LÒNG TRẮC ẨN….!

Xuyên Sơn

LÒNG TRẮC ẨN….!

Có một cụm danh từ rất hay trong tiếng Việt mà ở thời đại này không mấy khi được sử dụng nữa…!

Đó là “lòng trắc ẩn”.

Trắc ẩn, tức là những gì cảm nhận được những điều mắt không thể thấy, tai không thể nghe…

Nếu bạn bắt được một đứa bé ăn cắp hai ổ bánh mì vì quá đói, thay vì bỏ tù nó, bạn chỉ cho nó đến xin làm việc ở đâu đấy, đưa lại cho nó một ổ để ăn cầm hơi qua cơn đói, rồi dặn nó cả đời tuyệt đối không bao giờ được làm những việc như trộm cắp nữa…

Nếu bảo vệ cửa hàng sách bắt gặp một trẻ con ăn cắp và dấu cuốn sách, thay vì báo cảnh sát hay cha mẹ đứa bé…, bảo vệ “có thể” không thấy hay cho tiền để mua cuốn sách.

Biết đâu sau này, lòng đam mê đọc sách và những lời dặn dò đừng trộm sách sẽ giúp đứa trẻ trở thành người thành đạt.

Đó là lòng trắc ẩn…!

Câu chuyện Edison thuở nhỏ đã dạy các bạn học cách đánh morse để “qua mặt” thầy Hiệu trưởng khiến bị đuổi học khỏi trường.

Người mẹ thương xót cho con đã dời nhà đi để tìm trường cho con học.

Và Edison đã trở thành nhà bác học vĩ đại của nhân loại với hơn một ngàn phát minh đem hữu ích cho mọi người…!

Đó là lòng trắc ẩn của người mẹ…!

Người có lòng trắc ẩn, chính là người có tấm lòng bao dung, biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, cảm thông cho nỗi khổ của họ.

Nếu con người không có lòng trắc ẩn, thì cũng sẽ không có những thứ như nhân cách, hay tình thương giữa người với người….!

“Lòng trắc ẩn” cũng là con đường đi trong cuộc sống, là cái chủ đích để đạt được ” cái thứ cao nhất mà người xưa coi là nếu có được thì sẽ có cả thiên hạ và lòng người-đắc nhân tâm…!

Vậy muốn được “lòng trắc ẩn” con người cần có điều gì..?

Chính là Nhân-Văn…!

*Nhân là người hướng thiện, bao dung và có trái tim quãng đại…!

*Văn là phát triển chủ yếu hai việc: một là khả năng trắc ẩn, hai là kỹ năng diễn đạt hành động.

Trước đây, Văn là công cụ duy nhất để một người được đặt mình vào trong cuộc đời của rất nhiều người khác và học những bài học làm người từ những người đó…!

Hôm nay, ngoài Văn thì đã có điện ảnh, Internet, các phương tiện nghe nhìn,…

Do đó, Văn không còn là phương tiện duy nhất nữa…!

“Lòng trắc ẩn” là công cụ và là phượng tiện giúp con người gần nhau hơn, biết chia sẻ, giúp đỡ và cưu mang cho nhau…!

“Lòng trắc ẩn” không chỉ là cảm thấy tiếc nuối, đau buồn hay thương hại người khác.

“Lòng trắc ẩn” cũng không có nghĩa là bạn phải chấp nhận mọi đau khổ của thế mọi người vào tâm trí bạn.

“Lòng trắc ẩn” là cảm giác hòa hợp với tâm trạng của người khác và có ý định hành động để giảm bớt đau khổ hay chia sẻ niềm vui với người ấy…

“Lòng trắc ẩn” đơn giản chỉ là dấu hiệu, biểu hiện của tâm từ bi nhân ái….!

Một câu nói thật hay:

“Tình yêu thương từ trái tim sẽ nhận lại lại vô vàn yêu thương của những trái tim…!”

Đó chính là “LÒNG TRẮC ẨN…!”

(sưu tầm)


 

KHOẢNG TRỜI XÁM

Luân Lê

KHOẢNG TRỜI XÁM

Sau 5 ngày cấp cứu, nam sinh lớp 10 tử vong sau khi bị nhóm bạn đánh hội đồng; trước đó nữa thì một nam sinh lớp 11 đâm chết kẻ truy đuổi mình từ nhóm học sinh lớp trên đang tìm cách quây đánh; và giờ đây một nữ sinh lớp 8 bị đánh gãy 3 xương sườn sau bởi một nhóm bạn kéo vào nhà vệ sinh tấn công dữ dội, trong khi nhiều bạn nam đứng nhìn rất đông xung quanh mà không ai can ngăn hay có hành động nào đáng kể để bảo vệ nạn nhân cũng như ngăn chặn sự côn đồ của đám bạn thủ phạm.

Làm sao có thể nói hết về nỗi bất hạnh này, khi nó hoàn toàn vượt qua tính gia đình hay cá thể đơn lẻ, nó trở thành một tình trạng ngày càng lan rộng, mang tính giáo dục và nền tảng xã hội sâu sắc trước hành vi và tính hậu quả của nó. Không thể hình dung được rằng điều gì đang xảy ra với những thế hệ trẻ măng đang mặc những tấm áo trắng tinh thế này? Tương lai như một bầu trời giăng đầy mây xám vậy. Thực sự đáng lo và buồn thảm quá.


 

Tâm hồn Nga – Tâm hồn đế quốc – Cơ chế của những đau thương

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Trần Gia Huấn

02/11/2025

Trước giữa thế kỷ XIX, không ai nói tới “Tâm hồn Nga”cả. Khoảng 1842, văn hào Gogol, người Ukraine viết cuốn tiểu thuyết lừng danh “Những Linh Hồn Chết” (Dead Souls) bằng tiếng Nga trong đó ông dùng “Linh hồn” ám chỉ số nông nô đã chết, nhưng các chủ nô dùng danh sách ma để mua bán, trao đổi, thế chấp, trốn thuế kiếm lời. Dần dần, Nga tìm kiếm mọi cách định nghĩa “Tâm hồn Nga” như một bằng chứng khẳng định Nga khác phần còn lại của Âu châu: Nga có linh hồn; Âu châu vô hồn. Nga tự hào; Âu châu tự ty. Nga văn minh; Âu châu man rợ. Nga kiêm tốn; Âu châu hãnh tiến. Nga thánh thiện; Âu châu tội lỗi. Nga cao thượng; Âu châu nhỏ nhen. Nga nhân hậu; Âu châu tàn nhẫn… Trong đó, văn hào Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky, và thi hào Alexander Pushkin là những môn đệ toàn tòng cho “Tâm hồn Nga” một cách cuồng nhiệt nhất.

Khoảng 13 tuổi, trên đường tới St Peterburg, Dostoyevsky chứng kiến tại một trạm bưu điện. Một gã đưa thư, mặc đồng phục, nhảy vào cỗ xe ngựa đậu gần đó, không nói không rằng, tung những quả đấm như trời giáng vào mặt vào cổ người đánh xe. Ngay lập tức, người đánh xe, điên cuồng vung roi quất vào mông ngựa. Cỗ xe lao đi trong khói bụi mịt mờ. Dostoyevsky, ngất ngây, tưởng tượng ra cảnh, người đánh xe ngựa trở về làng đêm đó, trong cơn say túy lúy, cũng thụi túi bụi vào mặt vào cổ vợ, như người ta đã thụi mình.

Không ngạc nhiên, Dostoyevsky đã kết hợp những ký ức vào nghệ thuật lãng mạn, với tâm linh, cảm xúc tuyệt vời nuôi dưỡng những hoang tưởng bạo lực và tàn ác của con người trong từng trang viết. Trong tiểu thuyết “Tội ác và Trừng phạt” nhân vật Raskolnikov nằm mơ thấy một nông dân đập chết một con ngựa. Khi tỉnh dậy, gã kết nối giấc mơ với một kế hoạch đập chết người bằng rìu. Gã nhảy ra khỏi giường, thực hiện giấc mơ giết người. Những chuỗi dài bạo lực tiếp nối bạo lực, mà không ai thoát ra khỏi.

Raskolnikov là sinh viên nghèo, giết chủ tiệm cầm đồ, để lấy tiền đi học. Gã bảo Napoleon đã giết hàng ngàn người Ai Cập, cướp kho báu khảo cổ, để thiết lập lên bộ môn Ai Cập học cho nhân loại. Vậy, gã giết người để hoàn thành một lý tưởng, giết người để hiện thực một giấc mơ, giết người để học tập, giết người để tiến bộ, là phi thường, là anh hùng. Lập luận của Raskolnikov là một dạng của “Tâm hồn Nga” tâm hồn đế quốc. Đó là cơn thịnh nộ của độc ác được chắt lọc từ lòng căm thù, đố kị, ganh tị đã dồn nén từ lâu.

Dostoyevsky bị đi đầy ở Siberia chỉ vì đọc cuốn sách cấm. Một người bạn tù gốc Ba Lan đã viết trong hồi ký: Dostoyevsky nguyền rủa đám Estonia, Litvia, Lithuania, và Ba Lan rằng đất đai của chúng mày mãi mãi là đất đai, tài sản của Nga. Nếu không nhờ Nga khai sáng thì bọn mày chỉ biết vùng vẫy trong tối tăm, đói nghèo, cơ cực, mù chữ, và man rợ.

