ĐỦ THẤP, ĐỦ LẶNG, ĐỦ TRỐNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Có những hạt rơi trên đất tốt, nên sinh hoa kết quả!”.

“Chân lý của Thiên Chúa không áp đặt. Nó chờ cho linh hồn đủ thấp, đủ lặng, đủ trống!” – Romano Guardini.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến một vùng trũng ‘đủ thấp, đủ lặng, đủ trống’ cần thiết; ở đó, hạt giống Lời có thể bén rễ, đâm chồi, mọc lên và sinh hoa kết trái.

Nhưng để bắt đầu công việc này, bạn và tôi trước hết, phải bước xuống ‘không gian sự thật’ về con người mình: tôi là một tội nhân! Từ đó, nhận thức được sự cần thiết của ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa trong đời sống mình. Việc khiêm tốn thừa nhận chúng ta bất lực nếu không có lòng thương xót Chúa là một cần thiết nhất định để chuẩn bị một mảnh đất giàu cho hạt Lời. “Người khiêm nhường không sợ thấy chiều sâu tội lỗi mình, vì họ biết có một lòng thương xót còn sâu hơn thế!” – Thomas Merton.

Bước xuống linh hồn mình, chúng ta ý thức sự nghèo nàn và khốn cùng của nó; từ đó ở trong tư thế sẵn sàng để Chúa thanh tẩy hầu lãnh nhận hồng ân tha thứ của Ngài – đặc biệt, qua Bí tích Giải Tội. Từ đó, trở nên ngoan nguỳ và sẵn sàng lãnh hội khi Thiên Chúa nói; và lúc Ngài mở lời, qua đôi tai nội tâm, chúng ta vui mừng lắng nghe, hiểu, lựa chọn và chấp nhận. Chỉ khi đó, hạt Lời mới có thể bén rễ trong mảnh đất mềm – ‘đủ thấp, đủ lặng, đủ trống’ – để lớn lên, sinh hoa kết trái; và qua chúng ta, sinh hoa trái trong cuộc sống người khác. “Chỉ một tâm hồn trống mới có thể chứa đầy sự hiện diện của Thiên Chúa – và rồi lan toả Ngài đến tha nhân!” – Maurice Zundel.

Môsê và Aaron đã xuống tận vùng trũng của lòng mình – bài đọc một. Giữa sa mạc, chịu ta thán với những lời lẽ khó nghe nhất của dân, “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê”. Vậy mà hai ông vẫn nhẫn nhục, một chỉ lặng thinh chờ đợi Chúa. Và Thiên Chúa phán, “Buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh!”. Thật thú vị, ở sách Dân Số, Môsê nói, “Anh em sẽ ăn cho đến khi thịt lòi ra lỗ mũi!”. Quả đúng như vậy! Thánh Vịnh đáp ca xác nhận, “Chúa ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ!”.

Anh Chị em,

“Có những hạt rơi trên đất tốt, nên sinh hoa kết quả!”. Không ai đã bước xuống vùng trũng bằng Chúa Kitô; Ngài đã bước xuống thật thấp, thấp đến nỗi hiến mình trên thập giá, hiến mình trên các bàn thờ, hiến mình trong các tâm hồn. “Thiên Chúa đã bước xuống thật thấp, không chỉ trong hang đá, mà trong mọi tâm hồn sẵn lòng mở ra. Đó là nơi Ngài thích ở nhất!” – Madeleine Delbrêl. Chớ gì mỗi ngày, bạn và tôi biết bước xuống mảnh đất ‘đủ thấp, đủ lặng, đủ trống’ linh hồn mình, tìm gặp Thiên Chúa, lắng nghe Ngài và nhất là làm theo những gì Ngài yêu thích nhất. “Mỗi buổi sáng, hãy đặt linh hồn mình trước mặt Chúa như một trang giấy trắng để Ngài viết điều Ngài muốn!” – Gioan XXIII.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin hạ thấp những gò nổng trong con. Cho con thấp đủ, lặng đủ, trống đủ để Lời có thể trổ sinh hoa trái cứu độ – cứu độ linh hồn con, cứu độ thế giới!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***********************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XVI Thường Niên, Năm Lẻ

Hạt được gấp trăm.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.  Mt 13,1-9    

1 Khi ấy, Đức Giê-su từ trong nhà đi ra ngồi ở ven Biển Hồ. 2 Dân chúng tụ họp bên Người rất đông, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. 3 Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.

Người nói : “Người gieo giống đi ra gieo giống. 4 Trong khi người ấy gieo, có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. 5 Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ không có nhiều đất ; nó mọc ngay, vì đất không sâu ; 6 nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. 7 Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. 8 Có những hạt lại rơi trên đất tốt, nên sinh hoa kết quả : hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. 9 Ai có tai thì nghe.”


 

SAO CÁC ĐẠI GIA LẠI ĐI TU?

Xuyên Sơn

Ngày nghỉ, cafe sáng với vợ. Thị khen chồng pha cafe ngon.

Tôi bảo, khỏi khen, vì sáng chủ nhật nào anh chẳng pha cafe cho em.

Bỗng thị hỏi:

– Anh ơi, sao các đại gia lại đi tu?

Đại gia Trung Nguyên Đặng Lê Nguyên Vũ,

đại gia AVG Phạm Nhật Vũ,

rồi lại đại gia Tôn Hoa Sen Lê Phước Vũ nữa…

Nghe toàn tên Vũ.

Tôi nói:

– Mấy con gà ấy ăn chơi đến rụng hết lông thì thành anh trọc chứ có gì phải ngạc nhiên?

Mà đâu chỉ đại gia.

Các đại quan bốc hốt đã đời rồi cũng theo gót quy y để thành tín đồ của các đại gia đấy thôi.

Cafe làm cho vợ tỉnh táo hẳn ra. Nhưng thị vẫn thắc mắc:

– Đất nước mình 95 triệu dân thì đã có 90 triệu người mê tín.

Lẽ ra mê tín thì người ta rất sợ thánh thần lẫn ma quỷ để mà lo hướng thiện. Nhưng mà sao ai ai cũng thi nhau làm việc ác, ác từ việc lớn đến việc nhỏ. Quan thì cấu kết với đại gia bốc hốt của dân, trí thức thì lưu manh cơ hội, còn dân thì bất tuân pháp luật,

việc ác gì cũng làm được. Là sao?

Tôi ngậm cafe, chỉ còn nghe hương vị đắng chát:

– Là bởi triết lý của tôn giáo Việt Nam đã thay đổi hoàn toàn. Không trực ngôn, nhưng cách làm của nhà chùa hiện nay là khuyến khích mọi người thi nhau làm việc ác.

Cứ làm việc ác đi rồi mang tiền vào chùa cúng giải vong, giải nghiệp là xong.

Cho nên nhà chùa hiện nay là kho lưu trữ tiền, vàng nhiều hơn cả ngân hàng nhà nước.

Lần đầu tiên tôi thấy trán vợ hằn lên những nếp nhăn, ra chiều suy tư lắm. Thị nốc cạn cả ly cafe và nói:

– Nhưng em thấy có giải vong,

giải nghiệp được đâu?

Kết quả là từ đại gia đến đại quan đều lần lượt vào lò mổ.

Còn đám dân đen thì vẫn đau ốm, bệnh tật và nghèo hèn.

Nhưng lạ là không thấy họ tỉnh ra?

Tôi cười:

– Thế mới gọi là mê tín.

Không ngẫu nhiên mà chùa ngày nay toàn dung nạp những quan tham, những đại gia ăn bẩn, những bọn đầu trộm đuôi cướp.

Bây giờ anh thấy ai siêng đi chùa đều nghi họ có âm mưu thủ đoạn gì đó.

Tôn giáo thành nơi cứu rỗi của cái ác. Điều này chưa có nhà nghiên cứu tôn giáo nào nghĩ ra nhưng công trình thì khoe đủ loại như là hiểu tận gốc về tôn giáo vậy!

Nguồn fb Chu Mộng Long


 

TUỔI GIÀ – MỘT KIẾP NGƯỜI LẶNG LẼ MÀ SÂU XA

Tu Le

Bài viết hay quá các bạn ơi . Nên đọc từ từ, chậm rãi và suy nghĩ xem có đúng không? Phụng

TUỔI GIÀ – MỘT KIẾP NGƯỜI LẶNG LẼ MÀ SÂU XA

Tuổi già là đoạn đường mà ai rồi cũng sẽ đến, nếu may mắn được sống đủ lâu. Có người đến đó trong an yên, có người đến trong cô độc. Có người hạnh phúc nhìn lại đoạn đời đã qua, có người lặng lẽ ôm những ân hận không thể sửa. Nhưng dầu là ai, ở tuổi già, ai cũng cần một điều – ấy là được sống như chính mình.

Cả một đời người, ta đã quen sống vì người khác. Hồi trẻ, cha mẹ lo cho con, rồi đến lúc làm cha mẹ, ta lại sống vì con cái. Mỗi ngày là một guồng quay – cơm áo, gạo tiền, trách nhiệm, bổn phận, hy sinh. Ta cặm cụi gây dựng cuộc sống cho gia đình, cho người thân, cho con cái có chỗ đứng trong đời. Có lúc vội đến nỗi chẳng kịp ngẩng đầu nhìn trời. Có khi mệt đến nỗi không biết mình đang buồn hay đang sống. Có những người suốt bốn, năm chục năm không có một ngày thật sự cho bản thân. Vui ít, lo nhiều. Lặng lẽ chịu đựng, nhẫn nại gồng gánh. Đến lúc nhìn lại, hóa ra bản thân là người ta bỏ quên nhiều nhất.

Vậy mà đến khi bước vào tuổi xế chiều, nhiều người lại mang tâm thế… chờ đợi. Chờ ngày con cái thành đạt, chờ cuộc sống ổn định, chờ lúc nhắm mắt. Có người già rồi mà tâm chưa chịu nghỉ. Cứ đau đáu chuyện con dâu, chuyện cháu học hành, chuyện nhà cửa sau này để ai, chuyện xóm làng dâu bể. Tâm cứ bận, lòng chẳng an. Ngồi giữa căn nhà đã dựng lên cả đời, vậy mà thấy mình như kẻ qua đường.

Tuổi già không phải là giai đoạn chờ chết. Mà là một mùa sống khác – chậm hơn, sâu hơn, nhẹ hơn, nhưng không kém phần đẹp đẽ. Nó giống như mùa thu – không rực rỡ như mùa xuân, không sôi nổi như mùa hạ – nhưng đằm thắm, dịu dàng, và đủ đầy.

Sống sâu – là học cách lắng nghe mình lần nữa. Là nhắm mắt lại mà vẫn thấy ấm lòng vì tiếng gió qua vườn, tiếng chổi quét lá mỗi sáng, tiếng cháu gọi ông bà ríu rít ngoài sân. Là một tách trà vừa đủ nóng, một ánh chiều vàng rơi nghiêng nơi hiên nhà. Là đọc lại quyển sách cũ từng gối đầu giường, ngắm lại ảnh cưới đã vàng màu năm tháng. Là nhớ về người xưa không còn với mình, mà lòng không buồn – chỉ thấy biết ơn.

Sống sâu – cũng là học cách tha thứ. Tha thứ cho người, và cho chính mình. Tha thứ cho những va vấp không sửa kịp, những sai lầm chưa kịp xin lỗi. Tha thứ cho quá khứ, để tương lai còn có thể nhẹ bước. Khi ta không còn nhiều thời gian như trước, lòng nhẹ mới là món quà quý nhất ta có thể tự tặng mình.

Sống nhẹ – là biết mình không cần chứng minh nữa. Không cần gồng mình để được công nhận. Không cần so sánh mình với người bên cạnh. Không cần gánh lấy vai trò đạo đức hay mẫu mực gì nữa. Bởi lẽ, sống một đời tử tế đã là đủ. Còn lại là học cách thảnh thơi, học cách im lặng đúng lúc, học cách mỉm cười khi không cần nói gì.

Tuổi già là lúc sống ít lời mà nhiều nghĩa. Là khi ánh mắt nhìn đời đã dịu lại, không còn sắc bén, không còn đòi hỏi. Là khi người ta có thể buông tay, nhưng không buông bỏ lòng nhân hậu. Là khi có thể im lặng, nhưng lòng vẫn đầy yêu thương. Là khi không còn tranh cãi hơn thua, mà chỉ muốn mỗi ngày còn được ăn một bữa cơm ngon, ngồi giữa tiếng cười con cháu, và ngủ một giấc bình yên.

Có nhiều người sợ tuổi già. Sợ bệnh tật, sợ cô đơn, sợ bị lãng quên. Nhưng nếu biết sống đúng, tuổi già không đáng sợ. Nó là phần thưởng cho người đã đi hết những năm tháng nhọc nhằn. Là cơ hội để sống lần nữa – nhưng lần này là cho mình. Không cần thành đạt, chỉ cần thảnh thơi. Không cần được ca ngợi, chỉ cần được sống thật với lòng mình.

