Nhật Bản Lo Ngại Khi Việt Nam Ban Lệnh Cấm Xe Máy Chạy Xăng

Ba’o Dat Viet

October 24, 2025

Một quyết định được cho là “vì môi trường” đang đe dọa trở thành cú đánh mạnh vào nền kinh tế Việt Nam — khi chính phủ Cộng sản Việt Nam khăng khăng thực hiện kế hoạch cấm 

 chạy bằng xăng ở trung tâm Hà Nội từ giữa năm 2026. Động thái này không chỉ khiến các nhà sản xuất Nhật Bản lo ngại, mà còn có thể làm rung chuyển cả thị trường trị giá 4,6 tỷ đô la vốn đang bị thống trị bởi Honda.

Theo Reuters, sau khi Thủ tướng Phạm Minh Chính ban hành chỉ thị hồi tháng Bảy, Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Nội đã gửi thư cảnh báo các cơ quan chức năng Việt Nam rằng lệnh cấm đột ngột có thể gây “mất việc làm hàng loạt” trong các ngành công nghiệp hỗ trợ, bao gồm hệ thống đại lý và nhà cung cấp linh kiện. Dù không tiết lộ toàn bộ nội dung, phía Nhật Bản khẳng định Việt Nam cần một “lộ trình phù hợp” cho quá trình điện khí hóa, thay vì ban hành lệnh cấm kiểu mệnh lệnh hành chính.

Hiệp hội Các nhà sản xuất xe máy Việt Nam (VAMM) — trong đó có Honda, Yamaha và Suzuki — cũng đã gửi thư riêng cho chính phủ, cảnh báo rằng kế hoạch này có thể gây “gián đoạn sản xuất, phá sản hàng loạt và ảnh hưởng trực tiếp đến hàng trăm ngàn công nhân.” Hiệp hội yêu cầu ít nhất hai đến ba năm chuyển tiếp để các doanh nghiệp có thể điều chỉnh dây chuyền sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng sạc điện phù hợp.

Thế nhưng, theo các nguồn tin của Reuters, phía Việt Nam vẫn phớt lờ mọi khuyến nghị từ Tokyo lẫn giới công nghiệp. Không một phản hồi nào được chính phủ đưa ra, ngoài tuyên bố quen thuộc rằng “lệnh cấm là cần thiết để giảm ô nhiễm.”

Thị trường xe hai bánh của Việt Nam hiện là một trong những lớn nhất thế giới, với gần 80 triệu xe máy lưu hành — tương đương 80% dân số. Đó không chỉ là phương tiện di chuyển, mà còn là trụ cột sinh kế cho hàng triệu người. Việc cấm xe xăng đột ngột chẳng khác nào bóp nghẹt một phần khổng lồ của nền kinh tế.

Honda, công ty chiếm tới 80% thị phần xe máy với hơn 2,6 triệu xe bán ra mỗi năm, đã lên tiếng trong các cuộc gặp gần đây với giới chức Việt Nam. Theo nguồn tin Reuters, hãng này thậm chí cân nhắc khả năng thu hẹp quy mô sản xuất nếu Hà Nội vẫn duy trì lệnh cấm. Mặc dù Honda phủ nhận việc đóng cửa nhà máy, nhưng hãng thừa nhận đang “theo dõi sát diễn biến” khi doanh số tại Việt Nam đã giảm hơn 22% trong tháng Tám — ngay sau khi lệnh cấm được công bố.

Với bốn nhà máy hoạt động trên khắp Việt Nam, thương hiệu Honda đã trở thành đồng nghĩa với “xe máy” trong ngôn ngữ hàng ngày. Phần lớn sản phẩm của họ vẫn chạy bằng xăng, trong khi các mẫu xe điện như CUV e: và ICON e: mới chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ. Việc ép buộc chuyển đổi quá nhanh sang xe điện không chỉ là rủi ro kinh tế, mà còn đe dọa hàng trăm ngàn việc làm, từ công nhân dây chuyền đến người bán hàng nhỏ lẻ.

Trong khi đó, chính quyền Cộng sản vẫn tiếp tục quảng bá kế hoạch này như một “bước tiến xanh.” Cả Hà Nội và Sài Gòn đều đang nói đến “hạn chế xe xăng” như một thành tựu môi trường, bất chấp thực tế rằng cơ sở hạ tầng sạc điện gần như chưa tồn tại, và nguồn điện quốc gia vẫn chủ yếu đến từ than đá.

Sự cố chấp của chính quyền cho thấy một lối điều hành tùy tiện, thiếu thực tiễn, khi quyết sách lớn lại được áp đặt mà không có đối thoại thực chất với doanh nghiệp hay người dân. Nếu lệnh cấm được triển khai đúng như kế hoạch, Việt Nam có thể phải chứng kiến một cú sốc kinh tế – xã hội: mất việc hàng loạt, sụt giảm tiêu dùng, và một thị trường xe máy  vốn sôi động có nguy cơ bị xóa sổ chỉ trong vài năm.

Từ Tokyo, các nhà sản xuất Nhật Bản đang nhìn Việt Nam với sự cảnh giác. Còn tại Hà Nội, chính quyền Cộng sản vẫn đang say sưa với khẩu hiệu “chuyển đổi xanh” — mà quên rằng, không một nền kinh tế nào có thể xanh được nếu người dân mất việc và doanh nghiệp phải rút vốn ra đi.


 

 MƯỢN OAI “SHARK” HƯNG – KHI NIỀM TIN TRỞ THÀNH MÓN HÀNG (của Gã Khờ)

Nguyễn Quốc Chính

(của Gã Khờ)

Mùa gặt của lòng tin

Người Việt ta có một nét văn hóa độc đáo: càng nói khó tin, càng dễ được tin.

Thế nên từ năm 2019, khi BBI Mall Việt Nam xuất hiện với lời hứa “lợi nhuận 180%/năm”, thiên hạ liền rủ nhau nạp tiền như thể tìm được mỏ vàng giữa thời lạm phát.

Nhưng điều kỳ diệu hơn cả nằm ở chỗ: không ai hỏi lợi nhuận đó từ đâu ra, mà chỉ hỏi ai đứng sau nó. Và khi thấy bóng dáng “Shark Hưng” – người từng ngồi ghế truyền hình, gật đầu thông tuệ trong ánh đèn sân khấu – thì nghi ngờ biến thành niềm tin, niềm tin hóa ra tiền, tiền hóa thành… hư vô.

Khi danh tiếng được niêm yết trên sàn… ảo

Theo kết quả điều tra, BBI Mall lôi kéo hơn 435.000 tài khoản, trong đó có 23.000 người thật nạp gần 780 tỷ đồng vào những “điểm thưởng” không hề có hàng hóa. Một mô hình đa cấp cũ kỹ khoác áo công nghệ, nhưng được đánh bóng bởi hào quang của “Shark”.

Trên slide, logo BBI sánh đôi cùng CenGroup – công ty của ông Hưng. Hình ảnh ấy có sức nặng hơn cả nghị định, thông tư hay báo cáo tài chính.

Vì trong một xã hội quen “tin người hơn tin luật”, khuôn mặt sáng đèn còn đáng giá hơn mười trang điều lệ.

Đám đông tin không phải vì họ hiểu mô hình, mà vì “Shark còn đầu tư, sao mình không?”.

Và khi bong bóng vỡ, người ta lại được nghe điệp khúc cũ: “Tôi chỉ góp 2%, đã thoái vốn từ lâu.”

Khi “Shark” thành bình phong, còn “cá nhỏ” thành mồi

Ở Việt Nam, các “Shark” đôi khi không bơi trong đại dương tài chính, mà chỉ lượn qua hồ PR – nơi mỗi cú bắt tay, mỗi tấm ảnh, được quy ra hàng tỷ đồng niềm tin.

Và khi niềm tin ấy bị đem ra thế chấp cho lòng tham của kẻ khác, thì ranh giới giữa “truyền cảm hứng” và “tiếp tay” mong manh hơn cả tấm danh thiếp.

Một cái gật đầu trên sân khấu có thể khiến hàng nghìn người dưới khán phòng bỏ tiền thật.

Và một lời “tôi không biết họ làm gì sau đó” lại đủ để gột rửa mọi trách nhiệm.

Pháp lý im lặng. Lương tâm thì… chưa chắc.

Lỗ hổng lớn nhất: trách nhiệm

Luật Việt Nam chưa định danh được “trách nhiệm liên đới của người cho mượn niềm tin”.

Nếu anh góp vốn nhỏ, không điều hành, anh vô can. Nhưng công chúng đâu phân biệt được điều hành hay không – họ chỉ thấy anh ngồi đó, nói về khởi nghiệp, mỉm cười tin cậy.

Hơn 23.000 người nạp tiền không phải vì họ ngây thơ, mà vì họ tin vào hình ảnh tử tế.

Và đó là điều đau nhất: khi niềm tin – thứ vốn quý của xã hội – lại bị biến thành công cụ huy động vốn cho một trò ảo tưởng.

Đạo đức doanh nhân: sự vắng mặt của tự trọng

Khi một người đã chọn trở thành “biểu tượng”, thì mỗi bước đi của họ đều có giá trị công chúng.

Anh không thể đứng trên sóng truyền hình dạy người khác cách làm giàu, rồi sau đó nói “tôi không biết gì” khi những kẻ mượn danh anh lừa thiên hạ.

Danh tiếng là tài sản, nhưng cũng là trách nhiệm.

Anh có thể cho thuê hình ảnh, nhưng không thể cho thuê niềm tin.

Vì niềm tin không phải của riêng anh – nó là phần tài sản chung mà xã hội trao cho anh.

Làm giàu bằng trí tuệ thì đáng kính. Làm giàu bằng danh tiếng – thì chỉ là một cách tinh vi của sự nghèo nhân cách.

Hậu khôn ngoan – khi ánh đèn tắt

BBI Mall rồi sẽ đi vào lịch sử cùng những vụ “tiền ảo”, “lợi nhuận ảo”, “niềm tin thật”.

Nhưng điều đáng sợ hơn là, sau mỗi cú sụp, người ta lại mau quên. Và rồi một “BBI khác” sẽ xuất hiện, lại mượn một “Shark khác” để tiếp tục vòng lặp.

Gã Khờ chỉ mong một điều giản dị:

Trước khi anh dạy người khác làm giàu, hãy dạy họ cách không để bị lừa.

Và trước khi anh mượn oai danh nhân, hãy tự hỏi: oai đó có còn là của anh, hay chỉ là món hàng đã được bán lại cho lòng tham?

Gã Khờ

– tháng 10/2025


 

Cái nghèo “ĐÁNG SỢ ” như thế nào?? Bài và ảnh : Lê Tuấn

Kimanh Tampa Florida

Bài và ảnh : Lê Tuấn

  Anh trai tôi lên tám tuổi bị bệnh sốt xuất huyết, bệnh viện yêu cầu truyền dịch gấp. Mẹ tôi không có tiền nên phải chạy bộ rất xa để vay bác ruột nhưng bác lại không cho vay mặc dù nhà rất giàu. Mẹ tôi lại chạy bộ rất xa nữa để vay người khác. Có tiền rồi, mẹ cố chạy thật nhanh để đến bệnh viện thì anh tôi cũng trút hơi thở cuối cùng…

  Hồi xưa, nhà không có tivi nên phải sang nhà hàng xóm xem ké. Vậy mà, họ lại chê nhà nghèo, bẩn thỉu nên đóng cửa lại không cho xem…

  Tết không có tiền mua thịt, mẹ tôi phải bán mái tóc của mình để mua. Đi học về thấy có nồi thịt kho nhưng tóc mẹ lại ngắn tôi chỉ biết chết lặng trong nước mắt!…

  Lúc nhỏ, thấy người ta uống sữa xong vứt cái hộp đi, tôi chạy lại nhặt lên uống. Sau đó, quay sang nói với mẹ: “Mẹ ơi! Người ta hút hết chả còn tí gì!”…

  Hồi xưa, nhà tôi nghèo lắm! Có lần, bà hàng xóm cho đồ ăn mà toàn đồ cũ ôi thiu. Vậy mà, cả nhà tôi ăn ngon đến lạ…

  Ngày đó, mẹ đi làm đồng về mua cho một gói mì ăn trưa, mẹ bảo: “Con nhớ pha nhiều nước. Con ăn mì còn nước để lại mẹ chan cơm”…

  Nhớ lúc năm tuổi, đi lại nhà cậu chơi ngay lúc cả nhà chuẩn bị ăn nui. Mợ thấy tôi đến, mợ bưng đồ ăn để hết vô kẹt tủ gạc – măng – rê…

  Hồi nhỏ, gần nhà tôi có một bãi rác nhưng nó lại là kho đồ chơi của tôi. Cứ chiều đi học về là lượn ra bới tìm đồ chơi, đến giờ còn nhiều thứ đồ chơi tôi vẫn còn giữ vì đó là cả tuổi thơ…

  Lúc nhỏ, nhà tôi rất xập xệ! Mỗi lần mưa bão là ra trước cửa đứng, sợ nhà sập không chạy kịp những đêm ướt mèm đó chắc không bao giờ quên được…

  Lúc trước, ba bị bệnh. Mẹ đã phải đi mượn từ người thân để chữa bệnh cho ba. Năm ấy, mẹ đi chúc tết thì bị người ta nói là “thiếu nợ mà cũng bày đặt đi chơi”…

Đêm giao thừa của năm mười tuổi. Tôi lén theo mẹ đi chợ, mẹ không cho theo cứ tò tò đi sau tưởng mẹ mua gì ngon mà giấu. Tôi đâu có ngờ, mẹ đi mót trái cây héo của người ta bỏ…

 Nghèo nhìn qua hàng xóm cũng nghèo giống mình, đôi khi thấy nhà hàng xóm có thèm,

Sưu tầm: Vivian phạm

 

 


 

Từ Georges Boudarel với Trại tù 113 đến các trại tù sau 1975-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

22/10/2025

Binh sĩ Nam VN đang

Tội ác trong các chế độ độc tài bao giờ cũng có mẫu số chung. Đó lá sự tàn bạo. Trước 1975, chúng ta ở miền Nam cũng có gần 100 đầu sách dịch mà tôi gọi là sách dịch thời thế.

Các tác giả này thường có những suy tư về các biến cố đang phủ trùm đời sống con người, đặc biệt họ là những người đối kháng với bước đi lạc đường lịch sử do tham vọng cá nhân, bè phái, đảng tính mà chủ yếu là do sự mù lòa trí tuệ. Họ là những tên tuổi như Arthur Koestler, Constantin Virgil Gheorghiu, Milovan Djilas, Boris Pasternak, Solzhennitsyn, Moris L. West.

“Sự nổ rợ các tác phẩm dịch này là điều hiểu được. Sự đối đầu giữa hai khối trong cuộc chiến không chỉ vạch ra các đường ranh súng đạn mà còn vạch ra một đường ranh trong tâm não con người. Tính ủy nhiệm và sự tham dự tích cực của các nhà tư tưởng cũng như nhà văn trở thành một thông điệp đối kháng với sự bạo tàn và áp bức.

Chúng ta đã có dịp làm quen với những bản dịch như “Nước đã đến chân” của Suzane Labin, “Thoát ly hỏa ngục” của Thomas Dooley, “Giờ thứ 25” của C.V. Georghiu, “Dr. Zhivago” của Boris Pasternark, “Quần đảo ngục tù” của Soljénitsyn, “Tầng đầu địa ngục” của Thomas P. Whitney.

Chỉ riêng Gheorghiu, ngoài tác phẩm “Giờ thứ 25”, ông còn có các cuốn khác đã được dịch sang tiếng Việt như “Lối thoát cuối cùng”, “Người Lữ hành cô độc”, “Kẻ ăn mày phép lạ”, “Chiếc roi ngựa”, vv..

Nhưng chỉ trong vòng 3 năm, từ 1970-1973, nhiều tác phẩm của Solzhennitsyn đã được dịch như “Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch”, rồi “Tầng đầu địa ngục” và cuốn gây sóng gió nhất là “Quần đảo ngục tù”.” (Nguyễn Văn Lục, 20 năm miền Nam 1955–1975, Tủ sách Tiếng Quê Hương, 2010, trang 396)

Khi nhìn lại hàng trăm tác giả ngoại quốc viết về sự bạo tàn của con người, đặc biệt là người cộng sản, tôi tự trách là khổ đau như thế, nhưng người miền Nam nói chung, các nhà văn nói riêng.

