Sống – chết vì sự thật

Sống – chết vì sự thật

                                                                                            tocngan k1

WGPSG — Bài phóng sự của Trường Long “Vết trượt của nam giảng viên ngữ văn hoạt ngôn” cho độc giả thấy kết cuộc đáng tiếc của bị can Vinh (cựu giảng viên lý luận văn học), người có tài ăn nói, quan hệ xã hội khá phức tạp cùng “khả năng kiếm tiền” vượt trội.

“Ông Vinh năm nay 53 tuổi, quê gốc ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An. Sau khi tốt nghiệp Đại học sư phạm Vinh, người này được nhận vào làm giảng viên ở Đại học Đồng Tháp. Hơn 10 năm sau (1997), thạc sĩ Vinh xin chuyển về Đại học Vinh, công tác tại Khoa ngữ văn.

Đầu năm 2000, với khả năng hoạt ngôn, ông Vinh khoe quan hệ rộng với nhiều sếp ở Thanh Hóa nên có thể “chạy” nhận thầu san lấp mặt bằng, cung cấp vật liệu… tại dự án xây dựng Nhà máy lọc hóa dầu ở Khu công nghiệp Nghi Sơn.

Tin lời vị giảng viên có tài ăn nói này, một nữ giám đốc ở huyện Đông Sơn (Thanh Hóa) đã đưa trước 700 triệu đồng nhờ “tác động” để có được hợp đồng san lấp mặt bằng nhà máy và thi công con đường ở huyện Quảng Xương. Giao xong tiền, vị doanh nhân ngồi đếm hết cái hẹn này tới cái hẹn khác của ông Vinh mà vẫn không thấy có được hợp đồng nào. Biết bị lừa, nữ giám đốc tới công an tố cáo.

Cùng thời gian này tại quê nhà, ông Vinh khoe có khả năng đưa người đi nước ngoài, “chạy việc”, “chạy dự án”. Nhận tiền của nhiều người “nhờ vả”, vị giảng viên mua ôtô, chi tiêu phóng tay khiến nhiều đồng nghiệp ngỡ ngàng về tài làm ăn của thạc sĩ lý luận văn học này.

Khi bị bắt ông Vinh không nhớ hết danh tính của những nạn nhân đã bị ông ta lừa đảo “chạy việc”, “chạy dự án”, chiếm đoạt hơn 3 tỷ đồng, trong đó có nhiều nạn nhân là học trò cũ của ông ta.

Một vị giáo sư có tài lợi khẩu mà dùng sự khéo nói của mình để lường gạt thì thật đáng tiếc biết bao!

Hội thánh hôm nay kính nhớ đến một vị thánh được xưng tụng là cao trọng nhất trong nam giới, được nhớ đến trong ngày sinh nhật và cả ngày về với Chúa. Đó là thánh Gioan Tiền Hô, ngài bị vua bắt vào tù cũng vì lời nói, nhưng là lời nói thật.

Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài. (Mc 6,18)

Bực bội vì bị thánh nhân nói đúng tim đen, nhưng vua vẫn thích nghe ngài nói chuyện. Chỉ tiếc rằng vua lại nghe lời của bà vợ loạn luân đầy lòng thù hận, ra lệnh chém đầu thánh Gioan trong ngục vì lời hứa trong cơn say điệu vũ.

Lạy Chúa Giêsu mến yêu, thánh Gioan Tẩy Giả đã sống, đã chết vì tình yêu với Đấng là Sự Thật mà ngài loan báo. Xin cho chúng con biết noi gương thánh nhân, luôn sống cho, sống với và sống vì sự thật, nhất là luôn trung thành với Chúa cho đến cùng. Amen.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Sống để tìm cái gì?

Sống để tìm cái gì?

                                                             Tâm Thương

                                                    nguồn: Thanhlinh.net

Bạn thân mến, cuộc đời này là một hành trình đi tìm. Có người đi tìm cho mình một công việc thật nhiều tiền. Nhiều người đàn ông giàu có, thành đạt lại muốn tìm cho mình một người vợ sắc đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”. Nhiều bạn trẻ lo tìm cho mình một trường dạy Anh văn thật nổi tiếng để hy vọng có một chỗ làm cho nhiều công ty nước ngoài thu nhập rất cao. Gần tới ngày tựu trường, nhiều sinh viên tất bật lo đi tìm cho mình một chỗ ở trọ như ý muốn v.v… Tựu trung lại, ai cũng muốn đi tìm hạnh phúc cho đời mình. Đó là hành trình đi tìm nhiều thứ. Thế nhưng, có bao giờ bạn và tôi thử đi tìm chính mình. Vậy, đi tìm chính mình nghĩa là gì? Phải chăng sống là đi tìm chính mình cũng là hành trình đi tìm người khác và đi tìm Thiên Chúa?

