ĐỪNG QUÊN CÁI CHÍNH…

  
From:    Van Pham‘s post.
Image may contain: one or more people, night, child and outdoor
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
Van Pham added 3 new photos.

 

GÓC SUY GẪM…

ĐỪNG QUÊN CÁI CHÍNH…

Một người đàn bà nghèo khổ bế đứa trẻ đi ăn xin, một lần bà ta đi ngang qua một cái hang. Bỗng nghe văng vẳng bên tai :”
Ngươi có thể vào trong và lấy bất cứ thứ gì mình muốn, nhưng đừng quên cái chính và hãy nhớ một điều: sau khi ngươi trở ra thì cửa hang sẽ đóng lại vĩnh viễn, tuy vậy hãy lợi dụng cơ hội hiếm có này và nhớ đừng quên cái chính”.

Nghe lời bà ta đi vào trong hang. Bà bị lóa mắt bởi vô số những thứ quý giá: vàng bạc, châu báu, kim cương. Bà ta đặt đứa con xuống và bắt đầu nhặt mọi thứ có thể và nhét hết vào mọi nơi trên người. Bên tai văng vẳng lời nhắc nhở: “ngươi chỉ có 8 phút thôi và đừng quên cái chính !”.

Sau khi đã nhét đầy người vàng bạc châu báu cũng là lúc hết giờ. Bà ta vội vã rời khỏi hang, cũng là lúc cửa hang đóng sập lại. Chợt bà ta sực nhớ đến đứa trẻ còn ở trong hang. Bà ta vứt tất cả vàng bạc châu báu đã lấy được và lăn ra khóc lóc vật vã. Nhưng chẳng ích gì vì cửa hang đã vĩnh viễn đóng lại.

Trong cuộc đời chúng ta cũng có khoảng 80 năm để sống ở đời và từ trong sâu thẳm đáy lòng luôn có một âm thanh nhắc nhở chúng ta:

“ĐỪNG QUÊN CÁI CHÍNH”.

Nhiều khi con người vì ham kiếm thật nhiều tiền, nhiều khi ăn chơi vô độ, hoặc chạy theo danh vọng, sắc đẹp mà quên đi cái chính của cuộc đời: đó là chăm chút đời sống tâm linh, cho gia đình, cho những người thân yêu là cha mẹ con cái chồng vợ… là giá trị của đạo đức làm người. Nhoáng cái đã hết 80 năm. Đến khi sắp nhắm mắt mới nhận ra mình đã quên đi cái chính thì ôi thôi đã muộn…. !!!

ƠN ĐẢNG!

From:   Ngô Trường An‘s post.
 
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
Ngô Trường An added 5 new photos.Follow

 

ƠN ĐẢNG!

Công nhận, dưới sự lãnh đạo thiên tài của đảng, người dân VN được xài toàn hàng ngoại, sướng thiệt chớ!

Những mặt hàng đòi hỏi công nghệ và kỹ thuật cao buộc phải nhập thì không nói làm gì. Đằng này, những thứ ở VN thừa mứa ra đó, mà đảng vẫn cho nhập về để dân xài cho chảnh, sướng quá còn gì!

Thôi kệ! Đời như vậy mới gọi là đời chớ hỉ! Nghèo khổ, thất nghiệp mà được ăn muối châu Phi, xỉa răng bằng tăm Ấn Độ, dùng giấy vệ sinh Hàn Quốc, xơi thịt bò Úc, uống cafe Brazil… Đến khi tắt thở cũng được nằm trong quan tài Đài Loan. Đời như thế, còn gì sướng hơn nữa?

Tất cả các mặt hàng nhập khẩu, chính phủ phải mua bằng ngoại tệ chứ không phải tiền ông cụ đâu nghe các cha nội! Bởi vậy, ta phải tiêu xài cho thỏa mái để quên đi những tháng ngày nhai rau măng, húp cháo bẹ…bần cùng, đói rách. He he!!

Nghĩ mà thương cho hàng triệu người xuất khẩu lao động VN đã gò lưng kiếm ngoại tệ về cho đất nước. Chẳng biết ở bên bọn giẫy chết, đồng bào tôi có được xài hàng ngoại như ở VN không?

Buồn tênh!

Lời Chúa tuần này 07-01

PHÚC ÂM: Mt 2, 1-12

“Chúng tôi từ phương Đông đến thờ lạy Đức Vua”. Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông phương tìm đến Giê- rusalem. Các ông nói: “Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Nghe  nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta”. Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người”. Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.

Đó là lời Chúa.

LẠI TRẢ LỜI BẠN DLV

From:   Trần Bang
LẠI TRẢ LỜI BẠN DLV

FBker Mac Văn Trang

Trước đây có mấy bạn DLV gọi mình là “thằng già”, chửi mình đủ kiểu. Mình bảo, các cậu cứ chửi thoải mãi, có từ nào tục tĩu nhất dùng hết đi! Chỉ yêu cầu các bạn công khai danh tính, cho địa chỉ gia đình, để mình sao chép những câu chửi đó, gửi cho ông bà, bố mẹ các bạn thưởng lãm và tự hào! Trong số ông bà, bố mẹ các bạn có khi có người là học trò của mình đấy. Mình đi dạy học từ năm 1959 -1960, mới 21 – 22 tuổi, nhiều học sinh lớp 5 lớp 6 lúc ấy còn nhiều tuổi hơn thầy, có cậu đã có vợ con. Nay gặp mình, họ đầu râu, tóc bạc, vẫn ôm chầm lấy mình, thày trò vui như trẻ chăn trâu! Ấy thế mà các “cụ học sinh” này chẳng may, có con cháu là DLV chửi thầy cũ của mình, khi biết ra thì làm sao đây?

Giờ có bạn (chắc được phân công phụ trách mình) không chửi tục nữa, mà rất lịch sự, hay nhắn tin nhắc nhở, hôm nọ bạn bảo: Bác là nhà giáo uy tín mà toàn nói những chuyện tiêu cực, mặt trái xã hội, ảnh hưởng xấu đến lớp trẻ. Là nhà giáo chân chính phải truyền đạt những giá trị Chân, Thiện, Mỹ cho giới trẻ chứ! Xin thưa lại mấy ý:

1/ “Lớp trẻ” mà lại nghe người ta nói “tốt”, tin ngay là “tốt”, nói “xấu” tin ngay là “xấu”, không biết phân tích phê phán nhận ra cái đúng, cái sai, cái thật, cái giả, để tiếp nhận điều hay, lẽ phải, thì hạng người ấy nuôi tốn cơm làm gì!

2/ Hơn 800 tờ báo cách mạng, hàng trăm đài truyền hình, phát thanh của Đảng, bao nhiêu cán bộ tuyên huấn, đoàn thể, 10.000 “LL47” và bao nhiêu DLV cùng với gần một triệu giáo viên đứng lớp, suốt ngày nêu gương người tốt, việc tốt, thi đua học tập làm theo các tấm gương thì còn sợ gì? Các bạn đọc báo toàn tin tốt đẹp phi thường, như: “Khép lại năm 2017: Bộ Y Tế không phát hiện cán bộ nào THAM NHŨNG, nhận tiền của bệnh nhân”… (Báo Gia đình cuộc sống info, ngày 5/1/2018), thế thì còn chỗ nào để tôi nói tốt hơn được nữa!

