An ninh Lâm Đồng bắt giữ người trái phép.

Chuong Tieng shared Paul Loc‘s post.
 
 
Image may contain: 6 people, people smiling, people standing and outdoor
Paul Loc is with Lm. Lê Ngọc Thanh and 2 others.

 

An ninh Lâm Đồng bắt giữ người trái phép.

Cháu tôi là Cao Công Văn hiện đang là sinh viên năm 2 đại học Luật Đà Lạt. Sáng nay 17.01.2018, đang khi đi học thì em bị bắt giữ không rõ lí do. Khoảng trưa nay em chỉ gọi vắn tắt báo về gia đình là mình đang bị công an bắt giữ.
Cho đến chiều nay gia đình vẫn chưa thể liên lạc được và chưa biết rõ em đang bị câu lưu ở đâu.

Em Cao Công Văn là người luôn quan tâm đến hiện tình đất nước, em thường có những bài viết nói lên suy nghĩ của mình trên FB. 
Trước đây em cũng đã từng bị an ninh bắt giữ trái phép ở Sài Gòn khi tham gia biểu tình phải đối Formosa gây thảm họa môi trường ở Miền Trung. Sau đó em bị chủ nhà trọ dưới áp lực của an ninh đã không chọ em ở trọ nữa.

Thông cảm, tha thứ ắt được phước báo

Thông cảm, tha thứ ắt được phước báo

Vào thời nhà Minh, có vị đại thần tên là Hạ Nguyên Cát. Hôm nọ, ông ta thấy một viên quan do bất cẩn làm mực bắn vào tờ thánh chỉ của vua. Hạ Nguyên Cát biết anh ta quá sợ tội nên có thể tự sát, liền vội an ủi: “Anh đừng quá sợ hãi, tôi sẽ nghĩ cách giúp anh.”

Hôm sau, Hạ Nguyên Cát vào triều tâu rằng: “Muôn tâu Thánh thượng, hạ thần sơ ý đã làm bẩn thánh chỉ, tội thần thật đáng chết.”

Hoàng thượng cười và nói: “Vậy ta phạt khanh chép lại một lần.”

Về sau, Hoàng thượng biết được sự tình, khen ông ta là người biết thông cảm, tha thứ cho thuộc hạ. Không bao lâu, Hạ Nguyên Cát lại được thăng làm Hữu thừa tướng. Thật là có lòng tốt cứu người ắt được phước báo.

Làm một người chủ, một người có quyền, nếu thường xuyên quan tâm giúp đỡ những kẻ thuộc hạ, biết dùng các phương tiện để khoan dung và tha thứ cho những lỗi lầm của họ thì vị ấy tất sẽ được mọi người kính mến, dầu có gặp việc xấu cũng sẽ được hoá giải trở nên an lành. Đó chính là nhờ phước đức mà họ đã tạo vậy.

LÀM THIỆN THÌ CON CHÁU ĐƯỢC HƯỞNG

Vào thời nhà Minh, tại huyện Duyên Bình tỉnh Phúc Kiến có một thương nhân họ Chúc lên Nhiễm, là người rất thành đạt trên đường kinh doanh và rất rộng lượng. Hễ người nào gặp phải khó khăn, cực khổ là ông la tận tuỵ giúp đỡ. 

Có những năm mất mùa, người dân rơi vào tình trạng cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thế là ông ta liền bỏ tiền của ra để cứu giúp mọi người. 

Một năm nọ, trong khi con trai ông ta lên kinh dự thi thì ở nhà những người hàng xóm đều nằm mộng thấy cậu ta đỗ trạng nguyên. Và quả đúng như điềm mộng của mọi người, về sau con trai ông ta đã đỗ trạng nguyên. Do vậy ai ai cũng đều cho rằng: Người có lòng tốt chắc chắn sẽ có phước báo.

Ông Chúc Nhiễm cả đời dùng đức để làm thiện, con ông lại được thi đỗ trạng nguyên. Thế mới biết, người làm thiện được hưởng phước báo chẳng phải là chuyện hoang đường vậy.

NGƯỜI NHẪN NHỤC SẼ ĐƯỢC TRƯỜNG THỌ.

Huyện Chuẩn An tỉnh Giang Tô có một người họ Cường tên Phú. Ông ta là một người hiền từ nhân hậu, đối đãi với mọi người rất ư độ lượng khoan dung.

Năm nọ, vào đêm giao thừa, bỗng ngoài cửa có một người lớn tiếng chửi mắng ông ta. Gia nhân thấy vậy rất tức giận toan mở cửa ra đánh nhưng ông ta ngăn lại và dạy rằng: “Do mừng năm mới, anh ta quá chén nên không tự chủ được bản thân. Vì vậy anh ta chưởi mắng người khác là chuyện bình thường, các ngươi không nên tranh cãi làm gì.”

Mặc dầu nghe theo lời dạy của chủ nhưng bọn gia nhân vẫn thấy tức giận và bất bình. 

Ngay đêm hôm đó, ông Cường Phú nằm mộng thấy một vị thần đến trước mặt mình khen rằng: “Giao thừa là đêm quan trọng mà ngươi nhẫn được việc người khác khó có thể nhẫn. Vì thế trên trời rất tán dương, đặc biệt ban thêm phước thọ cho ngươi.” 

Ông Cường Phú nhờ thường thực hành hạnh nhẫn nhục, biết khiêm nhường trong mọi việc, tuy trước mắt thấy bị thiệt thòi, song trên thực tế thì được lợi vô cùng. Về sau, ông ta hưởng tuổi thọ rất cao và con cháu cũng được giàu có. Đây thật là phước báo của người có hạnh nhẫn nhục vậy.

Anh chị Thụ & Mai gởi

Sự thật về cuộc gặp Mao Trạch Đông – Stalin

Sự thật về cuộc gặp Mao Trạch Đông – Stalin

Nghiên Cứu Quốc Tế

 17/01/2017 by The Observer

Biên dịch:  Nguyễn  Hải Hoành

Mao Trạch Đông cả đời chỉ ra nước ngoài có hai lần. Lần thứ nhất là tháng 12/1949 đi Liên Xô gặp Stalin ký “Hiệp ước Hữu hảo đồng minh hỗ trợ Trung Quốc-Liên Xô”. Lần ấy Mao Trạch Đông ở Liên Xô 59 ngày. Lần thứ hai là hạ tuần tháng 10/1957 đi Liên Xô dự Hội nghị các đảng Cộng sản toàn thế giới và cùng Khrushchev duyệt cuộc diễu hành tại Quảng trường Đỏ nhân ngày lễ kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười.

  1. Trả lại sự thật cho lịch sử

Năm 2007, Đài Truyền hình trung ương Trung Quốc (TQ) và các đài địa phương từng mấy lần đưa tin về cuộc đời của nhà ngoại giao lão thành Vương Gia Tường [Đại sứ TQ đầu tiên tại Liên Xô], trong bản tin có nhấn mạnh: tháng 12/1949 Mao Trạch Đông sau khi đến Liên Xô bị Stalin đối xử lạnh nhạt nên ông muốn về nước sớm; sau khi Mao Trạch Đông tiếp các nhà báo và công bố bài “Trả lời nhà báo”, Stalin mới gặp Mao bàn các vấn đề quan trọng.

Sự thật lịch sử không phải như thế. Sau khi Mao Trạch Đông và đoàn tùy tùng đến Moskva (16/12/1949), ngay ngày hôm đó Stalin đã hội kiến Mao Trạch Đông tại điện Kremlin. Ông bắt tay Mao và chân thành nói: “Hoan nghênh đồng chí đến thăm Liên Xô. Tôi không ngờ đồng chí lại trẻ và khỏe mạnh thế này. Đồng chí thật giỏi, có cống hiến rất lớn cho cách mạng TQ và nhân dân TQ, đích thực là người con tốt của nhân dân TQ! Chúc các đồng chí giành được thắng lợi vĩ đại, chúc nhà nước của các đồng chí tiến lên không ngừng!”

Sau đó Stalin nói: “Đồng chí đến đây không dễ dàng, chúng ta có thể thoải mái trò chuyện với nhau. Đồng chí có ý kiến và nguyện vọng gì không ?”

Mao Trạch Đông đáp: “Lần này chúng tôi đến trước hết để chúc thọ đồng chí, sau đó là để thăm đất nước vĩ đại của các đồng chí…”

Ngày 21/12/1949, Mao Trạch Đông dự lễ chúc thọ Stalin 70 tuổi.

Ngày 24, Stalin và Mao Trạch Đông hội đàm lần thứ nhất. Cuộc hội đàm kéo dài 5 tiếng đồng hồ.

Ngày 25, Stalin gọi điện thoại đến biệt thự Mao Trạch Đông ở, trước tiên hỏi thăm điều kiện ăn ở của Mao Trạch Đông, sau đó ngỏ ý muốn đến thăm Mao, nhưng cán bộ bảo vệ và y tế không cho ông đi đâu cả, vì thế ông rất lấy làm tiếc! Mao Trạch Đông cảm ơn và khuyên Stalin không cần đến thăm. Cuộc trao đổi điện thoại này do người phiên dịch của Mao Trạch Đông là Tôn Duy Thế phiên dịch.

Ngày 26, Stalin và Mao Trạch Đông hội đàm lần thứ hai, cũng kéo dài 5 giờ.

Trong hai lần hội đàm, Mao Trạch Đông dùng nhiều sự thực lịch sử chứng minh Đảng Cộng sản TQ có sức mạnh giải phóng toàn TQ [lúc bấy giờ một số vùng ở miền Nam TQ và Tây Tạng vẫn còn chưa được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của Quốc Dân Đảng], có năng lực quản lý nước TQ mới. Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ mới, TQ sẽ tiến hành cách mạng XHCN. Trong quá trình đó nếu gặp những chỗ chưa hiểu, sẽ mời ông anh cả Liên Xô giúp đỡ chúng tôi. Nhưng quyền tự chủ là thứ không thể từ bỏ. Chúng tôi có chủ quyền không thể nghi ngờ đối với bất cứ mảnh đất nào của TQ.

