Thành phố ngợp, ngày nao chiều gió dậy,

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 6 Thường Niên năm B 11/02/2018

 

Tin Mừng (Mc 1: 40-45)

 

Khi ấy, có người mắc bệnh phong đến gặp Đức Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Đức Giêsu chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch!” Lập tức, bệnh phong biến khỏi anh, và anh được sạch. Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế; và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” Nhưng vừa đi khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền và loan tin ấy khắp nơi, đến nỗi Đúc Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.

&  &  &

 

“Thành phố ngợp, ngày nao chiều gió dậy,”

“Gương mặt ấy, lời yêu thuở ấy.”

(dẫn từ thơ Xuân Quỳnh)

– Mai Tá lược dịch

Thành phố với lời thơ yêu thương “chiều gió dậy” là gương mặt của tình yêu vẫn thấy ở trình thuật thánh Máccô. Trình thuật thánh Máccô, có lời thơ yêu trải dàn khắp dân gian, không ở nơi hoang sơ dân dã cạnh đất miền Galilê, nhưng còn ở văn bản đời thường, như bản văn viết mà tác giả Megan McKenna để ra nhiều chương/đoạn phản ánh tư tưởng của bậc hiển thánh rất Máccô.

Một trong các bản văn mà tác giả này ghi rõ lời yêu thương giống hệt Tin Mừng Máccô như sau:

“Rất nhiều lần, có người mải tìm cho ra ý nghĩa của đời mình. Ông và bầu bạn muốn sống theo cung cách có dáng vẻ tự do, ân sủng ngõ hầu tôn trọng mọi người. Bầu bạn vẫn cố thuyết phục ông bền đỗ trong cuộc kiếm tìm ấy. Và, họ định cùng nhau tìm đến Bậc Thày nhân hiền để vấn kế và xin Thày nhận họ làm đồ đệ, để theo Ngài.

“Ông có dịp đi ngang thôn làng có nhiều người ở. Và cùng đám đông quần chúng ở lại lắng nghe lời Thày. Ít lâu sau, đồ đệ lại cũng ra đi trình diện với mọi người để xin khai tâm, theo chân Thày. Tập tục thời bấy giờ cho thấy Bậc Thày đưa ra nhiều câu vấn ý cốt nghe lời đáp hầu có quyết định xem các ứng viên theo Thày có đạt ý nguyện thành dân con đeo đuổi đời rong ruổi cùng Thày đi thuyết giáo, không.

“Đương nhiên, đồ đệ nào mà chẳng muốn được Thày chấp nhận tham gia đoàn người giảng rao, nên mới nói: “Trình Thày, bọn con đây muốn theo chân Thày học hỏi cung cách sống và làm việc cho đúng cách.” Bậc Thày nhìn họ, rồi bảo: “Sao anh em biết rõ lòng mình muốn theo Tôi?” Sao anh em hiểu được điều mình ước muốn?”

“Đồ đệ thay nhau đáp: “Chính lời Thày đã khích lệ chúng con. Và, đó là điều bọn con tin tưởng, nay muốn nó thành hiện thực.” Bậc Thày lặng thinh trong giây lát như muốn tập trung nguyện cầu chỉ một lúc, rồi hỏi: “Có thật anh em vẫn quyết như thế không? Hay, còn ý định nào khác khi đồng hành, cùng với Tôi?” Họ đáp: “Đó là điều chắc chắn.” Trong phút chốc, Bậc Thày thoạt nhìn họ với vẻ ái ngại, đoạn bảo: “Thôi được, anh em cứ theo Tôi. Nhưng, nếu anh em có để mất tất cả những gì mình nắm vững thì sao? Và, một khi nhận ra điều này, anh em có còn tiếp tục nữa hay không?” Bọn họ đáp: “Dứt khoát vẫn như vậy! Dù mọi chuyện ra tồi tệ thế nào đi nữa, chúng con không đổi ý.” Vàhọ được đón vào đoàn nhóm đồ đệ theo chân Thày chỉ giáo.

Nhưng về sau, có lúc họ thấy rất chán ngán, buồn nản và bất ưng như mọi người, tức những người cũng đưa ra cùng một câu hỏi để che giấu và phủ nhận mọi sự xảy đến với họ. Nỗi bất ưng cứ thế tăng dần và lan nhanh, đôi lúc thấm nhập mọi người trong nhóm. Và, khi họ không còn biết nguyên do của nỗi niềm ấy nữa, thì chính là lúc họ coi đó như một đau xót khiến họ phải bộc lộ ra ngoài. Bộc lộ, đến độ niềm đau thương đã trở thành sắc màu sống sượng đến rỉ máu.

Họ lại nhất quyết bỏ tất cả ở đằng sau, chỉ vì sự kiện ấy và tiếp tục lại kiếm tìm. Lại, mải miết kiếm tìm, giống như trước. Dù sao, họ cũng chỉ làm có mỗi việc là những kiếm và tìm, suốt một đời. Trong tìm kiếm, họ tin mình sẽ đạt cùng đích, như Bậc Thày hằng bày tỏ, với họ. Tuy lời Thày trở thành điệp khúc miên trường khi lời Thày phát biểu đã ra như câu thần chú, to/nhỏ vẫn không ngừng. Vẫn dấy lên niềm hy vọng cùng hãi sợ, ở nơi họ. Và, họ nhớ lại lời Thày trước kia từng hỏi: “Có thật, là anh em đã mất hết mọi thứ, không? Có thật, anh em muốn đến với Tôi chỉ để học hỏi lối sống cho đúng cách, không? Có thật như thế không?

Đó cũng là câu hỏi được thánh Máccô đưa ra hôm nay. Ở trình thuật này. Đó còn là tên gọi của chương trình nay được bảo: bỏ tất cả để rồi tìm chẳng được gì. Bởi, khi viết trình thuật này, tác giả Máccô luôn nhấn mạnh đến cụm từ “mọi sự” và “hư vô.” Chứ không phải, “tất cả” và “chẳng gì cả”. Có nghĩa là, tất cả mọi sự rồi ra sẽ hư luống. 

Nhà thơ nữ Kathy Galloway, xuất xứ từ đất miền Iona, Tô Cách Lan, cũng viết lên cùng giòng chảy rỉ máu rất Máccô như sau:

“Chớ trở về khung trời nhỏ của riêng ai

Ở đất miền êm ả chốn hình hài.

Ngày rời bão tố kiếm hồn nơi sân vắng,

Cùng người thân an nghỉ chốn bồng lai.

Nơi sân vắng hồn thiêng thân yêu ấy,

Diễm lệ hơn ngự uyển vườn người năng lui tới,

Ngập những cỏ dại, lại nghèo hèn đầy chiến chinh,

Cứ đòi người chăm bới chốn nhà mình.

Kiếm tìm hồn quý phái lại hiếm quý

Thấy đời mình mở ngỏ ở chân trời.

Với khóc than, doạ dẫm rồi đau đớn,

Để người tìm lại thấy những kêu ca.

Hãy lưu lại cùng người yêu nay ít thấy,

Thuở yên bình trả giá vẫn nhiều hơn,

Bởi con trẻ thân thương không đùa giỡn

vẫn khóc ròng nhiều tiếng người vẫn mất.

Đừng hãm giam một chân trời riêng tư ấy

Của chốn miền nóng cháy ở nhiều nơi

Chẳng nơi nào có thể vực cuộc sống,

Có ánh mắt em nhìn cuộn giá băng.”

 Trình thuật hôm nay, thánh Máccô còn diễn tả tâm tình gặp gỡ giữa Chúa với người phung cùi. Đọc truyện, người người thật chẳng biết bệnh nhân phung cùi đã nghĩ gì? Làm gì? Xử thế ra sao khi gặp Chúa? Và, ai ai cũng nghĩ đó là cuộc hội ngộ rất thực tiễn. Hội ngộ, nay là thực tại xảy đến với người trong cuộc chưa từng thấy, nhưng vẫn đến. Và, một khi sự thực xảy đến rồi, cũng đừng sợ. Hãy cứ hiên ngang đến mà sờ chạm vào thực tại. Bởi nếu không, chính thực tại căn bệnh cũng sẽ sờ chạm ngay thân xác hoặc thân phận của ta thôi. 

     Đọc trình thuật, người người sẽ tự hỏi: dù bệnh phong nay “thoát xác” khỏi con nguời mình, thì bệnh nhân kia chắc vẫn thấy khó lòng mà sống tiếp những ngày sau đó. Khó nhất, là khi anh nhận ra bệnh vẫn còn đeo đuổi anh, bằng hình ảnh/hoặc ý nghĩ nơi anh, như trước kia.

Đọc trình thuật, hẳn có người lại sẽ hỏi: giả như bệnh nhân kia biết thân xác mình nay đã sạch, hỏi rằng cuộc sống của họ sẽ ra sao? Dù, từ nay anh ta không là “cùi hủi” như trước, nhưng vẫn sợ. Sợ, bị tẩy trừ khỏi cộng đoàn mình chung sống. Sợ, nếp sống do cộng đoàn định đoạt vẫn không yên. Sợ hơn nữa, khi người của Chúa chưa học được cung cách của Bậc Thày Nhân Hiền, là chẳng bao giờ tẩy trừ hoặc tống khứ ai ra khỏi “Nước” của Ngài. Trái lại, Ngài vẫn luôn tiếp nhận mọi người, dù lành lặn hay bệnh hoạn, vẫn đỡ nâng. Và hỏi rằng: dân con Nước Trời ở trần thế có làm được như thế không?

Cảm nhận thực trạng rất khó này, cũng nên ngâm lên lời thơ xưa được trích dẫn, mới hôm nào:

            “Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu,

            Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì.

            Hư vô bóng khói trên đầu hạnh;

            Cành biếc run run chân ý nhi.”

            (Xuân Diệu – Thu)

“Chân ý nhi”, phải chăng là thực trạng của người bệnh, nay cảm nhận? “Trên đầu hạnh”, có là “hư vô bóng khói” vẫn cứ tin. Tin Chúa, là Ngài chẳng tẩy trừ hoặc tống khứ bất cứ ai. Tin rằng, người nào đó có tật/có bệnh, vẫn vô tư/hiền lành/mẫn cán, đáng được ơn.                                  

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn 

 Mai Tá lược dịch.

Con gái nói không là có

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 6 thường niên năm B 11-02-2018 

“Con gái nói không là có”
Con gái nói một là hai
Con gái nói hai là một
Con gái nói ghét là thương
Con gái nói thương là ghét đó
Con gái nói giận là giận yêu
Con gái còn yêu là còn giận.”

(Ngọc Lễ – Con Gái)

(1Timôtê 2: 9-13)

 Trần Ngọc Mười Hai

Thời buổi này mà còn phân-biệt trai/gái hoặc bàn chuyện đổi giới, phải chăng là chuyện thừa, thật hết ý? Vâng. Rất đúng. Chính vì hết cả ý-tưởng lẫn đề-tài luận-phiếm lăng-nhăng cho “qua ngày đoạn tháng”, nên bần đạo bầy tôi đây mới phải thế.

Thế nhưng. Trước khi đi vào chuyện lăng-nhăng không hết ý, xin cứ là mời bạn và tôi, ta nghe câu hát tiếp hơi buồn một chút, rồi bàn tiếp. Nghe và bàn, là lắng tai và để ý đến câu ca/điệu nhạc lỉnh-kỉnh như sau:

 “Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Con gái nói nhớ là quên.
Con gái nói quên là nhớ.
Con gái nói buồn là vui.
Con gái nói vui là buồn.
Con gái nói không biết ghen.
Là ghen như điên đấy nhé.
Con gái nói không biết yêu.
Là yêu đến quên đường về.

Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Hãy nhìn vào đôi mắt em đây.
Hãy nhìn vào tận trái tim này.
Hãy nhìn vào đôi mắt thơ ngây.
Anh sẽ hiểu được trái tim em.

