Vì Sao Người Quân Tử Không Tranh Cãi Với Kẻ Tiểu Nhân?

 Vì Sao Người Quân Tử Không Tranh Cãi Với Kẻ Tiểu Nhân?

Khổng Tử có một cậu học trò rất thích tranh luận. Một hôm, người học trò này đến thăm Khổng Tử thì gặp một người đang đứng ở cổng nhà.

Người khách này ngăn vị học trò  kia lại hỏi:“Nghe nói thầy dạy của ngài là Khổng thánh nhân, như vậy thì học vấn của ngài chắc phải cao lắm. Ngài cho ta hỏi một năm có mấy mùa? Nếu ngài trả lời đúng, ta sẽ dập đầu quỳ lạy ngài, còn nếu trả lời sai thì ngài phải bái lạy ta.”

Vị đệ tử kia suy nghĩ một lát rồi nói: “Xuân, Hạ, Thu, Đông, có bốn mùa!”

Người khách kia cãi lại:“Sai! Có ba mùa!”

Vị đệ tử cảm thấy thực sự là kỳ quái nói:“Rõ ràng là một năm có bốn mùa, sao ngươi lại nói là có ba mùa?”

Đúng lúc hai người tranh luận không thôi thì Khổng Tử đi ra. Vị khách kia hỏi:“Thánh nhân! Xin ngài hãy phân xử, một năm rốt cuộc là có mấy mùa?”

Khổng Tử nhìn vị khách một lượt rồi nói: “Ba mùa!”

Vị khách vô cùng đắc thắng, quay sang cậu học trò của Khổng Tử: ‘Ngươi nghe đã rõ chưa, còn không bái ta một lạy tạ lỗi sao?’. Nói rồi đắc chí cười ha hả đi thẳng.

Cậu học trò thấy hết sức quái lạ, bèn hỏi Khổng Tử: “Thưa thầy! Một năm rõ ràng là có bốn mùa, sao vừa rồi thầy lại nói là có ba mùa?”

Khổng Tử trả lời: “Con không thấy người kia sao? Đó là một con châu chấu biến hóa mà thành. Một năm, châu chấu chỉ sống có ba mùa, xuân, hạ và thu, nó đâu có biết mùa đông? Con tranh luận với nó chẳng phải là không bao giờ có kết thúc sao?”

Vị đệ tử bừng tỉnh hiểu ra đạo ý cao thâm của bậc Thánh nhân: Tranh cãi với người không cùng cảnh giới là việc phí thời gian vô ích. Lão Tử nói: “Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện” (Nghĩa là: người thiện thì không tranh biện, người tranh biện thì không phải thiện). Sự tu dưỡng, trưởng thành trong đời một người thể hiện ở việc làm, không phải ở lời nói, tranh biện. Xưa nay, phàm đã là chân lý thì đâu cần tranh biện?

Kẻ tiểu nhân nhầm tưởng rằng tranh luận không ngớt là khẳng định được chân lý thuộc về mình. Kỳ thực, chân lý vốn không thuộc về người, mà là đạo của vũ trụ. Việc của người quân tử là dụng tâm tu dưỡng đến cảnh giới của chân lý, gọi là giác ngộ, viên mãn. Kẻ tiểu nhân lấy cái ngu xuẩn của mình khăng khăng tranh luận cao thấp với người khác. Trong Đạo đức kinh, Lão Tử viết: “Đạo của bậc Thành nhân là làm mà không tranh.Một trong ba nguyên lý tu dưỡng tối cao của Phật gia chính là NHẪN. Nhẫn nhịn không tranh biện mới là cảnh giới tu dưỡng cao nhất của đời người.

Phú Bật thời Bắc Tống khi còn trẻ, ông đang đi bộ trên đường phố thành Lạc Dương thì bỗng nhiên có một người mắng chửi ông. Một người đi đường đã ghé tai Phú Bật mà nói nhỏ: “Chàng trai trẻ, có người đang mắng chửi cậu kìa.” Phú Bật nghe xong liền nói: “Hình như là mắng người khác đó.” Người đó lại nói: “Người ta còn gọi tên của cậu mà chửi đó.” Phú Bật suy nghĩ một chút rồi nói: “Có lẽ là mắng người khác, rất có thể người đó trùng tên họ với tôi.” Sau đó, người mắng chửi Phú Bật nghe được phản ứng của ông nên thấy rất hổ thẹn, đến xin lỗi Phú Bật.

Phú Bật chẳng phải chính là đã hành xử như người quân tử, không tranh biện với kẻ tiểu nhân. Đó không phải là nhu nhược mà là không để tâm vào những chuyện vụn vặt, lùi một bước biển rộng trời cao. Cho nên, người xưa cho rằng người thông minh nhưng giả ngốc mới là đạo xử thế của nhà thông thái. Đời người quá ngắn ngủi và quý giá, việc cần làm lại quá nhiều, sao phải vì điều khó chịu mà lãng phí thời gian? Hiểu được cái đạo của người giả ngốc, bạn sẽ thấu một cảnh giới khác của đại trí tuệ.

Trong Luận ngữ, Khổng Tử giảng: “Quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an, mẫn vu sự nhi thận vu ngôn.” (Tạm dịch: Bậc quân tử ăn nhưng không cầu ăn no, ở không cầu an, nhanh nhẹn, minh mẫn trong việc làm nhưng rất thận trọng về lời nói). Lại thêm: “Quân tử dục nột vu ngôn nhi mẫn vu hành” (Bậc quân tử thường chậm trong lời nói nhưng hành động thì nhanh nhạy).

Rõ ràng là người xưa xem phẩm chất người quân tử là ở hành động, nói ít làm nhiều, lấy hành động chứng minh thay vì xảo biện, có nói cũng lấy khiêm nhường, đúng mực, thậm chí im lặng không nói. Kẻ tiểu nhân ngược lại, nói nhiều nhưng chẳng làm gì cả. Thế nên nhân gian mới có câu: ‘Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo…’

Một lẽ hết sức dễ hiểu là những người nhẫn nhịn không tranh biện bởi họ còn đang phải… miệt mài làm việc. Kẻ tiểu nhân làm ít nên rảnh rỗi nói nhiều, về bản chất thực sự không phải có năng lực. Người tài trí biết trân quý thời gian hữu hạn, một khi qua đi không trở lại nên dốc lòng toàn tâm toàn trí vào công việc, không muốn phí tiếc cho việc tranh cãi đúng sai. Tâm tranh đấu hơn thua cao thấp họ đã buông bỏ từ lâu…

Kẻ tiểu nhân khoa ngôn xảo ngữ nhưng thực ra mọi việc đều để người khác làm cả. Như vậy tranh cãi với kẻ tiểu nhân há chẳng phải hạ mình xuống bằng họ mà phí thời giờ vô ích sao? ‘Người tốt không tranh biện, người tranh biện không tốt. Người biết không học rộng, người học rộng không biết.

Hàm ý là: Người thông minh không nhất định là kẻ học rộng. Người học rộng lại cũng không nhất định là người thông thái trí huệ. Bởithứ quyết định trí tuệ của một người không phải ở tri thức tích lũy nhiều bao nhiêu mà là ở tâm thái cảnh giới tư tưởng cao bao nhiêu. Kẻ thông minh dùng khoa ngôn xảo ngữ để hùng biện. Bậc trí giả, ngược lại, đã tu dưỡng đến độ hiểu rằng, nói là một loại năng lực, còn im lặng là một loại trí huệ. Vậy há chẳng phải sống trên đời, không cần tranh cãi với kẻ tiểu nhân?

VUI TẾT ĐOÀN VIÊN

VUI TẾT ĐOÀN VIÊN

        Trong không khí rộn rã chuẩn bị mừng xuân đón tết, Lời Chúa tuần này cũng kể chuyện người phong hủi về quê ăn tết, gia đình trên hết.

    Ban đầu là chuyện người phong hủi phải chịu hoàn cảnh thê thảm đau khổ: thân thể lở loét, ăn mặc rách rưới, bị coi là ô uế nên vừa đi vừa kêu: hủi đây, cùi đây thật nhục nhã. Mọi người bảo nhau: Đừng dây với hủi! Lánh như lánh hủi! Chứ đến gần bị lây bệnh thì chết! Người phong hủi vừa đau đớn thể xác vì bệnh tật giày vò, vừa đau đớn tinh thần vì bị xa lánh cô đơn. Người hủi phải xa cả nhà mình lẫn nhà thờ.

Nhưng, chuyện đó đã “xưa rồi Diễm ơi”!

    Chúa Giêsu đến chạnh lòng thương giơ tay đụng vào chữa lành người phong hủi. Người ta sợ chạm vào người phong sẽ bị lây bệnh và ô uế, còn ngược lại, Chúa chạm vào người phong chẳng những Ngài không lây bệnh, mà người phong lại được chữa lành. Hơn nữa, Chúa còn chữa lành cả tâm hồn cô đơn xa lánh của anh khi đưa anh về hòa nhập cộng đoàn vui hưởng tết đoàn viên. Anh đã về quê ăn tết. Anh đã được hưởng mùa xuân yêu thương và giải thoát.

    Ngày nay, chúng ta hầu như không bị bệnh phong hủi thể xác, nhưng lại đang mắc bệnh phong hủi tinh thần khi mang những triệu chứng ô uế vì tội lỗi và xa cách tình thân với nhau và với Chúa. Thế nên, chúng ta vẫn rất cần Chúa Giêsu đến chạm vào trái tim để chữa lành cho chúng ta.

    Tết sắp đến rồi, Chúa ơi. Xin Chúa chữa lành tâm hồn chúng con khỏi ô uế tội lỗi, chữa lành trái tim chúng con khỏi xa cách tình thân, để chúng con vui hưởng tết đoàn viên, sum họp trong mái ấm gia đình ruột thịt, trong mái nhà cộng đoàn gần gũi, trong ngôi nhà nhân loại huynh đệ, trong Nhà Chúa chan chứa yêu thương và phúc lộc Chúa xuân. Amen.

TRUONG NGUYEN
Los Angeles, USA

Phone: +1(281)730-9268

From: KittyThiênKim & Nguyễn Kim Bằng gởi

Chuyện lạ có thật

Chuyện lạ có thật

Phương Trạch (Danlambao) – Có 2 điều lạ trong câu chuyện sau đây:

1.Bí thư TP. HCM Nguyễn Thiện Nhân đi thăm Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm.

  1. Ông Nguyễn Thiện Nhân khuyên các sơ Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm “hãy luôn giữ vững đức tin”.

Báo Một thế giới hôm nay (10/02/2018) có bài: “Bí thư Nguyễn Thiện Nhân chúc Tết Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm”.

Theo đó: “Bí thư Thành ủy TP Nguyễn Thiện Nhân ân cần thăm hỏi tình hình hoạt động và mong Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm luôn giữ vững đức tin.

Ngày 9.2, Đoàn đại biểu Thành ủy – HĐND – UBND – Ủy ban MTTQ Việt Nam TP.HCM do Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân làm trưởng đoàn đã đến thăm, chúc Tết Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm (quận 2) và UBND phường An Lợi Đông (quận 2).

Bí thư Thành ủy TP Nguyễn Thiện Nhân ân cần thăm hỏi tình hình hoạt động và mong Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm luôn giữ vững đức tin. Chúc các sơ năm mới mạnh khỏe, góp phần làm cho cuộc sống đồng bào bình yên nhằm chung sức xây dựng và phát triển đất nước” (1).

Khu đô thị Thủ Thiêm nằm ở bán đảo Thủ Thiêm (quận 2, TP HCM, có tổng diện tích 657 ha. Được chính phủ phê duyệt từ năm 1996, bán đảo này được kỳ vọng trở thành trung tâm tài chính, thương mại mang tầm cỡ quốc tế và được kỳ vọng là đô thị đẹp nhất khu vực Đông Nam Á.

Để đầu tư xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm này, TP HCM đã mất 10 năm để giải tỏa trắng gần như toàn bộ bán đảo Thủ Thiêm, khoảng 15.000 hộ dân đã di dời để nhường chỗ cho siêu dự án này. Thành phố cũng đã huy động gần 30.000 tỷ đồng để chi trả bồi thường, tái định cư.

Trong dự án khu đô thì mới Thủ Thiêm, khu đất tại Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm, và chùa Liên Trì là đích ngắm cho các quan tham lâu nay.

Cưỡng chiếm đất của nhà dòng.

Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm vốn là một cơ sở tôn giáo đã hiện diện trên 170 năm tại Việt Nam. Trong đó có ngôi trường trước năm 1975, tên là Trường Thánh Ana (76A, đường Nhà Thờ, Thủ Thiêm, Thủ Đức), thuộc Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm. Đây là cơ sở giáo dục thứ hai của Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm. Sau khi chính quyền mới tiếp quản, đổi tên thành trưởng tiểu học Thủ Thiêm. Đến cuối năm 2011, trường tiểu học Thủ Thiêm bị giải thể. Ngay sau đó, cơ sở tôn giáo này bị biến thành trụ sở của Công An, cán bộ.

Vào sáng ngày 22 tháng 10- 2015, các nữ tu nhận thấy cơ sở giáo dục của họ trước đây đang bị vây kín lại để không thể thấy được diễn biến bên trong. Ngay từ sáng các nữ tu đã vào và gặp vị chủ tịch quận 2 và được người này nói là vào để làm cột đèn; thế nhưng sau đó thì thấy có xe cẩu đến và rồi là tiếng đập phá cơ sở.

