Son Dang
Biết rồi mà sao cứ đem ra so sánh hoài !
——————
Trong 43 nền kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam đứng hạng 35, thua Lào (53,6 điểm, hạng 34), Myanmar (53,9 điểm, hạng 33) và Campuchia (58,7, điểm hạng 22).

Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt 5,44)
Sưu tầm – Bình Luận-Sự Kiện
Biết rồi mà sao cứ đem ra so sánh hoài !
——————
Trong 43 nền kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam đứng hạng 35, thua Lào (53,6 điểm, hạng 34), Myanmar (53,9 điểm, hạng 33) và Campuchia (58,7, điểm hạng 22).

NGHĨA TRANG NGHÌN TỶ: CỦA X ĐẤY!
Thấy nhiều người “mắng” oan ông Phúc. Nghĩa trang 1.400 tỷ là dự án từ thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Cái dở của ông Phúc và chính phủ hiện, là không dám xoá bỏ dự án mồ mả X khốn nạn này.
Khốn nạn hơn vạn lần khốn nạn ở chỗ: Nó qui hoạch cho cả vợ/chồng, khi chết cũng được vào đây, bất kể vợ/chồng họ là ai làm gì.
Nhiều người chưa chết, đã nghe thiên hạ đào mồ cuốc mả rồi.
Thêm một lần xin lỗi, như từng xin lỗi sau sự cố đoàn xe vào phố cổ, rồi xoá sổ, cho hoá… cứt cái dự án nghĩa trang X này- Tại sao không, thưa ông Phúc?
Cái sai từ triều Nguyễn Tấn Dũng, là của Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng ông Phúc là người có cơ hội để sửa chữa.
Lịch sử các triều Việt, đã quá nhiều phen đào mồ cuốc mả nhau rồi, thưa các vị!
__________________________
– http://truongduynhat.org/nghia-trang-nghin-ty-cua-x-day/

Nguồn: Chris Patten, “China’s New Emperor”, Project Syndicate, 25/10/2017.
Biên dịch: Nguyễn Lương Sỹ | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Một giai thoại về chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon vào năm 1972 từ lâu được xem như là sự chứng thực cho tầm nhìn dài hạn của các nhà lãnh đạo Trung Quốc về lịch sử. Chu Ân Lai, nhân vật số hai mẫn cán của Mao Trạch Đông, được cho là đã trả lời câu hỏi về các bài học của cuộc Cách mạng Pháp bằng cách nói rằng còn quá sớm để nói lên được điều gì. Nhưng thực tế, theo các nhà ngoại giao có mặt ở đó, Chu không tranh luận về cuộc cách mạng năm 1789, mà là về phong trào nổi dậy của sinh viên ở Paris năm 1968, do đó có lẽ đúng là vẫn còn quá sớm để có thể nói lên điều gì.
Sau sự hiểu lầm này, bài học từ cuộc Cách mạng Pháp đã trở lại với Trung Quốc. Ngay sau Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 vào năm 2012, cuốn The Old Regime and the Revolution (Chế độ cũ và Cách mạng) của Alexis de Tocqueville viết năm 1856 đã trở thành cuốn sách “phải đọc” dành cho cán bộ cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Giá trị của cuốn sách được ca ngợi nhiệt tình nhất bởi Vương Kỳ Sơn, người chèo lái chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình và có lẽ là đồng minh thân cận nhất của chủ tịch Tập.
Toqueville lập luận rằng sự thịnh vượng ngày càng cao của nước Pháp thế kỷ 18 đã thực sự khiến cho việc quản lý đất nước này trở nên khó khăn hơn. Khi người dân trở nên giàu có, họ cũng đồng thời quan tâm nhiều hơn đến bất bình đẳng kinh tế và xã hội và do vậy sự bất bình đối với những người có quyền lực và giàu có ngày càng gia tăng. Những nỗ lực cải cách hệ thống chỉ làm nổi bật thêm tình trạng dễ tổn thương của chính nó. Cách mạng đã theo sau, quét sạch nền quân chủ và tầng lớp quý tộc. Đầu họ đã rơi.
Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 19 mới kết thúc của Trung Quốc đã cho thấy mức độ nằm lòng quan điểm của Toqueville trong giới lãnh đạo Trung Quốc. Ông Tập đã khẳng định quyền lực không tranh cãi của mình đối với Đảng và quốc gia. Tập Cận Bình củng cố vị thế của mình trong suốt nhiệm kỳ đầu tiên, bằng cách đảo ngược phần lớn di sản để lại của Đặng Tiểu Bình, bao gồm việc mở cửa nền kinh tế, tách bạch Đảng ra khỏi chính quyền, và đường lối “giấu mình chờ thời” về chính sách đối ngoại và an ninh.
Tập cũng triệt tiêu các đối thủ tiềm tàng, chủ yếu dựa vào chiến dịch chống tham nhũng sâu rộng nhắm đến các quan chức từng được xem là không thể đụng đến. Ông đã giám sát cuộc thanh trừng lớn nhất từ trước tới nay tại Ủy ban Trung ương Đảng. Ông thẳng tay đàn áp cả những chỉ trích và dấu hiệu bất đồng chính kiến dè dặt nhất, và thậm chí cấm truyện cười trên Internet, gồm cả những hình ảnh hài hước so sánh ông với chú gấu Winnie the Pooh.
Nếu ở một quốc gia khác, những phương thức như vậy có thể gây ra chỉ trích gay gắt, với những cáo buộc rằng hành vi của Tập đã đưa đất nước trở lại chế độ độc tài kiểu Leninist cũ kỹ. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, những phương thức này đã thu hút được những lời ca ngợi từ giới quan sát, những người tin rằng ông Tập đang dẫn dắt con đường hiện thực hóa “giấc mơ Trung Hoa” nhằm phục hưng đất nước.
Nhưng, đối với một vài người, giấc mơ đó đang trên bờ vực trở thành cơn ác mộc. Các xu hướng dân số đang đe dọa biến sự dư thừa lao động vốn mang lại tốc độ tăng trưởng cao cho Trung Quốc trong những thập niên vừa qua thành thiếu hụt lao động với tốc độ chưa từng có. Ô nhiễm và khan hiếm nguồn nước, cùng với phát thải khí CO2 và mức độ ô nhiễm không khí gây chết người đang đe dọa sức khỏe người dân và hủy hoại sự bền vững của nền kinh tế Trung Quốc.
Ngoài ra, tăng trưởng GDP của Trung Quốc, mặc dù rất đáng hoan nghênh, lại đang được tiếp sức chủ yếu bởi sự kết hợp các khoản nợ đang tăng nhanh và bong bóng tài sản tràn lan. Thậm chí các nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng thừa nhận rằng đất nước của họ đang có một trong những mức độ bất bình đẳng thu nhập lớn nhất trên thế giới. Khi mà người nghèo ngày càng nghèo đi, và người giàu mỗi lúc một giàu hơn, nhiều người đang đặt câu hỏi rằng liệu “chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc” thực sự nghĩa là gì.
Dĩ nhiên, luôn luôn có những người lạc quan mang lại những suy nghĩ tích cực. Phần lớn khoản nợ của Trung Quốc là nợ trong nước, bởi lẽ các ưu tiên chính trị đã định hướng việc vay mượn bên cạnh các cân nhắc về mặt thương mại. Trung Quốc ủng hộ các nỗ lực quốc tế nhằm giải quyết suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu. Phần lớn người dân trở nên khá giả hơn, dù không đồng đều. Và chính quyền của Tập ít nhất cũng đang làm điều gì đó nhằm tiêu diệt tình trạng tham nhũng tràn lan trong Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Chúng ta đều nên hy vọng rằng ít nhất cũng có một vài điều mà những người lạc quan về Trung Quốc nói là đúng; nếu sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc sụp đổ, tất cả nền kinh tế toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng. Nhưng, ngay cả khi những người lạc quan đã đúng, thì tuyên bố của ông Tập rằng Trung Quốc đã tìm ra được con đường tốt hơn để vận hành một xã hội và nền kinh tế hiện đại dường như còn lâu mới đúng với thực tế.
Chắc chắn rằng, từ những trò hề ngớ ngẩn của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đến sự trỗi dậy đầy tàn phá của chủ nghĩa dân tộc dân túy ở châu Âu, các quốc gia dân chủ đang phải trải qua phần thử thách của mình. Nhưng các hệ thống dân chủ đều có các cơ chế ổn định hóa nội tại vốn cho phép chúng tự điều chỉnh mà không cần đến việc sử dụng bạo lực hay đàn áp.
Nhưng đó không phải là trường hợp của Trung Quốc dưới thời Tập Cần Bình. Có một tranh luận nghiêm trúc ở Trung Quốc suốt nhiều năm về vai trò đúng đắn của nhà nước trong quan hệ kinh tế. Một phe cho rằng nếu Đảng Cộng sản Trung Quốc nới lỏng sự kiểm soát nền kinh tế, họ sẽ không tránh khỏi việc mất kiểm soát đối với nhà nước. Những người khác biện luận ngược lại: trừ khi Đảng từ bỏ bớt việc kiểm soát nền kinh tế, họ sẽ mất quyền lực chính trị, vì các mâu thuẫn kinh tế sẽ nhân rộng và sự phát triển trở nên kém bền vững hơn. Ông Tập rõ ràng đã nằm trong nhóm ủng hộ vai trò lớn hơn của nhà nước.