Một mái nhà đơn sơ, một cái ghế mây kê ở ban công, một khóm hoa nhỏ trước hiên, vài người bạn tri kỷ, vài quyển sách cũ, một ấm trà nóng – thế là đủ. Hạnh phúc tuổi già không ở chỗ có bao nhiêu tiền trong sổ tiết kiệm, mà ở chỗ có bao nhiêu bình an trong tâm hồn.

Vậy nên, đừng chờ đợi điều gì nữa. Mỗi ngày còn tỉnh táo, còn có thể bước ra vườn hít một hơi thật sâu – là một món quà. Còn thấy được ánh sáng, còn nghe được tiếng chim – là còn có lý do để sống.

Tuổi già, nếu biết nhìn bằng đôi mắt yêu thương, sẽ không là đoạn kết. Mà là một mùa chín rộ, ngọt ngào, lặng lẽ – như trái cây cuối mùa, thơm bền và sâu vị. Một đời người nếu đã sống trọn, thì những năm tháng cuối cùng không phải là để sợ hãi, mà là để tri ân. Tri ân cuộc đời. Tri ân những người đã đi cùng ta. Và tri ân chính mình – đã đi qua bao bão giông, vẫn còn ngồi đây, còn thở, còn biết ơn.

Tuổi già không phải là chờ chết.

Mà là sống – một cách đầy đủ và trọn vẹn nhất.

_____

#gotacoffee

#ngườiviếtgiữahaimiền


 

 Gom Góp Từ Ngữ Người Miền Nam Và Sài Gòn Xưa – Nguyễn Cao Trường

Kimtrong Lam

Nguyễn Cao Trường + (515 Từ Thông Dụng)

Bài này nhằm để ghi nhớ lại những từ mà ngày xưa người Sài Gòn/ Miền Nam hay dùng, như: Mèn ơi, Nghеn, Hén, Hеn, Tà Tà, Thềm ba, cà rịch cà tang, tàn tàn,…, và những câu thường dùng như: Kêu gì như kêu đò Thủ Thiêm, làm nư, cứng đầu cứng cổ, tháng mười mưa thúi đất, cái thằng trời đánh thánh đâm…

Xin nhờ bạn đọc commеnt thêm những từ nào còn nhớ để có thể góp nhặt ngỏ hầu lưu lại những tiếng gọi, câu nói thân thương của người Sài Gòn và miền Nam trước đây, е rằng một ngày nào đó nó sẽ mai một…

Giọng nói, sự pha trộn của ngôn ngữ miền Bắc di cư vào những năm 1950 hòa cùng ngôn ngữ Sài Gòn, miền Tây đã tạo nên thêm một phong cách, giai điệu mới… Và bài hát “cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ” của nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên là hình ảnh cô gái chạy xе chậm rãi tỏ ra bất cần mấy anh chàng thеo sau năn nỉ làm quеn, không biết đã bao nhiêu lần làm bâng khuâng xao xuyến lòng người nghе. Nhất là cái giọng người Bắc khi vào Nam đã thay đổi nó nhẹ nhàng, ngang ngang như giọng miền Nam thì tiếng lóng miền Nam càng phát triển. Dễ nghе thấy, người Bắc nhập cư nói từ “Xạo kе” dễ hơn là nói “Ba xạo”, chính điều dó đã làm tăng thêm một số từ mới phù hợp với chất giọng hơn. chất giọng đó rất dễ nhận diện qua những Mc như Nam Lộc, Nguyễn Ngọc Ngạn mà các chúng đã từng nghе trên các vidеo chương trình ca nhạc, kể chuyện,…

Đặc biệt trong dịch thuật, nếu không am hiểu văn nói của Sài Gòn miền Nam, nếu dùng googlе dịch thì câu “qua biểu hổng qua qua qua đây cũng dzậy” (câu gốc: Hôm qua qua nói qua qua mà qua hỏng qua, hôm nay qua nói qua hỏng qua mà qua qua), googlе nó dịch ra như vầy: “through through through through this gaping еxprеssion too”. Ông Tây đọc hiểu được ý thì chịu chết… Hay như câu “giỏi dữ hôn” thì googlе dịch cũng ngất ngư con lạc đà…

Trong văn nói, người Miền Nam hay dùng điệp từ cùng nguyên âm, hay phụ âm, hoặc dùng hình tượng một con vật đễ tăng cấp độ nhấn mạnh: như bá láp bá xàm, cà chớn cà cháo, sai bét bèng bеng (từ bèng bеng không có nghĩa),… sai đứt đuôi con nòng nọc,… chắc là phải cả pho sách mới ghi lại hết…

Ai người miền Nam thì cũng hiểu câu này: “thôi tao chạy trước tụi bây ở lại chơi vui hén” , ở đây chạy cũng có nghĩa là đi về, chứ không phải là động từ “chạy = to run” như tiếng Anh.

Hay và lạ hơn, cách dùng những tựa hay lời bài hát để thành một câu nói thông dụng có lẽ phong cách này trên thế giới cũng là một dạng hiếm, riêng Miền Nam thì nhiều vô kể. Thí dụ: Khi nghе ai nói chuyện lặp đi lặp lại mà không chán thì người nghе ca một đoạn: “Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi!”, hoặc khi sắp chia tay thì lại hỏi: “Đêm nay ai đưa еm về!”. Người ngoại quốc ai không biết cứ tưởng là người đó đang ca chứ hổng phải đang hỏi mình, như khi nghе ai nói chuyện mà chuyện này ai cũng biết rồi thì lại nói: “Xưa rồi Diễm…” với cái giọng mà âm “…i…ễ…m…” kéo dài tha thướt.

Tuy nhiên, do những từ này được trình bày bằng chữ nghĩa nên cách xài nhấn âm, lên giọng của người Miền Nam không thể biểu lộ hết cái hay của nó, ví dụ như riêng câu: “thằng cha mầy, làm gì mà mồ hôi đổ ướt hết áo dzậy?”. cụm từ “thằng cha mầy” kéo dài hơi lại có nghĩa là gọi yêu thương chứ không phải la mắng, tương tự khi mấy cô gái nguýt (nói): “Xí! Hổng chịu đâu”, ”Xí! cha già dịch nè!”, ”Sức mấy!”, “Ông nói gì tui ưa hổng nổi nha!”, “cha già khó ưa! ” với cách nhấn giọng thì nghе rất dễ thương và dịu dàng nhưng khó gần lắm à nghеn. Nhưng đến khi nghе câu: ”Tui nói lần cuối, tui hổng giỡn chơi với Ông nữa đâu đó nghеn!” thì coi chừng… liệu hồn đó.

Thật ra không phải người Sài Gòn ai cũng xài hết mấy từ này, chỉ có người bình dân mới dám xài từ như “Mả cha, Tổ mẹ” để kèm thеo câu nói mà thôi. Dân nhà trí thức ít ai được ba má cho nói, nói ra là vả miệng không kịp ngáp luôn, giáo dục ngày xưa trong gia đình rất là khó, nhất là mấy người làm bên nghề giáo dạy con càng khó dữ nữa.

Ra đường nghе mấy đứa con nít nói “DM” thậm chí còn không hiểu nó nói gì, về nhà hỏi lại chữ đó là gì, chưa gì đã bị cấm tiệt không được bắt chước, lúc đó chỉ nghе Ba Má trả lời: “Đó là nói bậy không được bắt chước đó nghеn!” chưa kể tới chuyện người lớn đang ngồi nói chuyện mà chạy vô xầm xập hỏi thì cũng bị la rầy liền: “chỗ người lớn nói chuyện không được chеn vô nhớ chưa?”

Đến năm 1980 thì giáo dục cũng khác hẳn ngôn ngữ bắt đầu đảo lộn ở cấp tiểu học… tiếng Sài Gòn dần dần bị thay đổi, đến nay trên các chương trình Gamе Show chỉ còn nghе giọng miền Nam với câu nói: “Mời anh trả lời ạ”, “các bạn có thấy đúng không ạ”, ạ… ạ… ạ… cái gì cũng ạ… làm tui thấy lạ. Thêm nữa, bây giờ mà xеm phim Việt Nam thì hình như không còn dùng những từ ngữ này, khi kịch bản phim, hay tiểu thuyết đặt bối cảnh vào thời điểm xưa mà dùng ngôn ngữ hiện đại lồng vào, coi phim nghе thấy nó lạ lạ làm sao đâu á…

Tò tе tí tе chút, mong rằng các bạn khi đọc những từ này sẽ hồi tưởng lại âm hưởng của Sài Gòn một trời thương nhớ!

Trân trọng,

Nguyễn Cao Trường

Liệt kê một số từ ngữ của người miền Nam Và Sài Gòn xưa:

A-ma-tưa(ơ) = hổng chuyên nghiệp (gốc Pháp Amateur)

À nha = thường đi cuối câu mệnh lệnh dặn dò, ngăn cấm (không chơi nữa à nha)

Áng chừng, đâu chừng, hổng chừng, dễ chừng = dự đoán (từ đây qua kia áng chừng 500 thước – Đâu chừng thằng Sáu chiều nay nó dìa tới đó bây)

Anh em cột chèo

Áo ca-rô = áo kẻ ô (bắc)

Áo thun ba lá = Áo thun ba lổ, Áo May Ô (bắc) gốc Pháp maillot

Áp-phe = trúng mánh, vô mánh (chạy áp-phe vớt cú chót kiếm tiền!) gốc tiếng Pháp affair

Áp-phê = hiệu ứng, hiệu quả (billard: để hết áp-phê bên trái chúi đầu cơ xuống kéo nhẹ là nó qua liền hà)

Ăn coi nồi, ngồi coi hướng = Ăn trông nồi, ngồi trông hướng

Ăn cộc đi con = ăn nhiều dô (Gò Công)

Ăn hàng = ăn uống, đi ăn cái gì nhẹ như chè, chứ không phải ăn cơm trưa-chiều

Âm binh = Cô hồn, các đảng, phá phách (mấy thằng âm binh = mấy đứa nhỏ phá phách)

Bà chằn lửa = người dữ dằn (dữ như bà chằn)

Bá chấy, bá phát = quá xá – Ngon bá chấy bò chét chó! Là ngon quá trời đất luôn!

Ba ke, Ba xạo = xạo – sau này (1975) có thêm chữ ba đía rồi bớt dần thành đía ( đừng có đía= đừng có nói xạo)

Ba lăm = 35 = già dê (dê 35)

Ba lơn = tính hay đùa cợt, chòng ghẹo người khác nhưng không gây hại, hoặc có chủ đích hại người

Bá Láp Bá Xàm =Tầm xàm – Bá láp

Bà tám = nhiều chuyện (thôi đi bà tám = đừng có nhiều chuyện nữa, đừng nói nữa)

Ba Tăng = Bảo kê gốc Pháp Patent

Bang ra đường = chạy ra ngoài đường lộ mà không coi xe cộ, hoặc chạy ra đường đột ngột, hoặc chạy nghênh ngang ra đường

Bành ki = bự

Banh ta lông = như hết chuyện (gốc từ cái talon của vỏ xe)

Bảnh tỏn, Sáu bảnh= đẹp ra dáng (mặt đồ vô thấy bảnh tỏn ghê nha)

Banh xà lỏn

Bạt mạng = bất cần, không nghĩ tới hậu quả (ăn chơi bạt mạng)

Băng = nhà băng, ngân hàng gốc Pháp (banque)

Bặc co tay đôi = đánh nhau tay đôi

Bắt kế: là do PƠRKAI KUDA mà ra, Pơkai = Thắng vào xe, Kuda = Con ngựa

Bặm trợn = trông dữ tợn, dữ dằn

Bất thình lình = đột ngột, Bất tử

Bầy hầy = bê bối, ở dơ

Bẹo = chưng ra, Bệu (gốc từ cây Bẹo gắn trên ghe để bán hàng ở chợ nổi ngày xưa)

Bẹo gan = chọc cho ai nổi điên, ứa gan

Bề hội đồng = hiếp dâm tập thể

Bển = bên đó, bên ấy (tụi nó đang chờ con bên bển đó!)

Bí lù = không biết đường trả lời, không biết

Bí xị = buồn

Biết đâu nà, biết đâu nè, = biết đâu đấy

Biết sao hôn!

Biệt tung biệt tích, biệt tăm biệt tích, mất tích, mất tiêu, đâu mất = không có mặt, mất dấu

Biểu (ai biểu hổng chịu nghe tui mần chi! – lời trách nhẹ nhàng) = bảo, nhưng câu “ai biểu” thì lại có hàm ý người kia: “tự làm thì tự chịu”

Bình thủy = phích nước

Bình-dân = bình thường

Bít bùng

Bo bo xì = nghỉ chơi không quen nữa (động tác lấy tay đập đập vào miệng vừa nói của con nít)

Bỏ qua đi tám = cho qua mọi chuyện đừng quan tâm nữa (chỉ nói khi người đó nhỏ vai vế hơn mình)

Bỏ thí = bỏ

Bồ = gọi bạn thân thiết ( Ê chiều nay bồ rãnh tạt qua nhà chở tui đi luôn nghen)

Bồ đá = bị bạn gái bỏ

Bội phần, muôn phần = gấp nhiều lần

Bồn binh = Bùng binh, vòng xoay (nay)

Buồn xo, buồn hiu = rất buồn (làm gì mà coi cái mặt buồn xo dậy?)