 Đã không có một ai có một tác phẩm ngang tầm với chiều kích bi kịch của sự tàn bạo. Huế 1968, Quảng Trị Mùa hè 1972, đã có tác phẩm nào cho tôi đọc để chia xẻ hết những nỗi đau ấy? Hình như trong cuộc chiến vừa qua có đến cả ngàn đầu sách mà phần đông người ngoại quốc “nói hộ” cho chúng ta.

Nào đã hết. Những bài học về tội ác đối với con người như chế độ Phát Xít Đức Quốc xã bút nào tả hết. Hàng triệu người đã chết dưới tay những tên đao phủ như thế tại các trại tập trung như Buchenwald, tại Bergen–Belsen, tại Landsberg, Flosenburg, Mauthausen. Cộng chung có 1500 trại tập trung rải rác những nơi dưới quyền của Đức Quốc Xã. Có những hố chôn tập thể hàng 2000 người. Nổi tiếng nhất là trại Dachau.

“Khi Dachau được giải phóng, viên hạ sĩ Harold Collum, thuộc đơn vị 392e pháo binh cùng với bốn binh sĩ khác dừng xe díp lại. Họ nhìn thấy những bộ xương người chậm rãi tiến tới gần họ, cánh tay dơ ra. Những người lính kinh hoàng khi nhìn cảnh tượng ấy đến không nói ra lời, Collum đưa cho họ mấy chiếc bánh be nhê, phần còn lại của bữa ăn sáng..Những bộ xương người khụy xuống quỳ lạy tỏ lòng biết ơn. Chiếc xe díp lại nổ máy đi tiếp. Tại trung tâm trại, một vị linh mục tuyên úy Mỹ, có tượng thánh giá bạc trên mũ của ông, trèo lên nắp xe díp, nói to lên trước đám đông những tù nhân bị lưu đày: Lạy Chúa, chúng con dâng lời cảm tạ Chúa.

Thế rồi, ông tiếp tục cầu nguyện bàng tiếng La tinh. Cả đám đông im lặng. Một số người quỳ gối xuống, có nhiều người khóc, nhiều người làm dấu Thánh giá. Một người lính leo lên nóc xe díp đứng bên cạnh vị tuyên úy, nói to lên bằng một thứ tiếng Đức “ăn đong”.

“Hôm qua Mussolini đã bị lật đổ. Munich đã bị chiếm đóng. Các ông được tự do. Xin chào mọi người nhân danh Liên Hiệp Quốc.” (Joshua M. Green, “Justice à Dachau”, nxb calmann-lesvy, 2003, trang 31)

Tôi đã đọc lại những trang lịch sử kinh hoàng ấy trong xúc động về những tội ác đối với con người. Và tôi đành tự an ủi là: Những gì liên quan đến con người, dù độc ác tàn bạo đến đâu đi nữa thì cũng hiểu được theo tinh thần:

Tất cả những gì anh mong muốn người khác làm cho anh, thì chính anh hãy làm điều ấy cho người khác. Và đó là lề luật của các đấng tiên tri.” (Mathieu, 7,12)

Cho nên, chúng ta cũng không lạ gì tội ác và sự tàn bạo của người cộng sản đối với nhân loại, và đối với riêng người Việt Nam khốn khổ. Nhưng vì thế, tôi nghĩ rằng mỗi bài học là một kinh nghiệm riêng, quý báu để ta suy nghĩ trong những hoàn cảnh riêng của nó, trong từng trường hợp, trong cách ứng xử của từng cá nhân.

 Mỗi bài học, mỗi kinh nghiệm đau thương là một thông điệp gửi đi mà nhiều tội ác trở thành tội phạm chống lại con người.

Nói chung, trước những đau khổ ấy, thái độ tốt đẹp nhất là tôn trọng sự khổ đau theo cái tinh thần: ai có qua cầu mới hay.

Bài học của Georges Boudarel mà người viết nêu ra ở đây với Trại tù 113 (“Prisonnier au camp 113”) để lại vừa là bài học vỡ lòng và là một bài học tiêu biểu nhất người viết gửi đến bạn đọc, từ đó dẫn đưa bạn đọc đến các trại cải tạo giam giữ các “ngụy quân, ngụy quyền” sau 1975.

Nhưng trước hết Georges Boudarel là ai mới được? Có thể phần đông bạn đọc lần đầu tiên nghe đến tên này. Vì thế, cần có đôi hàng tóm tắt về tiểu sử và hành trạng của G. Boudarel trước.

Georges Boudarel – Chính uỷ Trại 113 của Việt Minh. Nguồn: Criminocorpus

Đọc hành trạng của G. Boudarel, bạn đọc có thể so sánh không ít đến bọn trí thức thiên tả đủ loại trước 1975 tai miền Nam.

  1. Boudarel, sinh năm 1926 ở Saint-Étienne, bên Pháp. Đi tu và khi sắp sửa dọn mình chịu chức linh mục, ông cởi áo nhà tu và đi theo đảng cộng sản Pháp. Ông là thứ công giáo cấp tiến, thiên cộng như phần đông trí thức công giáo thời bấy giờ. Sau đó, ông được đảng cộng sản Pháp gửi sang Việt Nam vào năm 1948. Ông đóng vai giáo sư dạy Triết tại trường Yersin, Đàlạt. Năm 1949, ông dạy sử và triết học ở trường trung học Marie Curie, Saigon.

Nhưng năm 1950, ông quyết định bỏ đi dạy và gia nhập Việt Minh / đảng cộng sản Đông Dương và làm chủ biên các chương trình phát thanh bằng tiếng Pháp, La voix de Saigon–Chợ Lớn libre (Tiếng nói Tự do của Saigon-Chợ Lớn) của đảng cộng sản đặt ở vùng Sông Bé. Ông làm việc ở đây 18 tháng và sau đó quyết định ra Bắc. Từ 1952 đến 1954, G. Boudarel giữ chức Chính uỷ với cộng sản trong chiến tranh chống Pháp. Năm 1953 Boudarel bị kết án phản quốc ở Pháp. Boudarel ở Hà Nội đến năm 1964 mới đi Prague.

Phải mất 6 tháng trời hay hơn thế nữa để G. Boudarel đi đường bộ từ Nam ra Bắc.

Sau này, khi ông trở về Pháp nhờ luật ân xá 18 tháng 6, 1966, làm giảng viên khoa Sử Việt Nam tại ĐH Paris VII. (Georges Boudarel, https://trialinternational.org/latest–post/georges–boudarel/ và Wikipedia.org

Trong thời gian sau này, G. Boudarel đã viết những tác phẩm sau đây:

  • Boudarel, Vo Nguyen Giap
  • Cent fleurs écloses dans la nuit du Viet Nam – Communisme et Dissidence (1954–1956.
  • Hanoi, city of the rising dragon với G. Boudarel, Nguyễn Văn Ky và William. Duiker
  • Banner of people war. The party’s military line với Vo Nguyen Giáp, Jean Lacouture và Georges Boudarel.

Tôi đã có dịp đọc cuốn đầu tiên viết về Võ Nguyên Giáp. Đối với tôi, đây chỉ là một cuốn sách thường, chẳng có gì đáng đọc. Nó chỉ là một tập tài liệu nhái lại những luận điệu tuyên truyền, chỉ nhằm mục đích ca tụng “ thiên tài” quân sự của Võ Nguyên Giáp. Trong một loạt bài biên khảo của tôi về tướng Giáp, tôi có trích dẫn G. Boudarel và đưa ra những nhận xét sau đây về ông:

“Chúng ta sẽ không lạ gì những tác giả như G. Boudarel cũng như nhiều tác giả Pháp khác. Ông là một người cộng sản Pháp nên toàn bộ cuốn sách của ông về tướng Giáp mà tôi đọc. Ông đã không hề nhắc nhở xa gần về vai trò của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.” (Nguyễn Văn Lục, Những chiến dịch mang tên Võ Nguyên Giáp, Ngoquyen.org)

Tóm tắt, theo tôi cuốn sách ít có giá trị sử học.

Nhận xét của tôi chỉ muốn nêu lên một nhận định: Đã là cộng sản thì không có tổ quốc.

  1. Boudarel đã dẫm đạp lên quyền lợi của nước Pháp, mù quáng chạy theo Việt Minh cộng sản. Vì thế, ông bị coi như một kẻ phản quốc. Ông là mẫu người tiêu biểu cho trí thức theo cộng sản có dấn thân vốn là một khuynh hướng chính trị có sức thu hút nhiều thành phần trí thức thiên tả đi theo họ.

Trào lưu này cũng đã một thời tác động lên một số không nhỏ trí thức thành phần thứ ba tại Việt Nam trước cuộc kháng chiến chống Pháp và sau 1954. Rồi chống Mỹ, nhất là giai đọan từ cuối thập niên 1960, đầu 1970. Sau 1975, một số lớn trong bọn họ mới chợt tỉnh và ý thức được những sai lầm mê muội của họ thì đã quá trễ.

Khi ông về lại bên Pháp, nhờ tiếp xúc được với nhiều giới cũng như thu tập được khá đủ tài liệu, các số báo Nhân văn Giai phẩm, ông bắt đầu viết những bài tham luận đăng trên tập san Sudestasie, số 50 năm 1988, nhan đề “Dissidences intellectuelles au Viet Nam L’affaire Nhân Văn Giai phẩm”. Sau đó ông tập trung lại in thành sách, “Cent fleurs éclosent dans la nuit du Viêt Nam: communisme et dissidence, 1954-1956, Jacques Bertoin, 1991”.

Trong những nhận định được coi là quan trọng và sắc bén nhất của Georges Boudarel, theo tôi, ông có một nhận xét khá tinh tế khi cho rằng các nhà văn trong NVGP có một nhầm lẫn lớn là nói ra quá sớm những điều chưa thể nói ở Việt Nam. (Le tort de parler trop tôt).

Đúng vậy, nói không đúng lúc, nói không đúng thời điểm, các tác giả trong NVGP trở thành nạn nhân của chế độ cộng sản. Phải biết lúc nào được nói, lúc nào được phép nói. Đơn giản là vậy.

Nhưng điều làm cho G. Boudarel “tỉnh ngộ” là vụ cải cách ruộng đất. Hồ Chí Minh lộ hình cho thấy là một kẻ tàn bạo khi tiến hành cải cách ruộng đất, giết hại cả trăm ngàn người vô tội, trong đó, không phải chỉ có giới phú nông mà còn có con em của nhưng người đã từng hy sinh tính mạng trong công cuộc đánh đuổi người Pháp.

Nếu Hồ Chí Minh là kẻ sát nhân trong vụ NVGP thì Lê Duẩn là tên tội đồ trong vự thảm sát tết Mậu Thân.

Do sự bất mãn với chế độ Việt Minh Cộng sản trong vụ cải cách ruộng đất, năm 1964, Boudarel đã phải tìm cách trốn đi khỏi Việt Nam để sang sống ở Moscou với một tên giả là “Boris”, rồi Prague.

Boudarel bị cộng sản Việt Minh kết án tử hình do tội bỏ trốn và đào ngũ vì chống lại vụ cải cách ruộng đất. Trong một cuộc phỏng vấn dài với đahi châu Âu 1, Boudarel trả lời cho những người đã chỉ trích ông,

Georges Boudarel

“Tôi không hối tiếc gì về việc đã theo bên của Việt Nam và người dân thuộc địa. Tôi tham gia vì niềm tin. Lúc đó tôi là một người cộng sản. Bây giờ tôi nghĩ rằng tôi đã làm sai 100 phần trăm khi lựa chọn cộng sản.” (Aan Riding, “Paris Journal; Vietnam Echo Stuns France: Case of Treachery?” Special to The New York Times, March 20, 1991)

Tuy nhiên bi kịch kinh hoàng nhất của G. Boudarel là ông ta được cộng sản Việt Minh cài đặt ông trông coi một trại tù, làm trung gian để giết hại các cựu tù nhân Pháp.

 Đây là một đòn thù tàn ác, ghê tởm dùng người Pháp giết người Pháp. Ông được bổ nhiệm làm phụ tá ủy viên chính trị trong một trại tù của Việt Minh, trại tù nổi danh với cái tên vỏn vẹn con số 113. Một cái tên khác gọi là trại tù Đại Đồng. Mọi sự tàn độc của cộng sản đối với tù binh Pháp nay đổ lên đầu một mình G. Boudarel. Mặc dầu có thể trên thực tế, ông không có một tý quyền hành gì cũng không dúng tay vào các tội ác.

Georges Boudarel (1953–1991) Communisme & Guerre Froide

Trại 113 nổi tiếng vì mức độ tàn độc về số tù nhân tử vong do đói khát, bệnh tật và nhiều nguyên nhân khác. Có nhiều con số đưa ra từ mức 50% đến 75% số tù nhân bị tử vong.

Thật cũng khó mà có được con số chính xác vì chỉ là những lời kể lại của các tù nhân–nhân chứng. Các tù nhân còn sống sót xác nhận rằng có 278 người chết trên tổng số 320.
Nhưng cho dù con số đưa ra không hoàn toàn chính xác vì chẳng ai trong số các tù nhân người Pháp có thể có điều kiện để đếm từng người, ngoại trừ cán bộ cộng sản coi tù? Cho đến nay thì muốn tìm tài liệu về phía cộng sản hẳn là ngay cái tên cái trại tù 113 cũng không hề có. Họ hẳn đã xoá sạch?

Câu chuyện trại tù 113 hầu như bị quên lãng! Và Georges Boudarel trở lại Pháp, rồi dạy đại học một cách công khai, không cần che dấu tên tuổi vì có sự che chở của một số trí thức cánh tả trong giới đại học.

Cho mãi đến năm 1991, trong một buổi hội thảo do Centre des hautes études sur l’Afrique et l’Asie moderne, Jean Jacques Beucler đã từng bị tù cộng sản Việt Minh trong bốn năm, tố cáo G. Boudarel và quy kết ông vào tội: Crimes contre l’humanité. (Tội ác chống lại con người). Sau đó đã có một số nhân chứng đã từng bị tù trong trại giam 113 như Jean Pouget, Charles Bora, Georges Le Gouron coi trại tù 113 một trại giam được coi như Les camps de la mort. Họ được dịp kể lại những gì họ đã sống, đã nhìn thấy bằng chính mắt họ trong sự xúc động, đau khổ khi nhắc nhở lại dĩ vãng đau thương khi thấy các đồng đội của họ bị bỏ chết đói và chết như thế nào. Xác người chết không kịp chôn, mùi hôi thối nồng nặc với những thân xác người như các bộ xương khô, hình ảnh gợi nhớ đến các cảnh kinh hoàng trong các trại tập trung thời Đức Quốc Xã.

Nhưng chính trong bối cảnh đó, có sự tố cáo lẫn nhau giữa các nhân chứng. Đây là thứ bi kịch thứ hai do cộng sản dùng ăng ten để tù kiểm soát tù. Người nọ tố cáo người kia làm ăng ten cho cộng sản.

Một cựu tù nhân đã chất vấn một cách hung hãn như hai kẻ thù, cho một cựu tù nhân khác: Khi ra khỏi tù, anh nặng bao nhiêu kí lô? Người kia trả lời 70 kí lô.

Người tù chất vấn trả lời: khi tôi ra tù chỉ nặng có 40 kilo. 70 kí và 40 kí là sự khác biệt giữa tù thật và tù làm ăng ten. Sự khác bệt giữa 40–70 kí là bằng chứng tội phạm.

Sự nghi ngờ và tố giác nhau công khai như thế, sau hơn 40 năm quả thật là một bi kịch chỉ có thể tìm thấy trong các nhà tù cộng sản. Họ la hét, họ bày tỏ tất cả nỗi oán giận lên người cùng số phận với họ như một thứ kẻ thù có thể ăn tươi nuốt sống. Nỗi oán hận ấy theo lẽ phải đổ lên đầu những tên cán bộ cộng sản vốn chúng độc ác, tàn bạo! Như thể có thật là vô lý hay không?