Nhưng không chỉ có Đảng là đối tượng mà ông Tập làm gia tăng quyền lực, ông cũng gia tăng quyền lực cho cả chính mình. Thực tế, khó để biết được ai đang thăng cấp trong nấc thang quyền lực của Đảng và ai sẽ bị triệt hạ bởi bất đồng ý kiến với nhà lãnh đạo tối cao. Điều đó không ngăn cản được những người ngoài cuộc suy đoán, nhưng trò chơi phỏng đoán này cũng chẳng có ích gì. Tập, cũng giống như bất kỳ vị hoàng đế nào khác, sẽ tiếp tục bổ nhiệm những cận thần đi theo con đường mà ông dẫn dắt.
Nhưng quyền lực cao sẽ đi kèm với trách nhiệm lớn – và, ở điểm này, quyền lực của Tập gần như tuyệt đối. Đó sẽ là gánh nặng cho một người duy nhất. Tập có thể thông minh hơn nhiều so với Trump (vốn không phải là một đối thủ khó khăn để vượt qua), nhưng điều đó là không đủ để bảo đảm một tương lai ổn định và thịnh vượng cho Trung Quốc. Và, nếu mọi thứ chệch hướng, tất cả đều biết sẽ phải đổ lỗi cho ai. Đó là lý do tại sao các triều đại độc tài thường có chung một kết cục. Chẳng cần phải đọc Toqueville mới nhận ra điều này.
Chris Patten, Thống đốc người Anh cuối cùng của Hong Kong và cựu Ủy viên đối ngoại của Liên minh châu Âu, là Hiệu trưởng trường Đại học Oxford.
Bởi AdminTD
Lò Văn Củi
4-2-2018
Ông Hai Xích lô nói:
– Ông Ba Hu sướng nghen, khi “ra đi” được nằm ở nơi đẹp đẽ, sạch sẽ, yên tĩnh, gần đồng chí, nghe nói còn có chỗ cho người bạn đời nữa.
Ông Ba đáp:
– À, vụ chuẩn bị xây nghĩa trang, nhà tang lễ 1.400 tỷ chứ gì, đó là dành cho cán bộ cao cấp, tui đâu có cửa.
Anh Bảy Thọt tiếp:
– Thì rất hay nhân rộng mô hình, hay tâm tư khi nơi mình chưa có, và làm để kiếm ăn, sẽ xây dựng thôi. Ông Ba lo gì.
Ông Ba lắc đầu:
– Thôi, thôi. Tao cũng kiếm chỗ nho nhỏ ở quê với bà con dòng họ rồi Năm. Hổng ham hố đua chen, chắc chắn sẽ có tranh giành, chung chi, mua bán, bè phái… Bà con cô bác đang chửi cho thúi đầu, chửi đủ kiểu ai cũng nghe hết rồi đó.
Ông Thầy giáo khen:
– Vậy là yét sờ a ra phát hen (tiếng lóng: Yes, sir tương đồng tên của ông Yasser Arafat). Coi bộ anh Ba ngồi với dân đen lâu ngày có tiến bộ, quay đầu về với dân. Và chính anh nói nghen, bè phái, tranh giành…
Anh Năm Ba gác nhún vai:
– Ở trên này bè phái, tham lam tàn độc, chống lại dân chưa đủ, xuống dưới tiếp tục hen.
Anh Bảy gật đầu:
– Chết rồi vẫn còn ám dân, ám cả dân tộc chắc không nhấc đầu lên nổi!
Ông Hai Xích lô trố mắt:
– Bớt giỡn nghen Bảy. Các ông là cán bộ, có nghĩa là có đảng, đảng Cộng sản à nghen. Nói vậy các ông là… các đảng, là cô hồn, âm binh thiên tướng sao?
Ông Thầy giáo trả lời:
– Tiêu chí của đảng Cộng sản là gi? Là đem lại bình đẳng cho mọi thành phần, mọi tầng lớp người; là đem lại ấm no hạnh phúc cho dân chúng; là làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh… Người Cộng sản là người thực thi để có điều này.
Nhưng có như vậy đâu, họ làm ngược lại hết.
Đã từ lâu rồi chứ không phải ngay bây giờ. Như thời bao cấp, cán bộ có tiêu chuẩn riêng, gấp nhiều lần dân chúng, dân đen được 3gr (lạng) thịt thì cán bộ được từ 4 đến 6 ký, có cửa hàng bán riêng cho cán bộ, có tiêu chuẩn tàu xe, có ban chăm sóc sức khỏe riêng, có nhà khách sạn sang trọng riêng…
Bây giờ không bao cấp nữa nhưng các tiêu chuẩn về chăm sóc sức khỏe, nhà khách… vẫn còn đó. Cán bộ đi xe ngày càng xịn, dân chúng đi xe buýt sập xệ, đường xá ngày càng ngập nước, kẹt xe… Cán bộ ở biệt phủ, dân chúng ở nhà chung cư chen chúc. Con cái cán bộ học ở nước ngoài, ở các nước “tư bản giãy chết”, con cái dân đen nhiều nơi còn lội bộ trong sình lầy tới tường hàng chục cây số…
Ôi thôi! Kể ra biết bao nhiêu bất công cho xiết. Ngay cả những người họ tôn vinh là Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, đã từng cưu mang họ mà còn bị đối xử bất công. Rồi những người lính bỏ xác nơi chiến trường từ những chiến lược của họ cũng bị bỏ rơi, những người lính ở chiến trường Tây Nam, ở chiến trường phía Bắc chống Trung Quốc xâm lăng, ở hải đảo… chẳng nghe nhắc gì tới dù trên nửa cửa miệng của họ.
Một tiêu chí nữa cũng không kém phần quan trọng. Đó là, đã là người Cộng sản thì không có tâm linh, là vô thần. Vậy sao khi chết đi không hỏa táng, để “cát bụi trở về với cát bụi”?
Như vậy thì thằng Bảy, thằng Năm nói đâu có sai. Với tui thì, không thể có được người Cộng sản, đảng Cộng sản.
Bà con cô bác càng nghe càng mệt mỏi, càng nhức cái đầu. Ông Hai Xích lô gãi gãi đầu:
– Ở trên trần họ lấy tiền dân xài. Xuống dưới còn bắt dân cúng cô hồn nữa. Chứ không thì quậy hoài, dễ gì yên. Trời ơi, dân tui! Trên đe dưới búa, sống sao nổi hở Trời!
© Copyright Tiếng Dân





CỦA CẢI VÀ VỊ THẾ CỦA NGƯỜI CHẾT
Chết rồi còn muốn phân chia giai cấp và vị thế bằng cách xây nghĩa trang thật nguy nga dành riêng cho cán bộ cấp cao an táng.
Thế mới biết Karl Marx nói đúng, chỉ có loài súc vật mới quay lưng lại với đồng loại để chăn bẵm cho bộ lông của mình.
Đất nước còn nghèo, thuộc các quốc gia của thế giới thứ ba, thu nhập thấp, môi trường ô nhiễm, giáo dục tụt hậu, gần 1/4 (tức khoảng 20 triệu người) dân số sống ở mức đói, nghèo, cận nghèo. Nhiều nơi trẻ em không có trường để học, không có đường hay cầu qua sông, suối để đến lớp. Công nhân sống đời sống khổ cực và bấp bênh, bảo hiểm ít ỏi và khó khăn trong việc thụ hưởng. Việc nghiên cứu và đầu tư vào công nghệ, khoa học, y tế hay an sinh xã hội, họ thường nại ra là không có đủ tiền để thực hiện.
Nhưng thử nhìn vào những tượng đài nghìn tỷ, những dự án đắp chiếu hoặc thua lỗ hàng chục, thậm chí hàng trăm nghìn tỷ nhan nhản rải khắp trên cả nước. Nay thì còn có thêm dự án mà người sống lo cho xương cốt có nơi trú ngụ lộng lẫy và trang hoàng như vua chúa xưa kia thường hay làm khi chết.
Người sống thì còn không đủ ăn, đủ mặc, không đủ phương tiện đến trường, nợ công thì tăng cao làm kiệt quệ ngân khố, nhiều tỉnh còn làm công văn xin hỗ trợ gạo hoặc ngân sách để có tiền chi trả cho các hoạt động thường xuyên của địa phương, nhiều nơi còn nợ lương công chức, viên chức. Thế mà họ rảnh rang lại bày ra dự án lên tới hàng ngàn tỷ chỉ để lo khi lìa đời họ vẫn được hưởng vinh hoa phú quý.
Người Do Thái có đạo Do Thái giáo và họ được giáo dục rằng, tài sản là do Chúa ban tặng cho mỗi người để quản lý và họ có trách nhiệm làm sinh sôi nó nhiều hơn lên, đồng thời với đó là việc người Do Thái luôn tâm niệm phải biết cho đi tài sản (mà thực chất là thuộc sở hữu của Thượng đế), phải khiến người khác cũng giàu có lên như mình. Thế nên đi đâu, sống ở nơi nào, thời kỳ nào, họ cũng luôn làm cho không chỉ họ trở nên thành đạt mà họ còn khiến cộng đồng người của họ cũng trở nên thịnh vượng.
Karl Marx và Lenin lập ra luận thuyết của mình với mong muốn sẽ xoá bỏ đi giai cấp người trong một xã hội (và không còn nhà nước), nhưng thế hệ các quốc gia tiếp nhận chủ thuyết này, mặc dù là những chủ nghĩa sai lầm cả về mặt lý luận học thuật nội tại lẫn thực tiễn, đã khiến sự phân định giai cấp ngày càng trở nên rõ nét và khủng khiếp hơn, đến cả khi chết họ vẫn cần có một khuôn viên riêng dành cho 4 từ “cán bộ cao cấp” như là một sự phân định lố bịch nhất.