Sau khi chiếm đất của nhà dòng này, dư luận trong và ngoài nước cực lực lên tiếng phản đối nhà cầm quyền VN lợi dụng quy hoạch để cướp đất tôn giáo.

Tổng Lãnh Sự Quán Canada tại Sài Gòn đã lên tiếng về việc nhà cầm quyền thành phố này dự định phá dỡ Tu Viện Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm và nhà thờ Thủ Thiêm, đồng thời nói rằng đây là các di sản còn lâu đời hơn cả Canada như sau: “Có nên phá hủy một di sản còn lâu đời hơn cả Canada? Theo kế hoạch phát triển khu đô thị mới Thủ Thiêm tại Quận 2, chính quyền Sài Gòn có dự định phá dỡ Tu Viện Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm và nhà thờ Thủ Thiêm để nhường chỗ cho khu đô thị mới. Tu viện được thành lập tại Thủ Thiêm vào năm 1840, nghĩa là đã ở đó được 177 năm (trong khi Canada vừa bước sang tuổi 150 năm nay). Bạn nghĩ thế nào nếu chúng ta hòa nhập những công trình mang tính lịch sử như thế này vào các khu đô thị mới thay vì phá dỡ chúng?”(2)

Do bị dư luận trong và ngoài nước, nên kế hoạch tiếp tục cướp đất phần còn lại của nhà dòng, và phá chùa Liên Trì của nhà cầm quyền tạm dừng. Nhưng nhà cầm quyền vẫn rắp tâm cướp đất của hai tôn giáo này cho bằng được.

Về chùa Liên Trì, là ngôi chùa được xây dựng cách nay hơn nửa thế kỷ tọa lạc tại phường An Khánh, quận 2 Sài Gòn. Từ khi xây dựng đến nay, chùa Liên Trì là nơi gắn bó với đời sống tâm linh cho bà con phật tử và cư dân Thủ Thiêm. Chùa Liên Trì là một trong số ít ỏi những ngôi chùa còn giữ được truyền thống thuần túy của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất kể từ sau biến cố năm 1975. Do vị trí đắc địa nằm gần bờ sông Sài Gòn, đối diện với khu trung tâm sầm uất của quận 1 nên chùa Liên Trì nằm trong “khu đất vàng” của thành phố. Vì vậy ngôi chùa đã lọt vào tầm ngắm của những nhóm lợi ích. Với giá trị lợi nhuận cao cùng những việc công đức mà Hòa thượng Thích Không Tánh (vị trụ trì chùa) đã làm hàng chục năm qua, chùa Liên Trì trở thành cái gai trong mắt nhà cầm quyền và họ đã quyết tâm phá bỏ.

Theo Hòa thượng Thích Không Tánh và các thầy cho biết, chính quyền sở tại đã nhiều lần tới vận động các thầy nhận tiền đền bù ban đầu là 700 triệu, sau đó là 5,4 tỷ và mới đây là 6 tỷ để di dời đến khu xa xôi hẻo lánh phía sâu bên trong bến phà Cát Lái. Tuy nhiên các thầy là những nhà tu hành, ý nguyện của các thầy là xây dựng ngôi chùa tại đây để phục vụ nhu cầu tâm linh cho cư dân khu Thủ Thiêm. Nếu chính quyền di dời chùa ra khỏi khu dân cư Thủ Thiêm thì các thầy sẽ không chấp nhận. Các thầy dứt khoát sẽ không nhận tiền đền bù để di dời chùa đi nơi khác. Là những người tu hành, nếu chính quyền sở tại phá dỡ chùa thì các thầy sẽ quyết tâm cầu nguyện xin ơn trên phù hộ độ trì.

Đến ngày 8 tháng 9/2016, lợi dụng lúc thầy Thích Không Tánh đi vắng, chính quyền TP HCM đã dùng một lực lượng lên tới 400 công an, chưa kể lực lượng an ninh vây chặn nhiều nhà hoạt động dân chủ nhân quyền tại nhà riêng, để dùng vũ lực cưỡng chế ngôi chùa Liên Trì (3).

Một ngày sau khi chùa Liên Trì bị cưỡng chế, vị Hòa thượng “thất thập cổ lai hy” này trở về, thấy cảnh chùa tan hoang. Vì quá đau xót, thầy lên cơn đột quỵ. Nhà cầm quyền cưỡng chế thầy vào bệnh viện Quận 2, và ném thầy vào khoa nhi, nằm trong một phòng riêng biệt theo cách “biệt giam”. Xung quanh dày đặc công an, người vào người ra đều bị theo dõi ghi hình lộ liễu và trắng trợn. Thậm chí công an còn vào cả phòng bệnh của thầy Không Tánh để chụp ảnh ông Lê Quang Hiển đến thăm thầy.

Với chùa Liên Trì, suốt đời Bí thư Lê Thanh Hải chưa dám đụng tới. Nhưng khi Đinh La Thăng về làm Bí thư thành Hồ, ngoài việc ra lệnh đàn áp khốc liệt người dân biểu tình phản đối Formosa xả thải gây ô nhiễm biển miền Trung, thì Đinh La Thăng còn lập công với đảng bằng việc cho đập nát chùa Liên Trì, là điểm tựa tâm linh của bà con phật giáo, để thực hiện kế hoạch cướp đất.

Nhờ 2 thành tích vang dội này, mà Đinh La Thăng phải tra tay vào còng, cúi gằm mặt khóc lóc năn nỉ ỉ ôi trước tòa. Ông ta lại còn đưa hoàn cảnh gia đình ra hòng đánh động lòng thương của quan tòa. Điều nực cười là Đinh La Thăng không thèm xin các quan tòa, là người lẽ ra có quyền định đoạt mức án của ĐLT. Mà ông ấy lại xin lỗi và năn nỉ ông TBT Nguyễn Phú Trọng.

Điều đó càng chứng tỏ các quan tòa ngồi đây chỉ là những con rối mà thôi, và không có quyền hành gì tại tòa án cả.

Tuy đã biết sám hối, nhưng cuối cùng ĐLT được đảng tặng cho 13 năm tù giam.

Chẳng những vậy, mà em trai Y là Đinh Mạnh Thắng cũng bị cho vào lò nướng.

Khi nhìn hình ảnh ĐLT với chiếc còng số 8 trên tay bị dẫn giải ra tòa, thì nhiều người rất hả hê, và cho rằng, đây là quả báo, là “Trời có con mắt”.

Dư luận cho rằng, là khu đô thị có nhiều dân cư trú, trong đó có đồng bào các tôn giáo, như phật giáo và công giáo. Tại sao không để các cơ sở tôn giáo này tại chỗ cho dân sử dụng, vừa đỡ lãng phí, tốn kém, mà lại phải di dời nơi khác?

Trong lúc sóng gió và áp lực về việc bị cướp đất tại đây đang tạm yên ắng, thì nay bỗng dưng vì sao mà Bí thư Nguyễn Thiện Nhân lại mò đến đây để thăm và chúc tết là nhằm âm mưu gì?

Một người cộng sản vô thần như NTN, lại đi khuyên nhủ các bà sơ nơi đây “hãy luôn giữ vững đức tin”. Nhưng ông ta không nói với các sơ là hay tin vào Chúa hay tin vào đảng???

Nếu NTN khuyên các sơ hãy luôn vững tin vào Chúa, thì đúng là điều khôi hài. Người vô thần đi khuyên người tu hành hãy luôn vững niềm tin?

Nếu ông ta khuyên các sơ hãy vững tin vào đảng, thì có lẽ đến vua hề Sác-lô cũng chào thua.

Vẫn biết người cs luôn đóng kịch, luôn diễn. Nhưng diễn kiểu này thì chẳng khác gì, như câu thành ngữ hơi thô tục dân ta hay nói, là dạy… gì đó.

Hay là NTN đã tự diễn biến, tự chuyển hóa, nên có lòng sám hối mà mò đến đây để mở đường quay về với nhân dân chăng?

Cũng có thể là NTN đến để ngắm miếng mồi này, sau đó sẽ hoạch định cho kế hoạch cướp tiếp khu đất này. Do đó, hôm nay đến đây theo kiểu “ném đá dò đương”, để dò xét thái độ của mấy bà sơ này ra sao?

Cũng có thể thấy khúc xương khó gặm, nhất là sau khi đập phá chùa Liên Trì, đã bị dư luận trong nước và thế giới phản đối, nên NTN đến đây để vuốt ve an ủi chăng?

Lẽ ra các bà sơ Dòng MTGTT nên khuyên NTN nói riêng, và lãnh đạo cs nói chung, hãy lấy tấm gương của Nguyễn Bá Thanh và Đinh La Thăng làm bài học. Nguyễn Bá Thanh cũng đã đập phá khu nghĩa địa Cồn Dầu để cướp đất của dân, đến người chết cũng không được yên trước lòng tham vô độ của các quan, nên mới bị quả báo.

Lenin và Engels từng nói: “Tuyên chiến với tôn giáo là ngu xuẩn”

Chưa biết ông NTN đến Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm nhằm mục đích gì. Nhưng dù sao, trong những ngày năm hết tết đến này, một vị lãnh đạo cao nhất của thành Hồ, đến một cơ sở tôn giáo để thăm hỏi và chúc tết cũng là điều đáng khen.

Chúng ta hãy câu chúc cho các vị lãnh đạo nước nhà sang năm mới dồi dào sức khỏe, và hướng đến cội nguồn dân tộc.

Hãy lây dân làm gốc, chứ đứng lấy Tàu làm gốc.

10/2/2018

Phương Trạch

danlambaovn.blogspot.com

____________________________________

Chú thích:

(1) http://beta.motthegioi.vn/thoi-su-c-66/xa-hoi-c-94/bi-thu-nguyen-thien-nhan-chuc-tet-dong-men-thanh-gia-thu-thiem-81914.html

(2) http://www.nguoi-viet.com/viet-nam/canada-len-tieng-ve-vu-pha-tu-vien-dong-men-thanh-gia-thu-thiem/
(3) http://www.ghpgvntn.net/tai-sao-nha-cam-quyen-quyet-tam-cuong-che-giai-toa-chua-lien-tri/

Hố chôn tập thể, nghĩa trang 1400 tỉ và những đứa bé đói

Nếu xét trên chính sách vĩ mô của nhà cầm quyền, ba khái niệm: Hố chôn tập thể; Nghĩa trang (Yên Trung) nghìn tỉ và; Những đứa bé đói khổ, rét lạnh nơi miền núi không có gì liên quan với nhau. Bởi chính sách dành cho mỗi lĩnh vực, mỗi mảng đều riêng lẻ. Nhưng xét trên khía cạnh con người, tính nhân bản, nhân văn, nhân đạo và trách nhiệm của nhà cầm quyền, thì ba vấn đề này đều thuộc về lương tri. Sự cân đối, phân bổ hợp lý ở ba lĩnh vực, khía cạnh này sẽ cho thấy mức độ quan tâm, trách nhiệm và lương tri của nhà cầm quyền.

Karl Marx, ông tổ của chủ nghĩa Cộng sản thế giới từng đưa ra một nhận định trong Tư Bản Luận (sau này, trong Chính sách kinh tế mới, viết tắt là NEP – New Economy Policy của Lênin cũng nhắc lại): Chỉ có những con thú mới quay lưng đi để liếm bộ lông trước đồng loại bị thương. Và xét trên một ý nghĩa nào đó, khi no đủ, người Cộng sản lại chọn khuynh hướng đi ngược với giáo huấn của tổ phụ Karl Marx.

Nghĩa là, xét lại tiền ngân sách nhà nước, do đâu mà có. Xin nói nhanh, do nhân dân đóng thuế mà có ngân sách nhà nước. Bản chất và hiệu dụng của ngân sách nhà nước là gì? Đó là nói một cách sâu xa, ngân sách nhà nước đóng vai trò quĩ tiết kiệm và an sinh cho toàn dân thông qua sự điều hành của nhà nước. Vấn đề an sinh xã hội, cân bằng dân số, y tế, giáo dục, văn hóa, an ninh xã hội đều phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Một khi các vấn đề an sinh xã hội và an ninh xã hội được đáp ứng đầy đủ, nhà nước mới được quyền dùng ngân sách trong các lễ lạc, tượng đài, những công trình không mang tính xã hội.

Ở đây, nghĩa trang Yên Trung có được xem là công trình xã hội hay không? Bởi ngày trong lúc này, có quá nhiều vấn đề xã hội cần được quan tâm đúng mức và đầy đủ, nếu chưa thực hiện được các vấn đề như an ninh, chủ quyền quốc gia, an ninh xã hội, an sinh xã hội… Thì tất cả những vấn đề khác nhà nước đều không được trích thuế của dân để thực hiện. Phải dành thuế của dân cho những vấn đề có tính thiết thực cho nhân dân.

Thử đặt những câu hỏi: Có bao nhiêu đứa bé dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi được đến trường, cơm đủ ngày ba bữa, có áo ấm để mặc? Có bao nhiêu hố chôn tập thể gồm cả hai phía Việt Nam Cộng Hòa và Cộng sản Bắc Việt đã thành những hố lãng quên? Và tất cả những cổng chào, tượng đài, nghĩa trang nghìn tỉ của nhà nước mang lại giá trị gì cho quốc gia, dân tộc?