Phần G. Boudarel, về mặt pháp lý, toà án không có đầy đủ yếu tố buộc tội ông như các lời tố cáo của các tù nhân trại tù 113. Ông có thể bị bắt buộc phải làm theo lệnh của cộng sản. Ông có thể chỉ là trung gian truyền những mệnh lệnh của bọn lãnh đạo trại tù.

Vì thế, sau này, ông đã làm đơn kiện lên tòa án về 5 tội phạm mà ông cho là không có bằng cớ và đòi phải được bồi thường về sự vu khống?

Cho dù về mặt pháp lý, G. Boudarel được coi là người vô tội. Nhưng về mặt lương tâm con người, tôi nghĩ rằng chưa bao giờ lương tâm ông được yên ổn?

Cả đời ông làm sao quên được những người Pháp như ông bị bỏ đói, chết khát, chết vì đủ thứ bệnh truyền nhiễm, thân xác chỉ còn da bọc xương. Đã thế, còn bị hành hạ tinh thần, bị xỉ nhục bằng cách học tập, nhồi sọ lý thuyết Mác Xít?

Ông Boudarel cho biết ông đã trở thành “một tù nhân của một ý thức hệ đã gắn liền với bản thân mình. Tôi là một phần của hệ thống phân cấp và tôi phải tuân lệnh như những người lính Pháp phải tuân lệnh các sĩ quan của họ.” (Alan Riding, ibid., )

Tuy nhiên, tôi đã có dịp quan sát rất kỹ thái độ, cử chỉ, ánh mắt nhìn, cách trả lời của G. Boudarel với vẻ khinh mạn, thách thức, lạnh nhạt trước các lời tố cáo. Nếu chỉ nhìn G. Boudarel lúc ông phải đối diện với những nạn nhân trại tù 113, tôi cảm nhận ông là thứ người đã bị nhồi sọ, vô cảm. Một thứ bất nhân hết thuốc chữa. Không một chút gì cho thấy ông có một tấm lòng hay một sự hối cải nào. Ông lãnh đạm và đôi lúc còn tỏ ra khinh bỉ, coi thường những nạn nhân đã từng bị ông đối xử như bày súc vật.

Đó là điều đáng trách nhất và đáng nguyền rủa nhất của một người trí thức như G. Boudarel. Trong số những bọn trí thức thiên tả miền Nam, trước 1975, tôi cũng có thể so sánh cung cách thái độ của một số bọn họ chẳng khác gi G. Boudarel cả.

 Hèn nhát, nịnh bợ, a dua, về hùa, mất nhân tính khi gọi các trại cải tạo là nơi “nghỉ mát”.

Tôi đã có dịp trích dẫn cuốn của Alain Ruscio, “Vivre au Viêt Nam”, từ các trang 133 cho thấy tiêu biểu trại Nam Hà, vào năm 1978 như sau:

“Từ năm 1975, hơn 600 người đã ở đây. Khoảng 50 người đã được thả về. Các căn trại được xây bằng gạch. Các phòng, rất sạch sẽ, chúng giống như các doanh trại nhà binh. Mỗi căn trại có 50 người. Đúng như vậy. (..) Mỗi người có một cái chiếu, hai cái mền..Một nhân viên quản giáo cho chúng tôi biết quần áo, sà phòng, kem đánh răng, tất cả những gì cần thiết cho đời sông thường ngày thì đều được Trung tâm cung cấp đầy đủ. (…) Chúng tôi đã gặp nghị sĩ Ngô Văn Ham, cựu tướng Huỳnh Văn cao, không có dấu hiệu gì cho thấy sự đối xử… tàn bạo. Nói chung, toàn doanh trại cho thấy có dấu hiệu một trại trừng giới”

Tội ác từ Trại tù 113 thời Pháp đến các trại cải tạo sau 1975

Sách và tài liệu về phía Pháp viết về các trại tù cộng sản là những bằng cớ không chối cãi được sự dã man và tàn bạo của người cộng sản.

Về phía VNCH, cũng đã có một ít sách viết về trại Cải Tạo sau 1975 như các cuốn: Đáy Địa Ngục, Cùm đỏ, Trại Cải Tạo, Những năm cải tạo ở miền Bắc, The Vietnamese Holocaust and the Conscience of the civilized nations, Viet Nam after 1975: Bamboo Gulags and Subtle Genocide, Những sự thật không thể chối bỏ, Trại Đá Bàn, Một nửa VNCH kéo dài, Tôi phải sống, v.v.. Và nhất là Trại Cổng Trời của Kiều Duy Vĩnh và Trại Cổng Trời (phỏng vấn của Mạc Lâm, đài RFA)

Và số người đi cải tạo lên đến nửa triệu người. Vậy mà trong nửa triệu người ấy, tôi có thể đoan chắc có thể không có đến một hai người trở thành cộng sản. Điều đó là một nỗi mừng hãnh diện về tư cách cũng như tinh thần của các tù nhân cải tạo.

Trong khi đó, thời VNCH, trước 1975 số cán binh cộng sản được chiêu hồi lên đến con số không phải ngàn người mà hàng vạn người. Sự khác biệt ấy nói lên điều gì và không nói lên điều gì?

Vì thế, khi nêu trường hợp G. Boudarel ra đây, cũng như những nạn nhân trong trại tù 113 như cái cớ để nói về bi kịch những người đi học tập cải tạo của miền Nam. Mục đích rõ ràng là như thế! Những gì đã xảy ra ở trại tù 113 cũng có thể xảy ra trong các trại Học tập cải tạo sau 1975 như một thứ phiên bản?

Nếu trong trại tù 113, hơn phân nửa đã chết vì đói ăn và bệnh tật thì theo ông Kiều Duy Vĩnh trên trại Cổng Trời, vào năm 1959, có 72 người bị đầy lên trại Cổng Trời, phần đông bọn họ là linh mục, hai vị, tu sĩ, thày giảng, ông Trùm, (hai) bà sơ, giáo dân. Không một ai có cơ hội sống sót để trở về, trừ hai người là Kiều Duy Vĩnh và Nguyễn Hữu Đang may mắn hơn, chỉ vì họ không phải là người công giáo. Tội của người chết đơn giản vì họ là người công giáo. Sau này, 1977, có một số vị linh mục bị đầy lên trại Cổng Trời và lãnh bản án 22 năm tù đầy.

Trong số những tác giả viết về các trại Tập Trung cải tạo của cộng sản, tôi dành một chỗ cao nhất nếu có thể dành cho tác giả Kiều Duy Vĩnh, mặc dầu ông viết rất ít và rất ngắn.

Số người chết trong tù cải tạo sau này có thể không đông đảo bằng trại tù 113, nhưng chính sách và đường lối quản lý tù nhân thì có thể không thay đổi. Chính sách bỏ đói, cài đạt ăng ten, chỉ điểm, chính sách tẩy não, thời gian tù đầy “tù mù” không hạn định ngày được tha có thể vẫn y như cũ.

Đối với quan điểm của tôi, tôi không kết án những tên cai ngục, ngay cả những người trót dại chỉ điểm, nghĩa là không kết án con người trong cái guồng máy nghiền tội phạm ấy mà kết án cái chế độ ấy.

Trong cuốn Đáy Địa Ngục của họa sĩ Tạ Tỵ, xuất bản năm 1985, ông đã đủ can đảm nhiều thứ, trong đó ông thú nhận rằng:

“Đói là vấn đề lớn trong tù. Đúng vậy. Cộng sản cai trị dân Việt Nam qua cái dạ dầy. Nếu ai chưa bị đói, cái đói dài dài từ ngày này qua ngày khác, từ tháng nọ đến tháng kia, chứ không phải 1, 2 bữa, khó mà cảm thông với cơn đói cồn cào ruột gan, đói toát mồ hôi, đói đương ngủ phải thức dậy, đói đến điên cuồng của những người đi cải tạo miền Bắc, sống chui rúc trong các hang hốc của dãy Hoàng Liên Sơn trùng trùng, ngất ngất, sát miền biên giới Hoa–Việt và sau những lớp đồi giăng mắc như mắt lưới thuộc miền Trung Du Bắc Việt, hay ở chân dải Trường Sơn thăm thăm miền Thanh Nghệ Tĩnh.” (Tạ Tỵ, “Đáy Địa Ngục”, trang 17–18)

Phạm Quang Giai, trong cuốn Trại Cải Tạo cũng viết:

“Cộng sản không cần đánh đập, không cần kết án mà chúng đã dùng cái máy chém “Đói”, chúng lê cái máy này đến mọi nơi, mọi chốn có tù nhân chính trị miền Nam để trả thù, trả hận mà vẫn không mang tiếng là ác độc, là giết người.

Một khoảng triền núi Mường Ngãi (Sơn La) có bãi cát phẳng lỳ, thế mà chỉ sau vài ba tháng, hàng trăm ngôi mộ của tù chính trị miền Nam được đắp lên vội vã.” (Phạm Quang Giai, “Trại Cải Tạo”, trang 5)

Tôi cũng rất trân quý cuốn sách “Trại cải tạo” của Trung tá Phạm Quang Giai, bởi vì cuốn sách rất người, rất nhân bản, biết nghĩ đến đồng đội. Ông viết:

“Số người chết trong mùa đông thật nhiều.

Tổ chúng tôi trực xác chết được chừng một tháng thì vào giữa giai đoạn lạnh rét, thiên hạ bị chết nhiều quá. Có ngày phải chôn hai người, có ngày ba người. Anh em mệt quá nên trở nên bất lực, thì tên Quý thấy khu A làm ăn không bằng khu B nên ra lệnh cho khu B nhận lại làm luôn.” (Phạm Quang Giai, ibid., trang 228)

Chỉ mấy dòng này đủ để chúng ta suy nghĩ về sự tàn độc của cộng sản, giết người bằng cách để thiên nhiên hành động một cách tự nhiên như thế nào. Nó có khác gì mấy các trại tập trung Đức Quốc Xã hay không?

Và phần Tạ Tỵ cũng phải nhìn nhận, “Ở tù… mọi giá trị đều đảo lộn.” (Tạ Tỵ, ibid., trang 21)

Ở chỗ khác, ông viết:

“Vì quá chật chội, nên con người dễ sinh bực tức. Sự việc không đáng gì, ở đây, trở thành nặng nề, khó giải quyết. Mới đây, họ là những chiến hữu, chào hỏi nhau qua cấp bậc, nếu không quen biết cũng chẳng bao giờ có ý gây gỗ. Nhưng ở hoàn cảnh này, tình chiến hữu hình như phai nhạt, nhường chỗ cho ích kỷ, nhỏ nhen. Nói vậy không có nghĩa mọi người có mặt đều hành xử như nhau, nhưng “đa số trầm lặng”, không giúp ích gì trong việc giải quyết mâu thuẫn cấp thời.” (Tạ Tỵ, ibid., trang 283)

Tuy nhiên, rải rác trong suốt cuốn sách, họa sĩ Tạ Tỵ bị ám ảnh gần như soi mói vào từng cử chỉ, thái độ của các người bạn cải tạo. Rồi nghi ngờ, đánh giá cũng như nói xa gần đến những tù nhân tự nhận làm ăng ten cho giặc. Có những giọng điệu mỉa mai gián tiếp không cần thiết đối với các tướng lãnh, các người bạn đồng tù.

Có cần thiết phải làm như vậy không?

Như trong đoạn tranh cãi sau đây, một người người ngoài cuộc cảm thấy đau lòng cho cả đôi bên mà sự phân định phải trái thật không dễ dàng gì.

Đây là đoạn tranh cãi giữa tướng Cao và một vị linh mục trẻ:

“Cách đây mấy hôm, không hiểu có chuyện gì với tướng Cao, vị linh mục Tuyên úy này đã có thái độ quyết liệt nói thẳng:

Tại sao ông lại xuyên tạc sự thật? Ông báo cáo với cán bộ những điều tôi không làm, không nói?
Tướng Cao trả lời lạnh lùng:
Ở đây, ai cũng có quyền báo cáo chả riêng gì tôi!
Đúng, báo cáo là quyền của ông, nhưng tôi chỉ mong ông đừng xuyên tạc sự thực là được. Chúng ta mọi người ở đây đều là tù, không có Tướng Tá gì hết. Cách mạng đã ghi trong nội quy như vậy. Ông muốn về sớm hơn anh em, ông có quyền làm tất cả tất cả những gì thuộc riêng ông thôi, đừng hại anh em, để được tha trước. Nói xong, vị linh mục trẻ này quay về phía anh em nói to:
Phải lôi rắn ra khỏi hang mà đánh.” (Tạ Tỵ, ibid., trang 473)

Lạy Chúa, ai là rắn , rắn nào đây? Rắn ấy vốn là đồng đội với nhau trước 1975?

Có lẽ đây là một trong số những câu truyện xảy ra đáng buồn nhất trong cuốn Hồi ký của Tạ Tỵ. Cái mồi câu nếu học tập tốt sẽ được về sớm đã là một trong những đòn nhử mà cộng sản tàn độc đã dùng để những người tù cải tạo sẵn sàng hại lẫn nhau. Cả vị linh mục lẫn tướng Huỳnh Văn Cao đều tin vào một Chúa, ở ngoài đời chắc đã có sự tương kính không tránh được. Nhưng ở đây thì khác, họ đang tố cáo nhau như thể những kẻ thù.

Trong cuốn Hồi ký, tôi thấy chỉ cần một chi tiết nhỏ cũng có thể trở thành một mối đe dọa, một bản án, một chụp mũ rất vô bằng và bất công cho những ai được bọn cán bộ chỉ định làm toán trưởng. Chúng ta thử đọc một đoạn tiếp:

“ Chổi đâu? Một tiếng nói như gắt. Anh Bảy (toán trưởng) nhỏ nhẹ.
— Mấy anh tự tìm lấy. Tôi cũng như mấy anh biết gì đâu mà hỏi!
— Anh là B. Trưởng mà! Nghe câu đó, anh Bảy không giữ được bình tĩnh:
— B. cái con mẹ gì? Tôi yêu cầu ba anh Tổ trưởng phân công cho anh em làm vệ sinh. Nếu không, tôi sẽ…

Anh chưa nói hết câu, nhưng mọi người đều nhận biết đó là lời đe dọa! Một tiếng nói vọng ra từ góc nhà.

— Đù mẹ, chưa chi đã phách lối!” ( Tạ Tỵ, ibid., trang 31–32)

Câu chửi thề ấy rất có thể trở thành một bản án rồi đấy! Sự chia rẽ, nghi kỵ có thể bắt đầu từ đây.

Nhận diện và kết án một ai đó làm ăng ten là một điều không dễ.

Có những người đi học tập có chút nghề riêng thường dễ được xử dụng và hưởng được chút biệt đãĩ như thầy thuốc, thợ mộc đóng bàn ghế, thợ sửa đồng hồ. Hoặc biết chút âm nhạc, hội họa đôi khi cũng có chỗ để dùng. Như chính trường hợp Tạ Tỵ, nhờ biết vẽ, mặc dầu không chuyên về vẽ truyền thần hay phong cảnh, nhưng cần gì. Ông vẫn được trọng dụng để vẽ chân dung Hồ Chí Minh chẳng hạn..

Những trường hợp này có thể nào bị gán ghép là làm ăng ten? Chính Tạ Tỵ kể có lần vẽ cho một cán bộ có em gái đi lấy chồng nhờ ông vẽ một tấm bảng Song Hỷ, có lsửng hoa, v.v. Sau đó, ông được cán bộ tặng cho một gói thuốc lào An Thái, 2 trái su hào to và một hũ mật nhỏ.

Trường hợp Duyên Anh

Hình từ trái qua phải: Ô. Trần Hữu Hoàng, Duyên Anh và vợ, các ông . Nguyễn ý Thuần, Trần Quốc Bảo, Hồ Văn Xuân Nhi, Lê Phước Vinh – hình chụp cuối năm 1987 lần đầu tiên Duyên Anh đến Mỹ và gặp gỡ nhóm chủ trương nguyệt san Tuổi Ngọc ( Mỹ ). Nguồn: chs-tb-nth-hn.com

Nhân đọc bài viết của tác giả Vĩnh Phúc viết về nhà văn Duyên Anh, tôi thấy cần thiết đóng góp một tiếng nói khác về dư luận kết án Duyên Anh làm ăng ten cho cộng sản.