Đi tìm người khác

Trước tiên, đi tìm chính mình cần phải được cắm mốc trong mối tương quan với người khác. Vì thế, một linh mục nhạc sĩ đã viết: “Tôi chỉ thật sự là người nếu tôi sống với anh em tôi. Thế giới này không ai là một hòn đảo. Loài hoa này không có loài hoa lạc loài.” (Bài hát Không Ai Là Một Hòn Đảo – Linh mục Giuse Đào Trung Hiệu). Ngoài ra, một nhà tư tưởng trứ danh nào đó đã trải nghiệm: “Sống không bạn chết cô đơn.” Thật vậy, cuộc đời này sẽ chẳng còn ý nghĩa gì khi mỗi chúng ta đánh mất mối tương quan tốt đẹp với người khác. Không được người khác quan tâm, chúng ta sống trong cô đơn chán chường.

Không có tình yêu thương nơi người khác, cuộc đời này vô vị biết bao. Bởi thế, Thánh Phaolô đã viết những lời thật thấm thía: “Anh em đừng mắc nợ nhau điều gì ngoài món nợ của tình thương.” Quả thật, đây là món nợ bám víu thân phận cuộc đời mỗi Kitô hữu chúng ta. Bởi vậy, có người bảo rằng: “Nợ tiền đem trả thì vơi. Nợ tình đem trả ai ơi càng đầy.”

Mấy ngày trước đây, cha tôi lên bệnh viện Đại học y dược Tp. Hồ Chí Minh khám bệnh. Cha đi từ ba giờ sáng. Đến chiều tối, mẹ tôi không thấy cha về. Cha đi không mang theo điện thoại. Vì phải đợi kết quả vào sáng hôm sau nên cha ở lại Sài Gòn một đêm. Mẹ tôi thấp thỏm lo âu trong nước mắt. Mọi người ai cũng tìm mọi cách để tìm cha tôi. Cuối cùng, cha tôi bình an.

Mọi người ai cũng thấy ấm áp vui mừng trong lòng. Vậy đó, cuộc sống luôn dệt nên bởi nhiều mối tương quan với tha nhân.

Tương quan giữa chồng với vợ. Tương quan giữa cha mẹ và con cái. Tương quan bạn bè anh em v.v… Khi đánh mất những mối tương quan ấy, con người ta sẽ cảm thấy hụt hẫng. Đánh mất tương quan với tha nhân làm ta đau khổ. Đánh mất chính mình cũng là đánh mất cả một cuộc đời. Vì vậy, chúng ta cần phải đi tìm chính mình như thế nào?

Đi tìm chính mình

Triết gia Socrate có câu nói trứ danh: “Hãy tự biết mình.” Quả thật, con người hôm nay hiểu biết rất nhiều thứ. Tuy nhiên, người ta thường không hiểu biết về chính mình. Nhiều người sống nhưng không tìm ra ý nghĩa cho cuộc sống. Nhiều người không biết mình đang muốn cái gì, sống để làm gì? Vì thế, đi tìm chính mình nghĩa là trở về với sự thật sâu thẳm lòng mình. Dám nghĩ và dám sống thật với con người của mình. Đó là hành trình đi tìm chính mình. Danh ngôn có câu: “Biết người biết ta. Trăm trận trăm thắng.” Thế nên, biết rõ chính mình là một sự thành công lớn trong đời ta.

Thế nhưng, dòng chảy cuộc sống hôm nay luôn cuốn hút ta dính bén bởi nhiều thứ. Nào là những dính bén tình cảm. Nào là những dính bén quyền lực và tiền tài. Dính bén những thú vui thế thái nhân tình. Càng dính bén nhiều vào những thứ như thế, chúng ta càng dễ đánh mất chính mình. Bởi vậy, một tác giả đã cảm nghiệm như sau: “Dòng đời ngược xuôi, Chúa ơi con biết về đâu. Về đâu con đi tìm Ngài. Đi giữa cuộc đời con bơ vơ. Năm tháng cuộc đời con ngu ngơ.” Vậy, sống chỉ để tìm chính mình thôi vẫn chưa đủ. Con người cần đi tìm Thiên Chúa.