3/ Tôi rất quan tâm truyền bá các giá trị Chân, Thiện, Mỹ, Ích, nhưng không phải cứ nhét vào đầu người ta, thế này là “tốt”, thế này là “đúng”…(cái đó, đã nói ở mục 2 bên trên rồi). Có một cách tốt hơn, là:
– Cho người ta thấy đâu là sai lầm, hư vô, phi lý, lừa đảo, ngụy biện, hình thức giả tạo… người ta sẽ nhận ra đâu là Sự thật, biết cách tiếp cận Chân lý…;
– Chỉ cho người ta thấy đâu là cái ác: Những luận điểm, âm mưu nham hiểm, những lời nói độc ác; những chuyện cướp bóc tàn bạo, những cách ứng xử bất nhân, bất nghĩa, vô pháp, vô đạo; những thù đoạn hủy diệt môi trường sống của dân tộc, đầu độc cả giống nòi… Khi người ta nhận diện được những cái ác đó và dám mạnh mẽ lên án chúng, thì cái Thiện đã thành hình trong con người…;
– Chỉ cho người ta biết những “truyền thống văn hóa” nhưng đã lỗi thời thành xấu (như đâm trâu, chém lợn, cướp lộc, mê tín…); những thói hư tật xấu (ăn cắp, tham nhũng, mưu hèn, kế bẩn, dối trá, vô cảm…); những hành vi kém văn hóa: “Trưởng giả học làm sang”, quan liệu, kệch cỡm, phát ngôn bừa bãi, ăn mặc lỗ lăng… là giúp người ta phân biệt Cái xấu, Cái đẹp, là góp phần hình thành nhận thức, thái độ, hành vi Thẩm mỹ trong đời sống thực tế;
– Lên án tội lãng phí, bệnh thi đua hình thức, những việc làm phô trương vô nghĩa; phê phán những sự ngu dốt tiêu hủy không biết bao nhiêu tiền của, vật tư, thời gian, sức người vào những chuyện vô tích sự, vô ích… là để giúp người ta nhận ra giá trị của Ích, biết thế nào là có ích và vô ích. Ngô Bảo Châu có câu nói hay: “Bạn muốn sống có ích, hãy bớt những việc vô ích đi”!

Bây giờ, bạn hãy tự hỏi, việc làm của DLV liệu có đem lại giá trị Chân, Thiện, Mỹ, Ích cho bạn và cho mọi người không?
Mong nhận được phản hồi của bạn với đầy đủ họ tên thật, hình ảnh thật, địa chỉ thật, nhé.
05/1/2018
MVT

Chuyện kể của một người con gái, gia đình cô bị việt cộng giết gần hết.

From:   Dien Hong Tran and 2 others shared Rinh Le‘s post.
Image may contain: 4 people, text

Rinh Le

 

Nhân chứng, nạn nhân tội ác Cộng Sản Tết Mậu Thân 1968

Chuyện kể của một người con gái, gia đình cô bị việt cộng giết gần hết.

Tôi xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống sót sau tết Mậu Thân như là tiếng kêu oan cho gia đình tôi, cho linh hồn của những người thân trong gia đình, gia tộc tôi cách riêng, và cho những người dân Huế nói chung, thay cho tất cả những ai bị sát hại trong tết Mậu Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại VN không có cơ hội để nói lên những oan khiên mà họ đã gánh chịu bởi Đảng Cộng Sản, và bè lũ tay sai khát máu giết hại dân lành vô tội như anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v…
ngoc phan.

Năm 1968, tôi đang là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế. Ngoài những giờ học lý thuyết chung tại trường, bọn sinh viên chúng tôi được chia thành nhiều toán. Mỗi toán từ 8- đến 10 người, luân phiên thực tập ở các trại bệnh trong BV Trung Ương Huế.

Có những trại bệnh sinh viên thực tập theo giờ hành chánh. Có một vài nơi, như phòng cấp cứu, phòng bệnh nội thương … thì giờ thực tập được chia làm ba ca, sáng, chiều và đêm … Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau.

Mỗi một nơi chúng tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ.

Hai tuần trước tết, toán của tôi được chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai , tôi và hai anh bạn vào ca đêm.

Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về kịp ăn tết.

Thường thì mấy anh em tôi năm nào cũng vậy, đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày 30 tết, ở luôn cho hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm viếng bạn bè…

Sau bữa cơm tối mồng một tết, khoảng 8 giờ 30, anh Hai lấy xe Honda của anh đưa tôi tới BV, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.

Tối mồng một tết phòng cấp cứu hơi vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai người nhân viên phòng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình… hên! Chúng tôi mang một ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm chừng những bệnh nhân mới nhập viện từ đêm qua chưa được chuyển trại.

Nhưng qua nữa đêm thì bắt đầu nghe có tiếng súng. Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một gần. Chúng tôi thốt giựt mình, băn khoăn nhìn nhau, hoang mang lo sợ. Bầu không khí bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa thì nghe ngóng bàn tán, thắc mắc không biết tiếng súng từ đâu vọng lại…

Lúc đầu chúng tôi tưởng là thành phố Huế và BV bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng 3, 4 giờ sáng, bất thần không biết từ ngõ ngách nào có chừng mười mấy người tràn vào phòng cấp cứu, họ xưng chúng tôi là quân giải phóng. Đa số mặc áo quần đen, súng mang vai, bị rết ngang hông. Họ bắt tất cả chúng tôi băng bó cho một số người bị thương, đồng thời hò hét chia nhau lục soát, vơ vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa v.v… Họ lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cả những bánh mứt chúng tôi để trong phòng trực.

Trong lúc bọn họ đang tranh nhau lục lọi, thì ầm một cái, một tiếng nổ rớt rất gần, đâu đó trong BV, rồi tiếng thứ hai, thứ ba…rớt ngay con đường phía trước cổng chính BV, kề phòng cấp cứu… Điện trong phòng cấp cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai nấy tìm đường chạy thoát thân.

Ra khỏi phòng cấp cứu tôi cắm đầu chạy, tôi không định hướng được là mình đang chạy đi đâu. Súng nổ tư bề, cứ nằm xuống trốn đạn, rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy. Chạy bất kể tả hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm vào một người , định thần ngó lại mới biết đó là cha Trung, tuyên úy của BV. Cha từ phía một trại bệnh nào đó tình cờ chạy về phía tôi. Nét mặt cha cũng thất thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi “con ở mô chạy lại đây?” Tôi nói “từ phòng cấp cứu”. Vừa nói vừa theo cha, chạy về phía nhà nguyện của BV và cũng là chỗ ở thường ngày của cha. Đến đó thì đã có hai bà sơ dòng áo trắng và vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây. Tôi nhận ra trong số đó có sơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú tại trường trung học Jeane d’ Arc.

Cha Trung quen biết ông nội và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở đường Hàm Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại đó với cha hai bà sơ, và mấy người nữa.

Bốn năm ngày liền chúng tôi chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng không liên lạc được với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nổ tư bề nên ai ở đâu thì cứ ở đó.

Sau khi đám người xưng là “quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi chúng tôi không gặp, không thấy bọn VC nào nữa, hay chúng đang lẫn trốn trong những trại bệnh khác thì tôi không biết.