Ở câu hỏi thứ nhất, về những đứa bé nghèo, có thể nói rằng khắp đất nước Việt Nam, từ thành phố đến thôn quê, vùng sâu vùng xa, miền núi, càng đi sâu vào vùng hoang vắng thì sự nghèo khổ càng hiện rõ. Bạn tôi từng lắc đầu, chép miệng nói với tôi về những đứa bé đồng bào thiểu số khi trời rét còn chưa tới 10 độ C mà chúng vẫn không mặc quần (do không có quần để mặc) rằng “mấy đứa này trời nuôi chứ không phải người nuôi”. Bất kỳ huyện miền nhúi vùng sâu, vùng xa nào tại Việt Nam đều có cảnh thiếu, đói, trời lạnh không có áo ấm, trẻ con bỏ học sớm hoặc không có cơ hội đến trường hoặc đến trường bằng những chiếc cầu dây tử thần băng qua suối chảy xiết… Có một ngàn lẻ một kiểu thiếu, đói tại Việt Nam.

Nói về những hố chôn tập thể, sở dĩ tôi phải nói đến cả hai phía bởi chỉ riêng chiến dịch tổng tiến công Mậu Thân 1968, tại Huế và nhiều tỉnh khác đã xuất hiện hàng trăm hố chôn tập thể. Trong đó, có những hố của quan chức Việt Nam Cộng Hòa và thường dân (bị Cộng sản nằm vùng giết để trả thù và bịt đầu mối cơ sở) và có những hố chôn của chính những người Cộng sản chôn người Cộng sản.

Trường hợp Cộng sản chôn Cộng sản diễn ra như thế nào? Đó là những người bộ đội Cộng sản Bắc Việt bị tổng động viên từ những ngày đầu năm 1967 cho đến thời điểm hành quân vào miền Nam để tham gia “tổng tiến công”. Cũng xin nói thêm, những bộ đội Cộng sản Bắc Việt tham chiến Mậu Thân là những cậu bé từ 13 đến 15 tuổi, họ không có gì ngoài lòng căm thù Mỹ, Ngụy rất con nít mà họ có được thông qua nền giáo dục miền Bắc với thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật, Chính Hữu… Họ chỉ biết Mỹ, Ngụy là những kẻ ăn thịt người man rợ và họ phải đi vào miền Nam để “giải phóng cho người miền Nam”, một số người trước khi đi đã xăm hàng chữ “Sinh bắc tử nam”.

Khi vào đến miền Nam, vào Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, có nhiều bộ đội trẻ giật mình vì “lập trường chính trị không vững”, khi nhìn thấy miền Nam đẹp, thanh bình và giàu có, hiện đại, không như những gì họ được dạy… Nhiều bộ đội đã tỏ ra lơ là, không còn hăng say tinh thần chiến đấu. Và cái đêm giao thừa định mệnh Tết Mậu Thân, họ bị cấp chỉ huy đưa vào vị trí chiến đấu, xích chân vào nhau để khỏi bỏ chạy lúc đánh nhau. Thường thì một tiểu đội hoặc một trung đội trẻ bị xích chân với nhau để từ đó họ phải bắn và bắn, chiến đấu và chiến đấu cho đến lúc chết.

Và hầu hết những tiểu đội, trung đội thiếu niên này đều chết trong lúc vứa đánh vừa bị xiềng chân. Họ cũng không được chôn cất tử tế, sau này, xương cốt của họ được phát hiện và chôn cất, cởi trói khi có những người dân xây cất nhà cửa, đào móng nhà và đào trúng nơi họ nằm. Tại Gò Vấp, Sài Gòn, tại trung tâm thành phố Huế, tại Đà Nẵng, Quảng Nam đều có những hố chôn như vậy. Và vẫn còn một vài nhân chứng sống, đã chứng kiến những bộ đội trẻ nít phải chiến đấu, chết và bị chính các đồng đội lấp đất trước khi rút quân ra sao. Đó là chưa nói đến một số trường hợp chính Cộng sản bị Cộng sản giết do họ không muốn tiếp tục theo con đường “giải phóng miền Nam’, họ xin về quê làm ăn, cưới vợ, và khi ra khỏi bưng, họ bị giết, bị chôn ở bìa rừng, con số này không hề ít.

Nếu cộng thêm các hố chôn tập thể mà quan chức, cán bộ miền Nam bị giết trong chiến tranh, đặc biệt là Tết Mậu Thân và những ngày trước 30 tháng 4 năm 1975, có lẽ con số lên đến cả hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn xác người vẫn còn nằm lây lất, rải rác, vất vưởng đâu đó trong lòng đất mẹ. Lẽ ra, trong nhiều năm nay, nhà cầm quyền, cụ thể là đảng Cộng sản phải có những hành động qui tập, hỗ trợ qui tập cho cả hai phía để thực hiện tinh thần “nghĩa tử là nghĩa tận” và cũng là động thái hòa giải dân tộc để đi đến hòa hợp dân tộc thay vì kêu gọi bằng những văn bản, lời nói suông. Nhưng họ đã không làm vậy!

Bây giờ, xương máu, sự đau khổ của nhân dân vẫn còn đầy rẫy mặt đất, đi đâu cũng gặp cảnh khổ, đi đâu cũng gặp những gia đình mất con, mất anh em chưa tìm thấy xác vì chiến tranh. Vậy mà người Cộng sản lại nghĩ đến chuyện lấy tiền thuế của nhân dân để xây khu nghĩa trang cho cán bộ cao cấp! Nên nhớ, trong tiền ngân sách nhà nước, cụ thể là tiền thuế của dân, gồm cả sự đóng góp của cả hai phía, không có đồng thuế nào là không nhuốm mồ hôi, nước mắt của dân nghèo, của những bà mẹ liệt sĩ Cộng sản, của những bà mẹ quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tử trận và cả những đồng đô la của người Việt hải ngoại gửi về cho người thân trong nước.

Nói một cách nghiêm túc, ngân sách nhà nước có không dưới 40% là tiền có gốc gác của người “phía bên kia”. Dù có chối bỏ, léo hánh cách gì thì đây cũng là sự thật. Nhưng vấn đề tôi muốn nói ở đây không phải là tiền phía bên này hay bên kia trộn lẫn trong ngân sách nhà nước. Mà vấn đề là một đất nước đang bị tùng xẻo, cây xanh, môi trường, tài nguyên đang kiệt quệ, những khối bê tông cơ quan, nhà quan và tượng đài mọc lên ngày càng quá nhiều, nó hiện hữu như thách thức nỗi khốn cùng, đói khổ và đau khổ của nhân dân.

Trong lúc biển bị nhiễm độc vẫn chưa kịp lành lặn, tiếp tục bị đe dọa bởi Formosa, trong lúc miền Tây Nam bộ đang bị nhiễm mặn trầm trọng, nhân dân đói khổ, trong lúc trẻ em miền núi, nhân dân miền núi vẫn đói khổ, lạc hậu, trong lúc tài nguyên rừng và khoáng sản bị tùng xẻo không thương tiếc, trong lúc vết thương Nam – Bắc chưa kịp lành lặn, trong lúc nợ công cao chất ngất, người dân còng lưng đóng thuế vì nợ công, giá xăng tăng, điện tăng, vật giá leo thang, các bệnh viện không có chỗ nằm, bệnh nhân phải chui gầm giường, nằm hành lang mà chờ điều trị… Thì nhà cầm quyền lại quyết định xây dựng thật nhiều tượng đài, cổng chào, ngốn hàng tỉ tỉ đồng, rồi lại nghĩ thêm chuyện xây khu nghĩa trang cao cấp cho cán bộ.

Liệu có khi nào giới cầm quyền suy nghĩ về những gì họ đã làm bấy lâu nay? Liệu có khi nào họ đặt mình vào nhân dân nghèo khổ để thấy sự vô lý và trơ tráo của họ? Và liệu có khi nào họ nghĩ đến một chân lý: Tượng đài xây được thì đập được, nghĩa trang xây được thì cào bằng được, cổng chào xây được thì hạ được… Bởi những thứ này không phải là sức mạnh, không phải là trường tồn. Bởi sức mạnh, sự trường tồn của một dân tộc nằm trong tay nhân dân.

Dứt khoát không trung thành mù quáng với đảng cộng sản

 

 

 Dứt khoát không trung thành mù quáng với đảng cộng sản

 

Mới đây, một quan chức và cũng là một trí thức xã hội chủ nghĩa là Thượng tướng – Bộ trưởng công an Tô Lâm có viết một bài dài trên các báo công an. Dù bài viết dài nhưng nội dung bài viết vẫn chỉ xoay quanh ý chính là lực lượng công an phải trung thành với đảng cộng sản: “công an chỉ biết còn đảng [cộng sản] thì còn mình”.

Hẳn là giới lãnh đạo cộng sản rất yên lòng khi nghe hết tướng quân đội lại đến tướng công an bày tỏ lòng trung thành với họ. Giới lãnh đạo thì vậy, thế còn các anh em lính trẻ thì sao? Tôi vẫn nghĩ cần phải chỉ ra cho các anh em trẻ trong lực lượng vũ trang, gồm cả quân đội và công an, thấy rõ các anh em cần phải trung thành với ai.

Dân trả lương cho lực lượng vũ trang chứ không phải đảng cộng sản

Đầu tiên, cần khẳng định rõ ràng rằng tiền lương, tiền phụ cấp, và mọi thứ bổng lộc khác mà sỹ quan quân đội, công an được hưởng đều là từ tiền thuế của dân. Giới lãnh đạo cộng sản hoàn toàn không có gì để cho các anh em cả. Chính họ tự nhận là họ thuộc tầng lớp vô sản, không hề sở hữu tài sản gì, đi làm cách mạng để “bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình” (lời Quốc Tế Ca).

Để có tiền trả lương nhằm mua sự trung thành của các anh em, giới lãnh đạo cộng sản không ngần ngại tăng thuế phí vô tội vạ gây gánh nặng và oán thán cho dân khắp nơi. Các anh em có thể thấy vui khi thấy tiền lương mình tăng một chút nhưng bù lại, gia đình, họ hàng và chính anh em phải trả tiền đổ xăng cao hơn, mua đồ mắc hơn vì các sắc thuế đều tăng.

Cái tuyệt chiêu này gọi là “lấy mỡ nó rán nó”. Giới lãnh đạo cộng sản bắt con em nhân dân đi nghĩa vụ công an, quân đội, rồi lấy tiền thuế của nhân dân đóng trả lương cho con em nhân dân để đi làm “công cụ bạo lực” bảo vệ “chính quyền cách mạng” cho họ. Thật quá sức “tài tình” và “khéo léo”!

Dân không chỉ đóng thuế để nuôi lực lượng vũ trang mà còn nuôi cả bộ máy đảng cộng sản. Luật Ngân sách nhà nước ghi rõ là bảo đảm kinh phí cho đảng cộng sản và mặt trận tổ quốc. Giới lãnh đạo cộng sản tự xưng là đại diện cho nhân dân lao động nhưng họ không hề lao động mà ăn bám vào đồng thuế đẫm mồ hôi nước mắt của nhân dân, của chính họ hàng, người thân, bạn bè các anh em lính tráng.

Nếu dân không phải nuôi bộ máy đảng cộng sản, mặt trận ăn bám thì tiền lương dành cho quân đội, công an đã cao hơn nhiều, và quân đội đã có thể có tiền để mua được nhiều trang thiết bị, vũ khí hiện đại hơn. Vậy thì lý do gì để anh em lính tráng trung thành với họ?

Sao dám giao tính mạng cho những người không biết đánh trận?

Giới lãnh đạo cộng sản nói chung, các tướng lãnh công an, quân đội nói riêng, đòi hỏi các anh em lính tráng phải trung thành với họ. Thế thì một câu hỏi đặt ra là khả năng cầm quân đánh trận của họ đến đâu.

Nếu để ý tin tức một chút thì anh em sẽ thấy là giới lãnh đạo cộng sản không có khả năng bảo vệ đất nước. Ví dụ là tháng 7/2017, công ty Repsol phải rút khỏi dự án Cá Rồng Đỏ trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam do áp lực quân sự từ Trung Quốc. Tướng lãnh Việt Nam không thấy nói cho dân biết kế sách bảo vệ đất nước thế nào mà chỉ thấy đòi kinh doanh kiếm tiền, đòi “phong tướng” nếu không thì sẽ “tâm tư”, theo lời trần tình của ông cựu Bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh.

Hiện tại thì các tướng lãnh quân đội, công an đang suy nghĩ làm sao đè bẹp được ý chí phản kháng của người dân Đồng Tâm và cướp đất của dân Đồng Tâm, Hà Nội được êm thắm. Những tướng tá như vậy có đáng để anh em trung thành?

Xa hơn, ngày 14/3/1988, 64 chiến sỹ hải quân Việt Nam chết thảm tại đảo Gạc Ma vì “lãnh đạo cấp cao” của đảng cộng sản ra lệnh cho bộ đội không được nổ súng chống lại quân xâm lược. Đây là theo lời tiết lộ của tướng Lê Mã Lương và clip vẫn còn đầy trên Youtube.

Chưa kể là sau này, tất cả những người lính chiến đấu với quân xâm lược Trung Quốc ở cả mặt trận biên giới phía Bắc từ năm 1979 đều bị truyền thông, lịch sử đảng cộng sản lãng quên. Bia tưởng niệm bị đục bỏ. Những người dân đi tưởng niệm các liệt sỹ hi sinh vì nước thì bị đánh đập, đe dọa.

Những cựu chiến binh ở chiến trường Campuchia từ năm 1979 cũng bất bình như vậy. Họ cũng chiến đấu để bảo vệ quốc gia nhưng giới lãnh đạo cộng sản vì muốn làm người em tốt của Trung Cộng nên đã xóa bỏ lịch sử.