Trong cuốn Hồi ký của Tạ Tỵ , tôi cảm thấy khó chịu khi ông họa sĩ tìm đọc những cuốn: Chân dung các tướng ngụy Sài Gòn. Cuốn sách do một trung tá cộng sản đã dùng những bản tự khai của mỗi tướng lãnh, rồi pha chế thêm. Xin trich đoạn sách những nhận xét của tên trung tá:

“Khi nhìn thấy tôi (tác giả), tướng Kim đang uống nước, vội bỏ ly xuống, chạy ra chắp tay chào bàng một giọng lễ phép! Còn đề đốc Trần Văn Chơn lúc này đã ăn chay, niệm Phật! Tướng Lê Minh Đảo, tướng Lam Sơn, tướng Có, tướng Á, v.v.. Mỗi vị tướng được nói đến như gắn vào ngực một bản án ô nhục, nếu còn sống ngày nào cũng chẳng dám ngửa mặt nhìn ai. Qua cuốn sách, không vị tướng nào còn chút giá trị trước mắt người đọc. Nó nói hết những gì trước kia được che dấu dưới ánh sáng của những ngôi sao.” ( Tạ Tỵ, ibid., trang 598-599)

Tạ Tỵ cũng tiết lộ cho biết ông còn đọc cuốn “Bộ mặt thực của các tướng ngụy”. Về cuốn này Tạ Tỵ viết:

“Cuốn này đề cập cả đến những khuôn mặt tướng lãnh đã di tản như Vĩnh Lộc, Phạm Quốc Thuần và Tôn Thất Đính, v.v.. Nội dung vẫn chỉ nói xấu, nhưng cũng phần nào đúng, nếu ai được biết qua “đời tư Lữ Bố” chẳng hạn, tướng Lam Sơn có mấy vợ? Tên các con gái toàn Mỹ Kim, Anh Kim, Đức Kim, Quý Kim, v.v.. Nghe loảng xoảng toàn vàng bạc. Còn người tình của tướng Khôi thiết giáp là ai? Vì sao, cô ta lại yêu tướng Khôi, dù ông đã có vợ con!

Đứng về mặt nghệ thuật, cả hai cuốn đó đều không có, nhưng đứng về mặt tài liệu, chúng có một giá trị tương đối. Trong thời gian vừa qua, có mấy ông tướng được đưa về trại Nam Hà. Một sáng ngồi chờ lao động, tôi thấy mấy ông Tướng đứng thập thò nơi đầu ngõ, lấm lét nhìn tên công an đang đứng gác các Đội, sửa soạn đi lao động. … Tôi không còn nhìn thấy chút oai phong nào ở nơi các ông ấy.” (Tạ Tỵ, ibid., trang 598-599)

Tôi đọc và trích dẫn hai đoạn văn trên của họa sĩ Tạ Tỵ. Tôi nhận ra được tất cả cái tâm địa tầm thường của tác giả. Có người tù nào trong trại cải tạo, dù là sĩ quan hay tướng lãnh, đói ăn và bệnh hoạn làm thế nào để họ giữ được oai phong tướng lãnh?

Không biết, Tạ Tỵ tự nhìn bản thân ông vốn là một sĩ quan cấp trung tá, nhưng chưa một ngày chiến trận, có được cái oai phong thuở nào không?

Hai cuốn sách của cộng sản nhằm hạ nhục tướng lãnh quân đội VNCH, bêu xấu đồi tư của họ. Có đáng được gọi là “tài liệu” và để dẫn chứng ra trong cuốn sách không? Tôi thấy ông hoạ sĩ lập thể có thói quen vẽ tranh thế nào thì viết về người như thế! Thật đáng tiếc.

 (7/5/1975) BẠI TRẬN TẠI ĐÀ NẴNG—Binh sĩ Nam VN đang bị canh gác sau khi Đà Nẵng sụp đổ, trong bức ảnh nhận được hôm thứ tư tại New York từ Thông tấn xã Giải Phóng của Nam VN. Chú thích kèm theo bức ảnh viết: “Hàng ngàn binh lính “tinh nhuệ” của bè lũ Thiệu-Kỳ bảo vệ Đà Nẵng đã nhanh chóng bị quân giải phóng quét sạch hay làm tan rã. Hàng ngàn quân địch đã bị bắt làm tù binh trên các mặt trận và chuyển đến những khu vực bảo đảm.” Nguồn: AP Wirephoto

 Được biết, sau này khi sang Mỹ, Tạ Tỵ còn viết bài trên tạp chí Văn của Mai Thảo, tố cáo Duyên Anh “đầu hàng cộng sản, bán xác anh em”. Theo Vũ Trung Hiền, Duyên Anh phản công dữ dội. Ngoài một số bài trên các báo, Duyên Anh còn nhắc tới Tạ Tỵ khá kỹ trong Hồi ký: Nhà tù và trại tập trung về “thành tích vẽ ảnh Hồ Chí Minh, ăn vụng thịt, ăn tranh phần cơm cháy của heo.” (Vũ Trung Hiền, “Duyên Anh và tôi”, Tân Tây Sơn xuất bản, tháng giêng 2000, trang 63)

Đây là sự tranh cãi, tố cáo nhau bẩn thỉu nhất mà tôi đọc được mà tất cả đều dựa trên tin đồn, lời truyền miệng từ người nọ đến người kia. Tôi không làm công việc bênh vực Duyên Anh. Bởi vì, tôi không có điều kiện đi tù cải tạo, không ở cùng trại tù Xuyên Mộc với Duyên Anh. Nhưng cũng chắc chắn tôi không dễ dãi đồng ý với cách thức kết án của họa sĩ Tạ Tỵ.

Cũng xin trích ra đây lời tâm sự của Duyên Anh với Vũ Trung Hiền:

“Xét cho cùng, chỉ có chủ nghĩa cộng sản và bọn thiểu số lãnh tụ chóp bu là kẻ thù để mình chống thôi. Những thứ cắc ké như bọn cán bộ quản giáo, công an coi tù, chúng nó có ra cái gì, mà mình phải coi chúng là kẻ thù?

— Mình chỉ chống chủ nghĩa thôi chẳng nên chống con người”

Ông giải thích tiếp:

“Thì cũng là vì anh tội nghiệp những thằng công an con nít, cho chúng nó thuốc lá, lạp xưởng, dạy chúng nó làm thơ tán gái, một số bạn tù cho rằng anh khiếp nhược, sợ bọn cai tù, đầu hàng cộng sản. Thậm chí còn có người bảo anh làm việc cho cộng sản nữa. Nhưng không sao anh bằng lòng chịu những hệ lụy đó. Để khỏi a dua với chúng nó.” (Vũ Trung Hiền, ibid., trang 83)

Đặc điểm của tinh thần “chống nhau” thay vì dồn sức lực chống kẻ thù cũng là nét đặc trưng của các cộng đồng người Việt hiện nay ở hải ngoại.

Nói về nhân cách con người cũng như sự hèn nhát thì không nhất thiết phải tìm trong các trại tù cải tạo! Xin mời đọc đoạn trao dổi giữa Vũ Trung Hiền và Trần Đình Thục, người họa sĩ cùng đi với Duyên Anh và chứng kiến từ đầu đến cuối tấn bi kịch Duyên Anh bị đánh giữa khu Bolsa như sau, Trần Đình Thục kể:

“Trưa hôm nay, anh Duyên Anh đi với anh Lê Quý An, tôi và em tôi đến khu Bolsa Mini Mall, định ăn trưa ở quán Ngân Đình. Chúng tôi gặp Mai Thảo, bác sĩ NM (Nguyễn Mạnh, chú thích của NVL) và bác sĩ NTV (Ngô Thế Vinh — chú thích của NVL) ở trước cửa quán. Duyên Anh dừng lại nói chuyện với họ khoảng chừng mươi mười lăm phút. Ăn trưa xong, khoảng một giờ, chúng tôi đang đi bộ về phía đường Bolsa thì bốn tên từ phía sau trờ tới. Một ten vỗ vai Duyên Anh. Ngay khi anh vừa quay lại, nó đánh thật mạnh vào thái dương bên trái, rồi bồi thêm một cú móc dưới cằm. Duyên Anh ngã quỵ xuống. Sự việc xảy ra đột ngột không kịp phản ứng. (…) Chúng tôi xốc Duyên Anh, dìu anh đến ngồi trước bậc thềm, bên ngoài phòng chụp quang tuyến của bác sĩ NM. (Nguyễn Mạnh)(…) Tôi chạy vào phòng quang tuyến, xin bác sĩ NM. (Nguyễn Mạnh) làm ơn ra coi cho Duyên Anh. Có cả bác sĩ NTV (Ngô Thế Vinh) cũng đang ngồi trong đó nữa.

— Các ông ấy ra ngay chứ?
— Không có ai ra cả. Bác sĩ M. (Nguyễn Mạnh) bảo tôi, ông ta không khám bệnh, chỉ chụp quang tuyến thôi.
— Như vậy, ai gọi 911?

Lúc tôi ra ngoài, anh Lê Quý An đang xin nhân viên ở đó gọi dùm

— Bao lâu thì xe cứu thương mới tới.
— Khoảng 20 phút sau
— Suốt thời gian đó, không ai ngó ngàng gì đến Duyên Anh?
— Không có ai cả. Tôi lấy làm lạ, vì sao hai ông bác sĩ đó không thể bước ra ngoài nhìn Duyên Anh một chút, dù trước đó một tiếng, họ đã bắt tay và nói chuyện với anh ấy.” (Vũ Trung Hiền, ibid., trang 142-143)

 Và cũng trong cái tinh thần ấy, không một tờ báo nào ở quận Cam dám lên tiếng bênh vực Duyên Anh. Đỗ Quý Toàn, tờ Người Việt đâu? Việt báo của Nhã Ca sướt mướt với Giải Khăn Xô cho Huế ở đâu nhỉ?

Thắc mắc cuối cùng của tôi đặt ra cho độc giả, giữa cái hèn của người tù cải tạo và cái hèn của người ngoài tù, ai hèn hơn ai? Và thắc mắc thứ hai là khi ra khỏi trại tù cộng sản, Duyên Anh nặng bao nhiêu kí và Tạ Tỵ nặng bao nhiêu ký?


 

Chuyện lừa đảo xưa và nay- Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

18/10/2025

Tôi thường hay viết về những vấn đề rắc rối, nhiều khi khiến người đọc nhức đầu, và cũng làm cho không ít người ghét tôi. Hôm nay, để thay đổi không khí và chuộc tội, tôi xin kể chuyện nhẹ nhàng hơn — vẫn là chuyện đời, nhưng dễ nghe hơn một chút.

Lừa đảo có muôn hình vạn trạng. Hôm nay, tôi kể lại một kiểu lừa rất hay mà rất có thể bạn chưa từng nghe.

Kẻ làm tiền giả

Có một ông A, vốn là người khá giả, hám tiền, sống ở Paris, có nhiều căn nhà cũ kỹ cho thuê vào năm 1937. Ông cũng sống ngay trong tòa nhà ấy. Trong cùng tòa nhà, có một bà B tương đối lớn tuổi, bị chứng mất ngủ. Ban đêm, bà thường đứng bên cửa sổ nhìn sang căn phòng đối diện và phát hiện người thuê nhà bên kia (anh T) không bao giờ ngủ, cứ đi đi lại lại suốt đêm, rồi đến sáng thì biến mất.

Bà B mách lại với ông A chủ nhà. Ông A thấy anh T là người lịch sự, đàng hoàng, luôn trả tiền thuê đúng hạn, nên cũng không nghi ngờ. Nhưng bà B lại hay thóc mách, nằng nặc đòi ông A phải điều tra, thậm chí còn nghi anh T là kẻ khủng bố.

Một đêm, ông A cầm súng lục, dùng chìa khóa dự phòng mở cửa phòng anh T, bất ngờ xông vào. Anh T sợ tái mặt, quỳ lạy van xin ông A đừng bắn. Ông A nhìn quanh và thấy căn phòng đầy những dụng cụ in ấn. Bi Ép hỏi, T run rẩy khai rằng mình đang làm tiền giả.

Anh T nói tiền anh in giống thật 100%, rồi đưa cho ông A hai tờ 1.000 franc, bảo ông cứ thử tiêu ngày mai.

Hôm sau, ông A mang tiền ra chợ tiêu, chẳng ai nghi ngờ gì. Thậm chí ông còn vào Ngân hàng Trung ương đổi tờ 1.000 franc thành tiền lẻ, cố ý nói nhân viên kiểm tra kỹ. Họ xác nhận hoàn toàn bình thường.

Thấy tiền giả mà như thật, lòng tham của ông A trỗi dậy. Đêm sau, ông lại lên gặp anh T, đòi chia một nửa số tiền in được, nếu không sẽ tố cáo cho cảnh sát. T sợ quá nên đồng ý.

Sau đó, A hỏi một đêm làm được bao nhiêu tờ. T đáp chỉ làm được hai tờ. A sốt ruột hỏi sao không tăng năng suất, T nói phải mua thêm một máy hiện đại hơn, giá 10 triệu. Ông A về đếm lại tiền, chỉ có 5 triệu, bèn tìm đến bà B kể lại hết chuyện và rủ đầu tư. Bà B tham tiền nên cũng góp 5 triệu.

Đêm hôm sau, ông A mang 10 triệu đến đưa cho T, bảo mai đi mua máy. Sáng hôm sau, T biến mất, không bao giờ quay lại.

A và B câm lặng, chẳng dám tố cáo vì sợ liên lụy. Họ không biết rằng T đã nghiên cứu kỹ từ đầu, thuê phòng chỉ để giả vờ làm tiền giả. Tiền mà T đưa cho A thử là tiền thật, nên cả ngân hàng cũng không nghi ngờ. Một cú lừa quá quái chiêu!

Sau này, T tiếp tục hành nghề lừa đảo, rồi cũng bị bắt. Trong lời khai, hắn kể lại vụ này — khiến cảnh sát vừa buồn cười vừa khâm phục.

Ngày xưa, con người cũng đã biết lừa nhau đến mức tinh vi như thế đấy.

Chuyện ngày nay

Đừng tưởng chỉ Việt Nam mới có chuyện lừa đảo qua điện thoại. Gần đây, điện thoại di động của tôi ở Pháp cũng liên tục nhận được các cuộc gọi lừa đảo. Bọn này tinh vi hơn, dùng số thuê bao thật ở Pháp để tăng độ tin cậy. Nhưng gặp phải tôi thì đúng là “gặp hạn”.

Chuyện lừa đảo qua mạng đã trở thành một hiện tượng toàn cầu. Người Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề. Từ những vụ lừa nhỏ lẻ ban đầu, nay nó đã trở thành một ngành công nghiệp với quy mô khổng lồ, thậm chí có sự đồng lõa của một số chính quyền.

Những “nhà máy lừa đảo” đầu tiên do mafia Trung Quốc lập ra vào khoảng năm 2010 tại Campuchia, quanh khu casino ở Sihanoukville, rồi lan sang Myanmar.

USIP (United States Institute of Peace) — Viện Hòa bình Hoa Kỳ, một cơ quan nghiên cứu độc lập do Quốc hội Mỹ tài trợ — có trụ sở ở Miến Điện với ông Jason Tower là giám đốc. Ông là chuyên gia nghiên cứu về vấn đề lừa đảo này.

Kèm theo bài viết này, tôi có bản đồ các « nhà máy » lừa đảo ở Đông Nam Á.

Tại những địa điểm này, có các tòa nhà kiên cố, được bảo vệ nghiêm ngặt. Theo USIP, các “nhà máy” này do mafia Trung Quốc tổ chức và điều hành, có sự bảo kê của chính quyền sở tại.

Điều gây sốc là số lượng và quốc tịch của những người bị lừa đến làm việc ở đây. Ước tính có 150.000–200.000 người, đến từ khắp nơi trên thế giới, thậm chí có cả người Pháp. Ở trung tâm “KK số 3”, có một nhóm lớn người Pháp chuyên lừa… người Pháp.

Số đông nhất vẫn là người châu Phi và châu Á.

Theo ông Jason Tower, ngành công nghiệp lừa đảo này kiếm được khoảng 70 tỷ USD mỗi năm, trong đó 46 tỷ từ châu Á, 5 tỷ từ Mỹ. FBI cũng có các số liệu về số người và số tiền của Mỹ bị lừa.

