miến dong, không sản xuất được mì chính

8. Nhà máy sơ sợi Đình Vũ (Trung Quốc thực hiện) nay đã đặp chiếu, không có công nghệ xơ sợi tiên tiến nào được thực chuyển giao. Gần 8000 tỷ đồng đã bay theo mưa gió (tương đương khoảng 400 triệu đô).

9. Dự án Nhôm Boxit Tây Nguyên: đã được nhân sĩ trí thức các nhà khoa phản đối, mọi thông số đều không khả thi và thiệt hại lâu dài nhãn tiền. Và đến nay mọi hậu quả đã thấy rõ ràng, ngắn gọn là về kinh tế thì tính toán ban đầu sai bét, lỗ vốn 3.700 tỷ, sập bẫy nhà thầu Trung Quốc và “âm mưu” nhiều bề về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.

10. Cụm nhà máy nhiệt điện Bình Thuận (5 nhà máy dùng than) chủ thầu Trung Quốc, sử dụng công nghệ lạc hậu của Trung Quốc mà chính thế giới và Trung Quốc đã không sử dụng. Vấn đề xả thải, ô nhiễm môi trường biển hết sức nghiêm trọng

11. Dự án đường sắt trên cao Hà Nội: chậm kinh niên, vay thêm 250 triệu đôla, đội tiền vay mỗi tháng hơn 30 tỷ đồng mà ngày nào xong thì vẫn mịt mùng như “đêm đen chị Dậu”…

12. Trụ sở Bộ Công An, đường Phạm Văn Đồng: lắm rệp bọ nghe trộm, bỏ thì thương, vương thì tội…

13. Dự án liên hợp Gang thép và cảng nước sâu Formosa (đăng ký dự án là chi nhánh của Tập đoàn nhựa Formosa, Đài Loan, nghi ngờ có mối liên hệ với Trung Quốc): nay đã rõ là khối ung thu di căn, có ảnh hưởng cực kỳ xấu đến môi trường biển, đời sống kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của mảnh đất miền Trung. 1000 năm tù cho các kẻ có liên quan không cứu vớt được tội ác đã gây ra từ trước đến nay.

(các bạn tự liệt kê thêm)

Tôi cho rằng, chả dự án gì ra cái gì, có những dự án để lại những hậu quả không gì bù đắp được. Dự án chậm thì Việt Nam còn bị phạt ngược, tính lãi.

Ảnh: Cảnh Formosa Hà Tĩnh

“CHẠY ÁN” HAY “CHẠY MÁNH, LÀM CHIM CÒ MỒI”?!!!

From:  Van Pham shared Hồ Liên Thành‘s post.
“CHẠY ÁN” HAY “CHẠY MÁNH, LÀM CHIM CÒ MỒI”?!!!

Nếu nói cho đúng với vai trò của số đông Luật sư trong chế độ XHCNVN như nhiều bạn học đã tốt nghiệp LS trước 1975 ( đa số đã về hưu, số ít còn lại vẫn đang làm việc) tiết lộ:

“Thực sự làm dell gi có nghề Luật sư đúng nghĩa trong cái xã hội này, mà nó chỉ là ‘chạy mánh, làm cò’ thôi….”

Xin lỗi qúy vị Luật sư, không phải tôi nói hay bịa ra…. chả là trước đây thỉnh thoảng tôi về chơi & đến thăm các bạn. Trong lúc tâm tình tôi có hỏi thẳng mấy tên bạn đã làm gì trong một số vụ án :’nổi cộm’, mà vụ nào nạn nhân cũng thua và bị kết án khá nặng nề. Thì được họ chua chát cho biết như trên…

Trở lại với lời nhận xét của Ls Võ An Đôn về việc “chạy án” của giới Luật sư. Qua nhận xét của Ls Hồ Liên Thành tôi hoàn toàn tán đồng là Ls Võ An Đôn nhận xét rất đúng về cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, mà không có một chút mỉa mai hay khinh bạc.

Trong khi một số Luật sư can đảm đứng lên đi tìm công lý cho những vụ án oan, các vụ án hình sự để “chạy án” cho những người tù lương tâm như Trần Thị Nga, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh v.v…NhỮng gia đình vượt biển tìm tự do bị trả về và bị chế độ bắt đưa ra tòa rồi tù tội. Dù chế độ đã ký cam kết với chính phủ Úc là không truy tố, xử tội!!!

Thì Luật sư Trần Đình Triển, Ls Lê Văn Thiệp nhất quyết không “chạy án” cho những “loại thân chủ” này. Vậy Ls Triền & Ls Thiệp chỉ còn 1 con đường duy nhất là: “chạy Mánh & làm Cò/Chim mồi” trong mọi vụ án khác đã qua và trong tương lai???!!!!!!!!

 
Image may contain: 1 person, eyeglasses

Hồ Liên Thành is with Trịnh Vĩnh Phúc.

NÓI LUẬT SƯ “CHẠY ÁN” CÓ GÌ LÀ SAI?

“CHẠY ÁN”, là ngôn từ rất sáng tạo của dân gian, có nội hàm vừa bao quát, vừa mang tính mơ hồ, không định lượng, vừa mang ẩn ý, lại có tính gợi mở, phản ánh đúng thực trạng nền tư pháp Việt.

Nhắc đến từ chạy án, chúng ta liên tưởng ngay đến nhận xét của Luật sư VÕ AN ĐÔN về thực trạng luật sư tham gia chạy án và đó cũng là một trong các lý do chính khiến vị luật sư này bị kỷ luật xóa tên khỏi danh sách Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên và bị đề nghị thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư.

Nhiều luật sư đã ký tên vào bản KIẾN NGHỊ XEM XÉT LẠI QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT ĐỐI VỚI LUẬT SƯ VÕ AN ĐÔN. Song cũng có một số luật sư tỏ vẻ hả hê trước quyết định kỷ luật đồng nghiệp mình. Cá biệt có luật sư “khả kinh” viết status trên FB phản đối việc kiến nghị với một thái độ hằn học và đưa ra nhận xét thiếu thiện chí về việc làm của đồng nghiệp mình, thậm chí gọi đồng nghiệp là “ngáo đá”…

Vậy, xin đặt ra câu hỏi: Nói luật sư chạy án, có gì sai?

Chạy án chứa đựng nhiều hành vi: chống lại bản án mà mình cho là bất công, trốn, né khỏi chế tài mà bản án mang lại, tìm cách giữ y bản án có lợi hoặc sửa, hủy bản án gây bất lợi, bao gồm từ vụ án hình sự, hành chính, dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình…

Chạy án không chỉ “chạy” với bản án mà còn “chạy” với vụ án, nhằm để không bị khởi tố, không bị truy tố, không bị xét xử; để được đình chỉ, tạm đình chỉ, được tách vụ án, được nhập vụ án, được di lý vụ án, được ủy thác điều tra vụ án, được ủy thác tư pháp đối với vụ án có yếu tố nước ngoài…

Chạy án còn là “chạy” việc chấp hành bản án phạt tù, để được chuyển đến trại gần, trại sang, trại xét giảm án mạnh…; chạy việc thi hành bản án dân sự trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, khôi phục lại tình trạng ban đầu…; chạy việc áp dụng hoặc chống lại việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như cấm chuyển dịch tài sản, cấm xuất nhập cảnh…; chạy việc giảm án tù có thời hạn, chạy ân xá, đặc xá, chạy án tử thành án chung thân; chạy giấy chứng nhận có bệnh tâm thần để miễn trách nhiệm hình sự; chạy giấy chứng nhận mất năng lực hành vi dân sự để xù nợ…

Trong chạy án, còn có loại “chạy” danh giá hơn đó là chạy nhằm giải cứu người bị oan sai, tức phải bỏ tiền ra để mua công lý!

Thường nhiều người cứ nghĩ chạy án là chạy bằng tiền, bằng vàng, là đưa hối lộ nhưng ít ai để ý là nhiều khi chạy án mà không cần đến tiền, vàng; đó là chạy bằng chân, bằng miệng, bằng ngòi bút, bằng báo chí, truyền thông và bằng mối quan hệ. Chạy bằng chân, tức là bỏ sức lực ra để đi lại, tới lui, lên xuống các nơi có thẩm quyền để đệ đơn. Chạy bằng miệng là dùng 3 tấc lưỡi để thuyết phục hay kêu gào. Chạy bằng ngòi bút là dùng khả năng viết văn bản để làm rõ vụ án, gửi đơn yêu cầu, đơn khiếu nại, đơn xin cứu xét, đơn tường trình, đơn kiến nghị, đơn tố cáo… để giải cứu cho người cần chạy. Chạy bằng báo chí, truyền thông là cung cấp thông tin và nhờ cơ quan báo chí hay đưa lên mạng xã hội các câu chuyện đầy bi kịch và xung đột pháp lý để đánh thức và gây áp lực đối với các cơ quan chức năng. Chạy bằng mối quan hệ thì hơi khó nói, mỗi người bằng mối quan hệ riêng có của mình với giới chức thẩm quyền và các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước để cung cấp thông tin nóng, để vận động, thuyết phục họ quan tâm can thiệp giải quyết công việc theo mong muốn của mình…

Theo cách hiểu như trên, thì người tham gia chạy án không chỉ có luật sư mà có thể là tất cả những người có chức danh tư pháp khác và bất cứ ai có khả năng.

Theo cách hiểu đó thì chạy án không có nghĩa là đưa hối lộ hay môi giới hối lộ.

Trong môi trường đời sống pháp luật Việt Nam khi mà thực trạng án bỏ túi là phổ biến, “án dân sự xử sao cũng được” như lời ông Chánh án Tòa án nhân dân tối cao từng trả lời chất vấn trước Quốc hội và án xử “sáng đúng, chiều sai, đến mai lại đúng” như dân gian truyền tụng, thì việc “chạy án” không hoàn toàn là hành vi xấu.

Cũng theo cách hiểu đó, thú thật tôi cũng đã từng tham gia “chạy án”.

Liên Thành.

TỪ CHUYỆN ÔNG TRỌNG TRỰC TIẾP THAM GIA HỌP CHÍNH PHỦ

From:     Hoa Kim Ngo shared Huynh Ngoc Chenh‘s post.
Huynh Ngoc Chenh

 

 

TỪ CHUYỆN ÔNG TRỌNG TRỰC TIẾP THAM GIA HỌP CHÍNH PHỦ 

Chẳng có gì sai khi ông tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng tham gia vào cuộc họp chính phủ thường niên bất chấp chuyện pháp luật không hề quy định chức năng cụ thể của tổng bí thư đảng trong guồng máy nhà nước.
Cũng chẳng có gì sai khi TBT trực tiếp nắm luôn quốc hội, quân đội, công an, tòa án, viện kiểm sát, báo chí và tất cả các đoàn thể xã hội mà đảng gọi là tổ chức quần chúng của đảng.

Chế độ độc đảng thì đảng nắm hết, lãnh đạo toàn diện. Cơ quan, tổ chức nào quan trọng như mặt trận, quốc hội, chính phủ, quân đội, ngoại giao, công an thì đảng cử ủy viên bộ chính trị xuống nắm, ban ngành tổ chức nào ít quan trọng thì cử một trung ương ủy viên xuống nắm như các bộ, các đoàn thể.

Các đoàn thể quần chúng quan trọng như đoàn thanh niên, công đoàn, hội phụ nữ, hội nông dân…phải là một trung ương ủy viên nắm đã đành mà ngay cả hội nghề nghiệp như hội nhà báo cũng phải là một trung ương ủy viên nắm chứ chẳng chơi.

Tất cả các cơ quan, ban ngành, đoàn thể đều nằm dưới quyền của tổng bí thư nên ông Trọng muốn tham gia trực tiếp chỉ đạo và ngay cả điều hành bất cứ tổ chức nào không được. Dĩ nhiên các tồng bí thư trước “tế nhị” chỉ đạo gián tiếp thông qua cuộc họp bộ chính trị. Còn ông Trọng thấy không cần thiết tế nhị nữa và hơn nữa có thể ông cũng không tin vào các ông bộ chính trị dưới quyền nên phải tham gia trực tiếp vào là vậy.

Ông Trọng có toàn quyền tham gia trực tiếp vào bất kỳ cơ quan tổ chức nào vì tất cả các cơ quan, ban ngành, đoàn thể đều là của đảng, được lập ra nhằm để phục vụ và bảo vệ đảng.

Dưới slogan “mất đảng là mất tất cả” hay “còn đảng còn mình”, quốc hội (làm ra pháp luật) để bảo vệ đảng, quân đội bảo vệ đảng, công an bảo vệ đảng, tòa án bảo vệ đảng, chính phủ (quản lý tài sản, tài nguyên, đất đai và ngườ dân) để bảo vệ đảng, báo chí cũng bảo vệ đảng, các đoàn thể cũng tổ chức ra lấp kín hết xã hội cũng nhằm bảo vệ đảng (do vậy đừng thắc mắc tại sao thấy công đoàn không bảo vệ công nhân, hội nông dân không bảo vệ nông dân, hội phụ nữ không bảo vệ phụ nữ và trẻ em, đoàn thanh niên không bảo vệ thanh niên, hội nhà báo không bảo vệ nhà báo, hội luât sư không bảo vệ luật sư…)

Đảng lập ra toàn bộ các cơ quan, tổ chức nhằm bảo vệ đảng kín bưng, từ vòng trong ra vòng ngoài, thành nhiều tầng nhiều lớp, không còn chút kẻ hở nào cho đến con kiến cũng không thể lọt vào cắn được vào mông đảng.
Điều đó có vẻ như là đúng hết, nhưng rồi vẫn thấy có gì đó sai sai.