Nội dung hội đàm cũng đề cập vấn đề quá trình quanh co lắt léo của ĐCSTQ trong việc lãnh đạo cách mạng ở TQ và mối quan hệ giữa cách mạng TQ với Quốc tế cộng sản [vì Quốc tế Cộng sản từng có thời ủng hộ những người chống Mao trong ĐCSTQ]. Stalin nói: “Rốt cuộc các đồng chí đã giành được thắng lợi, mà người chiến thắng thì không bị xét xử. Mọi cái thuộc về người chiến thắng thì đều đúng cả.”

Trong hội đàm, Stalin từng tỏ ý lo ngại về năng lực lãnh đạo của ĐCSTQ và từng đề nghị nên chăng tạm thời để TQ và Liên Xô cùng quản lý vùng Đông Bắc TQ [nơi có nhiều cơ sở công nghiệp nặng do Nhật để lại].

Qua hội đàm, Stalin rất khâm phục tài cán của Mao Trạch Đông và hiểu thêm về ĐCSTQ. Tình hữu nghị và lòng tin giữa hai bên được tăng cường một bước. Trong hội đàm, Stalin trước tiên ngỏ ý “Nên dùng một hiệp ước để củng cố mối quan hệ giữa hai nước.”

Hai bên đồng ý rằng việc soạn thảo và ký kết hiệp ước cùng các hiệp định liên quan tới hợp tác kinh tế kỹ thuật, thương mại, thanh toán…  nên giao cho một phái đoàn chuyên môn của mỗi nước tiến hành giải quyết cụ thể.

Trong thời gian chờ đợi phái đoàn Chính phủ TQ do Thủ tướng Chu Ân Lai đến Liên Xô, Mao Trạch Đông đã đi thăm Leningrad và một số nhà máy.

Sau ngày Mao Trạch Đông đến Liên Xô, các Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSLX Molotov, Mikoyan, Bộ trưởng Ngoại giao Vesinski đã nhiều lần tới thăm Mao Trạch Đông.

Trong nửa tháng đầu, Chủ tịch Mao chủ yếu hội đàm nội bộ với Stalin, thời gian còn lại bận giải quyết các công việc trong nước, không công bố tin về các hoạt động của mình. Điều đó đã gây ra lắm tin đồn phỏng đoán nhảm nhí trong giới truyền thông phương Tây. Họ đưa tin “Mao Trạch Đông bị Stalin giam lỏng rồi!”, “Mất tích rồi!” v.v… Trước tình hình đó, Chủ tịch Mao tiếp thu đề nghị của Đại sứ TQ Vương Gia Tường, ngày 2/1/1950 tiến hành trả lời các câu hỏi của nhà báo.

Trong trả lời nhà báo, Mao Trạch Đông nói: “Thời gian tôi ở lại Liên Xô có phần phụ thuộc vào nhu cầu thời gian dùng để giải quyết các vấn đề có liên quan tới lợi ích của nước TQ mới. Trong đó có vấn đề ký Hiệp ước Hữu hảo đồng minh hỗ trợ Trung Quốc-Liên Xô và hiệp định thương mại, hiệp định viện trợ kinh tế kỹ thuật và hiệp định vay vốn v.v…”.

Sau khi bài “Trả lời nhà báo” được công bố, các lời đồn đại của phương Tây đã tự nhiên biến mất. Tức giận trước sự việc báo chí tư sản phương Tây đơm đặt tin tức về chuyến thăm Liên Xô của mình, Mao Trạch Đông nói: “Logic của bọn đế quốc và tất cả các bọn phản động là gây rối, thất bại, rồi lại gây rối, lại thất bại, cuối cùng đi đến chỗ diệt vong”.

Những sự thật kể trên cho thấy, trước khi Mao Trạch Đông trả lời giới nhà báo, người đứng đầu hai nước đã quyết định sẽ tiến hành những công việc quan trọng như ký Hiệp ước Hữu hảo đồng minh hỗ trợ Trung-Xô, chứ không phải như một số người TQ cho tới nay vẫn nói xằng là “Sau khi công bố bài Trả lời giới nhà báo, Stalin mới gặp Mao Trạch Đông bàn vấn đề ký Hiệp ước, còn trước đó Stalin phớt lờ Mao Trạch Đông”.

Cũng do cuộc đàm phán giữa hai bên ngày càng đi sâu vào các vấn đề có tính thực chất nên Mao Trạch Đông tràn đầy niềm tin vào sự hợp tác Trung-Xô. Ông chưa bao giờ tỏ ra nản chí hoặc có ý muốn về nước sớm.

  1. Ký hiệp ước Hữu hảo Đồng minh hỗ trợ Trung – Xô

Ngày 20/1/1950, phái đoàn Chính phủ TQ gồm hơn 20 người do Thủ tướng Chu Ân Lai dẫn đầu đến Moskva.

Ngày 22, Stalin tiếp Mao Trạch Đông cùng phái đoàn TQ do Chu Ân Lai đứng đầu. Stalin tuyên bố: “Hôm nay nhà lãnh đạo hai nước chúng ta chính thức hội đàm”. Mao Trạch Đông nói: “Đồng chí Stalin từng nói phải chăng vấn đề quan hệ TQ-Liên Xô nên được cố định bằng hình thức hiệp ước. Chúng tôi cũng cho rằng dùng hình thức hiệp ước để cố định mối quan hệ giữa hai nước TQ-Liên Xô là một việc tốt. Nội dung hiệp ước nên bao gồm sự hợp tác chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, ngoại giao v.v…”

Stalin nói: “Tôi đồng ý bàn vấn đề hiệp ước, ngoài ra còn các vấn đề về con đường sắt Trường Xuân, cảng Lữ Đại [Lữ Thuận và Đại Liên], vấn đề thương mại, vay vốn, vấn đề hợp tác hàng không dân dụng cũng phải bàn bạc”.

Stalin và Mao Trạch Đông nhất trí đồng ý để hai bên lập các tổ chuyên đề trực tiếp bàn với nhau từng vấn đề.

Về “Hiệp ước đồng minh”, phía Liên Xô đồng ý đàm phán trên cơ sở bản dự thảo hiệp ước do phía TQ đưa ra.

Trong thời gian đàm phán, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai có hôm phải thức đến 3 giờ sáng để nghiên cứu các điều khoản trong Hiệp ước và các hiệp định kèm theo.

Nước CHND Trung Hoa sau khi thành lập đã tuyên bố không thừa nhận tất cả các hiệp định quốc tế do nước TQ cũ ký với các nước ngoài. Nhưng vấn đề độc lập của Ngoại Mông Cổ là một ngoại lệ [mời tham khảo: Stalin và đàm phán Xô-Trung về việc Mông Cổ độc lập]. Nhân dân TQ tôn trọng kết quả cuộc bỏ phiếu tự quyết năm 1945 của nhân dân Mông Cổ nhất trí đồng ý độc lập. Thủ tục cuộc bỏ phiếu tự quyết đó do Chính phủ Quốc dân [do Tưởng Giới Thạch đứng đầu] thực hiện, nước CHND Trung Hoa thừa nhận cuộc bỏ phiếu này. Liên Xô tỏ ý ủng hộ lập trường đó của TQ.

Qua hơn nửa tháng đàm phán, hai phía TQ và Liên Xô đạt được sự đồng thuận về các điều khoản của “Hiệp ước đồng minh” và các hiệp định đính kèm. Đã đến lúc ký các thỏa thuận đó.

Tối ngày 14/2/1950, Stalin và Mao Trạch Đông dự lễ ký “Hiệp ước Hữu hảo đồng minh hỗ trợ Trung Quốc-Liên Xô” [tiếng Nga dịch là Hiệp ước hữu nghị, liên minh và tương trợ Liên Xô-TQ]. Đồng thời còn ký các hiệp định về vấn đề đường sắt Trường Xuân và cảng Lữ Đại, vấn đề vay vốn…

Ngày 15, Stalin và các nhà lãnh đạo Liên Xô dự buổi chiêu đãi long trọng do Sứ quán TQ mời.

Ngày 16, Stalin mở đại tiệc tại điện Kremlin tiễn Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai về nước.

Ngày 4/3/1950, Mao Trạch Đông và những người cùng đi về tới Bắc Kinh, kết thúc thắng lợi chuyến thăm Liên Xô lần thứ nhất.

Chuyến thăm Liên Xô kể trên đã thu được thành công lớn.

Điều thứ nhất của “Hiệp ước đồng minh” quy định: “Khi một trong hai bên ký Hiệp ước này bị xâm lược, bên kia phải toàn lực viện trợ”. Điều đó đã giúp TQ đang ở trong vòng vây của đế quốc Mỹ giành được sự bảo đảm an ninh.

Các hiệp định kinh tế, thương mại và vay vốn tạo điều kiện giúp TQ phục hồi nền kinh tế quốc dân của mình. TQ nhận được khoản vay đầu tiên trị giá 300 triệu dollar Mỹ với lãi suất chỉ có 1%, thời gian trả nợ là 10 năm. Trong ba năm, Liên Xô sẽ giúp TQ xây dựng mới và cải tạo 50 nhà máy.

Ngoài ra còn có hiệp định viện trợ quân sự. Trong đó có quy định trong năm 1950 Liên Xô giúp TQ xây dựng 6 trường hàng không, trong một năm đào tạo được 1.000 phi công lái máy bay phản lực tuyển từ học sinh trung học, nhằm giúp TQ xây dựng đội ngũ không quân đầu tiên.

Sau đó, hiệp định “ngày 4 tháng 6” năm 1950 quy định phía Liên Xô sẽ bán cho TQ mấy chục tàu chiến kiểu mới nhằm giúp TQ xây dựng lực lượng hải quân hiện đại, tạo điều kiện giải phóng Đài Loan.

Mao Trạch Đông rất coi trọng “Hiệp ước hữu hảo đồng minh Trung-Xô” , coi đó là một văn bản có tính lịch sử quan trọng. Vì thế ông đã chỉ định cán bộ chuyên trách dùng bút lông chép lại toàn văn Hiệp ước này và đưa vào hồ sơ lưu trữ quốc gia.