Những vụ lừa lớn thường không chỉ là “tiền điện, tiền nước” mà là các trò đầu tư tiền ảo, đánh vào lòng tham.

Các “nhân viên” trong đó cũng chỉ được hưởng một phần nhỏ, rồi bị ép tiêu tiền trong các dịch vụ mại dâm…

Một khi đã bị đưa vào đó thì không có đường ra. Nhiều người bị giam giữ, tra tấn, bán như nô lệ thời trung cổ. Một số quốc gia đã phải bỏ tiền chuộc công dân của mình. Tôi không biết VN ta có chuộc được công dân nào không.

Thậm chí, có những vụ bắt cóc người để đưa vào làm việc trong các “nhà máy lừa đảo”. Điển hình là vụ Hoang Xing, diễn viên Trung Quốc bị bắt cóc, khiến Bắc Kinh phải cử đoàn đặc nhiệm sang giải cứu.

May mắn là gần đây, các nước lớn — nhất là Anh và Mỹ — đã bắt đầu hành động mạnh để triệt phá hệ thống này. Nhưng công việc không hề dễ dàng, vì chúng được bảo kê bởi chính quyền sở tại, thậm chí có khi bởi nguyên thủ quốc gia.

Dù các “nhà máy” không nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, nhưng mọi đường dây đều do người Trung Quốc cầm đầu. Mức độ dính líu của quan chức Bắc Kinh tới đâu thì chưa rõ, nhưng có một điều chắc chắn: Trung Quốc vẫn là kẻ hưởng lợi cuối cùng.

Một vài lời cảnh tỉnh

Mỗi người chúng ta đều phải cảnh giác để tránh bị thiệt hại. Những nguyên tắc cơ bản nhất để không bị lừa là:

Không tham. Ai cho không bất cứ thứ gì thì cũng không lấy — vì không ai cho không ai cái gì cả.

Không tin. Mọi lời hứa, mọi tin nhắn, mọi cú điện thoại nói đến tiền, dù là người quen, đều từ chối luôn.

Không chuyển tiền, không cung cấp thông tin cá nhân, nhất là mã OTP hay mật khẩu ngân hàng cho bất kỳ ai.

Lừa đảo xưa nay vẫn thế: chỉ khác ở chỗ phương tiện tinh vi hơn, còn lòng tham của con người thì vẫn y nguyên.


 

HỌC CÁCH TỰ VUI VỚI CHÍNH MÌNH – BÀI HỌC LỚN NHẤT CỦA TUỔI GIÀ

 Tu Le is at Gota Coffee

Khi còn trẻ, ta dễ nghĩ rằng niềm vui là thứ được ban tặng từ bên ngoài: một cái ôm, một buổi họp mặt đông vui, một người yêu luôn nhắn tin mỗi tối. Nhưng rồi đời sống dạy ta một điều chậm rãi mà chắc chắn: hạnh phúc thật sự không nằm ở những tiếng cười xôn xao, mà nằm ở sự bình yên bên trong, lúc chẳng còn ai bên cạnh.

Có người già đi giữa phố, tay cầm túi xách nhỏ, dáng lặng lẽ như cái bóng dài của hoàng hôn. Thấy cụ ngồi ở công viên, nhẩn nha ăn một cái bánh mì nhỏ, mắt vẫn ánh lên niềm vui, tôi chợt nhận ra: người biết tự vui với chính mình, là người đã học được điều quan trọng nhất sau bao năm tháng bôn ba.

Người ta có thể sống giữa con cháu sum vầy, nhưng lòng vẫn thấy cô đơn. Bởi sự có mặt về thể xác không thể thay thế sự đồng hành của tâm hồn. Con cháu có thể hiếu thảo, có thể chăm lo từng bữa ăn, từng viên thuốc. Nhưng không ai có thể đi cùng ta vào giấc mơ đêm khuya, không ai sống thay những nỗi trống vắng âm thầm trong lòng.

Rồi sẽ đến lúc những buổi tụ họp thưa dần, ai cũng bận rộn với đời mình. Những tin nhắn thưa thớt, những cuộc gọi vội vã. Nếu ta không học cách tự làm bạn với chính mình, thì những tháng năm sau cùng của cuộc đời dễ trở thành những ngày dài thở dài.

Vì vậy, tập tự vui với mình không phải là buông xuôi, mà là buông bớt. Buông những kỳ vọng không cần thiết. Buông sự lệ thuộc vào người khác để được hạnh phúc. Buông cái thói quen đòi hỏi đời phải giống như trong mơ. Rồi ta mới thấy: sống nhẹ lòng là một nghệ thuật, mà ai cũng cần học, nhất là khi tuổi đã xế chiều.

Đừng chờ ai đó rảnh rang mới rủ ta đi uống cà phê. Hãy tự chọn một quán quen, tự kêu món mình thích, và lặng lẽ nhìn người qua lại như một thước phim đời. Đừng chờ con cháu nhớ ngày sinh nhật, hãy tự mua tặng mình một món quà – nhỏ thôi, nhưng ý nghĩa. Một chậu hoa, một cuốn sách, một cái bánh. Cuộc đời, có khi chỉ cần vậy là đủ để lòng ấm.

Người già sống thanh thản là người không giận con cháu vì ít gọi điện, không trách người thân vì không hỏi thăm đều đặn. Bởi người ấy hiểu rằng: ai rồi cũng có hành trình riêng, đâu thể quanh quẩn mãi bên nhau được. Cái quý của đời không nằm ở việc người khác nhớ mình mỗi ngày, mà ở chỗ mình nhớ thương họ một cách yên bình, không oán trách.

Tự pha một ly trà, tự đi bộ vài vòng quanh hồ, tự xem một bộ phim cũ từng thích. Đó không phải là những hành động nhỏ nhặt. Đó là những bài tập thảnh thơi giúp ta trở về với chính mình. Cuộc đời này, ai rồi cũng sẽ đối diện với những buổi chiều lặng gió, những đêm không ai bên cạnh. Học cách vui với những điều nhỏ nhất – ấy là đang chuẩn bị cho một tuổi già không tủi thân.

Người già hạnh phúc không phải người có nhiều tiền, nhiều nhà, mà là người có một tâm hồn đầy đủ. Đầy từ sự biết ơn. Đầy từ những kỷ niệm đã qua mà không tiếc nuối. Đầy từ sự bằng lòng với hiện tại, dù nó chẳng còn bao nhiêu náo nhiệt.

Có những thứ mất đi rồi ta mới biết quý, nhưng cũng có những thứ, chỉ khi buông bớt, ta mới thấy đời thảnh thơi hơn. Tình thân, nếu có – xin trân trọng. Nếu thưa vắng – xin nhẹ lòng. Sức khỏe, còn được bao nhiêu – hãy gìn giữ và trân quý. Ngày nào còn đi lại được, còn nghe được tiếng chim hót sáng mai – ngày đó còn là một món quà.

Tuổi già không nên chỉ là chuỗi ngày lặp lại, sống mòn. Tuổi già cũng có thể là mùa đẹp nhất, nếu ta biết sống chậm, sống sâu, sống tử tế – trước hết là với chính mình.

Sống đến ngần này tuổi, ai cũng từng trải qua mất mát, từng gãy đổ, từng hy vọng rồi thất vọng. Nhưng nếu sau tất cả, ta vẫn có thể mỉm cười với một buổi sáng đầy nắng, thấy lòng dịu lại khi nghe một khúc nhạc cũ, thì có nghĩa là ta đang sống thật sự, không cần ai thay mình, cũng không cần đám đông phải công nhận.

Và có lẽ, bài học lớn nhất của đời người – sau bao năm thăng trầm, chính là:

Biết tự vui, tự an, tự thương lấy mình.

____

#gotacoffee – #ngườiviếtgiữahaimiền


 

SỰ CÔ ĐƠN – TIẾNG VỌNG CỦA TÂM HỒN TÌM VỀ CHÍNH MÌNH -Sr Mây Trắng, SPP

Gieo Mầm Ơn Gọi

Sr Mây Trắng, SPP

Chúng ta của thời đại hôm nay sống giữa vô vàn mối liên hệ: qua mạng xã hội, công việc, gia đình, bạn bè. Nhưng càng nhiều kết nối, dường như ta lại càng cô đơn. Cô đơn không còn là khoảng trống bên ngoài, mà là một nỗi trống vắng bên trong nơi con người cảm thấy lạc lõng ngay giữa những tiếng cười, giữa muôn lời nói, giữa chốn đông người.

Cô đơn, trong chiều sâu của nó, không chỉ là thiếu vắng người khác, mà là một lời mời gọi đối diện với chính mình. Khi mọi ồn ào tạm lắng xuống, khi những vai diễn xã hội được tháo bỏ, ta bỗng đứng trần trụi trước sự thật về bản thân với những khát vọng, nỗi sợ, và câu hỏi chưa có lời đáp. Chính trong cô đơn, con người được thử thách: hoặc chạy trốn, hoặc can đảm đi sâu vào nội tâm để tìm lại bản ngã thật.

Nhiều người sợ cô đơn, vì trong đó ta không còn điểm tựa. Nhưng có lẽ, chính nơi tận cùng của nỗi cô đơn, con người mới chạm được vào chiều sâu của tồn tại. Ở đó, ta nhận ra rằng mọi mối tương quan đều mong manh, chỉ có sự hiện diện của chính mình và của Đấng Tuyệt Đối là vững bền. Cô đơn, nếu biết đón nhận, không còn là nỗi buồn, mà trở thành con đường dẫn đến tự do và thức tỉnh.

Trong ánh sáng đức tin, cô đơn không phải là sự vắng bóng của Thiên Chúa, mà là không gian để Ngài đến gần hơn. Khi ta cảm thấy bị bỏ rơi, Ngài lại âm thầm hiện diện; khi ta tưởng mình lạc lõng, chính Ngài đang dìu ta qua đêm tối của tâm hồn. Cô đơn trở thành một thứ ân sủng giúp ta lắng nghe tiếng Chúa thì thầm giữa im lặng, và nhận ra rằng chỉ nơi Ngài, con tim con người mới tìm được sự bình an thật sự.

Cô đơn vì thế không còn là kết thúc, mà là một khởi đầu mới nơi con người gặp lại chính mình, gặp lại Thiên Chúa, và từ đó có thể bước ra, trao tặng tình yêu sâu hơn cho cuộc đời.

Lạy Chúa, giữa những ồn ào của cuộc sống hôm nay, khi lòng con trở nên trống rỗng và cô đơn bao phủ, xin cho con đủ can đảm để không trốn chạy, nhưng dám ở lại trong thinh lặng, để nghe được tiếng Ngài đang nói trong sâu thẳm tâm hồn. Xin biến nỗi cô đơn của con thành nơi gặp gỡ, nơi con nhận ra tình yêu Ngài vẫn âm thầm hiện diện, và để từ đó, con biết ra đi trao ban bình an và tình thương cho những người cũng đang cô đơn như con. Amen.

Sr Mây Trắng, SPP


 

Hoàng Xuân Chiến, thứ trưởng Quốc Phòng CSVN, ‘sờ mó tình dục’ ở Nam Hàn

Ba’o Nguoi-Viet

October 20, 2025

SEOUL, Nam Hàn (NV) – Thượng Tướng Hoàng Xuân Chiến, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam, bị tố có hành động “sờ mó tình dục” tại một buổi tiệc ở Seoul, Nam Hàn, hồi Tháng Chín, theo hãng thông tấn Yonhap News hôm Thứ Hai, 20 Tháng Mười.

Bản tin, dẫn lời các giới chức Bộ Quốc Phòng Nam Hàn cho biết, họ đã triệu tập tùy viên quân sự tại tòa đại sứ Việt Nam ở Seoul đến và nói cho biết hành động của ông Chiến.

Thượng Tướng Hoàng Xuân Chiến (bìa phải) tại Đối Thoại Quốc Phòng Seoul 2025 ở Nam Hàn. (Hình: Tiền Phong)

Theo các giới chức Nam Hàn, Thượng Tướng Hoàng Xuân Chiến đã “sờ mó một cách không đúng mức” một công chức nhà nước trong lúc tham dự buổi tiệc của các giới chức quân sự cao cấp hôm 11 Tháng Chín.

Ông Chiến có mặt tại Seoul trong thời gian tham dự Đối Thoại Quốc Phòng Seoul diễn ra từ ngày 8 đến ngày 10 Tháng Chín.

Vì mức độ của sự việc, Bộ Quốc Phòng Nam Hàn triệu tập tùy viên quân sự Việt Nam tám ngày sau đó để phản đối hành động của ông Chiến.

Bộ Quốc Phòng Nam Hàn kêu gọi có các biện pháp ngăn ngừa chuyện như vậy tái diễn, trong khi phía Việt Nam được biết là “bày tỏ quyết tâm bảo đảm chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra,” vẫn theo Yonhap.

“Bộ Quốc Phòng thực hiện các biện pháp cần thiết phù hợp với những nguyên tắc sẵn có liên quan đến sự việc,” một giới chức quốc phòng Nam Hàn nói với Yonhap, và thêm rằng ông không thể đưa ra thêm chi tiết vì muốn tôn trọng quyền riêng tư theo ý muốn của nạn nhân.

Thượng Tướng Hoàng Xuân Chiến, có trình độ tiến sĩ Luật, hiện là ủy viên Trung Ương Đảng, ủy viên thường vụ Quân Ủy Trung Ương, và là một trong 10 thứ trưởng Quốc Phòng Việt Nam. Ông phụ trách công tác đối ngoại, biên giới.

Ông Chiến được bổ nhiệm giữ chức thứ trưởng từ Tháng Bảy, 2020. Trước đó, ông là tư lệnh Bộ Đội Biên Phòng Việt Nam.

Đáng lưu ý, chỉ tám ngày sau khi xảy ra vụ “sờ mó một cách không đúng mức” ở Nam Hàn, hôm 19 Tháng Chín, Thủ Tướng Phạm Minh Chính ký quyết định số 2096/QĐ-TTg “Kéo dài thời gian giữ chức vụ thứ trưởng Bộ Quốc Phòng theo quy định đối với đồng chí Thượng Tướng Hoàng Xuân Chiến.”

Đài truyền hinh Nam Hàn, SBS News đưa tin về vụ cáo buộc ông Hoàng Xuân Chiến. (Hình: Chụp qua màn hình)

Ông Chiến là người gốc Hưng Yên, cùng quê với ông Tô Lâm, tổng bí thư đảng CSVN.

Thượng Tướng Hoàng Xuân Chiến gây chú ý dư luận hồi năm 2021 khi bị Thủ Tướng Hun Sen của Cambodia nêu đích danh và đòi Việt Nam cách chức ông.

Theo Khmer Times, trong một buổi lễ có sự hiện diện của ông Vương Văn Thiên, đại sứ Trung Quốc tại Cambodia, ông Hun Sen tuyên bố một cách giận giữ và mỉa mai: “Tôi đang nói tới Tướng Hoàng Xuân Chiến. COVID-19 không hề tràn từ Cambodia sang Việt Nam như sông Mekong, ngược lại mới đúng. Tôi đã yêu cầu cách chức ông này, nhưng mà ông ấy lại được ‘cách chức’ từ hai sao lên ba sao.”

Theo VOA Tiếng Việt, hôm 10 Tháng Ba, 2020, ông Hoàng Xuân Chiến, bấy giờ còn là trung tướng, được nghe nói có chủ trì một hội nghị tăng cường công tác quản lý, bảo vệ biên giới, kiểm soát cửa khẩu và triển khai phòng, chống dịch COVID-19 trên tuyến biên giới Việt Nam-Cambodia của Bộ Tư Lệnh Bộ Đội Biên Phòng Việt Nam tại Sài Gòn.

Tại hội nghị, ông Chiến yêu cầu lực lượng biên phòng các tỉnh có biên giới giáp Cambodia tăng cường kiểm soát các cửa khẩu giữa lúc Việt Nam trải qua đợt bùng phát COVID-19 bắt nguồn từ các ca nhiễm do người nhập cảnh trái phép qua đường biên giới với các tỉnh miền Trung.