Tới ngày thứ năm, ruột gan như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường Hàm Nghi ra sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi con muốn muốn về nhà. Cha bảo, không được, súng đạn tư bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha và mấy sơ đi đã, khi mô có lính mình xuất hiện thì mới đi được.Tôi hỏi, khi mô thì lính mình mới tới, cha nói không sớm thì muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như để trấn an tôi và mọi người thôi chứ trên mặt cha thì vẫn đầy vẻ lo âu…

Không biết nghe tin từ đâu mà một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ Cam đông lắm. Tôi nghe càng nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần vì sốt ruột muốn gặp mạ với mấy anh em tôi, phần vì đói. Đã mấy ngày không có gì ăn ngoài mấy ổ bánh mì cứng còng của Caritas còn sót lại ở nhà nguyện chúng tôi chia nhau gặm…cầm hơi!

Tôi quyết định chạy về tìm gia đình. Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng phục dính đầy máu , tôi chạy ra phía sau cổng BV, tìm đường về nhà. Vừa chạy vừa lo, ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng súng thì nghe rất gần. Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm cồm bò dậy, vài bước lại vấp té. Tôi lạnh run, hai hàm răng đánh bò cạp, nhìn cảnh tượng xác người nằm đây đó, máu me đóng vũng, không biết họ bị thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục chết ở đây. Quá sợ hãi, tôi định chạy trở lại nhà nguyện thì bất thần thấy anh Văn hớt ha hớt hải từ cổng sau BV chạy vô.

Văn là bạn của anh Hải, anh kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần dòng Thiên An. Mặt mày Văn xanh xao, hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp tôi Văn lắp bắp, nói không ra hơi. Ti ơi thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở bên Văn Khoa. Toàn thân run rẩy, tôi khuỵu xuống. Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gấn. Văn hoảng hốt kéo tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau BV. Hai đứa tôi run rẩy ngồi sát vào nhau. Lát sau, tiếng được tiếng mất, anh lắp bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi trốn đạn trong nhà thờ Chánh Tòa (nhà thờ Phủ Cam), nhưng rồi đêm qua có mấy sinh viên của mình dắt một toán VC vô nhà thờ đọc một lô danh sách, họ lùa người đi đông lắm, không biết họ đưa đi đâu. Văn kể một hơi mấy tên “sinh viên của mình” nhưng bây giờ tôi không còn nhớ nổi.

Khi đám người bị lùa đi, thân nhân của họ khóc la thảm thiết.

Sau đó Văn, anh Hải cùng mấy người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường trốn.

Ra khỏi nhà thờ, không biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy co, làm sao mà Văn với anh Hải lại tới được trường y khoa. Anh Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào không biết. Hai anh hè nhau chui vô phòng thí nghiêm trốn thì thấy có vài người đã bị bắn chết từ bao giờ mà những vũng máu đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn, anh Hải hoảng hồn chạy trở ra. Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan (HPNP) và Nguyễn thị Đoan Trinh (NTĐT) cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng bọn với HPNP. Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh học y khoa cùng lớp với Phan.

Gặp Văn, Phan nạt nộ, tụi mi chạy trốn đi mô? Khôn hồn thì chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để đi tải thương! Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm soát của bọn HPNP nên vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng bị bắt đi tải thương chứ không bị giết.

Bọn Trinh, Phan chạy xe Honda nên họ tới trước, và cũng đã bắn trước một số người khác rồi. Hải, Văn không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước, nghĩ là sẽ gặp được một số bạn bè khác, cùng đi tải thương với nhau như lời HPNP nói.

Vừa vô tới giảng đường thì anh Hải bị HPNP bắn gục ngay. Văn mắc đi cầu, tìm chỗ phóng uế nên chạy vô sau anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiến súng, tiếng hét của anh Hải, Văn quay đầu bỏ chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường đại học, khiến HPNP và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda tháo chạy. Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô BV, và tình cờ gặp tôi trong đó.

Nghe anh Hải bị bắn trong sân đại học Văn khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn khoa tìm anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh vô Bv cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em tới chỗ anh Hải. Văn can, Ti đừng đi, tụi nó có thể trở lại. Tôi mặc kệ Văn ngồi đó, vừa khóc vừa chạy. Một lát nghe tiếng chân Văn sau lưng, miệng thì nói, Ti ơi, vô BV trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn bước theo tôi. Tôi như người mất hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là khủng khiếp, chỉ một đoạn đường từ cổng sau BV tới sân trường VK mà không biết bao nhiêu là xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.

Chúng tôi chạy mới tới trường trung học Jeane d’Arc, thì gặp bọn HPNP lấp ló trước cổng trường với một nhóm bộ đội Bắc Việt. Người nào mặt mày cũng đằng đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn run rẩy, Phan chưa kịp nói thì Văn đã lắp bắp phân trần, em qua BV kiếm con Ti chớ em không có trốn mô, và xin xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải về nhà rồi em trở lại đi… tải thương !

Phan không trả lời Văn, hắn nhìn tôi ác độc, mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng Hải về. Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô mà kêu. Trước đây tôi không hề biết mặt HPNP, mà cũng chưa hề nghe nói tới tên người này vì trước năm 68 tôi còn là học sinh trung học. Có thể các người anh của tôi thì biết, vì họ là những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua những khó khăn đối đầu với đám sinh viên theo phe “tranh dấu, lên đường xuống đường” của những năm trước.

HPNP to nhỏ gì với những người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh Văn đem xác anh Hải về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải về thì Văn thấy một chiếc xích lô của ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ cạnh vách tường trường Jeane d’Arc.

Văn gọi tôi theo anh. Chúng tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn khoa. Có chừng 10 xác người trong đó. Tôi không dám nhìn lâu. Chúng tôi hè hụi khiêng Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đã cứng. Đùm ruột lòi ra ngoài trông rất khủng khiếp. Hai mắt vẫn còn mở trừng. Miệng vẫn còn há ra.

HPNP vừa đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi. Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại tau là mi chết! Văn run rẩy lắp bắp, dạ lạy anh, em không dám nữa mô. Rồi chúng tôi hè hụi đẩy chiếc xích lô mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho Rèn đi lên. Nhà tôi ở trên đường Hàm Nghi. Qua khỏi cầu một chút. Suốt quãng đường từ đó về đến nhà, có rất nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba. Chúng tôi không bị bắt giữ lại vì có HPNP chạy đi trước ra dấu cho họ để cho chúng tôi đi.

Khúc đường ngang trường Thiên Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm rãi rác. Nhiều vũng máu cũng như xác người bị ruồi bu đen. Đã mấy ngày không có gì trong bụng, tôi vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi ráng sức đẩy chiếc xích lô, trong lúc HPNP cùng hai người đàn bà nữa cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi nghe chúng nó hỏi nhau, bên Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ còn ai nữa không? Có mấy chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng vô trường Thiên Hựu.

Lúc đó bỗng dưng có mấy chiếc trực thăng xuất hiện trên trời nhả đạn xuống, Văn nói như reo bên tai tôi, Ti ơi, máy bay của mình. Mừng chưa kịp no, thì trời ơi, từ những cửa sổ trên lầu của trường Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả đạn, nhắm hai chiếc trực thăng mà bắn, lúc đó chúng tôi mới biết là VC đang ở trong trường Thiên Hựu quá nhiều. Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại ngồi sụp xuống bên tường rào của trường tránh đạn. Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ được một lát, hai chiếc trực thang bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng, khi thấy Phan với đồng bọn xuất hiện hối chúng tôi đi.

Lên tới cầu Kho Rèn, thấy một đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau ngồi trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ con, nín đi con ơi. Đi ngang qua họ mà chúng tôi không dám nhìn. Có tiếng người trong đám gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp việc của mẹ tôi và vợ của một chú cùng đơn vị với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Tôi đoán họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn, Hàm Nghi và những con đường chung quanh đó chạy xuống tìm đường trốn lên Phú Lương thì bị bắt giữ.