  1. Vài chuyện nói thêm

Lâu nay tại TQ có dư luận cho rằng Stalin và Quốc tế Cộng sản luôn can thiệp vào cuộc cách mạng của TQ, và dường như họ chưa đưa ra một ý kiến nào có lợi cho TQ.

Tình hình thực tế là ĐCSTQ được thành lập dưới sự giúp đỡ của Lenin và Quốc tế Cộng sản. ĐCSTQ là một chi bộ của Quốc tế Cộng sản, một bộ phận của phong trào cộng sản quốc tế. Trước khi Trung ương ĐCSTQ tiến vào khu Xô viết Giang Tây, kinh phí hoạt động của Đảng đều do Liên Xô cung cấp. Năm 1937, Quốc tế Cộng sản còn cung cấp cho ĐCSTQ một khoản kinh phí lớn.

Trong mấy chục năm liền, Quốc tế Cộng sản và Liên Xô đã đào tạo cho TQ mấy nghìn cán bộ chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật.

Có dư luận nói đầu năm 1949 khi quân đội của ĐCSTQ đánh chiếm bờ Bắc sông Trường Giang, Stalin còn không cho tấn công sang bờ phía Nam, để TQ ở vào tình trạng Nam Bắc phân tranh [tức chính quyền Quốc Dân Đảng vẫn tồn tại ở phần đất phía Nam Trường Giang].

Thực tế là lúc ấy Stalin xét thấy Quân Giải phóng TQ còn chưa có máy bay tàu chiến, nếu vượt qua con sông lớn hiểm yếu này sẽ có thể bị thiệt hại nặng, cho nên ông kiến nghị ĐCSTQ tạm thời đàm phán hòa bình với Quốc Dân Đảng, tranh thủ thời gian củng cố hậu phương vừa mới giải phóng, đồng thời chuẩn bị tốt công tác vượt sông lớn.

Sau khi Quân Giải Phóng chiếm Nam Kinh, Stalin lập tức kiến nghị ĐCSTQ nhanh chóng thành lập quốc gia mới nhằm ngăn ngừa khả năng Liên Hợp Quốc thi hành chính sách ủy trị đối với vùng chưa giải phóng. ĐCSTQ đã tiếp thu kiến nghị đó, ngày 1/10/1949 thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngày 2/10, Liên Xô là nước đầu tiên công nhận nhà nước mới này.

Năm 1952, TQ chuẩn bị tiến sang giai đoạn cách mạng XHCN, khi nghiên cứu chính sách đối với giai cấp tư sản dân tộc trong nước, ĐCSTQ có xin ý kiến Stalin. ĐCS Liên Xô và Stalin cho rằng: khác với giai cấp tư sản Nga, giai cấp tư sản TQ có cơ sở kinh tế yếu kém, về chính trị cũng không phản động như giai cấp tư sản Nga; vì thế đã kiến nghị ĐCSTQ trong giai đoạn cách mạng XHCN nên thi hành chính sách cải tạo hòa bình đối với giai cấp tư sản TQ. ĐCSTQ đã tiếp nhận kiến nghị đó.

Lịch sử chứng minh các kiến nghị kể trên của Stalin nêu ra với ĐCSTQ đều đúng đắn.

Nhân đây xin nói thêm, trong thời kỳ Cách mạng Tháng Mười Nga, ĐCS Liên Xô đã thi hành chính sách cực đoan đối với các nhà tư bản và địa chủ phú nông Nga: tước đoạt về kinh tế, tiêu diệt về thể xác, và đày con em họ sang Siberia.

Nguồn: 毛泽东同斯大林会见的真情实况   姜明礼   2008年3月3日

Tài liệu tham khảo:

– Nhật ký Uông Đông Hưng [cán bộ bảo vệ Mao Trạch Đông];

– Lịch sử ĐCSTQ;

– Lịch sử ĐCS Bôn-sê-vích Nga (bản 1959);

– Hồi ký của Fedorenko cán bộ phiên dịch người Nga do Stalin cử giúp TQ trong thời gian Mao Trạch Đông thăm Liên Xô [sau là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao LX].

Hai phiên tòa và giọt nước mắt quan chức

Hai phiên tòa và giọt nước mắt quan chức

 BBC

Nhà báo Mạc Việt HồngGửi bài từ Warsaw, Ba Lan

  • 16 tháng 1 2018

Trịnh Xuân Thanh

Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES

Ông Trịnh Xuân Thanh trong một lần ra trước Toà án Hà Nội

Sự kiện nổi bật nhất đầu năm Việt Nam có lẽ là phiên xử ông Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh và 20 đồng phạm thuộc Tập đoàn Dầu Khí và…phần họ khóc.

Vụ án gây chú ý không chỉ bởi con số hàng ngàn tỉ thất thoát, mà còn vì đây là lần đầu tiên một Ủy viên Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam bị đem ra xét xử.

Về phía Trịnh Xuân Thanh, những lùm xùm xung quanh nghi vấn ‘bắt cóc’ khiến không chỉ dư luận trong nước mà quốc tế, nhất là nước Đức cũng để tâm theo dõi.

Hai ‘nhân vật chính’ hiện được Viện Kiểm sát đề nghị mức án 14-15 năm tù và chung thân.

Ông Thăng mong muốn sẽ nhận được bản án nhân văn để có thể về chết bên người thân, được là ‘ma tự do’ không phải làm ma trong tù

Khác với các vụ án xử những người bất đồng chính kiến, phiên tòa được báo chí trong nước tường thuật khá chi tiết, đầy đủ.

Bản quyền hình ảnhHOANG DINH NAMImage captionMột thời danh giá: ông Đinh La Thăng (phải) khi làm Bộ trưởng Giao thông và ông Tom Enders, CEO của Airbus Group đón chiếc Airbus A350XWB đáp thử xuống Nội Bài 22/11/2014.

Bên cạnh dàn luật sư hùng hậu, các bị cáo cũng có thời gian tương đối dài rộng để tự bào chữa.

Ông Thăng nhiều lần khóc

Theo tờ Tuổi Trẻ, trong phần tự bào chữa dài hơn một tiếng rưỡi, ông Đinh La Thăng đã nhiều lần khóc.

Ông kể phải dậy từ 5 giờ sáng để ra tòa trong tiết trời lạnh; rằng ông có hai con gái, một cháu phát triển không bình thường cần có sự chăm sóc của bố mẹ; về người cha già yếu gần 90 tuổi và bản thân ông cũng bệnh tật, phải uống thuốc từ nhiều năm nay.

Ông Thăng cũng trích lời tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, rồi ví ông Trọng với cố Chủ tịch Hồ Chí Minh và qua đó mong muốn sẽ nhận được bản án nhân văn để có thể về chết bên người thân, được là ‘ma tự do’ không phải làm ma trong tù.

Bị cáo Thăng cũng xót xa vì chắc sẽ không có cơ hội về được về đưa tiễn cha mình, khi ông ấy qua đời.

Ngay sau đó, đến lượt Trịnh Xuân Thanh khóc than về thân phận sẽ làm ‘con ma tù’ của mình và xin lỗi các lãnh đạo tập đoàn Dầu Khí.

Hai người đàn ông nước mắt lã chã ở tòa khiến nhiều người so sánh với hình ảnh trái ngược của hai người phụ nữ kiên cường mặc dù bị tuyên án hết sức nặng nề.

Phiên tòa của hai chị diễn ra cách đó chỉ có vài tháng.

Hai người mẹ nuôi con nhỏ

Bản quyền hình ảnhFB NGUYỄN TUYẾT LAN/NGUYỄN NGỌC NHƯ QUỲNH

Buổi gặp ngắn ngủi trước tòa đã thành buổi gặp cuối cùng

Người thứ nhất là blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, người mẹ đơn thân đang nuôi hai con nhỏ. Chị đã trải qua cả hai phiên xử sơ thẩm và phúc thẩm với bản án 10 năm tù giam

Người thứ hai là nhà hoạt động Trần Thị Nga – người mẹ của hai bé trai 7 tuổi và 4 tuổi – với bản án 9 năm tù giam.

Khác với hai ông Thăng và Thanh, hai người phụ nữ này hoàn toàn đơn độc trước tòa, người thân không được phép vào dự, luật sư bào chữa hầu như bị vô hiệu hóa.

Họ hầu toà trong vòng vây dầy đặc của những người mặc sắc phục, sau nhiều ngày bị biệt giam và không nhận được bất kỳ một tin tức gì từ gia đình.

Mặc dù hoàn cảnh riêng tư éo le và bị khủng bố tinh thần trong quá trình giam giữ cũng như xét xử, nhưng người ta không nhìn thấy dù chỉ một giọt nước, một giây yếu lòng hay một lời than vãn, xin xỏ nào từ hai người phụ nữ.

Báo chí và bộ máy truyền thông khổng lồ của nhà nước Việt Nam đã không có được bất kỳ một cơ hội nào, dù nhỏ nhất để hạ uy tín của các bị cáo, dù đó chính là điều mà những người làm tuyên truyền mong muốn.

Chính nghĩa đổi ngôi?

Nói cho công bằng, ông Thăng và Thanh không phải là những đấng nam nhi hy hữu đã khóc ở tòa án. Trước đó không lâu, cựu giám đốc công ty dược phẩm Pharma trong vụ ‘thuốc chữa ung thư giả’ cũng đã nức nở ngay sau khi nghe tuyên án.

Vụ OceanBank diễn ra hồi tháng 9/2017, những đại gia ngành Ngân Hàng một thời ‘ngồi trên tiền’ cũng mếu máo vì người có mẹ ung thư, người có con đang nằm viện…

Bản quyền hình ảnh FB LUONG DAN LY

Nhà hoạt động Thúy Nga có hai con trai 5 và 7 tuổi

Lịch sử Việt Nam từng ghi nhận nhiều người tù cộng sản bất khuất thời tiền cách mạng, hay ở xà lim Côn Đảo trong giai đoạn trước năm 1975. Nhiều người chết trong tù, có những tử tù ra pháp trường vẫn hiên ngang, dám làm dám chịu, sống chết vì lý tưởng.