Cái sai thứ nhất là tất cả các cơ quan tổ chức ấy đều là của đảng, tồn tại nhằm bảo vệ và phục vụ đảng nhưng lại dùng tài nguyên của quốc gia do cha ông để lại và tài sản của người dân làm ra trang trải chi phí. Chi phí ấy lớn lắm vì bộ máy rất to lớn và cồng kềnh. Do vậy thuế càng ngày càng tăng cao và tài nguyên ngày càng cạn kiệt là điều tất yếu.

Cái sai thứ hai là khi được bảo vệ tuyệt đối như vậy thì liệu đảng có còn mạnh khỏe để trường tồn không? Thuyết Darwin và thực tế cho thấy cái gì được bảo vệ tuyệt đối không theo quy luật thì có thể trước mắt chống đỡ được sự tấn công từ bên ngoài nhưng tự nó sẽ phát bệnh từ bên trong, rồi tự suy thoái, tự diễn biến và đi đến tiêu vong. 

Thực tế lịch sử cho thấy đảng CS Liên Xô có đến 20 triệu đảng viên được tổ chức bảo vệ còn kín bưng và kinh hồn hơn, nhưng rồi tự đổ bệnh lăn ra chết chứ chẳng có ai hại. Ông Trọng hiểu điều đó, nhưng không nghĩ ra cach nào khác để bảo vệ đảng của ông hữu hiệu hơn cách đã có theo bài bản của Liên Xô nên suốt ngày cứ kêu gọi chống suy thoái, chống diễn biến, chống tham nhũng- mà thực chất là “chống vài người để cứu vạn người”…và quan ngại “suy thoái là mất đảng, mất đảng là mất tất cả”. 

Thực tế thì đảng ông cũng đang lâm bệnh, dù có rút kinh nghiệm từ sụp đỗ của Liên Xô, Đông Âu thì cũng kéo dài thêm vài năm hay vài chục năm nữa thôi rồi cũng đến lúc tự diệt vong, chẳng có chi trường tồn mãi mãi.

Ông Trọng là người có học, lại cũng tỏ ra có hiểu biết và yêu nước, không hiểu tại sao lại cứ chăm chăm vào chuyện bảo vệ đảng của ông mà không nghĩ đến cái gì đó sâu xa và tốt đẹp hơn nhỉ?

Chiều cuối năm: thăm tác giả ‘Áo Mơ Phai’

Chiều cuối năm: thăm tác giả ‘Áo Mơ Phai’

https://baomai.blogspot.com/
Nguyễn Đình Toàn
“Tình ca, những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời nhất của một đời người bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó: một quê hương, một thành phố, nơi người ta đã yêu nhau. Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta. Em đâu ngờ, anh còn nghe vang tiếng em trong tất cả những tiếng động ngù ngờ nhất của những ngày sung sướng đó. Tiếng gió may thổi trên những cành liễu nhỏ, tiếng những giọt sương rơi trên mặt hồ, tiếng guốc khua trên hè phố, ngần ấy thứ tiếng động ngân nga trong trí tưởng anh một thửa thanh bình nào, bây giờ đã gần im hơi, nhưng một đôi khi vẫn còn đủ sức làm ran lên trong ký ức một mùa Hè háo hức, một đêm mưa bỗng trở về. Gió cuốn từng cơn nhớ, anh bỗng nhận ra, anh vẫn còn yêu em, dù chúng ta đã xa nhau như hai thành phố.”
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn mở đầu như thế, trong chương trình “Nhạc Chủ Đề Tình Ca Quê Hương” do anh phụ trách hàng tuần vào mỗi tối Thứ Năm trên làn sóng Đài Phát Thanh Sài Gòn trước năm 1975.
Giọng Bắc, sang, trầm, buồn, tác giả “Áo Mơ Phai” đã làm say đắm lòng người với hàng trăm buổi tối “Nhạc Chủ Đề”. Thuở ấy, nhiều người, bận gì thì bận, tối Thứ Năm cũng phải về để bắt kịp Nguyễn Đình Toàn:“Chiều đang xuống trên đường về, mệt mỏi giăng mắc quanh tôi, như vòng tay của tình yêu quyến rũ. Sương lam buông kín trên ngọn cây như khói của buổi chiều đang thắp hương cầu nguyện. Tôi yêu em như con ong say mật ngã vào lòng bông hoa. Tình yêu giống như cái chết nuốt trôi tất cả. Trong đám cỏ may, tiếng gió nào đang khóc và trên trời, những đám mây bay giống như những kẻ bại vong. Chiều trở về trong nỗi tiếc thương. Lòng ta ta không hiểu nữa là ai thấu hiểu. Hỡi em, tình yêu giống như cái chết, nuốt trôi tất cả. Đêm bắt đầu trải dài dưới bước chân đi, sao trên cao nín thở đếm thời gian, trăng ẻo lả bơi trong đêm chìm lặng. Hỡi em, tình yêu giống như cái chết, nuốt trôi tất cả.”
***
Một buổi chiều cuối năm, đến thăm tác giả “Áo Mơ Phai”.
Bước ra khỏi xe, ngước nhìn lên căn nhà trọ, đã thấy bóng anh hắt qua khung cửa sổ. Anh nhìn xuống, tôi đoan chắc là anh chỉ thấy thấp thoáng bóng người từ xa. Mắt anh đã mờ, vì khói bụi cuộc đời – và cả tình người – kể từ ngày thoát khỏi những năm tháng nghiệt ngã trong nhà tù; rồi đặt chân đến Mỹ.
Căn nhà trọ một phòng u ám, anh đứng dậy mở cửa, lưng như trĩu xuống vì sức nặng cuộc đời, lao chao như vừa thoát ra khỏi cái bóng của ngọn đèn vàng vọt trên trần chiếu xuống bàn ăn.
Trở lại chỗ ngồi cố hữu nơi cửa sổ, giọng anh yếu, nhưng vẫn còn hơi hướng Nguyễn Đình Toàn vào mỗi tối Thứ Năm ngày nào. Anh bảo, chán thật, thế mà đã ngoài “tám bó.” Nghe mà giật mình, thoáng chốc anh đã bước vào tuổi 82.
Nhớ những buổi tối Thứ Sáu vừa ra khỏi tù năm 1984, trên căn gác nhà bác Dzoãn Quốc Sĩ, bác gái cho ăn bữa cơm đạm bạc, có anh Nguyễn Đình Toàn, anh Thanh Tâm Tuyền và anh Duy Trác. Chỉ là kẻ hậu bối hàng con cháu, tôi ngồi hóng chuyện những tên tuổi lẫy lừng của làng văn, và học được vô số điều trân quý. Giá lúc ấy anh Toàn đồng ý cùng tôi đào thoát và may mắn như chuyến đi của tôi ít tháng sau đó, anh đã có thể chữa được bệnh mắt. Hỏi anh sao nhất quyết ở lại, anh bảo, nghệ sĩ như cái nhau của thai nhi và quê hương như bà mẹ, một khi cái nhau bị cắt rời khỏi cuống là lúc nguồn nuôi dưỡng trực tiếp đứa bé không còn nữa.
Ngày chia tay anh ở Sài Gòn, thoắt cái đã hơn 30 năm. Rốt cuộc anh cũng đành phải ra đi. Hỏi anh, quê hương trong anh bây giờ ra sao, anh nói “tận cùng của tình yêu chính là nỗi nhớ quê nhà; đôi lứa là quê nhà; hạnh phúc lẫn khổ đau cũng là quê nhà,” rồi anh cho nghe một đoạn anh từng đọc năm nào nơi quê hương giờ đây đã cách xa nửa vòng trái đất: “Ngày đã tàn nhưng mưa chẳng chịu ngừng giây lát, chiều âm u như giấc ngủ không yên. Những cành tre nào lạ ngọt dưới những giọt nước u sầu. Quê hương ở phương nào trong bốn phương mù mịt. Tiếng chim kêu buồn trên những cành cây khô. Ngày sắp tàn cùng với cuộc tình đã rũ áo ra đi. Tình yêu rực sáng như trân châu trong bóng mờ của trái tim ẩn kín đã tắt cùng với ánh sáng thảm thương của một ngày Thu buồn nhưng cũng đủ làm vọng lên trong ta những giây phút hoan lạc của một thời nơi quê nhà yêu dấu. Bên bếp đỏ tro than, em hãy hơ nóng hai bàn tay rét mướt. Ngày gần nhau đã vĩnh viễn xa rồi. Liệu có kiếp nào mai sau cho chúng ta những ngày đầm ấm?”
Hỏi anh giờ này anh mong gì, anh nói, chả biết mình mong gì nữa, “ngày hai bữa nấu cơm cho vợ ăn là đủ hết ngày rồi”, còn mong gì nữa.
Chị Hồng, vợ anh đau bệnh. Mà chính bản thân anh cũng nào khá hơn, anh cũng đã “làm bạn” với tật bệnh từ nhiều năm nay.
Tôi gợi lại anh về “Nhạc Chủ Đề Nguyễn Đình Toàn”, anh nói, chắc chẳng còn bao người nhớ đến; thế hệ trẻ bây giờ, khó cho họ để cảm được cái cảm của một thời vang bóng đó. Tôi nói với anh, dù thế nào chăng nữa thì vẫn phải “gìn vàng giữ ngọc”, vì đó là dấu ấn trong lòng nhiều người trong một giai đoạn tan nát nhất của đất nước.
Hai anh em ngồi với nhau, có những lúc thinh lặng không một lời. Tôi cảm được nỗi cô quạnh đang bủa vây anh. 
Tôi nói, anh cho em nghe thêm đi, những lời thì thầm anh vẫn cất lên vào những tối Thứ Năm xưa cũ.
“Tình chúng ta bắt đầu vào một Thu rất xa xôi, khi những chùm Hoa Thạch Thảo ngát hương trên những lối đi quanh. Mùa Thu bắt đầu trên giòng sông bát ngát. Mùa Thu nhuộm vàng những cách rừng. Mùa Thu với áo mơ phai, chiều võ vàng, với xác hoa trên mình bướm. Em đã đến với anh như đám mây Tháng Bảy nặng mưa rào. 
Em hãy đừng quên, dù bây giờ mùa Thu đã chết. Những mùa Thu khác có thể trở về nhưng mùa Thu của chúng ta đã chết. Anh không bào giờ quên những ngày sung sướng, hạnh phúc đó. Đừng quên nhau, dù đôi chúng ta chẳng còn tao phùng được nữa.”
“Hãy cầu nguyện cho tình ta dù một ngày tình đã vỡ tan. Cầu nguyện cho sự yên vui hằng cửu của mỗi người. Cầu nguyện cho sự tình cờ sầu hận đã đưa chúng ta đến với nhau. Khi em bước ra khỏi đời, anh chỉ còn hai bàn tay không với những chuỗi ngày cô quạnh. Đời có người khôn ngoan, có kẻ dại khờ. Có những đôi mắt cười, có những đôi mắt khóc. Riêng trong mắt anh, có điều gì như đang tan trong lòng. Em làm sao hiểu được từ ngày em bỏ đi, anh đã rã mục dưới gánh nặng của trái tim. Có những người tiến xa trên đường đi, có những kẻ lẽo đẽo theo sau. Có người tự do, có người tù túng. Riêng anh đứng lại rã rời dưới gánh nặng u buồn của trái tim mình.”
“Em có nhìn thấy mây giăng kín buổi chiều, nhìn thấy giòng sông trôi. Ngày đã muộn và con thuyền đã theo sóng trôi xa. Em có nhìn thấy mây giăng kín bầu trời, nhớ lại những ngày chúng ta còn gần nhau. Những trận gió từ phương Nam thổi về lòng anh đầy nỗi nhớ nhung. Anh không thể nào nhớ chúng ta đã xa nhau giữa mùa Xuân hay mùa Hè. Bởi vì mắt anh đã tràn ngập sương lam mỗi lần nhớ tới em, mỗi lần anh dõi theo chân trời nơi anh tưởng rằng có em. Ôi! ngôi mộ của bình minh nơi em cư ngụ. Anh muốn tan thành giòng nước cuốn trôi đến nơi mênh mông cô quạnh ấy. Anh muốn được cùng em tan trong ánh sáng rạng rỡ của ngày bắt đầu, và được cùng em, hòa trong ánh chiêu dương khi chiều trở lại.”
Khói thuốc tỏa ra từ cái tẩu, anh chìm trong hoài niệm và như đang bềnh bồng trên đôi cánh chim bay về cố hương. Anh bảo, để anh đọc cho chú nghe bài thơ anh viết ở Sài Gòn năm 1984. Bài “Tro Tàn”:
https://baomai.blogspot.com/
https://baomai.blogspot.com/
https://baomai.blogspot.com/ 
https://baomai.blogspot.com/ 
https://baomai.blogspot.com/
Nhìn những thùng sách chất chồng trong căn phòng hẹp của anh, tôi hỏi, “Nguyễn Đình Toàn tiểu thuyết 1 và 2” có được độc giả chú tâm không, anh cười nhưng không dấu được chua chát: “cứ xem đây là lần in cuối cùng dành tặng bằng hữu”.
Ngồi chơi với anh rồi cũng phải về. Anh đóng cánh cửa sau lưng tôi và nói vói theo: “Đã thấy ta gần với cái xa.”
Câu thơ này, anh đã đọc cho tôi nghe hôm đám tang Nhạc sĩ Nhật Ngân buổi sáng Mùng Sáu Tết năm nào.
Theo đoàn người sau quan tài, đi ngang nơi an nghỉ của Nhà báo Đỗ Ngọc Yến, anh Toàn ngồi xuống bãi cỏ trước mộ phần anh Yến, đọc cho nghe trọn bài thơ “Đã Nghe”:
https://baomai.blogspot.com/
https://baomai.blogspot.com/
https://baomai.blogspot.com/
https://baomai.blogspot.com/
Rời căn phòng trọ của tác giả “Áo Mơ Phai”, ngoái lại nhìn thấy dáng anh xiêu đổ.
Đêm California se lạnh, trong đầu bỗng vang lên câu cuối của bài thơ: “Hay tự lòng ta lấp lối về”.
***
https://baomai.blogspot.com/
Nguyễn Đình Toàn sinh ngày 6 tháng 9 năm 1936 tại huyện Gia Lâm, bên bờ sông Hồng, ngoại thành Hà Nội. Di cư vào Nam 1954, Nguyễn Đình Toàn bắt đầu viết văn làm thơ, viết kịch, viết nhạc, cộng tác với các tạp chí Văn, Văn Học (trong nhiều năm, Nguyễn Đình Toàn phụ giúp Trần Phong Giao tuyển chọn thơ và truyện cho báo Văn); Nguyễn Đình Toàn cũng viết feuilleton cho các nhật báo Tự Do, Chính Luận, Xây Dựng, Tiền Tuyến; biên tập viên đài phát thanh Sài Gòn, nổi tiếng với chương trình Nhạc Chủ Đề trong những năm 1970s. Sau 1975, cùng chung số phận như mọi văn nghệ sĩ Miền Nam, Nguyễn Đình Toàn bị bắt hai lần và đi tù cải tạo một thời gian gần sáu năm. Sang Mỹ định cư từ cuối năm 1998, Nguyễn Đình Toàn và vợ, chị Thu Hồng cùng phụ trách chương trình Đọc Sách cho đài phát thanh VOA, Nguyễn Đình Toàn còn viết cho tuần báo Việt Tide mục Văn Học Nghệ Thuật của nhà văn Nhật Tiến cho tới khi nghỉ hưu. Gia đình Nguyễn Đình Toàn hiện sống tại Nam California.
Tác phẩm đã xuất bản:
https://baomai.blogspot.com/
Văn: Chị Em Hải (truyện, Nxb Tự Do 1961); Những Kẻ Đứng Bên Lề(truyện, Nxb Giao Điểm 1974); Con Đường (truyện, Nxb Giao Điểm 1965); Ngày Tháng (truyện, Nxb An Tiêm 1968); Phía Ngoài (tập truyện, viết chung với Huỳnh Phan Anh, Nxb Hồng Đức 1969); Đêm Hè (truyện, Nxb Hiện Đại 1970); Giờ Ra Chơi (truyện, Nxb Khai Phóng 1970); Đêm Lãng Quên (Nxb Tân Văn 1970); Không Một Ai (truyện, Nxb Hiện Đại 1971); Thành Phố (truyện, Nxb Kẻ Sĩ 1971); Đám Cháy (tập truyện, Nxb Tân Văn 1971); Tro Than (truyện, Nxb Đồng Nai 1972); Áo Mơ Phai (truyện, Nxb Nguyễn Đình Vượng 1972); Đồng Cỏ (truyện, Nxb Đồng Dao/ Úc châu 1994).
Thơ: Mật Đắng (thơ, Nxb Huyền Trân 1962).
Kịch: các vở kịch của Nguyễn Đình Toàn đều là kịch truyền thanh, trừ Cơn Mưa được trích đăng trong bộ môn Kịch Văn Học Miền Nam của Võ Phiến, những bản thảo khác đều thất lạc.
Nhạc: Hiên Cúc Vàng (tập nhạc, 1999); Tôi Muốn Nói Với Em (tập nhạc, 2001); Mưa Trên Cây Hoàng Lan (tập nhạc, 2002).
Ký: Bông Hồng Tạ Ơn I & II (Nxb Đêm Trắng 2006, 2012).
Áo Mơ Phai đoạt giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật 1973.
Đinh Quang Anh Thái
Phó Nhòm U Minh gởi