Tôi định dừng lại hỏi thăm thì HPNP trờ xe tới nạt nộ “đi, mau ngó chi!”

Trên đoạn đường từ Văn Khoa ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi thấy nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc đồ đen đi dép râu, mang súng.

Súng nổ tư bề mà sao không thấy bóng dáng lính mình ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ đội Bắc Việt khắp nơi.

Trên đường Hàm Nghi, Nguyễn thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng trong nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà, người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường khóc la thảm thiết…Bọn lính Bắc thì cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ…

Hai chúng tôi cứ nghiến răng, cúi mặt, lầm lủi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.

Khi gần tới nhà tôi ở số 24 đường Hàm Nghi thì HPNP và NTĐT rà xe lại gần bảo tôi, không được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!

Đẩy lên trên tê, tôi hiểu đây là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng nhà nội tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần cầu Kho Rèn.

Tôi cũng không hề biết mặt Nguyễn thị Đoan Trinh trước đó. Trong hoàn cảnh này tôi mới biết mặt y thị là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn, cứ tưởng khi HPNP biểu cùng tôi đẩy xác anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi cũng không ngờ rằng đoạn đường từ Văn Khoa lên tới nhà nội trên đường Hàm Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi đi chung với nhau trong cuộc đời này

Lên tới nhà nội, chúng tôi đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn chạy vào nhà, nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ ơi. Nghe tiếng ông nội yếu ớt từ trong buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con đây, ông nội. Nghe tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy lại ôm tôi, ông khóc, ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui con sống. Tôi không khóc được, tôi run rẩy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con còn sống mà về được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội, không can chi mô! Nghe nói mạ mi đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát được không ? Lạy Chúa, lạy Mẹ phù hộ.

Tôi không nói vì quá mệt, kéo tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô giống thằng Văn rứa bây? Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời ơi, răng mà ra nông nỗi ni…

Chúng tôi đem Hải vào nhà, đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.

Hai người anh tôi đang trốn trên trần nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc giở nắp trần nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy cái ghế đẩu qua cho anh. Tôi nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái ghế đẩu mang lên để ngay góc phòng cho anh Lộc nhẩy xuống. Ông nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông nội lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà… Anh Kính đang ở trên đó, cũng đang khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân người ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn HPNP cũng vừa vào đến.

Thấy Phan bước vô, mặt Văn biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác về đó ông ơi. Ông nội đứng im không nói. Hai mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi, thằng Lộc, thằng Kính ở mô? Ông nội nói tui không biết. Phan gằn giọng, ông thiệt không biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn tết ở đây mà ông không biết răng được? Ông nội nói, ba ngày tư ngày tết, ăn xong thì tụi hắn đi chơi, đi thăm bà con họ hàng chứ chẳng lẽ ở nhà hoài răng? Chừ thì tui biêt tụi hắn ở nhà mô mà chỉ!

Mắt Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.

Tôi đứng núp sau lưng ông nội, HPNP hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn, Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không xuống tau bắn con Ti!

Nó vừa nói, vừa xoáy mái tóc dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau điếng, tôi sợ, tôi run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông nội tôi chấp tay lạy nó như tế sao, tui lạy anh tha cháu tui, con gái con lứa, hắn biết chi mô.

Thằng Phan càng la lớn, tau biết tụi mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti.

Phan xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai,ba… Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu xuống la to, đừng, đừng bắn em tau, tau xuống, để tau xuống… Ông nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc Anh Lộc tìm cách tuột xuống, thò hai chân xuống trước, hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu thì HPNP đã nổ súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.

Mặc ông nội tôi la hét thất thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó dành lấy cây súng của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng ván.

Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh người tôi tê cóng, đái ỉa ra cả quần, ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi. Ông tôi đổ xuống bên cạnh anh Kính.

Bắn ông tôi xong chúng kéo nhau đi bắt anh Văn theo. Còn lại một mình, tôi bò lại ôm lấy ông nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt đẫm máu, máu của ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt đều mắt mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi gục đầu xuống xác ông lịm đi. Không biết bao lâu thì tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân và nước tiểu đẩm ướt. Tôi không còn sức để ngồi lên. Không biết tôi nằm bên cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy là bao lâu, khi tỉnh dậy thì thấy hai vợ chồng bác Hậu, vài người lối xóm của với ông nội đang ở trong nhà.

Họ dọn dẹp, khiêng bộ ngựa trong nhà bếp ra trước phòng khách, đặt xác ông nội cùng với ba người anh tôi nằm chung với nhau. Hai bác gái đem tôi vào phòng tắm, phụ nhau tắm rửa cho tôi như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo quần của bác mặc cho tôi. Tâm trí tôi hoàn toàn tê liệt. Tôi không còn khóc được, không còn mở miệng nói được câu nào. Ngày cũng như đêm ngồi rũ rượi bên cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không còn sợ chết. Nhưng sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hỡi, trời ơi!

Nhìn thấy tôi tiều tụy, mỗi ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muổng bột bích chi ép tôi uống. Thiệt ra nhà nội cũng chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó khiêng đi hết rồi. Bác Hâu còn dấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống cầm hơi với nhau.

Ngày hôm sau thằng Phan trở lại. Bác Hâu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau vườn nhà nhưng nó không cho, nói cứ để đó.

Đã hơn bảy ngày, xác đã bắt đầu sình lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại. Một buổi tối tụi bộ đội Bắc Việt đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng nó đào huyệt sau nhà để chôn ông nội và ba người anh tôi. Chúng nó bảo ừ thối quá rồi thì chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ huyệt.

Vợ chồng bác Hậu khóc lóc năn nĩ, mấy anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui đào 4 huyệt. Chúng không cho. Chúng nó phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cả bốn người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà khóc…

Chiều tối hôm đó Văn trở lại với Phan và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng bộ đội khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt. Hai vợ chồng bác Hậu theo ra vườn. Tôi kiệt sức nằm vùi một chỗ nhưng tai tôi vẫn nghe rõ những lời đối thoại trong nhà. Tôi không đủ can đảm theo ra vườn chứng kiến cảnh vùi lấp những người thân yêu của tôi. Nằm trong buồn ông bà nội nhưng tôi nghe rõ từng tiếng cuổng xẻng đang đào đất. Tâm trí tôi quay cuồng, ruột gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất ở đâu? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết…

Khi bốn cái xác người được bỏ xuống, miệng lỗ chưa được lấp, thì tôi nghe tiếng súng nổ, tiếng kêu gào của vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng bác Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi giọng bác đòi đoạn, thì tôi biết chuyện gì đã xẩy ra cho Văn. Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm thấy khó thở, một lần nữa cứt và nước đái trong người tôi túa ra.

Tôi nghe tiếng mấy thắng bộ đội hò hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu Và những người hàng xóm của nội tôi đành phải làm theo. Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào buồng vò đầu, bức tai, giọng tức tưởi, thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi rồi con ơi! Trời ơi, là trời ơi, bác Hậu đấm ngực, không biết thằng Văn đã chết chưa mà hắn bắt tui lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người mô mà ác như rứa… Tôi lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.

Sau lần đó không đứa nào trong bọn chúng trở lại, kể cả tụi bộ đội. Chắc nhà ông tôi chẳng còn người để mà giết, chẳng còn của cải chi để mà cướp nữa.