Pushkin, được mệnh danh là “Mặt trời của thi ca Nga” là người đóng góp quan trọng vào ngôi đền thiêng “Tâm hồn Nga”. Khoảng 1820 Pushkin bị đày đi Kavkaz như một kẻ lưu vong chính trị. Ông đã viết bản trường ca “Người tù Kavkaz, trong đó kể lại câu chuyện người con gái miền sơn cước, ở tuổi dậy thì, duyên dáng nồng nàn, ngây thơ đắm đuối, phải lòng một tù nhân chiến tranh Nga. Nàng liều mình giải thoát cho chàng. Rồi, chàng rủ nàng trốn đến nước Nga. Nàng từ chối, giận hờn bảo anh đi đi, đừng bận tâm đến số phận tàn khốc u sầu của em. Lòng nàng vò xé, nước mắt lưng tròng, nàng đưa chàng tới bờ sông, để chàng xuôi dòng về lại quê hương. Rồi, nàng tự tử.

Nhưng khổ cuối của bản trường ca, Pushkin viết “Hỡi Kaskaz, hãy đầu hàng đi. Ermolov đang tới.” Alexei Ermolov là tướng Nga, tư lệnh cuộc chiến giữa Nga và Thượng Kaskaz ở thế kỷ XIX. Ermolov cực kỳ tàn nhẫn, giết 9/10 dân số Thượng Kaskaz. Ermolov tuyên bố: “Ta khao khát những nỗi kinh hoàng mang tên ta.” Chính Pushkin đã ủng hộ những tư tưởng đế quộc tàn bạo này. Những gì xảy ra ở Bucha, Ukraine, 2022, cho ta thấy “Tâm hồn Nga” man rợ tới cỡ nào.

Năm 1837, Pushkin công bố bài thơ “The Bronze Horseman” – Kỵ sỹ Đồng, hết lòng ca ngợi Peter Đại đế, cưỡi ngựa đi thị sát đầm lầy, những túp lều khốn khổ và hèn mọn của lũ Phần Lan lúp xúp dưới vó ngựa của Ngài. Peter Đại đế xây thành St. Petersburg hướng về Tây âu, lối ra biển Baltic. Ngài tuyên bố: Từ nơi này, ta sẽ uy hiếp Thụy Điển và nuốt cả Âu châu. Những ý tưởng này không thể nào không gợi nhớ tới Putin đang đe dọa Âu châu, và tàn phá phương Tây.

Pushkin đã viết những lời hoa mỹ, vô cảm trong cuộc chiến Nga -Thổ: “Người Circassia căm ghét chúng tôi (lính Nga) vì chúng tôi đã buộc họ phải phải rời khỏi những đồng cỏ mênh mông. Nhiều làng mạc bị tàn phá. Cả bộ lạc bị xóa sổ. Người làng phải từ bỏ tất cả để gia nhập Đế chế Nga.”

Ở tuổi 20, Pushkin bị lưu đày khắp nơi từ Kaskaz, tới Crimea, từ Kamianka tới Bessarabia chỉ vì những bài thơ viết ở tuổi 15. Sau năm tháng sống kiếp lưu vong, Pushkin trở về St. Petersburg, không bao giờ dám chỉ trích Sa hoàng nữa. Ngược lại, Pushkin làm thơ ca ngợi, tôn vinh những hành động đế quốc của Nga với các dân tộc láng giềng. Đó là vì sao Đế chế Nga và sau này là Liên Xô cùng cho dựng tượng Pushkin, công viên Pushkin, đường phố Pushkin, quảng trường Pushkin khắp nơi nơi.

Phong trào “Pushkinopad – Пушкинопад”– nghĩa đen là hạ bệ Pushkin tại Ukraine, sau cuộc xâm lược do Putin phát động. Người Ukraine xác định Pushkin và Dostoyevsky là những kẻ cổ xúy cho chủ nghĩa sô vanh (chauvinism) Nga, không xứng đáng được đặt tượng, đặt tên trên quê hương của họ.

Pushkin qua đời năm 37 tuổi sau cuộc đấu súng do ghen tuông ái tình. Dostoyevsky chết năm 59 tuổi, do nhồi máu phổi, động kinh kinh niên không thuốc chữa, đói nghèo, nghiện ngập, cờ bạc, nợ nần chồng chất.
Ukraine không muốn đọc Dostoyevsky nữa, không muốn ngắm tượng Pushkin nữa vì trong từng trang viết chan chứa tư tưởng bành trướng, đế quốc, bạo lực, man rợ, được Putin tuyên truyền biện minh cho hành vi xâm lược hôm nay.

Nỗi mặc cảm tự ti chỉ là một đế chế thứ cấp, bên rìa Âu châu, Putin nhìn phương Tây là lũ suy đồi, trụy lạc, không thể nào đè bẹp được lòng kiêu hãnh Nga – Tâm hồn Nga đã dẫn dắt nước Nga lao vào những cuộc chiến tranh liên miên, không hồi kết, và luôn gây sự với người khác.

Tiến sỹ Henry Kissinger nhấn mạnh: Để hiểu Putin, phải đọc Dostoyevsky. Putin bước ra từ tiểu thuyết viết cách nay đã hai thế kỷ. Tiến sỹ Timothy Snyder nói: Để hiểu được Putin phải đọc 1984: “Chiến tranh là hòa bình. Tự do là nô lệ. Ngu dốt là sức mạnh.” Cựu tổng thống Mỹ George W. Bush bảo nhìn vào mắt Vladimir Putin và “hiểu được tâm hồn Putin”.

Tâm hồn Putin – tâm hồn điệp viên, tâm hồn sát thủ.
Tâm hồn Nga – tâm hồn đế quốc – cơ chế của những đau thương.

Canada

November 2, 2025


 

ĐẦU TƯ TỐT – Lm. Minh Anh Tgp. Huế

Lm. Minh Anh Tgp. Huế

“Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được!”.

Tháng 10/2021, công chúa Mako, Nhật Bản, từ bỏ hoàng gia và 1,3 triệu Mỹ kim hồi môn để xe duyên với Komuro, một luật sư nghèo. Theo luật hoàng gia, kết hôn với một thường dân, các thành viên nữ phải từ bỏ tước vị và không có nghi lễ truyền thống. Mako chia sẻ, “Chúng tôi nghĩ, mình đã tìm được người bạn đời quý giá. Tôi muốn một cuộc sống yên ả trong môi trường mới của mình!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Nếu Mako đã hy sinh tất cả để “đầu tư cho tiếng gọi con tim”, thì người môn đệ Kitô cũng được mời gọi ‘đầu tư tốt’ cho ơn gọi nên thánh. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói rõ, ‘vốn’ đầu tư không chỉ là “hết những gì mình có”, mà còn là “cha mẹ”, thậm chí “mạng sống!”.

Ngài minh hoạ bằng kế hoạch xây tháp và cuộc chinh chiến của một vị vua: cả hai đều đòi hy sinh, tính toán và can đảm. Với sự thánh thiện cũng vậy, sẽ có những “trận chiến” cần đối đầu, cũng có những “trận” chỉ có thể tránh. Vì thế, khôn ngoan thiêng liêng nhiều khi không nằm ở sức mạnh, mà ở khả năng rút lui. Đôi khi, ‘đầu tư tốt’ không phải là dấn thân thêm, mà là biết thối lui trước cám dỗ, và nhất là biết “chạy trốn tội lỗi”. “Can đảm thật đôi khi là biết rút lui khôn ngoan, hơn là tiến bước liều lĩnh!” – G. K. Chesterton.

Chúa Giêsu cho thấy sức mạnh thực sự không nằm ở của cải hay danh vọng, mà ở con tim được tự do. Người môn đệ không thể để bất cứ điều gì – dù là “cha mẹ”, “tài sản” hay “mạng sống” – chiếm vị trí của Thiên Chúa. Bởi nơi trái tim ấy, chỉ có một ‘Chủ đầu tư’ duy nhất – chính Chúa; Ngài đã để Chúa Cha chiếm hữu hoàn toàn, Ngài vâng phục cho đến chết. Nhờ đó, Ngài trở nên khuôn mẫu cho tất cả những ai muốn đi theo Ngài. Và tuyệt vời thay! Ai chọn Chúa Giêsu làm mẫu mực cũng là hướng đầu tư của mình, sẽ không bao giờ lỗ lã, “Họ sẽ được gấp trăm ở đời này và sự sống muôn đời ở đời sau!”. “Ai trao đi điều mình không thể giữ để nhận lại điều mình không thể mất, người ấy không hề dại dột!” – Jim Elliot.

Anh Chị em,

“Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được!”. Đầu tư cho sự thánh thiện quả không rẻ, cũng không dễ! Không ai làm được điều đó nếu không có ân sủng. Chúng ta yếu đuối, nhưng ân sủng Chúa không bao giờ thiếu cho ai dám bước đi trong đức tin. Hãy để Thiên Chúa chiếm trọn con người mình và tiếp tục thực hành yêu thương. Phaolô nhắc, “Yêu thương là chu toàn lề luật” – bài đọc một; Thánh Vịnh đáp ca thì nói, “Phúc thay người biết cảm thương và cho vay mượn!”. Như vậy, từ bỏ không là mất mát, mà là mở ra khoảng trống cho Thiên Chúa, “Càng buông bỏ, chúng ta càng tự do để được Thiên Chúa lấp đầy!” – Henri Nouwen. Ai sống được như thế, chắc chắn đã ‘đầu tư tốt’ – không chỉ cho hôm nay, mà cho cả đời đời.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, khi con do dự trước những mất mát, xin nhắc con rằng, mọi điều con trao đi vì Chúa sẽ hoá thành đôi cánh nâng con bay vào thinh không của sự thánh thiện!”, Amen.

Lm. Minh Anh Tgp. Huế

*****************************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXXI Thường Niên, Năm Lẻ 

Ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 14,25-33

25 Khi ấy, có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ :

26 “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. 27 Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.