Ngay cả cái gọi là “Cuộc tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968” đang được kỷ niệm rầm rộ, anh em cũng thấy là giới lãnh đạo cộng sản dù biết là đánh không thắng nhưng vẫn xua lính vào chỗ chết. Không hề có chuyện dân đồng tình với đảng cộng sản và “nổi dậy”. Việc những hình ảnh chết chóc của cuộc chiến tác động đến dư luận Mỹ đòi hỏi rút quân về nước hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của họ. Anh em có thể đọc thêm cuốn “Điệp viên yêu chúng ta” (The spy who loved us) của Thomas Bass nói về điệp viên Phạm Xuân Ẩn để có thêm thông tin.

Do đó, nếu trung thành với giới lãnh đạo cộng sản thì anh em nên chuẩn bị tinh thần là sẽ có thể chết tức tưởi vì có súng đạn trong tay cũng không được bắn, hay biết là không thể đánh mà vẫn bị ép vào chỗ chết, và có chết thì sẽ bị lãng quên. Suy cho cùng, anh em chỉ là “công cụ bạo lực” cho họ, không dùng được nữa thì vứt bỏ. Anh em đừng mong là khi chết anh em sẽ được chôn cùng họ ở nghĩa trang cao cấp Mai Dịch hay nghĩa trang Yên Trung 1,400 tỷ.

Nếu tôi ở vào vị trí như 64 chiến sỹ hải quân ở Gạc Ma, chắc chắn tôi sẽ chống lệnh của “lãnh đạo cấp cao” và bắn trả quân xâm lược Trung Quốc. Thật sự tôi không tán thành cái chết cam chịu tuân phục cấp trên mù quáng như vậy.

Đảng cộng sản và bác Hồ không “đẻ” ra anh em

Một ngụy biện thường thấy của các “giáo sư tiến sỹ” xã hội chủ nghĩa như ông Tô Lâm là bác Hồ và đảng cộng sản đã thành lập ra quân đội nhân dân và công an nhân dân thì quân đội và công an phải trung thành với đảng cộng sản.

Cần phải nói ngay rằng đây là chuyện giả dối. Những người lính đầu tiên gia nhập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là để giải phóng đất nước khỏi thực dân và phát-xít chứ không phải gia nhập quân đội để bảo vệ quyền lợi cho riêng đảng phái nào. Anh em cứ đọc 10 lời thề đầu tiên của đội là sẽ rõ. Bản thân ông Hồ cũng khẳng định quân đội “trung với nước, hiếu với dân”. Chuyện “trung với đảng, hiếu với dân” là lời lẽ bịa đặt của giới lãnh đạo cộng sản.

Nếu lúc đó giới lãnh đạo cộng sản “huỵch toẹt” là họ chỉ lợi dụng xương máu anh em trong quân đội để thâu tóm quyền lực và quyền lợi, biến “trung với nước” thành “trung với đảng” thì chắc chắn không có ai theo họ làm cách mạng hết.

Chính ông Lê Kiên Thành, con trai của cố Tổng bí thư đảng cộng sản Lê Duẩn, trong bài viết mới đây đã công nhận 90% liệt sỹ nằm lại Trường Sơn không phải là đảng viên cộng sản mà họ vẫn chết vì [điều mà họ tin là] lợi ích dân tộc. Thắng lợi chiến tranh hay cách mạng gì thì cũng là do dân hy sinh là chính mà thôi. Giới lãnh đạo cộng sản nhận vơ hết công trạng của họ rồi bắt anh em lính tráng phải trung thành với họ là chuyện gian trá.

Nhân dân không biết ra lệnh

Mọi văn kiện của đảng cộng sản hay như bài viết mới đây của ông Tô Lâm đều thêm “nhân dân” vào sau phần “trung thành với Đảng, Nhà nước” cho dân đỡ tủi. Thế nhưng “nhân dân” là một khái niệm rất tổng quát. Liệu có người dân cụ thể nào có thể ra lệnh cho quân đội, công an hay không? Đó thực sự chỉ là một trò mị dân.

Ở các nước thật sự “dân chủ, công bằng, văn minh”, lực lượng vũ trang chỉ trung thành với Hiến pháp, và qua đó lực lượng vũ trang trung thành với nhân dân một cách thực chất. Lực lượng vũ trang chấp hành mệnh lệnh của người lãnh đạo được dân bầu ra qua bầu cử đa đảng tự do và công bằng. Tuy nhiên, nếu người lãnh đạo đó vượt quyền hạn do Hiến pháp trao cho và ra lệnh cho lực lượng vũ trang đàn áp dân thì lực lượng vũ trang có quyền từ chối không chấp hành mệnh lệnh.

Ở Việt Nam, lực lượng vũ trang “nhân dân” đi đánh đập những người dân tưởng niệm những liệt sỹ đã chống giặc Tàu xâm lược, đánh những người dân đi khiếu kiện đất đai như cụ Lê Đình Kình, đi kinh doanh bất chấp luật pháp để kiếm tiền như vụ Vũ nhôm… Xương máu các anh em chiến sỹ bị lợi dụng, lạm dụng chỉ để bảo vệ cái ghế bất hợp pháp của đảng cầm quyền, làm đầy túi tham cho họ.

Nhắn nhủ

Tôi viết bài này để các anh em trong quân đội, công an đọc, nhất là các anh em trong Lực lượng 47 đọc và cùng thảo luận trong các đơn vị quân đội mà các anh em đang công tác. Tôi không phải là “thế lực thù địch” mà là đồng đội của các anh em. Nhiều bà con, họ hàng, bạn bè của tôi đang là sỹ quan. Nếu có giặc đến thì tôi là người cầm súng cùng với anh em bảo vệ đất nước chứ không phải những người đang rao giảng cho các anh em về lòng trung thành với đảng cộng sản.

Giới lãnh đạo cộng sản ngoài chuyện bất lực trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, còn tỏ ra bất lực trong việc phát triển kinh tế. Đơn cử như chuyện phát triển công nghiệp ô tô là một sản phẩm cực kỳ quan trọng trong việc công nghiệp hóa thành công thì đến giờ này Bộ Công thương và Bộ Tài chính vẫn cãi nhau ỏm tỏi về việc áp dụng thuế cho ô tô như thế nào. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thì ra lệnh tính cả nền kinh tế ngầm vào GDP để GDP cao hơn, và có thể vay nợ nhiều hơn. Đảng cộng sản tiếp tục cầm quyền bất hợp pháp không do dân bầu thì đất nước tiếp tục lụn bại về kinh tế, và qua đó gây suy giảm khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang vì không có tiền mua sắm trang thiết bị, vũ khí.

Nếu giới lãnh đạo cộng sản không thay đổi sang dân chủ thực chất thì cuối cùng chắc chắn sẽ có biến động chính trị – xã hội lớn. Khi đó, hẳn anh em đã biết phải đứng về phía ai, nhân dân hay giới lãnh đạo cộng sản?

© Copyright Tiếng Dân

Mơ mộng Hão Huyền

Mơ mộng Hão Huyền

Ảnh: internet

Ông cựu phó thủ tướng Vũ Khoan nói “Xóa nỗi nhục nước nghèo là sứ mạng lịch sử của người trẻ” rất giống với câu: “Đời tôi và các bạn chưa đòi được Hoàng Sa thì đời con cháu sẽ làm được” của ông Vũ Đức Đam.

Tôi thấy tư duy của các ông thật vô lý. Người trẻ hay con cháu muốn làm được gì đấy to lớn đẹp đẽ thì cũng cần một nền tảng. Không có cái móng nhà, người trẻ bỗng nhiên xây được tầng hai, tầng ba làm sao?

Chưa kể con cháu chúng ta sẽ phải kế thừa một đất nước yếu kém về mọi mặt, văn hoá băng hoại, kinh tế xách dép cho kẻ thù và từ đấy sẽ xách dép về quân sự, quốc phòng, ô nhiễm môi trường, giáo dục càng cải càng thối. Chỉ chăm chăm cho có nhiều PGT, GS mà không hề quan tâm thực sự tới chất lượng giáo dục. Kết quả là gọi là trí thức nhưng cứ ngủ miệt mài từ năm này qua năm khác.

Những thanh niên yêu nước, sống với đầy tinh thần trách nhiệm với dân tộc, thông minh, dũng cảm, đấu tranh cho nhân quyền, giúp người dân đấu tranh bảo vệ môi trường thì bị bắt hàng loạt.

Vậy cơ sở nào để tự đâu mọc lên một thế hệ trẻ, hay lớp con cháu nào để bỗng dưng xuất hiện như một phép lạ để xoá nỗi nhục nước nghèo hay đòi lại được Hoàng Sa? Hay các ông tin Thánh Gióng là có thật? Một ngày nào đấy sẽ xuất hiện một thế hệ Thánh Gióng về mọi lĩnh vực và đưa đất nước trong vài ngày sánh vai được với cường quốc năm châu?

Muốn có được một thế hệ trẻ tài năng thì các ông cần phải đặt một nền tảng dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do biểu đạt chính kiến, phải công nhận một quyền đã được ghi trong hiến pháp là quyền biểu tình.

Các ông dùng thứ luật pháp tuỳ tiện và nhà tù để bịt miệng những tiếng nói phản biện thì thế hệ trẻ làm sao có thể phát triển tư duy, dám đứng lên đấu tranh với cái xấu để xây dựng đất nước?

Các ông ghét và đàn áp những người bất đồng chính kiến bằng những bản án vô lý, vô nhân đạo. Chỉ nói riêng 7 năm tù trong tổng số 14 năm tù mà Hoàng Bình phải chịu chỉ vì ngồi yên trong ô tô, không mở cửa theo yêu cầu của công an, quay livestream mà các ông khép vào tội chống người thi hành công vụ thì đã đủ nói lên sự đàn áp dã man thế nào rồi. Báo chí nước ngoài viết bài ầm ầm về việc này các ông biết không? Ngay cả những dòng tít của những bài báo đã nói lên được bản chất của bản án.

Thể diện của một quốc gia chính là ở những điều này, quyền lực mềm của một chính thể cũng là ở những điều này. Tôi phản đối bản án vô nhân đạo với Hoàng Bình cũng như với nhiều người con ưu tú khác của đất Việt.

Những câu nói văn hoa đèm đẹp mơ mộng và vô căn cứ của các ông khiến tôi rất bực mình. Người dân của đất nước này cần những lãnh đạo nói những điều thẳng thắn, tư duy đúng đắn chứ không cần những sự ví von bay bổng, những lời nói ru ngủ được những kẻ ngu nhưng khiến những con người hiểu biết và có lương tri phẫn nộ.

Các ông là những người có quyền cao chức trọng, hãy quan tâm tới những vấn đề nổi cộm của xã hội và những bản án với những con người dám đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn. Và xin hãy bớt những phát biểu vô bổ như thế này đi.

ĐÓN NHẬN SỰ SỐNG

ĐÓN NHẬN SỰ SỐNG

Elisabeth Nguyễn

Không ai trong loài người chúng ta có thể làm nên sự sống. Chúng ta lãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa, từ ngày Người tạo thành trời đất, muôn vật, con người từ hư vơ.

Sự sống của chúng ta, nó đi từ sâu thẳm thời gian qua thân xác, trái tim và tinh thần của hàng tỉ tỉ triệu triệu con người. Sự sống đó đã chuyển lần lần chuyển xuống ông bà, cha mẹ rồi tới chúng ta.

Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang ba năm bú mớm, mẹ đã cưu mang con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy (2Mcb 7, 27b – 28). 

Để có sự hiện diện của ta, cần có hai người là cha mẹ. Để có sự hiện diện của cha và mẹ cần có 4 người. Sự hiện diện của 4 người, cần có sự hiện diện của 16 người. Cứ thế ta nhân lên thì phải công nhận là trải qua bao nhiêu sự truyền thừa đời sống của những con người, trải qua bao nhiêu thế hệ mới có sự hiện diện của ta. 

Sự sống chúng ta đã lãnh nhận từ quá khứ và còn lãnh nhận trong hiện tại. Ngày hôm nay, một phần là từ tất cả nhân loại, những con người bằng cách này hay cách khác đã nuôi hoặc đang nuôi chúng ta từ các quôc  gia trên thế giới, những tinh hoa truyền thừa từ các tôn giáo, những công trình nghiên cứu khoa học, y học, văn hóa, văn chương v.v… từ những bậc cai trị đất nước, các bậc tu hành, các nhà giáo dục, những người làm ra cơm bánh, của cải, những nông dân, nông nghiệp, một phần khác là từ vũ trụ, không khí, mặt trời, nước uống, biển cả, đồi núi, sông hồ  v.v…và nhất là khoa tin học trong khoảng hai, ba chục năm gần đây tiến thật nhanh chóng, chính  nhờ Thiên Chúa ban cho những người đó có bộ óc thông minh và ý chí cần cù sáng tạo , đã cho chúng ta những phương tiện như internet mà chúng ta đang xử dụng.v.v… Tất cả những thứ này chúng ta nhận lãnh cách nhưng không, ngay từ khi ta chỉ là một em bé chào đời cho đến khi ta rời khỏi thế giới này. Đây thật là một Hồng Ân lớn lao Thiên Chúa ban cho loài người.