Trời có lúc nắng lúc mưa.
Trời có lúc mưa lúc nắng.
Con gái có lúc hiền như nai.
Con gái có khi như bà chằng.
Trời vẫn cứ nắng cứ mưa.
Con gái lúc mưa lúc nắng.
Con gái thế đấy bạn ơi.
Mà sao con trai các anh theo dài dài.
(Ngọc Lễ – bđd)

Quả là thế. Sống đời đi đạo, mà lại mang trong mình những chuyện không đáng ta quan-tâm/bàn-bạc chút nào, nhưng vẫn phải nói và viết trên giấy, là bởi vì không còn gì để nói cho hết ý. Thế nên, hôm nay bần đạo lại xin mời bạn và tôi, ta đảo mắt nhìn vào bài “phiếm” trên mạng vi-tính có đầu đề “hơi bị” dài, như sau:

“10 dấu hiệu cho thấy bạn được Đức Phật che chở nhờ tu thân tích đức, luyện từ kiếp trước:

 Người có phúc nhờ tu thân tích đức từ nhiều kiếp sẽ luôn được như ý trong mọi chuyện ở cuộc sống, nếu gặp 10 dấu hiệu dưới đây, bạn quả thật rất may hơn nhiều người.

Những dấu hiệu ấy như sau:

  1. Gặp lúc khó khăn luôn thấy có lối thoát

Mọi người sẽ gặp không ít khó khan/trở ngại trong cuộc sống, và nếu tìm được lối thoát một cách nhanh chóng như xuất hiện tình huống thuật lợi bất ngờ hoặc có người kịp đến hỗ trợ, thì người đó chắc chắn có phúc nhờ tu thân tích đức từ kiếp trước.

2. Đem lại điều may mắn cho người khác

Nếu có người được hưởng ít/nhiều cơ may từ bạn, thì điều đó chứng tỏ bạn là người rất có phúc. Ví dụ như khi đi chợ thấy hàng quán nọ ế ẩm, mà bạn vừa sà vào có ý định mua thứ gì đó thì nhiều khách hang khác cũng ùa tới, như vậy là bạn đã mang đôi chút phúc/lộc của mình cho người chủ hưởng. Ai đang kém may lại được giao du với bạn và thay đổi vận-mệnh của mình, thì chắc hẳn người đó được hưởng phúc/lộc do từ bạn truyền sang.

3.Luôn được tai qua nạn khỏi

Nhiều lúc nhẽ ra bạn phải gánh chịu một vận hạn nặng nề nào đó nhưng không hiểu vì sao những người khác đều bị vận, còn bạn thì không. Ví dụ như trong vụ tai nạn tập thể nọ, nhiều người bị thương hoặc mất mạng, nhưng bạn lại không hề hấn gì, dù đi cùng một chuyến xe. Hay có dịch tễ/bệnh tật lây lan gần như ai cũng mắc phải, mà bạn lại không sao cả, tức là: bạn đang hưởng nhiều phúc đức nên được bảo hộ.

4. Bạn có nhiều bạn bè quý mến

Người có phúc cũng là người có nhiều bạn bè đối xử  tốt với họ. Không phải ai cũng có được diễm phúc đó. Khi bạn gặp khó khăn sẽ gặp không ít người sẵn sàng ra tay vực đỡ bạn dậy, đó là do bởi phúc đức của mình đem đến chứ không là ngẫu nhiên đâu.

 5.Làm việc gì cũng thành-đạt

Bạn kinh doanh, làm việc tại công sở hay làm bất cứ điều gì, đều tốt đẹp hơn nhiều người khác. Ví dụ mình sinh sống trong cùng một dãy phố kinh doanh cùng một mặt hàng, mà bạn lại luôn đắt khách hơn người khác trong khi cả dãy ế ẩm, thì hàng hoá do bạn kinh-doanh cứ bán chạy đều đều. Đơn giản là vì họ không có phúc/đức tích-tụ từ kiếp trước như mình. 

  1. Bạn có được người vợ hay người chồng thật lý tưởng

Người có phúc là nhờ tu thân/tích đức sẽ gặp được ý trung nhân hết lòng với mình. Nếu không vì có phúc đức tích-tụ từ kiếp trước, thì chắc chắn cô ấy hay anh ấy sẽ không hết lòng yêu thương/chung thủy với bạn như vậy đâu. Hãy lết long cảm ơn Bề Trên vì mình đã tu thân/tích đức từ kiếp trước để ngày nay được may mắn hơn nhiều người.

 

  1. Con cái bạn ngoan ngoãn, giỏi giang

Người có phúc chắc chắn sẽ sanh hạ được những đứa con ngoan ngoãn/giỏi giang, có hiếu với cha mẹ. Không phải ai cũng có được cái phúc này đâu, thế nên bạn hãy trân trọng.

 

  1. Bạn có ngoại hình đẹp đẽ

Người có phúc thường được Ơn Trên ban cho ngoại hình đẹp đẽ và cân đối. Không phải ai cũng có cái may được sinh ra với khuôn mặt khả ái và thân hình quyến rũ. Hãy cám ơn Bề Trên đã dành cho mình ưu-đãi ấy.

 

  1. Bạn ít khi đau ốm

Người có phúc chắc chắn sẽ sống thọ và có sức khỏe tốt hơn người bình thường. Những bệnh vặt như ho hen, cảm cúm hay ốm đau không bao giờ chạm tới bạn được, đơn giản vì phúc dày đức cao đã giúp bạn có được điều này.

 

  1. Bạn là người tin vào nhân quả

Đây là điểm quan trọng đối với người có phúc đức quả báo nhãn tiền. Người tin vào nhân quả sẽ sống lương thiện và hành xử đúng với đạo Trời. Họ làm thế sẽ càng tích thêm phúc đức cho bản thân nhiều hơn. 

Nếu có những dấu hiệu này, bạn chắc chắn là người có phúc, con cái, cha mẹ hay bạn bè của bạn nhờ đó được hưởng may mắn. Nhưng để phúc đó được bền, bạn càng phải sống tốt, sống lương thiện, chân thật và khoan dung hơn. Cứ tin vào phúc đức tự tại, bạn sẽ không chịu thiệt bao giờ hết.”(trích dẫn đôi điều từ quan niệm của ai đó ở trên mạng).

Gọi là 10 dấu hiệu về ơn Trời/Phật, chứ thật ra có cả trăm, cả ngàn thứ đáng để ta lưu-tâm lưu/chú ý, hơn. Lưu tâm/chú ý, là cốt cho mọi người nhìn lại đời mình, mới thấy sự thật trên đời khá phức-tạp, tức những điều mà nhiều người vẫn bị cuộc sống thực-tế lôi-cuốn, nên không nhìn nhận.

Bởi thế nên, nghệ sĩ mình vẫn gợi ý những điều trên bằng lời ca/câu hát, tiếp ngay sau:

“Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Hãy nhìn vào đôi mắt em đây.
Hãy nhìn vào tận trái tim này.
Hãy nhìn vào đôi mắt thơ ngây.
Anh sẽ hiểu được trái tim em.”

(Ngọc Lễ – bđd)

Hôm nay, nhà Đạo mình cũng thế. Cũng “hiểu được trái tim em” qua sự việc tưởng chừng như trôi biến cách êm đềm từ lâu, nếu không ai thắc mắc/hỏi han chỉ một tư tưởng nhỏ, sau đây:

“Thưa Cha,

Con cứ thắc mắc hỏi rằng: tại sao những chuyện như nguyên-tắc đổi phái-tính con người ở đời, lại làm nhiều người bận-tâm nên đã trở-thành vấn-đề không nhỏ cho giới sinh-viên đại-học hoặc cao-đẳng, thời gian gần đây. Vậy xin cha cho biết ý-kiến để con yên tâm, không còn thắc-mắc nữa. Thành thật cảm ơn cha.”

 Thật ra, con cháu các đấng bậc vị vọng ngày nay chẳng mấy bận tâm cho lắm chuyện trời ơi đất hỡi như thế. Có khi, đây chỉ là đề-tài để đấng bậc ngồi buồn đặt ra rồi giải-mã cho đầy trang giấy, cũng nên. Thôi thì, nay xin mời bạn và tôi ta thử lắng tai nghe xem đấng bậc nhà mình giải mã thế nào về chuyện này. Nào, xin mời các bạn lắng nghe nhé:

“Có nhiều tài-liệu đáng tin cậy được lập ra để nghiên-cứu về vấn-đề giới-tính hầu giúp mọi người biết sự thật như câu chuyện xảy ra ở Yogyakarta, nước Inđônêxia năm 2007 gọi là Nguyên tắc Gogyakarta. Đó là một chuỗi gồm 29 nguyên-tắc có ghi chi-tiết như một thứ kim chỉ-nam cốt áp-đặt các hệ-luỵ phái-tính, tức: bàn về tự-do chọn giống, định-hướng hoặc khoanh tròn phái-tính con người.

 Vấn-đề đặt ra là hỏi rằng: Ai là người đưa ra các nguyên-tắc này?

Theo Bà Gabriele Kuby tác-giả cuốn “The Global Sexual Revolution” (tạm dịch là: Cách mạng Phái-tính Toàn-cầu) thì việc này do nhóm người gọi là “Chuyên-gia tên tuổi về nhân-quyền”, tức nhóm chức-sắc tuy không có thẩm-quyền hoặc chức-năng công-khai nào hết, nhưng những vị này thuộc nhóm chủ-trương ủng-hộ phong-trào hợp-pháp-hoá tình-trạng của người Đồng Tính Luyến Ái. Nhằm trao ban cho những người như thế một thứ thẩm-quyền ngoài mặt, các “chuyên gia” nói trên đã ra trước toà Liên Hiệp Quốc ở Geneva trình làng cho mọi người biết mà cảm-thông.

 Các nguyên-tắc nói ở đây, là “dụng-cụ tân-tạo tặng trao cho các nhà hoạt-động ủng-hộ chủ trương này, là tập cẩm-nang dầy 200 trang gồm các chỉ-dẫn để phiên-dịch nguyên-tắc nói trên ra thành hành-động chính-trị.

 Ý-tưởng chủ-chốt trong tài-liệu này, là bày ra việc “định-hướng phái-tính” và “nhận-dạng giống”.         Nơi lời tựa sách dẫn ở trên, “Định-hướng phái-tính” được hiểu là việc qui về “khả-năng của mỗi người trong việc lôi cuốn về cảm-xúc, ưa chuộng phái-tính với người nào đó hoặc có tương-quan dục-tình với ai khác, tức các cá-thể có phái-tính khác nhau hoặc cùng giống hoặc mang nhiều giới-tính khác-biệt.   

 Tác-giả Gabriele Kuby cho biết, định-nghĩa này không loại-trừ bất cứ hành-động dục-tình nào tuy khác nhau, kể cả chuyện ấu-dâm, loạn-luân, đa-thê, đa-phu, đa-dục (tức ăn nằm với nhiều người) và cả lề thói dâm-dục với thú vật, nữa.

 “Nhận-dạng giống” cũng qui về cảm-nghiệm phái-tính riêng tự bên trong con người mình và khác nhau tuỳ tứng người vẫn có thể hoặc không thể xứng-hợp với tính/phái định-vị từ bẩm sinh, trong đó có cảm-xúc riêng về thể-xác (tức: tính chuyện đổi giống nếu được tự-do, hoặc nếu y-khoa, phẫu-thuật hoặc phương-tiện nào khác giải quyết giùm) và các biểu-lộ nào khác về phái-tính, cả chuyện ăn mặc, nói năng và phong-cách bên ngoài nữa.”

 Chuyện thứ hai, là tuyên bố: không ai được quyền coi thường/phản bác việc định-hướng phái-tính hoặc nhận-dạng giống/phái dù có thấy vui thích chuyện ấy không, do bởi quyền-hạn của mình bị ảnh-hưởng.” Đây là điều đáng mọi người để tâm, lưu ý. Mọi quyền-hạn của con người đều có thể bị ảnh-hưởng như chuyện đụng chạm quyền tự-do ăn nói và tự-do tư-tưởng, bởi lẽ các quyền này lệ thuộc vào quyền định-hướng phái-tính và nhận dạng giống.