28 “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có hoàn thành nổi không ? 29 Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi, lại không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chế giễu mà bảo : 30 ‘Anh ta đã khởi công xây, nhưng chẳng có sức làm cho xong việc.’ 31 Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng ? 32 Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà. 33 Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”


 

 LŨ KHÔNG TỪ TRỜI, MÀ TỪ NGƯỜI

Việt Tân

Năm nào cũng có lũ. Năm nào dân cũng leo lên mái nhà để trốn nước. Và năm nào, người ta cũng thấy lãnh đạo “lội nước thăm dân”, “trao quà động viên”. Nhưng sau tất cả những hình ảnh ấy, là nỗi đau, là mất mát một mình dân gánh chịu.

Lũ lụt không còn là thiên tai đơn thuần. Đó là hậu quả của một hệ thống quản trị yếu kém và phát triển thiếu tầm nhìn. Rừng đầu nguồn bị chặt phá để làm thủy điện, đất bị bê tông hóa để xây khu du lịch, lòng sông bị lấn để dựng khu đô thị. Khi nước không còn đường thoát, thì chính người dân là những là nạn nhân của các chính sách ấy.

Trách nhiệm ấy thuộc về ai, nếu không phải là những người cầm quyền? Không thể mãi đổ lỗi cho thiên nhiên trong khi rừng bị bán, sông bị lấp, và ngân sách lại dành hàng ngàn tỷ để dựng tượng đài thay vì hệ thống thoát nước.

Người dân không cần những chuyến “thăm hỏi giữa nước”, họ cần những chính sách thật, hành động thật, để không còn phải sống trong cảnh phập phồng lo sợ mỗi khi mùa lũ về.

Bao giờ thì chính quyền mới đứng ra chịu hậu quả do chính mình gây ra? Bao giờ thì mới chịu trách nhiệm trước thiên nhiên mà họ tàn phá, và nhận tội trước nhân dân của mình?

Hiểu Lam


 

Sự cố hai tấm bảng tên “Ngài Pete Hegseth” và “Ông Hùng Cao”…

Nhật Ký Yêu Nước

Sự cố hai tấm bảng tên “Ngài Pete Hegseth” và “Ông Hùng Cao” tại buổi tiếp đón Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ là một vết nhơ khó rửa. Một bên được tôn xưng “Ngài” đầy đủ, bên kia chỉ là “Ông” cộc lốc, dù cả hai đều cùng cấp bậc. Hành chính Việt Nam lại lộ rõ bản chất hình thức, quan liêu: loay hoay với chữ nghĩa bề ngoài mà quên mất nội dung cốt lõi là sự tôn trọng đối tác. Một hệ thống như vậy không chỉ thiếu chuẩn mực mà còn tự hạ thấp mình trước bạn bè quốc tế.

Trong ngoại giao, chi tiết nhỏ chính là danh dự lớn. Một chữ sai, một danh xưng thiếu, một bảng tên lệch cấp đều đủ để đối phương nhận ra sự cẩu thả, thiếu chuyên nghiệp. Với ông Hùng Cao – người Mỹ gốc Việt, cựu sĩ quan Hải quân, thứ trưởng Bộ Quốc phòng – cách gọi “Ông” thay vì “Ngài” không chỉ là lỗi kỹ thuật, mà là sự cố tình hạ thấp. Họ sợ ghi “Ngài Hùng Cao” vì cái tên ấy gợi nhớ đến người Việt tị nạn, đến VNCH năm xưa, đến những thành tựu mà chính quyền hiện tại không bao giờ muốn công nhận. Đó là thù hằn kiểu khỉ rừng: nhỏ mọn, nhớ dai, ghen tị với chính đồng bào mình.

Nửa thế kỷ trôi qua, vết thương cũ vẫn rỉ máu trong lòng một bộ phận quan chức. Ông Hùng Cao là người Mỹ thực thụ, nhưng gốc Việt, thành công bằng chính nỗ lực của mình trên đất Mỹ. Vậy mà về nước, lại bị đối xử như kẻ thù. Đừng tưởng người Mỹ không hiểu tiếng Việt hay không nhận ra sự bất thường. Cái cách viết bảng tên này không chỉ làm mắc cở cho người Việt Nam, mà còn phơi bày một xã hội bị lòng tiểu nhân của cộng sản chi phối: kỳ thị người cũ, ganh ghét người mới, tự ái Bắc cụ, thiếu phong độ của một quốc gia biết nhìn xa.


 

HÃY BẮT ĐẦU BẰNG VIỆC DẸP BỎ LỰC LƯỢNG DƯ LUẬN VIÊN CHỬI BẬY ĐI.

Song Chi is with Anh Thai Dinh.

KỶ NGUYÊN MỚI, CẢI CÁCH CÁC THỨ? HÃY BẮT ĐẦU BẰNG VIỆC DẸP BỎ LỰC LƯỢNG DƯ LUẬN VIÊN CHỬI BẬY ĐI.

Dạo này lực lượng dư luận viên làm việc hăng kinh. Hết “phong sát” bất cứ ai, nhất là dân nổi tiếng, dám buồn hoặc dám không bày tỏ lòng “yêu nước” ồn ào trong các ngày lễ chiến thắng của đảng CSVN, lại lôi các nhân vật lịch sử như Vua Gia Long, Tả Quân Lê Văn Duyệt, Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông cố vấn Ngô Đình Nhu …ra bôi nhọ, thóa mạ, lôi chế độ VNCH đã chết cách đây nửa thế kỷ ra mà bịa đặt không nói có, có nói không v.v…Rồi bất cứ chỗ nào có ai viết câu gì phản biện thì nhảy vào chửi, không nói được câu nào cho đàng hoàng, không có lý lẽ lập luận gì, chỉ auto chửi, với tất cả ngôn từ bẩn thỉu, đê tiện nhất.

Một chính quyền, một đảng chính trị đã nắm hết mọi thứ từ công an, quân đội, quốc hội, tòa án, truyền thông…và sinh mệnh của hơn 100 triệu dân trong tay mà phải sử dụng một đội ngũ dư luận viên vô học chỉ biết chửi, thì thiếu tự tin đến mức nào. Đó chính là tâm trạng của một đảng chính trị không do dân thực sự bầu lên, khộng bao giờ phải cạnh tranh thi thố với các đảng phái khác, nên mới thiếu tự tin như vậy.

Mới đây trang FB Tạp chí Thế Kỷ Mới của mình và một vài anh chị văn hữu, mà mình tự thấy quan điểm cũng rất là ôn hòa, cũng bị đám dư luận viên vào hăm dọa đòi rút 1,2 bài, không thấy mình phản ứng gì, sau đó bèn report để Facebook remove. Mình đang báo cáo chuyện này với FB và hy vọng họ hành xử đúng đắn.

Nói thật với tất cả những ai đang tràn đầy hy vọng vào ông Tô Lâm rằng đây sẽ là một nhân vật “cải cách”, rằng VN sẽ thay đổi bước vào “kỷ nguyên người” gì đó, cá nhân mình chỉ đơn giản nghĩ thế này: Bỏ qua những màn trình diễn ngoại giao, mỵ dân, chừng nào ông Tô Lâm và chính phủ này làm được những điều đơn giản như sau: 1) Thả hết người bất đồng chính kiến, dân oan, cả những tử tù oan sai. 2) Chấp nhận tự do ngôn luận, tự do báo chí 3) Cho phép các tổ chức xã hội dân sự được hoạt động trong những lĩnh vực như môi trường, bảo vệ nhân quyền, hoạt động từ thiện…4) Cải tổ giáo dục để có một nền giáo dục độc lập, nhân bản, khai phóng. 5) Có những chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc cụ thể bằng hành động chứ không phải bằng lời nói.

Chỉ cần bao nhiêu đó thôi, chưa cần nói đến chuyện đa nguyên đa đảng, tôi sẽ tin là ông Tô Lâm hay bất cứ ông nào và cái đảng CS này thực sự muốn thay đổi, vì dân vì nước. Còn đàn áp người bất đồng chính kiến, còn đối xử với dân tệ hại, còn xua đám dư luận viên đi chửi càn cắn bậy trên mạng thì quên đi, mọi thứ chỉ là trình diễn mà thôi.

Không lẽ chúng ta sống với chế độ độc tài do ĐCS lãnh đạo bao nhiêu năm rồi mà vẫn chưa tỉnh ngộ, vẫn dễ tin đến thế hay sao?

Còn với đám dư luận viên thì tôi không muốn nói. Họ lãnh lương để chửi, để phá, thì họ phải làm sao để xứng đáng với đồng lương đó thôi.


 

Tiền nhiều để làm gì?-Trúc Phương/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

November 3, 2025

Trúc Phương/Người Việt

Trong khán phòng, khán giả vỗ tay rần rần, trừ tỷ phú Mark Zuckerberg ngồi đơ mặt. Đó là quang cảnh buổi lễ trao Music Innovator Award cho ca sĩ Billie Eilish 23 tuổi (trong khuôn khổ Wall Street Journal Magazine Innovator Awards), tổ chức tại Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Hiện Đại New York, đêm 29 Tháng Mười.

Nữ ca sĩ Billie Eilish tại buổi lễ trao giải Music Innovator Award ở New York, hôm 29 Tháng Mười. (Hình: Angela Weiss/AFP via Getty Images)

Nếu các vị là tỷ phú, làm tỷ phú để chi vậy?

Loan báo đóng góp từ thiện $11.5 triệu trong đêm nhận giải Music Innovator Award, Billie Eilish kêu gọi lòng trắc ẩn của giới tỷ phú: “Có vài vị ở đây nhiều tiền hơn tôi. Nếu các vị là tỷ phú, làm tỷ phú chi vậy. Không thù ghét gì cả nhưng mà làm ơn cho bớt tiền đi, các vị ơi” (… “If you’re a billionaire, why are you a billionaire? No hate, but yeah, give your money away, shorties”).