Những hình ảnh như vậy ở người cộng sản không còn nữa, kể từ khi họ nắm quyền. Không ít ông ‘quan cách mạng’ ngày nay trở thành những nhà tư bản khệnh khạng, tận dụng mọi cơ hội để vơ vét, sa đà trong ăn chơi, hưởng lạc, phung phí tài nguyên quốc gia.

Nhiều người ‘thét ra lửa’ khi đương chức, nhưng lại ‘nhũn như chi chi’ trước vành móng ngựa.

Bản quyền hình ảnhHUMAN RIGHTS WATCHImage caption15 vụ bắt giữ tù nhân chính trị mà Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) cho là cần phải được chú ý ở Việt Nam

Sự run rẩy của ‘các đồng chí bị lộ’ trước tòa đã xóa nhòa đi hình ảnh của cha ông họ trước kia, những người mà sự dũng cảm của họ đã góp phần làm nên thắng lợi.

Nhưng chính nghĩa trong một xã hội luôn tồn tại.

Như một định luật, nó dường như chỉ chuyển từ lực lượng này sang lực lượng khác, từ tay nhóm người này qua tay những người khác.

Nó nằm đâu đó, trong lời tuyên bố dõng dạc của Nguyễn Ngọc Như Quỳnh rằng, nếu làm lại từ đầu, chị vẫn chọn con đường mà mình đã đi.

Nó ánh lên trên gương mặt sáng ngời của cô gái trẻ Phương Uyên khi cô khảng khái khẳng định, chỉ chống đảng cộng sản, không chống lại đất nước, dân tộc.

Nó nằm trong bản án dài 16 năm tù của doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, khi ông chấp nhận không chịu lùi bất kỳ một phân nào để đổi lấy tự do.

Và còn rất nhiều những tù nhân lương tâm khác nữa.

Họ cũng có mẹ già, con dại; nhiều người đã không được nhìn mặt người thân của mình lần cuối vào phút lâm chung.

Hình ảnh kiên trung, bất khuất, sự hy sinh vì lý tưởng của họ chính là điều mà dân tộc Việt Nam đang thiếu hụt.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, chủ biên tạp chí Đàn Chim Việt Online tại Warsaw, Ba Lan.

Cứ Ðể Yên Như Thế

    Cứ Ðể Yên Như Thế

    Trong một tác phẩm có tựa đề “Quyển Phúc Âm thứ 5”, một tác giả người Italia là ông Mario Pomilio có tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Sau thời kỳ bách hại tại Roma, các tín hữu bắt đầu xây cất nhà thờ. Ðâu đâu người ta cũng thấy mọc lên nhà thờ. Tên của Ðức Mẹ và các Thánh được đặt cho các nhà thờ. Nhưng người ta vẫn chưa thấy có nhà thờ nào mang tên của Ngôi Lời. Thấy thế thánh Gioan mới đến báo cáo với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bèn ra lệnh cho thánh Phêrô khởi công xây cất một nhà thờ dâng kính cho Ngôi Lời.

    Con người đã có một thời được mệnh danh là người xây dựng vĩ đại của Giáo Hội mới đi rảo khắp nơi để thu tập vật tư. Thánh Mathêô đã cung cấp đá. Thánh Marcô mang vôi đến. Thánh Luca tặng những cây trụ lớn. Còn Thánh Gioan thì cúng đá cẩm thạch để làm bàn thờ và vàng để làm nhà tạm..

    Với tất cả những vật liệu cần thiết, Thánh Phêrô hớn hở bắt tay vào việc xây cất. Nhưng thời gian trôi qua, công sức đã tiêu hao quá nhiều mà người thợ xây Phêrô mới chỉ hoàn tất được việc đặt nền móng cho ngôi nhà thờ. Thấm mệt, vị thủ lãnh các tông đồ mới cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, xin ban thêm cho con đủ sức để hoàn thành ngôi Nhà Thờ”.

    Chúa Giêsu mới trả lời: “Cứ để yên như thế. Ngươi hãy nhớ rằng cứ mỗi người đi ngang qua công trình này đều có thể mang đến một viên gạch, một ít vôi để xây tường và thế hệ này qua thế hệ khác, những cột trụ Ðền Thờ sẽ được dựng lên”.

    Có hai sự kiện xem ra tương phản nhau: tại Tây Phương, nhiều nhà thờ bị đóng cửa hoặc đem ra bán đấu giá, vì giáo dân không đủ cấp số hoặc không còn người lui tới nhà thờ. Trong khi đó thì tại Việt Nam, nhu cầu sửa chữa hoặc xây nhà thờ mới mỗi ngày một gia tăng.

    Có thể có hai quan niệm sống đạo đằng sau hai sự kiện ấy. Nhiều người Tây Phương cho rằng sống đạo là sống Công Bình và Bác Ái, chứ không nhất thiết phải đến nhà thờ. Trong khi đó thì có người lại trách cứ rằng nhiều người Việt Nam chỉ giữ đạo hình thức, họ thích biểu dương tôn giáo, họ thích rước sách, họ đọc kinh làu làu, họ siêng năng đến nhà thờ, nhưng họ xem thường những đòi hỏi của Công Bình và Bác Ái

    Kỳ thực, giữ đạo trong nhà thờ mà không sống đạo bên ngoài nhà thờ là một thiếu sót, nếu không muốn nói là một thái độ giả hình mà Chúa Giêsu đã lên án gắt gao. Nhưng sống Công Bình và Bác Ái mà không múc lấy sức sống từ việc gặp gỡ Chúa nơi nhà thờ cũng là một thiếu sót. Người Kitô đích thực múc lấy sức sống từ Ðức Kitô và diễn đạt sức sống ấy qua cuộc sống thường ngày. Có nhà thờ để cầu nguyện nhưng cũng có chợ đời để gặp gỡ Chúa. Người Kitô hướng về Trời cao, nhưng vẫn còn bám lấy cõi Ðất. Người Kitô đến nhà thờ, mà để quay trở lại cuộc sống. Và cuộc sống cũng sẽ trở nên cằn cỗi, nếu nó không được nuôi dưỡng bằng lương thực Thần Linh.

    “Hãy trở nên những viên đá sống động”. Ðó là ơn gọi của người Kitô chúng ta. Hãy trở thành những viên đá sống động không chỉ để xây dựng ngôi nhà thờ bằng gỗ đá, nhưng là để xây ngôi Ðền Thờ của cuộc sống. Cuộc sống có trở thành Ðền Thờ để gặp gỡ Chúa qua những gặp gỡ với tha nhân, qua những xây dựng Hòa Bình và yêu Thương, thì Ðền Thờ gỗ đá mới sống động.

    Trích sách Lẽ Sống

Anh chị Thụ & Mai gởi

Diện tích nước Việt cổ lớn gấp 10 lần ngày nay

Dien Hong Tran and Hai Tran shared Anh Chi‘s post.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.

Anh Chi added 5 new photos — with Dung Nguyen and 21 others.

Diện tích nước Việt cổ lớn gấp 10 lần ngày nay

Vùng đất phía Bắc của người Bách Việt từng lên đến tận phía Nam sông Dương Tử (hay Trường Giang), tới khu vực Hồ Động Đình (tức tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc của Trung Quốc ngày nay). Việc này không chỉ được ghi nhận lại trong các truyền thuyết mà còn nằm trong những chứng tích của lịch sử.

Truyền thuyết

Theo Lĩnh Nam Chích Quái thì ông nội của Lạc Long Quân là Đế Minh (cháu 3 đời của Thần Nông) sinh ra con cả là Đế Nghi. Khi Đế Minh đi tuần thú phương Nam thì gặp và cưới con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Ngay từ tấm bé Lộc Tục đã thể hiện rất thông minh và đoan chính.

Đế Minh rất ngạc nhiên trước tư chất thông minh và tài trí của Lộc Tục nên muốn chọn làm người nối ngôi, thế nhưng Lộc Tục lại muốn nhường ngôi cho anh mình là Đế Nghi.

Cuối cùng Đế Minh quyết định truyền ngôi cho con trưởng Đế Nghi làm vua phương Bắc, và cho Lộc Tục làm vua phương Nam, lấy sông Dương Tử làm giới tuyến. Ông tế cáo trời đất trên Thiên đài rằng: “Trước đất trời nguyện rằng: Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương”.

Từ đấy phía Bắc sông Dương Tử do Đế Nghi cai quản, phía Nam sông Dương Tử do Lộc Tục cai quản. Lộc Tục khi lên ngôi Vua lấy hiệu là Kinh Dương Vương, năm 2879 TCN đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, biên giới phía Bắc tới Động Đình Hồ, phía Nam giáp với nước Hồ Tôn, phía Tây giáp với Ba Thục, phía Đông giáp với biển Nam Hải.

Như vậy theo sự phân chia vào thời đấy thì biên giới phía Bắc của người Việt lên đến Động Đình Hồ (phía Nam sông Dương Tử), bao gồm cà các tỉnh của Trung Quốc ngày nay như Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Tây, Quảng Đông, v.v.

Nếu tính diện tích thì Bắc giáp Động Đình Hồ vĩ tuyến 29 Bắc, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành sau này) vĩ tuyến 11 Nam, phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) kinh tuyến 105 Đông, phía Đông giáp bể Nam Hải, kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng diện tích của Xích Quỷ khoảng 2.900.000 km2.

Khi vua Kinh Dương Vương mất, con trai là Lạc Long Quân lên nối ngôi, lập ra nhà nước Văn Lang. Khi ấy, biên giới của Bách Việt vẫn được vẹn toàn.

Trong khi đó, dù hậu nhân sau này đã mở mang bờ cõi về phía Nam, nhưng lại mất đi phần đất phía Bắc, nên diện tích Việt Nam bây giờ là 331.698 km2 (tính cả diện tích trên biển), chỉ bằng khoảng 1/10 so với trước kia.