Hơn hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tư bề.

Hai vợ chồng bác Hậu không nở bỏ tôi lại một mình, trong lúc bác nghe ngóng và biết đa số dân Phủ cam đã tìm đường chạy thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nỉ tôi ráng ăn uống thêm một chút để có sức mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ chết? Con không muốn tìm mạ con răng?

Hôm sau nữa tôi theo gia đình bác Hậu tìm đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói lính Mỹ, lính mình đã thấy xuất hiện chung quanh đây rồi. Đi xuống ngã cầu Kho Rèn thì cầu đã bị sập, bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo như người mất hồn, họ đi đâu tôi theo đó, tôi không còn nhớ là mình đã đi qua được những nơi đâu. Có điều tôi lấy làm lạ, trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ gồng gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chỗ tránh đạn, người ta nói với nhau, khi mô mà có mọc chê hay đạn pháo chi đó thì bọn VC chui vô nhà dân để trốn đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại, vì vậy người ta cứ chạy bất kể, dưới lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những người dân tội nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay quân sát nhân ác độc.

Cuối cùng thì tôi cũng về đến được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạ tôi bị phát điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội. Ít lâu sau ba tôi trở về sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Thấy mạ tội như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm Nghi ông mướn nhà ở tạm tại Phú Lương.

Sau khi Huế được giải thoát. Ba tôi nhờ bà con lối xóm cải táng Văn, ba người anh, và ông nội tôi, tang lễ được cử hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ chủ tế. Gia đình anh Văn đồng ý cho anh Văn được nằm lại trong miếng vườn nhà ông nội tôi cùng với ba người anh của tôi.

Ba tôi được giải ngũ khoảng giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không thuyên giảm. Ba tôi quyết định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long Khánh sinh sống. Nhà nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24 Hàm Nghi (gần dường rầy xe lửa) thì bán cho ai đó tôi không rõ.

Thưa ông Liên Thành,

Đó là những cái chết oan khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận mắt với muôn ngàn đau đớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của tôi có rất nhiều người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn sống, mất tích lên tới 70 người. Tất cả đều là học sinh, sinh viên, thường dân, nông dân, buôn bán ở chợ An Cựu.

Sau Tết Mậu Thân, những người bà con còn lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm thầm bỏ Huế, tản mác khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống…

Sau biến cố tháng 4 đen 75, gia đình tôi lại là những nạn nhân của lũ Cộng Sản ác độc, vô luân. Ba tôi và những đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười mấy năm bị đày đọa trong lao tù CS.

Đã 40 năm qua, những vết thương đó vẫn còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó là những cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân Huế.

Tôi là người con duy nhất trong gia đình còn sống sót sau tết mậu Thân cũng như sau những ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người Thân Yêu trong Gia đình tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố cáo Tội Ác của Cộng Sản, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em tôi mới có thể siêu thoát

Tôi sẵn sàng ra làm nhân chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền thông khi cần thiết.

Xin trình ông tên tuổi ông nội tôi, và của ba người anh bị sát hại :
Tên ông nội : Nguyễn Tín, 70 tuổi.
Ba người anh : Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa, sinh năm 1942.
Nguyễn Xuân Lộc. sinh viên luật, sinh năm 1946
Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949
Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.

Nguyễn thị Thái Hoà

Tưởng nhớ 7.600 người dân Huế bị thảm sát trong cuộc tổng tấn công của Cộng Sản, Tết Mậu Thân, 1968

Nguồn: https://namvietnetwork.wordpress.com/…/nhan-chung-nan-nhan…/    

Nhà cầm quyền hiện nay chỉ là một lực lượng chiếm đóng đất nước này

From:  Lê Công Định‘s post.

Bản án tử hình dành cho người nông dân bảo vệ đất ở Đắk Nông cho thấy rõ nhà cầm quyền hiện nay chỉ là một lực lượng chiếm đóng đất nước này, một thế lực phong kiến thuần tuý mà thôi.

Vì vậy, lịch sử sẽ lập lại mà chưa có nhiều thay đổi đáng kể, nông dân một lần nữa sẽ là lực lượng đồng thời là động lực cách mạng trong tương lai. Đừng quên vai trò cốt lõi của nông dân trong các biến động xã hội, đặc biệt ở các nước Á Châu như Việt Nam.

Có thể nói nạn cường hào, ác bá và cướp đất ngày nay còn nghiêm trọng hơn thời Thực dân Pháp chiếm đóng Việt Nam. Sự gia tăng vấn nạn đó, tuy nhiên và suy cho cùng, sẽ giúp thúc đẩy xã hội tiến đến một Độ đủ để chuyển hóa Lượng thành Chất. Khi đó, sự thay đổi toàn diện sẽ diễn ra chớp nhoáng tựa một cái chau mày của nàng Tây Thi kiều diễm.

TÌM CHÚA

TÌM CHÚA

Vào thời Trung Cổ người ta hay diễn tuồng ba vua ở trong nhà thờ hoặc nơi cửa ra vào. Để làm thoả mãn trí tưởng tượng của khán giả, người ta thường đem đến những vật kỳ lạ, và cho là lễ vật của ba vua tiến Chúa như: khỉ, vẹt, lạc đà… Lễ ba vua còn có một thủ tục khác nữa là chơi trò bắt thăm làm vua. Người ta cho một hạt đậu hay một tượng nhỏ vào trong chiếc bánh ngọt, và chia ra thành từng phần cho những người trong nhà, ai được miếng bánh có hạt đậu hay tượng nhỏ đó sẽ được làm vua, được đội triều thiên trong bữa ăn. Thủ tục này bắt chước thủ tục của dân ngoại ở Rôma, Đức… còn trong tu viện nếu được làm vua sẽ được làm chủ tọa cộng đoàn khi dự nghi lễ phụng vụ và chủ tiệc ngày hôm ấy. Từ thời Trung Cổ người dân ngoại và cả người Công Giáo đều ao ước được giống như ba vua, để được dâng lễ vật tiến Chúa, được chủ tọa nghi lễ phụng vụ… Đó chỉ là những hình thức bên ngoài của thời Trung Cổ, nhưng ít nhiều cũng cho thấy tâm tình bên trong; họ ao ước giống ba vua cả trong đức tin, hành động và cả lòng can đảm.

  1. Trong đức tin

Ba vua chính là những người dân ngoại đầu tiên nhận biết Chúa. Và chính nhờ đức tin qua ngôi sao lạ đã hướng dẫn đường đi, nước bước cho các ông. Thật vậy đức tin chính là ơn ban cao trọng nhất, vì không có đức tin chúng ta không thể sống đẹp lòng Chúa được. Hơn nữa không có đức tin thì sẽ như người mù lòa không biết đường biết hướng về đâu. Nhưng phải luôn nhớ rằng đức tin luôn là ơn ban cho tất cả mọi người, đặc biệt là dân ngoại. Đức tin đến với ba vua không như một phép lạ để họ nhận biết Người. Họ được ngôi sao lạ dẫn đường, ngôi sao này có thật hay không chúng ta không cần biết. Điều quan trọng là qua ngôi sao lạ ba vua nhận biết đó là điềm Thiên Chúa gởi đến soi sáng và đưa họ đến Bêlem để thờ lạy Chúa.

Ngày xưa ba vua nhờ đức tin soi sáng dẫn đường đã được thoả lòng hạnh phúc. Ngày nay Thiên Chúa cũng soi sáng chúng ta bằng nhiều cách qua các biến cố. Nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta đã biết lấy đức tin để đón nhận chưa?