Đi tìm Thiên Chúa

Thiên Chúa là cội nguồn của vũ trụ. Ngài là ý nghĩa tối hậu cho vận mệnh con người. Thế nhưng, mỗi Kitô hữu chúng ta thường dễ để lạc mất sự hiện diện của Chúa trong đời. Ma quỷ, xác thịt và thế gian lôi kéo chúng ta ra khỏi mối tương quan với Thiên Chúa. Chúng ta lo tìm nhiều thứ không phải là Thiên Chúa. Cuối cùng, tâm hồn chúng ta cảm thấy trống rỗng.

Dù vậy, Chúa vẫn đi tìm chúng ta. Chúa yêu chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Chúa vẫn chờ đợi chúng ta như người cha già đợi chờ đứa con út đi hoang trở về như một tác giả nào đó đã viết: “Ngài có đó khi con tưởng mình đang cô đơn. Ngài bên con khi mà con không biết gì.”

Cuối cùng, có lẽ bạn và tôi đã biết mình sống trên đời để đi tìm cái gì cho đời mình. Vậy, chúng ta cần phải làm gì để dấn thân cho lý tưởng tìm Chúa làm lẽ sống cho đời mình?

Nguồn: WGPSG

CẦN PHẢI KÊU VAN THIÊN CHÚA TRỢ GIÚP!

CẦN PHẢI KÊU VAN THIÊN CHÚA TRỢ GIÚP!

                                                           Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt 

 

… Tôi thay đổi. Dù muốn dù không, tôi thay đổi. Tôi thay đổi nơi hình dáng, cách cư xử và tư tưởng. Đúng thế, bởi vì cuộc sống có một điều kiện cơ bản chính xác, đó là mối quan hệ. Thật vậy, không thể nghĩ rằng tôi có thể sống mà không liên hệ với điều gì đó, với người nào đó sống chung quanh tôi. Mỗi một kiểu trao đổi nào đó ở bên ngoài, vẫn khiến tôi phải can dự bằng sự đáp trả, bằng tư tưởng và bằng thái độ tương ứng với con người của tôi. Vậy thì, nếu có thay đổi nào đó liên hệ đến tất cả mọi người thì đáng cho chúng ta phải dành thời giờ để suy tư. Nhưng có sự khác biệt: có những thay đổi đưa con người vào tình trạng khủng hoảng, chẳng hạn như: thay đổi việc làm, thay đổi xứ sở mình đang sống hoặc phải đặt lại vấn đề khi có một biến cố bất ngờ xảy ra. Tôi bị bó buộc phải cố gắng tối đa hầu có thể thích ứng với hoàn cảnh mới, cũng như tìm kiếm một quân bình mới cho chính tôi để đáp ứng với thế giới bên ngoài. Thế là tôi bị mất hướng, xem ra như thể các chắc chắn cổ xưa giờ đây trở thành suy yếu, không còn đáng tin nữa. Bị mất hướng nhưng tôi vẫn hy vọng có các điểm tựa mới hầu giúp tôi được ổn định.

Cách đây vài năm, nếu nhớ không lầm, tôi có đọc một bài báo trong đó có một câu làm tôi suy nghĩ mãi và không bao giờ quên:
– Không ai được cứu rỗi nếu không biết tha thứ!

Khi chúng ta bị rơi vào vòng vây của chính mình hay bị cuốn hút vào các biến cố, hoặc khi xảy đến cho chúng ta điều gì đó làm cho chúng ta bị bấn loạn đảo điên, thì có lẽ, bước đầu tiên chúng ta phải làm là: Tha Thứ!

Tôi muốn nói rằng: Không hẳn chúng ta đã phạm một lầm lỗi nào đó khiến chúng ta phải rơi vào tình trạng hoang mang hoảng sợ. Không phải như vậy. Tôi chỉ muốn nới rộng tư tưởng đi đến chỗ: Hãy thương xót chính chúng ta! Cứ chấp nhận coi như chúng ta bị thua và chúng ta cần trở về tìm kiếm mối quan hệ quân bình với chính mình và với thế giới chung quanh chúng ta.

Đừng từ chối xem như thể đó là những ”chuyện bên ngoài chúng ta”, nhưng phải nhận biết và tái nhận biết cái khủng hoảng khiến chúng ta bị treo lơ lửng trên hố thẳm. Nên chấp nhận là chúng ta cần được giúp đỡ. Vậy hãy xin giúp đỡ và tiếp nhận sự giúp đỡ.

Mỗi khi có một thay đổi làm lo âu bấn loạn thì việc đầu tiên phải làm là thân thưa cùng THIÊN CHÚA. Khiêm tốn nhìn nhận với chính mình rằng sức lực hạn hẹp không cho phép chúng ta có thể thoát ra khỏi những giai đoạn trầm trọng của cơn khủng hoảng. Cần phải kêu van THIÊN CHÚA trợ giúp. Ngài làm được mọi sự và luôn luôn cứu giúp mọi người, không trừ ai.