 Nhiều ví dụ giúp ta coi đây là chuyện kỳ-thị, chẳng hạn như: khi dạy dỗ hoặc nuôi-dưỡng con trẻ ta quyết cho chúng tin rằng: mục-tiêu của tình-dục là tạo tình yêu giữa người nam và nữ; và người nữ được định-hình công-tác ngay từ đầu là: sinh con đẻ cái, để nhân loại được phát-triển.

 Các ngành khoa-học từ sinh-ly-học, y-khoa, tâm-lý cho đến xã-hội-học đều dạy rằng giữa nam-nhân và nữ-giới vẫn có nhiều khác biệt, rất đặc-thù, đến độ mỗi và tất cả các tế-bào trong cơ-thể con người đều mang giống đực hoặc giống cái. Nguyên tắc Yogyakarta lập ra khiến việc định-dạng phái-tính tuỳ-thuộc cảm xúc, tức luôn bất ổn tận bên trong và có thể thay đổi bất cứ lúc nào.

 Lời tựa mở đầu các nguyên-tắc nói trên, còn cho biết: khác biệt không chuyển-đổi giữa nam-nhân và nữ-phụ đặt nền-tảng trên “thiên-kiến và vai-trò rập-khuôn nam/nữ vốn là thứ nguyên-tắc dễ có khuynh-hướng bị xoá bỏ sau này.

 Mỗi thứ trong 29 nguyên-tắc nói trên được trưng-dẫn bằng một tuyên-bố cũng rất chung chung lại kéo theo đòi hỏi mọi quốc-gia phải thực-thi, trong đó có việc buộc mọi quốc-gia phải ra luật hẳn hòi ấn-định phái-tính của người thực-thi công-việc vốn phản-ảnh một định-dạng phái-tính do mình tự nhận. Mọi quốc gia cũng buộc phải tôn trọng và đồng-thuận bằng luật pháp việc nhận-dạng phái-tính tự chọn của mỗi người. 

Các nguyên-tắc trên, đòi mọi nước phải có biện-pháp độc-đoán khả dĩ thay-đổi cả hiến-pháp, lề-luật, thể-chế xã-hội, hệ-thống giáo-dục và động-thái căn-bản của công dân mình hầu áp-đặt và thúc-ép một cách hợp-pháp việc chấp-nhận đặc-quyền được phép tỏ-bày việc đồng tính luyến ái và/hoặc dạng-thức cũng như hành-động nào khác không hẳn phải là khác phái.

 Các quốc gia từng can-dự trào-lưu Yogyakarta trước nhất gồm có: Đức quốc, Đan Mạch, Hoà Lan, Na-Uy, Thuỵ-Điển, Thuỵ Sỹ, Cộng hoà Czech, Argentina, Brazil và Uruguay. Quả là, ta đang đi vào một thế-giới mới rất quả-cảm.” (Lm John Flader, Concerns aplenty for all in gender theory, The Catholic Weekly Question Time, 28/01/2018, tr. 19)

Thế đấy, là nỗi khổ của những người vẫn cứ lo-toan những chuyện to lớn ở trên trời hoặc không đâu vào đâu. Còn đây, là lập-trường của bậc thánh hiền ở trong Đạo, từng lên tiếng cả những chuyện có liên quan đến phái-tính, rất nữ/nam ở kinh thánh:

“Tôi muốn đàn bà phải ăn mặc đoan trang,

đồ trang điểm phải kín đáo, giản dị:

không cần kiểu tóc cầu kỳ, vàng bạc, ngọc trai

hay quần áo đắt tiền,

mà là việc lành, phúc đức;

như thế mới thích hợp với các phụ nữ xưng mình có lòng đạo.

Khi nghe lời dạy dỗ,

đàn bà phải thinh lặng và hết lòng phục tùng.

Tôi không cho phép đàn bà giảng dạy,

hay thống trị đàn ông,

trái lại họ phải thinh lặng,

vì Ađam được tạo dựng trước,

rồi mới đến Evà.”

(1Timôtê 2: 9-13)

Xem thế thì, với bậc thánh hiền, đàn bà hay đàn ông đều có chỗ đứng nhất-định trong hệ-cấp quyền-hành hay quyền-lợi trong Đạo. Là người đi Đạo, ta không chỉ chấp thuận tuân theo chỉ-thị hoặc lề-luật được ban-bố từ trên; mà còn phải vui vẻ làm thế, nói chi chuyện đổi giống.

Tựu-trung thì, từ lâu, mọi người vẫn để tâm/lo toan nhiều thứ chuyện, cả việc nguyện-cầu, như truyện kể bên dưới từng minh-chứng:

“Cầu nguyện không giải quyết được những vấn đề khó khăn, những nổi khổ của chúng ta như lời Đức Đạt Lai Lạt Ma từng bảo rằng:

-Tôi là Phật Tử và hàng ngày tôi vẫn đọc kinh cầu nguyện. Nhưng tôi không tin vào sự cầu nguyện sẽ đem lại một xã hội, một thế giới an bình.

 Vì chúng ta đã cầu nguyện và cầu nguyện hàng ngàn năm qua nhưng những lời cầu nguyện của chúng ta [cho một thế giới an bình] chưa bao giờ được đáp ứng cho nên bây giờ chúng ta phải thực tế.

Tôi thường hay nói với mọi người là – Nếu quý vị có cơ may gặp được Chúa Jesus hay Đức Phật thì hãy cầu xin các Ngài đem bình an đến cho thế gian này.

Chắc chắn các Ngài sẽ hỏi rằng – Ai là người đã gây ra bao cảnh bạo loan và bạo lực?

Nếu các Ngài gây ra sự bạo lực thì chúng ta khẩn khoản cầu xin các Ngài là xác đáng. Nhưng đằng này chính chúng ta đã gây ra tình trạng bạo lực.

 Do đó, dĩ nhiên Chúa Jesus hay Đức Phật sẽ phán rằng – chính các con đã gây ra bao cảnh bạo lực thì các con phải có trách nhiệm tự giải quyết lấy.”(trích lập-trường của Đức Đạt Lai Lạt Ma, trong một phỏng-vấn, vào hôm trước).

Thế nghĩa là, ngay đến lời nguyện-cầu ở đâu đây như xưa giờ ta từng quyết, mà Đức Ngài Lạt Ma cũng cho là không cần thiết, nếu như… Vậy thì, trên đời này còn gì để tin tưởng đây? Thật cũng khó để có câu trả lời cho gẫy gọn. Chi bằng, như mọi lần, ta dùng truyện kể nhè nhẹ dù đó là chuyện “Người Sàigòn, tui thế đó” để minh-hoạ cuộc sống trong đó có rất nhiều câu trả lời khá là “khả thì”, như sau:

“Lần đầu tiên lên Sài Gòn là để đi thi đại học, tôi và một thằng bạn thi chung trường nên đi chung với nhau. Ở thì không lo vì đã có nhà người quen ở bên kia cầu chữ Y.

Chỉ lo cái chuyện ăn uống giữa hai buổi thi. Ngay sau khi thi xong môn đầu tiên, hai đứa kéo nhau ra quán cạnh trường kêu hai dĩa cơm sườn. Cầm cái muỗng, cái nĩa để ăn cơm dĩa mà cứ lọng cọng. Ăn hết dĩa cơm, uống cạn mấy ly trà đá tự múc ở trong cái xô để ở góc quán, mà bụng vẫn trống không.

Từ nhỏ đến lớn sống ở dưới quê khi nào đi đâu xa thì cơm đùm, cơm bới mang đi theo chứ có khi nào ăn cơm tiệm để mà biết kêu cơm thêm. Kêu thêm dĩa nữa thì không dám, vì sợ không đủ tiền ăn cho ngày mai, ngày kia… Ngó quanh ngó quất, thấy bàn nào cũng để một nải chuối, mọi người ăn xong cứ thuận tay bẻ, người một trái, người hai trái. Thế là hai đứa sáng mắt, chuối này chắc người ta cũng cho không như trà đá. Vậy là, chỉ một loáng nguyên cả nải chuối để trên bàn chỉ còn đống vỏ. Khi tính tiền, thấy phụ quán cứ đếm đi đếm lại mấy cái vỏ chuối để trên bàn rồi nhìn chằm chằm, thỉnh thoảng lại liếc qua bà chủ quán đang đứng gần đó cười mím chi thì đâm lo. Không biết tiền mang theo có đủ để trả không.

 Nhìn hai đứa gom từng đồng bạc để bỏ lên bàn, bỗng nhiên chủ quán bước lại. Thôi, tính hai dĩa cơm thôi. Phần chuối chắc là không biết có tính tiền nên lỡ ăn, chị không tính. Ngày mai ăn có thiếu thì cứ kêu cơm thêm mà ăn, để bụng đói không làm bài được đâu. Chỉ có nải chuối, cho thấy tính cách người Sài Gòn.

 Cuộc sống không thẳng tắp. Bon chen lên Sài Gòn không phải lúc nào cũng dễ kiếm tiền. Cũng trong những năm thập niên 1980, có lần, tôi thử sức mình với nghề đạp xích lô. Mượn chiếc xe của ông chú vào buổi sáng, lúc ấy chú cho xe ở nhà để ngủ sau một đêm chạy mối chở hàng. Lần đầu tiên chạy xích lô chỉ có chạy xe không từ bên này sang bên kia cầu chữ Y đã muốn hụt hơi. Thế nhưng vẫn rán vì trong túi không còn tiền. Chạy lòng vòng Sài Gòn cả tiếng đồng hồ, ngang qua rạp Quốc Thanh (đường Nguyễn Trãi), thấy một đôi nam nữ đi ra, tay ngoắt, miệng kêu: “Xích lô!” Luồn tay kéo thắng ngừng xe lại hỏi: 

-Anh chị đi đâu?

–Cho ra bến xe Miền Tây. Nhiêu?

Dân miền Đông mới lên Sài Gòn tập tành chạy xe kiếm sống, biết bến xe Miền Tây đâu mà cho giá. Thôi đành chơi trò may rủi: 

-Dạ, em mới chạy xe chưa rành đường, anh chị chỉ đường em chở. Tới đó cho nhiêu thì cho.

 Tưởng không biết đường thì người ta không đi, ai dè cả hai thản nhiên leo lên. Người con trai nói: 

-Mười lăm đồng mọi khi vẫn đi. Cứ chạy đi tui chỉ đường.

 Sức trẻ, thế mà vẫn không chịu nổi đường xa, đạp xe chở hai người từ rạp Quốc Thanh đến chân cầu Phú Lâm thì đuối, liệu sức không thể nào qua khỏi dốc cầu đành tính chước bỏ của chạy lấy người. Xuống giọng: 

-Em mới chạy xe, đi xa không nổi. Anh chị thông cảm đi xe khác giùm.

Ai ngờ người con trai ngoái đầu lại: 

-Tui biết ông đuối từ hồi nãy rồi. Thôi leo lên đằng trước ngồi với bà xã tui. Đưa xe đây tui đạp cho. Tui cũng từng đạp xích lô mà!

 Thế là, vừa được khách chở, lại vừa được lấy tiền. Không phải 15 đồng mà tới 20 đồng. Chắc cũng chỉ có người Sài Gòn mới khoáng đạt như vậy!

 Người Sài Gòn tốt bụng, chia sẻ không từ những chuyện cá biệt, người nơi khác vào Sài Gòn hỏi đường thật dễ chịu. Già trẻ, lớn bé, gặp ai hỏi người ta cũng chỉ dẫn tận tình. Có nhiều người còn bỏ cả công việc để dẫn kẻ lạc đường đi đến đúng địa chỉ cần tìm. Có những địa chỉ nhiều người hỏi quá, thế là người Sài Gòn nghĩ cách viết hoặc bỏ tiền ra đặt làm một cái bảng đặt bên lề đường, gắn vào gốc cây. Đôi khi, kèm theo một câu đùa, câu trách rất Sài Gòn ở cái bảng này khiến ai đọc cũng phì cười. Như cái bảng viết trên nắp thùng mốp trên đường Sư Vạn Hạnh mới đây: Bà con nào đi photo thì qua bưu điện bên đường. Hỏi hoài mệt quá”.