Sự kiện Billie Eilish ngay lập tức trở thành bản tin nóng trên loạt tờ báo, ở thời điểm mà số lượng tỷ phú toàn cầu tiếp tục tăng nhưng đóng góp từ thiện của họ kém hơn bao giờ hết. Theo báo cáo vào Tháng Giêng, 2024, của Oxfam International mang tựa đề “Takers Not Makers,” năm 2024 có thêm 204 tỷ phú mới, và tài sản của họ tăng nhanh gấp ba lần so với năm 2023. Oxfam dự báo có ít nhất năm người sẽ trở thành “ngàn tỷ phú” (trillionaire) trong thập niên tới.

Wall Street Journal cho biết thêm, tính đến giữa năm 2025, nước Mỹ có 1,135 tỷ phú, với tổng tài sản lên tới $5.7 nghìn tỷ – một con số khổng lồ; tuy nhiên, họ mới chỉ “cho đi” vỏn vẹn khoảng $185-201 tỷ trong khoảng chục năm qua. Liệu có phải thế giới đang chứng kiến một xu hướng “ích kỷ” hơn trong giới siêu giàu, hay chí ít là một sự thiếu tương xứng giữa giàu có và trách nhiệm xã hội?

Năm 2010, khi lập ra chương trình “Giving Pledge,” Warren Buffett và Bill Gates đã đưa ra lời kêu gọi gửi đến các đồng đạo trong nhóm 1% người giàu nhất thế giới: Hãy cho đi một nửa tài sản. Hàng chục người đã hưởng ứng. Nhiều tên tuổi lớn ở Thung Lũng Silicon cam kết tặng 99% giá trị tài sản ròng của họ cho các hoạt động/tổ chức thiện nguyện. Tuy nhiên, 15 năm sau, tính đến giữa năm 2025, báo cáo từ Viện Nghiên Cứu Chính Sách (Institute for Policy Studies, IPS) cho thấy chỉ… một trong 57 người ký tên đầu tiên đã cho đi một nửa tài sản kể từ khi họ cam kết “Giving Pledge.”

Nhiều tỷ phú ở vùng Vịnh San Francisco, những người từng được ca tụng là “ngọn hải đăng” mở đường cho nhân loại và cho mô hình thiện nguyện mới, trong thực tế chỉ cho đi chưa đến 20% tài sản. Một gia đình danh tiếng ở Thung Lũng Silicon thậm chí chưa đến 1%. Cùng lúc, tài sản của những tỷ phú trong danh sách ký “Giving Pledge” những ngày đầu tiên cách đây 15 năm đã tăng nhanh với tốc độ chưa từng có.

Những người đầu tiên ký “Giving Pledge” gồm nhiều nhân vật lớn ở Silicon Valley: Mark Zuckerberg (CEO Meta) và vợ Priscilla Chan; Jeffrey Skoll (chủ tịch sáng lập eBay); Dustin Moskovitz (đồng sáng lập Facebook) và vợ Cari Tuna. Tính đến nay, hơn 250 cá nhân, cặp vợ chồng và gia đình từ hơn 60 quốc gia đã ký cam kết “Giving Pledge.” Tuy nhiên, như nói ở trên, báo cáo IPS cho thấy 57 người ký đầu tiên vẫn còn rất xa đích. Hai cặp tỷ phú vùng Vịnh xa mục tiêu nhất cũng chính là những người tăng tài sản nhanh nhất: vợ chồng Mark Zuckerberg-Priscilla Chan và vợ chồng John-Ann Doerr thuộc công ty đầu tư mạo hiểm Kleiner Perkins.

“Có những người thực sự dũng cảm và thẳng thắn trong ‘Giving Pledge,’ và cũng có những người hèn hạ đan xen lợi ích cá nhân với nghĩa vụ thiện nguyện,” báo cáo IPS viết.

Theo báo cáo, Zuckerberg và Chan, hiện là những người giàu nhất trong nhóm ký ban đầu, tính đến nay chỉ cho đi vỏn vẹn $9.8 tỷ, trong tổng số tài sản hiện có là $235 tỷ. Cần nhắc lại, năm 2015, vợ chồng Mark Zuckerberg từng cam kết hiến tặng 99% cổ phần Facebook! Trong 15 năm qua, tài sản Mark Zuckerberg đã tăng 4,244%.

Tương tự, tài sản vợ chồng John-Ann Doerr tăng 617% kể từ năm 2010 và họ cho đi chỉ $101 triệu, trong đó có $34 triệu được chuyển vào quỹ riêng của họ, Beneficus Foundation. Năm 2022, John Doerr từng tuyên bố hiến $1.1 tỷ cho Đại Học Stanford nhưng đến nay mới chỉ giải ngân một phần nhỏ.

Đáng chú ý nhất, 79% số tiền quyên góp ($158 tỷ/$201 tỷ) không đến tay các tổ chức từ thiện hay đại học mà chảy vào… các quỹ tư nhân của chính các tỷ phú – như trường hợp tổ chức Beneficus Foundation của John Doerr nói ở trên. Nói cách khác, các tỷ phú đã rất “thông minh” khi “làm từ thiện” bằng cách bỏ tiền của họ vào túi của họ.

Như được tiết lộ từ báo cáo IPS, những quỹ từ thiện tư thường chỉ chi ra 5%, còn phần lớn tiền vẫn nằm yên trong két sắt, vừa mang lại ưu đãi thuế, vừa giúp họ được ca ngợi là “nhà từ thiện vĩ đại.” Điển hình nhất của trò láu cá này là vợ chồng Mark Zuckerberg. Họ dành 98% khoản “hiến tặng” chuyển cho tổ chức Chan Zuckerberg Initiative của chính họ.

Vấn đề ở chỗ, các quỹ từ thiện tư có thể thay đổi mục tiêu bất cứ lúc nào, khiến những tổ chức nào đang hóng tiền tài trợ của họ, như đã được hứa, cuối cùng chẳng nhận được đồng nào. Cụ thể, khi Chan Zuckerberg Initiative “thay đổi định hướng,” hàng chục tổ chức phi lợi nhuận ở Bay Area đã mất nguồn tài trợ; ít nhất một tổ chức thậm chí phải tạm ngừng hoạt động.

Với Elon Musk, đương sự từng cam kết đóng góp từ thiện vào năm 2012 nhưng gần như không cho gì đáng kể cho đến năm 2021, khi ông bán 15.7 triệu cổ phiếu Tesla trị giá hơn $16 tỷ và “tặng” $5.7 tỷ cho… quỹ riêng. Nhờ chiêu này, Elon Musk tránh được khoảng $4.6 tỷ thuế!

“Nếu các tỷ phú tiếp tục cho tiền vào quỹ riêng như hiện nay,” Bella DeVaan thuộc IPS cảnh báo, “chúng ta sẽ chứng kiến những quỹ gia tộc khổng lồ, được miễn thuế, trị giá hàng nghìn tỷ đô la – điều chưa từng có trong lịch sử từ thiện.”

Điều đáng nói nhất là tất cả những điều này xảy ra trong bối cảnh giới tỷ phú xài tiền rất mạnh cho các cuộc bầu cử chính trị để đổi lại được hưởng các chính sách ưu đãi từ chính phủ liên bang. Đó không khác gì hơn là hình thức tham nhũng, tạo nên hiện tượng mới gọi là “broligarchy” (từ chữ “bro” – tiếng lóng chỉ “anh em,” “bồ bịch; và “oligarchy” – chế độ đầu sỏ).

Những người tốt còn lại

Tuy nhiên, nước Mỹ với văn hóa hảo tâm và trắc ẩn vẫn còn đó. Không phải ai cũng giống Elon Musk, Mark Zuckerberg, Jeff Bezos, Sundar Pichai hay Tim Cook – những người sẵn sàng chi ra hàng triệu đôla để xây phòng khiêu vũ ở Chái Đông Tòa Bạch Ốc.

Trong danh sách 100 nhân vật đóng góp từ thiện nổi bật nhất năm 2025 của báo Time (TIME100 Most Influential People in Philanthropy 2025), người ta thấy có những gương mặt quen thuộc.

Một trong những người được Time nhắc là cựu thị trưởng New York Michael Bloomberg. Tính đến nay, Bloomberg đã quyên góp hơn $21 tỷ cho các lĩnh vực từ biến đổi khí hậu, giáo dục cho đến nghệ thuật. Chỉ riêng năm 2024, Bloomberg đã tặng $3.7 tỷ, trở thành nhà tài trợ cá nhân lớn nhất năm 2024.