Không ai được cứu rỗi nếu không biết tha thứ!

Thật vậy! Tha Thứ là ngôn ngữ của THIÊN CHÚA, là phương tiện Ngài ban cho để nói với chúng ta và nói với người khác. Hãy tìm nương ẩn nơi niềm tin vào THIÊN CHÚA trong những lúc gặp gian nan thử thách, giống y như thể là chúng ta trở về Nhà Cha. Xin Chúa ban cho chúng ta thoáng trông thấy ánh sáng mà trước đó chúng ta không còn trông thấy nữa, mặc dầu ánh sáng luôn luôn ở đó. Ngay trong những hoàn cảnh thay đổi khốn khổ nhất, xem ra không còn có hy vọng nào nữa, vẫn có một chút ánh sáng mặt trời len lỏi vào. Chẳng hạn như một cử chỉ nhỏ nhặt, một đóa hoa, một nụ cười, một tư tưởng. Hoặc dưới bất cứ hình thức nào khác. Điều quan trọng là phải quyết định mở rộng cửa để cho ánh sáng tràn vào nhà. Nên luôn luôn ghi nhớ rằng chúng ta không hứng chịu một thay đổi nhưng là sống một thay đổi. Và phải luôn luôn tha thứ như chính THIÊN CHÚA luôn luôn tha thứ cho chúng ta.

Chứng từ của nữ tu Maria Giacomina Stuani thuộc Đan Viện Agostiniano Thánh Nữ Rita thành Cascia (Trung Ý).

… Khi đến nơi gọi là ”Đồi Sọ”, họ đóng đinh Đức Chúa GIÊSU vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Chúa GIÊSU cầu nguyện rằng: “Lạy CHA, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Luca 23,33-34) .. Được đầy ơn Thánh Thần, ông Têphanô đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang THIÊN CHÚA và thấy Đức Chúa GIÊSU bên hữu THIÊN CHÚA. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu THIÊN CHÚA”. Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông, rồi lôi ông ra ngoài thành mà ném đá. Họ ném đá ông Têphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Đức Chúa GIÊSU, xin nhận lấy hồn con”. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ (Công Vụ 7,55-60).
 
(”Dalle API alle ROSE”, Bimestrale Del Monastero Agostiniano Santa Rita Da Cascia, Gennaio-Febbraio 2012, Nr.1, trang 31-33)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt 

Nguồn : vietvatican.net

Maria Thanh Mai gởi

Hãy Buông Ra

Hãy Buông Ra

  

Một đứa trẻ đang chơi cạnh một cái bình quý.

Nó thò tay vào bình và không thể rút ra được. 

Bố nó đến giúp, nhưng vô ích. 

Họ đã nghĩ đến việc phải đập cái bình đi. 

Ông bố nói, “Con trai, hãy cố nốt lần này. Thả lỏng và duỗi thẳng các ngón tay như bố đây này, rồi rút tay ra.”

Trước sự ngạc nhiên của bố, thằng bé kêu lên, “Không được bố ơi. Con không thể làm như thế được, nếu thế con sẽ làm rơi đồng xu của con mất.”

Có thể bạn sẽ cười, nhưng, hàng nghìn người trong chúng ta cũng giống cậu bé đó, cứ cố nắm giữ thứ gì đó vô nghĩa dù phải hi sinh những điều quý giá, thậm chí cả sự tự do! Vì thế, “hãy buông nó ra”, tôi thực lòng khuyên bạn điều đó.

P/s:Nhiều người trong chúng ta có khi tốn cả cuộc đời để loay hoay trong những cái không quan trọng để rồi bỏ qua những điều thực sự quan trọng. Không nói về những chuyện to tát trong cuộc đời mà ngay cả trong việc giải quyết một công việc cũng vậy.

Biết từ bỏ, biết hy sinh những điều không cần thiết, không quan trọng để tập trung thời gian và công sức vào những điều cần thiết, những điều quan trọng là một trong những bí quyết để thành công.

(tổng hợp từ nhiều nguồn)

 nguồn: Maria Thanh Mai gởi

PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

 

PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

1. LỜI CHÚA: Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói. Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.