  1. Hành động

Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết”. Nếu ba vua nhìn thấy ngôi sao mà không lên đường, thì việc trông thấy ngôi sao nào có ích gì? Đối với chúng ta cũng vậy, nếu có đức tin mà không sống theo đức tin thì có ích gì. Ba vua vừa nhìn thấy ngôi sao lạ thì nhận biết ngay đó chính là quyền phép Thiên Chúa thì các ông không cần tìm hiểu nguyên do, mà mau mắn bước theo. Thật là một niềm tin mãnh liệt là một tấm gương cho mỗi người chúng ta. Đứng trước chân lý đức tin đòi hỏi ta cũng phải có thái độ tùng phục như vậy. Do đó chúng ta hãy mau mắn làm theo ba vua, khi thấy “ngôi sao đức tin” phải vội vã lên đường, nếu ta còn lưỡng lự chậm chạp rất có thể ngôi sao đó sẽ tắt lịm và không còn ánh sáng nào soi đường cho ta đi về quê thật là nước thiên đàng nữa.

  1. Can đảm

Ba vua đã từ giã gia đình thân yêu, không ngại thân già sức yếu, đường sá nguy nan, chấp nhận tất cả những khó khăn chỉ mong làm tròn thánh ý Chúa đã tỏ ra với mình. Chúng ta những người đang lữ hành, con đường mình đi chắc chắn cũng có rất nhiều chông gai hiểm trở. Chúng ta phải chiến đấu không ngừng với bản thân mình, với những xu hướng xấu từ ngay trong chính bản thân… Như ba vua đã đạt được đích đến là Thiên Chúa, thì chúng ta tin rằng với con đường đức tin mình cũng sẽ đạt được hạnh phúc đời đời. Vì thế mà mỗi người hãy can đảm vượt mọi trở ngại đời này, để sống xứng đáng với đức tin mà Thiên Chúa đã ban cho ta.

Không phải con đường đức tin lúc nào cũng trơn tru, lắm lúc cũng bị mây mù che khuất như ba vua hôm nay, nhưng với sự quyết tâm và lòng thành các ông đã vượt qua bằng cách hỏi thăm đường. Chúng ta cũng vậy lắm lúc con mắt đức tin mình cũng bị che mù làm ta không còn nhận ra đường đi nữa, không còn biết phải đi con đường nào và xử sự ra sao. Lúc đó cũng hãy biết chạy đến những người khôn ngoan, hướng dẫn đức tin như: cha sở, cha linh hướng hoặc những người khôn ngoan, chắc chắn chúng ta sẽ không bị lầm lạc và cũng tìm được Chúa như ba vua xưa đã thấy.

Trong ngày lễ hiển linh hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa Hài đồng tâm tình thờ lạy. Ta chẳng có vàng, nhũ hương và mộc dược, nhưng chúng ta có tấm lòng, có con tim. Vậy chúng ta hãy dâng lên Chúa với tất cả lòng chân thành và con tim yêu mến đó.

Lạy Chúa, chỉ tin không thì chưa đủ, mà còn đòi hỏi con phải mau mắn thi hành những điều đức tin dạy, như thế mới là sống theo ý Chúa . Amen

Sưu tầm

Langthangchieutim gởi

NGƯỜI VIỆT KHÔNG MẤT DẠY – NGƯỜI CNXH MỚI MẤT DẠY

V Phung Phung shared Jonathan Tran‘s post.
21 hrs · 

 
 
 
No automatic alt text available.
Jonathan Tran

 

[NGƯỜI VIỆT KHÔNG MẤT DẠY – NGƯỜI CNXH MỚI MẤT DẠY]

Nếu bạn tiếp xúc với những người lớn tuổi, những cô chú Việt kiều, thì ít nhiều họ sẽ nhận xét như sau về con người và đất nước Việt Nam hiện tại: “Cái thứ dân gì mà mất dạy, thô tục. Hồi đó đâu có vậy đâu.”

Ờ đúng. Người Việt trước đây đâu có ăn nói thô lỗ và mất dạy như vậy. Nhất là người Bắc. Người Bắc 54 ăn nói lễ phép và vô cùng tế nhị, tới mức họ tức hay chửi bạn bạn cũng không phân biệt được. Còn bây giờ thì ôi thôi, đi dâu cũng nghe “địt mẹ, đụ má, cái lìn, vãi lìn.”

Trước đây “Cảm Ơn” và “Xin Lỗi” là 2 từ phổ biến. Vậy trước đây chúng ta đã từng nhân văn sao. Nhưng tại sao bây giờ khác quá vậy, nguyên nhân là gì? Nói vòng vo thì chỉ có một, đó chính là CNXH.

CNXH đã phá nát nền tảng đạo đức của người Việt. Không những thế, nó đã tiêu diệt sự tử tế và cướp đi nét nhân văn con người của đất nước này. Người Việt trước đây đâu có vậy đâu. Người Việt hiện tại là người CNXH.

CNXH đã đẩy đất nước vào trong nghèo đói. Nó đã bỏ tù và tiêu diệt tầng lớp trí thức của xã hội. Và khi tầng lớp này mất đi, nền tảng nhân văn của đất nước cũng bị cướp đi. Cho nên đừng bao giờ đổ thừa dân thế này thế nọ, đừng ngụy biện rằng “Việt Nam hội nhập nên thế này thế kia.” Cái này đâu phải nước Việt Nam, cái này đâu phải là người Việt Nam. Đây là con người và đất nước CNXH.

CNXH làm người Việt đáng ghét vì nó cướp đi nét nhân văn con người của đất nước này.

Ku Búa @ Cafe Ku Búa

HẠNH PHÚC VÔ HÌNH

HẠNH PHÚC VÔ HÌNH

Có một phú ông vô cùng giàu có. Hễ thứ gì có thể dùng tiền mua được là ông mua về để hưởng thụ. Tuy nhiên, bản thân ông lại cảm thấy không vui, không hề hạnh phúc.

Một hôm, ông ta nảy ra một ý tưởng kỳ quặc, đem tất cả những đồ vật quý giá, vàng bạc, châu báu cho vào một cái bao lớn rồi đi chu du. Ông ta quyết định chỉ cần ai có thể nói cho ông làm thế nào để hạnh phúc thì ông sẽ tặng cả bao của cải cho người đó.

Ông ta đi đến đâu cũng tìm và hỏi, rồi đến một ngôi làng có một người nông dân nói với ông rằng nên đi gặp một vị Đại sư, nếu như Đại sư cũng không có cách nào thì dù có đi khắp chân trời góc bể cũng không ai có thể giúp ông được.

Cuối cùng cũng tìm gặp được vị Đại sư đang ngồi thiền, ông ta vui mừng khôn xiết nói với Đại sư: “Tôi chỉ có một mục đích, tài sản cả đời tôi đều ở trong cái bao này. Chỉ cần ngài nói cho tôi cách nào để được hạnh phúc thì cái bao này sẽ là của ngài”.

Lúc ấy trời đã tối, màn đêm sắp buông xuống, vị Đại sư nhân lúc ấy liền tóm lấy cái túi chạy đi. Phú ông sợ qua, vừa khóc vừa gọi đuổi theo: “Tôi bị lừa rồi, tâm huyết của cả đời tôi”.