Có bao nhiêu trí thức sẵn sàng đoàn kết?
Ngày xưa Quản Trọng đề cử Thấp Bằng làm thừa tướng sau khi mình mất với Tề Công chỉ vì Thấp Bằng luôn hạ thấp mình với kẻ dưới.
Ngày nay cái dở của trí thức là chờ người tìm mình … đã vậy có khi người ta tìm mình mình lại chảnh chẳng thèm trả lời …. trí thức như vậy mong gì cho tương lai Việt Nam ??
Ôi …trí thức làm được như trí thức trong clip này được mấy người ??
PHẢN KHÁNG PHI BẠO LỰC SẼ THAY ĐỔI BẤT CỨ CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI NÀO!
Biểu tình ôn hoà với 3,5% dân số sẽ chuyển đổi dân chủ cho mọi chế độ độc tài toàn trị theo nghiên cứu từ thực tế mới nhất của các học giả Khoa Học Chính Trị hiện đại. Tại Serbia phong trào Otpor chỉ 70 nghìn thành viên, chưa đầy 1% dân số (7,6 triệu dân – 1998) là một minh chứng.
Trong 1 thể chế độc tài, nơi mà từng thế hệ người dân được lớn lên, được giáo dục trong mái trường XHCN, một xã hội giam cầm tư tưởng không chỉ bằng dùi cui, nhà tù mà còn là tự kiểm duyệt lẫn nhau thì chờ đến khi nào dân trí, dân khí toàn dân mới thay đổi ?
Với Việt Nam chúng ta có 3,5% x 90 triệu dân = 3,15 triệu dân mong muốn đất nước thay đổi, mong muốn tự quyết định thể chế, tự chọn lựa chính phủ. Chỉ ngần ấy người dân thức tỉnh là đủ. Vậy làm thế nào để có được những cuộc biểu tình như thế này? Điều kiện cần là làm sao ngần ấy người thể hiện cùng một chỗ, cùng một lúc?
Ngày 8/1 sinh nhật lãnh đạo tối cao Triều Tiên Kim Jong-Un, tờ Economist thực hiện một video phỏng vấn Popovic nhà hoạt động người Serbia về cách thức chuyển đổi dân chủ cho một chế độ độc tài:
1. Biết dân cần gì
2. Sẵn sàng hợp tác với người không hợp cạ
3. Không có phong trào tự phát nào mà thành công
4. Đoàn kết và bất bạo động
5. Chính phủ nước ngoài không có “bạn”, họ chỉ có quyền lợi
6. Họ sẽ gọi bạn là phản động, bất mãn, nghiện ngập, bán nước hoặc khủng bố…
7. Click like trên Facebook không thay đổi được gì
8. Đừng lật 1 chế độ độc tài để lập ra 1 chế độ độc tài khác
Nếu nghĩ dân chủ là thứ cho không, được miễn phí thì thật nguy hiểm. Dân chủ giống như tình yêu, phải xây dựng và vun đắp mỗi ngày.
Xem từ youtube https://youtu.be/QpDeCz2Daes
———-
Có dân chủ thì có tự do, có tự do thì có sáng tạo, có sáng tạo mới phát triển. Chỉ 2 phút để mỗi công dân góp phần đưa Việt Nam thay đổi sang dân chủ 1 cách ôn hoà, văn minh bắt đầu bằng 1 cuộc trưng cầu dân ý.
2 phút ký tên tại đây: www.civilrightvn.org
Trân trọng
nhóm THEO THỨC (thức followers) – theo sự ý thức, tri thức và thức tỉnh của mình.
Thơ Bùi Giáng: Ta là CÁT ta sẽ vể với BỤI
Bùi Giáng (1926–1998), là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng…Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa nguồn.

Người ta nói Bùi Giáng là nhà thơ điên. Qúi vị đọc bài dưới đây xem Ông có điên không! Phải chăng chỉ là Ông đã ngộ lý nhiệm mầu của Trời Đất
Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ!
Ta cứ ngỡ xuống trần chỉ một chốc …
Nào ngờ đâu ở mãi đến hôm nay!
Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ
Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi
Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ
Khi trở về cát bụi cũng trắng tay
Cuộc đời ta phù du như cát bụi
Sống hôm nay và đâu biết ngày mai ?
Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi
Rồi cũng về với cát bụi mà thôi
Thì người ơi! Xin đừng ganh đừng ghét
Ðừng hận thù tranh chấp với một ai
Hãy vui sống với tháng ngày ta có
Giữ cho nhau những giây phút tươi vui
Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc
Vì đời ta đã sống trọn kiếp người
Với tất cả tấm lòng thành thương mến
Ðến mọi người xa lạ cũng như quen
Ta là Cát ta sẽ về với Bụi
Trả trần gian những cay đắng muộn phiền
Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy
Không còn buồn lo lắng chốn trần ai!
httpv://www.youtube.com/watch?v=jlR8c5e1974
httpv://www.youtube.com/watch?v=f8fT_3Ltbmo
httpv://www.youtube.com/watch?v=MqF-7f5dz8E
Nguồn: SỐNG ĐẸP
Đối thoại với những người trẻ là một điều thú vị, vì đó là hành trình để nhận biết xem tương lai của một quốc gia rồi sẽ như thế nào.
Thật may mắn khi có được một cuộc đối thoại như vậy với Ngọc Kim, thư ký phân ban hải ngoại của Hội Sinh viên Nhân quyền (Hội SVNQ). Kim sinh năm 1992 và đang sống ở Anh Quốc, nơi có rất nhiều người trẻ tuổi ở miền Bắc Việt Nam đến du học.
Chỉ đến khi sinh viên Trần Hoàng Phúc bị bắt và áp vào cáo trạng “tuyên truyền chống Nhà nước” theo điều 88 BLHS, thì hình ảnh của Hội SVNQ mới xuất hiện rõ trong công chúng ở VN. Bằng một giọng Bắc nhỏ nhẹ và thận trọng, nhưng Ngọc Kim cũng không thể giấu được sự phấn khích của mình khi nói về Hội SVNQ và những ước mơ cho tương lai – ước mơ không phải cho riêng các bạn của Hội, mà ước mơ cho một Việt Nam cần-thay-đổi.
So với các bàn thắng bóng đá hay bữa tiệc bikini trên máy bay, thì bản ghi chép này thật nhàm chán. Nhưng nếu những nhà lãnh đạo Việt Nam dành chút thời gian để đọc và chân thành hiểu được những gì tuổi trẻ Việt Nam đang nghĩ, thì có lẽ họ cũng sẽ sớm nhận ra rằng khi một đất nước miệt mài với những cuộc vui và chỉ số hạnh phúc, cũng vô cùng giả tạo và nhàm chán, như chính bản thân họ vậy.
———————–
Tuấn Khanh: Hội Sinh viên Nhân Quyền (Hội SVNQ) của các bạn dường như còn khá mới mẻ đối với công chúng ở Việt Nam. Bạn có thể nói sơ qua về Hội của mình, cũng như cho biết Trần Hoàng Phúc đóng vai trò như thế nào đối với Hội?
Ngọc Kim: Vâng, ý tưởng thành lập một hội sinh viên độc lập thì đã có từ năm 2014. Khi đó, một bạn sinh viên tìm đến gặp một giáo sư vật lý và trình bày về ý tưởng thành lập một Hội sinh viên độc lập, và được vị giáo sư ủng hộ. Tuy nhiên ông không tiện ra mặt công khai vận động, mà chỉ âm thầm ủng hộ các bạn trẻ. Rồi các bạn sinh viên cùng chí hướng cũng đã âm thầm liên kết với nhau. Trong nhóm lúc đó, mỗi người có một khả năng nhưng thiếu người am hiểu về pháp luật. Cơ duyên đến khi sinh viên luật Trần Hoàng Phúc đến với nhóm.
Từ lâu, Phúc cũng có ý tưởng thành lập một Hội sinh viên độc lập như thế rồi, cho nên các bạn trong nhóm rất dễ làm việc với nhau. Từ đó Phúc là người lo cho Hội về phương diện pháp luật và phương pháp tổ chức hội đoàn, lập kế hoạch cho Hội hoạt động lâu dài. Ở thời điểm Phúc đang bị gán ghép những tội danh bất lợi, phía Hội chỉ có thể tiết lộ được đôi điều như vậy về Phúc mà thôi ạ.
Tuấn Khanh: Vì sao các bạn chọn cố vấn cho Hội SVNQ là bác sĩ Nguyễn Đan Quế? Việc mời một nhân vật hoạt động chính trị – đặc biệt là bị sự giám sát rất ngặt nghèo từ phía chính quyền, là ý tưởng như thế nào?
Ngọc Kim: Ý kiến chung của các bạn khi mời bác sĩ Nguyễn Đan Quế, không phải với tư cách ông là một nhà đối lập chính trị, mà là trong tư cách một nhà khoa học. Bác sỹ Nguyễn Đan Quế là một sinh viên xuất sắc dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Khi mới tốt nghiệp trường y, bác sỹ Quế được Liên Hợp Quốc trao học bổng đi tu nghiệp về ngành Y khoa Nội tiết (Endocrinology). Khi về nước, ông giữ chức Giám đốc Khu Nội khoa Bệnh viện Chợ Rẫy bệnh viện Chợ Rẫy. Ông cũng làm giảng viên tại đại học Y-Dược TP.HCM, với mục tiêu lớn là cải cách nền học thuật Việt Nam. Hội SVNQ đã rất vinh dự khi đã mời nhà khoa học lớn này về làm cố vấn cho mình. Ngoài ra, tất cả các bạn trong Hội SVNQ đều tin rằng việc bác sĩ Nguyễn Đan Quế, một trí thức đối lập có tên tuổi tham gia cố vấn, còn làm tăng thêm uy tín của Hội sinh viên nhân quyền.