2.CÂU CHUYỆN: CÁCH DẠY CON CỦA MỘT BÀ MẸ

Mạnh Tử thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa thấy người ta đào huyệt và mang xác chết đi chôn, về nhà cậu cũng bắt chước đào huyệt, khóc lóc và an táng người chết. Bà mẹ thấy thế tự nhủ rằng: “Chổ này không phải là chổ cho con ta ở đuợc“. Rồi bà liền dọn nhà ra phố chợ. Mạnh tử thấy người ta mua bán gian xảo, ăn nói chua ngoa tục tĩu, cậu cũng học chơi trò buôn bán xảo trá lừa lọc và ăn nói lỗ mãng với mọi người .Bà mẹ thấy thế tự nhủ rằng: “Chổ này cũng không phải là chổ ở tốt cho con trai ta“. Sau đó, bà dọn nhà đến gần trường học. Mạnh Tử thấy các học trò biết lễ độ kính trên nhường dưới và chăm chỉ học tập các sách thánh hiền, cậu cũng bắt chước học đòi bút nghiên đèn sách. Thấy vậy, bà mẹ rất hài lòng và tự nhủ rằng: “Đây mới thực là chỗ ở tốt cho con trai ta“.

Một hôm Mạnh Tử đến chơi nhà hàng xóm, thấy họ làm thịt heo liền về nhà hỏi mẹ rằng: ”Mẹ ơi, nhà bên cạnh người ta giết heo làm gì vậy ?” Bà mẹ nói đùa với con: ”Họ giiết heo cho con ăn đấy !”. Nói xong, biết mình lỡ lời, bà liền suy nghĩ “Con mình còn nhỏ chưa phân biệt thật giả đúng sai. Nếu ta nói dối nó thì chẳng khác gì ta đã dạy cho con ta nói dối hay sao ?” Sau đó, bà đã ra chợ mua một cân thịt heo về nhà làm món ăn ngon cho con.

Lần khác ,Mạnh Tử  đang học ở trường bỗng trốn học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi bên khung cửi dệt vải, biết con trai trốn học, liền cầm con dao chặt đứt tấm vải đang dệt và dạy con rằng: ”Con ơi! Con đang học mà bỏ trốn đi chơi thì chẳng khác gì mẹ đang dệt tấm vải mà lại chặt đứt nó vậy !” Từ đó, Mạnh Tử quyết tâm chuyên cần học tập. Về sau ông đã trở thành một hiền nhân xuất chúng và rất nổi tiếng của nước Trung Hoa.

3.SUY NIỆM : 

Trong việc giáo dục con cái, người ta thường hay đỗ lỗi cho các bà mẹ nếu con cái bị hư hỏng như câu : ”Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà“. Tuy nhiên nếu con cái được thành đạt thì vai trò của bà mẹ cũng đựơc đặc biệt đề cao : ”Phúc đức tại mẫu“ do biết dạy dỗ con cái : “Dạy con từ thuở còn thơ“. Chính nhờ có một bà mẹ khôn ngoan, biết ứng xử nhanh nhậy và có khả năng tiêu liệu điều tốt cho con mà ngày nay chúng ta mới có được một hiền nhân rất nổi tiếng là thây Mạnh Tử. Vậy cha mẹ cần dạy con từ khi nào ? Phải dạy con những gì ? và nên dạy con bằng phương pháp nào ?

1)PHẢI DẠY CON TỪ KHI NÀO ?

Một nhà trồng tỉa muốn uốn cây cảnh mỹ thuật, cần phải uốn khi cây còn non mới đem lại kết quả tốt. Cha ông chúng ta cũng dạy các bậc làm cha mẹ : “Dạy con từ thưở còn thơ”. “Còn thơ” hay “còn nhỏ” còn được hiểu là ngay từ khi con còn trong bụng mẹ. Khoa học ngày nay cho thấy: Người mẹ cũng ảnh hưởng đến tâm tính và sức khoẻ của đứa con ngay từ lúc còn phôi thai. Việc giáo dục này được gọi là thai giáo. Trong thời gian này, các tâm tình và thái độ ứng xử của bà mẹ sẽ ghi dấu sâu đậm trên tâm tính thai nhi của mình. Tránh cho bà mẹ mang thai bị xúc động như buồn sầu bực tức, để thai nhi được phát triển khỏe mạnh cả về thể xác cũng như tâm hồn.

Tuy nhiên, thời gian thuận tiện nhất để trực tiếp giáo dục con cái là khi con bắt đầu nhận biết những lời cha mẹ dạy dỗ : “Dạy con từ thuở lên ba”. Trong giai đọan này gia đình chính là mái trường đầu tiên dạy cho đứa bé những bài học làm người, và cha mẹ chính là những “thày cô” được con tín nhiệm và vâng lời hơn cả, vì cha mẹ sống gần con, hiểu biết tính nết của con và có lòng yêu thương con hơn tất cả.

2) CHA MẸ CÔNG GIÁO CẦN DẠY CON NHỮNG GÌ?