Những khoản tài trợ đáng chú ý của Michael Bloomberg gồm $1 tỷ cho Đại Học Johns Hopkins – ngôi trường cũ của ông – giúp miễn học phí cho hầu hết sinh viên y khoa và tăng hỗ trợ tài chính cho sinh viên điều dưỡng và y tế công cộng; cùng $600 triệu tài trợ cho các trường y thuộc bốn đại học và cao đẳng da màu (HBCU – Historically Black Colleges and Universities). Cần nói thêm, đầu năm 2025, Bloomberg Philanthropies công bố kế hoạch hỗ trợ những nỗ lực giúp nước Mỹ thực hiện các cam kết trong Hiệp Định Paris về khí hậu, sau khi chính quyền Trump rút khỏi thỏa thuận này…

Người nữa cần kể là Oprah Winfrey. Tính đến nay, Oprah Winfrey đã quyên góp hơn $500 triệu cho từ thiện. Winfrey từng tâm sự rằng việc chứng kiến những học sinh tốt nghiệp từ học viện lãnh đạo dành cho nữ sinh Oprah Winfrey tại Nam Phi, được thành lập năm 2004, là “một trong những phần thưởng lớn nhất đời mình.” Trong đại dịch COVID-19, bà quyên góp $20 triệu để cung cấp thực phẩm. Bà cũng đóng góp $24 triệu cho Viện Bảo Tàng Lịch Sử và Văn Hóa Người Mỹ Gốc Phi thuộc Viện Smithsonian; tặng hàng chục triệu để hỗ trợ tái thiết sau các vụ cháy rừng ở Maui (Hawaii) năm 2023 và Los Angeles vào Tháng Giêng, 2025…

Và đó là những Melinda French Gates (vợ cũ của Bill Gates) và MacKenzie Scott (vợ cũ của Jeff Bezos). Từ cuối năm 2019 đến nay, MacKenzie Scott đã tặng $19.25 tỷ cho hơn 2,400 tổ chức. Phương pháp của Scott rất khác: không cần hồ sơ xin tài trợ, không yêu cầu báo cáo hằng năm, cũng không đặt ra vấn đề cụ thể cần giải quyết. Thay vào đó, bà và nhóm của mình chủ động tìm đến những tổ chức âm thầm làm công việc giúp những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, trao cho họ khoản tài trợ từ $1 đến $50 triệu. Một báo cáo năm 2025 của Trung Tâm Hiệu Quả Từ Thiện (Center for Effective Philanthropy) gọi chiến lược của Scott là mang tính cách mạng.

Đó là K. Lisa Yang. Sinh viên các trường đại học hàng đầu nước Mỹ không lạ gì K. Lisa Yang, bởi tên bà được đặt tại các trung tâm khoa học ở Harvard, MIT và Cornell. Là cựu viên chức ngân hàng, Yang đã đóng góp tổng cộng $74.5 triệu chỉ riêng năm 2024, và là nhà tài trợ lớn cho các nghiên cứu học thuật nhằm bảo tồn hệ sinh thái hành tinh và hỗ trợ những người gặp khó khăn về thể chất hoặc nhận thức.

Tháng Hai, 2025, bà tặng Harvard $30 triệu để thành lập Trung Tâm Brain-Body. Năm 2024, bà tặng $35 triệu để xây Trung Tâm Sức Khỏe Động Vật Hoang Dã tại Đại Học Cornell và $28 triệu để khởi động Trung Tâm Kỹ Thuật và Nghiên Cứu tại MIT – một phần trong sáu trung tâm nghiên cứu trị giá $200 triệu mà Yang bắt đầu hỗ trợ từ năm 2017. Báo Time cho biết, các khoản đầu tư nghiên cứu của bà K. Lisa Yang – từ khoa học thần kinh, liệu pháp y học, mô hình tính toán đến sinh học nhân tạo – đã bắt đầu mang lại kết quả.

Trong khuôn khổ giới hạn, không thể liệt kê hết. Tất cả cho thấy lương tri và trắc ẩn vẫn còn đó. Nó nhắc rằng sự “vĩ đại” của một tài sản đôi khi rất nhỏ bé, nếu ông chủ tầm thường của nó không có lòng “quảng đại” và không biết thẹn khi nghe người ta hỏi “làm tỷ phú để chi vậy?” [kn]


 

SỰ CHẾT – Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J  

 Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J  

Khi tôi được sinh ra là khởi điểm tôi bắt đầu đi về cõi chết.  Làm gì có sự chết nếu không có sự sống.  Làm gì có ngày người ta chôn tôi nếu không có ngày tôi chào đời.  Như thế, cuộc sống của tôi là chuẩn bị cho ngày tôi chết.

Ngay từ trong bào thai của mẹ, bắt đầu có sự sống là tôi đã cưu mang sự chết rồi.  Kết hợp và biệt ly ở lẫn với nhau.  Trong lớn lên đã có mầm tan rã.  Khi vũ trụ chào đón tôi, thì cùng một lúc, tôi bắt đầu từ giã vũ trụ từng ngày, từng giờ.

Mỗi ngày là một bước tôi đi dần về sự chết.  Bình minh mọc lên, nhắc nhở cho tôi một bước cận kề.  Hoàng hôn buông xuống, thầm nói cho tôi sự vĩnh biệt đang đến.

Không muốn nghĩ về sự chết tôi cũng chẳng tránh đuợc sự chết.


Tôi có thể không muốn nghĩ về sự chết nhưng tôi có ghét sự chết được không?  Tôi ghét sự chết là tôi ghét chính tôi.  Chết ở trong tôi.  Tôi đang đi về cõi chết nên ngay bây giờ sự chết đã thuộc về tôi rồi.  Sự sống của tôi hàm chứa sự chết, nên tôi yêu sự sống thì tôi cũng phải yêu sự chết.  Vì vậy, cuộc đời có ý nghĩa vẫn chỉ là cuộc đời chuẩn bị cho ngày chết.

Trong dòng đời, tôi không sống một mình.  Cuộc sống của tôi là tấm thảm mà mỗi liên hệ yêu thương là một sợi tơ, mỗi gắn bó quen biết là một sợi chỉ, anh em, cha mẹ, người yêu.  Sự chết xé rách tung tất cả để tôi ra đi một mình.  Chẳng ai đi với tôi.  Vì thế, chết mang mầu ly biệt.

Sống là hướng về tương lai.  Tương lai là cái tôi không nắm chắc trong tay, vì vậy, tôi hay nhìn về tương lai bằng nỗi sợ bấp bênh.  Càng bấp bênh thì tôi càng tìm kiếm vững chãi, càng tích lũy.  Nhưng tích lũy xong, xây đắp xong, vất vả ngược xuôi để rồi ra đi trắng đôi tay thì đời tôi thành đáng thương hại.  Nếu tôi không đem theo được những gì tôi tích lũy, thì những gì tôi ôm ấp hôm nay chỉ làm tôi thêm đau đớn, nuối tiếc.  Nếu không muốn vậy thì chúng phải là phương tiện để chuẩn bị cho giờ ra đi của tôi.

Tích lũy cho tương lai có thể là dấu hiệu khôn ngoan đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra.  Mà cũng có thể là một thứ nô lệ.  Nếu suốt đời tôi lo âu tìm kiếm danh vọng, quá tham lam tiền bạc, lúc nào cũng bị vây khốn, băn khoăn thì đâu là niềm vui, tận hưởng.

Mà tận hưởng là gì?  Đâu là ý nghĩa của sự tìm kiếm?  Tích lũy?

Kinh Thánh kể:

Có người trong đám dân chúng nói với Đức Kitô: “Thưa Thầy, Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi.”

Ngài đã nói cùng họ: “Hãy coi chừng!  Hãy lo giữ mình tránh mọi thứ gian tham, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy chắc chắn nhờ của cải.”

Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: “Có người phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: ta phải làm gì?  Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa.  Đoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này: phá quách các lẫm đi, mà xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa mạ, và của cải vào đó, rồi ta nhủ hồn ta: Hồn ơi! mày có dư thừa của cải, sẵn đó cho bao nhiêu năm; nghỉ đi! ăn uống đi! hưởng đi! Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Đồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi sự ngươi đã sắm sửa, tích góp kia sẽ về tay ai? (Lc 12,13-21).

Không ai sống hộ tôi.  Không ai chết thay tôi.  Không ai đi cùng tôi.  Tôi sẽ ra đi lẻ loi.  Họ sẽ quên tôi cũng như tôi đã quên bao người.  Có thể đôi khi họ nhớ tôi.  Cũng như đôi khi tôi nhớ người này, kẻ kia.  Nhưng nỗi nhớ chỉ là của riêng tôi, còn kẻ đã ra đi vẫn ra đi miền miệt.  Thì cũng thế, chẳng ai làm gì được cho tôi lúc tôi ra đi không trở lại.

Chết là mất tất cả.  Nhưng thánh Phaolô lại tuyên tín rằng chết là chiến thắng (1Cor 15,54).  Chết là đi về sự sống vĩnh cửu.  Chết là gặp gỡ.  Gặp Đấng tạo nên mình.  Như vậy, chết là cánh cửa im lìm được mở ra để tôi về với Đấng thương tôi.  Chết là điều kiện để sống.

Chúa ơi, chết là đi về với Chúa sao con vẫn lo âu?

Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con sợ con có thể không gặp Chúa.  Vì sợ không gặp nên chết mới là bản án nặng nề.  Mà tại sao con lại sợ không gặp Chúa?  Chúa luôn mong mỏi, đợi chờ con cơ mà.  Như thế, muốn gặp Chúa hay không là do ý của lòng con.  Con có quyền quyết định cho hạnh phúc của mình.

Chúa ơi, vì biết mình sẽ chết nên con băn khoăn tự hỏi bao giờ thì chuyến tầu định mệnh đem con đi.  Hôm nay hay ngày mai?  Mùa thu này hay mùa xuân tới?  Con âu lo.  Nhưng vì sao phải lo âu?

Phải chăng lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con chưa chuẩn bị đủ, là hồn con còn ngổn ngang.  Có xa Chúa thì mới sợ mất Chúa.  Sợ mất Chúa thì mới xao xuyến băn khoăn.  Con biết thế, con biết rằng vì không sẵn sàng, vì không chuẩn bị nên mới hồi hộp, mất bình an.  Con biết thế, con biết sau khi chết là hạnh phúc hay gian nan, là núi cao với mây ngàn cứu rỗi, hay vực sâu phiền muộn với đau thương.  Nhưng chuẩn bị cho giờ ra đi không đơn giản Chúa ơi.  Chúa biết đó, con đi tìm Chúa nhưng là đi trong lao đao.  Bởi yêu một vật hữu hình thì dễ hơn lắng nghe tiếng gọi từ nơi xa thẳm.  Giầu có và danh vọng cho con hạnh phúc mà con có thể sờ được.  Còn hạnh phúc của đức tin thì sâu thắm quá.