Hiện tại, Hội còn có một vị cố vấn đặc biệt nữa, đó là giáo sư quốc tế Nguyễn Đăng Hưng. Ông là giáo sư thực thụ tại đại học Liège, vương quốc Bỉ, được hoàng gia Bỉ trao tặng danh hiệu hiệp sĩ cho những đóng góp to lớn cho đất nước này. GS.Nguyễn Đăng Hưng được báo chí Bỉ vinh danh là 1 trong số 10 người làm thay đổi nước Bỉ, ông đã về nước và giúp nhà nước Việt Nam đào tạo ra nhiều nhân tài về cơ học, trong đó kể đến tiến sĩ Nguyễn Xuân Hùng. Hiện Gs .Hưng là cố vấn đặc biệt cho chuyên mục Cải cách học thuật .
Chính sách của Hội SVNQ là mời gọi nhiều nhân tài khoa học và những nhân tài trên nhiều lĩnh vực. Hội SVNQ luôn mở cửa chào đón những sinh viên có thực tài và có mong ước tốt đẹp cho xã hội và đề xuất được các chương trình để cải tạo đất nước
Tuấn Khanh: Thêm một điều tò mò nữa, nhờ các bạn giải thích là vì sao Hội SVNQ lại gắn với ý nghĩa “nhân quyền”. Theo nhận định của các bạn đời sống đại học và sinh viên hiện nay như thế nào, khiến có sự ra đời của Hội?
Ngọc Kim: Vâng, khi chọn danh từ “nhân quyền” như trong tên gọi, Hội SVNQ đã lường trước được nội hàm ý nghĩa rất rộng của từ “nhân quyền”. Nhân quyền, hay gọi cách khác là quyền con người, thì ai cũng có và cũng cần được trân trọng. Nhưng cách hiểu về nhân quyền của mỗi người khác nhau. Ví dụ, cách hiểu về nhân quyền của người phương Đông khác với người phương Tây, và cách hiểu về nhân quyền của giai cấp bị trị chắc chắn khác biệt cách hiểu của giai cấp thống trị. Trong bất kỳ xã hội nào, ai cũng muốn bảo vệ quyền-con-người của mình, cho nên luôn luôn có những xung đột về vấn đề nhân quyền. Do đó lý tưởng hoạt động vì nhân quyền của Hội SVNQ sẽ là một chặng đường rất dài.
Tuấn Khanh: Điều gì khiến cho các bạn tin rằng sinh viên Việt Nam hiện nay cần suy tư, và quan tâm đến nhân quyền?
Ngọc Kim: Tình hình nhân quyền ở Việt Nam hết sức phức tạp. Nhiều mảnh đời bất công trong xã hội không được ai bênh vực, hỏi nhà nước thì nhà nước lắc đầu làm ngơ không trả lời, hỏi người nước ngoài, thì người ta ở xa làm sao can thiệp kịp? Do đó, cần có những tổ chức bảo vệ nhân quyền thiết thực ở trong lòng xã hội, và tổ chức đó phải độc lập. Sinh viên Việt Nam là một thành tố quan trọng trong ý nghĩa đó. Sinh viên Việt Nam cần quan tâm đến nhân quyền bởi vì tất cả sinh viên đều là con người, thậm chí những con người đó chuẩn bị ảnh hưởng rất lớn làm thay đổi xã hội. Nếu quyền của một sinh viên bị xâm phạm thì cũng tức là quyền của cả một xã hội đang bị xâm phạm. Bằng cách này hay cách khác, sinh viên nào quan tâm đến nhân quyền đều có thể tác động thay đổi vận mệnh dân tộc.
Tuấn Khanh: Có vẻ như các bạn đang đi tìm một tính độc lập của khối đại học, cũng như tinh thần độc lập của giới sinh viên so với sự thực tế giáo dục hiện nay. Các bạn có lưu tâm về vấn đề lịch sử và so sánh sự khác biệt tinh thần đại học hiện nay, so với trước năm 1975?
Ngọc Kim: Hiện nay, thời xã hội chủ nghĩa, có thể nói sinh viên đa số không có được tinh thần độc lập như các sinh viên thời Việt Nam Cộng Hòa trước 1975. Sinh viên trước 1975 độc lập trong suy nghĩ hơn và có nhiều sáng tạo hơn, trình độ cao hơn, khả năng ngoại ngữ vượt trội hơn. Thời Việt Nam Cộng Hòa, từ khi còn là học sinh các bạn đã được hưởng một nền giáo dục khai phóng và nhân bản, đến khi lên đại học thì các bạn sinh viên đã là những người giỏi giang, là tài sản của quốc gia. Còn bây giờ, kể từ sau 1975, nền giáo dục trói buộc con người, áp đặt học sinh phải nghĩ theo một con đường định sẵn, cho nên học sinh và sinh viên mái trường xã hội chủ nghĩa như bị rối loạn nhân cách, bằng chứng là rất nhiều người khó hòa nhập được với trào lưu chung của sinh viên quốc tế.
Phải nói thêm rằng giáo sư, giảng viên của khối đại học sau 1975 cũng không được như trước 1975. Không có tự do ngôn luận nên nhiều giáo sư, giảng viên đại học thời nay không có tư tưởng, cho nên đào tạo ra những sinh viên không có tư tưởng. Khi không có tư tưởng thì một người lao động chỉ là công nhân, khi có tư tưởng rồi thì anh mới là nhà báo, nhà văn, nhà chính trị… Nhưng nói cho cùng, cũng không thể trách là các thầy cô hèn nhát được, vì bất kỳ thầy cô nào suy nghĩ độc lập và dạy học sinh tư duy phản biện thì sẽ bị trù dập, thậm chí phải đối diện nhà tù. Không được các giáo sư khích lệ nên sinh viên cứ tư duy theo lối mòn, không dám độc lập suy nghĩ.
Sinh viên của hai giai đoạn này khác biệt nhau rất nhiều. Sự khác biệt lớn nhất nằm ở tư tưởng. Theo quan điểm của Hội, sinh viên thời chính quyền Sài Gòn – Việt Nam Cộng Hòa có tư tưởng và dám đấu tranh cho lý tưởng, nhưng sau năm 1975, tỉ lệ này trong sinh viên chỉ chưa đầy 1%.
Chính vì vậy khi thấy giáo sư Nguyễn Đăng Hưng là một con người tự do vào làm cố vấn, đã có không ít bạn trẻ nộp đơn để được tham gia Hội Sinh viên Nhân quyền. Tụi em rất vui và tin rằng nhiều bạn trẻ sẽ nhìn ra được rằng xã hội này đã đến lúc cần thay đổi.
Tuấn Khanh: Được biết các bạn là một Hội sinh viên sinh hoạt về các quyền và giá trị con người, theo cách của giới trí thức ôn hòa và bình thường theo hiến pháp/luật pháp, nhưng tại sao hiện nay các thành viên của các bạn phải đánh số như mật danh?
Ngọc Kim: Lý do là trải qua 6 tháng hoạt động đầu tiên, bị cơ quan an ninh điều tra theo dõi nên Hội phải áp dụng phương thức thay tên bằng mã số để đảm bảo an toàn cho các Hội viên. Nay thời gian nửa năm đã trôi qua, Hội đã lớn mạnh và mới đây đã dần xóa bỏ mã số cho tất cả các hội viên và chính thức sử dụng tên. Dĩ nhiên, tên này có thể là tên thật hoặc bí danh. Một khi Việt Nam sớm có luật tự do lập hội đoàn, thì tất cả các hội viên Hội sinh viên nhân quyền sẽ cùng thể hiện tên thật và công khai thực hiện các chương trình tái thiết đất nước của mình.
Tuấn Khanh: Cũng liên quan về việc sinh hoạt các quan điểm xã hội, cũng như ứng dụng tri thức căn bản truyền thông trong đời sống, nhưng một thành viên của các bạn là sinh viên Trần Hoàng Phúc đã bị kết tội theo điều 88 tức “tuyên truyền chống nhà nước”. Các bạn nhận định như thế nào về điều này?
Ngọc Kim: Cần nói rõ bạn Trần Hoàng Phúc là một sinh viên vô cùng năng động. Bạn Phúc có mặt bao quát trên nhiều lĩnh vực, giúp đỡ cho nhiều hội đoàn. Tháng 7 năm 2017, nhà cầm quyền dùng luật điều 88 để bắt Phúc, với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước”. Nhưng đây là một tội danh hết sức mơ hồ. Nếu một điều nói thật mà nhà nước coi là chống nhà nước, thì nhà nước nên lại xem lại, là tại sao chỗ nào cũng có người chống nhà nước? Đó là vì nhà nước làm việc không theo sự thật. Bởi không có sự thật trong nhà nước cho nên nhà nước phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác và sẽ có những người bất mãn dùng truyền thông để nói lên sự khác biệt. Trường hợp Trần Hoàng Phúc, theo như Ngọc Kim được biết, thì Phúc muốn dùng truyền thông để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn.