 Đi xe ôm, taxi, gặp đúng dân Sài Gòn thì mười người hết chín không lo bị chặt chém, vẽ vời. Đôi khi, kêu giá là vậy, nhưng khách không có tiền lẻ hoặc hết tiền người ta còn bớt, thậm chí cho thiếu mà không cần biết khách ở đâu, có trả hay không. Với người Sài Gòn, đó là chuyện nhỏ.

Ở Sài Gòn, cho tới bây giờ vẫn còn nhiều nhà để một bình nước suối trước nhà, kèm thêm một cái ly, một cái bảng nước uống miễn phí.

 Và bình nước này không bao giờ cạn, như lòng tốt của người Sài Gòn. Sẽ có nhiều người bảo cái ly nhiều người uống, bẩn chết đi được, nhưng không biết họ có cách nào hay hơn? (mua ly giấy, uống xong vứt…. mời các người ấy về Sài Gòn mua ly giấy cho khách thập phương dùng).

 Có người đã phát hiện, khi bạn chạy xe trên đường phố Sài Gòn, nếu có ai đó chạy theo nhắc bạn gạt cái chân chống, hay nhét lại cái ví sâu vào túi quần thì đích thị đó là người Sài Gòn!.

Bi giờ còn vậy nữa không? Cũng còn, nhưng mà nếu bạn không gặp người như vậy ở Sài Gòn là vì những người mà bạn gặp đó không phải là người SàiGòn!

 Tui hỏi anh cyclo:

-Đạp từ rạp Rex về cầu Chông (nhà tui) giá bao nhiêu?

Anh nói:

-20 ngàn.

Tui nói “30 ngàn thì tui mới đi”. Anh cyclo lập lại “20 ngàn”. Tui cũng nói như cũ. Anh cyclo tưởng tui là thằng khùng và nói:

-Thôi lên xe đi.

Đến nhà, tui đưa anh 30 ngàn và cám ơn. Năm 1978 khi ra tù tại ga xe lửa đường Lê Lai, một anh cyclo đến hỏi tui “Về đâu ?” nhưng khi nhìn thấy bộ đồ tù tui mặc nên anh nói câu mà tui nhớ đời:

-Lên đi thằng ông nội, tui chở về…Không có tính tiền đâu. Làm sao tui quên được câu nói đó. Người Sài Gòn là như vậy bạn ơi!” (trích truyện kể nhận được từ điện thư vi-tính, rất không lâu).

Rất nhiều bạn bè đọc bài phiếm do bầy tôi viết, lại cứ hỏi: “Sao bạn trích-dẫn truyện kể chẳng ăn-nhập gì đề tài đặt ra vậy?” Bần đạo bầy tôi nghe hỏi chỉ biết trả lời quanh-quất rằng: “Đó là chuyện phiếm đấy bạn ạ”.

 Hôm nay ngồi viết những going chữ này, lại đã thấy những lời đối đáp ở trên rất giống như chuyện thần-học hoặc học về thần-tính của các đấng, cũng tương-tự. Tương-tự là ở chỗ xem qua tưởng chừng như rất phiếm, nhưng xem lại mới thấy cuộc đời này mọi chuyện chung qui cũng chỉ là phiếm và luận hoặc luận cho lắm cũng chỉ là luận-phiếm/phiếm-luận mà thôi.

Bà con ta cứ nghe lại câu quả quyết ấy rồi suy cho kỹ, sẽ thấy không phải là chuyện mơ hồ lầm tưởng đâu. Để chấm dứt câu chuyện khá phiếm này, nay mời bạn và tôi ta nghe lại câu hát trên, để thấy rằng đời người vẫn có những chuyện như lời ca/câu hát những bảo rằng:

“Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Hãy nhìn vào đôi mắt em đây.
Hãy nhìn vào tận trái tim này.
Hãy nhìn vào đôi mắt thơ ngây.
Anh sẽ hiểu được trái tim em.”

(Ngọc Lễ – bđd)

Hỏi rằng: có nên sử-dụng câu hát trên làm lời kết cho bài phiếm đường dài ở đời người, được không cơ chứ? Hoặc, có nên về với vườn hồng tìm đến lời vàng của bậc thánh hiền từng có để lại những nguyên-tắc cho cuộc sống đúng nghĩa khi các ngài bảo:

“Thật vậy,

vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Ngài đã chết,

thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài,

nhờ được sống lại như Ngài đã sống lại.

Chúng ta biết rằng:

con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô,

như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt,

để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa.

Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi.

Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô,

chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài:

đó là niềm tin của chúng ta.”

(Rm 6: 5-8)

Tin hay không vào “Người Con Gái Nói” trong bài hát được trích dẫn, hoặc hiểu được nguyên-tắc của niềm tin vào Đức Chúa Phục Sinh do bậc thánh-hiền từng đặt, vẫn là chọn lựa của mỗi người và mọi người trong đời, rất hôm nay.  

Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc chỉ muốn hát

Những lời như trên

Khi bàn nhiều chuyện

“tréo cẳng ngỗng”

ở trong đời.

Việt Nam không có trường đại học nào lọt vào top 350 trường đại học hàng đầu Châu Á

 
 
Image may contain: text

Phạm Lê Vương CácFollow

 

Hãy nhớ rằng, để vực dậy một quốc gia dân tộc chỉ có thể khởi thủy từ trong các trường đại học mà ra.

Việt Nam không có trường đại học nào lọt vào top 350 trường đại học hàng đầu Châu Á, là thông tin đáng để chúng ta lo âu nhiều hơn là sung sướng cho việc giành vị trí á quân giải bóng đá U23 Châu Á vừa qua.

Đừng chạy theo những thứ chiến thắng viễn vông mà lãng quên đi thực tế rằng chúng ta đang là một quốc gia thất bại. Sự thất bại của quốc gia cũng bởi một phần nguyên do từ nền giáo dục đại học mà ở đó không hề tồn tại tính tự trị và tinh thần tự do học thuật.

TỔNG THỐNG ABRAHAM LINCOLN

 
 
Image may contain: 1 person
Đinh Văn HảiFollow

 

TỔNG THỐNG ABRAHAM LINCOLN

Cuộc nội chiến nam bắc Mỹ 1861 – 1865 vừa kết thúc . Bắc Mỹ đã chiến thắng và chế độ nô lệ ở nam Mỹ đã được xóa bỏ . Công việc sau chiến tranh thật bề bộn , cửa văn phòng tổng thống luôn bỏ ngỏ để bất kỳ ai cũng có thể gặp tổng thống bất kỳ lúc nào .
Tổng thống Abraham Lincoln đang đứng , hai tay chống mép bàn , đầu cúi xuống tấm bản đồ trải rộng
– Báo cáo ngài tổng thống – Lincoln ngẩng lên , trước mặt ông là tổng tư lệnh quân đội
– Có việc gì – Lincoln hỏi rất từ tốn
– Thưa ngài còn hơn 500 ngàn tù binh định giải quyết ra sao ạ
– Tù binh nào – lincoln sẵng dọng
– Những lính miền nam bị ta bắt ạ – viên tổng tư lệnh lúng túng . Lincoln ngồi xuống ghế , chậm rãi
– Tôi nhắc lại , đây là những công dân của nước Mỹ thống nhất , không có tù binh , tôi đã ra lệnh cho các anh phải cấp lương thực , nông cụ cho họ về quê sản xuất rồi kia mà . Các anh làm ngay đi.
– Báo cáo , rõ ! Viên tư lệnh quay người đi ra
– À này – viên tư lệnh vừa tới cửa quay lại – nhớ là phát súng và năm cơ số đạn cho mỗi đầu người – Lincoln ra lệnh
– Cái này… – viên tư lệnh lưỡng lự…
– Họ phải có vũ khí chống thú giữ , bảo vệ mùa màng chứ
– Rõ – viên tư lệnh đưa tay lên vành mũ rồi quay ra.
Lincoln đã có mấy động thái quan trọng
1 – Trợ cấp tử sỹ tính theo đầu người đã hy sinh cho cả hai bên
2 – Xây một tượng đài hoành tráng với dòng chữ “Đời đời nhớ ơn những người đã ngã xuống cho sự thống nhất nước Mỹ”
3 – Các nghĩa trang của hai bên tự xây dựng và tự chăm sóc , được chính phủ quan tâm như nhau . Sau này tại thủ đô Washington chính phủ Mỹ đã xây dựng nghĩa trang Arlington để tập kết các tử sỹ của cả hai bên nam bắc Mỹ , từ chiến sỹ đến các vị tướng .
Sau khi tổng thống Abraham Lincoln qua đời thì ý tưởng của ông đã được các đời tổng thống sau này thực hiện triệt để.
Tôi cứ hình dung , sau những động thái của tổng thống Lincoln thì các bà mẹ của hai miền sẽ ôm chầm lấy nhau mà khóc và họ không nghĩ rằng đã có một cuộc chiến tranh . Nước Mỹ phát triển nhanh là phải .
Ông là một tổng thống vĩ đại , có tư tưởng vĩ đại , ông đã khuyến khích người dân Mỹ góp ý cho chính phủ với câu nói nổi tiếng
“Tự do ngôn luận là chìa khóa của sự phát triển”
Tôi đã ghi lại lịch sử nước Mỹ với câu chuyện về tổng thống Abraham Lincoln .
Lời bàn xin giành cho người đọc.
Cám ơn các bạn đã đọc bài viết.

Theo Phuong Nguyen Van

Người Việt trong nước vẫn còn mơ hồ về cái tên Hồ Chí Minh

 Tạ Phong Tần‘s post.
 
Image may contain: 2 people, beard

Tạ Phong Tần is with Tạ Phong Tần.

 

Người Việt trong nước vẫn còn mơ hồ về cái tên Hồ Chí Minh, tại sao lại là HCM chớ ko phải là Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành hay Nguyễn Sinh Cung. Hôm nay tôi giải thích luôn:

1) – Người Việt hay người Tàu giống nhau ở chổ cho dù có 100 cái tên, 1.000 cái tên khác thì khi trở thành lãnh đạo quốc gia ai cũng dùng tên thật, ko ai lấy bí danh, biệt hiệu trong vai trò đại diện quốc gia cả. Ví dụ: Cụ Phan Bội Châu, tên khai sinh là Phan Văn San, khi đi hoạt động có lấy nhiều tên khác như: Phan Sào Nam, Hài Thu, Thị Hán, Độc Kinh Tử, Việt Điểu, Hàn Mãn Tử, v.v. và cụ Phan đều có giải thích ý nghĩa từng cái tên. Cụ thể: Tên Sào Nam và Việt Điểu lấy ý từ câu “Hồ mã tê Bắc phong/ Việt điểu sào Nam chi” (nghĩa là “Ngựa Hồ hí gió Bắc/ Chim Việt đậu cành Nam) hàm ý cụ là đi đâu, ở đâu, làm gì cũng hướng về nước Nam. HCM là kẻ giỏi chữ Hán (như đảng cs nói, và Lý Thụy-HCM đã tự thể hiện bằng thư gởi bà Tăng Tuyết Minh) lẽ nào ko hiểu câu “Danh bất chính, ngôn bất thuận, sự bất thành”, nhưng khá khen cho lão không quên cái tổ quốc Tàu + của lão. Cho nên, HCM chính là tên thật của lão í;

2)- Đảng cs luôn luôn nói HCM tức là Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Cung, nhưng cả HCM lẫn đảng cs chưa bao giờ (nhấn mạnh 3 chữ “chưa bao giờ”) giải thích tại sao Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Cung) lại lấy tên là HCM và HCM có ý nghĩa là gì. Điều này cũng cho thấy HCM là họ tên thật của thằng cha chệt nào đó chẳng liên quan gì đến họ Nguyễn ở Nghệ An;

3)- Người Tàu có phong tục gọi bằng họ đối với người được kính trọng, ko được gọi bằng tên vì như vậy là bất kính. Ví dụ: Trương Tam thì gọi là bác Trương, Lý Tứ thì gọi bác Lý. Người Việt thì ngược lại, gọi tên chớ không  gọi họ. Trong trường hợp đã ví dụ trên, người Việt sẽ gọi là bác Tam, bác Tứ chớ ko bao giờ gọi bác Trương, bác Lý. Danh xưng “bác Hồ” tức là gọi theo phong tục Tàu, chỉ người Tàu mới dùng cách xưng hô này. Vì vậy, HCM là người Tàu mới cố giữ phong tục Tàu khi đang sống tại VN.