Ngay cả một phần nhỏ của sự sống chúng ta cũng không thể tự có được.  Con người trong chúng ta không ai được lựa chọn sinh ra và chết đi theo ý mình. Ta không được lựa chọn làm đàn ông hay đàn bà, với ngoại hình đẹp xấu, cao lùn, tính cách, tài năng, tánh tình, thông minh hay ngu độn, giàu có hay nghèo hèn, da trắng hay vàng, đen v.v…  

Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ như thế nào. Không phải mẹ ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng không phải mẹ săp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đang Tạo Hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người và đã sáng tạo muôn loài. Chính Người do Lòng Thương Xót, cũng sẽ trả lại cho các con Thần Khí và sự sống bởi các con trọng luật lệ của Người hơn bản thân mình (Mcb 7, 22-23)

Nhưng chúng ta ai cũng đến thế gian này với cả một hồng ân trong mắt Chúa, chúng ta có một giá trị cao trọng trước mặt Chúa, Ngài cho chúng ta sự tự do để chúng ta có cơ hội duy nhất là được làm chính mình. Chúng ta muốn tự xây nên mình, có cơ hội sống như mình muốn, làm điều mình tin tưởng, sáng tạo điều mình mơ ước hay theo đuổi điều mình khao khát ước ao thì ta hãy đón nhận sự sống một cách tự do và ý thức do lương tâm mách bảo.

Trước mặt con, Người đả đặt lửa với nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con là cửa sinh cửa tử, ai thích gì sẽ được cái đó (Hc16, 16-17).

Trong chương trình của Thiên Chúa thì mỗi người dù nhỏ bé hèn mọn, bệnh tật hay bất hạnh đến đâu cũng có một chỗ đứng trên thế gian này. Sự sống tự nó đã là một mầu nhiệm. Vậy ta hãy chuẩn bị cho sự sống của cá nhân mình cho xứng đáng làm một con người đích thực, chân thực và hữu ích cho thế giới này với vốn liếng của mỗi người là năm chiếc bánh và hai con cá mà Thiên Chúa đã ban cho.

Phúc thay kẻ nghiền ngẫm khôn ngoan, và biết dùng trí khôn mà suy luận (Hc14,20).

Chúng ta là Kitô hữu, chúng ta cần phải sống xứng đáng là con người mang hình ảnh Chúa và hãnh diện được tham dự lao tác với Ngài trong công trình Cứu Độ Loài Người

Hãy tạ ơn Thiên Chúa, Đang tạo dựng muôn vật. Ghi ơn Ngài về Ân Sủng và Tình Thương của Ngài ban cho toàn thể nhân loại.

Hãy biết ơn tổ tiên, cha mẹ, đấng sinh thành, nuôi nấng, dạy dỗ ta nên người.

Hãy biết ơn tôn giáo ban cho ta một kho tàng tinh thần siêu nhiên để ta sống dồi dào hạnh phúc.

Hãy biết ơn tổ quốc, những anh hùng có công giữ nước, dựng nước để ta có một quê hương giàu đẹp.

Hãy biết ơn người giúp đỡ ta khi ta hoạn nạn, khi ta đói khát (tinh thần lẫn vật chất).

Hãy biết ơn người cứu ta khi ta gặp nguy hiểm, đã nuôi dưỡng và cưu mang gia đình ta, giúp ta một lối thoát, vực ta lên khi ta tuyệt vọng.

Hãy biết ơn hàng xóm láng giềng những người sống xung quanh ta, những người giàu có, kẻ nghèo nàn v.v…

Hẫy biết ơn những người đã nói không với yêu cầu của mình, đã phản bội bất tín với mình v.v…

Tạ ơn Thiên Chúa, vinh danh Ngài về tất cả hồng ân Ngài ban cho cá nhân con và cho gia đình con, cho cả nhân loại trên thế gian này. Amen.

Elisabeth Nguyễn

(2.2018)

Cải cách cơ cấu là gì và tại sao nó lại quan trọng?

 

Cải cách cơ cấu là gì và tại sao nó lại quan trọng?

Nguồn: “What structural reform is and why it is important?”, The Economist, 09/12/2014

Biên dịch: Lê Thị Hồng Loan | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Chính phủ các nước có thể làm gì để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế? Hầu hết các nhà kinh tế tin rằng các chính phủ cần giúp thị trường hoạt động hiệu quả: cưỡng chế thực hiện hợp đồng, giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán, cung cấp điện cho các công ty, hay các hoạt động tương tự. Ngân hàng Thế giới có bảng xếp hạng hàng năm về mức độ hiệu quả của các chính phủ: các bảng xếp hạng mới nhất được công bố vào tháng Mười. Ở nhiều quốc gia, chính phủ khiến cho việc kinh doanh trở nên khó khăn: chẳng hạn, ở Madagascar, một doanh nghiệp có thể phải chờ hơn một năm mới được cấp điện. Tạp chí The Economist thường khuyến nghị “cải cách cơ cấu” (structural reform) như là một phương thuốc chữa các căn bệnh kinh tế. Nhưng chính xác thì “cải cách cơ cấu” nghĩa là gì?

Ở nghĩa đơn giản nhất, cải cách cơ cấu chỉ những thay đổi đối với cách thức hoạt động của chính phủ. Sẽ rất hữu ích khi nhìn vào một ví dụ cực đoan, chẳng hạn như Ukraine, để hiểu được điều này. Nền kinh tế của Ukraine đang trong tình trạng hỗn độn: đây là một trong những quốc gia tham nhũng nhất trên thế giới. Nhưng nước này đang cố gắng cải thiện tình hình. Ví dụ, trong những tháng gần đây, chính phủ đã buộc các bộ trưởng công khai các lợi ích tài chính của họ. Điều đó sẽ ngăn các chính trị gia tham nhũng trao các hợp đồng béo bở của chính phủ cho các công ty nơi họ có cổ phần. Thay vào đó là niềm hy vọng rằng các hợp đồng sẽ được trao cho công ty hiệu quả nhất, qua đó giúp cải thiện chất lượng dịch vụ công và cắt giảm chi phí. Chính phủ cũng đã loại bỏ những lỗ hổng bất thường trong các quy định về mua sắm, vốn cũng là một nguyên nhân gây tham nhũng lớn. Cho đến gần đây vẫn tồn tại một đạo luật ngăn cản công chúng giám sát các nhà cung cấp thức ăn cho các con thú trong các đoàn xiếc quốc doanh. Trong khi đó, giá khí đốt cho người tiêu dùng – hiện đang được trợ giá rất nhiều – sẽ được tăng lên trong vài năm tới để tiết kiệm tiền cho chính phủ.

Nhưng hầu hết các cải cách cơ cấu đều sâu xa hơn. Lấy Italia làm ví dụ. Matteo Renzi, thủ tướng Ý, đã hứa hẹn rất nhiều thay đổi. Thị trường lao động đã trở nên linh hoạt hơn một chút: các công ty có thể thuê tới 20% lực lượng lao động của họ theo các hợp đồng có thời hạn cố định tối đa ba năm. Và giá năng lượng đã giảm: chính phủ đang giúp hạ giá điện cho các công ty vừa và nhỏ trong một nỗ lực giúp họ trở nên cạnh tranh hơn. Pháp cần phải làm điều tương tự. Ví dụ, vào thời điểm hiện tại việc bán aspirin – một loại thuốc khá vô hại – trong phần lớn các siêu thị ở Pháp vẫn là việc làm bất hợp pháp. Chính phủ Pháp đang lên kế hoạch để đơn giản hóa luật lao động, thông qua việc nới lỏng các quy tắc điều chỉnh đối với các “hội đồng công nhân” (các tổ chức đại diện cho người lao động) trong các công ty. Pháp cũng muốn buộc những người đang xin trợ cấp thất nghiệp phải đi tìm việc “một cách chủ động hơn”. Quốc gia này cho rằng các điều kiện đang quá lỏng lẻo vào thời điểm hiện tại.

Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là những cải cách cơ cấu quan trọng như thế nào, đặc biệt khi một nền kinh tế đang gặp khó khăn. Việc chống tham nhũng ở Ukraine là rất đáng hoan nghênh, nhưng một chương trình đầu tư cũng sẽ giúp ích cho nền kinh tế của đất nước này. Việc tăng giá khí đốt quá nhanh sẽ gây hại nhiều hơn là lợi, tác động tiêu cực đến thu nhập của người tiêu dùng nhiều hơn nữa. Ở Italia, các nhà đầu tư có thể lo sợ về gánh nặng nợ khổng lồ – và có thể là không bền vững – không kém những lo lắng về thị trường lao động cứng nhắc của quốc gia này. Và phần lớn khu vực đồng euro đang kêu gọi nới lỏng định lượng, theo đó ngân hàng trung ương sẽ phải mua vào trái phiếu chính phủ. Các cải cách cơ cấu là cần thiết để đảm bảo tăng trưởng về lâu dài. Nhưng trong ngắn hạn các chính phủ cũng cần phải có hành động quyết liệt hơn.

“Ngôi mộ Tổng thống Mỹ nhỏ hơn ngôi mộ người nghèo ở làng tôi”

Đài Á Châu Tự Do

Hôm trước, tôi có đến thăm nghĩa trang Arlington thì tôi thấy ở đấy nó hay như thế này: ngôi mộ của một vị tổng thống rất nổi tiếng Kenedy, người có câu nói nổi tiếng là “Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho bạn mà hãy hỏi bạn đã làm gì cho tổ quốc”, thì thật ra nhỏ hơn ngôi mộ của người nghèo ở làng tôi.

Người ta không coi cái câu chuyện làm nên một ngôi mộ lớn để ghi nhận, nhưng mà người ta thực hành tiết kiệm đối với ngay cả người lãnh đạo rất là cao.

Link vượt tường lửa: http://bit.ly/2E9dRAZ

Nguyễn Quang Thạch, người thành lập chương trình “sách hóa nông thôn” ở Việt Nam, chia sẻ về chuyến đi Mỹ lần đầu tiên của anh để nhận giải thưởng…
RFA.ORG

Thiên Chúa là Tình Yêu!

Thiên Chúa là Tình Yêu!

Lạy Chúa Giêsu!
  Trong mỗi người Chúng Con có một loại người mang những Chứng Bệnh “Bất Trị” Như:
  Háo Danh…Thiếu Tư Cách…Vô Giáo Dục…Phe Đảng…Nịnh Bợ 3 Xu…Tâng Bốc Hạ Cấp…Phát Ngôn Hồ Đồ…Tiểu Nhân Háo Thắng…

   Xin “Bệnh Viện của Chúa” chữa lành những cho những “Vết Thương Bất Trị”, 

Xin Cho Chúng Con luôn biết Sẵn Sàng, vì không biết Ngày Giờ Chúa đến.

1.Tôi đến bệnh viện của Chúa để kiểm tra sức khỏe và phát hiện rằng mình đang bị bệnh.

  1. Khi đo huyết áp cho tôi, Chúa cho biết tôi thiếu LÒNG NHÂN ÁI. Và khi lấy nhiệt độ, Nhiệt kế nhảy vọt đến 40 độ ÍCH KỶ
  2. Điện tâm đồ cho biết Trái tim thiếu những rung động YÊU THƯƠNG, Một số mạch máu bị tắc nghẽn Vì lớp cholesterone GHEN GHÉT.
  3. Tới khoa chỉnh hình, Tôi khám phá mình đi lại khó khăn Tôi không thể tiến lại ôm người anh em Vì lòng KIÊU HÃNH cản ngăn, Cánh tay của tôi bại xuội.
  1. Chứng CẬN THỊ, mắt tôi không thể nhìn xa hơn cái vẻ bên ngoài của người khác
  2. Quen những tiếng ồn ào thường ngày Tai tôi bị ĐIẾC ĐẶC, Không còn nhạy bén với những tiếng thì thầm yêu thương. 
  1. Con xin cảm ơn Ngài, Vị Lương y nhân hậu! Chúa đã chữa trị cho con miễn phí hoàn toàn vì lòng thương xót.

8. Con cam kết khi xuất viện Sẽ tiếp tục dùng toa thuốc của Chúa, cách trung thành và đều đặn.

  1. Nhờ những dược liệu tự nhiên Chúa hướng dẫn cho con Trong sách thuốc “TIN MỪNG” của Chúa.
  2. Mối buổi sáng, khi thức dậy Con sẽ dùng ngay chén trà TẠ ƠN. Trước khi làm việc, Con sẽ uống một muỗng canh NỤ CƯỜI THÂN ÁI!
  3. Và mỗi giờ, con sẽ uống thêm viên NHẪN NẠI Với ly nước NHÂN BẢN. Và lạy Chúa, khi về lại nhà Con sẽ chích mũi thuốc TÌNH THƯƠNG trợ lực.

12.Trước khi đi ngủ Con sẽ uống 2 viên LƯƠNG TÂM BÌNH AN. Vị Thầy thuốc của con ơi, Con tin rằng sẽ dứt bệnh… 

  1. Con xin hứa sẽ dùng toa thuốc này cách đều đặn.
  1. Để khi về với Chúa, con sẽ hiện diện với một tinh thần khỏe mạnh và bình an

  Sưu tầm

 Kitty ThiênKim & Kim Bằng Nguyễn gởi

Thành phố ngợp, ngày nao chiều gió dậy,

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 6 Thường Niên năm B 11/02/2018

 

Tin Mừng (Mc 1: 40-45)

 

Khi ấy, có người mắc bệnh phong đến gặp Đức Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Đức Giêsu chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch!” Lập tức, bệnh phong biến khỏi anh, và anh được sạch. Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế; và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” Nhưng vừa đi khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền và loan tin ấy khắp nơi, đến nỗi Đúc Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.

&  &  &

 

“Thành phố ngợp, ngày nao chiều gió dậy,”

“Gương mặt ấy, lời yêu thuở ấy.”