Buộc = cột

Bữa = buổi/từ đó tới nay (ăn bữa cơm rồi về/bữa giờ đi đâu mà hổng thấy qua chơi?)

Cà chớn cà cháo = không ra gì

Cà chớn chống xâm lăng

Cà giựt = lăng xăng, lộn xộn

Cà kê dê ngỗng = dài dòng, nhiều chuyện

Cà lăm = nói lắp

Cà Na Xí Muội = chuyện không đâu vào đâu

Cà nghinh cà ngang = nghênh ngang

Cà nhõng = rãnh rỗi không việc gì để làm (đi cà nhõng tối ngày), có khi gọi là nhõng nhõng

Cà lơ phất phơ

Cà rem = kem

Cà rề, Cà rịt cà tang = chậm chạp

Cà rịch cà tàng

Cà rởn = giởn chơi cho vui, ngoài ra cũng có nghĩa như ba lơn

Cà tàng = bình thường, quê mùa,…

Cà tong cà teo = ốm, gầy yếu

Cà tưng cà tửng

Cái thằng trời đánh thánh đâm

Càm ràm = nói tùm lum không đâu vào đâu/nói nhây

Cạn tàu ráo máng; ăn cháo đá bát = vô ơn

Càng quấy = phá phách hư hỏng

Cạo đầu khô

Cảo = kéo, rít (cảo điếu thuốc gần tới đót)

Cảo Dược = làm cho thẳng

Có chi hông? = có chuyện gì không?

Coi = thử; liền vd: Nói nghe coi? Làm coi

Coi bộ ngon ăn, ngon ăn đó nghen = chuyện dễ ăn (không liên quan tới ngon dỡ – chuyện này làm coi bộ ngon ăn đó nghen!)

Coi được hông?

Còn ai trồng khoai đất này = chính là tôi, “tôi đây chớ ai”

Còn khuya = còn lâu ( uh! mày ngon nhào vô kiếm ăn, còn khuya tao mới sợ mày!)

Con ở = người ở, (nay Oshin từ tựa đề bộ phim của Nhật)

Cô hồn, các đảng

Công tử bột = nhìn có dáng vẻ thư sinh yếu đuối – Xem thêm

Cù lần, cù lần lữa = từ gốc từ con cù lần chậm chạp, lề mề, chỉ người quá chậm lụt trong ứng đối với chung quanh … (thằng này cù lần quá!)

Cua gái = tán gái

Cụng = chạm

Cuốc = chạy xe (tui mới làm một cuốc từ Hocmon dzia Saigon cũng được trăm hai bỏ túi!)

Cưng = cách gọi trìu mến (“Cưng” dân Trảng bàng nè! Trên cưng ”dẫn” ”sài” ”dậy” hà)

Cứng đầu cứng cổ

Chả = Cha đó

Chà bá, tổ chảng, chà bá lữa = to lớn, bự

Cha chả = gần như từ cảm thán “trời ơi! ” (Cha chả! hổm rày đi đâu biệt tích dzậy ông?)

Chàng hãng chê hê = banh chân ra ngồi (Con gái con đứa gì mà ngồi chàng hãng chê hê hà, khép chưn lại cái coi!)

Cháy túi = hết tiền

Chạy, Dọt, Chẩu = đôi khi cũng có nghĩa là đi về (thôi tụi bây ở chơi tao chạy (dọt) trước à!) Chẩu: 走 nguyên gốc âm lấy từ tiếng Quảng Đông

Chạy te te = chạy một nước – Con nhỏ vừa nghe Bà Hai kêu ra coi mắt thì nó xách đích chạy te te ra đằng sau trốn mất tiêu rồi

Chạy tẹt ga, đạp hết ga= kéo hết ga, hết sức – cũng có nghĩa là chơi thoải mái – “mày cứ chơi “tẹt ga” (mát trời ông địa) đi, đừng có sợ gì hết, có gì tao lo” (ga = tay ga của xe)

Chạy u đi

Chạy vắt giò lên cổ, Chạy sút quần, Chạy đứng tóc = chại không kịp thở

Chằn ăn trăn quấn = dữ dằn

Chăm bẳm = tập trung (dòm cái gì mà dòm chi chăm bẳm vậy?)

Chậm lụt = chậm chạp, khờ

Chận họng = không cho người khác nói hết lời

Chém vè (dè)= trốn trốn cuộc hẹn trước

Chén = bát

Chèn đét ơi, mèn đét ơi, chèn ơi, Mèn ơi = ngạc nhiên

Chèo queo = một mình (làm gì buồn nằm chèo queo một mình dậy?)

Chết cha mày chưa! có chiện gì dậy? = một cách hỏi thăm xem ai đó có bị chuyện gì làm rắc rối không

Chì = giỏi (anh ấy học “chì” lắm đó)

Chiên = rán

Chình ình, chần dần = ngay trước mặt (Nghe tiếng gọi thằng Tư quay đầu qua thì đã thấy tui chình ình trước mặt)

Chịu = thích, ưa, đồng ý (Hổng chịu đâu nha, nè! chịu thằng đó không tao gả luôn)

Chỏ mũi, chỏ mỏ= xía, xen vào chuyện người khác

Chói lọi = chói sáng

Chỏng mông = mệt bở hơi tai (làm chỏng mông luôn đây nè)

Chỗ làm, Sở làm = hãng xưỡng, cơ quan công tác

Chột dạ = nghe ai nói trúng cái gì mình muốn dấu

Chơi chỏi = chơi trội, chơi qua mặt

Chùm hum = ngồi bó gối hoặc ngồi lâu một chỗ không nhúc nhích, không quan tâm đến ai (có gì buồn hay sao mà ngồi chùm hum một chỗ dậy?)

Chưn = chân

Chưng hững = ngạc nhiên

Chưng ra = trưng bày

Dạ, Ừa (ừa/ừ chỉ dùng khi nói với người ngang hàng) = Vâng, Ạ

Dạo này = thường/nhiều ngày trước đây đến nay (Dạo này hay đi trễ lắm nghen! /thường)

Dấm da dấm dẵng

Dân chơi cầu ba cẳng = dân giang hồ – cũng có nghĩa khác là chịu chơi nữa (nhìn mày giống dân chơi cầu ba cẳng quá)

Dây, không có dây dzô nó nghe chưa = không được dính dáng đến người đó

Dè chừng = coi chừng (Tui lỡ nói lớn chút ai dè nó nghe được, chứ thiệt tình tui đâu có muốn)

Dễ tào = dễ sợ

Dì ghẻ = mẹ kế

Dị hợm = quái dị, không giống ai

Dĩa = Đĩa

Diễn hành, Diễn Binh= diễu hành, diễu binh (chữ diễu bây giờ dùng không chính xác, thật ra là “diễn” mới đúng)

Diễu dỡ =????

Dọt lẹ

Dô diên (vô duyên) = không có duyên (Người đâu mà vô diên thúi vậy đó hà – chữ “thúi’ chỉ để tăng mức độ chứ không có nghĩa là hôi thúi)

Dù = Ô

Du ngoạn = tham quan

Dục (vụt) đi = vất bỏ đi (giọng miền nam đọc Vụt = Dục âm cờ ít đọc thành âm tờ, giống như chữ “buồn” giọng miền nam đọc thành “buồng”)

Dùng dằng = ương bướng

Dữ đa, Dữ hôn và …dữ …hôn…= rất (giỏi dữ hén cũng có nghĩa là khen tặng nhưng cũng có nghĩa là đang răn đe trách móc nhẹ nhàng tùy theo ngữ cảnh và cách diễn đạt của người nói ví dụ: “Dữ hôn! lâu quá mới chịu ghé qua nhà tui nhen”, nhưng “mày muốn làm dữ phải hôn” thì lại có ý răn đe nặng hơn ) Dữ đa thường dùng cuối câu ”cái này coi bộ khó kiếm dữ đa”

Dzìa, dề = về (thôi dzìa nghen- câu này cũng có thể là câu hỏi hoặc câu chào tùy ngữ điệu lên xuống người nói)

Dừa dừa (vừa) thôi nhen = đừng làm quá

Đá cá lăn dưa = lưu manh

Đa đi hia = đi chỗ khác

Đã nha! = Sướng nha!

Đài phát thanh = đài tiếng nói

Đánh dây thép = gữi điện tín

Đàng = đường (Đi một đàng học một sàn khôn)

Đánh đàn đánh đọ = Đánh đàn (học thì lo học không “đánh đàn đánh đọ” nhe hông) một cách để chê việc đánh đàn bằng cách ghép thêm hai từ láy đánh đọ phía sau

Đánh tù xầm, Quảnh tù xì = oẳn tù tì (trò chơi bằng tay ra kéo, búa, bao) gốc từ tiếng Anh: one two three

Đâm ra = thành ra

Đào hát = nữ diễn viên cải lương, Tài tử cải lương = nam

Đặng = được (Qua tính vậy em coi có đặng hông?)

Đầu đường xó chợ

Đen như chà dà (và) = đen thui, đen thùi lùi = rất là đen

Đẹp trai con bà Hai = đẹp

Đế = chen thêm (đang nói nó đế vô một câu chận họng làm tui câm luôn)

Đêm nay ai đưa em dìa = hôm nay về làm sao, khi nào mới về (một cách hỏi) – từ bài hát Đêm nay ai đưa em về của Nguyễn Ánh 9

Đi bang bang = đi nghênh ngang

Đi bụi

Đi cầu = đi đại tiện, đi nhà xí

Đi mần = đi làm

Đồ bỏ đi = đồ hết xài (người gì xài hổng dô, đúng là đồ bỏ đi mà)

Đồ già dịch = chê người mất nết tùy ngữ cảnh và cách nhấn âm, kéo dài thì sẽ có hàm ý khác

Đồ mắc dịch = xấu nết tuy nhiên, đối với câu Mắc dịch hông nè! có khi lại là câu nguýt – khi bị ai đó chòng ghẹo

Đờn = đàn

Đùm xe = Mai-ơ

Đực rựa = đàn ông, con trai

Đừng có mơ, đừng có hòng

Được hem (hôn/hơm)? = được không? chữ hông đọc trại thành hôn, hem hoặc hơm

Gác dan = bảo vệ, người gác cổng (gốc Pháp: Guardian)

Gần xịt = thiệt là gần

Ghẹo, chòng ghẹo = chọc quê

Ghét = tùy cách nhấn giọng và kéo dài thì…

Ghê = rất – hay ghê há tùy theo ngữ cảnh và âm điệu thì nó mang ý nghĩa là khen hoặc chê

Ghệ linh= em đẹp

Gớm ghiết = nhìn thấy ghê, không thích

Già dịch = Già dê

Già háp = già khằn, già cú đế

Giục giặc, hục hặc = đang gây gổ, không thèm nói chuyện với nhau (hai đứa nó đang hục hặc!)

Ghi-đông, Bọt-ba-ga

Hãng, Sở = công ty, xí nghiệp

Hay như = hoặc là

Hầm = nóng (trời hầm quá ngồi không mà người nó đổ mồ hôi ướt nhẹp)

Hầm bà lằng (gốc tiếng Quảng Đông);

Hậu đậu = làm việc gì cũng không tới nơi tới chốn

Héo queo = xụi lơ, bi xị

Hết = chưa, hoặc chỉ nâng cao mức độ nhấn mạnh (chưa làm gì hết)

Hết trơn hết trọi = chẳng, không – “Hết Trọi” thường đi kèm thêm cuối câu để diễn tả mức độ (Ở nhà mà hổng dọn dẹp phụ tui gì hết trơn (hết trọi) á!)

Hôi mợi= thôi mày ơi

Hồi nảo hồi nào = xưa ơi là xưa

Hồi nẳm = lâu lắm rồi không nhớ ngày tháng

Hổm bữa = hôm trướ

Hổm rày, mấy rày = từ mấy ngày nay

Hổng có chi! = không sao đâu

Hổng chịu đâu

Hổng thích à nhen!

Hổng xi nhê = không ăn thua, không có ý nghĩa gì hết , (Kiếm nhiêu đây tiền đâu có xi nhê gì) gốc pháp: Signifier

Hột = hạt (hột đậu đen, đỏ) miền nam ghép cả Trứng hột vịt thay vì chỉ nói Trứng vịt như người đàng ngoài

Hờm = chờ sẵn (tui hờm sẵn rồi chỉ chờ thằng kia nó chạy ra là tui cho nó một đá cho nó lăn cù mèo luôn)

Hợp gu = cùng sở thích

Hớt hơ hớt hãi = hấp tấp và sợ hãi (nó hớt hơ hớt hãi chạy vào báo tin…

Hú hồn hú vía

Kẻo = coi chừng (Trời ui ui! giờ không đi sớm kẻo trời nó mưa là ướt chèm nhẹp luôn đó nhe)

Kể cho nghe nè! = nói cho nghe

Kêu gì như kêu đò thủ thiêm = kêu lớn tiếng, kêu um trời,…

Kêu giựt ngược = kêu gấp bắt buột người khác phải làm theo ý mình (kêu cái gì mà kêu như giựt ngược người ta hà!)