Quyết định của Thủ Tướng Phạm Minh Chính hôm 19 Tháng Chín, “kéo dài thời gian giữ chức vụ thứ trưởng Bộ Quốc Phòng đối với Thượng Tướng Hoàng Xuân Chiến. (Hình: Chụp từ trang web chính phủ Việt Nam)

Đây là vụ bê bối mới nhất về “quấy nhiễu tình dục” liên quan đến các giới chức của nhà cầm quyền Việt Nam mỗi lần công du ở ngoại quốc.

Gần đây nhất, Tháng Mười Một, 2024, truyền thông và dư luận Chile phản ứng mạnh mẽ sau vụ một cận vệ của Chủ Tịch Nước Lương Cường bị cáo buộc lạm dụng tình dục trong khi phái đoàn Việt Nam có chuyến thăm chính thức Chile từ ngày 9 đến 12 Tháng Mười Một.

Báo chí Chile sau đó tường thuật từ tòa án cho biết, viên cận vệ này tên là Thái Đắc Tuấn, 59 tuổi, là đội trưởng đội bảo vệ chuyến công du của Chủ Tịch Nước Lương Cường.

Một tháng sau đó và ở một quốc gia khác là New Zealand. Cảnh sát New Zealand hôm 12 Tháng Mười Hai, 2024, cho biết “hai nghi phạm là quan chức Việt Nam” bị cáo buộc đã xâm hại tình dục hai nữ phục vụ bàn tại một nhà hàng Việt Nam mang tên SAIGON Restaurant & Bar on Willis ở thủ đô Wellington, hồi Tháng Ba, 2024.

So sánh cột mốc thời gian, vụ này xảy ra nhiều phần trong chuyến đi tiền trạm chuẩn bị cho chuyến thăm chính thức của Thủ Tướng Phạm Minh Chính đến New Zealand từ ngày 10 đến 11 Tháng Ba, 2024.

Cả hai vụ này, báo chí tại Việt Nam do đảng Cộng Sản quản lý đã không đăng một tin nào. (Đ.D.) [kn]


 

 Các nước văn minh không tôn cao mặt đường hơn nhà…

Lena Lien Huong

 Các nước văn minh không tôn cao mặt đường hơn nhà, riêng Việt Nam thời CS sửa đường không bóc lớp cũ mà phủ lớp mới chồng lên dẫn tới đường cao hơn vỉa hè, lại nâng hè cao hơn nhà phố, vừa gây úng ngập, vừa giảm tuổi thọ nhà, quái đản không đâu có.

Khu The Jews’ House, Lincoln, nước Anh có từ năm 1170.

Thế Hệ Gen Z – Sỏi Ngọc

Kimtrong Lam                                                        

Sỏi Ngọc

Bà Thuyên nằm nướng trên giường lướt điện thoại, ngày cuối tuần bà tự thưởng được ngủ trễ mặc dù bà đã nghỉ hưu từ cả chục năm nay, nhưng vì quen giờ sinh học nên cứ đúng 7:00 là bà mở mắt. Bà định bụng sẽ dậy khoảng 9:00, nhưng vì quên cái password của fb nên loay hoay tìm tòi mãi, làm bà hết cả muốn ngủ, phải ngồi dậy.

Những ngày thường trong tuần, bà đến nhà con trai trông cháu nội cho vợ chồng chúng đi làm từ sáng sớm, nhưng đã hai tuần nay, bà ở nhà chăm ông vì ông vừa mổ một con mắt phải do chứng cataract, còn cháu bé được gởi tạm sang nhà ông bà ngoại.

Ngoài việc làm cơm, nhỏ thuốc mắt đúng giờ cho ông, bà còn phải để mắt canh chừng ông, càng lớn tuổi trí nhớ càng rời xa ông, sợ ông quen tay đưa lên dụi mắt, hoặc lại mở chiếc phone bé xíu ra, mê say dán mắt vào đấy với những trò games quyến rũ hay xem hình trong app family album mà thằng con vừa mở cho!

Bác sĩ đã dặn đi dặn lại không được xem màn hình từ iphone hay ipad vì ánh sáng xanh dễ làm hại mắt mới mổ, phải chờ ít nhất hai tuần sau mới được xem và không được dụi mắt, thế mà ông lại nhanh chóng quên đi lời dặn của bác sĩ, buồn buồn là ông quẹt mở cái iphone và ngồi xem ngon lành như người chưa hề mổ mắt mới về! Khi bà bắt gặp, bà cằn nhằn thì ông lại trách bà:

-Bà sao khó tính hơn bác sĩ nữa, tôi xem chút xíu thôi có sao đâu mà bà nói nhiều thế!

Vì nhớ cháu nội, muốn xem hình thằng bé, ông nói như chữa tội:

-Xem xa xa thôi, một vài phút thôi…Bộ mù liền đâu… Với lại nhiều người mổ mắt về là họ có thể xem tv, đọc sách như thường mà.

Bà nói như nhắc nhở ông:

-Mới có một tuần chưa gặp thằng cháu thôi! Có thể ngày mai cả hai vợ chồng nó lại bế thằng bé tới thăm mình?

-Ừ để tôi hỏi xem chúng nó có đến mình cuối tuần này không nhé.

Nói xong, ông vội vàng bấm phone gọi thằng con trai, chuông reng mãi, mà Tylen vẫn không trả lời, ông Thuyên nhận được message tức thời của Tylen:

“Ba phone con có chuyện gì không?”

“Ba muốn nói chuyện với con, hỏi xem cuối tuần này hai vợ chồng con có về ăn chung với gia đình mình không?”

“Tụi con busy lắm, có gì ba cứ text nhé! Dạ week-end này con busy nên sẽ không về ạ, ba mới mổ cataract cần nghỉ ngơi nhé, có mẹ bên cạnh lo cho ba là good lắm rồi. Con làm việc đây; nice day and bye ba nhe”

Ông bà Thuyên hiếm muộn, có con rất trễ, thằng Tylen sanh vào năm 2001 mà thời đại bây giờ gọi là thế hệ Z, lớn lên bên Mỹ, nên tiếng Việt nó nói và viết rất giới hạn; hấp thụ nền giáo dục hiện đại văn mình của Mỹ, Tylen là thằng bé nhậy bén, ham học hỏi, nên những kỹ năng máy móc nó rất rành.

Có lần hai vợ chồng Tylen ngồi bên cạnh nhau ở phòng khách nhà ông Thuyên, mỗi đứa gục đầu vào cái màn hình bé xíu của chiếc iphone, tay bấm lia lịa, miệng thì cười cười vui vẻ với màn hình, sau đó hai đứa lại ngước mặt lên nhìn nhau, nhoẻn cười một cái, lại gục đầu vào đấy, hai ngón tay lại tiếp tục nhanh thoăn thoắt viết lách. Ông Thuyên tò mò đi qua sau lưng chúng nhìn vào hai cái màn hình chiếu sáng mới biết là chúng gởi cho nhau những mẩu tin vui, những trái tim, những nụ hôn …thầm lặng.

Ông lắc đầu không hiểu nổi tại sao chúng không nói thẳng với nhau, ôm nhau chia sẻ lời yêu đương như thời của ông và bà hồi xa xưa, mà lại yên lặng ngồi cạnh nhau, gởi cho nhau những lời nói, hình ảnh qua chiếc phone như thế!

Ông nhớ hồi xưa khi còn trẻ, sinh nhật bà, chính tay ông phải đi lựa từng cánh hồng đẹp, đỏ rực rỡ, đầy sức sống, viết tấm card đem tặng bà với cả tấm lòng và trái tim rung động, chứ đâu như giới trẻ bây giờ, chúng cũng gởi giỏ hoa hồng rực rỡ, bánh sinh nhật với hàng ngàn cây nến lung linh đó, nhưng không phải đưa trực tiếp cho người mình yêu mà gởi lên mạng xã hội, facebook gì đó mà với số tuổi của ông, ông chuyên môn quên các ký tự để mở!

Ông Thuyên quay qua cằn nhằn với vợ:

-Tôi phone nó không bắt, lại bảo tôi phải text cho nó trong message! Bà thấy không, tôi mới mổ mắt mà cũng phải bắt buộc nhìn màn hình, không nhìn làm sao viết cho nó!

-Tụi nó lúc nào cũng bận rộn, có một đứa con mà mình đã khó gặp nó, vậy khi có hai ba đứa thì không biết sẽ ra sao nữa.

-Thằng Tylen cứ bắt tôi phải mở account email, lên facebook, dậy tôi cách xài mạng xã hội, để viết cho nó, thay vì phone, nó bảo phone bây giờ làm phiền người ta lắm, text hay viết messenger mới tiện! chắc là mode của tụi trẻ hay sao đó! Thiệt tình!!

Nói xong, ông đưa cái phone vào mặt bà:

-Mắt tôi đang đau nên nhờ bà xem…Bà thấy cái app này không? Bà biết làm sao mở không? Hôm bữa nó mới cài cho tôi đó, nó bảo thay vì bế thằng bé đến thăm mình thì nó sẽ bỏ tất cả hình ảnh của thằng nhỏ vào đây mỗi ngày cho mình xem…

Bà Thuyên bỗng nhiên nổi cơn tam bành, lên giọng:

-Ủa vậy nó tính sẽ không bao giờ đến thăm ông và tôi nữa hả? chỉ xem hình là đủ rồi sao? Viết cũng đủ rồi hả? không được phone luôn sao? Nó bận đến nỗi không trả lời được phone của cha mẹ nó hả? Nếu nó nói vậy thì từ đây trở đi đừng nhờ mình đến canh con nó nữa!… Cứ ngồi đó mà text đi!… Ông cũng không biết la rầy nó, dậy nó, cái gì nó nói là ông cũng chiều là sao chứ?!

Ông bà Thuyên chỉ có mỗi Tylen là con trai duy nhất, mà là con cầu tự nữa nên ông bà cưng con lắm, đặc biệt là ông Thuyên chiều con vô điều kiện; từ bé Tylen xin gì ông cũng cho, ông mua riêng một chiếc moto chỉ để chở con đi chơi, mỗi lần đi làm về buổi chiều là ông để thằng Tylen lên phía trước thùng đựng xăng của chiếc moto, chở nó chạy quanh khu phố Magnola gần khu Phước Lộc Thọ, thằng bé sướng quá, giơ hai tay lên đầu, miệng nhe những chiếc răng sún la hét ỏm tỏi, còn ông cũng tít mắt, vui không kém. Cả xóm đều biết ông cưng con trai đến chừng nào.

Từ bé ông chiều nó nên lớn lên nó nói gì ông cũng gật. Được cái là Tylen rất hiếu học, tự chọn ngành, ra trường với cái bằng kỹ sư electronic loại giỏi, rồi lấy ngay người con gái đầu tiên nó quen khi còn ở trung học, sanh con liền năm sau đó, mà chưa hề qua giai đoạn nghỉ ngơi đi chơi sau những năm đại học cực khổ như những người bạn ở lứa tuổi của nó.

Ông nói vuốt cho bà đừng giận con nữa:

-Nè bà, con nó bận công việc, gia đình, mình làm được gì cho nó thì làm, đừng trách nó nhé, phải hiểu cho nó chứ, bà trách, giận nó rồi nó không đến mình nữa thì ai là người lỗ đây? Mình hay nó? Mình nhớ con, nhớ cháu, chứ chúng nó bận rộn như thế có nhớ gì đến mình đâu! Mình không trông cháu thì còn bên ông bà ngoại nữa mà…

Bà tức mình, hai tay chống nạnh:

-Phone thì không cầm, bảo mình viết email, rồi text, rồi lên facebook xem hình thằng cháu… Nếu ông thấy như vậy là đủ rồi thì nghe nó đi, còn tôi thì muốn cái gì cũng phải có thật, ôm con, hôn thằng cháu, bế nó, cười đùa với nó… như vậy mới có tình, chứ gì mà chỉ viết và xem hình thì tôi thua đó! Hồi xưa còn đi làm thì cần phải biết đến ba cái mạng xã hội, bây giờ nghỉ hưu rồi mà còn lên mạng làm chi nữa chứ!

Không thuyết phục được vợ, ông bước ra bên ngoài:

-Thôi, tôi đi bộ vòng quanh nhà cho khỏe đây, một chút tôi về.

-Ông đi cẩn thận, nhớ đem theo mắt kiếng mát đeo cho mắt đừng bị bụi và ánh sáng chiếu vào nhé, đừng mua bán xách đồ gì nặng về nhe ông!

-Ừm được rồi mà, tôi đi đây.

***

Sáng hôm sau, trong lúc bà Thuyên đang dọn dẹp garage, cô Susan người hàng xóm thân tình với gia đình bà từ thời thằng Tylen mới lọt lòng, cô là người đã từng làm babysit cho nó mỗi khi vợ chồng bà có việc bận bất thình lình, cô tươi cười khi gặp bà, tặng cho bà một rổ chanh vàng trái to như nắm tay, và chỉ vào cây nhà cô đang trĩu trái sát hàng rào:

-Chị coi năm nay chanh nhà em sai trái ghê chưa, làm sao chúng em ăn hết được, em gởi biếu chị một giỏ nè, nếu không ăn hết thì cho các con của chị nhe, tụi em trồng chơi thôi, ai ngờ nó sai quá, thấy nó rụng đầy sân làm em thật tiếc, mà chua quá ai mà ăn nổi.

-Cám ơn cô nhé, nhìn cây trĩu quả mà thấy ham, phải chi nó là cây cam hay quýt thì thích há!… Chúng tôi thường làm chanh muối để dành uống từ từ.

-Ah chị ơi, cho em gởi lời chúc mừng thằng con trai giỏi của chị nhe, chưa thấy ai làm việc gì mà nhanh nhẹn như nó, học cũng nhanh, lấy vợ cũng cái xẹt!…Nó hay quá giành được huy chương vàng…

-Huy chương vàng?…Ở đâu?… Cho giải gì?

-Ủa chị chưa coi hả? trên facebook đó!

-Lại Facebook!!… là chỗ nào? Tôi… xin lỗi nhe, tôi chống mấy mạng xã hội lắm đó! Việc trong nhà chưa biết mà cả thế giới biết hết trơn! Giới trẻ thời Z bây giờ đụng một tí là email, là fb, nhà có chuyện gì, con cái làm gì là đưa hết lên đó, không còn chút riêng tư nào nữa! Ai cho đồ gì đẹp cũng khoe lên đó, ăn gì ngon cũng để lên… Tôi không thích cái lối sống khoe khoang, vô bổ đó đâu… Từ ngày tôi về hưu, quay cuồng với việc nhà, trông cháu…nên không còn thì giờ xem gì nữa! nó cứ bảo tôi hết vào text, rồi email, messenger, bây giờ thêm fb nữa thì tôi chịu! đâu còn thì giờ mà làm cơm cho gia đình!

-Thời bây giờ bọn trẻ còn làm clip qua tiktok, AI nữa đó. Đúng là nhiều người lạm dụng mạng xã hội quá, đưa hết chuyện riêng tư, hình ảnh lên đó, khoe nhà đẹp, con giỏi… Nhưng cũng tùy quan điểm mỗi người, chia sẻ cái đáng, chứ chuyện gì cũng đưa lên thì đúng là nhàm! …Nói thật, fb thì không thể thiếu được mỗi ngày, con trai và con dâu chị, tụi nó thắng giải nhất trong nhóm dragon boat, thi đua thuyền đó, có một clip video hay lắm.

Bà Thuyên ái ngại đưa điện thoại cho cô hàng xóm, bẻn lẻn :

-Cô trẻ trung năng động nên mới có thể vào hết app này đến app kia chứ chúng tôi thì hôm nay quên password này, ngày mai lại lộn password với app kia…

-Mình phải theo technology mới mỗi ngày, chứ không sẽ thành lạc hậu đó chị, nước Mỹ là một đất nước tự do, nhiều phát mình khoa học, máy móc sáng tạo tinh vi như vậy, iphone ra cái mới mỗi năm… thì mình phải tận dụng, tại sao lại limit sự hiểu biết của mình!… Chị cần thì em sẽ giúp cho. Còn vụ password thì lấy một cái cho tất cả là xong chứ gì!

-Nghe cô nói sao dễ dàng quá đi, chúng tôi sẽ ráng!