(dẫn từ thơ Xuân Quỳnh)

– Mai Tá lược dịch

Thành phố với lời thơ yêu thương “chiều gió dậy” là gương mặt của tình yêu vẫn thấy ở trình thuật thánh Máccô. Trình thuật thánh Máccô, có lời thơ yêu trải dàn khắp dân gian, không ở nơi hoang sơ dân dã cạnh đất miền Galilê, nhưng còn ở văn bản đời thường, như bản văn viết mà tác giả Megan McKenna để ra nhiều chương/đoạn phản ánh tư tưởng của bậc hiển thánh rất Máccô.

Một trong các bản văn mà tác giả này ghi rõ lời yêu thương giống hệt Tin Mừng Máccô như sau:

“Rất nhiều lần, có người mải tìm cho ra ý nghĩa của đời mình. Ông và bầu bạn muốn sống theo cung cách có dáng vẻ tự do, ân sủng ngõ hầu tôn trọng mọi người. Bầu bạn vẫn cố thuyết phục ông bền đỗ trong cuộc kiếm tìm ấy. Và, họ định cùng nhau tìm đến Bậc Thày nhân hiền để vấn kế và xin Thày nhận họ làm đồ đệ, để theo Ngài.

“Ông có dịp đi ngang thôn làng có nhiều người ở. Và cùng đám đông quần chúng ở lại lắng nghe lời Thày. Ít lâu sau, đồ đệ lại cũng ra đi trình diện với mọi người để xin khai tâm, theo chân Thày. Tập tục thời bấy giờ cho thấy Bậc Thày đưa ra nhiều câu vấn ý cốt nghe lời đáp hầu có quyết định xem các ứng viên theo Thày có đạt ý nguyện thành dân con đeo đuổi đời rong ruổi cùng Thày đi thuyết giáo, không.

“Đương nhiên, đồ đệ nào mà chẳng muốn được Thày chấp nhận tham gia đoàn người giảng rao, nên mới nói: “Trình Thày, bọn con đây muốn theo chân Thày học hỏi cung cách sống và làm việc cho đúng cách.” Bậc Thày nhìn họ, rồi bảo: “Sao anh em biết rõ lòng mình muốn theo Tôi?” Sao anh em hiểu được điều mình ước muốn?”

“Đồ đệ thay nhau đáp: “Chính lời Thày đã khích lệ chúng con. Và, đó là điều bọn con tin tưởng, nay muốn nó thành hiện thực.” Bậc Thày lặng thinh trong giây lát như muốn tập trung nguyện cầu chỉ một lúc, rồi hỏi: “Có thật anh em vẫn quyết như thế không? Hay, còn ý định nào khác khi đồng hành, cùng với Tôi?” Họ đáp: “Đó là điều chắc chắn.” Trong phút chốc, Bậc Thày thoạt nhìn họ với vẻ ái ngại, đoạn bảo: “Thôi được, anh em cứ theo Tôi. Nhưng, nếu anh em có để mất tất cả những gì mình nắm vững thì sao? Và, một khi nhận ra điều này, anh em có còn tiếp tục nữa hay không?” Bọn họ đáp: “Dứt khoát vẫn như vậy! Dù mọi chuyện ra tồi tệ thế nào đi nữa, chúng con không đổi ý.” Vàhọ được đón vào đoàn nhóm đồ đệ theo chân Thày chỉ giáo.

Nhưng về sau, có lúc họ thấy rất chán ngán, buồn nản và bất ưng như mọi người, tức những người cũng đưa ra cùng một câu hỏi để che giấu và phủ nhận mọi sự xảy đến với họ. Nỗi bất ưng cứ thế tăng dần và lan nhanh, đôi lúc thấm nhập mọi người trong nhóm. Và, khi họ không còn biết nguyên do của nỗi niềm ấy nữa, thì chính là lúc họ coi đó như một đau xót khiến họ phải bộc lộ ra ngoài. Bộc lộ, đến độ niềm đau thương đã trở thành sắc màu sống sượng đến rỉ máu.

Họ lại nhất quyết bỏ tất cả ở đằng sau, chỉ vì sự kiện ấy và tiếp tục lại kiếm tìm. Lại, mải miết kiếm tìm, giống như trước. Dù sao, họ cũng chỉ làm có mỗi việc là những kiếm và tìm, suốt một đời. Trong tìm kiếm, họ tin mình sẽ đạt cùng đích, như Bậc Thày hằng bày tỏ, với họ. Tuy lời Thày trở thành điệp khúc miên trường khi lời Thày phát biểu đã ra như câu thần chú, to/nhỏ vẫn không ngừng. Vẫn dấy lên niềm hy vọng cùng hãi sợ, ở nơi họ. Và, họ nhớ lại lời Thày trước kia từng hỏi: “Có thật, là anh em đã mất hết mọi thứ, không? Có thật, anh em muốn đến với Tôi chỉ để học hỏi lối sống cho đúng cách, không? Có thật như thế không?

Đó cũng là câu hỏi được thánh Máccô đưa ra hôm nay. Ở trình thuật này. Đó còn là tên gọi của chương trình nay được bảo: bỏ tất cả để rồi tìm chẳng được gì. Bởi, khi viết trình thuật này, tác giả Máccô luôn nhấn mạnh đến cụm từ “mọi sự” và “hư vô.” Chứ không phải, “tất cả” và “chẳng gì cả”. Có nghĩa là, tất cả mọi sự rồi ra sẽ hư luống. 

Nhà thơ nữ Kathy Galloway, xuất xứ từ đất miền Iona, Tô Cách Lan, cũng viết lên cùng giòng chảy rỉ máu rất Máccô như sau:

“Chớ trở về khung trời nhỏ của riêng ai

Ở đất miền êm ả chốn hình hài.

Ngày rời bão tố kiếm hồn nơi sân vắng,

Cùng người thân an nghỉ chốn bồng lai.

Nơi sân vắng hồn thiêng thân yêu ấy,

Diễm lệ hơn ngự uyển vườn người năng lui tới,

Ngập những cỏ dại, lại nghèo hèn đầy chiến chinh,

Cứ đòi người chăm bới chốn nhà mình.

Kiếm tìm hồn quý phái lại hiếm quý

Thấy đời mình mở ngỏ ở chân trời.

Với khóc than, doạ dẫm rồi đau đớn,

Để người tìm lại thấy những kêu ca.

Hãy lưu lại cùng người yêu nay ít thấy,

Thuở yên bình trả giá vẫn nhiều hơn,

Bởi con trẻ thân thương không đùa giỡn

vẫn khóc ròng nhiều tiếng người vẫn mất.

Đừng hãm giam một chân trời riêng tư ấy

Của chốn miền nóng cháy ở nhiều nơi

Chẳng nơi nào có thể vực cuộc sống,

Có ánh mắt em nhìn cuộn giá băng.”

 Trình thuật hôm nay, thánh Máccô còn diễn tả tâm tình gặp gỡ giữa Chúa với người phung cùi. Đọc truyện, người người thật chẳng biết bệnh nhân phung cùi đã nghĩ gì? Làm gì? Xử thế ra sao khi gặp Chúa? Và, ai ai cũng nghĩ đó là cuộc hội ngộ rất thực tiễn. Hội ngộ, nay là thực tại xảy đến với người trong cuộc chưa từng thấy, nhưng vẫn đến. Và, một khi sự thực xảy đến rồi, cũng đừng sợ. Hãy cứ hiên ngang đến mà sờ chạm vào thực tại. Bởi nếu không, chính thực tại căn bệnh cũng sẽ sờ chạm ngay thân xác hoặc thân phận của ta thôi. 

     Đọc trình thuật, người người sẽ tự hỏi: dù bệnh phong nay “thoát xác” khỏi con nguời mình, thì bệnh nhân kia chắc vẫn thấy khó lòng mà sống tiếp những ngày sau đó. Khó nhất, là khi anh nhận ra bệnh vẫn còn đeo đuổi anh, bằng hình ảnh/hoặc ý nghĩ nơi anh, như trước kia.

Đọc trình thuật, hẳn có người lại sẽ hỏi: giả như bệnh nhân kia biết thân xác mình nay đã sạch, hỏi rằng cuộc sống của họ sẽ ra sao? Dù, từ nay anh ta không là “cùi hủi” như trước, nhưng vẫn sợ. Sợ, bị tẩy trừ khỏi cộng đoàn mình chung sống. Sợ, nếp sống do cộng đoàn định đoạt vẫn không yên. Sợ hơn nữa, khi người của Chúa chưa học được cung cách của Bậc Thày Nhân Hiền, là chẳng bao giờ tẩy trừ hoặc tống khứ ai ra khỏi “Nước” của Ngài. Trái lại, Ngài vẫn luôn tiếp nhận mọi người, dù lành lặn hay bệnh hoạn, vẫn đỡ nâng. Và hỏi rằng: dân con Nước Trời ở trần thế có làm được như thế không?

Cảm nhận thực trạng rất khó này, cũng nên ngâm lên lời thơ xưa được trích dẫn, mới hôm nào:

            “Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu,

            Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì.

            Hư vô bóng khói trên đầu hạnh;

            Cành biếc run run chân ý nhi.”

            (Xuân Diệu – Thu)

“Chân ý nhi”, phải chăng là thực trạng của người bệnh, nay cảm nhận? “Trên đầu hạnh”, có là “hư vô bóng khói” vẫn cứ tin. Tin Chúa, là Ngài chẳng tẩy trừ hoặc tống khứ bất cứ ai. Tin rằng, người nào đó có tật/có bệnh, vẫn vô tư/hiền lành/mẫn cán, đáng được ơn.                                  

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn 

 Mai Tá lược dịch.

Con gái nói không là có

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 6 thường niên năm B 11-02-2018 

“Con gái nói không là có”
Con gái nói một là hai
Con gái nói hai là một
Con gái nói ghét là thương
Con gái nói thương là ghét đó
Con gái nói giận là giận yêu
Con gái còn yêu là còn giận.”

(Ngọc Lễ – Con Gái)

(1Timôtê 2: 9-13)

 Trần Ngọc Mười Hai

Thời buổi này mà còn phân-biệt trai/gái hoặc bàn chuyện đổi giới, phải chăng là chuyện thừa, thật hết ý? Vâng. Rất đúng. Chính vì hết cả ý-tưởng lẫn đề-tài luận-phiếm lăng-nhăng cho “qua ngày đoạn tháng”, nên bần đạo bầy tôi đây mới phải thế.

Thế nhưng. Trước khi đi vào chuyện lăng-nhăng không hết ý, xin cứ là mời bạn và tôi, ta nghe câu hát tiếp hơi buồn một chút, rồi bàn tiếp. Nghe và bàn, là lắng tai và để ý đến câu ca/điệu nhạc lỉnh-kỉnh như sau:

 “Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Con gái nói nhớ là quên.
Con gái nói quên là nhớ.
Con gái nói buồn là vui.
Con gái nói vui là buồn.
Con gái nói không biết ghen.
Là ghen như điên đấy nhé.
Con gái nói không biết yêu.
Là yêu đến quên đường về.

Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Hãy nhìn vào đôi mắt em đây.
Hãy nhìn vào tận trái tim này.
Hãy nhìn vào đôi mắt thơ ngây.
Anh sẽ hiểu được trái tim em.

Trời có lúc nắng lúc mưa.
Trời có lúc mưa lúc nắng.
Con gái có lúc hiền như nai.
Con gái có khi như bà chằng.
Trời vẫn cứ nắng cứ mưa.
Con gái lúc mưa lúc nắng.
Con gái thế đấy bạn ơi.
Mà sao con trai các anh theo dài dài.
(Ngọc Lễ – bđd)

Quả là thế. Sống đời đi đạo, mà lại mang trong mình những chuyện không đáng ta quan-tâm/bàn-bạc chút nào, nhưng vẫn phải nói và viết trên giấy, là bởi vì không còn gì để nói cho hết ý. Thế nên, hôm nay bần đạo lại xin mời bạn và tôi, ta đảo mắt nhìn vào bài “phiếm” trên mạng vi-tính có đầu đề “hơi bị” dài, như sau:

“10 dấu hiệu cho thấy bạn được Đức Phật che chở nhờ tu thân tích đức, luyện từ kiếp trước:

 Người có phúc nhờ tu thân tích đức từ nhiều kiếp sẽ luôn được như ý trong mọi chuyện ở cuộc sống, nếu gặp 10 dấu hiệu dưới đây, bạn quả thật rất may hơn nhiều người.

Những dấu hiệu ấy như sau:

  1. Gặp lúc khó khăn luôn thấy có lối thoát

Mọi người sẽ gặp không ít khó khan/trở ngại trong cuộc sống, và nếu tìm được lối thoát một cách nhanh chóng như xuất hiện tình huống thuật lợi bất ngờ hoặc có người kịp đến hỗ trợ, thì người đó chắc chắn có phúc nhờ tu thân tích đức từ kiếp trước.

2. Đem lại điều may mắn cho người khác

Nếu có người được hưởng ít/nhiều cơ may từ bạn, thì điều đó chứng tỏ bạn là người rất có phúc. Ví dụ như khi đi chợ thấy hàng quán nọ ế ẩm, mà bạn vừa sà vào có ý định mua thứ gì đó thì nhiều khách hang khác cũng ùa tới, như vậy là bạn đã mang đôi chút phúc/lộc của mình cho người chủ hưởng. Ai đang kém may lại được giao du với bạn và thay đổi vận-mệnh của mình, thì chắc hẳn người đó được hưởng phúc/lộc do từ bạn truyền sang.