Kinh thiên động địa

Khán thính giả (người xem kịch, cải lương, truyền hình,…) trong đó Khán (看): xem – Thính (聽): nghe, giả (者): người, tổng hợp lại là người nghe nhìn, giờ thì kêu ngắn gọn là khán giả: chỉ biết xem mà không nghe được, đỡ cãi

khính = ké – mặc đồ khính, đi ăn khính

Khỉ đột

Khỉ gió

Khỉ khô

Khó ưa = chê nhưng có lúc lại là khen

Khoái tỉ = thích gần chết

Không thèm = không cần (làm gì dữ dạ tui đâu có thèm đâu mà bày đặt nhữ qua nhữ lại trước mặt tui?)

Lâu lắc= chậm trễ, trễ nãi hàm ý trách móc (Kêu hoài sao ko mở cửa, làm gì trong trỏng mà lâu lắc vậy?)

Lai căng = không nguyên bản

Làm (mần) cái con khỉ khô = không thèm làm

Làm (mần) dzậy coi được hông?

Làm dzậy coi có dễ ưa không? = một câu cảm thán tỏ ý không thích/thích tùy theo ngữ cảnh

Làm gì mà toành hoanh hết zậy

Làm mướn = làm thuê

Làm nư = lì lợm, Làm cho lợi gan

Làm um lên = làm lớn chuyện

Lán cón = bảnh bao (có thể do hồi xưa ra đường chải đầu tóc bóng mượt, đánh giày bóng như gương, quần áo thẳng thớm nên ra từ này)

Lanh chanh

Lạnh xương sống

Lao-cần (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)

Láo-háo = khoảng chừng ( tuổi nó láo háo cở tuổi tao chứ mấy)

Lao-tổn (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)

Lặc lìa = muốn rớt ra, rời ra nhưng vẫn còn dính với nhau chút xíu

Lặc lìa lặc lọi =

Lắm à nhen = nhiều, rất (thường nằm ở cuối câu vd: thương lắm à nhen)

Lăn cù mèo = lăn long lóc, té ngữa

Lắt lư con lạc đà = nghiêng qua nghiêng lại

Lầm lầm lì lì = không nói không rằng mặt nghiêm tỏ ý không thích

Lần = tìm kiếm (biết đâu mà lần = biết tìm từ chỗ nào)

Lần mò = tìm kiếm, cũng có nghĩa là làm chậm chạm (thằng tám nó lần mò cái gì trong đó dậy bây?)

Lấy le = khoe đồ

Lẹt đẹt = ở phía sau, thua kém ai ( đi lẹt đẹt! Lảm gì (làm cái gì) mà cứ lẹt đẹt hoài vậy)

Leo cây; leo cây me = thất hẹn; Xong! nãy giờ chờ thấy bà, chắc thằng Tám nó cho tụi mình leo cây rồi!

Lèo = thất hẹn – hứa lèo,|

Lề mề

Lên bờ xuống ruộng

Lên hơi, lấy hơi lên = bực tức (Nghe ông nói tui muốn lên hơi (lấy hơi lên) rồi đó nha!

Liệu = tính toán (thằng Ba liệu coi đi sớm một chút kẻo bị kẹt xe thì lỡ hết chiện đó nhen!)

Liệu hồn = coi chừng

Líp-ba-ga = mút mùa Lệ Thủy, thoải mái

Lóng rày = hổm rày (thời gian gần đây)

Lô = đồ giả, đồ dỡ, đồ xấu (gốc từ chữ local do một thời đồ trong nước sản xuất bị chê vì xài không tốt)

Lộn = nhầm (nói lộn nói lại)

Lộn xộn = làm rối

Lục cá nguyệt: sáu tháng

Lục đục = không hòa thuận (gia đình nó lục đục quài), đôi khi lại có nghĩa khác (Làm gì lục đục ở sau bếp hoài vậy bây?)

Lụi hụi = ???? (Lụi hụi một hồi cũng tới rồi nè!)

Lùm xùm = rối rắm,

Lung tung xà beng

Lừng mặt = quen quá không còn sợ nữa (Chơi với nó riết nó lừng mặt mình luôn nhen)

Lười chẩy thây; đại lãn; liệt = làm biếng

Má = Mẹ

Mả = Mồ

Ma lanh, Ma le gốc Pháp (Malin)

Mã tà = cảnh sát

Mari phông tên = con gái thành phố quê mùa

Mari sến = sến cải lương

Mạnh giỏi = mạnh khỏe

Mát trời ông địa, tẹt ga = thoải mái

Máy lạnh = máy điều hòa nhiệt độ

Mắc cười = buồn cười

Mắc dịch = Mất nết, không đàng hoàng, lẳng lơ, xỏ lá, bởn cợt

Mắc địt = dỡ ẹt; một cách chê cái gì đó dỡ

Mặt chù ụ một đống, mặt chầm dầm

Mần ăn = làm ăn

Mần chi = làm gì

Mậy = mày ( thôi nghen mậy = đừng làm nữa)

Mé = phía (nhà ổng ở xích mé bên kia kìa)

Mé = tỉa nhánh

Mè nheo = Mèo nheo

Méo xẹo, buồn hiu = thất vọng (cầm bài thi nhìn điểm xong thằng Tư mặt méo xẹo, về nhà thể nào cũng bị Ba rầy)

Mét = mách

Miệt = kèm theo để chỉ một vùng đất, địa danh Miệt Hóc Môn, Miệt dưới, Miệt vườn

Miệt, mai, báo, tứ, nóc… chò = 1, 2, 3, 4, 5…

Mình ên = một mình (đi có mình ên, làm mình ên) gốc Khmer

Mò mẫm rờ rẫm sờ sẩm (hài) = mò

Mở bum, mở ban: Mở party nhấy đầm

Mợi = mày ơi

Mồ tổ! = câu cảm thán

Một lèo, một hơi = một mạch

Muỗng = Thìa, Môi

Mút mùa lệ thủy = mất tiêu

Mút chỉ cà tha

Mừng húm

Mưa thúi đất (nam bộ) xem thêm tháng mười “mưa thúi đất” để rõ hơn

Nam Tàu Bắc Đẩu

Nào giờ = từ trước tới nay

năn nỉ ỉ ôi

Niềng xe = vành xe

Nói nghe nè!

Nón An toàn = Mũ Bảo hiểm

Nổ banh xác = nói láo

Nổ dữ dội= quăng lựu đạn (ngày xưa có chuyện hay chọi “lụ đạn” vô chợ khủng bố dân lành)

Nổi cơn tam bành = giận dữ

Nước lên, nước xuống, nước rồng (thủy triều)

Nước phun-tên = nước thủy cục, nước máy, gốc Pháp fontaine

Ngang Tàng = bất cần đời

Nghen, hén, hen, nhen

Nghía = ngắm

Ngó = Nhìn, dòm

Ngó lơ = làm lơ, nhìn chỗ khác không để ý tới ai đó

Ngoại quốc = nước ngoài

Ngõ đường = ngã đường (ngõ ba ngõ tư)

Ngon bà cố = thiệt là ngon

Ngộ = đẹp, lạ (cái này coi ngộ hén)

Ngồi chồm hỗm = ngồi co chân …

Ngủ nghê

Ngựa đực, Ngựa cái = xãnh xẹ

Người Thượng = người dân tộc miền núi

Nhá qua nhá lại

Nhà đèn = công ty điện lực

Nhà thép = bưu điện – Đánh dây thép

Nhà thuốc GÁC = nhà thuốc Tây bán 24/24

Nhan nhãn = thấy cái gì nhiều đằng trước mặt

Nhào vô kiếm ăn, ngon vô đây = thách đố (dám chơi hông, ngon vô đây!)

Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi! = đừng nhắc chuyện đó nữa, biết rồi đừng kể nữa – trích lời trong bài hát Ngày đó xa rồi

Nhậu = một cách gọi khi uống rượu, bia (Nói gì thì nói giờ nhậu cái đã)

Nhí nhảnh

Nhiều chiện = nhiều chuyện

Nhìn khó ưa quá (nha)= đôi khi là chê nhưng trong nhiều tình huống lại là khen đẹp nếu thêm chữ NHA phía sau

Nhóc, đầy nhóc: nhiều

Nhột = buồn

Nhữ qua nhữ lại = đưa qua đưa lại cái gì đó trước mặt ai (tương tự “nhá qua nhá lại – nhá tới nhá lui” nhưng cấp độ mạnh hơn)

Nhựt = Nhật

Òm = dễ òm, dị òm,…

Oải chè đậu; quải chè đậu

Ông bà bô = ba má (thường những người có học vấn thì dùng từ này để nói chuyện với bạn về ba má mình)

Ông bà ông giải = Ông bà ông vãi (bắc)

Ồng Cò = cảnh sát

Ổng, Bả, Cổ, Chả = Ông, Bà, Cô, Cha ấy = ông đó ổng nói (ông ấy nói)

Pê Băm-Tám: đồ khui bia, khui nghe cái Bốp giống nổ súng P-38

Phi cơ, máy bay = tàu bay

Phờ râu = mệt

Qua bên bển, vô trong trõng, đi ra ngoải,

Quá cỡ thợ mộc…= làm quá,

Qua đây nói nghe nè! = kêu ai đó lại gần mình

Quá xá = nhiều (dạo này kẹt chiện quá xá!)

Quá xá quà xa = quá nhiều, quá đã

Quắc cần câu = nhậu say hết biết đường

Quăng lựu đạn (ngày xưa hay có chuyện quăng “lựu đạn” vô chợ khủng bố dân lành)

Quần què = (từ tục) chỉ cái quần của phụ nữ ngày có kinh nguyệt, dơ

Quấy = làm sai – dùng cho con nít thì lại khác, có ý là vừa quậy phá vừa khóc (thằng nhóc này hay khóc quấy quá!)

Quê một cục

Quê xệ

Quề trớt = huề vốn, cũng như không

Quởn = rảnh rỗi

Quới nhơn= Quý nhân =/= Cô hồn các đảng (Quới nhơn= Quý nhơn, quý nhân, người tốt đến giúp đỡ)

Ra giường (drap) = vải trãi giường (tui không tính đưa từ này vô nhưng bây giờ họ xài từ chăn, ga, gối, nệm nghe nó kỳ cục gì đâu, đã vậy còn dịch là khăn trải giường, khăn chỉ dùng để lau, cũng không thể nào lớn như cái tấm vải trãi giường được)

Ra giêng = qua năm mới, qua tết

Rành = thành thạo, thông thạo, biết (tui hồng rành đường này nhen, tui rành nó tới “sáu câu vọng cổ”

Ráo = hết

Rạp = nhà hát(rạp hát), dựng một cái mái che ngoài đường lộ hay trong sân nhà để cho khách ngồi cho mát (dựng rạp làm đám cưới)

Rân trời = Rần trời, um sùm

Rầu thúi ruột = Sầu thê thảm

Riết = liên tục, hoài – Mần riết = làm hoài

Ro ro = nhuần nhuyễn, (mới tập chạy xe honda mà nó chạy ro ro hà – nó trả bài ro ro)

Rốp rẽng (miền Tây) = làm nhanh chóng

Rốt ráo (miền Tây) = làm nhanh chóng và có hiệu quả

Rũng rỉnh = có tiền trong túi

Ruột xe = xăm

Rượt = chạy đuổi theo

Sai bét bèng beng = rất sai, sai quá trời sai!

Sai đứt đuôi con nòng nọc = như Sai bét bèng beng

Sạp = quầy hàng

Sáu Bảnh

Sấp nhỏ = tụi nhỏ, mấy đứa nhỏ

Sến = cải lương màu mè (mặt đồ gì sến quá trời dậy cha?) nhạc sến lại có ý nghĩa khác không phải là nhạc cải lương

Sến hồi xưa là người làm giúp việc trong nhà

Sên xe = xích gốc pháp chain

Sếp phơ = Tài xế

Sợ teo bu gi (sợ gần chết)

Sống lây lất qua ngày

Sụm bà chè = mệt mõi, đi hết nổi

Sức mấy = Sức mấy mà buồn = đâu buồn gì

Sườn xe = khung xe

Tả Pín Lù: Hầm bà lằng (gốc Quảng Đông)

Tà tà, tàn tàn, cà rịch cà tang = từ từ

Tài lanh

Tài khôn

Tàn mạt = nghèo rớt mùng tơi

Tàng tàng = bình dân

Tào lao, tào lao mía lao, tào lao chi địa, tào lao chi thiên,… chuyện tầm xàm bá láp = vớ vẫn

Tạt qua = ghé qua

Tàu hủ = đậu phụ

Tầm ruồng

Tầm xàm bá láp

Tần ngần = do dự (tẩn ngẩn tần ngần) Cậu Hai đứng tần ngần trước nhà cô Ba muốn gỏ cửa mà khổng dám

Tầy quầy, tùm lum tà la = bừa bãi

Té (gốc từ miền Trung)= Ngã (ngã cái ịc -chú thích anh Tuấn Khải – Mắt chú tững nó xụp thần dì mới chịu ngã cái ịc xuống gối ngủ hết biết đầu đít chỗ nào”)

Tèn ten tén ten = chọc ai khi làm cái gì đó bị hư

Teo bu-gi = Sợ gần chết (bugi gốc Pháp)

Tía, Ba = Cha

Tiền lính tính liền, tiền làng tàn liền…!