NGƯỜI KITÔ HỮU CHUẨN BỊ ĐÓN NOEL

NGƯỜI KITÔ HỮU CHUẨN BỊ ĐÓN NOEL       

    Người Kitô hữu có hai ngày đáng ghi nhớ nhất: đó là lễ Giáng Sinh và lễ Phục sinh.  Trước hai ngày lễ trọng đại đó có Mùa Vọng và Mùa Chay để chuẩn bị.  Người Kitô hữu Việt Nam chuẩn bị thật rốt ráo.  Chẳng hạn như chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, thì bên ngoài lăng xăng lo làm hang đá, đèn đóm, tượng ảnh, cây thông, băng nhạc, băng video….  Bên trong lo quét dọn chùi bóng: xưng tội.  Vậy là có cả bên trong và bên ngoài, tốt quá đi chứ, còn chê vào đâu được.

            Thế nhưng, nếu cứ như thế năm này qua năm khác và chỉ có thế thôi, thì lối sống đạo như vậy đã an tâm được chăng ?

            Vấn đề xưng tội có vẻ như chỉ chờ đến ngày này mới ào ào đổ xô đi xưng tội.  Chen lấn, xô đẩy, giành giật, cãi vã, la mắng nhau om sòm, chạy sang tòa này chạy tới tòa kia lạch bạch như… vịt.  Bởi thế, nên có cả tội mới toanh vì vừa mới phạm: đó là tội chen lấn chửi nhau trước khi vô tòa.  Đúng là tội còn nóng hổi vừa thổi vừa xưng.

            Tôi nhận định thấy là tất cả đều vội vàng, từ cha đến con, từ già đến trẻ, ai ai cũng sốt ruột, ai ai cũng muốn cho mau, cho xong, cho yên cái lương tâm sún răng… nên cần dốc hết dốc cạn ra.

            Phần linh mục cũng muốn giải quyết số lượng chồng chất quá tải đó nên cần vắn tắt, đúng công thức thuộc lòng, nhanh nhanh một chút cho nhẹ gánh bởi vừa giải tội vừa lo giữ trật tự, đôi khi phải có bộ mặt hình sự, đôi khi phải quát.  Tội gì thì cũng phải tha và cho việc đền tội chẳng biết bao nhiêu cho đủ, nhiều lúc cũng muốn nói ít lời, khuyên nhủ đôi câu, nâng đỡ đôi điều nhưng cứ thấy cái đuôi rồng rắn dài cả cây số mà nghẹn cả cổ, cố làm sao cho các toa tầu lửa mau rút ngắn lại, mà cái đầu tầu càng sốt ruột thì lại càng thấy lần lần được chắp nối thêm toa.  Các toa chắp nối vào rất từ từ nhưng lại rất khốc liệt.

            Phần tín hữu thì bá nhân bá tánh, đủ mọi kiểu xưng tội, đủ mọi thứ kể lể, đủ thứ mở đầu và kết thúc.  Tội to tội bé, tội nặng tội nhẹ tội trên trời tội dưới đất, tội địa ngục… chờ đến ngày này mới “xả” ra.  Người vài tháng, người ít năm, người lâu năm.  Người kể lể tỉ mỉ, người kể đại khái, người nói ít lần, người nói nhiều lần, người không nhớ ít hay nhiều nữa.  Người kề cà xin lời khuyên lời răn, người nhấp nhổm chưa xong đã chạy, người nín hơi kể một lèo tuồn tuột, người ngâm nga ê a thưa gửi.  Người kể tội người khác, người chưa kể đã biện hộ.  Người thở hơi rượu, người thở hơi thuốc lào, người thở hơi hôi thối, người thở hơi ngai ngái.  Người giọng Bắc, giọng Nam, giọng Trung, trầm bổng đủ mọi thứ giọng…  Cả là một bi kịch diễn ra trong vội vàng, ai cũng muốn cho xong cho qua.  Cũng trong ngày này cũng có người thích xưng tội ngoài giờ, ngoài luồng không biết có phải ngại xếp hàng, ngại chen lấn, sợ mất thời giờ  không?  Họ có những lý do như con bệnh, nhà xa, mới đi làm về, mai phải đi xa, xếp hàng suốt sáng đến giờ mà chưa được xưng…?  Ra nhưng không xưng tội được là không xong, không nhẹ mình, không mừng lễ?  Ôi!  Mừng lễ Giáng Sinh mà như sắp tận thế?

            Giáo Hội xếp đặt những lễ quan trọng, nhắc nhở những biến cố trọng đại đó có ý nghĩa gì, muốn dậy dỗ khuyên nhủ tín hữu điều gì?  Nếu chỉ có kiểu sống đạo niềm tin như tín hữu có thói quen “tốt lành” giữ xưa nay thì có đánh mất ý nghĩa chính của những biến cố trọng đại ấy không?  Và chỉ dừng ở đó là đủ sao?  Là đạt phần rỗi, là tót vào nước trời thẳng cẳng ru?

            Có thắc mắc hỏi tại sao để đến ngày này mới tẩy uế linh hồn cách dồn dập như thế?  Họ trả lời Giáo Hội làm những “cái cột mốc” để tín hữu có thời gian tính sổ trả nợ.  Có bày ra như thế mới tạo dịp nhắc nhớ cho họ, kêu gọi họ, bắt ép họ.  Mùa Thường Niên là mùa thoải mái, mùa thênh thang tự do, mùa tối tăm mắt mũi vào công ăn việc làm, sô bồ giành giật, lọc lừa, dối gian… chơi bời thỏa thuê.  Tội lỗi xếp đấy chẳng áy náy, chẳng buồn nghĩ, chẳng hơi sức đâu mà lo nghĩ đến đạo.  Chờ đến ngày tính sổ “nộp thuế” thì dồn dập ào ào như thế mới bớt sợ, bớt run vì mình chỉ là phần tử nhỏ nhoi trong cái khối khổng lồ ấy, chẳng ai thèm để ý đến mình, chẳng linh mục nào muốn bắt bẻ mình, chẳng vị nào biết tông tích gốc rễ đời mình dù tội mình có tầy trời.

            Người mục tử và đoàn chiên, sao mà kỳ quặc dễ sợ?  Sao không có những phút giây thanh thản bình an bên nhau để sửa đổi, để chia sẻ, để hướng dẫn trong thân tình mặn mà, nồng ấm đạt tới một đời sống đức tin chân thật?  Đi vào cuộc gặp gỡ, sống mối tương quan, sự gắn bó kết hiệp mật thiết với Chúa trong cái thường ngày để chan hòa vào đời sống cho cuộc sống mình và tha nhân tốt đẹp, sạch sẽ, lành mạnh hơn.  Như thế đâu có phải là chuyện trên mây trên gió?  Đâu có phải là chuyện viễn vông không tưởng?  Sống với một thế giới vật chất dồn dập, đời sống tâm linh cũng chẳng khá hơn.  Do đó, ra như giữa chủ chăn và con chiên, ai cũng bận rộn, hoặc còn ái ngại hoặc có một khoảng cách nào đó nên không có thì giờ để gặp gỡ để chia sẻ niềm tin.

            Với nếp sống đạo như thế đó, Nước Trời vẫn xa lắc xa lơ, thiêng liêng và trần thế vẫn cứ tách rời nhau, nhà thờ và gia đình không có dính dáng, đọc kinh và việc làm chẳng ăn nhập.  Chung cuộc, mong gặp được linh mục ở giây phút cuối cùng của cuộc đời này là may mắn, là số hên, là trúng độc đắc, đúng không?

           Tấm lòng ở đâu?  Tình yêu ở đâu?  Lòng xót thương của Chúa ở đâu?  Hẳn còn xa tít mù khơi chăng?  Để những ngày Mùa Vọng Chúa vất vả lo giải quyết, thanh toán, còn Mùa Thường Niên ngồi chơi xơi nước, khỏe re.  Sống đạo theo mùa, theo thời tiết, có mùa nghỉ chơi với Chúa, có mùa phải tính sổ.  Nhìn cảnh sống đạo đang diễn ra cũng là cái chúng ta thấy được chúng ta đang nhào nặn lên một ông thiên chúa cho kiểu sống đạo của chúng ta.  Thế đấy!  Tôi viết ra đây cũng chẳng phải ngon lành gì hơn ai.  Nhưng chúng ta can đảm nhìn lại, đặt lại cách sống đạo để Thiên Chúa, Người còn có cơ hội dậy chúng ta khám phá nhiều điều mới mẻ, sâu rộng hơn…

            Trong đời sống âm thầm trầm lặng mỗi ngày, Chúa vẫn sinh ra và lớn lên trong tâm hồn.  Ngài đã sinh ra nơi cánh đồng hoang vu thanh vắng, trong hang đá bò lừa tối tăm hôi hám, Ngài đã không bịt mũi xua tay, thì tâm hồn rách nát mỗi người Ngài cũng không ngần ngại mà hiện diện ở đó.  Nếu nhận thức được như thế thì phải chăng ngày nào cũng là ngày lễ Giáng Sinh vui vẻ và mùa nào cũng là mùa xưng tội.  Yêu thương và tha thứ.

Mong Manh

From Langthangchieutim

Khổng Tử giảng: “Vua quan mất tín thì nước suy vong”. Vậy “tín” là gì? Người xưa “tín” như thế nào?

Khổng Tử giảng: “Vua quan mất tín thì nước suy vong”. Vậy “tín” là gì? Người xưa “tín” như thế nào?

Trong quan niệm truyền thống, Đạo gia giảng làm người phải “chân”, cuối cùng tu thành chân nhân. Phật gia cũng dạy con người không được nói dối. Nho gia giảng “tín”, lời một khi nói ra phải có sự thủy chung trước sau như một.