Sau đó vị Đại sư đã quay lại, trả cái bao lại cho phú ông. Phú ông vừa nhìn thấy cái bao tưởng đã mất quay về thì lập tức ôm nó vào lòng mà nói:“Tốt quá rồi!”. Vị Đại sư điềm tĩnh đứng trước mặt ông ta hỏi: “Ông cảm thấy thế nào? Có hạnh phúc không?” – “Hạnh phúc! Tôi cảm thấy mình quá hạnh phúc rồi!”.

Lúc này, vị Đại sư cười và nói: “Đây cũng không phải là phương pháp gì đặc biệt, chỉ là con người đối với tất cả những thứ mình có đều cho rằng sự tồn tại của nó là đương nhiên cho nên không cảm thấy hạnh phúc, cái mà ông thiếu chính là một cơ hội mất đi. Ông đã biết thứ mình đang có quan trọng thế nào chưa? Kỳ thực cái bao ông đang ôm trong lòng với cái bao trước đó là một, bây giờ ông có còn muốn đem tặng nó cho tôi nữa không?”.

Câu chuyện thú vị này đã khiến tôi chợt nhận ra bản thân mình trong đó. Bạn liệu có phát hiện ra rằng, khi mất đi hoặc thiếu thứ gì đó bạn sẽ luôn nhớ về nó, nhưng khi có được rồi thì lại dễ dàng coi nhẹ, thậm chí nhìn mà không thấy nó?

Nếu từng yêu, bạn sẽ hiểu được điều đó. Mối tình đầu…

Đối phương gọi điện hỏi thăm bạn, tặng quà cho bạn đều khiến bạn vui rất lâu. Tuy nhiên, một khi bạn đã xác lập mối quan hệ hoặc kết hôn thì tất cả sẽ biến mất hoặc tất cả đều biến thành điều hiển nhiên. Và khi đó là chuyện đương nhiên, liệu bạn còn trân trọng nó nữa?

Con người luôn quan tâm, hoài niệm thứ đã mất song lại không biết trân trọng những thứ mình đang có, đang sống trong hạnh phúc mà không biết mình hạnh phúc. Có lẽ, đó chính là bất hạnh lớn nhất của con người và cũng là nguyên do khiến hạnh phúc cứ mãi vô hình.

Ông trời cho ta khả năng nhìn thấy thì sẽ sắp xếp cho ta những bài học về sự mất đi, mất đi để có thể nhìn thấy. Nhìn thấy hạnh phúc mình đang nắm giữ.

Anh chị Thụ & Mai gởi

Đẹp mặt: Mạng Trung Quốc lấy sự thừa nhận của sử gia Việt làm nguồn chứng cứ?

 

 Đẹp mặt: Mạng Trung Quốc lấy sự thừa nhận của sử gia Việt làm nguồn chứng cứ?

4-1-2018

Trước hết, xin nhắc lại, tôi không chống Hán một cách cực đoan. Tôi đã có nhiều bài viết tuyên bố rõ ràng về lập trường này và khuyến khích mọi người nên học chữ Hán, văn hóa Hán, vì đó cũng là văn hóa ngàn năm trước của cha ông. Tôi cũng hoàn toàn ủng hộ chính sách duy trì quan hệ bang giao Việt – Trung. Càng mâu thuẫn thù địch càng gây tổn thương về tinh thần lẫn xương máu của nhân dân hai nước. Nhưng quan hệ đó phải là quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau đúng tinh thần quan hệ quốc tế hiện đại.

Thực tế, suốt ngàn năm phong kiến, do tư tưởng hệ Nho giáo, quan hệ Việt – Trung được xem là quan hệ thiên tử – chư hầu, An Nam phải nhất mực trung thành và lễ cống thiên tử thiên triều thường xuyên. Nhưng không có lý do gì sang thế giới hiện đại, quan hệ ấy vẫn duy trì để được gọi là truyền thống như một số học giả phía Trung Quốc lẫn Việt Nam đang nỗ lực tuyên truyền.

Đáng buồn là, hiện nay, nhiều trang mạng Trung Quốc cố tình tuyên truyền chủ nghĩa bá quyền bằng cách lôi lại lịch sử thần phục của An Nam xưa, kể cả trưng ra những bức tranh mô tả vua An Nam quỳ lạy Thiên tử thiên triều. Nhưng đáng buồn hơn là sử gia hay khoa học gia của ta lại dựa vào cái gọi là sử liệu ấy để tiếp tay tuyên truyền cho họ.

Tạo tương tác đa chiều là tốt, nhưng ở đây gần như một số sử gia ta lại tin nguồn cứ liệu đó như thật và dùng nó như là chứng cứ để phản bác những điều đã được viết trong sử Việt lẫn sử Thanh. Rõ nhất là Nguyễn Duy Chính và Trần Quang Đức toàn dùng tư liệu mới của Trung Quốc để in thành sách hoặc tuyên truyền với nội dung phản bác sử liệu cũ, gieo rắc niềm tin rằng, không phải Quang Trung giả mà là chính Quang Trung thật đã từng sang quỳ lạy Càn Long, lại viết bài với sự cố công chứng minh “một cách logic”, rằng bức chân dung photo bôi nhọ Quang Trung trên trang mạng Trung Quốc kia là thật!

Sự cố công chứng minh ấy không thể biện bạch là bất cẩn hay vô tình trong việc sử dụng nguồn dữ liệu của Trung Quốc được! Tôi nhắc lại, một bức chân dung cắt dán và photo đen nhẻm với thần thái thảm hại kia không bao giờ là một cứ liệu khoa học đáng tin cậy nếu không kiểm chứng từ bản gốc. Mà nếu có bản gốc cũng không thể xác tín rằng bức chân dung kia giống Quang Trung!

Tai hại hơn, sau khi mạng xã hội Việt Nam dậy sóng thì phía trang mạng Trung Quốc rất nhanh nhạy, cập nhật ngược lại cái hình ảnh ấy với sự chua nguồn như là sử gia Việt đã thừa nhận là đúng, là chân thực!

Vậy là sự dối trá đã lộ nguyên hình. Trên các trang của họ chỉ có nội dung tuyên truyền chủ nghĩa bá quyền, về chiến công của Càn Long và sự thần phục của các nước chư hầu, trong đó có vua An Nam mà họ hả hê cho là giả, hèn. Trong khi loạt tranh minh họa về ông vua Việt Nam thần phục thiên triều, ngoài series ảnh màu gốc, họ dùng ảnh photo cắt dán và không cần chú thích rõ ràng, thì bây giờ, lẽ ra phải trưng ảnh gốc để chứng minh thì họ lấy lại bài viết của Nguyễn Duy Chính (và ảnh của Trần Quang Đức) với chú dẫn số 47: “Đã tìm ra chân dung vua Quang Trung”.

Tất nhiên, họ vẫn rất khôn ngoan chứ không ngớ ngẩn như ta, vì dưới bức tranh họ vẫn giữ lời chua mang tính nghi ngờ: “Tử Quang Các tại Trung Nam Hải vốn lưu giữ bức “Tân phong An Nam quốc vương tượng đồ”. Các bộ sử [như Thanh sử cảo] cho thấy bức họa chân dung không phải là bản thân Nguyễn Huệ”, nhưng sau đó lại lập lờ đánh dấu đến 4 nguồn (47, 44, 9, 48). Điều đó có nghĩa là trong 3 nguồn 44, 9, 48 là sử Thanh và sử Việt cũ là không thừa nhận vì đều nói đó là Quang Trung giả, còn nguồn 47 mới cập nhật: “Đã tìm ra chân dung Hoàng Đế Quang Trung”, coi như ta đã thừa nhận bằng logic một Quang Trung thật đi chầu thiên tử theo suy luận của Nguyễn Duy Chính (trên trang Blog Trần Đức Anh Sơn).