Tó = lấy, bắt

Tò te tí te = Nói chuyện – “Coi đó! nó xẹt qua tò te tí te với tui mấy câu thì xẹt đi mất tiêu”

Tòn teng = đong đưa, đu đưa

Tổ cha, thằng chết bầm

Tốp nhỏ = nhóm người nhỏ tuổi ( thường chỉ có người lớn tuổi gọi như vậy “Tốp nhỏ tụi bây coi dẹp đồ chơi cho lẹ lo rữa tay rồi lên ăn cơm nhen”)

Tới = đến (người miền Nam và SG ít khi dùng chữ đến mà dùng chữ tới khi nói chuyện, đến thường chỉ dùng trong văn bản)

Tới chỉ = cuối (Hôm nay chơi tới chỉ luôn!)

Tới đâu hay tới đó = chuyện đến rồi mới tính

Tui ưa dzụ (vụ) này rồi à nhen = tui thích việc này rồi (trong đó tui = tôi)

Tui, qua = tôi

Tụm năm tụm ba = nhiều người họp lại bàn chuyện hay chơi trò gì đó

Tử tế = tốt bụng

Tức cành hông = tức dữ lắm

Tháng mười mưa thúi đất

Thảy = quăng

Thắng = phanh

Thằng cha mày, ông nội cha mày = một cách nói yêu với người dưới tùy theo cách lên xuống và kéo dài âm, có thể ra nghĩa khác cũng có thể là một câu thóa mạ

Thâm căn cố đế = người sống ở vùng nào rất lâu rồi, dân gộc

Thậm thụt

Thân chủ: người khách quen thường xuyên

Thầy chạy

Thấy ghét, nhìn ghét ghê = có thể là một câu khen tặng tùy ngữ cảnh và âm điệu của người nói

Thấy gớm = thấy ghê, tởm (cách nói giọng miền Nam hơi kéo dài chữ thấy và luyến ở chữ Thấy, “Thấy mà gớm” âm mà bị câm)

Thấy gớm = thấy ớn

Thèo lẽo = mách lẽo (Con nhỏ đó chuyên thèo lẽo chuyện của mầy cho Cô nghe đó!)

Thềm ba, hàng ba

Thêm thắc

Thí = bố thí, cho không, miễn phí, bỏ ( thôi thí cho nó đi!) – xưa SG có nhà thương thí: bệnh nhân không phải trả tiền, thí ở đây không mang hàm ý xấu như bây giờ

Thí cô hồn

Thí dụ = ví dụ

Thiếu Tá lỗ: Thượng Sĩ, vì cái lon Thượng Sĩ giống Thiếu Tá nhưng có cái lỗ tròn

Thiệt hôn? = thật không?

Thiệt tình = cảm thán (thiệt tình! nói quài mà nó hổng chịu nghe để giờ té nằm một đống)

Thính giả (người nghe radio, đài)

Thọc cù lét, chọc cù lét = ??? làm cho ai đó bị nhột

Thôi đi má, thôi đi mẹ! = bảo ai đừng làm điều gì đó

Thôi hén!

Thơm = dứa, khóm

Thúi = hôi thối,

Thủng thẳng, Thủng thỉnh = từ từ

Thủy cục = công ty cấp nước

Thưa rĩnh thưa rãng = lưa thưa lác đác

Thước = 1 mét (Đo cho tui chừng 2 thước vải tui may cái áo dài cho sấp nhỏ)

Thưởng Lãm

Thưởng Ngoạn

Trà = Chè

Trả treo

Trăm phần trăm = cạn chén- (có thể gốc từ bài hát Một trăm em ơi – uống bia cạn ly là 100%)

Trật chìa, trật đường rầy= sai giờ giấc ( Hẹn cho đã rồi không ra làm trật chìa hết trơn hết trọi)

Trẹo Bảng họng, lẹo lưỡi = khó phát âm (nói muốn trẹo bảng họng)

Trển = trên ấy (lên trên Saigon mua đi , ở trển có bán đồ nhiều lắm)

Trọ trẹ = giọng nói không rõ ràng

Tròm trèm = cũng cở, gần tới (tròm trèm 70 tuổi rồi)

Trời thần đất lở

Trời ui ui = trời hơi tối tối

Trụi lũi = nhẵn thín (cạo râu trụi lũi)

Trừ phi =

Trực thăng = máy bay lên thẳng

Tụi mình = chúng mình

Uể oải = mệt mỏi, lừ đừ

Um xùm

Ứa gan = chướng mắt

Ưng = đồng ý, thích, chịu, … (Ưng ý)

Ướt chèm nhẹp

Ướt như chuột lội (miền Nam hay nói sai là ướt như chuột lột)

Ván ngựa =giống cái sập bằng cây mà hay gọi là đi-văng, có ba tấm gỗ dày đặt lên 2 cặp chân, gọi là bộ ngựa ???

Vầy = như vậy (làm vầy nè = làm như vậy nè)

Vè xe = chắn bùn xe

Vỏ xe = lốp

Xa lắc xa lơ: xa thiệt xa

Xả láng sáng về sớm = Cứ thoải mái không lo gì hết

Xà ích ( Sãis) có nghĩa là Thằng đánh xe, (1930 – không sử dụng nữa từ khi có xe hơi)

Xà lỏn, quần cụt = quần đùi

Xà quần gốc Khmer

Xài = dùng, sử dụng

Xảnh xẹ, Xí xọn = xảnh xẹ = làm điệu

Xe Cá = giống xe thổ mộ nhưng không có mui, dùng để chở hàng, không chở người

Xe ba gác = xe ba bánh dùng để chở đồ , xe ba gác máy ( như xe ba gác nhưng gắn thêm máy chứ không đạp)

Xe cam nhông = xe tải

Xe đò = xe chở khách, tương tự như xe buýt nhưng tuyến xe chạy xa hơn ngoài phạm vi nội đô (Xe đò lục tỉnh)

Xe Honda = xe gắn máy ( có một thời gian người miền Nam quen gọi đi xe Honda tức là đi xe gắn máy – Ê! mầy tính đi xe honda hay đi xe đạp dậy?)

Xe hơi = Ô tô con

Xe nhà binh = xe quân đội

Xe ôm

Xe thổ mộ

Xẹp lép = lép xẹp, trống rổng ( Bụng xẹp lép – đói bụng chưa có ăn gì hết)

Xẹt qua = ghé ngang qua nơi nào một chút (tao xẹt qua nhà thằng Tám cái đã nghen – có thể gốc từ sét đánh chớp xẹt xẹt nhanh)

Xẹt ra – Xẹt vô = đi ra đi vào rất nhanh

Xí = hổng dám đâu/nguýt dài (cảm thán khi bị chọc ghẹo)

Xi-cà-que: đi cà nhắc

Xi nhan = ra hiệu (gốc từ tiếng Pháp: signal)

Xì-tin= style

Xí xa xí xầm, xì xà xì xầm, xì xầm= nói to nhỏ

Xí xọn

Xí cái bùm bum

Xía = chen vô (Xí! cứ xía dô chiện tui hoài nghen!)

Xĩa răng = không đủ chi phí (Làm muốn chỏng mông mà hổng đủ xĩa răng nữa)

Xĩa xói = châm chọt

Xiết = Làm hết xiết (làm không nổi) Nhưng Ở một số vùng tây nam bộ (Cà Mau) cũng có nghĩa là: Nhanh- Ví dụ; Làm xiết xiết = Làm nhanh nhanh, Chạy xiết đi = Chạy nhanh đi

Xiên lá cành xiên qua cành lá = câu châm chọc mang ý nghĩa ai đó đang xỏ xiên mình ???? (gốc từ bài hát Tình anh lính chiến- Xuyên lá cành trăng lên lều vải)

Xỏ lá ba que = giống như chém dè (vè), tuy nhiên có ý khác là cảnh báo đừng có xen vào chuyện của ai đó trong câu: “đừng có xỏ lá ba que nhe mậy”

Xỏ xiên = đâm thọc, đâm bị thóc chọc bị gạo,… (ăn nói xỏ xiên)

Xú chiên = áo lót nữ – gốc tiếng Pháp

Xì líp = quần lót

Xụi lơ

Xưa như trái đất, hồi nẩm, cái thời ông Cố ông Sơ ông Sờ ông Sẩm = xưa thiệt là xưa

Xưa rồi diễm = chuyện ai cũng biết rồi (gốc từ tựa bài hát Diễm xưa Trịnh Công Sơn)

Y chang, Y đúc, Y khuôn, y bong = giống nhau


 

“Anh phải sống” *- Nguyễn Đan Tâm

Kimtrong Lam

July 13, 2025 

Nguyễn Đan Tâm

Chiếc ghe dài khoảng mười mấy thước, chở theo gần 50 người, (Hình: BBC)

Chiếc ghe dài khoảng mười mấy thước, chở theo gần 50 người, từ từ tách bến một con rạch thuộc tỉnh Bến Tre. Trong đêm vắng, đồn công an biên phòng cũng im lặng vì đã có thủ tục đầu tiên. Chẳng bao lâu, ghe ra sông lớn, trực chỉ biển đông. Trừ tiếng máy, tất cả đều yên lặng, phó thác cho số mệnh. Trời sáng hẳn, biển cả mênh mông, gió thổi mạnh. “Thoát rồi!” anh tài công cho biết. Mọi người bắt đầu nhốn nháo, xoay trở, tìm chỗ đi lại vì suốt đêm nằm một chỗ. Trong số khách vượt biên, có một gia đình 2 vợ chồng bác sĩ trẻ và 2 đứa con khoảng 3, 4 tuổi.

Ngày thứ nhứt,

Một ngày qua đi. Mặt trời mọc bên trái, lặn bên phải. Trời nước bao la. Ghe  chạy về hướng Nam.

Ngày thứ hai,

Chiều hôm nay, anh tài công, với kinh nghiệm lâu năm trên biển, sau khi nhìn trời, cho hay ngày mai có dông bão. Đó là điều ít thấy trong mùa nầy.

Ngày thứ ba,

Buổi chiều. Trời đang trong sáng. Bổng nhiên mây đen vần vũ kéo đến. Mưa nặng hột đập vô thân ghe nghe chan chát. Gió bắt đầu thổi mạnh. Càng lúc càng mạnh hơn. Sóng nước như căn nhà lầu 2, 3 từng đưa chiếc ghe lên cao rồi dập xuống. Chiếc ghe chuyển động như sắp bể nát.Tiếng kêu khóc, cầu Trời, khẩn Phật vang lên. Cứ thế tiếp diễn mãi. Cuối cùng, lúc nửa đêm, một đợt sóng khổng lồ, xé chiếc ghe thành từng miếng, hất tất cả những gì trên ghe xuống biển. Mạnh ai nấy ôm ván hay bất cứ thứ gì có được, để mong sống sót qua cơn thịnh nộ của biển. Hai vợ chồng trẻ và hai đứa nhỏ đeo vào một miếng ván nhỏ trôi bấp bênh trên sóng dữ. Miếng ván không đủ cho bốn người. Hai đứa trẻ nằm trên đó là đủ làm cho miếng ván chìm xuống nước. Mỗi lần sóng tới là uống nước biển. Trời tối quá, không còn thấy được người xung quanh để cầu cứu. Hơn nữa, bây giờ ai cũng lo lấy thân.

Ngày thứ tư,

Trời sáng hẳn. Cả gia đình nhấp nhô theo sóng biển. Gió đã giảm cường độ, nhưng sóng còn cao như  mái nhà, đủ vùi dập mọi vật xuống lòng biển. Một ngày mệt mỏi, khát nước. Hai đứa bé nằm trên miếng ván ngủ say. Xung quanh chẳng thấy ai. Các mảnh vỡ của chiếc ghe trôi bập bềnh. Trời nước mênh mông.

Ngày thứ năm.

Thêm một ngày nữa trôi trên biển cả. Tổng cộng 3 ngày ngâm trong nước biển. Lạnh. đói, khát, rã rời. Người vợ quá mệt, thều thào nói những lời sau cùng. Bớt được một người thì hy vọng sống sót của những người còn lại lên cao. Anh phải sống để lo cho con. Rồi nàng buông tay khỏi tấm ván. Người chồng đau đớn nhìn vợ chết mà không làm gì được. Bản thân anh cũng đuối lắm rồi.

Ngày thứ sáu,

Ba cha con không còn hơi sức. Chỉ tựa vào miếng ván để khỏi chìm. Không một bóng người. Không một chiếc tàu. Hy vọng được cứu giúp tan thành mây khói. Trong cơn mơ màng, người chồng buông tay theo vợ với hy vọng con mình trôi vô bờ mau hơn.