 

 

 

 

 

 

 

 

(Hình minh họa: Qua caroki.com)

Vậy thế nào là “tín”? Vì sao con người phải có “tín”? Và người xưa coi trọng “tín” như thế nào?

Thế nào là “tín”?

Xét theo chữ Hán thì “Tín” (信) là chữ Hội ý. Nó được cấu tạo bởi chữ “Nhân” (人) và chữ “Ngôn” (言). Ý nghĩa nguyên gốc của chữ “Tín” là thật lòng thật ý, trước sau như một, không thay đổi. Lời nói của con người phải là thành thật, trung thực, không hư hão, giả dối.

“Ngôn” ((言) là chữ Chỉ sự (một trong 6 cách tạo chữ Hán). Trong thể chữ Giáp Cốt, bên dưới của chữ “Ngôn” là hình cái lưỡi, biểu thị rằng lời nói là theo lưỡi mà xuất ra.

Trong “Thuyết văn giải tự” viết: “Trực ngôn viết ngôn, luận nan viết ngữ”, ý nói rằng trong tâm mà nghĩ cái gì thì trực tiếp nói rõ ra, như thế mới được gọi là ngôn. Còn những lời suy luận, biện luận, chất vấn… thì được gọi là “ngữ”.

Trong “Pháp ngôn nghĩa sơ” viết: “Ngôn, tâm thanh dã”, tức lời là tiếng nói của tâm. Nếu một người “nghĩ một đằng nói một nẻo”, nói lời giả dối thì khẳng định là sẽ không có uy tín.

Trong “Thi. Vệ phong. Manh” cũng viết: “Tín thệ đán đán” (lời thề son sắt). Thời cổ đại, người ta một khi nói ra lời thề quyết sẽ giữ lời, nên mới có câu “lời nói gói vàng”.

Vì sao con người phải có “tín”?

 

 

 

 

 

 

 

(Hình minh họa: Qua kknews.cc)

“Tín” không chỉ là thước đo của tu dưỡng mà còn là tiêu chuẩn của chính nhân quân tử, là nguyên tắc xử thế cần phải có của người cổ đại. Người có thể thủ tín thì mới được người khác kính trọng.

Khổng Tử đem “Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” làm ngũ thường (năm đạo thường của con người lúc nào cũng phải có, không thể thiếu được). Trong đó, giữa người với người nhất định phải có “thành tín”. Đây cũng là một trong những đạo đức tốt đẹp của con người.

Khổng Tử giảng: “Nhân nhi vô tín, bất tri kì khả”, ý nói người mà không có “tín” thì không làm nổi việc gì. Đối với một cá nhân “tín” quan trọng như vậy, còn đạo lý cai trị đất nước thực ra cũng tương tự như thế.

Học trò của Khổng Tử là Tử Cống từng hỏi rằng: “Thưa thầy, thầy chỉ giáo cho con về biện pháp trị quốc”.

Khổng Tử nói: “Một là làm cho dân chúng được cơm no áo ấm. Hai là đất nước có quân đội cường mạnh. Ba là lấy được tín nhiệm của thần dân”.

Tử Cống hỏi: “Thưa thầy! Nếu bất đắc dĩ phải bỏ đi một điều kiện trong ấy, thì nên bỏ điều kiện nào trước ạ?”

Khổng Tử nói: “Xóa bỏ quân đội!”

Tử Cống lại hỏi: “Thưa thầy! Nếu như phải bỏ thêm một điều kiện nữa…?”

Khổng Tử trả lời: “Bỏ đi ăn no mặc ấm. Thà rằng không được ‘ăn no mặc ấm’, chứ nhất định phải bảo trì chữ tín. Bởi vì, nếu không được dân chúng tín nhiệm thì đất nước sớm hay muộn cũng sẽ tiêu vong.”

Bởi vậy, có thể nói “tín” là cái gốc để lập thân, lập nước. Người mất “tín” thì không làm nổi việc gì, dân chúng mất “tín” vào người cai trị thì đất nước suy vong.

Người xưa “tín” như thế nào?

 

 

 

 

 

 

 

 

(Hình minh họa: Qua kknews.cc)

Có một câu chuyện nổi tiếng về giữ chữ tín trong lịch sử như thế này:

Quý Trát tên thật là Cơ Trát, là con út của vua Ngô vương Thọ Mộng, là người mà Khổng Tử ngưỡng mộ nhất.

Năm 544 trước Công nguyên, Quý Trát phụng mệnh triều đình đi viếng thăm nước Lỗ. Ông có mang theo một đoàn tùy tùng và xuất phát từ thủ phủ của nước Ngô. Lúc họ đến nước Từ, chứng kiến cảnh dân chúng an cư lạc nghiệp, cuộc sống giàu có thì trong lòng họ rất ngưỡng mộ.

Quý Trát nói: “Vua nước Từ trước nay nổi tiếng là dùng nhân nghĩa đối đãi với dân chúng, hôm nay được chứng kiến điều này, quả là danh bất hư truyền!”

Vì thế, Quý Trát liền nảy sinh ý muốn tới thăm hỏi vua nước Từ một chút để bày tỏ lòng ngưỡng mộ của mình. Vua nước Từ sớm đã được nghe danh tiếng về tài đức của Quý Trát. Hôm nay lại đặc biệt được Quý Trát ghé thăm nên trong lòng ông rất vui mừng phấn khởi. Ông vội vàng sai tôi tớ tổ chức yến tiệc để chiêu đãi. Hai người họ nói chuyện thật vui vẻ. Vua nước Từ rất thích thanh bảo kiếm mà Quý Trát đeo trên người, mấy lần ông muốn nói nhưng lại không tiện mở miệng.

Quý Trát là người thông minh nên chỉ liếc mắt đã hiểu thấu lòng vua nước Từ. Trong lòng Quý Trát cũng muốn tặng lại thanh bảo kiếm cho vua nước Từ. Nhưng đột nhiên ông lại nghĩ: “Mình mang theo bảo kiếm đi sứ nước khác, là một sự tôn trọng lại càng là lễ tiết. Nếu bây giờ đem bảo kiếm tặng lại cho vua nước Từ thì chẳng phải là bất kính với vua nước Lỗ sao?” Nghĩ như vậy nên Quý Trát đã từ bỏ ý nghĩ tặng bảo kiếm cho vua nước Từ. Nhưng ông cũng đã tự hứa hẹn với lòng mình rằng: “Đợi lúc đi nước Lỗ trở về, nhất định ta sẽ tặng lại thanh bảo kiếm này cho vua nước Từ.”

Từ biệt vua nước Từ, Quý Trát lại dẫn đoàn người hướng về nước Lỗ. Sau khi tới nước Lỗ, ông cũng được quốc vương nước Lỗ nhiệt tình đón tiếp và chiêu đãi. Quý Trát cũng dựa vào tài hoa và trí tuệ của mình khiến cho người dân nước Lỗ bội phục và yêu kính.

Sau khi nán lại ở nước Lỗ hơn một năm, Quý Trát bắt đầu trở về nước. Ông cũng không quên lời hứa tặng thanh bảo kiếm cho vua Từ mà ông đã giữ trong lòng hơn một năm qua. Lúc đi ngang qua biên giới nước Từ, ông quyết định vào thăm vua Từ để thực hiện lời hứa của mình. Nhưng, khi đến nơi ông lại nhận được một tin tức bất hạnh, đó là vua nước Từ đã tạ thế.

Lúc này, Quý Trát cảm thấy vô cùng hối hận và đau khổ. Ông cởi thanh bảo kiếm ra và tặng lại cho người kế thừa của vua Từ. Đoàn người tùy tùng đi theo ông vội ngăn cản và nói: “Thanh bảo kiếm là quốc bảo của nước Ngô. Sao ngài có thể tùy tiện đem tặng cho người khác? Huống hồ bây giờ vua Từ cũng đã qua đời, thì cần gì phải tặng cho người thừa kế?”

Quý Trát nghe mọi người nói vậy liền trả lời: “Lần trước trong lúc nói chuyện cùng với vua Từ, ta không tặng bảo kiếm cho ngài là vì ta còn phải có nhiệm vụ đi sứ nước Lỗ. Nhưng trong lòng ta sớm đã hứa sẽ tặng nó cho vua Từ rồi. Đã hứa rồi, sao có thể vì vua Từ đã mất mà lừa gạt lương tâm của mình đây? Hơn nữa, ta là công tử và sứ giả mà lại không coi trọng chữ tín. Nếu như điều này truyền đi thì đâu còn mặt mũi nào mà đối mặt với mọi người? Người khác sẽ nhìn chúng ta như thế nào?”

Lúc ấy, người kế thừa của vua Từ cũng từ chối không nhận mà nói: “Ta không có di mệnh của người đã mất, nên không dám tiếp nhận thanh bảo kiếm này.”

Thế là, Quý Trát liền đem thanh bảo kiếm treo trên cây liễu trước mộ của vua Từ. Hành động này của ông khiến thần dân nước Từ ai ai cũng ngợi ca. Họ còn sáng tác một ca khúc để ca tụng về ông. Cũng từ đó câu chuyện “Quý Trát treo kiếm” được lưu truyền cho đến nay như một bài học về giữ chữ tín của người xưa.

An Hòa

PHẢI HIỂU NGƯỢC!

From:   Ngô Trường An‘s post.
 
Image may contain: 1 person, eyeglasses and text
Ngô Trường AnFollow

 

PHẢI HIỂU NGƯỢC!

Diêm Vương đi tuần quanh địa phủ, thấy 2 đứa bé gái ôm nhau khóc lóc thảm thiết, Ngài vội lại gần tra hỏi:
– Các cháu kia, có chuyện gì oan ức mà khóc tức tưởi như thế? Nào, con bé này, nói ta nghe.
– Dạ con bị họ hiếp dâm, vì quá uất ức nên con tự tử chết ạ.
– Úi chà! Khổ thân cháu! Thế còn cháu kia, cháu cũng tự tử à?
– Dạ không ạ, con bị họ hiếp dâm xong rồi giết luôn ạ.
– Thế con được mấy tuổi rồi?
– Dạ 7 tuổi ạ.
– Ối ,Thiên la địa võng ơi! Mới 7 tuổi mà bị hiếp dâm à?
Qủy sứ đứng bên vòng tay thưa:
– Dạ bẩm ngài! 7 tuổi là lớn rồi đó ạ. Con nghe nói trên đó các cháu 1-2 tuổi cũng bị hiếp dâm nhiều lắm ạ.
– Hừm! Sao ta nghe ông quan nào trên đó nói: «Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta?»
– Dạ, nếu ngài nghi ngờ thì con xin đọc bài báo TN ra ngày 26.7.2017 đây ạ: « trong 5 năm từ 2012-2016 cả nước có 8100 vụ xâm hại trẻ em, trong đó có hàng trăm trẻ em dưới 6 tuổi. Và riêng 6 tháng đầu năm 2017 đã xảy ra 805 vụ xâm hại trẻ em. Bình quân 2 ngày thì có 9 vụ xâm hại tình dục trẻ em».
Đây chỉ mới nói về xâm hại tình dục chứ chưa thống kê về bạo hành đâu ạ.
– Bạo hành là sao?
– Dạ, đó là đánh đập, tra tấn, bỏ đói, bóp cổ, nhận nước, xát ớt vô miệng….. Nhiều kiểu lắm. Nếu ngài muốn hiểu rõ hơn thì hỏi các bảo mẫu giữ trẻ đấy ạ.
– Quái! Xâm hại, bạo hành như rươi thế sao tên quan đó nói chăm lo tốt là sao?
– Dạ, bọn quan lại trên đó từ thằng nhỏ đến thằng to. Chúng nó nói cái gì thì ngài chỉ cần hiểu ngược lại là đúng thôi ạ.
– À! Thì ra là vậy!

Nói ra sợ mất lòng em,

Suy Tư Tin Mừng tuần thứ 3 mùa Vọng năm B 17/12/2017

Tin Mừng (Mc 1: 1-8)

 Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa:

Trong sách ngôn sứ Isaya có chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.”

Đúng theo lời đó, ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan.

Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ông rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.”

Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do-thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Kitô.” Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không? ” Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không.” Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.24 Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisêu. Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” Ông Gioan trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.

&   &    &

“Nói ra sợ mất lòng em,”

“Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa.”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Nhà thơ vì sợ mất lòng, nên không nói. Vì có nói ra, thì lòng mình nay cũng mất. Nhà Đạo tuy có lòng nhưng không sợ mất. Có sợ chăng, chỉ sợ mất tính chân phương, lành thánh rất đích thật, Tin Mừng theo thánh Gioan nay nói về tính chân phuơng chốn quê mùa, của Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy Giả rất thánh, ngoài tính đơn sơ chân thật của đấng bậc ở quê làng/đồng nội còn là nhân chứng cho công trình Nhập thể của Chúa, nữa.

Tin Mừng thánh Gioan viết, ngoài tính chất thấy rất rõ ở lời tựa, còn là bài chia sẻ/giảng dạy ở đền thờ để người người dựa vào đó mà suy tư các bài đọc ở Cựu Ước. Thoạt khi mới đọc, người người tưởng như nghe lại truyện kể rất xưa/cũ nay áp dụng vào với thời đại mình sống, với dụng đích để ta, người đọc kinh ngạc rồi thức tỉnh và hiểu biết việc Chúa làm. Tin Mừng còn kể về trình tự sáng tạo trời đất để dẫn giải ý nghĩa rất căn nguyên của bản văn súc tích, chất đầy nhựa sống.