Một đất nước văn minh phải có năm cột trụ: tam quyền phân lập, tức là lập pháp-tư pháp-hành pháp độc lập với nhau, cột trụ thứ tư là tự do báo chí, cột trụ thứ năm là công đoàn độc lập. Nhà nước muốn đập bỏ cột trụ thứ tư thì tức là đang đập bỏ một phần của nền văn minh nhân loại. Tất nhiên Hội SVNQ không nghĩ rằng mọi thành phần của nhà nước đều phản văn minh như vậy, mà rõ ràng, một phía bảo thủ nào đó, có lợi thế cầm quyền đang muốn ngăn cản quyền tự do báo chí mà thôi. Trần Hoàng Phúc đấu tranh cho cột trụ thứ 4 của một nước văn minh là tự do báo chí, cho nên bạn ấy tất nhiên bị phía lực lượng phản văn minh muốn bỏ tù.
Tuấn Khanh: Tương tự như Hoàng Chí Phong ở Hồng Kông, Phan Kim Khánh hay Trần Hoàng Phúc đều là những sinh viên trẻ, có hoạt động phản biện và chủ trương ước mơ cho đất nước được thay đổi tốt đẹp hơn. Kim Khánh đã có một bản án, và Phúc cũng vậy và bị đặt ở phía kẻ có tội, các bạn nghĩa sao về điều này?
Ngọc Kim: Cùng bị kết tội chống đối chính quyền, nhưng Hoàng Chi Phong ở Hồng Kông có điều kiện dễ dàng hơn Phan Kim Khánh và Trần Hoàng Phúc ở Việt Nam. Hồng Kông có tự do ngôn luận và thượng tôn pháp luật, đặc trưng của các nước thuộc địa Anh quốc. Giới trẻ Hồng Kông hết thảy đều biết về Hoàng Chi Phong và ủng hộ Hoàng Chi Phong, cho nên Trung Quốc cũng không dám bỏ tù Hoàng Chi Phong với án nặng. Nhưng ở Việt Nam, báo in bị nhà nước kiểm soát gắt gao, họ muốn bưng bít về giới sinh viên bất đồng chính kiến, nên trong nước vẫn chưa nhiều người biết đến Trần Hoàng Phúc và Phan Kim Khánh, Ngọc Kim nghĩ rằng hiện chỉ mới khoảng 20% dân số biết đến những việc làm của hai sinh viên này mà thôi.
Tại Hồng Kông, ít nhất cũng khoảng 95% dân số nước này biết đến Hoàng Chí Phong. Sự ngưỡng mộ của dân chúng đối với Hoàng Chí Phong có ở mọi con phố ở Hồng Kông, làm cho nhà cầm quyền chỉ dám giam giữ người sinh viên này vài tháng đến nửa năm. Còn như Phan Kim Khánh, vì xã hội còn ít người biết đến cho nên tòa án độc tài bỏ tù anh đến 6 năm. Nhưng từ ngày 31/01, Trần Hoàng Phúc ra tòa, tình hình có thể sẽ khác bởi thông tin ngày càng lan tỏa, và hiện đã có nhiều người hơn, trên khắp cả nước biết đến Phúc. Bản án đặt lên Trần Hoàng Phúc có thể tạo những cột mốc mới đối với tình hình chính trị Việt Nam.
Và Ngọc Kim tin rằng, dù ở Hồng Kông hay Việt Nam, nếu Hoàng Chi Phong hay Phan Kim Khánh, Trần Hoàng Phúc bị kết tội thì cho thấy một điều rằng, ở mọi quốc gia, sinh viên độc lập là lực lượng mạnh mẽ nhất có thể thay đổi xã hội .
Tuấn Khanh: Cám ơn sự bộc bạch của các bạn, và xin hỏi một câu cuối, là khi chọn một sự khác biệt với nhà nước, đồng nghĩa với chọn đối diện áp lực. Lúc này áp lực mà các bạn đang đối diện thì như thế nào? Các bạn có ước mơ gì cho tương lai?
Ngọc Kim: Dạ, Hội chúng em bị an ninh nhà nước kiểm soát liên tục. Một bạn sinh viên chỉ like và share một status của fanpage Hội thôi mà đã bị công an tỉnh mời lên rồi đe dọa. Có bạn hội viên bị công an đến quấy nhiễu công ăn việc làm. Một bạn khác bị tình nghi tham gia Hội thôi mà đã bị tin tặc tổ chức cướp mất mật khẩu Icloud. Một bạn khác bị phá tài khoản Facebook và Gmail nhưng cuối cùng may mắn vẫn giữ được. Như em thì gia đình cũng bị ảnh hưởng và liên lụy, nhưng vì Kim tin việc Kim làm không có gì sai trái nên vẫn không thay đổi.
Không phải riêng Kim, mà tất cả các bạn đều mơ ước Hội sinh viên nhân quyền sẽ là Tổ chức độc lập của sinh viên Việt Nam: Tập hợp của những sinh viên có mong muốn cải cách học thuật, minh bạch giảng đường và thúc đẩy các giá trị nhân quyền trong giới sinh viên. Với một lý tưởng như vậy, chắc mọi người quan tâm có thể hình dung được phần nào diện mạo của Hội SVNQ trong tương lai.
CHUYẾN TAXI CUỐI CÙNG CỦA ĐỜI NGƯỜI
Hai mươi năm trước đây, tôi lái xe tắc xi để kiếm sống. Một đêm có người gọi xe ở khu chung cư vào lúc 2 giờ 30 sáng. Tôi đến nơi, các dẫy nhà đều chìm lẫn trong bóng đêm ngoại trừ ánh sáng mù mờ từ khung của sổ kéo màn kín.
Trong trường hợp này, các người lái xe thường nhấn còi một hay hai lần và chờ khoảng một phút, nếu không thấy động tĩnh gì là họ lái xe đi….
Nhưng tôi cũng biết rất nhiều người nghèo không có xe cộ gì cả và tắc xi là phương tiện di chuyển duy nhất mà họ trông cậy trong những hoàn cảnh đặc biệt hay trong những giờ giấc bất thường…. Trừ khi linh cảm có gì nguy hiểm ngăn cản, tôi thường ra khỏi xe và đi đến tận cửa, tự nhủ biết đâu có người đang cần tôi giúp…
Nghĩ như thế tôi bước tới gõ cửa.
“Xin chờ một chút” giọng nói rõ ràng là của một người già nhưng vẫn có phần trong trẻo và tôi có thể nghe tiếng của các vật dụng dường như đang bị kéo đi trên sàn nhà… Vài phút sau, cửa mở, một bà cụ khoảng 80 tuổi đứng ngay trước mặt tôi. Cụ mặc chiếc áo đầm dài in hoa, đội cái mũ trắng xinh xắn với giải lụa gài chung quanh, trông giống y như một người nào đó từ cuốn phim của những năm 1940 chợt bước ra, với chiếc va ly vải bên cạnh. Sau lưng cụ, căn phòng chung cư trống trải như quanh năm không có ai cư ngụ, tất cả bàn ghế đều được phủ kín bằng những tấm trải giường. Liếc nhìn qua vai cụ, không có bất kỳ vật dụng nào trên quầy trong bếp hay trên tường cả, và sát chân tường trong góc phòng tôi có thể thấy mấy cái thùng giấy đầy những ly tách và khung ảnh sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp.
– Phiền ông mang giúp tôi cái va ly này ra xe…
Tôi đem chiếc va ly cất ở thùng xe phía sau và quay trở lại giúp bà cụ. Cụ nắm cánh tay tôi và từng bước một, tôi dìu cụ xuống đường hướng về chiếc xe… Cụ luôn miệng nói cám ơn…. “Không có chi, thưa cụ” tôi nói, “cháu coi những người lớn tuổi như là mẹ của cháu vậy.” Cụ trả lời: “Ông tử tế lắm.”
Sau khi giúp cụ yên ấm trên băng ghế sau, tôi ngồi vào ghế lái và nổ máy xe. Cụ đưa cho tôi tờ giấy ghi địa chỉ nơi cụ muốn đến và hỏi tôi, rất nhỏ nhẹ:
– Ông có thể chạy ngang qua dưới phố cho tôi một chút không…
Liếc mắt vào tờ giấy ghi địa chỉ, tôi buột miệng:
– Nếu lái xuống phố thì đường xa hơn và lâu hơn nhiều….
– Cứ thong thả, ông à, không có gì vội vã cả, tôi trên đường tới hospice (nhà dành cho những người sắp từ giã cuộc sống) thôi…
Tôi ngước mắt nhìn, qua tấm gương chiếu hậu, đôi mắt cụ long lanh trong bóng tối.
– Tôi không còn ai thân thích trên cõi đời này, và bác sĩ đã nói tôi cũng chẳng còn bao lâu nữa, hai hay ba tuần là nhiều….
Với tay tắt cái máy ghi khoảng cách và tính tiền, tôi hỏi một cách lặng lẽ:
– Thưa cụ muốn đi qua đường nào trước……
Trong hơn hai giờ kế tiếp, chúng tôi hầu như đi loanh quanh qua từng con đường trong các khu phố. Cụ chỉ cho tôi toà nhà nhiều tầng mà một thời cụ đã làm người điều khiển thang máy. Tôi lái xe qua một khu phố với những căn nhà nhỏ đã cũ nhưng xinh xắn, cụ nói với tôi ngày trước khi mới lập gia đình cụ đã ở trong khu này, và chỉ cho tôi căn nhà loang loáng dưới ánh đèn đêm…. Nhìn ánh mắt lưu luyến của cụ, tôi như thấy một trời quá khứ thương yêu đằm thắm của đôi vợ chồng trẻ.