Ngày thứ bảy,

Trên một bãi biển ở Malaysia, một thanh niên đang bơi vào bờ. Đó là người tài công của chuyến vượt biên. Anh đã lội ròng rã hai ngày đêm với giúp sức của miếng ván ghe trôi bập bềnh. Anh là người duy nhứt sống sót khi ghe bị chìm vì nhờ lội giỏi và quen chịu  sóng gió. Những người khác cũng như hơn 100.000 người vượt biên, vùi thây dưới lòng đại dương, đem hy vọng xuống lòng biển cả, uất hận ngàn năm còn đó.

Nguyễn Đan Tâm 

(riêng tặng thuyền nhân Lisa)


 

ĐẠO CHÚA  VỚI  LUÂN  HỒI

Trong giới trí thức Phương Tây ít năm gần đây, người ta háo hức chạy theo Phật Giáo và tỏ ra rất hâm mộ Thuyết Luân Hồi vì cho rằng chỉ có nó mới có thể giải quyết được rốt ráo vấn đề sinh tử, tử sinh của con người. Trước tình hình không mấy sáng sủa đó, những người tha thiết với việc bảo vệ Đức Tin Công Giáo không  thể thờ ơ. Mới đây, để chuẩn bị cho Đại Lễ Phục Sinh, Đức Hồng Y Godfried Daneels, Tổng Giám Mục Malines ( Bỉ ) đã cho phổ biến Thư Mục Vụ mang tựa đề “Bên kia cõi chết” trong đó ngài  nhấn mạnh những khác biệt căn bản giữa Đức tin Kitô Giáo vào sự Phục Sinh và niềm tin vào Luân Hồi” ( KinhThanhvn.com ).

Để có thể nhận ra  sự khác biệt ấy là như thế nào, thiết nghĩ cũng cần nên biết quan điểm của Thư Mục Vụ về cả hai lãnh vực Phục Sinh và Luân Hồi.

Về  sự Phục Sinh được đề cập thì đây không phải sự Sống Lại của Đức Kitô nhưng là của mọi con người sau khi chết. “Cái chết không có nghĩa là sự  kết  thúc của hữu thể nhân loại, họ vẫn tiếp tục sống bên cạnh Thiên Chúa là Đấng đưa họ vào mãi mãi  trong cuộc  sống mới cùng với một thân xác được tôn vinh, tất cả những điều này vì cái chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô. Đấng không ở lại trong mồ nhưng quyền uy  Thiên Chúa đã làm cho Ngài về lại  cõi sống” (KinhThanhvn.org).

 Còn đây là  cái hiểu về Luân Hồi: “Sau khi chết, hữu thể nhân loại trở về lại cuộc sống dương thế nhưng là trong một thân xác khác. Tiến trình này thay đi đổi lại một số lần không xác định được, như vậy có khả năng “làm lại cuộc đời” (KinhThanhvn.org).

Ta có thể tóm kết sự khác biệt ấy  thế này:

Phục Sinh  được hiểu  như là con người chỉ sống có một kiếp sống và sau khi chết đều được về sống bên cạnh Thiên Chúa. Còn Luân Hồi thì phải trải qua vô số kiếp không thể xác định.

Lập luận sau khi chết, con người đều được phục sinh còn được khẳng định thêm một lần nữa: “Sau cuộc sống trần thế này, cuộc sống duy nhất và không còn tái hiện nữa. Thiên Chúa  sẽ hồi sinh chúng ta, mỗi người theo cách cá nhân như Người đã làm cho Con của Người. Vì Người yêu mỗi người chúng ta theo từng cá thể, và tất cả chúng ta trong mắt Người đều mang một danh tính duy nhất. Chúng ta  không phải là một hạt ngọc trai ở vòng cổ gồm những cuộc tái sinh  không ngừng diễn ra để rồi không ngừng tiến đến cái chết. Cái chết  đã bị Đức Kitô  đánh bại một lần cho tất cả. Vì thế chúng ta được giải thoát khỏi sự chết và khỏi mọi sự luân hồi” (KinhThanhvn.org ).

Vấn đề có hay không sự khác biệt giữa Phục Sinh và Luân Hồi sẽ được bàn tới sau. Nhưng nếu bảo rằng Đức Kitô đến để giải thoát tất cả  khỏi sự chết và khỏi mọi sự luân hồi là điều không thể chấp nhận. Tại sao? Bởi như thế  là chẳng hiểu một chút chi cả về Phục Sinh lẫn Luân Hồi.

Đức Kitô đến cõi thế như  lời Ngài  nói, mục đích là để rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Lc 4, 42 – 43)  và Nước Trời ấy là nước mầu nhiệm nội tại, cần phải hết sức nỗ lực mới có thể vào “Luật pháp và tiên tri đến Gioan là hết. Rồi từ đó Tin Mừng Nước Trời  được rao giảng và ai nấy đều phải nỗ lực mà vào” (Lc 16, 16).  Chúa đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời là để cho ta biết tìm đường mà  “VÀO” (Thể Nhập), chứ làm gì có cái chuyện cứu tất cả  ra khỏi luân hồi?

Luân Hồi là một luật và luật này bao quát trong cả hai lãnh vực vô tình cũng như hữu tình. Quả đất xoay quanh cái trục nghiêng của  chính nó, đồng thời quanh mặt trời. Phía hướng về mặt trời  thì sáng, phía bị khuất thì tối. Hết tối lại sáng, hết sáng lại tối, đó là luân hồi. Ngoài ra còn có bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông xoay vần đắp đổi, đó là luân hồi. Hạt gieo xuống  nảy mầm thành cây, cây ra hoa kết quả, quả lại được gieo xuống  để nảy mầm thành cây, đó là luân hồi. Thở ra  rồi lại hít vào, hít vào rồi lại thở ra, đó là luân hồi.

Đấy là trong giới vô tình, còn trong giới hữu tình thì luân hồi lại gắn liền với nghiệp báo gọi là nghiệp báo luân hồi. Tạo nghiệp thiện sẽ được  quả thiện, tạo nghiệp ác sẽ gặp quả ác v.v… Luân hồi là một định luật mà hễ đã là luật thì không bao giờ có thể thay đổi.  Đức Kitô đến không phải để  phá luật: “Chớ tưởng Ta đến để phá luật pháp hoặc ngôn sứ. Ta đến không phải để phá đâu nhưng là để kiện toàn” ( Mt  5, 17 ).

Vả lại, chính Chúa cũng công nhận luật luân hồi  khi Ngài ám chỉ việc Ngôn Sứ Elia tái sinh nơi Gioan Baotixita ( Mt 17, 10 – 13 ).  Chúa đến không phải để phá luật  nhưng kiện toàn, nghĩa là  Ngài đem lại  cho việc thi hành luật một giá trị mới,  đó là  thể nhập ( VÀO )  Nước Trời ở nơi mỗi một tâm hồn.

Điều kiện thiết yếu cho việc  thể nhập ấy, trước hết là cần phải tái sinh. Đức Kitô nói  với Nicôđêmô:  “Quả thật, Ta nói cùng ngươi, nếu ai không tái sinh thì không thể  thấy được Nước Trời” ( Ga 3, 3 ). Tái sinh là sinh lại, đồng thời cũng tức là Phục Sinh. Chúa nói bất cứ ai  cũng phải tái sinh mới  vào được Nước Trời,  chứ không phải hễ cứ chết là  được  phục sinh về sống bên cạnh Thiên Chúa đâu?  Phục sinh  tức là tái sinh nhưng nghĩa tái sinh của Đạo Chúa hoàn toàn không phải là luân hồi.

  1. Phân biệt  tái sinh và luân hồi nghiệp quả

Tái sinh theo như ý của Chúa muốn nói là điều rất khó để mà tiếp nhận. Sau khi  nghe Chúa  nói con  người cần phải tái sinh mới thấy được Nuớc Trời  thì Nicôđêmô nêu ngay thắc mắc: “Người đã già thì làm sao sinh ra được ? Có thể nào vào lòng mẹ lần thứ hai mà sinh ra được  nữa sao ? ( Ga 3, 4 ).  Trước câu hỏi hết sức ngớ ngẩn ấy, Đức Kitô  một lần nữa  quả quyết và lần này giải thích có phần rộng rãi hơn: “Nếu người nào chẳng bởi nước và Thánh linh mà sinh thì không thể vào Nước Trời được. Hễ chi sinh bởi xác thịt là xác thịt, hễ chi sinh bởi Thánh Linh là Thánh Linh. Chớ lấy làm lạ vì cớ Ta đã nói với các ngươi.  Các ngươi cần phải tái sinh,  gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng nó nhưng chẳng biết nó đến từ đâu và đi đâu. Hễ người nào sinh bởi Thánh Linh thì cũng như vậy” ( Ga 3, 5 – 8 ).

Việc tái sinh của mỗi một tín hữu cần phải được thực hiện thông qua Bí Tích Rửa Tội. Phép Rửa này có người thắc mắc, vừa mới sinh ra thì nào đã có tội tình gì  đâu mà phải… rửa ?  Nghe vậy xem chừng có lý, thế nên có ai đó đề nghị  thay  cho rửa tội  thì nên gọi là nghi lễ nhập đạo.  Thế nhưng giải như  vậy là chưa hiểu được tính chất sâu xa của Bí Tích mà chính Chúa cũng đã lãnh nhận  bởi Gioan Tiền Hô: “Song Gioan  ngăn cản mà rằng: Chính tôi cần Ngài làm phép rửa mà Ngài lại đến cùng tôi sao ? Chúa đáp: Bây giờ hãy làm đi, vì chúng ta đáng phải hòan tất  mọi điều công chính như thế” ( Mt 3, 13 – 15 ). Chúa chịu phép rửa  nơi Gioan  không phải là để làm gương cho chúng ta về sau nhưng như Ngài nói: “chúng ta”, ám chỉ Ngài và Gioan  đáng phải hoàn tất điều công chính ấy. Cần nên nhớ chỉ khi Chúa chịu phép rửa xong lên khỏi mặt nước  thì tầng trời mới mở ra, “Ngài thấy Thánh Linh của Đức Chúa Trời  ngự xuống như  chim bồ câu đậu trên Ngài và này có tiếng từ trời phán: Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” ( Mt 3, 16 – 17 ).

Chúa là Đấng hoàn toàn vô tội mà cũng chịu phép rửa, điều ấy  cho chúng ta  thấy việc tái sinh  bởi nước và Thánh Thần quan hệ biết chừng nào cho phần rỗi linh hồn  của mỗi người. Mặc dù Bí Tích Rửa Tội mang một dấu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn người tín hữu.  Thế nhưng rất có thể đó chỉ là một thứ hình thức  lễ nghi  chẳng đem lại một kết quả nào nếu ta không thực sự tái sinh tức sống lại phần linh hồn.

Con người ( chúng sinh ) không ai lại không bởi tội mà sinh và sinh bởi tội như thế  là sinh trong sự chết. Tội nguyên tổ như đã biết đó là tội phân biệt thiện ác ( x. St 2, 9 ).  Mỗi khi tâm khởi phân biệt là tâm đi vào cõi chết: “Một mai ngươi ăn ắt hẳn phải chết” ( St 2, 17 ).  Tâm khởi phân biệt là đã bước vào cõi chết. Ngược lại, bỏ tâm phân biệt đi thì lại được vào cõi sống ( Tái sinh ). Như vậy tính chất sâu xa của việc tái sinh  trong Đạo Chúa  tức là bỏ đi tâm phân biệt. Điều này trái ngược hẳn với  luân hồi củng có nghĩa là tái sinh nhưng  tái sinh trong nghiệp.

Luân Hồi trong phạm vi chúng hữu tình luôn gắn  với nghiệp thế nên  gọi là luân hồi nghiệp báo ( Báo ứng ). Hiểu như vậy thì Luân Hồi  là sự trở đi trở lại  của nghiệp  mà nhân của nó là  vô minh.  Đức Phật Thích Ca  sau 21 ngày đêm tham thiền nhập định  đã giác ngộ  được chân lý của sự khổ và  nguyên nhân gây ra cho nó bao gồm trong mười hai duyên gọi là Thập Nhị Nhân Duyên  ( Vô Minh, Hành, Thức,  Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ,  Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Già,  Chết ).

Vì Vô Minh nên phát sinh dục vọng ( Hành ). Do nơi dục vọng mà nhận  biết ( Thức ). Từ chỗ nhận biết ấy mà có cái gọi là Tâm và Thân ( Danh Sắc ). Thân tâm bao gồm ngũ quan và  ý  thức ( Lục nhập ). Năm giác quan cùng với ý  thức  là sáu cánh cửa để tiếp xúc  với ngoại vật ( Xúc ). Có tiếp xúc thì có lãnh nhận ưng chịu ( Thọ ). Ưng chịu phát sinh sự yêu thích ( Ái ). Yêu thích thì muốn nắm giữ ( Thủ ) Nắm giữ đi liền với sở hữu, quyết giữ lấy ( Hữu ). Từ chỗ giữ lấy đó mà sinh  đi sinh lại  trong luân hồi lục đạo ( Thiên, nhân, Atula, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục ) ( Sinh ).  Hễ đã có sinh thì phải có già và chết ( Chết ).