Báo TQ sử dụng hình ảnh cái gọi là “vua Quang Trung để làm chứng cứ. Ảnh: FB Chu Mộng Long

Họ ngụy tạo hình ảnh rồi lấy sự thừa nhận ngớ ngẩn của ta để thuyết phục mọi người rằng có thể đấy là chân thực, đẹp mặt chưa! Cho tôi nói thẳng: ai không phẫn nộ điều này, người đó không phải là người Việt!

Bức chân dung ngụy tạo ấy có nguy cơ ăn mòn và phá hủy cái tâm thức dân tộc về một ông vua anh hùng đuổi giặc ngoại xâm giữ gìn chủ quyền đất nước, nếu chúng ta không cùng nhau lên tiếng mạnh mẽ và kịp thời.

Bình Luận từ Facebook

Kháng thư yêu cầu dỡ bỏ tượng Hồ Chí Minh ở Nhật


Tượng ông Hồ Chí Minh tại thành phố Mimasaka, Nhật. (Ảnh: Báo Pháp Luật VN)

Tượng ông Hồ Chí Minh tại thành phố Mimasaka, Nhật. (Ảnh: Báo Pháp Luật VN)

Đại diện các cộng đồng người gốc Việt ở nước ngoài, thông qua Ban Thường trực Liên Mạng Người Việt Tự do Toàn cầu, đang lập kháng thư yêu cầu thành phố Mimasaka dỡ bỏ tượng Hồ Chí Minh ra khỏi một viện bảo tàng ở Nhật Bản.

Ông Đỗ Thông Minh, một người gốc Việt sinh sống nhiều năm ở Nhật, nói với VOA:

“Họ đã dựng tượng rồi mình mới biết tin. Mình phản đối để cho họ biết rằng Hồ Chí Minh, như chúng tôi nêu trong thư, chỉ là một tay sai của Đệ Tam Quốc tế, và đã gieo rất nhiều tai hại cho đất nước Việt Nam, thành ra ông đúng là một tội đồ hơn là một người đáng được vinh danh.”

Hồ Chí Minh, như chúng tôi nêu trong thư, chỉ là một tay sai của Đệ Tam Quốc tế, và đã gieo rất nhiều tai hại cho đất nước Việt Nam, thành ra ông đúng là một tội đồ hơn là một người đáng được vinh danh.
Ông Đỗ Thông Minh, cựu sinh viên Việt Nam tại Nhật

Bản Kháng thư đề ngày 29/12/2017 có đoạn:

“Chúng tôi tin rằng nhân dân Nhật Bản không thể đồng tình với những vụ ám sát đối phương, những việc chà đạp nhân quyền, đối xử tàn nhẫn và cầm tù những người bất đồng chánh kiến, những việc mà chế độ CSVN đã làm từ 70 năm nay. Hồ Chí Minh là người chịu trách nhiệm về những điều tàn ác đối với nhân dân Việt Nam mà hậu quả còn tồn tại đến ngày nay.”

Ông Nguyễn Quyền Tài, một bác sĩ y khoa làm việc ở bang Florida, người thu thập chữ ký cho kháng thư này, nói với VOA:

“Sau khi tham khảo ý kiến của một số thân hữu, chúng tôi thấy là cần phải lên tiếng phản đối việc này. Nếu đạt sự nhất trí cao của cộng đồng người Việt khắp nơi trên thế giới thì chắc chắn rằng sẽ ảnh hưởng đến việc làm mà chúng tôi cho rằng không đáp ứng được nhu cầu của nhân dân Việt Nam.”

Trước đó, hôm 21/11/2017, ông Đào Việt Trung, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước chính thức trao tặng bức tượng “Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi đọc báo” cho đại diện chính quyền và nhân dân thành phố Mimasaka, tỉnh Okayama, Nhật Bản.

Ông Đỗ Thông Minh nói:

Trong năm ngoái, 2017, chúng tôi cùng với một số người khác khi nghe họ định dựng một tượng ở thủ đô Vienna, Áo, chúng tôi đã phản đối và cuối cùng họ đã hủy bỏ bức tượng. Và trước đó, năm 2016 cũng có một hiện tượng tương tự tại Đức.”

Khác với những nơi đặt tượng Hồ Chí Minh trước đây, thành phố Mimasaka là nơi ông Hồ Chí Minh chưa từng đặt chân đến.

Tượng đài Nguyễn Tất Thành và thân phụ Nguyễn Sinh Sắc tại tỉnh Bình Định, 18/5/2017. (Ảnh chụp từ Báo Bình Định)

Tượng đài Nguyễn Tất Thành và thân phụ Nguyễn Sinh Sắc tại tỉnh Bình Định, 18/5/2017. (Ảnh chụp từ Báo Bình Định)

Đầu năm 2017, ông Vũ Bình, Phó Vụ trưởng Vụ Văn hóa đối ngoại – UNESCO thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam, nói với báo Tuổi trẻ:

“Tuy rằng trong lịch sử Bác chưa bao giờ đến Nhật và cũng chưa bao giờ đặt chân đến thành phố đấy, nhưng người Nhật vẫn ủng hộ dự án này và xem đấy là một biểu tượng của mối quan hệ hữu nghị Nhật – Việt.”

Bác sĩ Tài nói rằng lịch sử Việt Nam có nhiều vị anh hùng dân tộc đáng được vinh danh, không như ông Hồ Chí Minh.

“Chúng tôi hy vọng rằng họ sẽ chú ý đến nguyện vọng của Hội người Việt Tự do khắp nơi trên thế giới, là không muốn có những bức tượng đề cao Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản, trong khi chúng ta có những nhân vật lịch sử như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi… cũng có thể được vinh danh. Vì vậy không có một lý do gì để vinh danh ông Hồ, một nhân vật gây nhiều tranh cãi trong cộng đồng người Việt khắp nơi trên thế giới, nhất là trong tình huống hiện nay khi có nhiều bất đồng ý kiến giữa đa số nhân dân Việt Nam với Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của ông Hồ Chí Minh.”

Không có một lý do gì để vinh danh ông Hồ, một nhân vật gây nhiều tranh cãi trong cộng đồng người Việt khắp nơi trên thế giới, nhất là trong tình huống hiện nay khi có nhiều bất đồng ý kiến giữa đa số nhân dân Việt Nam với Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của ông Hồ Chí Minh.
Bác sĩ Nguyễn Quyền Tài     
Theo đề án “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa kiệt xuất, ở nước ngoài”, đề án được Ban Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua từ năm 2009, Bộ Ngoại giao Việt Nam mở rộng triển khai đề án này cả ở những nơi lãnh tụ cộng sản chưa đến nhưng được cho là có “tư tưởng và ảnh hưởng.”

Việt Nam nói đề án này sẽ giúp các nước “hiểu rõ hơn” về tư tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh, đồng thời tăng cường quảng bá hình ảnh Việt Nam.

Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng đề án này sẽ góp phần “gắn kết, củng cố và phát triển cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.”

Truyền thông Việt Nam cho biết cho đến nay, tượng đài tưởng niệm ông Hồ Chí Minh có mặt ở khoảng 20 nước, từ châu Á, châu Âu, châu Mỹ sang tới châu Phi.