Cụ ra hiệu cho tôi ngừng xe trước nhà kho của cửa tiệm bán giường tủ, bàn ghế, nhẹ nhàng bảo tôi trước đây chỗ này là một vũ trường sang trọng và nổi tiếng, cụ đã từng hãnh diện đến đây khiêu vũ lần đầu khi là một thiếu nữ mười sáu tuổi… Trong giọng nói cụ tôi thấy thấp thoáng hình ảnh một thiếu nữ trẻ trung sáng ngời với bộ dạ phục xinh đẹp và nụ cười tươi tắn hân hoan….. Đôi khi, cụ bảo tôi đậu xe trước một toà nhà nào đó hay ở một góc phố khuất nẻo không tên…. và cụ im lặng thẫn thờ trong bóng tối như đắm chìm với cả một dĩ vãng xa xăm bao la và sâu thẳm….
Khi trời chập choạng trong ánh sáng đầu tiên của ban ngày, cụ nói với tôi khẽ khàng như một hơi thở nhẹ:
– Thôi, mình đi…
Tôi lái xe trong im lặng đến khu nhà hospice. Đó là một dẫy nhà thấp, kín đáo, ngăn nắp và gọn gàng. Tôi vừa ngừng xe là đã có hai người xuất hiện với chiếc xe lăn như là họ đã chờ đợi từ lâu rồi. Tôi bước xuống mở thùng xe phía sau để lấy chiếc va ly nhỏ của cụ mang tới để ngay cửa chính, xong quay trở ra đã thấy cụ đã được đỡ ngồi ngay ngắn trên chiếc xe lăn.
– Bao nhiêu tiền vậy cháu?
Cụ vừa hỏi vừa mở cái bóp nhỏ… “Cháu không lấy tiền bác đâu.. ” tôi trả lời.
– Nhưng cháu phải kiếm sống chứ…
– Đã có những khách hàng khác, thưa bác…
Gần như không tính toán so đo, tôi cúi xuống ôm lấy bờ vai cụ. Đáp lại, cụ ôm tôi thật chặt:
– Cám ơn cháu đã cho cụ già này khoảng thời gian thật quý giá và đầy ý nghĩa.
Tôi xiết chặt tay cụ và quay bước đi trong ánh sáng mờ nhạt của một ngày mới đến. Sau lưng tôi có tiếng cửa đóng. Tôi cảm thấy như cả một cuộc đời vừa được khép lại phía sau.
Tôi không có thêm người khách nào khác trong buổi sáng đó. Tôi chạy xe lanh quanh không có mục đích và dường như tôi cũng chẳng biết mình đi đâu nữa… Suốt cả ngày hầu như tôi không thể nói được với ai lời nào cả…. Chuyện gì sẽ xẩy ra nếu cụ già gặp phải một người tài xế đang ở cuối buổi làm, nóng nẩy chỉ muốn chóng xong việc để còn về nhà… Chuyện gì sẽ xẩy ra nếu tôi từ chối không nhận đón người khách là cụ, hay tôi không bước xuống gõ cửa mà chỉ ngồi trên xe nhận kèn một lần rồi lái xe đi….
Tự nhiên nghiệm trong quãng đời trẻ trung ngắn ngủi của mình, dường như là tôi chưa làm được chuyện gì có ý nghĩa hơn là chuyện tôi đã làm trong buổi sáng hôm ấy. Chúng ta luôn luôn nghĩ rằng cuộc đời sẽ có những khúc quanh quan trọng, đánh dấu bằng những sự việc to lớn, dễ dàng ghi nhớ… Nhưng thật ra, đẹp nhất vẫn là những phút giây nhỏ bé bất ngờ nhưng có xúc cảm mãnh liệt khiến ta phải bàng hoàng đến tê dại cả tâm hồn…
Xin chia xẻ câu chuyện nhỏ này với các bạn, hy vọng vì thế cuộc đời chung quanh chúng ta sẽ ấm cúng và có ý nghĩa hơn.
Sưu tầm
****************************** *******
Lạy Chúa, xin ban cho con một con tim phổ quát, một con tim vọng ngân lại tất cả những khao khát của con người.
Một con tim không bao giờ muốn khép kín, muốn giam mình trong tháp báu ngọc ngà.
Một con tim rộng mở, biết sống theo những chiều kích của hoàn vũ bao la.
Một con tim biết rung động theo những tình cảm quảng đại nhất của thời buổi hôm nay.
Một con tim biết đón nhận mọi khổ đau, mau mắn cảm thông những nỗi cơ cực của những ai nghèo nàn và bất hạnh.
Một con tim biết cảm thấy hạnh phúc khi được chia sẻ niềm vui của người khác hơn niềm vui của chính mình.
Một con tim có khả năng hiểu biết tha nhân trong những vấn nạn và khó khăn của kiếp người.
Một con tim biết chia sẻ âu lo của người khác để mang lại cho họ niềm an bình thư thái.
Một con tim biết biến đổi khao khát và hi vọng của con người hôm nay thành như của chính mình.
Một con tim biết đập cùng một nhịp theo sự tiến hoá của thế giới trong một mối thiện cảm sâu xa cùng với nhân loại đang tiến bước khác. Amen!
(Prière au coeur du monde, J. Galot, sj.)
Nguyễn Hùng Cường chuyển dịch
Langthangchieutim gởi
Bài viết của nhân chứng sống biến cố Mậu Thân 68, cô Susan Nguyen, mời mọi người đọc qua.
Ngày giỗ Ba
Hôm nay ngày giỗ Ba! Mới đó mà cũng gần 50 năm rồi. Mỗi lần giỗ Ba, nhang khói ngập trời cả thành phố Huế. Gần 6000 anh linh, nạn nhân của một cuộc tàn sát đẫm máu, vất vưởng đâu đây trên những bãi cát vùng Diên Đại, Xuân Ổ, Xuân Đại, Phú Thứ. Những oan hồn lẫn khuất quanh sân trường Gia Hội, Kiểu Mẫu. Những người vô tội bị xử tử ngay tại nhà, trước mặt người thân. Những vị bác sĩ từ tâm người Đức bị sát hại sau chùa Từ Đàm, và hàng ngàn người dân vô tội ở vùng Phủ Cam bị lùa xuống khe Đá Mài.
Cả thành phố chìm ngập trong màu khăn sô trắng. Ôi! Tôi không muốn nhớ đến cảm giác hãi hùng ấy nhưng sao nó vẫn cứ khắc sâu trong tâm khảm. Phải chăng những anh linh ấy không siêu thoát được vì cái chết đau thương của họ đã bị lịch sử bóp méo? Thoang thoảng đâu đây như tiếng kêu gào ” Trả sự thật lại cho chúng tôi “.
Ba! Con sẽ không quên. Lịch sử sẽ không quên và mọi người trên thế giới này sẽ không quên dù ai đó cố tình đổi trắng thay đen để chạy tội cho cuộc tàn sát mọi rợ đó. Ngày đó, tuy còn nhỏ nhưng con đã biết nhận xét mọi chuyện. Gia đình mình gần như là nơi tụ tập của Uỷ Ban Truy Tầm Nạn Nhân Mậu Thân. Mỗi buổi sáng là 2 chiếc xe GMC đậu trước nhà để chở dân và nhân công đi tìm kiếm mồ chọn tập thể. Mấy dì trong ban tổ chức có chồng mất tích 68 như cô Tôn Thất Lang, dì Quýnh, dì An, dì Dương, dì Mại, mạ …lo sửa soạn vật dụng mà Chú Thuyên( phó quận trưởng quận Phú Vang) và mấy chú lính chở tới như những cây vải ny lông để bó hài cốt, dây cột, thẻ bìa carton trắng để ghi chi tiết nhận dạng cho mỗi thi hài. Sáng nào mấy Dì và tụi con cũng cắt, xếp những mảnh ni lông khoảng 2 thước để bó thi hài.
Ông Noại trong làng ra bắt đầu một ngày làm việc bằng ly rượu trắng nhỏ( ông là người phụ trách việc hốt cốt. Ông cẩn thận lượm từng mảnh xương nhỏ của mỗi thi hài nằm chồng lên nhau trong những cái hố chật hẹp. Có thi hài còn đủ áo quần( như hầm ba mình) nhưng cũng có những thi hài chỉ trần xì cái quần đùi, rất khó nhận diện. Mình nghe được nhiều mẫu chuyện cười ra nước mắt bởi ông và mấy chú bác.
Có một bà nhận được xác chồng nhưng không có đầu( bị xử tử). Bà đi theo và nói nhỏ với ông : Chú ơi! Chú có cái đầu mô dư cho con một cái. Ông nạt ngang: người mô thì đầu nấy, dư mô mà cho, nói tào lao! Vậy mà mấy hôm sau, đi vùng khác, ông lại tìm được một cái đầu lâu trong bụi rậm. Ông nhắn: Chôn chưa, về chú cho cái đầu nè. Bà ta tất tả mừng rỡ chạy về, gói đầu lâu chồng lên làm đám. Rồi còn có một chị trong xóm, đi tìm xác chồng nhưng không được vào trong( ngồi ở địa điểm tập trung an toàn và nghe nhận diện qua ô-pạc-lơ ( haut – parler). Chị xin làm thiện nguyện bằng cách vào rồi phụ gánh thi hài ra xe. Cứ 2 người gánh một thi hài đã được bọc nylon và bó dây kỹ lưởng. Đi được vài chục bước thì thi hài rớt ra, chị phải dừng để buộc lại, đi thêm vài chục bước thì thi hài rớt thêm lần nữa, lại buộc và đi, qua lần thứ ba lại rớt và xổ tung ra, chị phải nhặt gom lại và chợt thấy mảnh vải quần đùi của chồng mà chi tự tay may lấy. Chị dở ra xem lại và oà khóc nức nở, chị đã gánh đúng xác của chồng chị mà không biết.