Dẫn giải Kinh Sách Cựu Ước về công trình sáng tạo trời đất, thánh sử Gioan ghi lại đoạn sách Châm Ngôn coi Đức Khôn Ngoan như người thành thân và thành nhân. Văn phong đoạn sách về Đức Khôn Ngoan ra như có trước Đạo của người Do thái. Bởi, Sách này xuất tự thế giới Do thái, có những điều được xác định:“Đức Chúa dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Ngài, trước mọi công trình của Ngài từ ngàn xưa”(Cn 8: 22). Thêm vào đó, sách Châm Ngôn nói Đức Khôn Ngoan hiện diện với con người bằng khẳng định: “Đức Khôn Ngoan xuất hiện trên trái đất và lưu lại ở với con người”.

            Cũng nên hiểu, Đức Khôn Ngoan đến với thế giới gian trần trước thời Chúa tới. Nhưng, vẫn không được đón nhận dù Đức Khôn Ngoan là Ánh sáng cho muôn dân. Thế nên, Ngôi Lời Nhập Thể là cách Chúa dùng vào việc chỉnh sửa vấn đề này. Đây là tính độc đáo của Tin Mứng theo thánh Gioan.

Thật ra, thánh sử Gioan mượn ý và lời về Đức Khôn Ngoan là từ các học giả Do thái để nói rằng thánh sử không tạo ra Đức Khôn Ngoan hoặc Ngôi Lời Nhập Thể, mà thánh sử chỉ tạo nên tính độc đáo cho Tin Mừng mình đã viết, qua khẳng định:“Lời đã thành xác phàm và lưu lại nơi chúng tôi” (Ga 1: 14)

Giáo huấn của Đạo khởi sự ngay từ đây. Thánh sử Gioan lại quả quyết: Đức-Khôn-Ngoan-Ngôi-Lời đã từ trời nhập thể với Đức Giêsu. Từ đó, trở thành ánh sáng rất huy hoàng, làm Bậc Thày Dạy Nhân Hiền về thời ấu thơ của Chúa đến với nhân trần. Với thánh sử, đây là lý do khiến Chúa thành phàm nhân, rất Khôn Ngoan.

Khi xưa, Môsê là bậc thày cao cả của Do thái. Ông giảng dạy cho chúng nhân bằng Luật Torah. Còn, Đức Giêsu hoàn thành sứ vụ của Môsê bằng xương thịt Ngài qua mầu nhiệm nhập thể và nhập thế. Luật Torah chỉ cần đến bậc giảng dạy tốt lành, thôi. Còn, Ngôi Lời Nhập Thể là Bậc Thày Đích Thật chuyên giảng và dạy về công trình Cứu Độ của Chúa bằng xương thịt cùng máu mủ của Người Con Chúa. Qua Môsê, Chúa dùng bản Luật Torah, để người người hiểu được Ngài. Và qua Đức Giêsu, Ngài gửi đến dân gian chất giọng Ngài nhập thể nơi xác phàm và miệng của Chúa.

Ngôi Lời Nhập Thể là Vị Thầy Dạy rất tốt lành. Là, Đấng Giảng Dạy thành tựu hơn cả lời lẽ, với chữ viết. Ngài là sự Khôn Ngoan có kiến thức rất sách vở nhờ công trình Nhập Thể nay thành hiện thực. Chính Đức-Khôn-Ngoan-bằng-xương- bằng-thịt nay tạo nên sự khôn ngoan cho chúng nhân có thịt cùng xương máu ngõ hầu tỏ bày ý nghĩa để người người hiểu, bằng vào phạm trù của chính mình.

Nhờ thế, dân con Đạo Chúa mới xác tín được điều này và rồi sẽ cùng thân mình Chúa đề ra nhiều điều mới mẻ để người người ở xã hội có thể trở thành người thật. Tất cả tin rằng tính chất rất “người” của con người nay trở thành nôi ấm tình nồng để Chúa Nhập Thể và nhập thế. Và nhờ đó, họ sẽ tin: sự sống mới đến với nhân gian loài người, nhờ Đức Giêsu tái lập và định hình những gì liên quan đến bản thể người của con người.

            Đức Giêsu Nhập Thể, là Khởi Đầu rất khác biệt của nhân loại nay nhân rộng, ngõ hầu họ làm được những gì mà trước đó người trần không thể làm. Sự Sống của Ngài là Khởi đầu. Là, Quà tặng. Là, sự Thành Tựu cho mọi thành tựu. Tổng trấn Philatô khi dẫn Đức Giêsu trình diện dân Do thái ông đã có câu nói để đời: “Này là Người!”. Câu này phải hiểu: điều ông nói mang ý nghĩa một khẳng địnhNày là nhân loại đổi mớiLà nhân sinh rất mới, của con người!”      

            Nhờ Nhập Thể, ta có được sự thân mật cần thiết chưa từng có giữa Thiên Chúa và loài người. Nhờ Nhập Thể, người người đã mở rộng đất cho sự sống mới để dân con nhờ đó mà sống sinh động. Nhờ Nhập Thể, Thiên Chúa đối xử với con người như Người Cha Nhân Hiền. Và nhờ đó, tất cả chúng ta được sáng tạo theo cung cách “sống ở nhà”, nghĩa là: cung cách của con trẻ “ở với cha mẹ” theo nghĩa Chúa Giêsu vẫn từng làm với Cha Ngài. Và theo nghĩa Thiên Chúa “ở tại nhà” với Đức Giêsu.

Kết quả là, nhân loại nay có được sự tự do để sống với Chúa. Thứ tự do chưa ai tưởng tượng nổi, hoặc nghĩ ra. Tự do, vì mình sẽ không còn hãi sợ điều gì. Tự do, vì mình có thể tin vào ai đó, cũng tự do. Và, kết quả là: ta có sự tự do sờ chạm, chữa lành và tha thứ cho nhau như Đức Giêsu đã hiện thực cho Cha bằng cách ra khỏi bản chất rất Thiên Chúa của Ngài, để đến với con người hầu Ngài sẽ sờ chạm, chữa lành và tha thứ cho mọi người, ở trần thế.

Sống và làm thế, cũng rất nguy. Nguy, là bởi ta tin vào nhiệm tích Chúa Nhập Thể và nhập thể giống như Chúa. Tức, sống cuộc sống mà hệ thống chính trị và tôn giáo ở đời không thể hiểu được tại sao ta lại sống như thế. Và, hệ thống ở đời đã và đang tìm cách trừ khử những ai quyết sống nhập thể và nhập thế, giống như ta. Sống nhập thể và nhập thế, là tạo sự kinh ngạc lớn. Kinh ngạc, là: nó không giúp ta thích nghi với qui ước do người đời thiết lập. Sống hiện thực theo cung cách nhập thể, buộc ta phải xét lại xem mình là ai. Mình đã làm gì để Chúa có thể Nhập thể và nhập thế vào nơi ta mà sờ chạm chính con người của ta. Có như thế, ta mới có thể sờ chạm Ngài, bởi Ngài đã nhập thể và nhập thế làm người như ta và với ta bằng xương bằng thịt.

Không ai có thể tạo sự thật vĩnh cửu được như thế. Cũng chẳng ai tạo được công thức toán học mới mẻ như thế, để mà sống. Nhưng, ta là cộng đoàn có Chúa-ở-cùng-và-ở-với bằng công việc Ngài từng làm và sẽ làm sau cái chết và sống lại hiển vinh, là khoảnh khắc quyết định mọi sự nay khác trước. Khác, như một tạo thành rất mới mẻ. Khác, vì ta được tạo dựng bằng xương bằng thịt nơi Ngài và qua Ngài. Khác, để ta có thể sống cho nhau, vì nhau mà sống với Chúa. Và, cho Chúa.

Hội thánh không là hệ thống tư tưởng đơn điệu, có sẵn hoặc dễ tiêu hoá. Ngay cả ý tưởng về Đức Giêsu Nhập Thể cũng như thế. Như thế, do bởi Hội thánh chính là thực thể qua đó người người có thể bám víu vào mà nhìn sự việc theo chiều hướng khác hẳn về Thiên Chúa. Và, về nhân loại. Tuy nhiên, vấn đề còn tuỳ thuộc cung cách ta mong muốn và dự tính sẽ sống ra sao. Tuỳ cung cách mà người người vẫn sống và cứ sống. Sống, không cần biết là thế giới ta chung đụng sẽ lớn rộng như thế nào. Và, tất cả sẽ tuỳ thuộc tính nghiêm túc mà con dân trần thế được Chúa chấp nhận, ngang qua việc Ngài nhập thể và nhập thế.

Phụng vụ Hội thánh chọn Tin Mừng hôm nay tập trung vào chuyện thánh Gioan Tẩy giả như chứng nhân từng sống đời nhập thể và nhập thế với mọi người. Chính vì thấy được tính dịu hiền và ân huệ đích thực nơi bản thể “người” của Đức Giêsu mà thánh Gioan Tẩy giả đã thành nhân chứng cho Chúa, Đấng chấp nhận thân phận làm người, để sống với con người. Thánh Gioan Tẩy giả từng sống như Ông Già Tuyết trên mức tuyệt vời, hơn cả Ông Già Tóc Trắng rất Noel, từng chứng tỏ cho mọi người thấy ai là Đấng đến để ở với ta, vào lễ hội rất “Emmanuel” này.

Trong tâm tình cùng Chúa và với Chúa sống đời nhập thể và nhập thế, ta hân hoan tưởng nhớ lời thơ chân quê, để vui hát:

                        “Hoa chanh nở giữa vườn chanh,

                        Thầy u mình với chúng mình chân quê.

                        Hôm qua em đi tỉnh về,

                        Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.”

                        (Nguyễn Bính – Chân Quê)

Nhập thể và nhập thế rất hôm nay, là nhập vào tính chân quê với thầy u thương mến rất Nước Trời. Ở nơi đó, có Chúa-ở-cùng con người. Có người anh/người chị ở Hội Thánh Nước Trời, đã cùng mình sống tính chân quê hiền hoà, rất thánh hoá. Hôm nay và tương lai mai ngày.          

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.

Ngày ấy em như hoa sen,

Hạnh phúc lang thang…. tiếng hát Ngọc Lan

httpv://www.youtube.com/watch?v=KWRn9mVWG3U 

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 3 mùa Vọng năm B 17/12/2017

                                            “Ngày ấy em như hoa sen,”

“mang nhiều giáng hiền những khi chiều lên
Ngày ấy em như sương trong,

nép trên bông hồng, mượt trên cánh nhung.”

(Anh Bằng/Trần Ngọc Sơn – Hạnh Phúc Lang Thang)

 (Công vụ 1: 6-8)

Giả như ta chuyển ý bài hát ở trên sang thành tư-tưởng của nhà Đạo, thì sẽ thấy câu tiếp diễn tả rất như sau:

“Ngày ấy em như cung tơ,

cho đời thẫn thờ, cho tôi dệt mơ
Đường khuya tay đan ngón tay,

ước cho đời ước mơ dài.

Nhưng năm tháng vô tình, mà lòng người cũng vô tình,

rồi màu úa thay màu xanh
Người yêu xa bến mộng, đò xưa đã sang sông,

giòng đời trôi mênh mông.
Dáng xưa nay xa rồi, đường khuya mưa rơi rơi.
Phố xưa quên một người, bàn chân gieo đơn côi.
Gió mang theo cơn lạnh, về rót lệ trên môi.

Ngày ấy yêu em say mê, tôi nào nghĩ gì đến câu từ ly.
Tình ái không xanh như thơ, đến chung hơi thở,

rồi trôi rất xa
Hạnh phúc lang thang như mây, cho hồn héo gầy,

khi ta còn đây
Từng đêm qua trong giấc mơ,

vẫn mong chờ có em về.

(Anh Bằng/Trần Ngọc Sơn – bđd)

Nói theo kiểu nhà Đạo hôm nay, thì bần đạo đây lại nghĩ thế này: từ lâu lắm, bần đạo cứ giữ đạo theo kiểu con trẻ. Tức là: đem nguyên si những gì mình suy nghĩ về Đạo đi vào cuộc sống rất thời thượng, mà chẳng lý gì đến thời thượng/thời hạ gì ráo trọi.

Nói xa nói gần chi bằng ta cứ nói thiệt, rằng: xưa và nay, người nhà Đạo mình giống như bần đạo bầy tôi đây, lúc nào cũng suy tính tình trạng đi Đạo theo số lượng, mà thôi. Cứ xét theo con số như thế, ắt hẳn tôi và bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên khi đọc giòng chảy thống-kê ghi ở tuần báo Đạo Sydney, như sau:

“Khảo sát/nghiên-cứu mới về cuộc sống của Giáo-hội Công-giáo Úc vừa qua cho thấy: đang có sự gia-tăng đáng kể về số lượng cư-dân đa văn-hoá, nữ-giới có học-lực cao so với dân-cư bình-thường ở các quận/huyện trên toàn nước Úc.

Khảo-sát trên cho thấy: 43% người Công giáo tham-dự Tiệc Thánh là những những người đến từ nước ngoài. Thống-kê năm 2006 cho biết con số những người này gồm 34% tổng dân-số ở Úc. Và, tính bình-quân thì 37% số người đến từ các nước không thường-xuyên nói tiếng Anh. Con số nói trên lại cao hơn số người dân Úc tính theo trung-bình; và có khoảng 22% số người có quốc-tịch Úc đều sinh hạ tại các nước không nói tiếng Anh.

5 năm một lần, chính-phủ Úc thực-hiện thống-kê trên toàn quốc và thực-hiện khảo-sát với nhiều giáo-phái khác nhau, trong đó có: Công-giáo, Anh-giáo và Thệ-Phản ngõ hầu lập nên bức tranh cho thấy con số những người còn đi nhà thờ dự lễ.