Thập nhị nhân duyên diễn ra trong một vòng tròn khép kín, cái này làm nhân cho cái kia  và ngược lại vì vậy mà gọi nó là luân hồi hay vòng tử sinh, sinh diệt. Vòng sinh tử xét trong một kiếp sống  thì gọi  là phần đoạn sinh tử. Còn xét trong tính chất sâu xa của nó thì mười hai nhân duyên ấy cũng chỉ gồm thâu trong một niệm  gọi là Nhất  Niệm Vô Minh.

Trong con mắt phàm tục thì thấy  con người ta sinh ra  sống trên đời này một thời gian vắn dài nào đó rồi thì ai ai cũng phải chết, và khi chết rồi thì mờ mịt chẳng biết đi đâu, về đâu. Nhưng với con mắt của những bậc đại giác thì  kiếp sống ấy chỉ là những niệm tưởng tiếp nối, niệm này nối tiếp  niệm kia  và nếu còn ở trong vòng vô minh thì sẽ không bao giờ có thể dứt. Tôn giáo có mặt là để đem lại sự giải thoát. Thế nhưng sự giải thoát ấy cần phải được nhận thức đó là thoát ra khỏi sự vô minh ở nơi chính mình.

2.Con  đường  chuyển  hóa  của Đạo  Chúa

Có một sự thực  nhưng rất khó để mà nhận biết, đó là con người cứ nghĩ rằng mình sống với thân thể nhưng thật ra là sống với tư tưởng. Ta  ví  tư  tưởng  là  người tài xế,  còn thân thể  là chiếc xe hơi. Khi nhìn chiếc xe, thấy nó chạy bon bon chỗ này chỗ kia, quẹo trái quẹo phải, đối với người có trí khôn thì ai cũng phải nghĩ đó là do người tài xế ngồi bên trong điều khiển. Người ta chỉ nhìn  thấy chiếc xe  chứ không thấy tài xế nhưng khi xe chạy  thì biết liền trong xe có người cầm lái. Ngược lại đối với người thiểu năng tâm trí hoặc ở rừng sâu núi thẳm mới ra phố lần đâu  thấy xe chạy liền cho rằng  đó là cái xe nó chạy. Xe chạy biết ngay là có người điều khiển là người có trí khôn, ngược lại là dại là khờ.

Hiểu như vậy thì hết thảy chúng ta những con người  trần mắt thịt này  đều là dại hết bởi lẽ không hề biết phân biệt tư tưởng và người tư tưởng. Mặc dầu vậy, nói có tư tưởng và người tư tưởng  thì cũng chẳng đúng. Tại sao ? Bởi phân biệt như thế  thì cũng  chẳng khác nào công nhận có một chủ thể cho tư tưởng. Chủ thể ấy chính là “Cái Tôi”. Nếu tôi là chủ thể của tư tưởng  thì đáng lẽ ra tôi có thể điều khiển được  tư tưởng, muốn nó vui liền được vui, muốn nó hướng thượng thì liền hướng  thượng v.v…

Thực tế thì đâu phải vậy, biết bao lần khi ta đọc kinh  dự lễ nghe giảng không muốn chia lòng chia trí  hoặc… ngủ gật mà nào có được đâu ? Nhiều khi ta chẳng muốn uống rượu say xỉn  nhưng rồi bạn bè lôi kéo  lại say lại xỉn, vợ con mè nheo bực cả mình… Về ý tưởng này Thánh Phaolô  đã có một câu nói rất ư chính xác: “Vì lòng muốn ở nơi tôi  nhưng quyền lực làm điều thiện thì lại không có. Cho nên điều thiện tôi muốn thì  tôi lại không làm. Còn điều ác không muốn thì tôi lại làm. Song nếu tôi làm điều tôi không muốn  thì chẳng còn phải là tôi làm điều đó nữa, bèn là tội lỗi ở trong tôi” ( Rm 7, 18 – 20 ).

Không muốn nhưng lại cứ làm, điều ấy chứng tỏ tôi  không phải là chủ sở hữu của tư tưởng. Nói cách khác, chính tội lỗi nó làm chủ chứ không phải là tôi.  Tội lỗi làm chủ tức là nghiệp xấu nó dẫn dắt vào con đường mà mình không hề muốn. Nghiệp có thể ví  nó như một tên độc tài, nó bắt làm gì thì phải làm. Tuy nhiên nghiệp không từ trên trời rớt xuống, cũng không phải ở dưới đất chui lên mà nó  là do  chính  mình tạo nên.

Một  tên nghiện rượu,  ma túy chẳng hạn thì có ai bắt ép nó phải uống phải chích choác đâu ? Có lẽ ban đầu nó cũng thấy rượu là cay là đắng nhưng một khi đã nghiền nó rồi  thì làm nô lệ cho nó, không uống thì nó hành cho vật vã khốn khổ… Nghiệp là do mình tạo nhưng không phải cứ có nghiệp là xấu, nhưng có nghiệp xấu ác thì cũng có nghiệp thiện lành. Tạo nghiệp xấu ác phải lãnh quả xấu ác.  Trái lại tạo nghiệp thiện lành  sẽ được quả thiện lành. Quan trọng ở chỗ là phải làm cách sao  để tạo ra được nghiệp thiện nghiệp lành,  đó mới là vấn đề.

Chúng ta đọc tiếp lời Thánh Phaolô để thấy được câu trả lời:  “Vậy tôi thấy trong tôi có luật này, khi tôi muốn làm điều thiện thì điều ác lại cặp theo. Vì theo người bền trong  tôi vẫn vui thích luật pháp của Đức Chúa Trời. Nhưng tôi  thấy trong chi thể tôi  có một luật khác chiến đấu với luật trong tâm trí tôi bắt tôi làm nô lệ  cho luật của tội lỗi vẫn ở trong chi thể tôi. Ôi ! Tôi là người khốn khổ biết dường nào. Ai sẽ giải cứu tôi khỏi thân thể của sự chết này ? Cảm tạ Đức Chúa Trời đó là nhờ Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Như vậy chính mình tôi lấy tâm trí phục luật pháp của Đức Chúa Trời nhưng lấy xác thịt phục luật pháp của tội lỗi” ( Rm 7, 21 – 25 ).

Qua những lời phải nói là tâm huyết của Thánh Phaolô, một con người được ơn Chúa cho trở lại, đã cho thấy cuộc đời  tín hữu chúng ta luôn là một cuộc chiến cam go giữa hai thế lực thiện ác mà nếu không có ơn Chúa thì không một ai có thể lướt thắng.  Mỗi người là một ông vua nhưng là một thứ vua ươn hèn, không cai trị nổi đám quan quân tướng sĩ ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý ), mặc chúng tác yêu tác quái, muốn ăn ngủ, chơi bời, nói năng  nghĩ tưởng thế nào cũng được.  Biết đó là không hay không tốt  nhưng bởi trót  đã để cho chúng lấn quyền nên đành bất lực buông trôi.

Trong tất cả đám quần thần đó thì Ý  Thức là quan trọng nhất, công  rất nhiều nhưng tội cũng  lắm ( Công vi thủ, tội vi khôi ). Cứ nắm được Ý là nắm đầu được tất cả, nhưng để nắm được Ý  thì nhất định là phải có phương pháp và phương pháp ấy chính là sự chuyển hóa tâm thức.  Tâm ta từ vô lượng kiếp do bởi ảnh hưởng của tội nguyên tổ là tội phân biệt thì nay  phải nhất quyết  chuyển nó thành Tâm Vô Phân Biệt. Chúa dạy  yêu người thì đừng có phân biệt  người thân kẻ thù ( Mt 5, 43 – 44 ). Làm phúc bố thí thì đừng cho tay trái biết việc tay phải làm ( Mt 6, 3 – 4 ).  Bao lâu còn sống với Tâm Phân Biệt  thì còn quanh đi quẩn lại trong vòng tử sinh sinh tử  rất khó để mà thoát ra khỏi nó.

Điều khó ấy tự sức con người  không một ai có thể, nhưng  nếu biết cậy dựa vào Ơn Chúa  thì lại được, bởi vì “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì quyền năng của Ta nên trọn trong sự yếu đuối” ( 2Cr 12, 9 ).

PHÙNG VĂN HÓA


 

Gia Lai: Đâm chết bạn vì mâu thuẫn trên Facebook, nữ sinh lãnh 18 năm tù

Ba’o Nguoi-Viet

July 21, 2025

GIA LAI, Việt Nam (NV) – Để giải quyết mâu thuẫn một bình luận không vừa ý trên mạng xã hội, hai nữ sinh ở Gia Lai hẹn gặp nhau “nói chuyện” để rồi một bị đâm chết, một lãnh án tù.

Hôm 21 Tháng Bảy, Tòa Án Tỉnh Gia Lai đã tuyên phạt bị cáo Trần Thị Minh Thư, 20 tuổi, ở xã Tân An, huyện Đăk Pơ cũ, nay là phường An Bình, tỉnh Gia Lai, 18 năm tù về tội “giết người.”

Bị cáo Trần Thị Minh Thư tại tòa. (Hình: V.N /Tuổi Trẻ)

Đây là vụ án chấn động công luận khi cả bị cáo và bị hại đều đang là học sinh trung học.

Báo Tuổi Trẻ dẫn cáo trạng cho hay thời điểm gây án, bị cáo Thư là học sinh lớp Mười Hai, trường Trung Học Phổ Thông Y Đôn. Còn nạn nhân là em Phan Nguyễn Ngọc Hân, học sinh lớp Mười Một, trường Trung Học Phổ Thông Nguyễn Trãi, thị xã An Khê cũ.

Án mạng xảy ra bắt nguồn từ những mâu thuẫn giữa hai bên quanh việc cự cãi, thách thức nhau trên mạng xã hội.

Cụ thể, hôm 6 Tháng Ba, 2024, bị cáo Thư lên mạng xã hội Facebook, thấy em Hân bình luận “chơi kiểu nào đây bay, lẹ đi” tại dòng trạng thái của một người bạn.

Trước đó, bị cáo Thư cũng từng bình luận “kiểu nào cũng chơi, lẹ đi,” nên nghĩ rằng em Hân đã cố tình nhái lại câu của mình để khiêu khích. Do đó, bị cáo Thư đã nhắn tin cho em Hân hẹn gặp nhau trước trường mẫu giáo Sơn Ca ở phường An Bình, thị xã An Khê, để nói chuyện, giải quyết mâu thuẫn và được nạn nhân đồng ý.

Gia đình tổ chức đám tang cho nạn nhân Phan Nguyễn Ngọc Hân. (Hình: An Phát/VietNamNet)

Sau khi đi học về, em Hân cùng bốn bạn nữ đi đến điểm hẹn để gặp bị cáo Thư.

Trong lúc lời qua tiếng lại dẫn đến xô xát, bị cáo Thư đã dùng dao mang theo đâm nhiều nhát vào vùng ngực, bụng, đùi em Hân. Dù nạn nhân được đưa vào Trung Tâm Y Tế Thị Xã An Khê cấp cứu, nhưng không qua khỏi.

Cơ quan điều tra xác định, nguyên nhân gây ra cái chết của nạn nhân Phan Nguyễn Ngọc Hân là “mất máu cấp do vết thương thấu ngực, bụng làm thủng tim, rách gan, lách gây ra bởi vật sắc nhọn.”

Sau khi gây án, bị cáo Thư đã đến cơ quan công an để đầu thú. (Tr.N)


 

HÀNH TRÌNH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Maria!”.

“Đẹp biết bao khi nghĩ rằng lần hiện ra đầu tiên của Chúa Phục Sinh – theo Tin Mừng – đã diễn ra một cách cá nhân như vậy! Rằng có ai đó biết chúng ta, thấy nỗi đau và thất vọng của chúng ta, người ấy xúc động vì chúng ta và gọi tên chúng ta!” – Phanxicô.

Kính thưa Anh Chị em,

Maria – hôm nay Hội Thánh mừng kính – đã đi ra mộ Chúa từ sáng sớm khi trời còn tối mịt; nhưng trước khi nhận ra Thầy mình, cô phải trải qua một ‘hành trình’ tối mịt khác cho đến khi nghe ai đó gọi tên, “Maria!”.

Trước khi nhận ra Thầy, Maria vẫn ở trong bóng tối của chiều thứ Sáu; không chỉ một Giêsu đã chết mà thi hài Ngài dường như cũng bị đánh cắp! May thay, Maria bước dần ra khỏi sự u minh tâm linh khi ‘Ai đó’ gọi tên cô, mở mắt cô, cho cô nhận ra Thầy. “Chúa gọi ‘Maria!’. Một từ thôi, nhưng chứa cả trời cao trong đó. Sau cơn tuyệt vọng bao giờ cũng có hy vọng; sau tìm kiếm là khám phá; sau mất mát là tìm thấy!” – Fulton Sheen. Vậy mà, ngay khi khoảnh khắc tuyệt vời đó xảy đến, Maria vẫn phải vượt qua một ngả rẽ khác: Thầy không còn như trước! Vậy là phải bắt đầu một ‘hành trình’ mới – ‘hành trình’ của Thánh Thần!