Hai Bà Trưng khôi phục giang sơn

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào năm 40 SCN đã giành được thắng lợi và lấy lại nguyên vẹn lãnh thổ nước Việt cổ.

Hai Bà Trưng cùng các nữ tướng quả cảm của mình đánh đuổi quân Hán đến tận Động Đình Hồ, một nữ tướng là Trần Thiếu Lan đã tử trận tại sông Thẩm Giang. Đây là con sông nối với Hồ Động Đình. Sách thời nhà Nguyễn có ghi chép rằng: “Các sứ thần triều Lý, Trần, Lê đi sứ sang Trung Quốc, khi qua nơi đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu Lan.”

Khi giành được giang sơn, Hai Bà Trưng giao cho nữ tướng Phật Nguyệt chức Tổng trấn khu hồ Động Đình – Trường Sa. Năm 1979, giáo sư Trần Đại Sỹ tìm thấy tại thư viện bảo tồn di tích cổ ở tỉnh Hồ Nam (tỉnh thủ phủ phía Nam Động Đình Hồ, Trung Quốc) có ghi chép trận đánh Động Đình Hồ như sau: “Quang Vũ nhà Hán sai Phục ba tướng quân Tân tức hầu Mã Viện. Long nhượng tướng quân Thận hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng đình. Mã Viện, Lưu Long bị bại. Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga mi, một tay nhổ núi Thái sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường giang, hồ Ðộng đình, oán khí bốc lên tới trời”

Giáo sư Trần Đại Sỹ từng tới Trung Quốc để tìm hiểu về lịch sử cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và quân Hán, thấy rất nhiều tỉnh đều thờ Vua Bà, nhiều nhất là tỉnh Hồ Nam (khu vực Động Đình Hồ), nhưng không ai còn nhớ Vua Bà là ai.

Khi ông đến đến Côn Minh, giáo sư sử học Đoàn Văn ở đây cho hay: “Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ lăng. Nay Bồ lăng nằm trên lãnh thổ Tứ Xuyên, chỗ ngã ba sông Trường giang và Ô giang.”

Giáo sư Trần Đại Sỹ đến bến Bồ Lăng thuộc huyện Bồ Lăng, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc để tìm hiểu. Tại đây giáo sư được Sở du lịch hướng dẫn đến miếu thờ 3 vị thần, tướng của Vua Bà. Nhưng bản thân họ cũng không biết Vua Bà và 3 vị tướng này cụ thể là ai, chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán, cả vùng đó đều có đạo thờ Vua Bà.

Miếu thờ có rất nhiều câu đối, nhưng cuộc cách mạng văn hóa của Trung Quốc đã hủy gần hết các câu đối này. May mắn là ba câu đối vẫn còn tồn tại tới ngày nay.

Phía trước cửa miếu có câu đối rằng:

Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi,
Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết… can vân.
Nghĩa là:

Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu.
Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận…
khí tiết ngút từng mây.
Phía trong miếu có câu đối:

Giang thượng tam anh phù nữ chúa,
Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.
Nghĩa là:

Trên sông Trường giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa,
Tại bến Bồ lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.
Những tư liệu này cho thấy biên giới người Việt thời Hai Bà Trưng phía bắc tới Động Đình Hồ (phía Nam sông Dương Tử), phía Tây tới tận Ba Thục (tức tỉnh Tứ Xuyên ngày nay).

Trải qua ngàn năm Bắc thuộc, người Việt dồn dần xuống phía Nam để tránh sự cai trị hà khắc, khiến khu vực phía Bắc người Hoa Hạ ngày càng đông hơn.

Năm 938, Ngô Quyền lãnh đạo người Bách Việt đánh bại quân Nam Hán, làm chủ lại các vùng đất của nước Việt. Tuy nhiên một dải đất lớn phía Bắc là Nam Hải, Tượng Quận, Quế Lâm đã bị bỏ qua, và diện tích nước Việt nhỏ hơn trước. Sau này dù bờ cõi đã được mở rộng về phía Nam, nhưng diện tích ngày nay chỉ bằng hơn 1/10 so với trước đây.

Truyền thuyết không cách xa sự thực

Trong bài viết có tựa đề “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam” trên diễn đàn Lý Học Đông Phương, vốn là bài diễn văn tiếng Pháp của giáo sư Trần Đại Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp – Á, được dịch giả Tăng Hồng Minh đăng tải, giáo sư Trần Đại Sỹ đã nhắc tới nhiều luận điểm khẳng định biên giới cổ của Việt Nam nằm ở hồ Động Đình. Những luận điểm này được đích thân giáo sư Trần Đại Sỹ khảo cứu và viếng thăm thực địa, trong đó nổi bật là:

1 – Núi Ngũ lĩnh trong truyền thuyết về Đế Minh xác thực nằm ở Trường Sa, Hồ Nam. Ngoài ra tại tỉnh này còn có rất nhiều các di tích được nhắc tới của tộc Việt như: hồ Động Đình, núi Tam Sơn, sông Tương, Thiên đài, Tương đài, cánh đồng Tương.

2 – Thiên đài mà Đế Minh tế cáo trời là có thật, nằm gần bên bờ Tương Giang. Trên đỉnh này có một ngôi chùa nhỏ, bên trong còn có nhiều chứng tích về Hai Bà Trưng và trận Động Đình. Ngoài ra giáo sư Trần Đại Sỹ còn tìm thấy một tài liệu mang tên “Thiên đài di sự lục” tại thư viện Hồ Nam, trong đó miêu tả rõ rằng Thiên đài thờ vua Đế Minh và vua Kinh Dương.

3 – Cánh đồng Tương là nơi mà Lạc Long Quân và Âu Cơ đã hẹn nhau tái hội mỗi năm một lần là có thật. Giáo sư Trần Đại Sỹ kết luận rằng cánh đồng Tương chính là vùng trũng phía Tây Ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động Đình, Nguyên Giang. Phía Nam là Linh Lăng, Hành Giang. Phía Tây là vùng Chiêu Dương, Lãnh Thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ còn khu vực tứ giác: Tương Giang, Nguyên Giang, Liên Thủy, Thạch Khê Thủy.

Cùng với một số luận điểm vững chắc khác, giáo sư Trần Đại Sỹ đi đến kết luận rằng:

Biên giới cổ của nước Việt Nam, với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam, phía Bắc quả tới hồ Ðộng Đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.

Vậy là diện tích nước Việt cổ thực sự lớn gấp 10 lần ngày nay.

Trần Hưng

http://m.trithucvn.net/…/dien-tich-nuoc-viet-co-lon-gap-10-…

TRỞ VỀ CÁT BỤI

TRỞ VỀ CÁT BỤI

 

 

 

 

GIÃ TỪ CĂN PHÒNG NURSING HOME.

( Viết thay chị Hồng Thủy khi nghe tin mẹ chị qua đời. Jan 09, 2018 )
Mẹ tôi vừa qua đời,
Giã từ căn phòng trong nursing home quen thuộc, 
Giã từ người bạn chung phòng không quen biết, 
Hai người chung phòng nhưng chưa bao giờ nói chuyện, 
Dù chỉ một câu, 
Vì cả hai cùng già cùng mất trí như nhau.


Những lần tôi đến thăm,
Trong căn phòng nhỏ, 
Bức màn chia hai người, 
Hai thế giới xa lạ. 
Mẹ tôi ngồi trong chiếc xe lăn gục đầu như tượng đá,
Bà kia cũng ngồi trong chiếc xe lăn, 
Mắt nhìn mông lung về bức tường trước mặt, 
Thỉnh thoảng cười cười chẳng ai hiểu vì đâu. 
Mấy năm trời bên nhau, 
Họ đã cùng thời gian ăn ngủ, 
Cùng thở chung một bầu không khí, 
Cùng trải qua những đêm yên lành 
Những khi thức giấc, 
Hay những khi ốm đau khó ở…. 

 

 

 

 

Hôm nay mẹ tôi qua đời,
Chiếc giường vắng người, 
Tôi thấy bà bạn chung phòng của mẹ, 

 

 

 

 

 

Vẫn ngồi trong chiếc xe lăn lặng lẽ,

Đôi mắt vô hồn, 
Nụ cười ngu ngơ, 
Bà đâu biết rằng người bạn bên giường kia vừa mới đi xa. 

Ôi những người gìà, 
Như mẹ tôi, 
Như bà bạn chung phòng, 
Sống trong nursing home những ngày cuối đời, 

 

 

 

 

 

 

 

Chiếc lá cuối mùa tàn tạ, 
Sẽ rụng rơi, 
Và trở về cội nguồn cát bụi. 

Nguyễn Thị Thanh Dương.
 

(Jan. 09, 2018)

httpv://www.youtube.com/watch?v=MqLScBs9qXg

Bạn Chết Lặng Khi Nghe Ca Khúc Này – Cát Bụi Cuộc Đời 

Người đàn ông hành động bất ngờ sau khi nhặt được 500 đô la ở máy ATM

  

Một người đàn ông tình cờ nhìn thấy 500 đô la tiền mặt khi rút tiền ở máy ATM, ông đi vào ngân hàng để nhờ giúp đỡ, không ngờ người bị mất tiền và câu chuyện xảy ra sau đó đã tạo nên một làn sóng gửi đi lòng tốt khiến mọi người xúc động tán dương.

Người đàn ông nhặt được 500 đô la ở máy ATM

Đây là sự việc xảy ra vào giữa tháng 11/2015.

Ông Bobby Puryear sống tại thành phố Modesto thuộc tiểu bang California (Mỹ) lái xe đến máy ATM để rút tiền. Ngày hôm đó đúng lúc là ngày nghỉ nên cũng không có nhiều người đi rút tiền, còn ông thì đi bằng đường dành cho người lái xe, vì vậy không cần xuống xe cũng có thể kéo cửa kính xuống để dùng máy ATM.

Điều khiến ông Bobby cảm thấy ngạc nhiên đó là khi ông định để thẻ vào máy ATM thì nhìn thấy nơi trả tiền của máy có để một xấp tiền mặt. Ông cầm lên đếm thử thì thấy là 500 đô la chẵn.