Chung quanh có biết bao mời mọc.  Kinh nghiệm cho con thấy rằng đã nhiều lần con bỏ Chúa.  Như vậy biết đâu con lại chẳng bỏ Chúa trong tương lai.  Nếu lúc đó mà giờ chết đến thì sao?

Chúa có nghĩ rằng khi con phải phấn đấu chối từ những rung cảm bất chính để sống theo niềm tin là thánh giá của con không.  Chối từ tiếng gọi của tội lỗi đã là một thánh giá.  Nhưng có khi lo âu vì không biết mình có từ chối được không còn là một thánh giá khác nữa.  Chính đấng thánh của Chúa mà còn phải kêu lên: “Ôi! những điều tôi muốn làm thì tôi chẳng làm, những gì tôi muốn trốn tránh thì tôi lại làm” (Rom 7,15-16).  Chúa thấy đó, vị tông đồ lớn của Chúa mà còn như thế, huống chi con, một kẻ mang nhiều đam mê, yếu đuối thì đường về với Chúa gian nan biết bao.

Để khỏi chết khi con chết, thì con phải chết trước khi con chết.

Cái chết đó là đóng đinh đời con vào thập giá.  Con không biết con can đảm đến đâu.  Con chỉ xin sao cho con tiếp tục đi mãi.  Đi xiêu vẹo vì yếu đuối của con, nhưng vẫn tiếp tục đi.

Thập giá nào thì cũng có đau thương.

Con không muốn thập giá.  Vì thập giá làm con mang thương tích.  Chúa cũng đã ngã.  Nhưng nếu sự sống của con mang mầm sự chết, thì trong cái chết của thập tự nẩy sinh sự sống.  Chúa đã chết.  Chúa hiểu nỗi sợ hãi của sự chết.  Con vẫn nhớ lời Chúa cầu nguyện: “Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).  Hôm nay con cũng muốn nói như vậy đó, với Chúa.  Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa dạy con rằng chẳng có sự sống nào mà không phải qua sự chết.  Chết thì sợ hãi, nhưng nếu con yêu sự sống thì con phải yêu sự chết.

Con muốn chết để được sống.

Con sẽ đóng đinh đời con vào thập tự.  Chúa ơi, Chúa có cho những lo âu của con là dấu chỉ tình yêu của một tâm hồn yếu đuối, đang thao thức đi tìm Chúa vì sợ mất Chúa không.

Lạy Cha, trong tay Cha con xin phó thác đời con.

Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J

– Trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc

 From: Langthangchieutim

MIỀN TRUNG CHÌM TRONG BIỂN NƯỚC, NHIỀU NGƯỜI CHẾT VÀ MẤT TÍCH

BBC News Tiếng Việt 

Khoảng 128.000 ngôi nhà ở miền Trung đang chìm trong nước lũ, và đã có ít nhất 18 người chết và mất tích khi mưa lớn gây lũ lụt hoành hành khu vực này trong những ngày qua.

 (Photo by NHAC NGUYEN/AFP via Getty Images)

Thông tin này được Cục Quản lý Đê điều và Phòng chống Thiên tai, thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đưa ra vào sáng 30/10.

Dù mưa đêm 29/10 đã giảm, lũ sông Thu Bồn (Đà Nẵng) vẫn ở mức cao, và từ nay đến đêm 31/10, khu vực từ Nghệ An đến Đà Nẵng tiếp tục có mưa.

Khoảng 2h sáng nay, lũ trên sông Thu Bồn ở mức 5,62m, trên báo động 3 là 1,62m, vượt lũ lịch sử năm 1964 là 0,14m.

Hiện khoảng 90 xã, phường vẫn đang ngập sâu, hàng trăm ngôi nhà bị lũ cuốn trôi, sập hoặc hư hỏng; 20 tuyến quốc lộ ách tắc vì ngập, sạt lở, và nhiều chuyến tàu khách trên tuyến Hà Nội – Sài Gòn – Huế – Đà Nẵng buộc phải tạm dừng.

Getty Images: Ảnh chụp tại Hội An hôm nay 30/10

#BBCTiengViet –  #Lulut

(Photo by NHAC NGUYEN/AFP via Getty Images)

 

TƯỞNG NIỆM MỘT CON NGƯỜI CHÍNH TRỰC…-LÊ NGUYỄN

Sau 54 năm ngày mất của một con người chính trực mang tên Ngô Đình Diệm, người dân miền Nam không bao giờ quên 9 năm ngắn ngủi dưới chính thể Đệ nhất Cộng hòa mà đời sống kinh tế luôn vững vàng, ổn định. Đặc biệt hơn cả, ngày nay, những thế hệ sinh ra từ gần một triệu người miền Bắc di cư vào Nam cần hiểu rõ những gì cha ông mình đã trải qua, đã được chính thể Ngô Đình Diệm đối xử như thế nào. 

 Theo những con số thống kê chính thức vào năm 1956, dân số miền Nam chỉ có 12, 366 triệu người, như vậy, trước khi tiếp nhận đồng bào di cư từ miền Bắc vào, dân số miền Nam chưa đến 11,5 triệu người. Vậy mà, vào những năm 1954-1955, ông Diệm và bộ tham mưu của ông đã lo chu toàn cho cuộc sống của thêm gần một triệu người vượt cả ngàn cây số để vào Nam. Ông cho thành lập ba Phủ Tổng ủy quan trọng đặc trách những vấn đề liên quan đến đồng bào di cư miền Bắc. Phủ Tổng ủy Di cư lo tiếp nhận đồng bào mới đến, ổn định tạm thời cuộc sống của họ; Phủ Tổng ủy Dinh điền phụ trách thành lập các khu dinh điền, khu trù mật tại những địa phương còn nhiều đất rộng, chưa canh tác hết, để đưa đồng bào đến định cư lâu dài; và Phủ Tổng ủy Hợp tác xã và Nông tín nhằm cung cấp tín dụng hỗ trợ đời sống của đồng bào các khu dinh điền, khu trù mật, giúp họ có vốn liếng canh tác làm ăn trong khuôn khổ các hợp tác xã được lập ra vì mục đích công ích. 

 Vào thời điểm đó, nhiều khu vực hoạt động tốt, đời sống người dân ổn định và ngày càng phát triển, như khu định cư Hố Nai, Biên Hòa, khu trù mật Hậu Mỹ, quận Cái Bè, khu trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu thuộc tỉnh Chương Thiện, tách ra từ các tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ), Kiên Giang (Rạch Giá)… 

 Đặc biệt khu dinh điền Cái Sắn nằm trong phạm vi hai tỉnh Kiên Giang và An Giang (Long Xuyên), mỗi gia đình được cấp một khoảnh đất ngang 100 mét, dài một cây số, day mặt ra một con kênh đào, cứ hai nhà đâu lưng nhau giữa 2 con kênh đào cách nhau 2 cây số. Để có một khu vực vuông vắn như thế, chính quyền đã phải di dời nhiều hộ dân địa phương, phần lớn theo đạo Hòa Hảo, đến nơi khác, đất không tốt bằng. Song do chính sách đúng đắn nhằm hỗ trợ đồng bào di cư, không dính dáng gì đến quyền lợi cá nhân hay bè phái, đồng bào địa phương sẵn lòng hi sinh một phần quyền lợi riêng của họ. Năm 1968, khi tôi xuống tham gia chính quyền ở quận Kiên Tân, tỉnh Kiên Giang, trong đó có phần lớn khu dinh điền Cái Sắn, từ kênh 1 đến kinh 10, đồng bào di cư Cái Sắn đã có của ăn, của để, lúa thóc đầy bồ, tắc-ráng (loại xuồng máy đuôi tôm nhỏ) chạy ngang dọc các kinh đào như đi trẩy hội. 

 Những năm tháng khó khăn ban đầu, vừa ổn định chính trị, vừa bình định các tổ chức vũ trang chống đối quyết liệt (Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài…), vừa tiếp nhận và lo cho cuộc sống của hàng triệu đồng bào chân ướt chân ráo vào Nam, nếu không có những bộ óc sáng suốt, vì dân, và một đội ngũ công chức biết xả thân vì đại cuộc, miền Nam không thể nào có một bộ mặt ổn định 9 năm liền. 

 Trong những ngày qua, trên một vài trang Facebook, một số bạn trẻ bị đầu độc bởi những thứ văn hóa phẩm “bưng bô”, xuyên tạc, lên án cái gọi là ‘tình trạng tham nhũng” của thời ông Diệm. Xin thưa, nếu thời đó có tham nhũng chăng, thì cũng chỉ bằng 1% của thời đại chúng ta đang sống. Không kể những quan to chức lớn nuôi tham vọng xây biệt phủ, mua nhà nước ngoài hay cho con đi du học, tham nhũng ngày nay được nhiều công bộc sử dụng như một loại biện pháp “chữa cháy” trước đồng lương thấp kém, đời sống khó khăn. 

 Thời ông Diệm, một công chức trung cấp nuôi sống được cả gia đình 4-5 miệng ăn. Khoảng đầu thập niên 1960, học sinh, sinh viên, công chức xa nhà ăn cơm tháng trả khoảng 500 – 600 đồng, trong khi lương tháng một viên chức mới tốt nghiệp đại học gần 7 ngàn đồng, phụ cấp một dân biểu Quốc Hội (tất nhiên là chuyên trách hoàn toàn) 25 ngàn đồng/tháng, một dược sĩ cho thuê bằng mỗi tháng 20 ngàn đồng. 