Mục tiêu của việc giáo dục đức tin là giúp con cái thành một người trưởng thành nhân cách và thành con hiếu thảo của Cha trện Trời theo gương Chúa Giêsu là “Con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha”.

a)Giáo dục nhân bản: Cha mẹ cần quan tâm giáo dục con về đức dục, trí dục, thể dục và tính dục:

-Thể dục: dạy con ăn ở vệ sinh sạch sẽ, bảo vệ sức khỏe bản thân.

-Trí dục: giúp con trau dồi học vấn và nghề nghiệp, có khả năng sống tự lập và giúp ích cho tha nhân.

-Đức dục: Lọai trừ các thói hư tật xấu và tập luyện các tính tốt. Nhất là các đức tính nền tảng như: khôn ngoan, công bình, khiêm tốn, thật thà, tiết độ và dũng cảm. Ngòai ra nam giới còn cần học Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, và nữ giới cần học về Công, Dung, Ngôn, Hạnh.

-Giới tính: Ngoài ra, trong việc giáo dục nhân bản cũng phải để ý đến việc giáo dục giới tính, hướng dẫn con cái về phái tính và tính dục. Việc giáo dục này nhằm mục đích giúp con cái hiểu biết căn bản về tính dục phù hợp với lứa tuổi và tầm nhận thức, để chúng có thể sống trong sạch, trưởng thành, xứng đáng là theo thánh ý Thiên Chúa. Trong việc giáo dục này, cũng cần dạy cho con cái biết sử dụng cách đúng đắn các phương tiện truyền thông, đặc biệt phim ảnh, trò chơi game và sử dụng mạng dưới sự kiểm sóat của cha mẹ.

b) Giáo dục đức tin:

Mến Chúa yêu người: Ngoài nền giáo dục nhân bản, cha mẹ công giáo còn phải giáo dục đức tin cho con, nghĩa là ngay từ nhỏ, đã phải dạy cho con biết “mến Chúa yêu người”, biết tuân giữ những giới luật của Chúa, năng tham dự những việc đạo đức, năng lãnh nhận các bí tích… Nhờ đó, con cái sẽ trở thành những tín hữu thực sự, nghĩa là có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô giới thiệu cho người chưa biết Chúa.

Đáp lại tiếng Chúa kêu gọi: Trong việc giáo dục đức tin, cũng cần để ý tới việc giúp con cái nhận ra lời mời gọi của Chúa và sẵn sàng đáp lại ơn gọi dâng mình phục vụ Chúa theo lý tưởng tu trì.

Chia sẻ sứ vụ loan Tin Mừng: Khi con cái tới tuổi học giáo lý, cha mẹ nên quan tâm tìm hiểu hệ thống các lớp giáo lý tại giáo xứ của mình. Cha mẹ nên tham gia dạy giáo lý, là cách đơn giản để nâng cao trình độ của mình và trang bị khả năng đào tạo đức tin cho con cái sau này. Hiện nay việc giảng dạy giáo lý thường được giao cho Giáo lý viên chưa lập gia đình. Thật ra, đội ngũ Giáo lý viên cần những người có bề dày kinh nghiệm sống đức tin, nên Hội Thánh rất mong các cha mẹ trẻ quảng đại tham gia vào sứ mạng này.

4)Để việc giáo dục đạt kết quả tốt

a)Đồng tâm nhất trí: Cha mẹ phải nhất trí với nhau trong đường hướng và phương thức giáo dục con cái: Tìm hiểu tính tình, năng khiếu của con cái và phải biết dùng những phương pháp thích hợp với lứa tuổi để việc giáo dục đạt hiệu quả. Ngoài ra cha mẹ cần cộng tác với thầy cô nhà trường và các Giáo lý viên nhà thờ.

b)Làm gương sáng“Cha nào con nấy, mẹ nào con nấy”, “Cha mẹ hiền lành để đức cho con”; “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”; “Đời cha ăn mặn đời con khát nước”; ….Thật vậy, đứa con chưa có đủ trí khôn để phân biệt điều tốt và điều xấu, nên thường bắt chước những gì đập vào mắt nó. Vì thế, gương sáng của cha mẹ là điều cần thiết trong việc giáo dục con cái. Người xưa có câu: “Lời nói hương bay, Gương bày lối kéo”.

c)Tạo bầu khí gia đình đầm ấm: Thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1980 số 12 viết: “Gia đình của anh chị em phải trở nên như một trường học về đức tin, một nơi để cầu nguyện, một môi trường sống bác ái yêu thương và rèn luyện tinh thần tông đồ để làm chứng nhân cho Chúa”.