3.Luôn được tai qua nạn khỏi

Nhiều lúc nhẽ ra bạn phải gánh chịu một vận hạn nặng nề nào đó nhưng không hiểu vì sao những người khác đều bị vận, còn bạn thì không. Ví dụ như trong vụ tai nạn tập thể nọ, nhiều người bị thương hoặc mất mạng, nhưng bạn lại không hề hấn gì, dù đi cùng một chuyến xe. Hay có dịch tễ/bệnh tật lây lan gần như ai cũng mắc phải, mà bạn lại không sao cả, tức là: bạn đang hưởng nhiều phúc đức nên được bảo hộ.

4. Bạn có nhiều bạn bè quý mến

Người có phúc cũng là người có nhiều bạn bè đối xử  tốt với họ. Không phải ai cũng có được diễm phúc đó. Khi bạn gặp khó khăn sẽ gặp không ít người sẵn sàng ra tay vực đỡ bạn dậy, đó là do bởi phúc đức của mình đem đến chứ không là ngẫu nhiên đâu.

 5.Làm việc gì cũng thành-đạt

Bạn kinh doanh, làm việc tại công sở hay làm bất cứ điều gì, đều tốt đẹp hơn nhiều người khác. Ví dụ mình sinh sống trong cùng một dãy phố kinh doanh cùng một mặt hàng, mà bạn lại luôn đắt khách hơn người khác trong khi cả dãy ế ẩm, thì hàng hoá do bạn kinh-doanh cứ bán chạy đều đều. Đơn giản là vì họ không có phúc/đức tích-tụ từ kiếp trước như mình. 

  1. Bạn có được người vợ hay người chồng thật lý tưởng

Người có phúc là nhờ tu thân/tích đức sẽ gặp được ý trung nhân hết lòng với mình. Nếu không vì có phúc đức tích-tụ từ kiếp trước, thì chắc chắn cô ấy hay anh ấy sẽ không hết lòng yêu thương/chung thủy với bạn như vậy đâu. Hãy lết long cảm ơn Bề Trên vì mình đã tu thân/tích đức từ kiếp trước để ngày nay được may mắn hơn nhiều người.

 

  1. Con cái bạn ngoan ngoãn, giỏi giang

Người có phúc chắc chắn sẽ sanh hạ được những đứa con ngoan ngoãn/giỏi giang, có hiếu với cha mẹ. Không phải ai cũng có được cái phúc này đâu, thế nên bạn hãy trân trọng.

 

  1. Bạn có ngoại hình đẹp đẽ

Người có phúc thường được Ơn Trên ban cho ngoại hình đẹp đẽ và cân đối. Không phải ai cũng có cái may được sinh ra với khuôn mặt khả ái và thân hình quyến rũ. Hãy cám ơn Bề Trên đã dành cho mình ưu-đãi ấy.

 

  1. Bạn ít khi đau ốm

Người có phúc chắc chắn sẽ sống thọ và có sức khỏe tốt hơn người bình thường. Những bệnh vặt như ho hen, cảm cúm hay ốm đau không bao giờ chạm tới bạn được, đơn giản vì phúc dày đức cao đã giúp bạn có được điều này.

 

  1. Bạn là người tin vào nhân quả

Đây là điểm quan trọng đối với người có phúc đức quả báo nhãn tiền. Người tin vào nhân quả sẽ sống lương thiện và hành xử đúng với đạo Trời. Họ làm thế sẽ càng tích thêm phúc đức cho bản thân nhiều hơn. 

Nếu có những dấu hiệu này, bạn chắc chắn là người có phúc, con cái, cha mẹ hay bạn bè của bạn nhờ đó được hưởng may mắn. Nhưng để phúc đó được bền, bạn càng phải sống tốt, sống lương thiện, chân thật và khoan dung hơn. Cứ tin vào phúc đức tự tại, bạn sẽ không chịu thiệt bao giờ hết.”(trích dẫn đôi điều từ quan niệm của ai đó ở trên mạng).

Gọi là 10 dấu hiệu về ơn Trời/Phật, chứ thật ra có cả trăm, cả ngàn thứ đáng để ta lưu-tâm lưu/chú ý, hơn. Lưu tâm/chú ý, là cốt cho mọi người nhìn lại đời mình, mới thấy sự thật trên đời khá phức-tạp, tức những điều mà nhiều người vẫn bị cuộc sống thực-tế lôi-cuốn, nên không nhìn nhận.

Bởi thế nên, nghệ sĩ mình vẫn gợi ý những điều trên bằng lời ca/câu hát, tiếp ngay sau:

“Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Hãy nhìn vào đôi mắt em đây.
Hãy nhìn vào tận trái tim này.
Hãy nhìn vào đôi mắt thơ ngây.
Anh sẽ hiểu được trái tim em.”

(Ngọc Lễ – bđd)

Hôm nay, nhà Đạo mình cũng thế. Cũng “hiểu được trái tim em” qua sự việc tưởng chừng như trôi biến cách êm đềm từ lâu, nếu không ai thắc mắc/hỏi han chỉ một tư tưởng nhỏ, sau đây:

“Thưa Cha,

Con cứ thắc mắc hỏi rằng: tại sao những chuyện như nguyên-tắc đổi phái-tính con người ở đời, lại làm nhiều người bận-tâm nên đã trở-thành vấn-đề không nhỏ cho giới sinh-viên đại-học hoặc cao-đẳng, thời gian gần đây. Vậy xin cha cho biết ý-kiến để con yên tâm, không còn thắc-mắc nữa. Thành thật cảm ơn cha.”

 Thật ra, con cháu các đấng bậc vị vọng ngày nay chẳng mấy bận tâm cho lắm chuyện trời ơi đất hỡi như thế. Có khi, đây chỉ là đề-tài để đấng bậc ngồi buồn đặt ra rồi giải-mã cho đầy trang giấy, cũng nên. Thôi thì, nay xin mời bạn và tôi ta thử lắng tai nghe xem đấng bậc nhà mình giải mã thế nào về chuyện này. Nào, xin mời các bạn lắng nghe nhé:

“Có nhiều tài-liệu đáng tin cậy được lập ra để nghiên-cứu về vấn-đề giới-tính hầu giúp mọi người biết sự thật như câu chuyện xảy ra ở Yogyakarta, nước Inđônêxia năm 2007 gọi là Nguyên tắc Gogyakarta. Đó là một chuỗi gồm 29 nguyên-tắc có ghi chi-tiết như một thứ kim chỉ-nam cốt áp-đặt các hệ-luỵ phái-tính, tức: bàn về tự-do chọn giống, định-hướng hoặc khoanh tròn phái-tính con người.

 Vấn-đề đặt ra là hỏi rằng: Ai là người đưa ra các nguyên-tắc này?

Theo Bà Gabriele Kuby tác-giả cuốn “The Global Sexual Revolution” (tạm dịch là: Cách mạng Phái-tính Toàn-cầu) thì việc này do nhóm người gọi là “Chuyên-gia tên tuổi về nhân-quyền”, tức nhóm chức-sắc tuy không có thẩm-quyền hoặc chức-năng công-khai nào hết, nhưng những vị này thuộc nhóm chủ-trương ủng-hộ phong-trào hợp-pháp-hoá tình-trạng của người Đồng Tính Luyến Ái. Nhằm trao ban cho những người như thế một thứ thẩm-quyền ngoài mặt, các “chuyên gia” nói trên đã ra trước toà Liên Hiệp Quốc ở Geneva trình làng cho mọi người biết mà cảm-thông.

 Các nguyên-tắc nói ở đây, là “dụng-cụ tân-tạo tặng trao cho các nhà hoạt-động ủng-hộ chủ trương này, là tập cẩm-nang dầy 200 trang gồm các chỉ-dẫn để phiên-dịch nguyên-tắc nói trên ra thành hành-động chính-trị.

 Ý-tưởng chủ-chốt trong tài-liệu này, là bày ra việc “định-hướng phái-tính” và “nhận-dạng giống”.         Nơi lời tựa sách dẫn ở trên, “Định-hướng phái-tính” được hiểu là việc qui về “khả-năng của mỗi người trong việc lôi cuốn về cảm-xúc, ưa chuộng phái-tính với người nào đó hoặc có tương-quan dục-tình với ai khác, tức các cá-thể có phái-tính khác nhau hoặc cùng giống hoặc mang nhiều giới-tính khác-biệt.   

 Tác-giả Gabriele Kuby cho biết, định-nghĩa này không loại-trừ bất cứ hành-động dục-tình nào tuy khác nhau, kể cả chuyện ấu-dâm, loạn-luân, đa-thê, đa-phu, đa-dục (tức ăn nằm với nhiều người) và cả lề thói dâm-dục với thú vật, nữa.

 “Nhận-dạng giống” cũng qui về cảm-nghiệm phái-tính riêng tự bên trong con người mình và khác nhau tuỳ tứng người vẫn có thể hoặc không thể xứng-hợp với tính/phái định-vị từ bẩm sinh, trong đó có cảm-xúc riêng về thể-xác (tức: tính chuyện đổi giống nếu được tự-do, hoặc nếu y-khoa, phẫu-thuật hoặc phương-tiện nào khác giải quyết giùm) và các biểu-lộ nào khác về phái-tính, cả chuyện ăn mặc, nói năng và phong-cách bên ngoài nữa.”

 Chuyện thứ hai, là tuyên bố: không ai được quyền coi thường/phản bác việc định-hướng phái-tính hoặc nhận-dạng giống/phái dù có thấy vui thích chuyện ấy không, do bởi quyền-hạn của mình bị ảnh-hưởng.” Đây là điều đáng mọi người để tâm, lưu ý. Mọi quyền-hạn của con người đều có thể bị ảnh-hưởng như chuyện đụng chạm quyền tự-do ăn nói và tự-do tư-tưởng, bởi lẽ các quyền này lệ thuộc vào quyền định-hướng phái-tính và nhận dạng giống.

 Nhiều ví dụ giúp ta coi đây là chuyện kỳ-thị, chẳng hạn như: khi dạy dỗ hoặc nuôi-dưỡng con trẻ ta quyết cho chúng tin rằng: mục-tiêu của tình-dục là tạo tình yêu giữa người nam và nữ; và người nữ được định-hình công-tác ngay từ đầu là: sinh con đẻ cái, để nhân loại được phát-triển.

 Các ngành khoa-học từ sinh-ly-học, y-khoa, tâm-lý cho đến xã-hội-học đều dạy rằng giữa nam-nhân và nữ-giới vẫn có nhiều khác biệt, rất đặc-thù, đến độ mỗi và tất cả các tế-bào trong cơ-thể con người đều mang giống đực hoặc giống cái. Nguyên tắc Yogyakarta lập ra khiến việc định-dạng phái-tính tuỳ-thuộc cảm xúc, tức luôn bất ổn tận bên trong và có thể thay đổi bất cứ lúc nào.

 Lời tựa mở đầu các nguyên-tắc nói trên, còn cho biết: khác biệt không chuyển-đổi giữa nam-nhân và nữ-phụ đặt nền-tảng trên “thiên-kiến và vai-trò rập-khuôn nam/nữ vốn là thứ nguyên-tắc dễ có khuynh-hướng bị xoá bỏ sau này.

 Mỗi thứ trong 29 nguyên-tắc nói trên được trưng-dẫn bằng một tuyên-bố cũng rất chung chung lại kéo theo đòi hỏi mọi quốc-gia phải thực-thi, trong đó có việc buộc mọi quốc-gia phải ra luật hẳn hòi ấn-định phái-tính của người thực-thi công-việc vốn phản-ảnh một định-dạng phái-tính do mình tự nhận. Mọi quốc gia cũng buộc phải tôn trọng và đồng-thuận bằng luật pháp việc nhận-dạng phái-tính tự chọn của mỗi người. 

Các nguyên-tắc trên, đòi mọi nước phải có biện-pháp độc-đoán khả dĩ thay-đổi cả hiến-pháp, lề-luật, thể-chế xã-hội, hệ-thống giáo-dục và động-thái căn-bản của công dân mình hầu áp-đặt và thúc-ép một cách hợp-pháp việc chấp-nhận đặc-quyền được phép tỏ-bày việc đồng tính luyến ái và/hoặc dạng-thức cũng như hành-động nào khác không hẳn phải là khác phái.

 Các quốc gia từng can-dự trào-lưu Yogyakarta trước nhất gồm có: Đức quốc, Đan Mạch, Hoà Lan, Na-Uy, Thuỵ-Điển, Thuỵ Sỹ, Cộng hoà Czech, Argentina, Brazil và Uruguay. Quả là, ta đang đi vào một thế-giới mới rất quả-cảm.” (Lm John Flader, Concerns aplenty for all in gender theory, The Catholic Weekly Question Time, 28/01/2018, tr. 19)

Thế đấy, là nỗi khổ của những người vẫn cứ lo-toan những chuyện to lớn ở trên trời hoặc không đâu vào đâu. Còn đây, là lập-trường của bậc thánh hiền ở trong Đạo, từng lên tiếng cả những chuyện có liên quan đến phái-tính, rất nữ/nam ở kinh thánh:

“Tôi muốn đàn bà phải ăn mặc đoan trang,

đồ trang điểm phải kín đáo, giản dị:

không cần kiểu tóc cầu kỳ, vàng bạc, ngọc trai

hay quần áo đắt tiền,

mà là việc lành, phúc đức;

như thế mới thích hợp với các phụ nữ xưng mình có lòng đạo.