 Nhìn vào các con số thống kê chính thức (của Viện Quốc gia Thống kê VNCH) công bố vào thập niên 1960, mới thấy tiếc nhớ đời sống kinh tế – xã hội dưới  chính quyền Ngô Đình Diệm. Niên khóa 1955-56, tổng số sinh viên – học sinh chỉ ở mức 665.000 (lấy số tròn), đến niên khóa 1963-64, đã lên tới con số 1.936.000 người, tăng gần gấp 3 lần; tổng chỉ số giá tiêu thụ (trên cơ sở giá tháng 12/1963 là 100) của giới lao động vào năm 1954 là 74,5, vào năm 1962 là 94, và vào năm 1970, sau gần 7 năm chính quyền nằm trong tay các quân nhân, là … 664, tức mức đắt đỏ cao gấp 9 lần chỉ số năm 1954 và 7 lần chỉ số năm 1962! Thịt heo năm 1954 giá 2,4 đồng/kg, 8 năm sau (1962) chỉ tăng thêm 2 cắc, giá 2,6 đ/kg, một viên chức cấp thấp, lương 2.000 đồng/tháng  mua được khoảng 770 kg thịt heo, tính theo thời giá trung bình 70.000 đồng/kg thịt heo, khoản tiền trên bằng với gần 54 triệu đồng. 

 Năm 1962, tôi thi đỗ vào Học viện Quốc gia Hành chánh với học bổng 1.500 đồng/tháng, trả tiền cơm tháng cho người cô 500 đồng, còn 1.000 đồng bỏ túi, đi xe buýt 1đồng/ chuyến, ăn tô hủ tiếu 5 đồng, tiêu hoài không hết.

 Nhắc chuyện khu dinh điền, khu trù mật thời chính quyền Ngô Đình Diệm, xin kể hai giai thoại:

 – Những năm 1955-1960,  tình trạng an ninh tại miền Nam còn khá ổn định, hầu hết sinh viên tốt nghiệp Học viện QGHC đều được bổ nhiệm làm Quận trưởng tại địa phương. Khoảng năm 1958-1959,  ông Nguyễn Đình Xướng, cựu sinh viên khóa 1 QGHC, làm Quận trưởng Cai Lậy, chịu trách nhiệm xây dựng khu trù mật Hậu Mỹ. Một  ngày nọ, ông Diệm đi kinh lý, chứng kiến sự tổ chức tinh tế, khoa học của khu trù mật, hết sức khen ngợi ông Quận trưởng, khi trở về đã thăng ông Xướng làm Tỉnh trưởng Vĩnh Bình (Trà Vinh), đến khi quân sự hóa lãnh đạo cấp tỉnh (khoảng 1959-1960), ông Xướng còn được tiếp tục làm Tỉnh trưởng với cấp bậc Thiếu tá giả định. Con đường thăng tiến của viên chức này luôn suôn sẻ, sau Tỉnh trưởng Vĩnh Bình là Tổng thư ký Bộ Nội vụ, rồi cuối cùng là Tổng quản trị Hành chánh Phủ Tổng thống, mãi đến tháng 6.1975, mới chịu dừng lại, với cương vị người bạn tù cải tạo cùng một nhà, một đội với người viết bài này tại trại Long Thành. 

 – Thời ông Diệm, số công chức như ông Xướng khá nhiều, nhưng không phải không có đôi trường hợp bê trễ, tắc trách. Người ta kể rằng lần nọ, Phủ tổng thống loan báo chuyến kinh lý của Tổng thống đến tỉnh Bình Tuy (Hàm Tân) thăm một khu trù mật ở đây. Quan chức nghe tin rụng rời vì công việc tổ chức khu trù mật chưa hoàn tất theo tiến độ đã trình. Cuối cùng, họ chọn một hạ sách là chờ đến sáng ngày Tổng thống đến, đi nhổ cây xanh ở những nơi xa, đem trồng hai bên đường. Khi ông Diệm ngồi xe trên đường về tỉnh, thấy hai bên đường cây xanh tốt, bèn dừng xe lại, đến gần những cây trồng, trầm trồ khen ngợi, chẳng ngờ cây trồng cạn quá, chỉ mới đụng qua đã bật gốc. Nhận ra mình vừa bị lừa, cụ giận lắm, nhưng chưa biết thể hiện thái độ bằng cách nào, sẵn chiếc nón nỉ đội trên đầu, cụ nhấc lên và quẳng mạnh. Ông Tỉnh trưởng Bình Tuy là Thiếu tá Lê Văn B. đi cạnh Tổng thống đã kịp nhảy tới, hai tay chụp gọn chiếc nón, nhanh và chuẩn xác như thủ môn Buffon thời hiện đại. Giai thoại này tôi nghe kể lại từ anh Trần Văn K. P., Trưởng ty Y Tế Bình Tuy, có mặt trong phái đoàn đón cụ Diệm lúc bấy giờ.

 LÊ NGUYỄN

2.11.2017

Đăng trên trang 8 Sài Gòn

From:haiphuoc47 & Nguyen NThu

MẦU NHIỆM CÁC THÁNH CÙNG CẦU THÔNG – Lm. Đan Vinh, HHTM

Lm. Đan Vinh, HHTM 

  1. NGUỒN GỐC LỄ CẦU CHO CÁC LINH HỒN

 –   Theo lịch sử Hội thánh: Thánh ODILO (962- 1048) là viện phụ của đan viện Cluny trong đế quốc Germany, là một tu sĩ rất có lòng đạo đức.  Người luôn tưởng nhớ cầu nguyện kèm ăn chay hãm mình và dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời.  Một hôm, một đan sĩ Dòng của người đi hành hương Đất thánh.  Trên đường trở về, tàu chở vị đan sĩ đã bị bão đánh giạt vào một hòn đảo, và tại đây đan sĩ đã gặp gỡ và trao đổi với một vị ẩn sĩ.  Trong buổi trò chuyện, ẩn sĩ cho biết: “Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều linh hồn người chết thường bị hành hạ, đánh đập đau đớn.  Có lần tôi nghe được mấy tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ Dòng Cluny mỗi ngày đều giải thoát được một số linh hồn ra khỏi hang lửa nói trên.  Vì thế, xin thầy hãy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng tiếp tục cứu giúp các linh hồn đang chịu đau khổ.  Việc này làm cho các thánh trên trời vui mừng và cũng làm cho ma quỷ trong hỏa ngục phải buồn sầu tức giận.”  Sau khi nghe tu sĩ kể lại sự việc, cha Odilo đã chọn ngày 2 tháng 11 hằng năm để cử hành lễ cầu hồn trong đan viện Cluny của người.  Về sau lễ cầu hồn này đã truyền sang nước Pháp, và Đức Giáo hoàng Gio-an 14 đã thiết lập lễ cầu Cho Các Linh Hồn trong Hội Thánh Công Giáo Rô-ma từ giữa thế kỷ 11.

 –   Giáo lý Hội Thánh Công giáo do Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II ban hành năm 1992 có 3 số nói về luyện ngục như sau:

 Số 1030: Cần có Luyện ngục: “Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn, thì tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng.”

 Số 1031: Luyện ngục để thanh tẩy: “Giáo Hội gọi là luyện ngục là sự thanh luyện sau cùng này của các người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt.  Giáo Hội đã trình bày giáo lý của đức tin về Luyện ngục, nhất là tại các Công đồng Florentia (xem DS 1304) và Trentô (xem DS 1820; 1580).  Dựa vào một số bản văn của Thánh Kinh (Chẳng hạn 1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7), truyền thống của Giáo Hội nói đến một thứ lửa thanh luyện: “Đối với một số những lỗi lầm nhẹ, ta phải tin có một thứ lửa thanh tẩy trước ngày Phán xét, theo như những gì mà Đấng là Chân lý đã dạy khi Người nói rằng nếu ai nói lời phạm thánh chống lại Chúa Thánh Thần, thì sẽ không được tha cả đời này lẫn ở đời sau” (Mt 12,31).  Theo lời quyết đoán này, chúng ta có thể hiểu rằng một số lỗi lầm có thể được tha ở đời này, nhưng một số lỗi khác thì được tha ở đời sau” (Th. Gregoriô Cả, Dial. 4,39). 

Số 1032: Người sống cứu người chết: Giáo huấn này cũng dựa vào cách cầu nguyện cho kẻ chết, như được nói đến trong Thánh Kinh: “Đó là lý do tại sao ông Giuđa Macabê đã truyền phải dâng hy lễ đền tội này cho các người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của mình” (x. 2 Mcb 12,46).

 –   Ngày 10 tháng 8 năm 1915: Trong một Tông hiến, Tòa thánh cho các linh mục được dâng 3 lễ vào ngày lễ cầu cho các linh hồn: 1 cầu như ý người xin, được lấy bổng lễ, 1 cầu theo ý Đức thánh cha (không bổng), và 1 cầu cho các linh hồn (không bổng).  Giáo hội cũng xác định dành trọn tháng 11 để cầu cho các linh hồn trong luyện ngục. 

–  Ngày 1 tháng 11 năm 1967, ĐTC Phaolô 6, trong Tông huấn Ân xá đã ban một đại xá với điều kiện thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu theo ý ĐGH) cho những ai “viếng nhà thờ vào Chúa nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ Các Thánh (số 67), và những ai viếng nghĩa địa trong 8 ngày đầu tháng 11 để cầu cho các linh hồn (số 13).