d)Tìm hiểu con cáiViệc đầu tiên cần thực hiện là cha mẹ phải tìm hiểu con cái, phải biết con cái nghĩ gì, muốn gì, nói gì và làm gì thì mới có thể hướng dẫn chúng cách hữu hiệu. Duy trì phát triển điều tốt của con cái và uốn nắn nhắc bảo chúng lọai bỏ điều xấu, Cần dạy con bằng những lời lẽ ôn tồn tế nhị và yêu thương. Tránh la mắng con bằng lời thô lỗ tục tĩu.

e)Kiên nhẫn dạy dỗ: Người xưa đã từng khuyên: “Dục tốc bất đạt”. Trẻ con thường ham chơi và mau quên. Cho nên cha mẹ phải nói nhiều lần, phải nhắc đi nhắc lại để những lời khuyên ấy thấm dần vào đầu óc chúng. Nhất là phải dùng lời Chúa mà khuyên dạy con. Đừng bao giờ thất vọng nản chí trong việc sửa dạy con.

d) Cầu nguyện cho con cái:

Trong việc giáo dục con cái, hai vợ chồng cần chạy đến với Chúa, bởi vì như Chúa dạy: “Không có Thầy, anh em không làm được gì” (Ga 15,5). Đến với Chúa để xin Người soi sáng và hướng dẫn cách dạy dỗ. Năng cầu nguyện cho con cái, đặc biệt trong những giai đoạn phát triển khó khăn cuộc đời của chúng.

Sau cùng chúng ta cần học nơi Chúa Giêsu như Người đã nói : “Hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29). Người sẽ ban Thánh Thần cho ta để ta được biến đổi nên hiền lành và khiêm nhường noi gương Ngừơi. Đây là điều kiện để cha mẹ chu tòan sứ mệnh giáo dục con cái.

4. THẢO LUẬN:

 1)Hãy kể một số câu hướng đẫn cho các bậc cha mẹ trong việc giáo dục con cái và cho biết bà mẹ thày Mạnh Tử đã áp dụng những câu nào để day dỗ con mình ?”. (Chẳng hạn: ”Yêu  cho rôi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi; Dạy con từ thuở còn thơ; Học ăn học nói học gói học mở; Tiên học lễ,hậu học văn; Gần mực thì đen gần đèn thì ság…).

 2)Trong các phương cách giáo dục con cái nói trên, bạn thấy cách nào hữu hiệu nhất giúp cha mẹ chu tòan bổn phận giáo dục đức tin cho con cái ?

5.LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. Xin giúp mỗi tín hữu chúng con ý thức và chuẩn bị cho mình có các nhân đức tự nhiên và siêu nhiên hầu chu tòan bổn phận nuôi dạy con cái cả về nhân bản và đức tin. Ước chi chúng con năng học sống Lời Chúa dưới ơn soi dẫn của Thánh Thần để được ơn biến đổi ngày càng nên hoàn thiện hơn, hầu có thể chu tòan bổn phận làm cha làm mẹ đạo đức, tích cực cộng tác với Chúa trong việc nuôi dạy con cái nên “Con rát yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha” noi gương Chúa khi xưa. Amen

LM ĐAN VINH

www.hiephoithanhmau.com

 nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Chống Công Giáo

Chống Công Giáo,

                                                                             Thanh Tam (08-02-2012)

Tôi là một tín hửu Công Giáo tầm thường như những tín hửu khác. Qua bao kinh nghiệm về cuộc đời của một con người trên 70 năm lăn lộn; cho đến giờ nầy, lúc viết mấy hàng chữ nầy, tôi vẫn muôn vàn yêu mến Giáo Hội của tôi. Tại sao? Thưa qua nhận xét và thấy rằng không có đạo nào có tỷ số tín hửu hành xữ sai phạm ít như trong đạo Công giáo: Với con số giáo sĩ trên dưới 50 ngàn, giáo dân chiếm 1, 2 tỷ người và cán bộ nam nữ làm việc, phụng sự xã hội thì vô số. Tôi nhớ cách nay lối 5 năm, đã đọc một tờ báo Công giáo cho hay theo thống kê của bộ Xã Hội Nam Hàn, người công giáo chiếm đa số về hoạt động từ thiện và ít phạm pháp nhất.

Những nước văn minh và tiến bộ đều ảnh hưởng sâu đậm nền triết lý Thiên Chúa Giáo. Những nước xa lìa hoặc lăm le bỏ Thiên Chúa Giáo như Nga Sô, Bắc Hàn, Trung Quốc kể cả Việt Nam … thì không bại cũng xuội; dân tình thì sống như trong địa ngục trần gian. Tại sao? Thưa vì chính quyền không có tình thương! Một chế độ thuộc quyền quỷ vương; chẳng ai thiết tha đến vận mạng chung. Sự liên hệ dựa trên tư lợi, ích kỷ và óc tư hửu.