Susan nhanh nhẹn giúp mở trên điện thoại bà Thuyên một app fb trong hai phút, rồi mở ngay video thằng Tylen và con dâu đang đua thuyền thật gây cấn, tiếng hò hét cổ động thật hào hứng của những người xung quanh vang vọng ra, còn thằng cháu nội một tuổi đang ngồi trên bờ với các bạn trong nhóm của các cháu, nó há hốc miệng, mắt mở thật to, theo dõi ba má nó, trên tay là bình sữa đầy trông thật dí dỏm và cảm động làm sao.

Bà Thuyên bất giác mỉm cười theo với nụ cười hồn nhiên của thằng cháu nhỏ trong cái video ấy, tưởng như mình đang ngồi cạnh cháu xem cuộc đua thuyền của thằng con trai và con dâu vậy, bà nói với Susan :

-Ừ! nhìn trong clip này thật sống động vui ghê, đâu cần phải có mặt ở đó làm gì cô nhỉ!

-Vậy cho nên sáng nào chị cũng phải vào fb để cập nhật tin tức trên thế giới, chiến tranh, lụt lội, xem hình con cháu, bạn bè, hoặc muốn mua bán gì rẻ, hay hay là đều có quảng cáo trên đó hết, nếu chị không vào thường xuyên để nghe tin tức thì sẽ như người nhà quê, như con ngựa bị hai tấm da che mắt vậy, ai nói gì mình cũng như người trên cung trăng!

Nói chuyện với Susan một hồi, bà Thuyên như được thuyết phục và hiểu ra mọi lý lẽ.

***

Buổi chiều, Tylen phone reo mừng nói với mẹ:

-Mẹ ơi! Chúng con được giải nhất đó mẹ!

-Ừm mẹ biết rồi…

-Chúng con được huy chương vàng nữa…

-Mẹ biết!

-Thằng grandson của mẹ đã biết đi khá vững…

-Mẹ thấy rồi!

-Ủa… sao mẹ biết hay vậy?

-Thì trên fb chứ đâu!

-Mẹ vào fb được à?

-Con đã bảo mẹ phải cập nhật mỗi ngày còn gì?!

-Một chút nữa chúng con sẽ ghé mẹ để thăm ba mổ mắt ra sao…

-Thôi không cần! để tôi chụp rồi gởi hình lên fb cho nhau xem, thấy khỏe là được rồi, cần gì thăm viếng nữa!…vả lại đã có người ở bên cạnh lo chăm sóc cho ba rồi…

Bà Thuyên nói mát, giọng Tylen ái ngại, vừa giải thích vừa xin lỗi:

-Con so sorry, chắc mẹ không understand con, ý con là ba mới mổ mắt, để cho ba nghỉ ngơi rồi chúng con lo công chuyện xong sẽ tới vì sunday vừa qua tụi con phải làm rowing race, sợ nếu đưa cháu bé cho mẹ canh thì sẽ làm mẹ cực quá, nên tụi con đã bế cháu theo đi đua luôn, mà nó rất thích, ngồi ngoan ngoãn trong lòng bạn của con, không khóc gì hết, nhìn tụi con đua thuyền. Hôm nay con muốn bế cháu về thăm ông bà, thằng bé cứ chỉ vào tấm hình trong máy, bập bẹ gọi bà rồi gọi ông.

Những lời đối thoại của hai mẹ con được ông Thuyên ngồi nghe hết, ông nói xen vào:

-Độ này mẹ con giỏi lắm rồi, lúc nào rảnh là bà lên fb xem hình các con cháu và nhiều thứ khác hay lắm, ngay cả làm bếp cũng có người dậy trên trang fb của họ; cô Susan cạnh nhà chỉ cách gọi phone ra ngoài nước Mỹ qua fb cũng chả tốn xu teng nào hết, càng khám phá được nhiều điều hay, càng thấy cái mạng này thật lợi hại. Ba phục ông Mark Zuckerberg, người đã sáng tạo ra mạng xã hội fb này quá…

Bà cắt ngang lời ông:

-Tylen này! mẹ vẫn muốn …được ôm con, ôm dâu, hôn thằng cháu, ngửi cái mùi sữa thơm ở miệng nó, nghe tiếng nó bi bô, cả gia đình mình ngồi vây quanh chiếc bàn tròn trong bếp ăn uống nói cười chứ không phải livestream, Instagram gì đó, nói qua cái màn hình nhỏ, rồi chụp hình để lên mạng lấy le đâu nhé!

-Con hiểu mà! Nên mới phone để nói là tụi con sẽ về thăm ba mẹ đây!

Gen Z sinh đúng thời ni

Ăn cơm cũng phải selfie… chụp hình.

Gen Z vừa lạ vừa quen,

Ăn chơi cũng giỏi, học hành cũng nhanh.

Cười vang trước mọi khó khăn,

Tương lai rộng mở, trời xanh gọi mời.

Sỏi Ngọc

Montreal, Sept’25


 

Chiếc va li cũ tiết lộ bí mật và gia sản được giấu kín thời Đức Quốc xã (BBC)

BBC Vietnamese

Ông Antony cầm bức ảnh chụp cha mình, ông Peter Easton

Tác giả, Charlie Northcott – Tác giả, Ben Milne

18 tháng 10 2025

Mọi chuyện bắt đầu với một chiếc va li được giấu dưới gầm giường.

Lúc ấy là năm 2009, khi cha của Antony Easton – ông Peter – vừa qua đời. Khi Antony bắt đầu giải quyết những thủ tục rắc rối liên quan đến di sản, ông tình cờ phát hiện một chiếc va li da nhỏ màu nâu trong căn hộ cũ của cha mình ở thị trấn Lymington, hạt Hampshire.

Bên trong là những tờ tiền Đức được giữ gìn nguyên vẹn, các album ảnh, phong bì chứa đầy những ghi chép về từng chặng đời – và một tờ giấy khai sinh.

Hóa ra ông Peter Roderick Easton – người luôn tự hào về “chất Anh” của mình và theo đạo Anh – sinh ra và lớn lên ở Đức trước Thế chiến II, với tên thật là Peter Hans Rudolf Eisner, thuộc một trong những gia đình Do Thái giàu có nhất Berlin.

Charlie Northcott/BBC

Chiếc va li chứa đựng những bí mật của cha ông Antony

Dù trong thời thơ ấu ông Antony từng nghe vài ám chỉ về gốc gác của cha, nhưng những thứ trong chiếc va li đã soi rọi vào một quá khứ mà ông hầu như chẳng biết gì. Những phát hiện đó dẫn ông vào một hành trình kéo dài hàng chục năm, phơi bày bi kịch của một gia đình bị nạn diệt chủng Holocaust tàn phá, sự biến mất của khối tài sản trị giá hàng tỷ bảng Anh, cùng những di sản gồm các tác phẩm nghệ thuật và bất động sản bị Đức Quốc xã tịch thu.

Những bức ảnh đen trắng hé lộ quãng đời ấu thơ của ông Peter – hoàn toàn trái ngược với tuổi thơ giản dị của con trai ông ở London – là ảnh chụp những chiếc Mercedes có tài xế riêng, những dinh thự có người hầu, những cầu thang với các hình thiên thần được chạm khắc tinh xảo.

Đáng sợ hơn cả là tấm hình chụp cậu bé Peter Eisner 12 tuổi đang mỉm cười bên bạn bè, phía xa tung bay lá cờ Đức Quốc xã.

Antony Easton

Ông Peter (ở giữa) khi 12 tuổi

“Tôi cảm giác như có một bàn tay từ quá khứ đang vươn tới,” ông Antony nói.

Ông nói cha mình là người trầm lặng, nghiêm nghị, đôi khi dễ nổi nóng. Ông ấy luôn né tránh khi được hỏi về tuổi thơ, và thường lập tức gạt đi bất kỳ câu hỏi nào liên quan đến chất giọng Đức thoáng qua của mình.

“Có những dấu hiệu cho thấy ông ấy không thực sự giống người khác… Có một tấm màn đen bao phủ thế giới của ông,” ông Antony chia sẻ.

Gia tài khổng lồ

Manh mối lớn tiếp theo về quá khứ gia đình ông Antony xuất phát từ một tác phẩm nghệ thuật.

Ông đã nhờ một người bạn nói tiếng Đức lưu loát tra cứu về một công ty có tên Hahn’sche Werke – cái tên được nhắc đến rải rác trong các tài liệu trong chiếc va li. Sau khi tìm kiếm trên mạng, người bạn này gửi cho ông Antony một bức ảnh chụp một bức tranh khắc họa khung cảnh bên trong một nhà máy luyện thép lớn – dường như thuộc quyền sở hữu của công ty này.

Dòng kim loại nóng chảy rực sáng trên băng chuyền, hắt ánh lửa lên khuôn mặt của những công nhân chăm chú và bận rộn. Đó là hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh và quyền lực công nghiệp của một nước Đức đang tiến vào những thập niên chiến tranh tàn khốc.

Bức tranh này, do họa sĩ Hans Baluschek vẽ vào năm 1910, có tên Eisenwalzwerk (Xưởng cán thép). Tác phẩm từng thuộc sở hữu của Heinrich Eisner và có lẽ chính do ông đặt.

Heinrich Eisner là người đã góp phần xây dựng Hahn’sche Werke thành một trong những tập đoàn luyện kim hiện đại và quy mô nhất Trung Âu.

Các tài liệu trong chiếc va li cho thấy ông Heinrich chính là cụ cố của ông Antony.

[Antony Easton

Eisenwalzwerk – bức tranh của họa sĩ người Đức Hans Baluschek

Nghiên cứu thêm cho thấy, vào đầu thế kỷ 20, ông Heinrich là một trong những doanh nhân giàu có nhất nước Đức với mức tài sản tương đương hàng tỷ bảng Anh hiện nay.

Công ty của ông chuyên sản xuất thép ống, và có nhà máy trải khắp Đức, Ba Lan và Nga.

Ông Heinrich cùng vợ là bà Olga sở hữu nhiều bất động sản ở Berlin và vùng phụ cận, trong đó có một tòa nhà sáu tầng nguy nga nằm ngay trung tâm thành phố, với sàn lát đá cẩm thạch và mặt tiền sơn trắng ngà.

Một bức ảnh từ đầu những năm 1900 cho thấy một người đàn ông có dáng đẫy đà, ria mép trắng được tỉa gọn gàng. Ông Heinrich mặc bộ com lê đen, còn bà Olga ngồi bên cạnh, đội vương miện pha lê lấp lánh.

Antony Easton

Ông bà cố của Antony, bà Olga và ông Heinrich Eisner, trong bức ảnh chụp đầu thế kỷ 20

Khi qua đời vào năm 1918, ông Heinrich để lại cổ phần trong công ty và toàn bộ tài sản cá nhân cho con trai là ông Rudolf, người vừa trở về sau khi chiến đấu trong Thế chiến I.

Chiến tranh là một thảm họa nhân đạo, nhưng Hahn’sche Werke lại phát đạt trong thời kỳ đó nhờ đáp ứng nhu cầu thép khổng lồ của quân đội Đức. Ông Rudolf và gia đình cũng vượt qua được cơn hỗn loạn kinh tế và chính trị bao trùm nước Đức sau chiến tranh.

Tuy nhiên, chỉ vài năm sau, mọi thứ sụp đổ.

Mọi thứ thay đổi

Theo những ghi chép mà ông Antony tìm thấy trong chiếc va li, ông Peter kể lại rằng khi còn nhỏ, ông từng nghe lỏm được những cuộc trò chuyện của cha mẹ – những lời thì thầm về những mối đe dọa từ Đức Quốc xã. Khi đó, Adolf Hitler và những người ủng hộ đang đổ lỗi cho người Do Thái về thất bại của Đức trong Thế chiến I, cũng như về khủng hoảng kinh tế sau đó.

Rudolf Eisner tin rằng ông có thể được an toàn nếu để công ty của mình đóng vai trò thiết yếu đối với chế độ Quốc xã. Ban đầu, dường như kế hoạch này có hiệu quả. Nhưng khi các đạo luật bài Do Thái ngày càng khắc nghiệt, và những hành vi ngược đãi quanh họ trở nên trắng trợn hơn, ông bắt đầu nhận ra sự thật.

Đến tháng 3/1938, chính quyền Đức ra tay với Hahn’sche Werke. Dưới sức ép khủng khiếp của nhà chức trách, công ty thuộc sở hữu người Do Thái này bị buộc phải bán lại với giá rẻ như cho cho tập đoàn công nghiệp Mannesmann, do Wilhelm Zangen – một người ủng hộ Đức Quốc xã – điều hành.

Berlin năm 1934: Các doanh nghiệp do người Do Thái sở hữu, như cửa hàng bách hóa này, đã trở thành mục tiêu của Đức Quốc xã ngay sau khi họ nắm quyền

“Gần như không thể tính toán được khối tài sản bị cướp đi và giá trị của chúng nếu tính theo thời nay,” nhà báo David de Jong cho biết.

Ông là tác giả cuốn Nazi Billionaires (Những tỷ phú Đức Quốc xã) và là người đã lần theo dấu tích của những vụ cướp bóc doanh nghiệp Do Thái dưới thời Đệ Tam Đế chế.

Vào năm 2000, Vodafone mua lại Mannesmann với giá hơn 100 tỷ bảng Anh – thương vụ thương mại lớn nhất lịch sử vào thời đó.

Ít nhất một phần tài sản công nghiệp trong thương vụ này từng thuộc về đế chế kinh doanh của gia đình Eisner.

Việc Hahn’sche Werke bị giải thể, cùng với việc các thành viên trong công ty bị bắt giữ, khiến gia đình Eisner nhận ra rằng họ phải bỏ trốn. Nhưng đến năm 1937, bất kỳ gia đình Do Thái nào tìm cách rời khỏi nước Đức đều bị buộc phải nộp lại 92% tài sản cho nhà nước – thông qua một loạt các sắc thuế gọi là Reichsfluchtsteuer, tức “Thuế di cư của Đế chế”.

Gia đình Eisner đứng trước nguy cơ mất nốt phần tài sản cuối cùng mà họ còn giữ được.

Thỏa thuận

Vào cao điểm của cuộc khủng hoảng ấy, một người đàn ông tên là Martin Hartig – theo hồ sơ trong lưu trữ Berlin là một nhà kinh tế học kiêm tư vấn thuế – bắt đầu xuất hiện thường xuyên trong đời sống của gia đình Eisner.

Trong suốt những năm 1930, tên ông ta liên tục xuất hiện trong sổ lưu bút tại biệt thự nghỉ dưỡng của nhà Eisner, với những lời cảm ơn vì lòng hiếu khách hào phóng mà gia đình dành cho ông.

Ông Hartig, không phải người Do Thái, dường như đưa ra cho gia đình Eisner một “lối thoát” khỏi nguy cơ bị Đức Quốc xã tịch thu tài sản. Gia đình đã chuyển nhượng phần lớn tài sản cá nhân cho ông ta – chủ yếu là các bất động sản và toàn bộ tài sản bên trong – với hy vọng bảo vệ chúng khỏi các đạo luật tịch thu của chính quyền Quốc xã.

Ông bà của Antony, bà Hildegarde và ông Rudolf Eisner

Ông Antony tin rằng ông bà mình đã ngây thơ tin tưởng rằng một ngày nào đó ông Hartig sẽ trả lại tài sản cho họ.

Họ đã lầm. Thay vì giữ hộ, ông Hartig chuyển hẳn quyền sở hữu toàn bộ tài sản của gia đình Eisner sang tên mình.

BBC đã tìm thấy bản sao các giấy tờ mua bán gốc trong lưu trữ quốc gia Đức và chia sẻ với ba chuyên gia độc lập. Cả ba đều kết luận rằng đây là một vụ “bán cưỡng bức” – thuật ngữ phổ biến được dùng để chỉ các vụ chiếm đoạt tài sản của người Do Thái dưới thời Đức Quốc xã.

Dù mất trắng khối tài sản tích lũy qua nhiều thế hệ, ông bà và cha của Antony vẫn trốn khỏi nước Đức năm 1938.

Dựa vào vé tàu, thẻ hành lý và tờ rơi khách sạn được giữ lại trong chiếc va li của Peter, Antony đã lần lại được hành trình chạy trốn của họ.

Gia đình chạy sang Tiệp Khắc rồi Ba Lan, luôn chỉ cách Đức Quốc xã một khoảng ngắn, trước khi lên được một trong những con tàu cuối cùng rời châu Âu để tới Anh vào tháng 7/1938.