Còn nhiều mẫu chuyện ” trời đất dun dủi ” như thế nữa nghe rất thương tâm. Cực khổ rứa đó mà ngày nào mạ cũng đi, sáng đi chiều tối về. Ngày nào cũng lê la bên mấy mồ chôn để mong nhận diện chồng. Ngày nào cũng hít thở mùi xác chết thối rửa trong cái nắng mùa hè vậy mà không bệnh hoạn chi hết. Sáng mua ít đồ ăn vất lại cho bầy con ở nhà tự xoay sở lấy, cả hàng quán cũng vất liều luôn. Mạ mua ít gói xôi hay vài trái bắp làm thức ăn trưa rồi dang nắng suốt ngày ở những vùng đất cát trắng ghê người ấy. Bác cũng đi theo để phụ mạ tìm người em trai duy nhất của mình. Thấy cực khổ quá nên bác khuyên mạ nên ở nhà để lo con rồi thỉnh thoảng thay phiên với bác cũng được. Thế nhưng,ở nhà một hôm thì bị thôi thúc, ruột gan không yên, cả ngày cứ ngửi thấy đâu đây mùi xác người chết. Trời đất phù hộ, lăn lóc với các hầm chôn người thì không cảm thấy gì hết. Mạ lại nhập vào cuộc kiếm tìm và nhờ vậy, khi tìm ra xác ba, cả mạ và Bác có thể lo chu toàn hơn. Hầm chôn xác ba gồm có 27 người toàn là người trong xóm ra ” trình diện học tập “. Từ đầu xóm đến cuối xóm đèn đuốc sáng rực vì phải làm rạp chứa đám bên ngoài nhà. Hai mươi bảy bà goá phụ với đám con nhỏ mồ côi cha khăn áo tang trắng nguyên cả xóm. Riêng hầm này may mắn biết được ngày mất vì có một chú lận cái đồng hồ lên tận nách nên không bị tước đoạt. Ngày xưa đồng hồ phải lên giây mỗi ngày vì vậy khi đồng hồ đứng là biết chết trước đó 1 ngày. Cả nhóm bị bắt ngày mùng 6 âm lịch thì bị giết ngày mùng 8 vì đồng hồ đứng ngày mùng 9 AL.
Giờ đây, con ở nơi phương xa hơn nửa vòng quả đất với mâm cơm chay đạm bạc, nén hương chân thành nguyện cầu Ba sớm siêu sinh miền Tịnh Độ.
Nam Mô Siêu Lạc Độ Bồ Tát Ma Ha Tát!

Ác ma Mars trong lời tiên tri
Vào thời niên thiếu, Marx là một giáo đồ Cơ Đốc; nhưng sau khi vào đại học, ông ta gia nhập giáo hội Sa-tăng (Satanist Church) do Joanna Southcott chủ trì, và trở thành một thành viên của giáo phái ma quỷ. Giáo hội Sa-tăng lấy một ngôi sao năm cánh đặt ngược làm ký hiệu. Người Trung Quốc ngày nay không nghĩ đến đó, rằng vì sao ĐCSTQ sùng bái ngôi sao năm cánh như vậy, giống như tôn thờ thần linh vậy. Đó không phải là tượng trưng cho chủ nghĩa dân tộc hay chủ nghĩa yêu nước, bởi vì “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” tuyên bố: “Phải thủ tiêu dân tộc, không đề xướng chủ nghĩa yêu nước”. Sa-tăng giáo sùng bái ngôi sao năm cánh, và lấy ngôi sao năm cánh làm biểu tượng.
Marx không phải là người vô thần. Giáo hội Sa-tăng tin vào sự tồn tại của Thần, chỉ là họ thù hận Thần, muốn vượt qua Thần, leo lên trên cả Thần (ít nhất là ngồi ngang hàng với Thần). Do đó rất nhiều tác phẩm thơ ca của Marx đều phản đối Thần, sùng bái Sa-tăng. Thơ ca là một hình thức văn nghệ đặc thù, có thể biểu đạt thế giới nội tâm tác giả một cách chân thật nhất. Marx trong một số tác phẩm như “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair), “Sự kiêu ngạo của con người” (Human Pride), kịch bản “Oulanem”, v.v. đều sung mãn khát vọng hủy diệt nhân loại, thậm chí kịch bản “Oulanem” còn công khai thừa nhận: “Và để hủy diệt, chỉ có thể là hủy diệt!”.
Cả đời Marx viết được hơn 100 cuốn sách, thế nhưng chỉ có 13 quyển được xuất bản. Tuyệt đại đa số đều được thu gom và cất giữ tại viện nghiên cứu Marx ở Moscow, chứ không công bố ra ngoài. Điều mà chúng ta biết chỉ là một bộ phận nhỏ mà thôi; một bộ phận nhỏ, mà đã khiến người Trung Quốc trợn mắt kinh ngạc.
Hai chữ “Sa-tăng” này, đối với người Trung Quốc, là không hề bỡ ngỡ. “Sa-tăng” (Tát Đán) chính là ma quỷ hoặc ác ma, trong văn hóa truyền thống Trung Quốc mang ý xấu, chỉ các sinh linh làm hại nhân loại. Giáo hội Sa-tăng tuyên truyền thù hận đối với Thần, và bởi vì họ tin Thượng Đế đã sáng tạo ra nhân loại, nên các thành viên Sa-tăng giáo cũng sung mãn cừu hận đối với nhân loại. Các tác phẩm thơ ca của Marx đã biểu đạt vô cùng minh xác điều này (như “Ta không còn lại gì ngoài thù hận!” trong “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” hay “Ngay khi ta siết chặt vĩnh hằng và hét lên, Câu nguyền rủa thật lớn vào tai con người.” trong “Oulanem”, v.v.) Marx đã thừa nhận “Sa-tăng cấp cho ông ta một thanh kiếm, lại cấp ấn ký cho ông ta”.
Marx là một tín đồ Sa-tăng giáo, đây là sự thật không còn nghi ngờ gì nữa. Từ sinh hoạt, công tác, tính cách, gia đình, bạn bè đến thư từ cá nhân của Marx đều chứng tỏ sự thật kinh ngạc ấy.
Mikhail Bakunin (một người Nga theo chủ nghĩa vô chính phủ, cùng Marx sáng lập “quốc tế thứ nhất”, cũng là một giáo đồ Sa-tăng), người từng có thời là bạn thân của Marx, nói: “Người ta nhất định phải sùng bái Marx. Người ta ít nhất cũng phải sợ ông ta để có được sự khoan dung của ông ta. Marx là người tự đại cực độ, tự đại đến mức ghê tởm và điên cuồng”.
Sau khi gặp Marx, Engels đã miêu tả cảm tưởng về Marx như sau: “Ai là người theo đuổi mục tiêu dã man? Một con người đen tối đến từ Trier (nơi Marx sinh ra), một con quái vật đích thực. Ông ta không đi, cũng không chạy; ông ta dùng gót chân, nhảy lên một cách điên cuồng, tưởng như muốn chộp lấy cả bầu trời và vứt xuống đất. Ông ta duỗi hai tay ra không trung, với nắm đấm tà ác; sự cuồng nộ của ông ta rất bất bình thường, giống như hàng vạn ma quỷ đang chiếm hữu ông ta từ râu tóc”.
Sau khi Marx chết không lâu, người hầu gái cũ của Marx là Helen Demuth kể lại: “Ông ta (Marx) là một người rất kính sợ thần. Khi mắc trọng bệnh, ông ta một mình trong căn phòng, đầu cuốn dây băng và cầu khấn trước ngọn nến đang cháy”.
……………
Trích từ:
Giải mã «Các Thế Kỷ» của Nostradamus (17): Chúng ta lựa chọn như thế nào (chanhkien.org)
Ảnh: Ảnh: Cờ của Sa-tăng giáo (ký hiệu ngôi sao năm cánh đảo ngược). (chanhkien.org)
Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 5 Thường Niên năm B 04/02/2018
Tin Mừng (Mc 1: 29-39)
Hôm ấy, vừa ra khỏi hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.
Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.
& & &
“Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,”
“Đời dài, mới hết nửa sầu thương.”
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Mai Tá lược dịch.
Dài ngắn đời người, làm sao anh đi hết. Sầu thương nửa vời, tôi nghĩ chỉ thế thôi. Có nghĩ hoặc có đi, cũng khó lường con đường Chúa đã đi qua như thánh Máccô vẫn ghi lại ở trình thuật.