Tuần qua, sở Thông-kê Úc có đưa ra kết quả khảo-sát thực-hiện vào năm 2016. Kết quả cho thấy rõ: số người Công-giáo hiện còn hành Đạo trên khắp nước. Tổng số 30% người Công giáo Úc nói hai thứ tiếng khác nhau tại nhà, là: tiếng Anh và tiếng nước ngoài. Bản khảo sát, còn cho thấy: chỉ 3% số người được hỏi, trả-lời là: họ nói chỉ một thứ tiếng không phải là Anh-ngữ tại nhà, mà thôi.              

Người thực-hiện cuộc khảo sát ở đây, là Ts Ruth Powell có cho biết: tổng số những người thuộc tầng-lớp sắc-tộc đa-văn-hoá vẫn đi nhà thờ ở Úc nay gia-tăng đáng kể, dù các giáo-phái ở đây gồm toàn tín-hữu không nói tiếng Anh chưa diễn-tả hết sự thật trong khảo sát.

Ts Powell còn cho biết: “So với nước khác, Úc có tỷ-lệ giáo-xứ đa văn-hoá, cũng rất cao. Trong khi đó, số phụ-nữ đi nhà thờ dự Tiệc Thánh thường đông hơn nam-giới, với tỷ-lệ là 62% trên tổng số giáo-dân. Con số này, không làm Tiến sĩ Powell ngạc-nhiên chút nào, do có sự thể là: “nữ-giới vẫn tiếp-tục là những người mộ-đạo hơn ai hết. Đó là chuyện lâu nay ai cũng thấy rõ so với các tôn-giáo khác nhau trên thế-giới.

Nhiều giả-thuyết cho thấy lý do của sự-kiện này, là do nhiều yếu-tố can-dự. Tuy nhiên, nhiều chứng cớ lại cũng cho thấy: hầu hết đều do yếu-tố xã-hội và văn-hoá mà ra, như: truyền-thống tôn-giáo và nơi làm việc là những yếu-tố có vai-trò quan-trọng, trong chuyện này.

Ngoài ra, hầu hết người Công giáo đi nhà thờ dự lễ thường là các vị cao-niên, chứ không phải giới trẻ. Đặc biệt hơn, các vị ở vào độ tuổi từ 50 đến 69, là những người hay đi lễ thường xuyên nhất (tức: 36% số người dự lễ trên tổng-thể); trong khi đó, giới trẻ ở độ tuổi 15-29 là nhóm người ít đi lễ nhất, có tỷ lệ chỉ gồm 9%, thôi.

Mức-độ học-thức rõ ràng chiếm ưu-thế hơn, so với người Úc bình thường với tỷ-lệ 36% số người đi lễ, so với tỷ lệ 26% dân số trên toàn nước Úc. Khảo-sát trên, còn cho thấy 45% người đi lễ đều là những người có công ăn việc làm, chỉ mỗi 8% số người nói trên, là những người suốt ngày lo nội trợ ở nhà và 14% là số người cao niên đã hưu trí.

Có được con số trên, người thực-hiện thống-kê phải bỏ ra mất hơn một năm trời mới hội đủ. Thống kê 2016 ở Úc cho biết: chỉ độ 250,000 người đi nhà thờ chịu điền đơn khảo-sát trên toàn nước Úc, tức: hơn 3,000 nhà thờ địa-phương thuộc 20 giáo-phái khác nhau. Để kết luận, Khảo-sát trên được lập là cho cá-nhân địa-phận và tổng-giáo-phận, trong các tuần vừa qua, mà thôi.” (Xem Genevieve Conway, Catholic stats reveal much, The Catholic Weekly 18/11/2017 tr. 2)

Thống kê về số người đi Đạo, chắc cũng không nói nhiều về thái-độ hoặc quan-niệm của người thời nay về nhiều thứ. Chí ít là chuyện danh xưng/tên gọi các đấng bậc của người mình. Một vấn-đề mà ít người dám đề-cập, vì sợ “đụng hàng”. Tuy nhiên, có đấng bậc nọ ắt vẫn còn trẻ, nên mới dám dám đặt vấn đề sau đây:

“Sáng sớm mùa Đông ở Canada, tuyết vẫn còn phủ trắng cao đến mắt cá chân, trên lối đi. Bà Catherine, bà bếp Cha Sở bước chầm chậm và cẩn thận quay về nhà xứ sau Thánh Lễ buổi sáng. Vừa đặt chân lên bậc thềm nhà xứ, thấy tôi đang quét tuyết, bà vui vẻ chào tôi và bảo:”

-Peter, mang cây chổi quét tuyết tới đây!”

Tôi tươi cười tiến đến gần bà với cây chổi quét tuyết đu đưa trên tay, chưa đón ra ý bà muốn nhờ tôi chuyện gì. Bà Catherine tự nhiên kéo váy đầm cao lên một chút và chìa đôi giày bám đầy tuyết, thản nhiên bảo tôi:

-Lấy chổi phủi giùm tuyết bám giày, để tôi đi vào không làm dơ thảm nhà xứ!”

Nụ cười vụt tắt trên môi. Tôi không nghĩ là mình không hiểu tiếng Anh. Rõ ràng quá mà: Lấy chổi phủi sạch tuyết bám giày bà đầm Catherine. Tôi cúi mặt chần chừ. Bà Catherine vẫn giữ cao váy đầm, giơ đôi giày bám đầy tuyết, thúc giục:

-Phủi giùm mau đi để tôi còn kịp vào chuẩn-bị cà-phê sáng cho Đức Ông Robert!”

Im lặng và cẩn thận, tôi cầm chổi, nhẹ nhàng phủi tuyết bám giày bà Catherine, từng chiếc một. Bà cười mãn nguyện, cám ơn tôi và nhanh nhẹn đẩy cửa bước vào nhà xứ.

Cửa chính nhà xứ đóng ‘rầm’ một tiếng, chận đứng ánh mắt buồn của tôi đang dõi theo bà Catherine. Tôi xấu hổ, cúi xuống đưa mắt nhìn lại chính mình, lần dò xuống tận chân. Dù khoác chiếc áo Mùa Đông để ra ngoài trời quét tuyết, nhưng bên trong tôi vẫn đàng-hoàng nghiêm-túc với tu-phục của linh mục, nghĩa là: vẫn áo sơ-mi dài tay màu đen, cổ côn trắng hẳn-hoi, quần đen ủi thẳng nếp, giày da mùa Đông loại đắt tiền cổ cao, có đế dày.

Tôi học và chịu chức linh-mục ở Canada, với dáng vẻ phong-thái lịch-lãm không kém người da trắng. Nếu hoàn-cảnh đất nước cho phép, tôi về lại quê nhà, chắc sẽ được đánh-giá cao, không thua các linh-mục được du-học ngày xưa. Tôi nghĩ vậy.

Cái nhục “phủi tuyết bám giày bà đầm” len vào trong máu, bốc cao tận đỉnh đầu. Ném chổi quét tuyết trả lại góc tường nhà xứ. Lặng lẽ, tôi trở lại phòng làm việc, đóng cửa khá mạnh tay, để toàn thân rơi phịch nặng-nề trên chiếc ghế bành làm việc. Tại sao bà Catherine không gọi tôi là CHA? Vì tôi mới làm linh-mục và còn làm phó cho Đức Ông Robert chăng? Tại sao bà Catherine dám bảo một linh-mục phủi tuyết bám giày bà? Bà là bà đầm da trắng, còn tôi là tên tóc đen, da vàng đến từ một nước nghèo chăng? Da màu phải phục-vụ da trắng hay người nghèo phải phủi tuyết bám giày người giàu chăng? Nhiều câu hỏi tương-tự quanh đi quẩn lại trong tôi.

Cái nhục của một linh-mục đã phải phủi tuyết bám giày bà đầm được tô đậm nét. Lòng tự-ái dân-tộc, niềm tự-hào nòi-giống rực lửa trong tôi. Tôi mạnh dạn, hung-hăng đứng lên, định đi tìm bà Catherine và Đức Ông Robert để làm lớn chuyện, cho ra lẽ. Bà Catherine phải xin lỗi tôi về chuyện đã không gọi tôi là Cha và dám bảo một ông Cha phủi tuyết bám giày bà. Gọi một linh mục bằng tên, thiếu lòng đạo-đức rõ-ràng. Bảo một linh-mục phủi tuyết bám giày, thiếu lòng kính-trọng chức thánh không thể chối cãi.

Cái đứng dậy quyết-liệt, cái vung tay tức-giận làm văng cây Thánh Giá trên bàn làm việc xuống sàn nhà. Ảnh Chúa Chuộc tội từ lâu vẫn đứng vô-tri trên bàn làm việc, ngay trước mặt tôi, rất kề-cận, nhưng nhiều khi tôi đã không thấy, hay thấy như một thứ trang-trí tôn-giáo cần-thiết trong phòng làm việc của một linh-mục.

Tôi bước đến, chậm rãi cúi nhặt ảnh Thánh Giá lên. Chúa nằm úp mặt trên sàn thảm, một cánh tay gảy lìa thân. Chúa trông thảm-hại hơn bình-thường. Cánh tay gãy lìa còn toòng teng nhờ đinh đóng chặt. Im-lặng nhìn Thánh Giá, cố ráp cánh tay gãy của tượng Chúa vào thân, đặt trở lại trên bàn làm việc.

Tôi quay lại ghế ngồi, ánh mắt vẫn không rời Thánh Giá. Tủi-nhục và thảm-hại của Thánh Giá làm cái tủi-nhục phủi tuyết bám giày bà đầm lắng xuống dần. Ý-nghĩa về chức linh-mục của Chúa Giêsu dâng cao, lấn chiếm tôi.

Ánh mắt vẫn không rời tượng Chúa Giêsu chết treo trên Thánh Giá. Ngài là Linh-Mục Thượng-Tế, đang giang tay tế-lễ trên Thánh Giá. Chính Ngài lập Bí-Tích Truyền Chức Thánh để thông-ban cho tôi chức linh-mục của Ngài. Không ai gọi Ngài là CHA cả, nhưng gọi là Chúa và là Thầy (Gioan 13:13).

Vậy tiếng CHA dùng để gọi các linh-mục, tiếng ĐỨC CHA dành để gọi các Giám-Mục, tiếng ĐỨC THÁNH CHA dùng để gọi Giáo-Hoàng La Mã đến từ đâu? Không đến trực-tiếp từ Chúa. Chính Chúa đã có lần dạy các Tông-Đồ là ‘đừng tôn xưng ai dưới đất là Cha, vì chúng con chỉ một Cha duy-nhất trên trời” (Matt. 23:9).

Nói thế, Chúa không có ý chỉ-thị rõ ràng rằng ‘đừng gọi các linh-mục Công-Giáo là Cha’ như người Tin-Lành suy-diễn nhằm chỉ-trích linh-mục Công-Giáo. Chúa đã khiển-trách môn-đệ mình vì chuyện ‘tranh chức’ đòi làm lớn, ngồi chỗ nhất giống như người Biệt-Phái và dạy họ rằng “Ai muốn làm lớn phải làm đầy tớ anh em mình.” (Matt.20:24-27), cũng như đừng bao giờ tự tôn mình lên ngang hàng với Chúa, vì chúng ta chỉ có một Chúa, người Cha duy-nhất trên Trời.

Tiếng “CHA” dành cho linh-mục, “ĐỨC CHA” dành cho Giám-Mục hay ĐỨC THÁNH CHA, dành cho Giáo-Hoàng được xử-dụng trên toàn thế-giới, đến từ truyền-thống của Giáo-Hội nhằm tỏ lòng kính-trọng và ngưỡng-mộ những người có chức thánh linh-mục. Từ việc tin Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, là Linh-Mục Thượng-Tế, Kitô-hữu đem lòng mộ mến, kính-trọng Linh-mục, Giám-Mục và Giáo Hoàng. Họ được coi như những người thông-phần với chức Linh-Mục của Chúa Kitô, như những người hy-sinh và hiến-tế đời mình cho phần rỗi nhân-loại.

Phaolô nói khá nhiều về chức linh-mục thượng-phẩm của Chúa Kitô (Thư Do Thái 4: 14- 5: 1-10) cũng như về vai-trò trung-gian giữa Trời và Đất đã ảnh-hưởng sâu-đậm nơi những kẻ tin. Người tin Chúa Kitô được dạy để đồng-hoá linh-mục với Chúa Kitô. Linh-mục là hiện-thân của Chúa Kitô, là một Chúa Kitô khác, là người CHA tinh thần, người CHA chăm sóc phần hồn cho các tín hữu, người tái sinh chúng ta qua bí tích rửa tội.

Cũng rất có thể nó đến từ cách xưng-hô kính-trọng dành cho những bô lão, những bậc đứng tuổi, đáng kính trong Giáo-Hội thời sơ-khai. Từ “Presbyteroi”, nguyên-ngữ Hy-Lạp có nghĩa là người đứng tuổi, bậc đáng kính, được dùng để chỉ linh-mục ngay từ buổi đầu.

Bà Catherine thiếu lòng kính trọng thánh chức linh mục vì đã không gọi tôi, một linh mục là CHA. Tôi thấy mình thiếu lý-chứng để kết-án bà. Người Tây Phương đặt tên để gọi. Họ thích được gọi đích danh. Một linh mục biết nhiều tên của nhiều người và gọi đúng tên, bất luận già trẻ lớn bé, sẽ được giáo-dân quí mến đặc biệt. Khi được gọi đúng tên, người Tây Phương cảm thấy mình thực sự được quan-tâm. Người Á Đông, đặc biệt Việt Nam mình, đặt tên để tránh gọi tên hay đặt tên để giấu tên. Gọi tên ‘cúng cơm’ một người lớn, chuyện bất kính, không thể chấp nhận được.