“500 đô la tiền mặt không phải là một con số nhỏ!”. Ông Bobby nói, ông biết nhất định số tiền này là người rút tiền trước đó để quên, ông tin rằng người bị mất nhất định đang rất lo lắng khi không thấy tiền đâu nữa.

Nhân viên ngân hàng nhờ giám đốc hỗ trợ tìm người bị mất

Ông Bobby lái xe một vòng quanh ngân hàng nhưng cũng không tìm thấy chủ của số tiền, thế nên ông dừng xe và đi vào ngân hàng để được hỗ trợ.

Sau khi được biết về sự việc, nhân viên ngân hàng cho biết, họ không thể kiểm tra được ngay người sử dụng máy ATM trước đó là ai mà phải cần báo với cấp trên để kiểm tra.

Ông Bobby để số tiền lại cho nhân viên ngân hàng, người này đã lưu lại số tiện thoại của ông để báo cho ông biết về tình hình kiểm tra.

Cuộc điện thoại báo tin: Đã tìm thấy người bị mất tiền

Ngày hôm sau, khi ông Bobby đang đi làm thì điện thoại reo, đầu dây bên kia là nhân viên ngân hàng.

Nhân viên ngân hàng nói với ông Bobby rằng chủ của số tiền bị mất là một bà cụ 92 tuổi tên là Edith. Người này gọi cho ông Bobby bằng cuộc gọi trực tuyến ba bên, tức là ông Bobby, bà Edith và nhân viên ngân hàng đang đồng thời nghe máy và có thể nói chuyện với nhau được.

Bà Edith nói với ông Bobby rằng mình rút 500 đô la để trả số tiền thuê nhà là 480 đô. Khi phát hiện ra không thấy tiền đâu cả, bà đau khổ lắm bởi vì đã ở tuổi này rồi, mất số tiền như vậy, không biết phải nhờ ai giúp nữa đây.

Bà cụ cho hay, số tiền thuê nhà là 480 đô la, bà muốn tặng 20 đô còn dư cho ông Bobby để cảm ơn. Thế nhưng bà cụ cũng nói, thu nhập mỗi tháng của mình chỉ có vỏn vẹn 500 đô này thôi, 20 đô còn lại sau khi trả tiền thuê nhà vốn là sinh hoạt phí một tháng của bà.

Quyết định của ông Bobby đã cổ vũ tập thể những người tốt bụng hành động

Nghe thấy tình hình kinh tế của bà cụ eo hẹp như vậy mà vẫn muốn tặng mình 20 đô để cảm ơn, ông Bobby vô cùng cảm động. Tuy nhiên, ông không nhận số tiền cảm ơn của bà cụ, mà đưa ra một quyết định.

“Anh này, anh hãy chuyển 200 đô từ tài khoản của tôi sang tài khoản của bà Edith”, qua điện thoại, ông Bobby nhờ nhân viên ngân hàng giúp đỡ, ông nói rằng mình có một công việc ổn định, nên muốn giúp đỡ bà cụ nghèo này.

Không ngờ đồng nghiệp của Bobby nghe được nội dung mà ông nói trong điện thoại thì hết sức cảm động, người này lập tức nói với ông: “Hãy thêm 100 đô nữa, tôi muốn biếu bà Edith”.


Người đàn ông tốt bụng Bobby.

Ông Bobby gác máy, ông và đồng nghiệp rất vui vì hôm ấy đã giúp được một bà cụ neo đơn. Không ngờ một tiếng sau, điện thoại lại reo, người gọi vẫn là nhân viên ngân hàng kia.

Người này nói với ông Bobby rằng mình đã kể về hành động tốt bụng của ông cùng đồng nghiệp cho mọi người trong ngân hàng nghe, sau khi nghe xong đầu đuôi, họ đều mong muốn gửi đi tấm lòng yêu thương của mình, tổng cộng đã tặng thêm 300 đô la nữa cho bà Edith.

Như vậy, bà Edit không chỉ tìm được số tiền 500 đô la bị mất của mình mà còn nhận được khoản tiền từ thiện 600 đô la.

Ông Bobby cười nói: “Đây là món quà Giáng sinh sớm!”

Ngọc Trúc

Bất đồng chính kiến, sự thật, và sự tan rã của Liên Xô

Trần Bang added 2 new photos.

Chống lại dối trá, trở về với Sự thật là cách đã giúp Đông Âu, LX thoát khỏi chế độ cộng sản toàn trị dựa vào bạo lực và tuyên truyền dối trá?

“…Nếu Liên Xô là ví dụ lớn nhất của thế kỷ 20 về một chế độ sử dụng tuyên truyền và thông tin để kiểm soát các công dân của mình – hay 70 năm thao túng tin giả – thì dịp kỷ niệm một trăm năm Cách mạng Bolshevik là một thời điểm quan trọng để đánh giá lại cách mà nó tạo ra một làn sóng phản kháng mạnh mẽ trong xã hội dân sự “ngầm” tại Moskva và Leningrad.

Phản kháng nội bộ thực sự chống lại chế độ Liên Xô bắt đầu nổi lên trong những năm 1960, vào thời điểm nhiệt độ chính trị trong nước đang chuyển từ thời kỳ hậu Stalin hừng hực sang lạnh lẽo trở lại. Đàn áp bắt đầu với phiên tòa xét xử các nhà văn trào phúng Yuli Daniel và Andrei Sinyavsky vào đầu năm 1966. Khi các đợt phản kháng và các phiên tòa tiếp diễn sau đó, phe bất đồng chính kiến đã phải đối mặt với một tình trạng lưỡng nan thú vị: làm thế nào để chống đối hiệu quả nhất trong bối cảnh thông tin họ có đang ngày càng nhiều. Gần như hàng ngày, họ đều được nghe chi tiết về những cuộc thẩm vấn, những câu chuyện được truyền lại về cuộc sống trong các trại lao động, cũng như những cuộc lùng sục và bắt bớ.

Nhóm bất đồng chính kiến có thể lựa chọn hình thức tuyên truyền riêng của mình, nhấn mạnh cuộc bức hại và biến vốn từ ngữ phong phú của Liên Xô về những kẻ “côn đồ” và “phần tử phản xã hội” thành những áng văn dài cay đắng chống lại nhà nước. Nhưng họ đã không làm vậy. Thay vào đó, họ đã chọn cách truyền đạt một cách phi cảm xúc và trong trẻo nhất có thể. Họ đã đạt được những gì chúng ta có thể gọi là sự khách quan.

Nhiều thế hệ công dân Liên Xô đã tự đào tạo mình để nghĩ về sự thực như một khái niệm mang tính tương đối. Các bài báo đã được đọc như những câu chuyện nhằm tôn vinh nhà nước chứ không phải phản ánh thực tế. Và người ta cũng bị tách biệt thành những con người riêng tư, thường khác biệt với khuôn mặt và lời nói chốn công cộng của họ.

Do xã hội Liên Xô được xây dựng dựa trên sự lừa dối kéo dài hàng thập niên này, điều đáng chú ý và khiến ta yên tâm là việc nói thật và nói rõ ràng vẫn có quyền lực lớn lao trong số cho các nhà bất đồng chính kiến vào những năm 1960. Và thực sự là vậy. Hãy nghe Lyudmila Alexeyeva, một trong những nhà sáng lập của một tạp chí ngầm quan trọng nhằm tôn vinh sự thật, tờ A Chronicle of Current Events, mô tả về sự cuốn hút gần giống với tôn giáo:

“Đối với từng người trong chúng tôi, làm việc cho tờ Chronicle có nghĩa là cam kết trung thành với sự thật, nó có nghĩa phải gội sạch bản thân khỏi mọi dơ bẩn của việc ‘suy nghĩ nước đôi’ vốn đã tràn ngập mọi giai đoạn trong đời sống Liên Xô,” bà viết. “Tác động của Chronicle là không thể đảo ngược. Mỗi người trong chúng tôi đã trải qua điều này một mình, nhưng ai cũng biết những người khác cũng đã trải qua cuộc tái sinh đạo đức này.”

Liệu hành trình “ngầm” nhằm tìm kiếm sự thật dựa trên các báo cáo khách quan, thận trọng này có góp phần thúc đẩy sự tan rã của Liên Xô?

Thật khó để xác định, vì còn có rất nhiều yếu tố khác, đặc biệt về kinh tế, cũng góp phần vào sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô vào cuối những năm 1980. Nhưng nó đã ảnh hưởng đến cách Liên Xô tan rã. Không giống như Trung Quốc, vốn cũng phải đối mặt với một thách thức lớn đối với quyền lực của đảng cộng sản vào năm 1989, Liên Xô không thể hy vọng tự cải cách chỉ bằng perestroika (về kinh tế). Việc Gorbachev thông qua khái niệm glasnost đã thừa nhận rằng cũng cần phải thay đổi xã hội dân sự nữa.

Các nhà bất đồng chính kiến đã tạo ra kỳ vọng rằng có thể sẽ có một loại ngôn ngữ khác, một ngôn ngữ thể hiện được thực tế mà không bị sàng lọc qua các mệnh lệnh của Liên Xô. Họ khao khát sự trung thực và minh bạch ở một quốc gia mà ngay cả tỷ lệ tự tử cũng được coi là bí mật nhà nước. Samizdat cung cấp một phương tiện để họ đạt được mục đích này.

Và những sự thật, không ngừng xếp chồng lên nhau, đã trở thành cách mà các nhà bất đồng chính kiến xây dựng một nước Nga khác, nơi mà họ hy vọng một ngày nào đó có thể đứng lên và vượt qua tất cả những điều dối trá.”