Trình thuật thánh Máccô ghi, là ghi về chốn miền Chúa đặt chân đến. Trước nhất, là xóm làng nhỏ bé ở đó có dân con của Ngài sẻ san hết mọi sự, mà vui sống. Dân làng tuy rất nhỏ, nhưng vẫn cùng nhau lao động trên vạt đất không do mình sở hữu, bởi thế nên cũng nghèo. Và, giá trị phần đất lao động cũng lại tuỳ khoảng cách nơi mình sinh sống. Và, tuỳ đường dài rong ruổi ngày nhóm chợ. Và, vụ mùa đạt được, hầu hết là lúa hạt, dầu ăn và nho trái. Sản phẩm đạt được, hầu hết là hạt giống, dầu ăn với nho trái để làm rượu. Thành viên gia đình lao động đều rất vất vả thời cao điểm. Và, cao điểm thời làm lụng lại là lúc để người người vui tươi gặp gỡ. Bởi thế nên, mới có câu: “Ta hãy đi nơi khác, đến làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa.” (Mc 1: 38)
“Làng xã chung quanh”, là đất miền khá rộng, có dân cư tự mình quản cai, khai thác và xử lý. Quản trị hay xử lý, không là việc độc quyền của riêng ai. Cũng chẳng là trọng trách chỉ lo mỗi chuyện đạo. Ở nơi đây, luôn có các buổi tập họp dân quê để làm những việc như thế. Ở nơi đó, cần có các nhà lãnh đạo (tức các kỳ mục mà tiếng Hy Lạp gọi là Komarkes) và đám trung gian (tức ký lục biết đọc và biết viết gọi là komogrammateis). Không phải làng nào cũng có những vị cùng một kiến thức như thế; nhưng, nhiều làng gộp lại mới có được một vị. Các vị này còn phải lo cả chuyện chính trị ở địa phương. Các vị ấy có quyền lập văn bản chính thức, cùng đạt thỉnh nguyện thư gửi giới chức có trọng trách về luật. Là, người trung gian/môi giới, chứng nhân lẫn kế toán, vv…
Có người hỏi: dân cư nơi ấy thế nào? Là dân làng không thay đổi, họ giống nhau ở nhiều điểm dù có khác biệt về văn hoá. Họ có mô hình hoặc mẫu mực văn hoá của dân quê. Đó là mẫu mực cuộc sống, chứ không phải sự việc do các nhà làm luật, ngôn sứ hoặc lĩnh đạo tôn giáo áp đặt lên mọi người mà họ vẫn muốn. Dân con miền Galilê, không có chứng tích viết bằng ngôn từ mình tạo dựng. Nhưng, vẫn sống mật thiết với đất đai và loài thú. Sống, là sống theo khuôn khổ gia đình. Có, sinh hoạt liên hồi tiếp diễn. Sống, là biết theo đường lối rất uyển chuyển. Biết tin tưởng lẫn nhau cũng như đặt nặng tương quan với người khác. Đôi lúc họ cũng ngây thơ, sống thành nhóm/thành tổ trong căn hộ nghèo nàn. Sống trong sinh hoạt hỗ tương với thôn làng khác, gần gũi với súc vật.
Rất nhiều lúc, họ cũng trở nên thuần thành do công việc có khuôn khổ. Có kỳ vọng tuy khá thấp nhưng cũng tạo kinh ngạc lạ lùng. Họ vẫn im lặng chấp nhận, tin tưởng. Con cháu trong nhà chỉ biết chơi đùa nghịch ngợm nhưng vẫn biết nguyện cầu cùng Đức Chúa. Vẫn có bệnh tật, vẫn nghỉ ngơi, chung đụng với cha mẹ, nhà cửa cùng vật dụng, môi trường, cảnh trí nơi nào cũng ảnh hưởng lên chính họ. Chẳng ai còn bỏ làng xóm đi nơi khác nữa. Bởi, khi đã rời bỏ gia đình là có lỗi nặng với đất đai. Và dù có gần khu thị tứ, nhiều người cũng chẳng cải thiện được cuộc sống hoặc thích nghi được với cuộc sống mới.
Quê miền đồng nội Do thái, khác hẳn thôn làng mọi xứ sở. Ở nơi đó, có khác biệt từ thẩm quyền, đến mức độ hiệu năng và khoảng cách. Thôn làng nào cũng cần nước để sống sót. Nơi nào có nước mưa, nước nguồn để uống, thì cuộc sống sẽ khá hơn. Chẳng ai có ý nghĩ cứng ngắc như đá tảng về “quê miền đồng nội”, hoặc thôn làng người khác sống. Lại có thời, Hội thánh vẫn sáng giá ở đồng quê. Đồng hồ nhà thờ ở giữa làng, là dấu chứng Chúa hiện diện. Có thánh hội tạo ảnh hưởng lên nếp sống của giáo dân.
Về chuyện này, nay nghĩ đến chốn miền nhiều nơi thiếu linh mục trầm trọng. Nhiều làng mạc thu gọn một mối với giáo xứ. Nhiều xứ đạo hoàn toàn do giáo dân trông nom, lâu lâu mới có linh mục ghé viếng. Chính vì thế, dân quê mới thấy mình như đàn con bị bỏ chợ. Có nơi, con cháu trong làng chẳng thiết gì đến Giáo hội. Tuổi trẻ nay để mất cả phương hướng lẫn tình thương. Và, cuộc sống nói chung không theo mẫu mực Giáo hội định ra nữa. Và, khi thế hệ nối tiếp lớn lên, từng đoàn và từng đoàn người cứ thế rời bỏ giáo hội lẫn thôn làng yêu dấu ấy.
Làm sao Chúa lại chọn thôn làng xứ miền Galilê để đặt chân đến?
Trong đời người, bao giờ cũng có nơi để người người chọn chỗ mà lui tới và sinh hoạt. Và quanh đó, còn có thôn làng kề cận, vẫn chung vui. Thật ra, nhiều người cũng chẳng biết hoặc chẳng nghĩ mình sẽ làm được gì như vẫn làm ở phạm vi nhà mình. Thành thử, chuyện ta cần nghĩ, là không nên nghĩ đến câu hỏi rất khó trả lời. Bởi, câu hỏi vượt tầm tay mình hiểu biết. Bởi, đó là ý nghĩ mênh mông không biên giới, như bầu trời. Chỉ mỗi điều, là: ở nơi đó, người người đều có cảm giác như vào rừng. Vào chốn miền mà mọi người có khuynh hướng gọi tên “thung lũng đầy tiếng khóc”. Chốn miền cần hát vang kinh Kính Mừng. Nam nhân thường coi đó như nơi nguyện cầu, để rồi khi thần chết đến, Chúa sẽ giúp mình kềm chế nó. Các nữ lưu cũng biết điều đó nên chỉ đến đó khi nam nhân ép mình lui tới hoặc ở lại.
Nhưng vấn đề là hỏi rằng: Chúa về miền thôn dã, để làm gì? Câu trả lời rõ nhất, chính là xứ miền quanh Galilê có người lui tới. Ngài đi quanh khắp chốn, và đến bất cứ nơi nào Cha gửi tới. Tức, xứ miền Chúa Cha muốn mọi người trở thành con của Ngài. Và chốn ấy, là nơi có thể chẳng người con nào thích đến. Chẳng ai muốn bén mảng hoặc tới lui như làng mạc hoặc rừng hoang thôn dã ta thanh tẩy. Chỉ nơi đó và nơi đó thôi, Chúa mới sờ chạm mọi người và đổi thay con người họ. Về nơi hoang dã, tất cả rồi ra sẽ là con cái Chúa.
Sách Xuất Hành kể truyện Môsê cũng có đoạn nói về nơi dân dã, chốn hoang vu. Có bụi rừng cháy sáng. Có, Môsê hỏi tên bụi rậm để định nghĩa rừng thiêng hoang dã, nhưng không thành. Và, chẳng ai tìm ra được tên gọi ấy. Đó, là bài sai Môsê nhận lĩnh ra đi mà kể lại cho người Ai Cập biết dân con người của Chúa sẽ trở về nơi hoang dã. Thế nên, khi Môsê nói với chốn hoang sơ bụi rừng rằng ông có là gì đâu mà phải như thế? Và, Bụi Rừng đáp trả, không bằng định nghĩa lý lịch Môsê, nhưng bằng hứa hẹn: Ta sẽ về với con, nên chớ sợ. Bởi, con không là người một mình sống đời hoang dã. Bởi, Ta cũng đến đó với con thôi.
Hoang dã hôm nay, tuy không là chốn miền người người sinh sống với lao động. Mà là biểu tượng của chốn miền mình am tường và cưỡng chống nhưng vẫn đến dù không rõ mình còn muốn ở đó nữa hay không. Chúa kêu gọi người người từ chốn bụi rừng bừng cháy để vào nơi dân dã. Là, chốn duy nhất mà chất giọng và lời Chúa được mọi người nghe biết. Ở đó, chẳng có gì để mình và người người khả dĩ tạo lập chính con đường để mình đi.
Hãy cứ đi và cứ vào nơi hoang dã, mà gặp Chúa! Và, như nhà thơ ngoài đời cũng đã diễn tả ý tưởng cùng lập trường, rất tương tự:
“Tôi đến đêm xưa, em vắng nhà,
Trăng vàng, mây bạc, sầu như hoa.
Tôi từ viễn phố rời chân lại,
Chỉ thấy sương nhiều như lệ sa.”
(Đinh Hùng – Đường Khuya Trở Bước)
Nhà thơ một đời ngâm nga lời ca trống vắng. Trăng vàng mây bạc cuốn lôi người “từ viễn phố, rời chân lại”, dù mưa sa. Kể ra, thì nếu chưa đi thì chưa biết chốn dã hoang bừng cháy nỗi niềm Chúa mong đợi mọi người. Trông và đợi người người ra đi. Đó, cũng là ý niệm Chúa đi “hết dặm đường” để dân con người người rày cảm kích.
Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –
Mai Tá lược dịch.