Người mình thường xưng-hô bằng ngôi thứ: Bác Ba, Cô Chín, Cậu Út thay cho tên. Trong những xứ đạo người Bắc, chủ-tịch Hội Đồng Giáo Xứ được gọi là Ông Chánh hay Chánh Trương. Giáo lý viên dạy kinh bổn được gọi là Bà Quản hay Quản Giáo. Người xướng kinh trong nhà thờ được gọi là Ông Trùm. Người chăm sóc việc nhà thờ, nhà Cha được gọi là Ông Bõ.

Việc tránh gọi tên đi đến kết quả: không còn ai biết tên thật của nhau. Cách nào đó đã thiếu quan tâm đến cá nhân, đến hữu thể mà chỉ chú trọng đến ngôi thứ, chức vụ hay địa vị là cái tùy thể, tháp gắn vào hữu-thể.

Năm 1974 tôi biết rõ một thiếu tá quận trưởng mất chức vì dám gọi vị Giám Mục Công Giáo là “Ông Đạo”. Ai cũng cho là đáng đời, vì làm tới quận trưởng mà không biết gọi Giám Mục là Đức Cha. Cũng là những kết án không hợp lý và bất lợi: Một quận trưởng không Công Giáo, làm sao biết được cách xưng hô kiểu Công Giáo? Người ngoài Công Giáo và nếu chịu ảnh hưởng Khổng Giáo chút ít, khó có thể gọi một ai khác ngoài cha đẻ của họ ở nhà là cha. Vị quận trưởng bị cất chức nầy có nhận ra lỗi “ăn nói vô đạo” của mình không?

Không! Ông ta đâu có lỗi để nhận ra. Nhưng trên thực tế, ông ta đã nhận một bất công. Gánh chịu bất công dễ đưa lòng người tới oán hận. Phải thú nhận rằng trong quá khứ, chúng ta, do hoàn cảnh đưa đẩy, đã sống theo kiểu “làm cha thiên hạ” hay “lấy thịt đè người”.

Chúng ta đòi người khác cho cái mà họ không có và không buộc phải cho. Chúng ta nghĩ thế nào, dễ hay khó, tự nhiên hay bất thường khi nghe một cụ già bảy mươi tuổi, trong tiếp xúc xã giao thường ngày, gọi một linh mục trẻ mới ba mươi tuổi là cha và xưng là con?

Bà Catherine đã gần bảy mươi tuổi, sấp xỉ tuổi mẹ tôi ở quê nhà. Chưa một lần xác định bằng lời, nhưng xem chừng bà thay Mẹ tôi chăm sóc cho tôi trong mấy tháng qua: Bà nấu cơm cho tôi, giặt giũ cho tôi, bà pha chế những món ăn hoà hợp giữa khẩu vị Tây-Ta cho tôi vừa miệng.

Bà hay dò hỏi xem Mẹ tôi làm gì cho tôi khi tôi đau ốm hay khi tôi buồn. Bà nhắc tôi đi ngủ sớm và dâng thánh lễ chậm rải, sốt sắng. Bà thương chỉ bảo cho tôi phát âm từng chữ tiếng Anh cho đúng giọng và chính xác. Bà cũng hay nhờ tôi khuân vác hay di chuyển những vật nặng trong nhà xứ giống như Mẹ tôi ở nhà vậy.

Chuyện bà gọi tôi bằng tên cũng là chuyện tự nhiên như Mẹ gọi con. Có bà mẹ nào, trong sinh hoạt thường nhật, gọi con mình làm linh mục là cha bao giờ? Chuyện bà nhờ tôi phủi tuyết bám giày sáng nay, trong trí bà, có thể không như chuyện giáo dân nhờ linh mục, nhưng là chuyện mẹ nhờ con. Thật đơn giản!

Hơn bao giờ hết, tôi thấy mình thật cận kề với Chúa Giêsu chịu đóng đinh đang đặt trước mặt tôi, trên bàn làm việc. Chúa Kitô, linh mục thượng phẩm, đang giang tay, hiến tế chính thân mình trên Thánh Giá. Tôi, một linh mục, một Chúa Kitô khác, tôi giang tay dâng lễ hàng ngày trên bàn thờ. Tay giang, nhưng không dâng hiến, không ban phát, không cho đi, nhưng đòi hỏi: đòi được kính trọng đặc biệt, đòi được gọi bằng CHA mới thoả lòng. Tôi làm linh mục, một Chúa Kitô khác, nhưng đôi khi tôi thật khác Đức Kitô: Chúa Kitô, đến để phục vụ, còn tôi, tôi sôi máu tức giận khi phải phục vụ.

Tôi đứng lên, tìm bà Catherine trò chuyện. Bà đang ở nhà bếp chuẩn bị cơm trưa. Tôi vui vẻ đến gần hỏi xem bà có cần tôi giúp chuyện chi không. Bà Catherine vui vẻ nhờ tôi chuẩn bị Salad và cà chua. Tôi vừa làm giúp bà vừa hát nho nhỏ trong miệng. Bà Catherine đến gần, ngọt giọng bảo tôi: “Peter, you look so happy today!” Lại cũng Peter suông! Nhưng tôi lại yêu nó. Tôi mỉm cười đắc ý trả lời: “Yes, Mom, I deeply realize that I am a priest forever!”

Chữ “linh mục” tôi nhấn mạnh và kéo dài. Suốt năm tháng qua, từ ngày chịu chức, tôi đã làm CHA và buồn vì không được gọi là Cha. Hôm nay, tôi mới thực sự làm linh mục, làm người được chia sẻ chức linh mục với Chúa Kitô, Đấng đến giang tay tế chính thân mình cho phần rỗi của những người con.

Bà Catherine ơi! Cám ơn bà thật nhiều! Bà đã không kêu tôi bằng Cha, nhưng bằng tên và đã nhờ tôi phủi tuyết bám giày bà. Bà không thật sự thiếu lòng kính trọng tôi, hay coi thường chức linh mục trong tôi. Nhưng bà cho tôi cơ hội nếm và sống ý nghĩa chức linh mục.

 Linh mục, kẻ giang tay để tế lễ, để dâng hiến, để cho đi, để ban phát và phục vụ như một Đức Kitô khác. Bà thật sự giúp tôi khước từ ước vọng làm CHA hay thích được gọi là CHA theo ý nghĩa muốn được nâng cấp, mang tính ích kỷ thu gom của mình.

 Linh mục, người Cha tinh thần hay cha linh hồn, người sinh cho Chúa nhiều con cái qua bí tích Rửa Tội, nhưng nhiều khi được gọi CHA làm tôi dễ thấy mình cao cả và quên đi vai trò hy sinh, giang tay cứu độ mà Đức Kitô, Linh Mục Thượng phẩm đã chọn gọi tơi để thi hành.” (Lm. Phêrô Trần).

“Giang tay cứu độ”, còn là động thái của Đức Chúa, Đấng từng có lời khẳng-định như sau:

“Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó

hỏi Người rằng:

“Thưa Thầy,

có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?”

Người đáp:

“Anh em không cần biết thời giờ

và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt,

nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần

khi Ngài ngự xuống trên anh em.

Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy

tại Giêrusalem,

trong khắp các miền Giuđê, Samari

và cho đến tận cùng trái đất.”

(Cv 1: 6-8)

Dĩ nhiên, không cần nói ai cũng thừa hiểu rằng “Chiếc áo dòng không làm nên thày tu”, danh xưng/tên gọi không nói hết được thực-chất của câu chuyện mình muốn nói, nhiều hơn thế.

Hôm nay đây, bần đạo bầy tôi cũng muốn “nói nhiều hơn thế”, nhưng “lực bất tòng tâm”, nay tuổi già sức yếu, không còn khả-năng để nói nhiều, nói mãi, nói dài dài những điều khô-khan, chẳng nên nói.

Quyết thế rồi, nay xin nhắn nhủ bạn và tôi, ta kết thúc bài phiếm “loạn” lai ra ba sợi ở đây, cho đỡ rách việc.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và những quyết tâm không đơn giản

khó hiện thực.

Những ước mơ Mỹ và lời chia sẻ từ cô bạn việt Kiều

Những ước mơ Mỹ và lời chia sẻ từ cô bạn việt Kiều

  

 

Tôi đã định cư Mỹ hơn 20 năm. Với khoảng thời gian như vậy, tôi muốn viết vài dòng chia sẻ cho các bạn dựa vào kinh nghiệm của bản thân tôi. Tôi viết có chữ đôi khi bị sai chính tả thì mong các bạn thông cảm cho. Điều mà tôi muốn chia sẻ là về những sự thật về những người việt Kiều bên Mỹ về cuộc sống, cuộc việc hay gia đình, lối sống…

Có câu này mà tôi thấy rất đúng. Ỡ Mỹ, người ta đi làm rất hăng say để trả tiền nhà, bảo hiểm, ăn uống và các thứ sinh hoạt khác. Nhiều người khác thì dành hầu hết thời gian rãnh cũng chỉ để làm việc kiếm thêm tiền. Vì có nhiều cơ sở mở cửa 24 giờ mỗi ngày, ví dụ như chợ Walmart, McDonald, etc. Đa số người Việt Nam đều mua cho mình một căn nhà bằng cách trả góp. Có nghĩa là mình có thể trả trước từ 3% cho đến 99%, sau đó hàng tháng mình trả cho ngân hàng, cho đến 15 hay 30 năm. Những khoản phí cho tiền ăn uống và bảo hiểm thì không là bao. Hơn nữa, tôi cũng nói thêm, nếu bạn nào có ý định định cư tại Mỹ thì khi qua đây bạn nên mua bảo hiểm vì tiền nhà thương bên đây rất đắt đỏ.

Giáo Dục và Đại Học

Ở Mỹ thì học sinh được miễn giảm hoàn toàn tiền học phí từ năm học mẫu giáo đến năm lớp 12. Học sinh chỉ tốn chi phí cho các khoản ăn uống hằng ngày, trường hợp học sinh nghèo thì nhà trường sẽ miễn phí luôn tiền ăn uống, còn ngoài ra thì không còn tốn thêm bất cứ khoản phí nào. Cũng có nhiều cha mẹ tự đưa con cái đi học. Hoặc có thể đi xe bus, xe bus sẽ lại 1 khu tập trung rất gần nhà của mỗi học sinh và chở đến trường và đưa về ngay chỗ cũ. Vài tháng thì trường sẽ cho học sinh đi tìm thực tế(field trip) để quan sát những gì mà chúng đã học trong trường 1 cách thực tế và trung thực nhất, ví dụ như đi tham quan viện bảo tàng, tòa bạch ốc, các nông trại, etc. Học sinh kém môn nào thì sẽ được giáo viên kèm thêm môn đó. Ngoài ra, bên Mỹ không có dạy thêm như ở Việt Nam.

Và khi lên đến bậc đại học, nếu không có tiền trang trải việc học thì học sinh có thể vay của chính phủ với lãi suất rất thấp. Và khi học xong thì có thể đi làm và trả sau.

Công Việc Làm Và Thu Nhập

Tùy thuộc và những tiểu bang khác nhau mà lương của bạn kiếm được cũng sẽ khác nhau. Nơi có mức sống thấp thì đồng tiền kiếm ra ít. Thống kê trong năm 2010 cho thấy 3 tiểu bang có người Việt Kiều định cư nhiều nhất là California($8.00), Washington ($9.04) và Texas($7.25). Có nghĩa là nếu bạn định cư Mỹ hay rõ hơn là có ý định sinh sống ở bang Cali thì dù công việc thấp thế nào đi chăng nữa,thì công ty cũng phải trả cho bạn $8.00 đô la mỗi giờ làm việc. Vì đây là mức lương tối thiểu do chính phủ đã quy định. Và mỗi năm chính phủ sẽ tăng mức lương cho phù hợp với sự thay đổi chi phí mỗi năm.

Và một sinh viên khi ra trường thì cũng tùy vào khả năng của ngừoi đó mà có thể có mức lương khác nhau. Trung bình vào năm 2012, mức lương của kế toán khoãng $40,000 1 năm($3,500 mỗi tháng) va lập trình viên là khoãng $50,000 1 năm($4,200 mổi tháng). Mổi năm, nhân viên dược tăng khoãng 2 đến 10%.

Chi tiêu cuộc sống (cost of living)

Ở Mỹ thì giá cả rất đắt đỏ, một tô phở lớn tốn khoảng $8.00, mỗi bữa ăn trong tiệm đồ ăn nhanh (McDonald, Bugerking, etc) tốn khoảng $5 (60 ngàn đồng). Nếu thuê nhà để sống thì mỗi tháng phải trả khoảng từ $750 đến $2,000 (1 triệu 600 ngàn đến 4 triệu 200 ngàn đồng) tùy thuộc vào loại nhà nào. Nhà Vila thì mắc hơn nhà Townhouse hay căn hộ chung cư. Nhà kiểu Vila thì có 3 hay 4 phòng và 2 hay 3 phòng, vừa đủ cho một gia đình có 2 hay 3 con. Có nhiều người độc thân thì họ thuê phòng để tiết kiệm, mỗi tháng chỉ trả khoảng $400 (8 triệu 400 ngàn đồng).