Khi nghe lời dạy dỗ,

đàn bà phải thinh lặng và hết lòng phục tùng.

Tôi không cho phép đàn bà giảng dạy,

hay thống trị đàn ông,

trái lại họ phải thinh lặng,

vì Ađam được tạo dựng trước,

rồi mới đến Evà.”

(1Timôtê 2: 9-13)

Xem thế thì, với bậc thánh hiền, đàn bà hay đàn ông đều có chỗ đứng nhất-định trong hệ-cấp quyền-hành hay quyền-lợi trong Đạo. Là người đi Đạo, ta không chỉ chấp thuận tuân theo chỉ-thị hoặc lề-luật được ban-bố từ trên; mà còn phải vui vẻ làm thế, nói chi chuyện đổi giống.

Tựu-trung thì, từ lâu, mọi người vẫn để tâm/lo toan nhiều thứ chuyện, cả việc nguyện-cầu, như truyện kể bên dưới từng minh-chứng:

“Cầu nguyện không giải quyết được những vấn đề khó khăn, những nổi khổ của chúng ta như lời Đức Đạt Lai Lạt Ma từng bảo rằng:

-Tôi là Phật Tử và hàng ngày tôi vẫn đọc kinh cầu nguyện. Nhưng tôi không tin vào sự cầu nguyện sẽ đem lại một xã hội, một thế giới an bình.

 Vì chúng ta đã cầu nguyện và cầu nguyện hàng ngàn năm qua nhưng những lời cầu nguyện của chúng ta [cho một thế giới an bình] chưa bao giờ được đáp ứng cho nên bây giờ chúng ta phải thực tế.

Tôi thường hay nói với mọi người là – Nếu quý vị có cơ may gặp được Chúa Jesus hay Đức Phật thì hãy cầu xin các Ngài đem bình an đến cho thế gian này.

Chắc chắn các Ngài sẽ hỏi rằng – Ai là người đã gây ra bao cảnh bạo loan và bạo lực?

Nếu các Ngài gây ra sự bạo lực thì chúng ta khẩn khoản cầu xin các Ngài là xác đáng. Nhưng đằng này chính chúng ta đã gây ra tình trạng bạo lực.

 Do đó, dĩ nhiên Chúa Jesus hay Đức Phật sẽ phán rằng – chính các con đã gây ra bao cảnh bạo lực thì các con phải có trách nhiệm tự giải quyết lấy.”(trích lập-trường của Đức Đạt Lai Lạt Ma, trong một phỏng-vấn, vào hôm trước).

Thế nghĩa là, ngay đến lời nguyện-cầu ở đâu đây như xưa giờ ta từng quyết, mà Đức Ngài Lạt Ma cũng cho là không cần thiết, nếu như… Vậy thì, trên đời này còn gì để tin tưởng đây? Thật cũng khó để có câu trả lời cho gẫy gọn. Chi bằng, như mọi lần, ta dùng truyện kể nhè nhẹ dù đó là chuyện “Người Sàigòn, tui thế đó” để minh-hoạ cuộc sống trong đó có rất nhiều câu trả lời khá là “khả thì”, như sau:

“Lần đầu tiên lên Sài Gòn là để đi thi đại học, tôi và một thằng bạn thi chung trường nên đi chung với nhau. Ở thì không lo vì đã có nhà người quen ở bên kia cầu chữ Y.

Chỉ lo cái chuyện ăn uống giữa hai buổi thi. Ngay sau khi thi xong môn đầu tiên, hai đứa kéo nhau ra quán cạnh trường kêu hai dĩa cơm sườn. Cầm cái muỗng, cái nĩa để ăn cơm dĩa mà cứ lọng cọng. Ăn hết dĩa cơm, uống cạn mấy ly trà đá tự múc ở trong cái xô để ở góc quán, mà bụng vẫn trống không.

Từ nhỏ đến lớn sống ở dưới quê khi nào đi đâu xa thì cơm đùm, cơm bới mang đi theo chứ có khi nào ăn cơm tiệm để mà biết kêu cơm thêm. Kêu thêm dĩa nữa thì không dám, vì sợ không đủ tiền ăn cho ngày mai, ngày kia… Ngó quanh ngó quất, thấy bàn nào cũng để một nải chuối, mọi người ăn xong cứ thuận tay bẻ, người một trái, người hai trái. Thế là hai đứa sáng mắt, chuối này chắc người ta cũng cho không như trà đá. Vậy là, chỉ một loáng nguyên cả nải chuối để trên bàn chỉ còn đống vỏ. Khi tính tiền, thấy phụ quán cứ đếm đi đếm lại mấy cái vỏ chuối để trên bàn rồi nhìn chằm chằm, thỉnh thoảng lại liếc qua bà chủ quán đang đứng gần đó cười mím chi thì đâm lo. Không biết tiền mang theo có đủ để trả không.

 Nhìn hai đứa gom từng đồng bạc để bỏ lên bàn, bỗng nhiên chủ quán bước lại. Thôi, tính hai dĩa cơm thôi. Phần chuối chắc là không biết có tính tiền nên lỡ ăn, chị không tính. Ngày mai ăn có thiếu thì cứ kêu cơm thêm mà ăn, để bụng đói không làm bài được đâu. Chỉ có nải chuối, cho thấy tính cách người Sài Gòn.

 Cuộc sống không thẳng tắp. Bon chen lên Sài Gòn không phải lúc nào cũng dễ kiếm tiền. Cũng trong những năm thập niên 1980, có lần, tôi thử sức mình với nghề đạp xích lô. Mượn chiếc xe của ông chú vào buổi sáng, lúc ấy chú cho xe ở nhà để ngủ sau một đêm chạy mối chở hàng. Lần đầu tiên chạy xích lô chỉ có chạy xe không từ bên này sang bên kia cầu chữ Y đã muốn hụt hơi. Thế nhưng vẫn rán vì trong túi không còn tiền. Chạy lòng vòng Sài Gòn cả tiếng đồng hồ, ngang qua rạp Quốc Thanh (đường Nguyễn Trãi), thấy một đôi nam nữ đi ra, tay ngoắt, miệng kêu: “Xích lô!” Luồn tay kéo thắng ngừng xe lại hỏi: 

-Anh chị đi đâu?

–Cho ra bến xe Miền Tây. Nhiêu?

Dân miền Đông mới lên Sài Gòn tập tành chạy xe kiếm sống, biết bến xe Miền Tây đâu mà cho giá. Thôi đành chơi trò may rủi: 

-Dạ, em mới chạy xe chưa rành đường, anh chị chỉ đường em chở. Tới đó cho nhiêu thì cho.

 Tưởng không biết đường thì người ta không đi, ai dè cả hai thản nhiên leo lên. Người con trai nói: 

-Mười lăm đồng mọi khi vẫn đi. Cứ chạy đi tui chỉ đường.

 Sức trẻ, thế mà vẫn không chịu nổi đường xa, đạp xe chở hai người từ rạp Quốc Thanh đến chân cầu Phú Lâm thì đuối, liệu sức không thể nào qua khỏi dốc cầu đành tính chước bỏ của chạy lấy người. Xuống giọng: 

-Em mới chạy xe, đi xa không nổi. Anh chị thông cảm đi xe khác giùm.

Ai ngờ người con trai ngoái đầu lại: 

-Tui biết ông đuối từ hồi nãy rồi. Thôi leo lên đằng trước ngồi với bà xã tui. Đưa xe đây tui đạp cho. Tui cũng từng đạp xích lô mà!

 Thế là, vừa được khách chở, lại vừa được lấy tiền. Không phải 15 đồng mà tới 20 đồng. Chắc cũng chỉ có người Sài Gòn mới khoáng đạt như vậy!

 Người Sài Gòn tốt bụng, chia sẻ không từ những chuyện cá biệt, người nơi khác vào Sài Gòn hỏi đường thật dễ chịu. Già trẻ, lớn bé, gặp ai hỏi người ta cũng chỉ dẫn tận tình. Có nhiều người còn bỏ cả công việc để dẫn kẻ lạc đường đi đến đúng địa chỉ cần tìm. Có những địa chỉ nhiều người hỏi quá, thế là người Sài Gòn nghĩ cách viết hoặc bỏ tiền ra đặt làm một cái bảng đặt bên lề đường, gắn vào gốc cây. Đôi khi, kèm theo một câu đùa, câu trách rất Sài Gòn ở cái bảng này khiến ai đọc cũng phì cười. Như cái bảng viết trên nắp thùng mốp trên đường Sư Vạn Hạnh mới đây: Bà con nào đi photo thì qua bưu điện bên đường. Hỏi hoài mệt quá”.

 Đi xe ôm, taxi, gặp đúng dân Sài Gòn thì mười người hết chín không lo bị chặt chém, vẽ vời. Đôi khi, kêu giá là vậy, nhưng khách không có tiền lẻ hoặc hết tiền người ta còn bớt, thậm chí cho thiếu mà không cần biết khách ở đâu, có trả hay không. Với người Sài Gòn, đó là chuyện nhỏ.

Ở Sài Gòn, cho tới bây giờ vẫn còn nhiều nhà để một bình nước suối trước nhà, kèm thêm một cái ly, một cái bảng nước uống miễn phí.

 Và bình nước này không bao giờ cạn, như lòng tốt của người Sài Gòn. Sẽ có nhiều người bảo cái ly nhiều người uống, bẩn chết đi được, nhưng không biết họ có cách nào hay hơn? (mua ly giấy, uống xong vứt…. mời các người ấy về Sài Gòn mua ly giấy cho khách thập phương dùng).

 Có người đã phát hiện, khi bạn chạy xe trên đường phố Sài Gòn, nếu có ai đó chạy theo nhắc bạn gạt cái chân chống, hay nhét lại cái ví sâu vào túi quần thì đích thị đó là người Sài Gòn!.

Bi giờ còn vậy nữa không? Cũng còn, nhưng mà nếu bạn không gặp người như vậy ở Sài Gòn là vì những người mà bạn gặp đó không phải là người SàiGòn!

 Tui hỏi anh cyclo:

-Đạp từ rạp Rex về cầu Chông (nhà tui) giá bao nhiêu?

Anh nói:

-20 ngàn.

Tui nói “30 ngàn thì tui mới đi”. Anh cyclo lập lại “20 ngàn”. Tui cũng nói như cũ. Anh cyclo tưởng tui là thằng khùng và nói:

-Thôi lên xe đi.

Đến nhà, tui đưa anh 30 ngàn và cám ơn. Năm 1978 khi ra tù tại ga xe lửa đường Lê Lai, một anh cyclo đến hỏi tui “Về đâu ?” nhưng khi nhìn thấy bộ đồ tù tui mặc nên anh nói câu mà tui nhớ đời:

-Lên đi thằng ông nội, tui chở về…Không có tính tiền đâu. Làm sao tui quên được câu nói đó. Người Sài Gòn là như vậy bạn ơi!” (trích truyện kể nhận được từ điện thư vi-tính, rất không lâu).

Rất nhiều bạn bè đọc bài phiếm do bầy tôi viết, lại cứ hỏi: “Sao bạn trích-dẫn truyện kể chẳng ăn-nhập gì đề tài đặt ra vậy?” Bần đạo bầy tôi nghe hỏi chỉ biết trả lời quanh-quất rằng: “Đó là chuyện phiếm đấy bạn ạ”.

 Hôm nay ngồi viết những going chữ này, lại đã thấy những lời đối đáp ở trên rất giống như chuyện thần-học hoặc học về thần-tính của các đấng, cũng tương-tự. Tương-tự là ở chỗ xem qua tưởng chừng như rất phiếm, nhưng xem lại mới thấy cuộc đời này mọi chuyện chung qui cũng chỉ là phiếm và luận hoặc luận cho lắm cũng chỉ là luận-phiếm/phiếm-luận mà thôi.

Bà con ta cứ nghe lại câu quả quyết ấy rồi suy cho kỹ, sẽ thấy không phải là chuyện mơ hồ lầm tưởng đâu. Để chấm dứt câu chuyện khá phiếm này, nay mời bạn và tôi ta nghe lại câu hát trên, để thấy rằng đời người vẫn có những chuyện như lời ca/câu hát những bảo rằng:

“Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Hãy nhìn vào đôi mắt em đây.
Hãy nhìn vào tận trái tim này.
Hãy nhìn vào đôi mắt thơ ngây.
Anh sẽ hiểu được trái tim em.”

(Ngọc Lễ – bđd)

Hỏi rằng: có nên sử-dụng câu hát trên làm lời kết cho bài phiếm đường dài ở đời người, được không cơ chứ? Hoặc, có nên về với vườn hồng tìm đến lời vàng của bậc thánh hiền từng có để lại những nguyên-tắc cho cuộc sống đúng nghĩa khi các ngài bảo:

“Thật vậy,

vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Ngài đã chết,

thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài,

nhờ được sống lại như Ngài đã sống lại.

Chúng ta biết rằng:

con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô,

như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt,

để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa.

Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi.

Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô,

chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài:

đó là niềm tin của chúng ta.”

(Rm 6: 5-8)

Tin hay không vào “Người Con Gái Nói” trong bài hát được trích dẫn, hoặc hiểu được nguyên-tắc của niềm tin vào Đức Chúa Phục Sinh do bậc thánh-hiền từng đặt, vẫn là chọn lựa của mỗi người và mọi người trong đời, rất hôm nay.  

Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc chỉ muốn hát

Những lời như trên

Khi bàn nhiều chuyện

“tréo cẳng ngỗng”

ở trong đời.