4)- Hiện nay muốn xác định huyết thống quá dễ, lấy tóc của xác ướp trong Ba Đình giám định ADN với con cháu Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Nhuận là ra ngay. Nhưng csvn ko bao giờ dám làm điều này để thẳng thắn bác bỏ ý kiến cho rằng HCM không phải Nguyễn Ái Quốc, vì csvn thừa biết ý kiến đó đúng.

Ảnh: DanLamBao.

Khi đã trở về cát bụi, vẫn cần phân biệt quan với dân?

 

Khi đã trở về cát bụi, vẫn cần phân biệt quan với dân?

Hồi thăm Israel, có lần đi ngang qua một vài nghĩa trang, thấy nhiều ngôi mộ được xếp các cục đá nhỏ vòng quanh hay trên bề mặt. Hỏi ra mới hay đó là tập tục khi đi viếng mộ người đã khuất của các bạn. Người Do Thái quan niệm khi qua đời, thân xác chúng ta cũng về lại cùng đất đá. Vì thế, thay vì mang hoa, họ mang đá đến để lên mộ người chết. Những ngôi mộ ở vùng đất này, vốn dĩ trông đã đơn sơ giữa nắng gió sa mạc, lại càng thêm giản dị bởi không có chút sắc màu nào của hoa lá.

Xem nghĩa trang ở nhiều nước phương Tây cũng thấy khác biệt hẳn so với nghĩa trang ở xứ mình. Cùng quan niệm thân xác sinh ra từ cát bụi và khi chết đi thì lại trở về với cát bụi, nên người phương Tây cũng không xem trọng việc mồ mả. Những ngôi mộ ở mấy xứ “giãy chết” đều chung một kiểu chỉ có tấm bia đơn giản trên mặt mộ phẳng phiu chứ không lô xô, phô trương đủ kiểu như ở ta. Vì thế, đi trong nghĩa trang mà có cảm giác như đi dạo trong công viên! Đặc biệt, nếu có phân chia thì thường thấy nghĩa trang được phân biệt theo tôn giáo, theo dòng tộc hoặc theo các địa hạt dân cư. Họ cũng có nghĩa trang quân đội, nghĩa trang dành cho các danh nhân, anh hùng dân tộc… nhưng chẳng thấy chỗ nào có nghĩa trang quốc gia dành riêng cho quan chức!

Nghĩa trang trên đồi Olives ở Jerusalem, Israel (ảnh trên). Một góc nghĩa trang quốc gia mang tên “Ngôi nhà của Quân đội và Không lực Hoa Kỳ” tại Washington D.C (dưới, trái) và nghĩa trang cho các quan chức VN trị giá 1.400 tỷ.

Vì thế, đọc tin Nhà nước chuẩn bị chi 1.400 tỷ đồng để xây dựng nghĩa trang cho cán bộ cao cấp, ngẩn ngơ nghĩ đúng là nước mình tuy nghèo nhưng ngay cả chuyện “hậu sự” cũng phải khác với người ta! Mà kể cũng lạ, người cộng sản VN luôn nêu cao sự trung thành với chủ nghĩa Mác -Lênin và xây dựng hệ tư tưởng trên cơ sở học thuyết về duy vật biện chứng. Thế nhưng trên thực tế thì lại khác hẳn! Tình trạng quan chức chăm chỉ đi lễ chùa, xây đền thờ miếu mạo hoặc các khu “văn hoá tâm linh” ngày càng trở nên phổ biến. Chưa có thời kỳ nào mà “buôn thần bán thánh” phát triển rực rỡ như thời nay. Vì thế, cũng không có gì ngạc nhiên khi các “đầy tớ” phải lo đến cả chỗ an nghỉ cho mình ngay từ lúc còn đang sống!

Ừ thì có lý do là Mai Dịch đầy rồi nên phải cần một khu mới! Nhưng trong giai đoạn hiện nay, khi ngân sách thường xuyên rỗng ruột vì bội chi, khi nhân dân vẫn đang oằn mình dưới đủ loại thuế – phí mà chỉ có tăng chứ không có giảm, khi vẫn còn những hộ nghèo thiếu ăn, khi vẫn còn bao người bệnh bó tay chịu chết vì không đủ tiền mua thuốc, khi vẫn còn không ít trẻ em vùng sâu, vùng xa thiếu một ngôi trường đàng hoàng để học… lẽ nào người ta có thể thản nhiên rút từ ngân quỹ quốc gia một số tiền hàng ngàn tỷ đồng để lo chỗ nằm cho một nhóm nhỏ người (sẽ) chết? Lẽ nào ngay cả khi đã trở về cát bụi, vẫn cần phân biệt quan với dân? Lẽ nào với tầng lớp lãnh đạo ở xứ mình, “lộc bất tận hưởng” là phải đến cả lúc chết như vậy?

Ngày trước, thời nhân dân miền Bắc đói khổ trong chế độ tem phiếu và còn phải thắt lưng buộc bụng theo lời kêu gọi “vì miền Nam thân yêu”, lúc ấy đã có cái cửa hàng “Tôn Đản là chợ vua quan” ở Hà Nội. Đó là nơi chuyên cung cấp thực phẩm, hàng hoá tiêu dùng… dành riêng cho bộ máy lãnh đạo cao cấp được hưởng tiêu chuẩn đặc biệt. Giờ nghĩ lại, cứ tự hỏi không hiểu hồi đó có vị “đầy tớ” nào cảm thấy nghẹn lòng áy náy mỗi khi rời cửa hàng Tôn Đản với hàng đống “tiêu chuẩn” xa hoa, cách biệt rất nhiều so với chế độ phân phối cho dân thường?

Nay, “chợ vua quan” kiểu ấy không còn cần thiết phải duy trì nữa, nhưng dường như vẫn tiếp tục tồn tại quan niệm “ăn trên ngồi trốc”, khẳng định đặc quyền đặc lợi của bộ máy lãnh đạo đất nước mà việc xây dựng nghĩa trang riêng cho cán bộ cao cấp chỉ là một ví dụ. Điều này thật khác xa với những gì mà các bậc lãnh đạo tiền bối của ĐCSVN thường nói về đạo đức cách mạng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng viết: “Chúng ta phải hiểu rằng: các cơ quan của Chính phủ, từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.

Tôi nhớ đến lời hứa của mình cách đây hai năm với Bệnh viện Mường Khương (Lào Cai) vẫn chưa thực hiện được. Hồi đó, vào cuối tháng 1/2016, khi biết chúng tôi quyên góp gửi hàng “tiếp viện” cho đồng bào huyện Si Ma Cai do đợt rét hại đột ngột về giáp Tết, Phó Giám đốc Bệnh viện huyện Mường Khương đã chủ động liên lạc với tôi để xin tài trợ cho một dự án xã hội của các đoàn viên thanh niên ở Bệnh viện. Đó là kế hoạch xây dựng tủ thuốc miễn phí cho bệnh nhân người dân tộc, vì bà con thường xuyên không đủ khả năng mua thuốc điều trị mà cũng không có bảo hiểm. Tôi hứa với vị bác sĩ trẻ rằng sẽ cố gắng tìm cách giúp, nhưng đã hai năm trôi qua mà vẫn chưa thực hiện được việc này 😞.

Lại nhớ đến những lần thầy trò ở trường bày ra làm đủ thứ để quyên góp tiền xây nhà cho đồng bào vùng lũ trong chương trình hỗ trợ gia cư của CLB H4H (Habitat for Humanity). Hàng năm, các học sinh tham gia CLB chỉ dám đặt chỉ tiêu xây từ một đến hai căn nhà. Mỗi căn trị giá 40 triệu đồng. Như vậy, để xây 100 căn cần có 4 tỷ đồng: Một số tiền mà theo kế hoạch như hiện nay, có lẽ thầy trò phải mất từ nửa thế kỷ cho đến 100 năm mới quyên góp đủ! ☹️☹️☹️.

Một cái tết nữa lại sắp tới… Hôm qua tôi thấy trên sân trường những học sinh tiểu học bé xíu đang khệ nệ ôm những bao gạo, những thùng mì, những gói quần áo, sách vở… chất lên xe chuẩn bị mang “Tết Box” của cộng đồng chúng tôi đến cho những trẻ em nghèo như mọi năm… Luẩn quẩn trong đầu con số 1.400 tỷ đồng và câu hỏi miên man: Những học sinh đáng yêu đang được dạy để biết quan tâm và chia sẻ kia, các con sẽ nghĩ gì khi biết người lớn chúng ta có thể bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng (số tiền lớn đến độ đầu óc non nớt của các con chắc không thể hình dung nổi!) để xây tượng đài hoặc làm nghĩa trang – những thứ mà ai cũng biết là không dành để chăm lo cho người đang sống?

Người thông minh không phải là người trí tuệ

Người thông minh không phải là người trí tuệ

Người thông minh biết bản thân làm được gì, còn người trí tuệ biết bản thân không làm được điều gì.

 
Người thông minh không phải là người trí tuệ.

Người thông minh biết nắm bắt cơ hội, biết khi nào nên “ra tay”, còn người trí tuệ biết khi nào nên buông tay. Vì vậy, cầm lên được là thông minh, còn bỏ xuống được mới là trí tuệ..

Người thông minh thể hiện thế mạnh của mình ra ngoài, cũng chính là bộc lộ hết tài năng; còn người trí tuệ để người khác thể hiện thế mạnh của họ, âm thầm lặng lẽ làm.

Ví dụ trong một buổi tiệc, người thông minh bận nói, họ nói không ngừng, vì vậy họ giống như chiếc ấm trà; còn người trí tuệ bận nghe, chú ý lắng nghe người khác nói, thế nên họ là chiếc tách trà. Nước trong ấm rốt cuộc cũng phải rót vào tách mà thôi.

  1. Thông minh là một loại khả năng sinh tồn, còn trí tuệ lại là một dạng cảnh giới của sinh tồn

Trên thế giới không có nhiều người thông minh, trong số 10 người thì chỉ có 1-2 người, còn người có trí tuệ thì lại càng hiếm thấy, trong số 100 người có khi không có lấy người nào. Ngay cả Socrates được công nhận là người trí tuệ cũng tự thấy rằng nếu xét theo yêu cầu về trí tuệ thì bản thân ông cũng là người vô tri.

  1. Trong cuộc sống thực tế, những người không chịu thiệt thòi là người thông minh, còn người có thể chịu thiệt là người trí tuệ

Người thông minh luôn có thể bảo toàn lợi ích của mình khi làm việc với người khác. Ví dụ như trong làm ăn, họ luôn có thể thu về lợi nhuận – còn người trí tuệ tuyệt sẽ không theo đuổi việc thu lợi nhiều nhất trong kinh doanh, một số người thậm chí có phải bù tiền thì họ cũng làm, họ đặt lợi ích của người khác lên hàng đầu. Người trí tuệ đều biết rằng “không mất thì sẽ không được”.

  1. Người thông minh chú ý chi tiết, còn người trí tuệ chú trọng tổng thể

Người thông minh phiền não nhiều, thường xuyên mất ngủ, bởi vì họ nhạy cảm hơn người bình thường. Còn người trí tuệ có thể rời xa phiền muộn, đạt đến mức độ “không vui vì người, không buồn vì mình”, vì vậy người trí tuệ ăn ngon ngủ yên.
Vì vậy người thông minh thường qua đời sớm, còn người trí tuệ vô lo nên thường sẽ sống thọ.