Ví dụ như một người đi cắt cỏ mướn, mỗi ngày chủ trả 2 triệu, nếu làm 30 ngày trong tháng thì kiếm được 60 triệu đồng VN. Với khoảng tiền này thì người đó phải chi ra rất nhiều khoản phí tiền ăn, tiền nhà, bảo hiểm, và các thứ khác. Theo tôi nghĩ thì trung bình, mỗi tháng, một người phải trả 50% số lương của mình cho mọi thứ tiêu xài. Ví dụ như anh làm cắt cỏ này dư khoảng 30 triệu mỗi tháng. Có nghỉa là anh ta chi tiêu 30 triệu mổi tháng. Cho nên khi định cư ở Mỹ hay sống ở đây người ta rất sợ thất nghiệp vì chi tiêu quá nhiều. Người VN chúng ta có một điễm hay là biết dành dụm và tiết kiệm, đề phòng nhừng lúc thất nghiệp.

Đây là giá cả ở California. Có một số tiểu bang Mỹ giá cả rất rẻ, khoảng chừng phân nữa hay 1/3 chi tiêu tại Cali thôi, như Georgia, Texas, Florida, etc.

Cuộc sống và sinh hoạt

Bên Mỹ thì sẽ là cơ hội tốt cho những ai có nghị lực có ước mơ hoài bão muốn vươn lên trong cuộc sống. Ở đây người ta cạnh tranh rất công bằng, bạn có tài ở lĩnh vực nào thì sẽ đều có cơ hội phát triển bản thân hoặc được đề cử.

Khi đi xin việc làm, bạn có thể lên các website hay đọc trong báo tìm việc làm. Các công việc chân tay như làm cu li thì bạn cũng cần điền đơn và nộp cho người quản lý, nếu đơn của bạn làm cho người kiểm duyệt thích thú vì hội đủ điều kiện, thì họ sẻ gọi cho bạn để đi phỏng vấn. Nếu người ta không gọi cho bạn, thì bạn cũng có thể gọi cho họ và hỏi xem. Nhưng bạn không cần phải đến nơi đó để gặp người quản lý, vì có thể họ sẽ không tiếp bạn đâu.

Còn đối với những gia đình có con nhỏ thì họ gửi nhà trẻ hoặc thuê người về trông coi con của họ. Đến tối khi họ đi làm về thì họ đón con. Nhưng có ít người muốn làm công việc này vì lương không cao, hoặc chỉ những người yêu thích con nít thì họ mới làm. Và đây không phải là Osin phải làm việc nhà, nấu ăn, dọn dẹp, mà người giữ trẻ chỉ giữ con cái và cho con cái của quí vị ăn uống thôi. Trường hợp có một số người tốt thì họ có thể nấu ăn giúp bạn luôn

Hơn nữa, bên Mỹ thì bạn tuyệt đối không được BẠO LỰC trong gia đình hay ngoài xã hội. Nếu bạn đánh chồng, đánh vợ, hay đánh con cái của bạn, thì cảnh sát sẽ bắt bạn. Cho dù bạn đi làm hay đang ở trong gia đình thì đều không được sử dụng bạo lực. Phong tục người Vietnam chúng ta hay đánh con cái để dạy cho chúng, nhưng khi bạn định cư ở Mỹ này thì họ không cho phép làm như thế.

Không dùng bạo lực, đặc biệt là với trẻ em

Cuộc sống bên Mỹ nói chung thì người ta rất bình đẳng. Họ không phân biệt giàu nghèo giống Việt nam. Nhưng nói thật với các bạn bên này cuộc sống rất cơ cực, bạn phải làm việc rất vất vả. Nếu có ý định định cư Mỹ thì bạn hãy suy nghĩ thật kĩ nhé. Hơn nữa, có một điều nữa là rất khó quí vị có thể nhận biết ai giàu và ai nghèo vì mọi người đều ăn mặt bảnh toản và lái xe hơi láng bóng. Làn da thì ai cũng trắng trẻo và sạch sẽ vì họ sống trong thời tiết lạnh và trong nhà thì luôn có máy điều hòa.

Theo visahoaki       

CHÂN DUNG “KẺ XÂM LƯỢC”

 Mac Văn Trang‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person, hat

Mac Văn Trang

 

Lịch sử thật trớ trêu nhưng công bằng. Thì ra giá trị của “Bên thắng cuộc” là sau chiến thắng họ đem lại gì cho Nhân dân?

CHÂN DUNG “KẺ XÂM LƯỢC”
(Copy 03/08/2017anle20)
Tướng MacArthur.
Bùi Đức Thịnh

MacArthur đến Nhật vơi đôi bàn tay đẫm máu người Nhật. Khi MacArthur rời Nhật về Mỹ, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng triệu người Nhật đứng hai bên đường đưa tiễn. Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật: Đại nguyên soái! MacArthur được người Nhật vinh danh là 1 trong 12 danh nhân nước Nhật mọi thời đại.

Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ?

Năm 1942 tướng MacArthur dẫn đại quân tấn công Nhật Bản, từ Melbourne đánh thẳng đến Tokyo, hai tay nhuộm máu người Nhật Bản. Vì thế người Nhật hận ông thấu xương.

Chiều ngày 30/8/1945, tướng quân MacArthur ra khỏi máy bay và đặt chân lên đất Nhật, cho dù ông không mặc quân phục và không mang theo vũ khí gì, cũng không có người tổ chức duyệt binh, nhưng thời khắc đó với 70 triệu người Nhật Bản là thời khắc kinh hoàng mà họ không thể quên, trong tâm trí mọi người chỉ còn nghĩ được hai chữ “mất nước”.

Nhưng tướng MacArthur mang quân đến hòa bình, chính nghĩa, khoan dung và dân chủ.

Nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh rơi vào suy sụp, đến bữa trưa của Nghị viên Quốc hội cũng phải ăn cơm trộn khoai lang, cái đói bao phủ khắp nơi. Lúc này tướng MacArthur gây áp lực khiến chính phủ Mỹ phải hỗ trợ Nhật Bản, thế là 3,5 triệu tấn lương thực và 2 tỷ Mỹ kim tức tốc được gửi đến Nhật. Ông không chỉ giữ lại chính quyền Nhật Bản mà còn đặc xá cho Thiên hoàng, thậm chí còn quan tâm đến số phận của từng người lính bình thường của Nhật Bản, giúp họ tìm con đường sống.

Theo sau ông, 400 nghìn lính Mỹ đã dùng thiện ý và tinh thần hy sinh để chinh phục người Nhật Bản. Khi đó các con hẻm trong thành phố của Nhật rất chật hẹp, một người Nhật bình thường và một người lính Mỹ to lớn nếu gặp nhau cũng khó để đi qua, vì thế thường thì người lính Mỹ sẽ nép vào một bên cho người Nhật đi trước. Người Nhật không thể không băn khoăn tự hỏi, nếu mình là kẻ chiến thắng thì có làm được như thế không?

Sau khi tướng MacArthur đến Nhật Bản, ông lập tức ra lệnh thả tội phạm chính trị, trong đó có rất nhiều Đảng viên Cộng sản, bị chính phủ Nhật bắt giam trong thời gian dài.

Ngày 25/8/1945, quân chiếm đóng của Mỹ cho phép phụ nữ Nhật thiết lập tổ chức của mình; tháng 9 cho công bố Dự luật về vai trò trong bầu cử của phụ nữ Nhật Bản; đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, phụ nữ được quyền bầu cử và ứng cử.

Lúc này tại Tokyo có cô kỹ nữ được chọn làm Nghị viên thành phố, nhiều thị dân cảm thấy khó chấp nhận. Nhưng tướng MacArthur nói, mọi người chọn cô ấy để cô ấy phục vụ mọi người, đừng vì cô ấy là kỹ nữ mà kỳ thị bỏ qua. Khi đó mọi người chợt hiểu người được chọn trong bầu cử dân chủ phải là người thay mặt để vì mình làm việc, thế là sau khi hiểu ý nghĩa vấn đề họ đã quyết định chọn bầu cô kỹ nữ kia. Kết quả sau khi trở thành Nghị viên, cô đã không phụ lòng mọi người, làm được rất nhiều việc có ý nghĩa.

Vào ngày 11/10/1945, tướng MacArthur tuyên bố bỏ lệnh cấm báo chí, Nhật Bản được tự do thông tin và tự do ngôn luận.

Ngày 22/12/1945, ban hành “Luật Công hội”, giai cấp công nhân thực sự có tổ chức của mình. Ngày 1/9/1947, ban hành “Luật lao động”, quy định tiêu chuẩn tiền lương thấp nhất và thời gian làm việc nhiều nhất.

Ngày 3/2/1946, tướng MacArthur chỉ thị cho Tổng bộ Liên minh khởi thảo Hiến pháp Nhật Bản. Chính phủ Mỹ truyền đạt nguyên tắc chế định Hiến pháp cho tướng MacArthur là: Chính phủ Nhật Bản phải do toàn thể cử tri trao quyền và phải chịu trách nhiệm trước toàn thể cử tri. Ngày 3/5, quân liên minh giao ra Bản dự thảo Hiến pháp. Ngày 7/10, Quốc hội Nhật Bản thông qua Hiến pháp. Ngày 3/11, Thiên hoàng cho ban hành Tân Hiến pháp.

Đây là Hiến pháp do kẻ chiếm lĩnh chiếu theo giá trị quan phương Tây áp đặt cho kẻ bị chiếm lĩnh, nhưng lại là bản Hiến pháp đem lại phúc lợi cho nhân dân quốc gia bị chiếm lĩnh. Bản Hiến pháp nhấn mạnh quyền lợi công dân cơ bản của người Nhật Bản, xem những quyền lợi này là “quyền lợi trời cho mà không ai có quyền tước đoạt”. Những quyền này bao gồm: quyền bầu cử, lập hội và tự do xuất bản; không có sự tham gia của luật sư thì không được định tội; bảo đảm quyền cư trú an toàn cho dân, cấm kiểm tra và tước đoạt vô cớ.

Ngày 21/10/1946, Quốc hội đã thông qua “Luật Cải cách ruộng đất”. Chính phủ Nhật Bản mua lại đất đai dư thừa của giới địa chủ, sau đó bán đất lại cho nông dân không có ruộng. Với những nông dân không có tiền mua đất, chính phủ cho vay thế chấp. Tất cả diễn ra không đổ một giọt máu, một mạng người, những người nông dân ai nấy đều có được một phần đất cho mình.

Ngày 31/3/1947, ban hành “Luật Giáo dục”. Theo đó mục tiêu hàng đầu của giáo dục là “tôn trọng sự tôn nghiêm của cá nhân, bồi dưỡng cho mọi người có lòng nhiệt huyết vì chân lý và hòa bình”. Trường học của Nhật Bản không còn nằm trong kiểm soát của chính phủ mà là do Ủy ban Giáo dục do dân chúng bầu ra quản lý. Việc chọn lựa nhà giáo, sách học và bố trí chương trình hoàn toàn do người dân tự chủ quyết định.

Năm 1952, quân chiếm đóng Mỹ trả chính quyền về cho chính phủ Nhật Bản. Sau 7 năm chiếm đóng, người Mỹ cải cách triệt để con đường phát triển của Nhật Bản, chủ quyền quốc gia từ trong tay kẻ chuyên chế trao lại cho người dân Nhật Bản, những tiền đề tiến bộ đầu tiên này giúp người Nhật bước vào con đường thênh thang.

Hơn 10 năm sau, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, quốc gia phồn vinh, nhân dân giàu có, xã hội ổn định. Có thể nói thêm một câu, quân chiếm đóng của Mỹ không chi một đồng tiền thuế nào của người dân Nhật Bản, chi phí của họ là lấy từ tiền thuế của người Mỹ.

Trong thời gian chiếm đóng Nhật Bản, rất nhiều người Nhật đã viết thư gửi cho tướng MacArthur yêu cầu biếu tặng đất đai của họ. Nhiều phụ nữ can đảm viết thư đề nghị được hiến thân cho tướng MacArthur, nhiều người còn viết “xin hãy cho tôi được sinh con cho ngài.”

Sáng ngày 16/4/1951, Tổng thống Harry Truman phế bỏ chức Tư lệnh quân chiếm đóng và buộc tướng MacArthur phải về nước, sự kiện này chỉ thông báo cho một số quan chức cấp cao người Nhật biết. Nhưng khi ông ngồi lên ô tô thì mới phát hiện, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng triệu người Nhật Bản đứng hai bên đường đưa tiễn. Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật Bản: Đại nguyên soái!

Người dân Tokyo đứng chật kín hai bên đường, ai nấy rơi nước mắt, họ như hoàn toàn quên chuyện tướng MacArthur là kẻ chiếm đóng đã đánh bại quân đội quốc gia mình. Thiên hoàng đích thân đến sứ quán đưa tiễn MacArthur, tướng MacArthur cũng xúc động rơi nước mắt, nắm chặt hai tay của Thiên hoàng Hirohito.

Khi đưa tiễn, Thủ tướng Yoshida của Nhật nói: “Tướng quân MacArthur đã cứu chúng tôi ra khỏi nỗi sợ hãi, lo lắng và hỗn loạn của thất bại để đưa chúng tôi vào con đường mới do ông xây dựng, chính Ngài đã gieo trồng hạt giống dân chủ trên đất nước chúng tôi để chúng tôi bước trên con đường hòa bình, tình cảm ly biệt mà nhân dân chúng tôi dành cho Ngài không lời nào có thể diễn tả được.”

Uy lực quả bom nguyên tử của Mỹ tàn phá thành phố và nền kinh tế của Nhật Bản, nhưng về phương diện tinh thần, nước Mỹ đã hoàn toàn chinh phục được người Nhật Bản.