Trích từ http://nghiencuuquocte.org/…/bat-dong-chinh-kien-su-va-su-…/

Image may contain: one or more people, people standing and outdoor
Image may contain: night and outdoor
 

HẠN CHẾ MXH – HOA HẬU H’HNEN 2017

Nguồn:  Honolulu Nguyen
HẠN CHẾ MXH – HOA HẬU H’HNEN 2017 PREV ARTICLE NEXT ARTICLE 

[HẠN CHẾ MXH – HOA HẬU H’HNEN 2017] Trước tiên, tôi không soi mói độ xinh đẹp, vì tôi không quan tâm đến các cuộc thi sắc đẹp, nó rất nhảm. Tuy nhiên, năm nay cô Hoa Hậu H’Hen Nie Trần đăng quang phải vì câu trả lời mà tôi thấy rất bất bình.
Khi vào top 5, vào phần thi Câu Hỏi và Trả Lời, hoa hậu Mai Phương Thúy hỏi: “Mạng xã hội là công cụ giúp con người ta đến với nhau nhanh hơn. Nếu đăng quang hôm nay, em sẽ làm gì để khuyến khích mọi người sử dụng mạng xã hội tích cực”.

Sau đây là câu trả lời đầy đủ của cô H’Hen: “Mạng xã hội có hai chiều tích cực và tiêu cực. Em muốn nói rằng, xung quanh chúng ta còn có nhiều điều thú vị và tốt đẹp hơn, chúng ta cần biết quý trọng. Bạn bè, người thân, những người xung quanh chúng ta, chỉ có mặt đối mặt chúng ta mới giao lưu được với nhau. Hãy hạn chế sử dụng mạng xã hội để chúng ta gần nhau hơn, tích cực hơn và có những thời gian thú vị hơn. H’hen muốn có một cuộc sống ý nghĩa. H’hen sẽ cố gắng hết mình để có thể sống hết mình và hạn chế mạng xã hội”.

Tôi rất rất không muốn nói về nhan sắc, vì mỗi người có nét đẹp riêng. Cô H’Hen rất xinh đẹp, tôi chức mừng cô. Tuy nhiên, phiền các bạn nhìn các thí sinh khác rồi tự hỏi: “Đây có phải là cuộc thi sắc đẹp không, hay cuộc thi truyền tải thông điệp chính trị?”
Tôi muốn phân tích câu này: “H’hen sẽ cố gắng hết mình để có thể sống hết mình và hạn chế mạng xã hội”. Ý của cô là gì? Ý của cô là các bạn trẻ Việt Nam hãy hạn chế sử dụng Mạng Xã Hội (MXH), vì theo cô nó mang tính chất tiêu cực và cuộc sống có nhiều điều thú vị hơn. Nên theo lời cô, cô sẽ sống hết mình và “hạn chế mạng xã hội.”
Xin lỗi cô nhé. Nếu không có MXH thì cái nước Việt Nam đã chết từ lâu rồi. Nếu không có MXH thì người dân Việt Nam sẽ mãi bị chìm đắm trong sự dối tra và bị ngu dần. MXH đã có tác động đến thể chế chính trị ở mọi tầng lớp. Nó đã thúc đẩy sự thay đổi ở cái đất nước mà gần như vô vọng.

1. Nhờ MXH mà các quan chức bị ép phải từ chức.
2. Nhờ MXH mà chúng ta biết biển cả đã bị ô nhiễm.
3. Nhờ MXH mà chúng tôi biết rằng xung quanh có quá nhiều bất công, quá nhiều dân oan.
4. Nhờ MXH mà các bạn trẻ biết rằng họ đang bị nhồi sọ với số lượng kiến thức khổng lồ vô dụng.
5. Nhờ MXH mà chúng ta biết rằng có lực lượng tuyên truyền muốn thao túng dư luận.
6. Và Nhờ MXH, mà chúng tôi biết rằng bấy lâu nay chúng tôi đã sống trong dối trá.
Cho nên khi cô nói chúng ta nên giới hạn MXH, vậy là cô muốn đất nước này mãi sống trong sự ngu dốt, mãi sống trong sự đần độn? Tôi sẽ không chửi, cũng không soi mói nhan sắc. Nhưng nếu giải thưởng Hoa Hậu Việt Nam năm nay được dựa trên thông điệp tuyên truyền thì nó nên thay tên bằng Hoa Hậu Ban Tuyên Giáo, sẽ nghe hay hơn nhiều.

Ku Búa @ Cafe Ku Búa

Việt Nam: Cho phá sản ngân hàng là ‘hợp xu hướng quốc tế’?

Việt Nam: Cho phá sản ngân hàng là ‘hợp xu hướng quốc tế’?

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từng mua giá 0 đồng các Ngân hàng Xây dựng (VNCB), Ngân hàng Đại Dương (OceanBank), Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu (GPBank)
Bản quyền hình ảnh CAFEF.VN
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từng mua giá 0 đồng các Ngân hàng Xây dựng (VNCB), Ngân hàng Đại Dương (OceanBank), Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu (GPBank)

Một chuyên gia nói tin Việt Nam chính thức cho phá sản ngân hàng từ ngày 15/1 “hợp xu hướng quốc tế” trong lúc người khác cảnh báo “nguy cơ hiệu ứng dây chuyền.”

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng chính thức có hiệu lực từ ngày 15/1, lần đầu tiên đưa ra phương án phá sản một ngân hàng để tái cấu trúc hệ thống.

Theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ trình Chính phủ quyết định chủ trương phá sản ngân hàng được kiểm soát đặc biệt theo quy định tại Luật này.

‘Tín hiệu tốt’

Hôm 16/1, trả lời BBC, ông Nguyễn Việt Khoa, giảng viên Khoa Luật, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, nói: “Việc cho phá sản ngân hàng là phù hợp với xu hướng quốc tế, nhưng quan trọng hiện là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong một thời gian dài bị lợi ích nhóm chi phối.”

“Một số ngân hàng không đủ chuẩn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước hoặc kinh doanh không hiệu quả buộc phải hợp nhất, sáp nhập hoặc buộc phải phá sản bắt buộc.”

“Về lâu dài, tôi cho rằng quy định này mang lại tín hiệu tốt cho nền kinh tế, xoá bỏ mục đích lập ngân hàng để phục vụ lợi ích riêng và làm sân sau cũng cấp vốn cho các ông chủ công ty, tập đoàn kinh tế.”

Đề cập về những quan ngại của người đang gửi tiền tiết kiệm tại các ngân hàng Việt Nam, ông Việt Khoa cho biết: “Ban đầu, tin quy định này có hiệu lực ít nhiều ảnh hưởng đến tâm lý người gửi tiền. Tuy nhiên, hoạt động gửi tiền cũng được xem là một hoạt động kinh doanh, và ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp nên việc chịu rủi ro trong kinh doanh cũng là tất yếu.”

“Vì vậy, người gửi tiền buộc phải lựa chọn hoặc phân tán số tiền gửi vào những ngân hàng thương mại làm sao để được an toàn nhất, đó cũng là động lực buộc các ngân hàng thương mại cải tiến đặc biệt là hệ thống quản lý rủi ro để tạo niềm tin cho khách hàng.”

“Tôi cho rằng, với tình hình hiện nay tại Việt Nam, quy định cho phá sản ngân hàng thương mại chẳng ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế. Nền kinh tế không lo thiếu vốn khi đã có những ngân hàng nước ngoài và các quỹ đầu tư đã quen với thị trường Việt Nam.”

“Trong hàng chục năm qua, có thể nói đây là giai đoạn khởi đầu cho việc điều hành hệ thống ngân hàng mà tôi cho là tốt nhất, đi đúng quỹ đạo của nền kinh tế, và là mạch máu đúng nghĩa của nền kinh tế.”

Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng từng nói phương án xử lý tổ chức tín dụng đặt mục tiêu an toàn hệ thống, lòng tin người dân, đảm bảo quyền và lợi ích người gửi tiền
Bản quyền hình ảnh BLOOMBERG
Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng từng nói phương án xử lý tổ chức tín dụng đặt mục tiêu an toàn hệ thống, lòng tin người dân, đảm bảo quyền và lợi ích người gửi tiền

‘Vấn đề lớn’

Trái ngược ý kiến trên, Tiến sĩ Nguyễn Văn Phú nói với Ben Ngô của BBC Tiếng Việt từ Đại học Strasbourg, Pháp:

“Việc một tổ chức tín dụng (ngân hàng) bị thua lỗ đi đến phá sản là một hiện tượng bình thường của nền kinh tế, cũng như các doanh nghiệp khác được lập ra, lớn mạnh lên, và phá sản hoặc biến mất đi vào một thời điểm nào đó.”

“Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng lại có nhiều vai trò khác. Nó không chỉ là nơi nhận tiền gởi của khách hàng, mà có vai trò cung cấp vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo hiểm.”

“Nếu một tổ chức tín dụng bị phá sản, mà là một ngân hàng lớn thì sẽ có nguy cơ gây hiệu ứng dây chuyền, có thể gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.”

“Theo Luật Các tổ chức tín dụng, khi một ngân hàng bị phá sản, người dân sẽ chỉ được đền bù tối đa là 75 triệu đồng. Đó là về phía người dân. Tuy nhiên, việc phá sản này sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ký gởi tiền hoặc là chủ sở hữu/cổ đông ở đây. Ngoài ra, khi một ngân hàng bị phá sản, nguy cơ là các ngân hàng khác cũng bị liên đới, chẳng hạn vì có sở hữu chéo. Những điều này sẽ gây hiệu ứng dây chuyền và ảnh hưởng rộng lên các hoạt động kinh tế.”

Ông Nguyễn Văn Phú nói thêm: “Tất nhiên, có luật về phá sản của các ngân hàng là tốt, nhưng cho phép một ngân hàng phá sản trên thực tế sẽ là vấn đề lớn trong tình hình hiện nay.”

“Việt Nam nên nghiên cứu kỹ các kinh nghiệm trên thế giới. Ví dụ như qua cuộc khủng hoảng toàn cầu vừa qua, bắt đầu từ việc phá sản của ngân hàng Lehman Brothers năm 2008 ở Hoa Kỳ. Nền kinh tế Iceland bị khủng hoảng trầm trọng khi ba ngân hàng lớn bị phá sản và phải bị quốc hữu hóa, dẫn đến việc nước này nằm trên bờ vực phá sản.”