Người thông minh khát vọng thay đổi người khác để người khác làm theo ý mình, còn người trí tuệ thường thuận theo tự nhiên.

Vì vậy, quan hệ giao tiếp của người thông minh sẽ dễ căng thẳng, nhưng với người trí tuệ thì lại hòa nhã hơn.

 

  1. Thông minh đa số là trời sinh, có được do di truyền, còn trí tuệ dựa nhiều vào luyện tập.

Thông minh có thể có được nhiều tri thức hơn, còn trí tuệ khiến người ta có văn hóa.

Vì vậy, một người càng có nhiều tri thức thì càng thông minh, còn người càng có nhiều văn hóa thì càng trí tuệ.

Thông minh dựa vào tai và mắt, người ta thường gọi là “tai thính mắt tinh”; còn trí tuệ phụ thuộc vào tâm hồn, tức “tuệ do tâm sinh”.

Thông minh có thể mang đến tiền tài và quyền lực, trí tuệ có thể mang đến niềm vui.               Vì thế, nếu cầu tài thì chỉ cần thông minh là đủ, còn nếu muốn thoát khỏi phiền muộn thì cần có trí tuệ.

Hố chôn tập thể, nghĩa trang 1400 tỉ và những đứa bé đói

Hố chôn tập thể, nghĩa trang 1400 tỉ và những đứa bé đói

RFA

Nếu xét trên chính sách vĩ mô của nhà cầm quyền, ba khái niệm: Hố chôn tập thể; Nghĩa trang (Yên Trung) nghìn tỉ và; Những đứa bé đói khổ, rét lạnh nơi miền núi không có gì liên quan với nhau. Bởi chính sách dành cho mỗi lĩnh vực, mỗi mảng đều riêng lẻ. Nhưng xét trên khía cạnh con người, tính nhân bản, nhân văn, nhân đạo và trách nhiệm của nhà cầm quyền, thì ba vấn đề này đều thuộc về lương tri. Sự cân đối, phân bổ hợp lý ở ba lĩnh vực, khía cạnh này sẽ cho thấy mức độ quan tâm, trách nhiệm và lương tri của nhà cầm quyền.

Karl Marx, ông tổ của chủ nghĩa Cộng sản thế giới từng đưa ra một nhận định trong Tư Bản Luận (sau này, trong Chính sách kinh tế mới, viết tắt là NEP – New Economy Policy của Lênin cũng nhắc lại): Chỉ có những con thú mới quay lưng đi để liếm bộ lông trước đồng loại bị thương. Và xét trên một ý nghĩa nào đó, khi no đủ, người Cộng sản lại chọn khuynh hướng đi ngược với giáo huấn của tổ phụ Karl Marx.

Nghĩa là, xét lại tiền ngân sách nhà nước, do đâu mà có. Xin nói nhanh, do nhân dân đóng thuế mà có ngân sách nhà nước. Bản chất và hiệu dụng của ngân sách nhà nước là gì? Đó là nói một cách sâu xa, ngân sách nhà nước đóng vai trò quĩ tiết kiệm và an sinh cho toàn dân thông qua sự điều hành của nhà nước. Vấn đề an sinh xã hội, cân bằng dân số, y tế, giáo dục, văn hóa, an ninh xã hội đều phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Một khi các vấn đề an sinh xã hội và an ninh xã hội được đáp ứng đầy đủ, nhà nước mới được quyền dùng ngân sách trong các lễ lạc, tượng đài, những công trình không mang tính xã hội.

Ở đây, nghĩa trang Yên Trung có được xem là công trình xã hội hay không? Bởi ngày trong lúc này, có quá nhiều vấn đề xã hội cần được quan tâm đúng mức và đầy đủ, nếu chưa thực hiện được các vấn đề như an ninh, chủ quyền quốc gia, an ninh xã hội, an sinh xã hội… Thì tất cả những vấn đề khác nhà nước đều không được trích thuế của dân để thực hiện. Phải dành thuế của dân cho những vấn đề có tính thiết thực cho nhân dân.

Thử đặt những câu hỏi: Có bao nhiêu đứa bé dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi được đến trường, cơm đủ ngày ba bữa, có áo ấm để mặc? Có bao nhiêu hố chôn tập thể gồm cả hai phía Việt Nam Cộng Hòa và Cộng sản Bắc Việt đã thành những hố lãng quên? Và tất cả những cổng chào, tượng đài, nghĩa trang nghìn tỉ của nhà nước mang lại giá trị gì cho quốc gia, dân tộc?

Ở câu hỏi thứ nhất, về những đứa bé nghèo, có thể nói rằng khắp đất nước Việt Nam, từ thành phố đến thôn quê, vùng sâu vùng xa, miền núi, càng đi sâu vào vùng hoang vắng thì sự nghèo khổ càng hiện rõ. Bạn tôi từng lắc đầu, chép miệng nói với tôi về những đứa bé đồng bào thiểu số khi trời rét còn chưa tới 10 độ C mà chúng vẫn không mặc quần (do không có quần để mặc) rằng “mấy đứa này trời nuôi chứ không phải người nuôi”. Bất kỳ huyện miền nhúi vùng sâu, vùng xa nào tại Việt Nam đều có cảnh thiếu, đói, trời lạnh không có áo ấm, trẻ con bỏ học sớm hoặc không có cơ hội đến trường hoặc đến trường bằng những chiếc cầu dây tử thần băng qua suối chảy xiết… Có một ngàn lẻ một kiểu thiếu, đói tại Việt Nam.

Nói về những hố chôn tập thể, sở dĩ tôi phải nói đến cả hai phía bởi chỉ riêng chiến dịch tổng tiến công Mậu Thân 1968, tại Huế và nhiều tỉnh khác đã xuất hiện hàng trăm hố chôn tập thể. Trong đó, có những hố của quan chức Việt Nam Cộng Hòa và thường dân (bị Cộng sản nằm vùng giết để trả thù và bịt đầu mối cơ sở) và có những hố chôn của chính những người Cộng sản chôn người Cộng sản.

Trường hợp Cộng sản chôn Cộng sản diễn ra như thế nào? Đó là những người bộ đội Cộng sản Bắc Việt bị tổng động viên từ những ngày đầu năm 1967 cho đến thời điểm hành quân vào miền Nam để tham gia “tổng tiến công”. Cũng xin nói thêm, những bộ đội Cộng sản Bắc Việt tham chiến Mậu Thân là những cậu bé từ 13 đến 15 tuổi, họ không có gì ngoài lòng căm thù Mỹ, Ngụy rất con nít mà họ có được thông qua nền giáo dục miền Bắc với thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật, Chính Hữu… Họ chỉ biết Mỹ, Ngụy là những kẻ ăn thịt người man rợ và họ phải đi vào miền Nam để “giải phóng cho người miền Nam”, một số người trước khi đi đã xăm hàng chữ “Sinh bắc tử nam”.

Khi vào đến miền Nam, vào Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, có nhiều bộ đội trẻ giật mình vì “lập trường chính trị không vững”, khi nhìn thấy miền Nam đẹp, thanh bình và giàu có, hiện đại, không như những gì họ được dạy… Nhiều bộ đội đã tỏ ra lơ là, không còn hăng say tinh thần chiến đấu. Và cái đêm giao thừa định mệnh Tết Mậu Thân, họ bị cấp chỉ huy đưa vào vị trí chiến đấu, xích chân vào nhau để khỏi bỏ chạy lúc đánh nhau. Thường thì một tiểu đội hoặc một trung đội trẻ bị xích chân với nhau để từ đó họ phải bắn và bắn, chiến đấu và chiến đấu cho đến lúc chết.

Và hầu hết những tiểu đội, trung đội thiếu niên này đều chết trong lúc vứa đánh vừa bị xiềng chân. Họ cũng không được chôn cất tử tế, sau này, xương cốt của họ được phát hiện và chôn cất, cởi trói khi có những người dân xây cất nhà cửa, đào móng nhà và đào trúng nơi họ nằm. Tại Gò Vấp, Sài Gòn, tại trung tâm thành phố Huế, tại Đà Nẵng, Quảng Nam đều có những hố chôn như vậy. Và vẫn còn một vài nhân chứng sống, đã chứng kiến những bộ đội trẻ nít phải chiến đấu, chết và bị chính các đồng đội lấp đất trước khi rút quân ra sao. Đó là chưa nói đến một số trường hợp chính Cộng sản bị Cộng sản giết do họ không muốn tiếp tục theo con đường “giải phóng miền Nam’, họ xin về quê làm ăn, cưới vợ, và khi ra khỏi bưng, họ bị giết, bị chôn ở bìa rừng, con số này không hề ít.

Nếu cộng thêm các hố chôn tập thể mà quan chức, cán bộ miền Nam bị giết trong chiến tranh, đặc biệt là Tết Mậu Thân và những ngày trước 30 tháng 4 năm 1975, có lẽ con số lên đến cả hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn xác người vẫn còn nằm lây lất, rải rác, vất vưởng đâu đó trong lòng đất mẹ. Lẽ ra, trong nhiều năm nay, nhà cầm quyền, cụ thể là đảng Cộng sản phải có những hành động qui tập, hỗ trợ qui tập cho cả hai phía để thực hiện tinh thần “nghĩa tử là nghĩa tận” và cũng là động thái hòa giải dân tộc để đi đến hòa hợp dân tộc thay vì kêu gọi bằng những văn bản, lời nói suông. Nhưng họ đã không làm vậy!

Bây giờ, xương máu, sự đau khổ của nhân dân vẫn còn đầy rẫy mặt đất, đi đâu cũng gặp cảnh khổ, đi đâu cũng gặp những gia đình mất con, mất anh em chưa tìm thấy xác vì chiến tranh. Vậy mà người Cộng sản lại nghĩ đến chuyện lấy tiền thuế của nhân dân để xây khu nghĩa trang cho cán bộ cao cấp! Nên nhớ, trong tiền ngân sách nhà nước, cụ thể là tiền thuế của dân, gồm cả sự đóng góp của cả hai phía, không có đồng thuế nào là không nhuốm mồ hôi, nước mắt của dân nghèo, của những bà mẹ liệt sĩ Cộng sản, của những bà mẹ quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tử trận và cả những đồng đô la của người Việt hải ngoại gửi về cho người thân trong nước.

Nói một cách nghiêm túc, ngân sách nhà nước có không dưới 40% là tiền có gốc gác của người “phía bên kia”. Dù có chối bỏ, léo hánh cách gì thì đây cũng là sự thật. Nhưng vấn đề tôi muốn nói ở đây không phải là tiền phía bên này hay bên kia trộn lẫn trong ngân sách nhà nước. Mà vấn đề là một đất nước đang bị tùng xẻo, cây xanh, môi trường, tài nguyên đang kiệt quệ, những khối bê tông cơ quan, nhà quan và tượng đài mọc lên ngày càng quá nhiều, nó hiện hữu như thách thức nỗi khốn cùng, đói khổ và đau khổ của nhân dân.

Trong lúc biển bị nhiễm độc vẫn chưa kịp lành lặn, tiếp tục bị đe dọa bởi Formosa, trong lúc miền Tây Nam bộ đang bị nhiễm mặn trầm trọng, nhân dân đói khổ, trong lúc trẻ em miền núi, nhân dân miền núi vẫn đói khổ, lạc hậu, trong lúc tài nguyên rừng và khoáng sản bị tùng xẻo không thương tiếc, trong lúc vết thương Nam – Bắc chưa kịp lành lặn, trong lúc nợ công cao chất ngất, người dân còng lưng đóng thuế vì nợ công, giá xăng tăng, điện tăng, vật giá leo thang, các bệnh viện không có chỗ nằm, bệnh nhân phải chui gầm giường, nằm hành lang mà chờ điều trị… Thì nhà cầm quyền lại quyết định xây dựng thật nhiều tượng đài, cổng chào, ngốn hàng tỉ tỉ đồng, rồi lại nghĩ thêm chuyện xây khu nghĩa trang cao cấp cho cán bộ.