Charlie Northcott/BBC

Chiếc va li của ông Peter chứa tài liệu ghi lại hành trình chạy trốn khỏi nước Đức của gia đình Eisner

Họ đánh mất một gia sản tương đương hàng tỷ bảng Anh, nhưng vẫn còn may mắn hơn nhiều thân nhân khác trong gia đình Eisner – phần lớn bị bắt và sát hại trong các trại tập trung.

Giống như nhiều người tị nạn Đức khác thời đó, ông Rudolf – ông nội của Antony – qua đời năm 1945, sau khi trải qua phần lớn thời chiến trong cảnh bị Anh quốc giam giữ trên đảo Isle of Man.

Gặp gia đình Hartig

Điều ông Antony làm tsau đó là tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra với gia sản của nhà Eisner – và với ông Martin Hartig.

Ông đã thuê bà Yana Slavova, một điều tra viên dày dạn kinh nghiệm, để tìm cho ra chính xác những gì đã bị đánh cắp, cách các tài sản đổi chủ, và hiện đang ở đâu.

Chỉ trong vài tuần, bà Yana đã phát hiện ra cả kho tư liệu về thân nhân của ông Antony, bao gồm chi tiết các bất động sản và tài sản mà họ từng sở hữu.

Bà cũng lần ra bức tranh mà Antony phát hiện ở đầu hành trình – Eisenwalzwerk (Xưởng cán thép) – hiện nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Brohan ở Berlin.

Tuy nhiên, những nỗ lực đầu tiên nhằm đòi lại tác phẩm nghệ thuật này vấp phải khó khăn về chứng cứ. Liệu ông Antony có thể chứng minh rằng việc bán bức tranh có liên quan đến cuộc đàn áp của Đức Quốc xã không? Làm sao ông biết được rằng bức tranh đã từng nhiều lần đổi chủ hợp pháp hay chưa trước khi đến tay bảo tàng?

Bước ngoặt xuất hiện khi bà Yana phát hiện ra thư từ giữa bảo tàng và một nhà buôn tranh vào thời điểm bức tranh được bán.

Nhà buôn này đã bán bức tranh từ chính một trong những ngôi nhà cũ của gia đình Eisner – tài sản mà ông Martin Hartig chiếm hữu vào năm 1938. Ông Hartig sống suốt phần đời còn lại trong ngôi nhà đó, tỉ mỉ trùng tu sau khi nó bị hư hại khi Berlin thất thủ, và qua đời năm 1965 vì tuổi già.

Sau khi ông Hartig chết, con gái ông thừa kế ngôi nhà. Người phụ nữ này nay đã ngoài 80 tuổi. Bà tặng lại căn nhà cho các con vào năm 2014, rồi chuyển đến sống ở một ngôi nhà nhỏ vùng quê, nơi bà đồng ý gặp ông Antony và bà Yana.

Người phụ nữ cao tuổi mời họ uống trà, ăn bánh, trong phòng khách treo bức chân dung cha bà – một người đàn ông mặt gầy, tóc chải bóng, đeo kính gọng dày và mặc com lê đen. Bức tranh được vẽ năm 1945, ngay sau khi Thế chiến II kết thúc.

Nhưng câu chuyện mà con gái của ông Martin Hartig kể lại lại hoàn toàn khác với những gì ông Antony và bà Yana mong đợi.

Bà nói cha mình luôn phản đối Đức Quốc xã và đã giúp gia đình Eisner – những người bà mô tả là bạn thân thiết – thoát khỏi thảm họa Holocaust. Bà kể rằng ông từng khuyên họ: “Mọi người không thể ở lại đây được. Tới Anh quốc đi, hãy tới London.”

Bà nói rằng cha bà đã kể ông còn giúp họ lén mang các bức tranh ra khỏi Đức, bằng cách tháo khỏi khung và giấu giữa quần áo.

Khi được hỏi về những bất động sản mà gia đình bà nhận được từ nhà Eisner năm 1938, bà khẳng định đó đều là những vụ mua bán hợp pháp.

“Cha tôi mua hai căn nhà – hoàn toàn hợp pháp,” bà nói. “Mọi việc luôn phải thật chính xác.”

Antony Easton

Một khu tưởng niệm bên ngoài trại tập trung cũ Theresienstadt đánh dấu nơi nhiều thành viên của gia đình Eisner đã qua đời

Những thành viên khác trong gia đình Hartig thẳng thắn hơn khi thừa nhận khả năng cha ông họ có thể đã lợi dụng nhà Eisner.

Vincent, chắt của Martin Hartig, hiện hơn 20 tuổi và đang học nghề mộc, nói rằng anh từng cảm thấy băn khoăn về ngôi nhà mà gia đình anh sinh sống – căn nhà từng thuộc về ông bà của Antony.

“Tất nhiên tôi từng tò mò – vì sao gia đình mình lại được sống trong một nơi đẹp như vậy,” anh nói. “Tôi cũng tự hỏi – chuyện gì đã xảy ra?”

Sau khi biết chuyện đã xảy ra với gia đình Do Thái của ông Antony, Vincent nói rằng anh tin nhà Eisner khi ấy gần như không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chuyển giao tài sản cho cụ cố của mình.

‘Không phải là vì tiền’

Ông Antony hiện không còn cách nào để khởi kiện đòi lại tài sản của ông bà mình.

Bà của ông, bà Hildegard – góa phụ của Rudolf – từng tìm cách đòi lại tài sản vào thập niên 1950, nhưng phải rút lui sau khi bị ông Hartig khởi kiện phản tố.

Thời hiệu cho phép các nạn nhân Do Thái của chế độ Đức Quốc xã đòi lại tài sản tại khu vực Tây Đức cũ cũng đã hết hạn.

Tuy vậy, đối với những tác phẩm nghệ thuật bị tịch thu từ gia đình Eisner, vẫn còn hy vọng có thể thu hồi một phần những gì đã mất.

Đầu năm nay, Bảo tàng Brohan ở Berlin đã thông báo cho ông Antony rằng họ có ý định trao trả bức tranh Eisenwalzwerk cho hậu duệ của ông Heinrich Eisner. Bảo tàng từ chối trả lời phỏng vấn BBC trong lúc quy trình đang diễn ra.

Một bức tranh khác đã được Bảo tàng Israel ở Jerusalem hoàn trả cho ông Antony, và còn một yêu cầu nhận lại tác phẩm nghệ thuật tại Áo vẫn đang được xem xét.

Trong quá trình điều tra, ông Antony đã phát hiện một danh sách do Gestapo lập, ghi chi tiết các hiện vật và tranh bị tịch thu từ thân nhân của ông. Điều đó mở ra khả năng gia đình ông có thể tiếp tục truy tìm và thu hồi thêm tài sản trong tương lai.

“Tôi luôn nói rằng việc hoàn trả không chỉ là chuyện hiện vật, tiền bạc hay tài sản – mà là về con người,” ông Antony chia sẻ.

Khi lần lại quá khứ của gia đình, ông đã phục hồi hình ảnh chân thực về cha và ông bà mình – những con người bằng xương bằng thịt, từng có một cuộc đời trọn vẹn.

“Mọi chuyện khiến họ trở nên sống động trở lại, với những cuộc đời thực sự,” ông nói.

Antony Easton

Antony nói rằng việc hoàn trả không phải về hiện vật… mà là về con người

Giờ đây, kiến thức này đã được truyền lại cho thế hệ mới.

Cái tên dòng họ Eisner có thể đã biến mất khi ông Peter vượt biển sang Anh vào năm 1939, nhưng nay lại được hồi sinh. Cháu trai của ông Antony, bé Caspian – chào đời tháng 8/2024 – được đặt tên đệm là Eisner.

Ông Antony nói rằng ông vô cùng xúc động trước quyết định của cháu gái – mẹ của Caspian – nhằm tưởng nhớ đến dòng họ đã mất.

“Anh biết đấy, chừng nào Caspian còn ở đây, thì cái tên ấy vẫn còn tồn tại cùng với nó,” ông nói. “Rồi mọi người sẽ hỏi: ‘Tên đệm đó nghe lạ nhỉ – câu chuyện đằng sau là gì vậy?’


 

6 DẤU HIỆU CHO THẤY BẠN ĐANG TRẦM CẢM, CHỨ KHÔNG PHẢI LƯỜI BIẾNG

Ngan Minh Ngo

Chắc chắn rồi! Vì ai cũng có những ngày như thế. Ai cũng từng có lúc uể oải, thiếu động lực, chẳng thiết tha điều gì. Nhưng trong một xã hội đầy cạnh tranh khốc liệt, nơi con người bị ám ảnh bởi tiền bạc và thành công, chúng ta lại cảm thấy tội lỗi khi không làm ra tiền hoặc không bận rộn với một việc gì đó. Và cũng bởi vì chúng ta chỉ là con người, sống trong căng thẳng triền miên, lao đầu vào công việc không ngừng nghỉ thì sớm muộn gì cũng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tinh thần và cảm xúc của chính mình.

Nhưng nếu đó không chỉ là sự mệt mỏi nhất thời thì sao? Nếu sự “lười biếng” ấy thực chất là dấu hiệu của một vấn đề nghiêm trọng hơn thì sao? Hãy cùng điểm qua 6 dấu hiệu sau đây để biết liệu bạn có đang mắc kẹt trong vòng xoáy của trầm cảm hay không:

  1. Bạn không thể tự kéo mình ra khỏi tình trạng này

Sự lười biếng thường chỉ xuất hiện khi ta có một việc quan trọng cần làm nhưng lại không muốn bắt tay vào hoặc khi cơ thể đã quá tải vì làm việc quá sức. Trong những lúc như vậy, chỉ cần một danh sách việc cần làm, một bài diễn thuyết truyền cảm hứng hay một mục tiêu nho nhỏ cũng có thể giúp ta vực dậy tinh thần.

Nhưng trầm cảm thì không. Nó không phải là thứ mà bạn có thể đơn giản “vứt bỏ” hay “vượt qua” chỉ bằng ý chí. Dù ai đó có bảo bạn “vui lên đi” hay “chỉ cần suy nghĩ tích cực hơn”, điều đó cũng chẳng ích gì. Trầm cảm là một căn bệnh tâm lý nghiêm trọng, cần được điều trị bằng liệu pháp chuyên sâu, thậm chí có khi phải dùng thuốc. Và điều đáng sợ là nó thường xuyên quay lại, khiến người bệnh phải mất nhiều tháng trị liệu để có thể lấy lại cân bằng trong cuộc sống (Lépine & Briley, 2011).

  1. Bạn không thể tìm lại niềm vui

Một dấu hiệu rõ ràng khác cho thấy đây không chỉ là sự lười biếng thông thường, đó là khi bạn thường xuyên cảm thấy cô đơn, buồn bã và vô vọng mà không rõ lý do. Không chỉ mệt mỏi và cạn kiệt năng lượng, bạn còn thấy lòng mình trống rỗng, chán nản mà chẳng hiểu vì sao. Điều tệ nhất là, dù có cố gắng thế nào, bạn cũng không thể tự làm mình vui lên.

Ngủ nhiều hơn cũng không giúp bạn thấy khá hơn. Món ăn yêu thích chẳng còn hấp dẫn. Những buổi gặp gỡ bạn bè cũng chẳng mang lại chút niềm vui nào. Kể cả những điều bạn từng đam mê nhất hay những người bạn yêu thương nhất cũng không thể kéo bạn ra khỏi vực thẳm ấy (Hammen, 2005).

  1. Bạn mất hết hứng thú với mọi thứ

Theo Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ (2013), một trong những dấu hiệu điển hình của trầm cảm là “mất hứng thú hoặc không còn cảm giác vui vẻ với những hoạt động từng yêu thích”. Nếu bạn nhận ra mình không còn động lực hay quan tâm đến bất cứ điều gì, không chỉ công việc hay học tập mà cả những điều nhỏ bé trong cuộc sống, thì đó chính là hồi chuông cảnh báo đầu tiên.

Người trầm cảm thường thu mình lại, không còn hứng thú với sở thích cá nhân, cũng chẳng muốn giao tiếp với ai. Họ chọn cách ở lì trong phòng, nằm trên giường, để thời gian trôi qua một cách vô định… Và đó cũng chính là dấu hiệu tiếp theo mà bạn cần lưu tâm…

  1. Bạn không còn có thể vận hành cuộc sống như trước nữa

Bạn có cảm thấy sự “lười biếng” của mình ngày càng mất kiểm soát? Nó đã trở thành một gánh nặng mà bạn không thể xoay xở nổi? Nó đang cản trở công việc, học tập và cả cuộc sống cá nhân của bạn? Nó đã gây ra không ít rắc rối cho bạn?

Nếu câu trả lời là có, thì có lẽ bạn không chỉ đơn giản là lười biếng. Trong tâm lý học, để chẩn đoán trầm cảm, các chuyên gia thường dựa vào bốn tiêu chí bất thường, gọi là “4D”: Lệch chuẩn (Deviance), Khổ đau (Distress), Nguy hiểm (Danger), và Rối loạn chức năng (Dysfunction). Nếu sự “lười biếng” của bạn khiến bạn không thể vận hành cuộc sống như bình thường, không thể hoàn thành những việc thiết yếu hằng ngày, thì có lẽ đã đến lúc bạn nên tìm đến một chuyên gia sức khỏe tâm lý để được giúp đỡ.

  1. Sự “lười biếng” của bạn không bắt nguồn từ điều gì cụ thể

Lười biếng thường đi kèm với trì hoãn và có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Có người cho rằng đó là dấu hiệu của sự thiếu tự tin. Có người lại nghĩ nó đến từ việc không được công nhận hay động viên. Nó cũng có thể là hậu quả của kỷ luật bản thân kém, thiếu kiểm soát hoặc không có hứng thú.

Nhưng còn trầm cảm thì sao? Điều gì gây ra trầm cảm?

Sự thật là, ngay cả các nhà tâm lý học cũng chưa thể tìm ra một nguyên nhân cụ thể. Nhưng có một điều chắc chắn: trầm cảm thường không bị kích hoạt bởi một sự kiện đơn lẻ. Đôi khi, nó không có bất kỳ lý do rõ ràng nào (Carter & Garber, 2011). Nó có thể len lỏi vào bạn một cách âm thầm, khiến bạn bỗng chốc trở nên buồn bã, mất năng lượng và chán chường mà chẳng hiểu vì sao.

  1. Sự “lười biếng” này không phải là lựa chọn của bạn

Cuối cùng, nhưng có lẽ cũng là điểm quan trọng nhất: lười biếng có thể thay đổi, nhưng trầm cảm thì không thể tự biến mất.

Khi bạn cảm thấy uể oải hay thiếu động lực, bạn vẫn có thể làm gì đó để thay đổi, nghỉ ngơi, tìm cảm hứng, thử những cách tăng năng suất, lên kế hoạch, đặt mục tiêu nhỏ để vực dậy tinh thần. Nhưng với trầm cảm, mọi chuyện không đơn giản như vậy.

Bất kỳ ai hiểu về trầm cảm, đặc biệt là những người từng trải qua nó, đều sẽ nói với bạn rằng không ai lại muốn mình bị trầm cảm. Nếu có thể lựa chọn, họ chắc chắn sẽ thoát ra ngay lập tức. Nhưng thực tế là, họ không thể.

Nhiều người mắc trầm cảm còn mang theo cảm giác tội lỗi, xấu hổ và bất lực (Gotlib & Hammen, 2008). Vì vậy, đừng bao giờ nói với ai đó rằng họ chỉ đang “tìm kiếm sự chú ý.” Bệnh tâm lý không phải là trò đùa, cũng không phải là thứ ai đó có thể điều khiển theo ý muốn.

Vậy, bạn có thấy mình trong những dấu hiệu trên không? Bạn có đang cảm thấy mình lười biếng trong một khoảng thời gian dài và bắt đầu tự hỏi liệu có điều gì nghiêm trọng hơn đang diễn ra?

Nếu bạn hoặc ai đó mà bạn quen biết đang phải đối mặt với trầm cảm, đừng ngần ngại tìm đến chuyên gia tâm lý để được hỗ trợ. Bởi vì, trầm

cảm càng được phát hiện sớm, việc điều trị sẽ càng dễ dàng hơn.

Nguồn Internet