Các cuộc ‘hành trình’ của Maria là một chuỗi chứng tá truyền cảm hứng cho chúng ta. Dù ít người bị bảy quỷ ám như cô, nhưng tất cả chúng ta đều bị dày vò cách này cách khác. Tất cả chúng ta phạm tội – đi trong bóng tối – có một quá khứ đáng hối tiếc; và tất cả chúng ta đều được mời gọi bước ra ánh sáng – trở nên tốt – trong Thánh Thần. “Đời sống thiêng liêng không nằm trước, sau hay ngoài cuộc sống hằng ngày. Chính giữa đời thường, Thánh Thần ẩn giấu và tỏ hiện!” – Henri Nouwen.

Cuộc sống “tốt hơn” của Maria là một cuộc sống được Thánh Thần dun dủi – quên mình vì Chúa Giêsu cách trung thành nhất. Cô không quan tâm liệu binh lính đã nhìn thấy cô dưới chân thập giá, liệu họ sẽ quấy nhiễu cô khi cô đến mồ để xức xác Thầy. Cô chỉ nghĩ đến hành động yêu thương cuối cùng có thể dâng lên Ngài. Và vì lòng trung thành không lay chuyển của cô, Chúa Giêsu đã ban cho cô một món quà ngoài sức tưởng tượng. Ngài hiện ra với cô, sai cô đi làm ‘tông đồ cho các tông đồ’.

Anh Chị em,

“Maria!”. Tiếng gọi đích danh với âm vực quen thuộc của “Người Làm Vườn” đã khiến trái tim Maria giật thót – vì “Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi”. Nếu thuở địa đàng, sự chết đã đến với loài người trong một khu vườn; thì nay, sự sống trở lại với nhân loại cũng trong một khu vườn! Vui biết bao, ‘lần hiện ra đầu tiên’ của Chúa Phục Sinh đã diễn ra theo ‘cách cá nhân’ đến thế! Không phải tôi đi tìm Chúa, nhưng Chúa đi tìm tôi ngay trong ‘hành trình’ tối mịt của tôi! Ngài quan tâm cuộc sống của tôi, Ngài nuôi dưỡng nó; Ngài chết và sống lại để cứu nó. “Chúa Giêsu đến tìm chúng ta trong bóng tối. Ngài đón nhận chúng ta như chúng ta là, và đồng hành đưa ta về phía ánh sáng!” – Jean Vanier.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con dám cất bước từ ‘cái tôi’ tăm tối của con, dẫu đó là sự khởi đi của một ‘hành trình’ khá khó khăn và khắc nghiệt, nhưng nó nhất định cần thiết!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

**********************************************

Lời Chúa KÍNH THÁNH MARIA MAĐALÊNA 22/7, Thứ Ba Tuần XVI Thường Niên

Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.   Ga 20,1-2.11-18

1 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 2 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói : “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”

11 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, 12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. 13 Thiên thần hỏi bà : “Này bà, sao bà khóc ?” Bà thưa : “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !” 14 Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su. 15 Đức Giê-su nói với bà : “Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?” Bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn, liền nói : “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” 16 Đức Giê-su gọi bà : “Ma-ri-a !” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri : “Ráp-bu-ni !” (nghĩa là ‘Lạy Thầy’). 17 Đức Giê-su bảo : “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’.” 18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ : “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.


 

Đạo vào Đời – CHUYỆN THIỀN THỨ BẢY

Đạo vào Đời

 Cha Gioan Tauler, một vị linh mục đạo đức vẫn luôn cầu xin để được gặp một người chỉ dẫn cho ngài thiên đàng ở đâu. Một ngày kia, có tiếng lương tâm giục ngài ra trước cửa nhà thờ để gặp vị quân sư đó. Nhìn trước nhìn sau, cha chẳng thấy ai, ngoại trừ một người ăn mày, quần áo rách rưới, mặt mũi bẩn thỉu, hôi thối. Cha đến gần chào người hành khất: 

– Chào ông, chúc ông may mắn. 

Người ăn mày thản nhiên trả lời: 

– Chào cha, tôi có bị rủi ro bao giờ đâu. 

– Vậy thì xin Thiên Chúa ban cho ông mọi điều sung sướng. 

– Ồ, thưa cha, đời tôi chưa bao giờ thấy khổ cả. 

Cha Tauler rất ngạc nhiên về cách nói năng của người này. Cha hỏi tiếp: 

– Nếu Chúa bắt ông xuống hỏa ngục, ông có buồn khổ không? 

Người hành khất trả lời không cần suy nghĩ: 

– Nếu Chúa làm như vậy thì tôi sẽ ôm ghì lấy Chúa và đưa Chúa xuống hỏa ngục luôn. Tôi thà ở hỏa ngục với Chúa còn hơn ở Thiên Đàng mà không có Ngài. 

Vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa. Cha hạch hỏi: 

– Này ông, ông có thể cho tôi biết ông từ đâu tới đây? 

– Thưa Cha, tôi từ Thiên Chúa mà đến. 

– Nhưng ông tìm thấy Thiên Chúa ở đâu? 

– Ở ngay khúc quẹo, chỗ mà tôi từ bỏ mọi của cải vật chất trên đời này. 

Tới đây, Cha Tauler không thể chờ đợi thêm được nữa. Ngài hỏi nhanh: 

– Thế thì, ông là ai? 

Người ăn mày nói một cách trịnh trọng: 

– Tôi là Vua. 

Cha Tauler quỳ xuống trước mặt người ăn mày: 

– Tâu Đức Vua, Ngài có thể cho con biết vương quốc ngài ở đâu không? 

– Vương quốc của Ta ở ngay trong tâm hồn Ta. 

 *****

Bạn thân mến, 

Nhiều lúc trên đời, chúng ta đã mất thời giờ viển vông đi tìm bình an, hạnh phúc ở những nơi không bao giờ có. 

Hàng ngày chúng ta lái xe đi làm trên cùng một con đường, vào cùng một giờ khắc trong ngày, vậy mà sao có hôm một chiếc xe chớp đèn xin đi trước thì ta mỉm cười, giảm tốc độ lại và còn đưa tay lên mời họ qua. Trái lại, có ngày gặp trường hợp tương tự, ta lại cáu kỉnh chửi thề mà không cho xe nào qua mặt? Tại sao con cái ta nô đùa trong nhà mà có lúc chúng ta cảm thấy êm đềm, hạnh phúc; nhưng có lúc ta lại cảm thấy ồn ào, khó chịu, nên la rầy và bắt chúng phải ở yên? 

khi mà con người biết quên mình hy sinh cho hạnh phúc người khác, chia sẻ với người khác”. Thì ra sự bình an, vui vẻ, hạnh phúc không phải do ngoại cảnh tạo ra, mà lại ở ngay trong chính TÂM ta. Khi lòng ta an vui thì ngoại cảnh cũng đẹp đẽ. Khi lòng ta bất ổn thì ngoại cảnh chỉ tạo nên sầu muộn.

Cảnh giới Thiên Đàng hay Địa ngục từ trong TÂM ta vậy !

From: KimBang Nguyen


 

Nhịn đi con, đừng hơn thua tranh chấp

Người kể chuyện đời

Nhịn đi con, đừng hơn thua tranh chấp

Bởi tục trần vật chất tựa khói mây

Ánh nguyệt soi còn lúc khuyết khi đầy

Của trăm họ sao về tay một chủ?

 

Nhịn đi con, biết bao nhiêu mới đủ

Rời túi tham để khỏi phụ tình đời

Mình thêm giàu để người khác chơi vơi

Nhiều tiền của cũng phải rời cõi thế.

 

Nhịn đi con, đời chính là dâu bể

Không thương người, có trí tuệ được chi

Uy quyền nào, bằng đạo đức từ bi?

Bởi tất cả không gì hơn Phước Báu.

 

Nhịn đi con, để hiểu xa nhìn thấu

Trong nguy nan chỉ phước báu cứu mình

Vàng, bạc, xe, nhà… là của phù sinh

Chỉ có nghiệp mới bên mình mãi mãi.

 

 

Nhịn đi con, để thấy lòng thư thái

Được nụ cười, ôn lại buổi ban sơ

Thân hồn nhiên vui vẻ với tuổi thơ

Thật hạnh phúc là bến bờ thân thiện.

 

Nhịn đi con, cho khổ,nguy, tan biến

Sống hoà mình hiếu thiện để lòng thanh

Đêm an yên với giấc ngủ trong lành

Ngày thoải mái với công danh chính thuận.

 

Nhịn đi con, và tâm an trí vững

Tin quanh ta, Nhân Quả chứng không rời

Làm thiện hiền, tin đến phút tàn hơi

Rời cõi tạm có Phật trời tiếp đón…!

Sưu Tầm


 

THÁCH THỨC – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ!”.

Một thiếu nữ xinh đẹp đến gặp một Linh mục, đặt một câu hỏi đầy thách thức, “Xin cha cho biết sống đời dâng hiến là gì?”. Đầy thách đố, vị Linh mục đưa ra một tờ giấy trắng và nói, “Đó là ký tên bên dưới và để Chúa điền vào bên trên bất cứ điều gì Ngài muốn!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Không biết thiếu nữ kia có ký bên dưới tờ giấy hay không, nhưng sự thật là, con người luôn muốn ‘thách thức’ Thiên Chúa! Đó là một sự thật khó tin. Nhưng điều khó tin hơn là, Thiên Chúa luôn ‘thua’ con người; Ngài chiều nó. Lời Chúa hôm nay cho thấy điều đó.

Sau 430 năm ‘ở đậu’ trên đất mà dường như Israel chỉ hạnh phúc vỏn vẹn hơn kém ‘mấy chục năm lẻ’, để ‘mấy trăm năm’ còn lại hầu như là nô dịch; thì cuối cùng, Chúa cũng giải thoát họ. Ấy thế, vừa ra khỏi đó, dân ‘thách thức’ Chúa và Môsê, “Bên Ai Cập không đủ mồ chôn hay sao?”; hoặc đau đớn hơn, “Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai Cập!” – bài đọc một. Chỉ 4 ngày, Israel ra khỏi Ai Cập; nhưng phải đợi đến 40 năm, Chúa mới có thể lấy ‘Ai Cập’ ra khỏi lòng họ! Cũng thế, Thiên Chúa có thể đưa bạn ra khỏi hoang địa chỉ trong một đêm, nhưng để đưa hoang địa ra khỏi bạn, Ngài cần một đời!” – Paul Tripp. Môsê trấn an, “Đừng sợ! Chúa sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ việc ngồi yên!”. “Chính sự ‘ngồi yên’ đó mới là cuộc chiến lớn nhất – vì nó đòi phải tin!” – John Ortberg. Và quả Ngài đã chiến đấu và Israel có thể cất lên, “Nào ta hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng!” – Thánh ca Xuất Hành.

Xu hướng ‘thách thức’ một lần nữa lộ rõ khi một nhóm kinh sư biệt phái kéo đến thưa Chúa Giêsu, “Chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ!”. Quan hệ của họ với Ngài là quan hệ ‘tiện ích’ – không phải hiệp thông. Bài học ở đây là, thay vì ‘thách thức’ Thiên Chúa, hãy để Ngài ‘thách thức’ bạn và tôi! Chính những ‘thách thức’ của Ngài đối với bản thân chúng ta lại là nhân tố để mỗi người có thể lớn lên trong khiêm nhường, vị tha và hoán cải. “Thách thức Thiên Chúa là hành động của kẻ hoài nghi. Đón nhận thách đố của Ngài là hành động của người môn đệ!” – Timothy Keller.

Anh Chị em,

“Chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ!”. Hãy thôi thách đố Thiên Chúa, than trách Ngài; nhưng “cứ việc ngồi yên” và vững tin! Ngài là Cha chúng ta, Đấng thường làm những điều khó tin để chúng ta tin Ngài hơn. Và gì nữa? Hãy bắt đầu bằng sự ăn năn chứ không bằng những mặc cả. Khi tôi ăn năn, tôi tin nhận Chúa Giêsu – Đấng Ngài sai đến – Đấng xứng với tất cả tình yêu của tôi; tôi cảm thấy hối hận vì đã yêu Ngài quá ít nhưng xúc phạm Ngài quá nhiều. “Khi chúng ta đến với Thiên Chúa bằng những câu hỏi thách thức, Ngài im lặng. Nhưng khi ta đến với tấm lòng thống hối, Ngài lên tiếng!” – C.S. Lewis. Bấy giờ là lúc Ngài bắt đầu công việc thường làm của Ngài – biến đổi – đó chính là phép lạ Chúa sẽ làm trên bạn và tôi!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, mỗi khi mặt trời mọc, chớ gì con dám ký tên bên dưới ‘tờ giấy’ ngày sống của con và Chúa có thể viết bên trên bất cứ những gì Chúa muốn!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*********************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XVI Thường Niên, Năm Lẻ

Trong cuộc phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với thế hệ này.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.  Mt 12,38-42                             

38 Khi ấy, có mấy kinh sư và mấy người Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su rằng : “Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ.” 39 Người đáp : “Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Giô-na. 40 Quả thật, ông Giô-na đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy. 41 Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng ; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa. 42 Trong cuộc phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với thế hệ này, và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn ; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa.”