Liệu có khi nào giới cầm quyền suy nghĩ về những gì họ đã làm bấy lâu nay? Liệu có khi nào họ đặt mình vào nhân dân nghèo khổ để thấy sự vô lý và trơ tráo của họ? Và liệu có khi nào họ nghĩ đến một chân lý: Tượng đài xây được thì đập được, nghĩa trang xây được thì cào bằng được, cổng chào xây được thì hạ được… Bởi những thứ này không phải là sức mạnh, không phải là trường tồn. Bởi sức mạnh, sự trường tồn của một dân tộc nằm trong tay nhân dân.

Cụ thể, sức mạnh dân tộc nằm trong niềm tin, sự hưởng ứng, đồng thuận và cảm phục của nhân dân. Và sức mạnh của một đảng phái so với sức mạnh của một dân tộc cũng chỉ bằng một bụi cây trong một vườn cây. Liệu cách lựa chọn đạp qua mọi dư luận, đạp qua mọi sự bất bình, bất công để đạt sự thỏa mãn của một đảng phái, một nhóm lợi ích có phải là lựa chọn thông minh?

Và vấn đề cần đặt ra ở đây không phải là sự lựa chọn có thông minh hay không thông minh của đảng cầm quyền, mà là sự công bằng xã hội, sự sòng phẵng, tính minh bạch và tôn trọng nhân dân bắt buộc phải có của nhà lãnh đạo. Họ dù muốn hay không muốn cũng phải thực hiện nguyện vọng của nhân dân và không được phép đạp lên nỗi đau, nỗi khổ của nhân dân mà hưởng lộc! Bởi đất nước đã quá đủ đau khổ, nhân dân đã quá đủ lầm than và hơn bao giờ hết, nhân dân, đất nước cần phát triển, cần tiến bộ, cần tồn tại đúng nghĩa một dân tộc, một quốc gia!

 

Việt Nam-Trung Quốc: “Hai Quốc gia, Một trạm Kiểm soát Cửa khẩu”

 

Hơn 100 người Việt tụ tập trước tượng đài Vua Lý Thái Tổ tại trung tâm Hà Nội hôm 17/02/16 để tưởng niệm kỷ niệm ngày nổ ra chiến tranh biên giới Việt-Trung. Những tấm biểu ngữ ghi hàng chữ "Ngày 17/2/1979, Nhân dân sẽ không quên". (AP Photo/ Tran Van Minh.)

Hơn 100 người Việt tụ tập trước tượng đài Vua Lý Thái Tổ tại trung tâm Hà Nội hôm 17/02/16 để tưởng niệm kỷ niệm ngày nổ ra chiến tranh biên giới Việt-Trung. Những tấm biểu ngữ ghi hàng chữ “Ngày 17/2/1979, Nhân dân sẽ không quên”. (AP Photo/ Tran Van Minh.)

Việt Nam và Trung Quốc có đường biên giới đất liền dài tới 1,280 km và kế hoạch thành lập một trạm kiểm soát biên giới chung đã có từ lâu. Hôm 4/2, tờ South China Morning Post của Hong Kong dẫn lời một giới chức Trung Quốc nói rằng dự án này có thể sớm đi vào hoạt động, có lẽ từ tháng Năm năm nay. Ông Jian Xingchao, phó thị trưởng thành phố Phòng Thành Cảng, nơi được chọn làm địa điểm đặt 1 trong hai trạm kiểm soát cửa khẩu chung, nói: “Rất nhiều chi tiết còn đang dược thảo luận, nhưng cả hai bên đều có chung ước muốn đó.”

Trạm kiểm soát đầu tiên, ở Phòng Thành Cảng (Fanchenggang), sẽ được thiết lập trên cầu Dongxing-Móng Cái. Trạm thứ nhì có thể được đặt ở Cầu Hữu nghị, cửa khẩu ở Pingxiang.

Cả Phòng Thành Cảng lẫn Pingxiang đều thuộc Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây ở miền Nam Trung Quốc. Trạm đầu tiên sẽ kết nối với thành phố Móng Cái ở tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Quảng Ninh và trạm kiểm soát thứ hai kết nối với thị trấn Đông Đăng ở tỉnh Lạng Sơn.

Theo ông Jian, vấn đề chủ yếu xoay quanh vấn đề chủ quyền vì bên nào tiến hành kiểm tra ở biên giới thì trên thực tế bên đó có hiệu lực thực hiện chủ quyền đối với bên kia, do đó đây là một vấn đề “khó giải quyết bởi vì không bên nào muốn buông bỏ quyền lực đó”.

Nhà hoạt động chống Trung Quốc, Tiến sĩ Nguyễn Quang A tuần hành dọc theo Hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội để đánh dấu kỷ niệm năm thứ 35 Chiến Tranh biên giới Việt-Trung, ảnh chụp ngày 16/2/014.

Nhà hoạt động chống Trung Quốc, Tiến sĩ Nguyễn Quang A tuần hành dọc theo Hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội để đánh dấu kỷ niệm năm thứ 35 Chiến Tranh biên giới Việt-Trung, ảnh chụp ngày 16/2/014.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS và Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam – Hungary, nhận định:

“Cái đó có thể gây nhiều lo ngại trong dân chúng Việt Nam. Thực sự nếu trong một bối cảnh chung của sự hội nhập quốc tế mà chúng ta thấy ở ASEAN hay ở các nước thuộc khu vực Schengen chẳng hạn, thì việc đó có thể là một việc bình thường, thậm chí đáng hoan nghênh, nhưng với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam và Trung Quốc, thì tôi nghĩ cái chuyện đấy gây rất nhiều phản cảm.”

Ông nói thái độ hoài nghi và tinh thần phản kháng Trung Quốc nơi người dân Việt Nam còn rất cao, trong bối cảnh Trung Quốc đang tìm mọi cách để bành trướng và gây ảnh hưởng lớn tới Việt Nam “như đã gây ở Campuchia và Lào.”

Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng dự án này có lợi cho Trung Quốc để thực hiện cái gọi là chiến lược “tằm ăn dâu” lấn chiếm đất, bởi vì nó tạo điều kiện dễ dàng cho người Trung Quốc vào Việt Nam hơn là người Việt Nam vào Trung Quốc, kể cả dưới chiêu bài du lịch. Ông đơn cử trường hợp thành phố Phủ Lý, cách đây mấy chục năm chỉ có vài chục người Trung Quốc đi du lịch đến rồi ở lại, bây giờ có khoảng 40,000 người Trung Quốc làm ăn trong một thành phố chỉ có khoảng 100,000 dân. TS Quang A cho rằng đó là một “sự bành trướng rất hữu hiệu của Trung Quốc.”

“Trung Quốc là một nước đông dân nhất thế giới và có chủ trương nhất quán là như thế, thì đối với kinh nghiệm của VN lịch sử nhiều ngàn năm về việc giữ gìn độc lập thì chắc chắn là người dân và tôi tin rằng trong giới lãnh đạo cũng có người quan ngại về tiến triển đấy”.

“Như vậy cái chủ quyền của hai nước nó không được xác định rõ ràng. Tôi không hiểu tại sao mà lại phải nhập làm một. Tôi là một người nghiên cứu lịch sử từ xưa đến nay, tôi cũng không hiểu.”
Nhà sử học Nguyễn Nhã, tác giả nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Tiến sĩ Nguyễn Nhã, tác giả của nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhận định:

“Tôi đã từng đến Lạng Sơn thì tôi thấy cửa ngõ của Lạng Sơn, ở bên này là của VN, bên kia là của Trung Quốc, thì bây giờ nhập lại một thì tôi không hiểu là ý đồ thế nào. Như vậy là phải thống nhất với nhau, mà có khi bên này bên kia không đồng ý với nhau thì sao, thì tôi cũng không rõ.”

Báo South China Morning Post dẫn lời Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp của Viện nghiên cứu Yusof Ishak ở Singapore, tỏ ra lạc quan là Việt Nam và Trung Quốc có thể hợp tác với nhau, ông coi dự án này như một cách để 2 nước có thể làm việc với nhau và phục vụ các lợi ích chung, vượt lên trên cuộc tranh chấp ở Biển Đông để hướng tới phía trước.

Nhưng nhà sử học Nguyễn Nhã tiên đoán sẽ có những phức tạp khó khăn khi kế hoạch “Hai quốc gia, một trạm kiểm soát cửa khẩu” đi vào hoạt động:

“Như vậy cái chủ quyền của hai nước nó không được xác định rõ ràng. Tôi không hiểu tại sao mà lại phải nhập làm một. Tôi là một người nghiên cứu lịch sử từ xưa đến nay, tôi cũng không hiểu.”

Tuy các nhà nghiên cứu đều cho rằng dự án này cũng có mặt tích cực của nó khi tạo thuận lợi cho hợp tác giao thương, giao lưu văn hóa, tăng sự hiểu biết lẫn nhau trong khu vực, nhưng cùng lúc, họ cảnh báo về mối nguy tiềm tàng trong bối cảnh Trung Quốc kiên trì tiến hành chiến dịch tằm ăn dâu để thực hiện tham vọng “Nam tiến”.

“Tôi nghĩ rằng cái đó nó càng gây nghi ngờ trong dân chúng về những cái gọi là hiệp định bí mật như hiệp ước Thành Đô mà rất tiếc là chính quyền Việt nam, Đảng Cộng sản VN không bác bỏ mà cũng không công nhận, và cái điều đấy nó càng làm cho sự lo ngại nó có cơ sở hơn.”
Tiến sĩ Nguyễn Quang A

Tiến sĩ Nguyễn Quang A:

“Nếu người ta hiểu biết lẫn nhau hơn, giao thương làm ăn với nhau hơn thì các sự căng thẳng sẽ giảm bớt, nhưng tôi nghĩ phải lưu ý đến luôn cả mặt kia nữa vì không khéo thì lợi bất cập hại cho nên làm cái gì cũng phải có một mức độ tính toán thiệt hơn.”

Liệu khái niệm “Hai quốc gia, một trạm kiểm soát cửa khẩu”, có gợi lên cách hành xử của Trung Quốc khi thực hiện chính sách “Một quốc gia, hai thể chế” tại đặc khu Hong Kong?

Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng kế hoạch “Hai quốc gia, một trạm kiểm soát” càng gây thêm nghi ngờ về hiệp định Thành Đô bí mật giữa lãnh đạo Đảng Cộng sản VN và Trung Quốc như tin đồn bấy lâu nay.

“Tôi nghĩ rằng cái đó nó càng gây nghi ngờ trong dân chúng về những cái gọi là hiệp định bí mật như hiệp ước Thành Đô mà rất tiếc là chính quyền Việt nam, Đảng Cộng sản VN không bác bỏ mà cũng không công nhận, và cái điều đấy nó càng làm cho sự lo ngại nó có cơ sở hơn. ”

Tiến sĩ Nguyễn Nhã không nhắc tới hiệp định Thành Đô, nhưng cũng nêu lên quan ngại của nhiều người và của cá nhân ông:

“Theo tôi, nếu không có chuyện Trung Quốc áp đặt bằng vũ lực ở Hoàng Sa đó thì có khi lại không đặt vấn đề ra, và các nước như Cộng đồng chung Châu Âu đó thì họ cũng có sự hợp tác rất là chặt chẽ, nhưng mà chủ quyền của nước nào, và văn hóa của nước nào họ vẫn tôn trọng. Hàng rào có thể bỏ đi nhưng tôi thấy là các nước từ nước Pháp qua nước Đức và các nước còn lại thì tôi thấy chủ quyền của mỗi nước vẫn được tôn trọng..”

Nhà sử học nói nhiều người lấy làm lo ngại, và bản thân ông cũng lo ngại nhưng “sau này thì lịch sử viết ra thì mới biết được”.

Thôi không cầm súng, con người tất an nhiên

 

Thôi không cầm súng, con người tất an nhiên

Tuấn Khanh

Trên trang facebook của chàng thanh niên Nuseir Yassin, vẫn thường được gọi tên là Nas Dailly, có post một video cảm động và lạ thường.