“Trường hợp của Hy Lạp và Tây Ban Nha trong đợt khủng hoảng vừa qua cũng gần như vậy.”

Ngân hàng Nhà nước có thể trình Chính phủ quyết định chủ trương phá sản ngân hàng được kiểm soát đặc biệt
Bản quyền hình ảnh BLOOMBERG
Ngân hàng Nhà nước có thể trình Chính phủ quyết định chủ trương phá sản ngân hàng được kiểm soát đặc biệt

Theo ông Phú, “Trong trường hợp của Việt Nam, trong khi thông tin thiếu minh bạch, hay nói cách khác là thông tin bất đối xứng, tin đồn có ảnh hưởng rất lớn, việc cho một ngân hàng phá sản là việc phải rất cẩn thận. Cần phải xem xét quy mô của việc này, xem xét ảnh hưởng có thể có lên người dân và doanh nghiệp, nhất là trong môi trường thông tin thiếu minh bạch.”

“Ngoài ra, cũng cần lưu ý là việc cho phá sản một ngân hàng nhiều khi không thực hiện được vì những lý do nêu trên, nên nhà nước phải can thiệp, như là quốc hữu hóa. Đã có tiền lệ là Ngân hàng Nhà nước mua ba ngân hàng GPBank, OceanBank và CBBank với giá 0 đồng. Do đó cần đánh giá hệ lụy có thể có lên ngân sách nhà nước và nợ công của việc quốc hữu hóa các ngân hàng này.”

Liệu việc cho phá sản ngân hàng có thể giúp ngăn ngừa cuộc khủng hoảng ngành tài chính Việt Nam trong tương lai?

Ông Nguyễn Việt Khoa chia sẻ thêm với BBC: “Giá như, quy định cho phá sản ngân hàng có hiệu lực sớm hơn, nghĩa là nếu lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cầu thị trước các ý kiến của các chuyên gia và không bị lợi ích nhóm chi phối thì hàng ngàn tổ chức, cá nhân đã không bị mất tiền oan trước quyết định mua ngân hàng thương mại không đồng, hay việc yêu cầu cổ đông phải ủy quyền không hủy ngang tất cả các cổ phần cho Ngân hàng Nhà nước.”

“Có thể nói hai quyết định trước đây của Ngân hàng Nhà nước nằm ngoài khía cạnh luật pháp để lại hậu quả là hàng nghìn cán bộ, nhân viên ngân hàng thương mại phải đứng trước vành móng ngựa và ít nhiều góp phần làm quá tải nhà tù hiện nay.”

“Và đây có thể nói là một bài học đắt giá trong việc điều hành chính sách, nhưng về lâu dài, Luật Các tổ chức tín dụng cần sửa đổi theo hướng đặt vị trí Ngân hàng Nhà nước độc lập với cơ quan hành pháp, nghĩa là thống đốc trực thuộc Quốc hội và không bị chi phối bởi việc điều hành kinh tế của Chính phủ.”

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng được Quốc hội Việt Nam thông qua hồi tháng 11/2017.

Luật này chính thức có hiệu lực thi hành kể từ 15/01/2018.

Đời người tích bao nhiêu đức thì sẽ có bấy nhiêu phúc phận

Đời người tích bao nhiêu đức thì sẽ có bấy nhiêu phúc phận

Mỗi một người đều mong muốn suốt cuộc đời của mình đều sẽ luôn thuận buồm xuôi gió, vật chất dư giả, gia đình hòa thuận, khỏe mạnh sống lâu… nhưng hầu như rất ít người được như ý. Rất nhiều người đều tự hỏi phải chăng vận số của mình không được tốt? Vận may trong cuộc đời con người rốt cuộc là đến từ đâu đây? Vận mệnh của con người ta có thể thay đổi được hay không? 

Câu chuyện Gia tộc Phạm Trọng Yêm hưng vượng hơn 800 năm

Danh thần thời Tống Phạm Trọng Yêm, xuất thân bần hàn, thời còn trẻ gia cảnh rất khó khăn. Ông quyết tâm sau này nếu có thể thành danh, nhất định sẽ cứu tế những người nghèo khổ. Sau này, thông qua nỗ lực không ngừng ông đã làm đến chức Tể tướng. Ông lấy bổng lộc của mình ra mua ruộng đất, rồi chia cho những người nghèo khổ không có ruộng đất canh tác. Ngoài ra, ông còn chu cấp lương thực, quần áo cho họ. Phàm là những nhà có hôn lễ hoặc tang sự, ông còn lấy tiền phụ cấp cho họ. Cứ như vậy, ông dùng thu nhập của một người đã nuôi sống hơn 300 hộ gia đình.

Có một lần, ông mua một ngôi nhà ở Tô Châu, một thầy phong thủy hết lời khen nhà này phong thủy cực tốt, con cháu đời sau nhất định sẽ làm quan lớn vinh hiển gia tộc. Phạm Trọng Yêm nghe xong, lại lập tức đem ngôi nhà này ra quyên góp, mở một trường học. Bởi ông cho rằng, để cho con cháu của người dân trong thành Tô Châu đều có thể thành tài, so với một nhà hưởng phúc một mình, chẳng phải tốt hơn sao?

Tục ngữ nói: “Giàu không quá ba đời“, nhưng gia tộc của Phạm Trọng Yêm lại hưng vượng đến hơn 800 năm! Bốn người con trai của ông đều tài đức vẹn toàn, đều làm quan lớn và Tể tướng. Con cháu đời sau của nhà họ Phạm mãi đến những năm đầu thời Dân Quốc đều không suy bại. Bí quyết của nó chính là nằm trong lời giáo huấn của tổ tiên “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” và “hành thiện tích đức” mà con cháu nhà họ Phạm đời đời không quên. 

 Nhà mà có tích đức ắt có phúc dư

Trong “Chu Dịch” có nói: “Nhà mà tích thiện ắt có phúc dư“, ý là nói những nhà hành thiện nhất định sẽ có chuyện tốt đang chờ. Có thể thấy rõ phúc vận của đời người là đến như thế nào? Phúc vận là thông qua xây đắp mà có được, chỉ có tích đức hành thiện mới có thể cải biến vận mệnh. Nếu chúng ta muốn xây đắp tương lai tốt đẹp cho bản thân và người nhà, thế thì hãy làm một người có thiện tâm biết nghĩ cho người khác. 

Theo quan niệm xưa của ông bà ta, mỗi năm vào ngày tết ông Táo, ông Táo sẽ về trời, và ngày trừ tịch ông Táo sẽ từ trời về lại nhân gian, bởi vậy dân gian đều có tục lễ cúng ông Táo. Ông Táo lên trời là báo cáo lại thiện ác công tội của hộ gia đình này với Ngọc Đế. Nếu là hộ gia đình tích đức hành thiện, thiên thượng sẽ khiến gia đình này từ từ hưng vượng. Nếu là hộ gia đình làm chuyện xấu, thiên thượng sẽ khiến gia đình này dần dần suy bại. 

Trong “Luận Ngữ” có một đoạn văn tự như vậy. Vương Tôn Giả hỏi Khổng Tử: “Thay vì cúng thần Áo, thì thà cúng ông Táo còn hơn“. Từ một câu này có thể nhìn ra được, vào thời Xuân Thu, dân gian đã có phong tục lấy lòng ông Táo. Nhưng với điều Vương Tôn Giả hỏi, Khổng Tử đã trả lời thẳng rằng: “Chẳng phải vậy. Kẻ mắc tội với Trời, dù có cầu khẩn vị Thần nào cũng chẳng được“. Nếu như là làm chuyện xấu, thì đã mắc tội với Trời, dù có cầu nguyện xin phúc cũng vô dụng. 

 Người hành thiện tương lai sẽ có phúc báo 

Trong “Đạo Đức kinh”, Lão Tử có viết: “Đạo trời không thân, thường ở với người lành“. Thiên thượng vốn không có cái tâm thiên vị, chỉ che chở cho những người thật lòng hành thiện. Những người hành thiện, ắt sẽ được trời cao ban phúc chở che. Như câu “Được trời chở che, đâu đâu cũng thuận lợi tốt lành”.

Vậy nên Phật gia giảng thuyết nhân quả báo ứng. Người mà không hiểu nhân quả, trong tâm thường trống rỗng, cho rằng làm ác không mắc họa, làm thiện không được phúc báo. Bởi vậy, việc thiện thường không muốn làm, còn việc ác thì lại thừa mứa.

Người biết nhân quả báo ứng, nội tâm thường phong phú, có thể từng bước tự khắc chế bản thân hành ác và dốc lòng hành thiện. Những người tích thiện, tương lai đời sau sẽ được phúc báo, còn những người làm ác, tương lai sau này sẽ gặp phải tai ương.

Cổ nhân tin rằng người hành thiện thì hết thảy phúc đức sẽ đến với họ, hết thảy tai họa sẽ rời xa họ. 

Người lương thiện chứa lòng từ bi luôn, suy nghĩ vì người khác, phẩm chất cao thượng của họ khiến cho người người đều khâm phục. Cho nên, cổ nhân tin rằng người hành thiện thì hết thảy phúc đức sẽ đến với họ, hết thảy tai họa sẽ rời xa họ.

Người xưa thường nói: “tích đức tích đức”, “Có đức mặc sức mà ăn”, những lời này thật vô cùng chính xác. Vinh hoa phú quý không phải là tranh giành mà có được, mà là thông qua tích đức hành thiện mà có được. Con người có bao nhiêu đức, thì chính là có bấy nhiêu phúc, không đức thì chẳng được gì, mất đức sẽ mất hết.

Thiên lý thiện ác hữu báo này đã ước chế con người từ ngàn đời nay.Ngoài ra, phúc đức của những người hành thiện và tai ương của những người hành ác, cũng sẽ ảnh hưởng đến con cháu đời sau của họ. Chính như câu “Những nhà tích thiện, ắt có phúc dư, những nhà hành ác, ắt có họa thừa” được nói đến trong “Chu Dịch” vậy.

Theo Soundofhope

Anh chị Thụ & Mai gởi