2. GIÁO LÝ VỀ MỘT HỘI THÁNH BA TÌNH TRẠNG

Chúa Giê-su thiết lập Nước Trời là Hội Thánh.  Hội Thánh ấy hiện nay gồm có ba tình trạng: Một là Hội Thánh “Lữ Hành,” hai là Hội Thánh “Vinh Thắng,” ba là Hội Thánh “Đau Khổ” như sau:

 –  Hội Thánh “Lữ Hành” trần gian: Gồm các tín hữu đang còn sống, đang bước đi trên con đường của Chúa Giê-su.  Như Dân Israel xưa, Hội thánh sẽ phải vượt qua sa mạc trần gian tiến về Đất Hứa Nước Trời là Thiên Đàng đời sau.  Các tín hữu trong Hội thánh lữ hành trần gian còn phải chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt của mình.  Họ được Chúa ban cho hai thứ bánh thiêng liêng là Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể.  Nhờ đó họ sẽ đủ sức vượt qua sa mạc trần gian để tiến về miền Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau. 

–  Hội Thánh “Vinh Thắng” trên trời: Gồm các tín hữu đã qua đời trong niềm tin cậy vào Chúa.  Khi còn sống ở trần gian, các Người đã thực hành Hiến Chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật của Chúa Giê-su, nên ngày nay các Người đang được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng với Chúa. 

–  Hội Thánh “Đau Khổ” thanh luyện: Gồm các tín hữu tuy đi theo con đường của Chúa Giê-su, nhưng khi chết vẫn đang ở trong tình trạng còn nhiều sai lỗi, chưa xứng đáng được vào Nước Trời.  Họ cần tiếp tục chịu đau khổ trong ngọn lửa tin yêu để được thanh luyện sạch mọi vết nhơ.  Rồi khi hoàn toàn trở nên thánh thiện, họ sẽ được về hưởng hạnh phúc Thiên Đàng. 

3.TÍN ĐIỀU CÁC THÁNH THÔNG CÔNG

Ngọai trừ các người theo quỷ phải sa hỏa ngục để chịu hình phạt lìa xa Chúa đời đời, còn các tín hữu tin vào Chúa Giê-su dù còn sống hay đã qua đời, dù đã được lên trời hay đang được thanh luyện cũng đều được thông hiệp với ơn cứu độ của Chúa Giê-su và cầu nguyện cho nhau.  Đó là mầu nhiệm các thánh cùng thông công:

 Các tín hữu còn sống có thể giúp các linh hồn đã qua đời bằng việc viếng nhà thờ hay Đất Thánh và đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ và cầu nguyện hiệp thông với Đức Giáo Hòang để được nhận các ân xá trong dịp đầu tháng 11; Nhất là có thể xin lễ và hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn, làm các việc lành phúc đức như chia sẻ bác ái phục vụ với ý chỉ cầu nguyện đền tội thay cho các linh hồn ông bà cha mẹ đang ở trong chốn luyện hình.  Nhờ đó các linh hồn sẽ được ơn Chúa chiếu soi, được thêm lòng yêu mến Chúa để được tha thứ tội lỗi như lời Chúa: “Yêu nhiều sẽ được tha nhiều.”  Khi các linh hồn được nên thanh sạch thánh thiện hoàn toàn thì sẽ được Chúa đưa vào hưởng hạnh phúc Thiên Đàng.  Bấy giờ các đấng sẽ không quên cầu bầu cùng Chúa xuống muôn ơn lành cho con cháu là chúng ta trên trần gian.

 Riêng khái niệm về Lâm-bô: Lâm bô là khái niệm của thánh Albertô Cả (1200-1280), nói về một nơi dành cho các linh hồn trẻ em chết khi chưa được lãnh bí tích Rửa tội.  Tuy chúng không bị phạt nhưng cũng không được lên thiên đàng vì chưa được rửa tội.  Về sau khái niệm này ít được đề cập đến.  Gần đây Ủy ban thần học quốc tế thuộc bộ Giáo Lý Đức Tin đã công bố một tài liệu mang tên “Niềm hy vọng ơn cứu rỗi dành cho các trẻ em chết mà không được rửa tội.”  Trong đó Ủy Ban cho rằng: “Giả thuyết về Lâm-bô” không có nền tảng rõ ràng trong Mặc Khải.  Theo ủy ban, có nhiều lý do rút ra từ thần học và phụng vụ cho phép chúng ta tin tưởng và hy vọng rằng các em chết trước khi được rửa tội cũng được hưởng nhan thánh Chúa, vì “Thiên Chúa muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ.”  Tuy vậy, Ủy ban cũng khẳng định bí tích rửa tội vẫn là điều kiện cần thiết để được hưởng ơn cứu rỗi của Đức Giê-su như lời Chúa phán: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5).  Tóm lại: Hội Thánh tín thác các em chết khi chưa chịu phép rửa tội cho lòng thương xót của Chúa, và hy vọng nhờ đức tin của Hội Thánh, các em cũng được hưởng ơn cứu độ (x. GLHTCG số 1261). 

4. PHẢI “BIẾT CHẾT” ĐỂ “BIẾT SỐNG”

–  Không thích nói đến cái chết: Nhiều người nghĩ rằng: không nói đến sự chết thì mình sẽ không phải chết.  Nhà tỷ phú Mỹ William Randoph Hearst, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Holywood hồi trước thế chiến thứ hai, đã ra lệnh cấm các nhân viên của mình nhắc đến từ ngữ “chết” trước mặt ông.  Những ai lỡ miệng nói ra liền bị đuổi việc.  Ông là người thông minh, tài giỏi, thành công, nhưng lại không dám đối diện với sự thật phũ phàng là sự chết!  Rồi cuối cùng Hearst cũng bị chết bất đắc kỳ tử, để lại một tòa lâu đài rộng lớn, hiện nay trở thành một điểm du lịch nổi tiếng ở bang California Hoa Kỳ. 

–  “Sinh ký tử quy” (Sống gửi thác về): Nhiều người khi lớn tuổi liền nghĩ đến việc hậu sự và lo chuẩn bị cho cái chết của mình, bằng việc mua đất nghĩa trang, chọn nhà quàn, mua sẵn ván làm hòm để trong nhà.  Họ còn viết chúc thư về những điều con cháu phải làm để lo việc ma chay cho họ: Khi chết phải cho họ chiếc áo này, đeo vòng ngọc kia, cầm cái quạt nọ.  Lại còn dặn dò phải bỏ vào quan tài dụng cụ này hay vòng vàng nọ để sử dụng ở thế giới bên kia, giống như chuẩn bị hành lý cho một chuyến đi xa để về với ông bà tổ tiên.

   Chết là bắt đầu một cuộc sống mới: Đối với những kẻ không tin có Thiên Chúa và đời sau thì chết đi là hết!  Nếu quả thực như thế thì cái chết thật đáng sợ!  Vì nó là đặt dấu chấm hết tất cả những ước mơ của đời người: “Con người là bụi cát lại trở về với cát bụi!”  Nhưng đức tin Ki-tô giáo dạy cho biết: chết không phải là hết.  Nó chỉ là khởi đầu của một cuộc sống mới vĩnh hằng.  Sau cái chết mỗi người sẽ phải trả lẽ những gì đã làm khi còn sống trước tòa Chúa phán xét.  Nếu chúng ta đã sống trong ân nghĩa của Chúa thì giờ chết sẽ là sự trở về ngôi nhà của mình.  Chúng ta sẽ được trở về thiên đàng, là nhà của Thiên Chúa Cha, Đấng đã dựng nên loài người chúng ta.  Ở đây không còn nước mắt đau khổ, nhưng chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn như sách Khải Huyền đã viết: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.  Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, khóc than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (x. Kh 21,4).

 –  Đền tội khi sống lúc chết: Dầu vậy trong cuộc sống, ít nhiều lần các tín hữu chúng ta cũng đã để cho những dục vọng làm chủ bản thân mình, khiến chúng ta không vâng lời Chúa, không làm theo thánh ý Thiên Chúa.  Đó là ta đã phạm tội hay mắc phải các thói hư.  Khi chúng ta còn sống thì các tai nạn, bệnh tật và các điều trái ý cực lòng gặp phải sẽ giúp chúng ta đền tội đã phạm.  Rồi sau khi qua đời chúng ta còn tiếp tục được thanh luyện trong lửa tin yêu gọi là tình trạng luyện hình.

 5. NGUYỆN CẦU

 –  Lạy Chúa Giê-su.  Mỗi lần đối diện với cái chết gần kề, con cảm thấy run sợ vì con chưa sẵn sàng để gặp Chúa.  Trong suốt cuộc đời, con đã lo toan rất nhiều thứ như lo tìm kiếm tiền tài, danh vọng, chức quyền trần gian…  Còn điều quan trọng chính yếu là chuẩn bị cho giờ chết sẽ đến thì con lại chưa quan tâm đúng mức!  Con thật dại khờ khi nghĩ rằng mình sẽ có đủ thời gian chuẩn bị trước khi chết.  Nhưng lời Chúa đã dạy “Con Người sẽ đến như kẻ trộm” và đòi con phải luôn tỉnh thức bằng thái độ sẵn sàng.  Một ngày nào đó con không ngờ trước, con sẽ phải ra trình diện trước mặt Chúa, không biết bấy giờ Chúa có nhận ra con không, hay Chúa sẽ bảo con: “Ta không hề biết các ngươi.  Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7,23). 

–  Lạy Chúa Giê-su, xin ban cho con ơn khôn ngoan của Thánh Thần để con sống trọn vẹn từng giây phút hiện tại Chúa ban trong ơn nghĩa Chúa, để ngày nào đó khi giờ chết đến, con sẽ ra trình diện trước mặt Chúa không phải như hai người xa lạ, nhưng như người rất thân quen.  Khi ấy Chúa sẽ gọi con bằng một cái tên trìu mến và giang rộng vòng tay đón con vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời: “Hỡi kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng ‘Vương Quốc’ dọn sẵn cho các con từ thuở tạo thiên lập địa” (x. Mt 25,34), Amen!

 Lm. Đan Vinh, HHTM

From: Langthangchieutim