Đó là câu chuyện của hai người đàn ông sau 44 năm tìm thấy nhau. Quá khứ của họ thăm thẳm tối nhưng nụ cười về tương lai thì tỏa sáng.

Chuyện của video được tóm tắt như sau: Nhiều năm trước khi còn là một quân nhân của Hy Lạp, Iannis kết thúc đời binh nghiệp của mình bằng kỷ niệm khó quên khi nhận một viên đạn vào đầu, được bắn từ phía đối phương là Fethi, quân nhân Thổ Nhĩ Kỳ.

Nhưng may mắn là Iannis không chết. 30 năm sau, ông viết lại câu chuyện đời mình trong một cuốn sách. Lạ lùng thay, Fethi lại ngẫu nhiên đọc được cuốn sách ấy. Với những mô tả rất rõ về trận đánh, sự kiện… ông Fethi nhận ra rằng tác giả cuốn sách chính là người mà ông ta đã nhắm bắn.

Fatis và Lannis. Ảnh: Facebook

Fethi đã tìm cách liên lạc với Iannis và xin được tha thứ, và rồi ông nhận lại được một tình bạn từ kẻ mà mình đã từng muốn đoạt mạng sống. Cuộc xung đột chính trị ở Síp, quốc đảo xinh đẹp nằm ở phía Đông Địa Trung hải năm xưa, đã khiến hai thường dân hiền lành bị biến thành thù địch. Và giờ đây họ sánh vai với nhau, bước qua mọi thứ như những con người an nhiên nhất trên địa cầu.

Bản video đã nhận được hơn 100.000 like, hơn 35.000 lần chia sẻ và hàng ngàn lời bình luận. Có lẽ nó đã làm cảm động không ít người đã đi qua chiến tranh. Và chắc bản video này chắc rồi cũng sẽ làm nhiều người Việt Nam cảm động. Bởi Việt Nam có đủ các kinh nghiệm của một quốc gia bị xâu xé bởi các loại chủ nghĩa anh hùng và giải phóng, biến những người cùng màu da, tiếng nói trở thành hận thù. Câu chuyện của Fethi và Iannis tựa như một cánh cửa khác của sự tỉnh thức vào lúc này.

Vào lúc này – bởi đây là những ngày hệ thống truyền thông nhà nước rầm rộ tự ngợi ca về chiến dịch Mậu Thân 1968 tấn công tràn vào đời sống thường dân miền Nam. Sự rầm rộ ấy khiến người ta nhận ra rằng, sau nửa thế kỷ đã toàn trị, nhà cần quyền vẫn bước hoang mang tìm kiếm một hình dạng chính nghĩa. Thật khác với những người đàn ông vô danh trong bản video của Nas Daily, nhà nước rõ là không thể có được sự an nhiên, vì vẫn luôn còn tự đắc với những câu chuyện của ngày cầm súng.

Fethi và Iannis không còn trẻ con để biết rằng chuyện chĩa súng vào nhau là điều đáng để vứt đi. Họ ôm nhau và cười để nói những câu chuyện về ngày không phải còn phải cầm súng. Cuộc đời không phải là để cho bọn cầm quyền, bọn làm chính trị và tung hô chủ nghĩa lợi dụng. Và câu chuyện hai người đàn ông khoác vai nhau đi trên một con đường, đã không thể bị bất kỳ chính quyền nào sử dụng làm công cụ tuyên truyền chính trị.

“Hãy nhận rõ, bọn chính quyền không có lương tâm. Đôi khi chúng lêm giọng về chính sách, nhưng rồi sau đó không còn gì hơn nữa cả”. (By definition, a government has no conscience. Sometimes it has a policy, but nothing more). Albert Camus (1913-1960) đã nói. Quả vậy, khi con người vượt qua những thứ đó để tìm đến nhau, họ nhận rõ mọi thứ, kể cả rõ về kẻ đã tìm cách mở một cuộc chiến hay lên giọng sau một cuộc chiến.

Việt Nam cũng đã từng có nhiều cơ hội cảm động thuần túy để nhắc nhau như vậy, chẳng hạn như dịp cựu binh Frederic Whitehurst trao lại nhật ký Đặng Thùy Trâm. Câu chuyện một cô gái trẻ bị đẩy vào bom đạn, nếu được soi chiếu hoàn toàn dưới góc nhìn nhân bản, không nhuốm màu chính trị, ắt hẳn sẽ còn lưu truyền mãi về sau, hơn là qua một đợt truyền thông phong trào.

Một ngày nào đó, có thể người Việt sẽ được tự do làm nhiều video nhỏ như trên Nas Daily, nói về người Việt Nam thương yêu nhau, và biết ăn năn và biết đoàn kết chỉ cho vận mệnh quốc gia. Một ngày nào đó, con người trên đất nước này không còn bị đặt tên là kẻ thù, không còn bị xô vào trận làm kẻ sát nhân hay tội đồ, hoặc tự xướng danh một cách vô liêm sỉ.

_____

Về trang Nas Daily:

Theo mô tả từ các trang giới thiệu Nas Daily, thì đây là trang video của Nuseir Yassin, một thanh niên mang hai giòng máu Palestinian Israeli, năm nay 26 tuổi. Trang facebook với các video ngắn khoảng 1 phút đủ các câu chuyện trên đường đi của anh ta, thu hút đến hơn 4,5 triệu người theo dõi trang.

Đang là một nhân viên viết nhu liệu của PayPal với mức lương rất cao, Nuseir Yassin đã bỏ việc và lên đường với một chiếc camera để ghi lại mọi việc trên thế giới mà anh thấy, từ hơn một năm trước.

Năm 19 tuổi, Nuseir Yassin nộp đơn học ở đại học Havard. Bài luận của anh gây chú ý khi mô tả nỗi thất vọng của mình khi là một người Ả rập sinh ra trên đất Do thái, và vấp phải nhiều chướng ngại của số phận trớ trêu.

Bằng những video dài trên dưới 1 phút, Nuseir Yassin đang tạo ra mọt phong cách đặc biệt của vblog, và tạo niềm cảm hứng cho hàng triệu thanh niên đang bắt đầu thực hiện những video ngắn đầu tiên của mình.

HÀNH ĐỘNG CỦA CÔNG DÂN LÀ THỂ DIỆN CỦA QUỐC GIA

 Luân Lê‘s post.
 
Image may contain: 2 people, text
Luân LêFollow

 

HÀNH ĐỘNG CỦA CÔNG DÂN LÀ THỂ DIỆN CỦA QUỐC GIA, NÊN NỖI NHỤC CỦA NGƯỜI KHÁC LÀ NỖI NHỤC CỦA CHÍNH MÌNH

“Mỗi người dân là một bộ mặt của quốc gia, nếu không thể coi tổ quốc là niềm tự hào và thiêng liêng trong tâm khảm, thì chúng ta sẽ luôn để sẵn sàng thực hiện hoặc bỏ mặc người khác gây nên những điều tồi tệ”.

Tại sao tôi lại nói điều có vẻ nghịch lý này ở đây và với mục đích gì? Tại sao người khác hành động mà lại mang nhục cho bản thân mình là thế nào? Tôi thì có liên quan gì đến anh, anh thì liên quan gì đến người khác mà lại nghiêm trọng như vậy? Và mỗi cá nhân phải tự chịu trách nhiệm với hành vi của mình chứ lôi chuyện thể diện quốc gia vào đây là cớ ra làm sao?

Nếu ai đó đặt ra câu hỏi kiểu như thế là vì từ trước đến nay anh ta chỉ có quan tâm đến chén cơm và xó nhà của mình thôi chứ chẳng để tâm thứ gì khác. Thực là một đất nước bất hạnh nếu mà lại tồn tại lắm loại người kiểu như vậy.

Chúng ta thử đặt giả dụ thế này. Một người ở đất nước chúng ta ra nước ngoài làm ăn, với tâm lý chụp giựt, không trung thực lại hay tắt mắt. Rồi một ngày người này ăn cắp đồ của siêu thị và bị bắt. Xin xỏ chính quyền sở tại không được, hối lộ để chạy tội không xong, vì luật pháp nước họ nghiêm minh và rõ ràng, không có nể nang hay phụ thuộc gì vào vị thế gia cảnh, địa vị chính trí của người nào mà xét xử. Thế là bị xử phạt thật nặng và trục xuất về nước. Các bạn là người Việt Nam có thấy chút xấu hổ nào không về một hành vi của một người cùng tổ quốc mình như thế? Tôi nghĩ là người có lương tâm thì có đấy. Nhưng chúng ta thử tưởng tượng rằng, chúng ta cứ tặc lưỡi và mặc kệ mà tự nhủ là “chuyện người ta hơi đâu mà lo”, thế thì một ngày khác có tới vài người cũng lại ăn cắp, vài kẻ khác thì lại thực hiện hành vi dâm ô với trẻ em và bị trục xuất về nước, hoặc số khác thì làm ăn gian dối mà giao hàng không đúng hợp đồng nên bị tẩy chay và xua đuổi. Lúc này, tôi nghĩ không chỉ những cá nhân đó thiệt hại đâu, mà hình ảnh quốc gia của chúng ta cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì bị nước ngoài cảnh giác, đánh giá không tốt. Mà đã như thế là mất đi lợi thế để làm ăn, sẽ bị hủy bỏ các hợp đồng mới và cơ hội đầu tư giữa hai quốc gia, nhiều người dân của chúng ta sẽ không được họ tiếp nhận hoặc nếu có thì hạn chế mà còn bị soi xét rất kỹ lưỡng. Mà mỗi khi nước người ta nhắc về chúng ta là người ta cứ chỉ nói “người Việt Nam” đã trộm cắp hay gian manh thế nào thôi chứ người ta đâu có nhắc ông này hay bà kia một cách cụ thể.

Thế thì chúng ta có nhục nhã và có đúng là đất nước chúng ta phải gánh hậu quả dù đó là hành động đơn lẻ của cá nhân hay không?

Thế nên, làm sao mà mỗi công dân của Việt Nam phải luôn coi hành động của mình là thể diện của quốc gia, nỗi nhục của mỗi cá nhân là nỗi nhục của quốc gia. Ra nước ngoài mà nghe được người khác chửi rủa hay khinh bỉ, miệt thị hoặc xua đuổi đồng bào mình thì chúng ta có thấy hổ nhục không? Có đau đớn và cảm thấy bị xúc phạm như chính mình bị tạt một xô nước bẩn vào mặt không?

Cũng giống như một cái làng mà gồm hầu hết những kẻ sống trong đó là quen thói làm ăn gian dối, trộm cắp, thế thì lúc đi ra ngoài giao du, khi người ta biết là chúng xuất thân từ cái làng đó thì người ta sẽ dè bỉu và đề phòng bằng sự khinh miệt mà không ngại nói rằng, cái làng đó toàn thằng lưu manh, cứ cẩn thận và chớ có làm ăn hay giao du gì với chúng. Quả là tủi nhục và xót xa.

Mà cũng chẳng chừa ra được người ta sẽ cũng đánh giá là cái bộ máy quản lý của cái quốc gia đó quả là kém cỏi, không có hữu dụng hoặc quá mức tệ hại thì mới tạo ra và tồn tại những con người, công dân như thế, chứ một chính phủ mạnh và nghiêm minh thì bói đâu ra lắm kẻ lưu manh và phường trộm cướp như vậy.

Thế nên, để quốc gia cường thịnh và văn minh, để được tôn trọng thì mỗi công dân chúng ta phải là một người luôn mang tâm thế là hành động của mình là thể diện của quốc gia, cũng như vậy, nỗi nhục của mình sẽ trở thành nỗi nhục của quốc gia. Có như thế thì chúng ta mới có thể ngẩng đầu lên với bạn bè quốc tế về sự đàng hoàng và tử tế được.

Trích: MỘT NGƯỜI QUỐC DÂN
——————————————
http://baonhatban.net/truyen-hinh-nhk-nhat-ban-lam-phong-s…/