Ông HTA viết và suy nghỉ không phải là sai: Đã là giáo sĩ thì phải thế nầy…phải thế kia…mới đúng. Nhưng đó là lý tưởng mà con người cố thực hiện. Thiên Chúa cho chúng ta bộ óc biết phân biệt tốt xấu, cái nên và không nên làm…Nhưng xem ra khó và có những thời điểm rất khó trong việc thực hiện; vì bản chất con người không chỉ quá yếu kém, dòn mõng mà còn tự do nữa; trong khi thế gian lại quá hấp dẫn. Hãy nhìn đảng Cộng Sản; mọi thành viên đều nói: Không được tham nhũng. Rốt cùng anh nào cũng xe hơi đắt giá, nhà lầu 3,4,5… tầng, bồ nhí hằng tá.

Nhìn lên Thập Giá, nếu ai có quả tim “mềm” sẽ không cầm nỗi giòng lệ. Ôi Giêsu! Người quá dịu hiền! Ngài không muốn Thiên Chúa Cha dùng đến phép công thẳng đối với tội nhân, nên Ngài đã chịu mọi cực hình để đền thay: “Xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm…”

Nói đến đây, lại nhớ lời bà xã tôi trách: Thế thì Đức Chúa Cha ác?! Tôi đã trả lời “Không”! Nếu bảo rằng Đức Chúa Cha ác “1” đối với con người, thì con người đã tỏ ra ác “1” triệu lần hơn đối với Thiên Chúa. Tôi chứng minh: Thiên Chúa cho chúng ta khuynh hướng dục tình; cốt để truyền sinh. Chúa chỉ đòi buộc xữ dụng cho mục đích chính đáng. Chúng ta đã lạm dụng; Nam nữ gần gủi với nhau thiếu chính đáng đã đành, có chữa lại giết bào thai; tức phạm tội sát nhân! Mỗi năm có hằng triệu triệu thai nhi bị giết. Tội phạm lan tràn như thế mà muốn Chúa ngồi nhìn thôi sao?!

Tôi cũng vừa đọc bài viết về tội ác của Công Gíao thời Trung Cổ như giết người phạm tội gọi là dị giáo. Tôi buồn và cũng đau nữa, nhưng rất thông cảm. Tại sao? Vì theo dị giáo là kẻ phản nghịch với Thiên Chúa (thờ ngẫu tượng). Kẻ theo Chúa, vừa có quyền vừa cực đoan thì cái gì họ cũng có thể làm. Có một điều chắc chắn là Thiên Chúa không muốn việc giết người, dù kẻ đó là ai. Tôi quyết đoán như sắt đá là vì tôi tin Thiên Chúa toàn năng; nhưng vì tình yêu mà nhiều sự việc đã không xảy ra như ý muốn của con người. Thiên Chúa vẫn chờ đợi tội nhân sám hối và những gì con cái Chúa gánh chịu sẽ không bao giờ trở nên vô ích. Cũng như cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã mang lại cái mà những anh em đang chống Công Giáo gọi là “thảm trạng, đại họa”…Không đúng chút nào! Họ đang nghỉ sai và vì đã nghỉ sai nên viết cũng sai luôn. Thế gian quả là giả trá; chẳng ai nói đúng 100%; được 50,60% là quí lắm rồi.  

Tôi thông cảm với các anh em đang viết bài chống, bươi móc đánh phá Công Giáo. Tôi biết quí vị đang hổ trợ chiến dịch bài Công Giáo bên quê nhà, đồng thời “viết” để kiếm sống. Người Công Giáo gọi việc làm của các anh là “bất lương”; nhưng biết làm sao hơn? Tôi chỉ muốn nhắc nhở các anh em đó chớ quên rằng Công Giáo từng bị bách hại qua 2000 năm rồi. Hậu quả là gì? Nhiều anh em bảo: Kẻ bỏ đạo ngày càng đông! Đúng! Nhưng kẻ gia nhập đạo bao nhiêu bạn có biết không? Ngày càng đông hơn kẻ “bỏ”.

Chứng minh: Lúc Chúa Giêsu tắt thở, chỉ có 11 người theo. Giờ đây là 1,2 tỷ.

                                                                                                Thanh Tam (08-02-2012)

YÊU KẺ THÙ

YÊU KẺ THÙ

Martin Luther King

Martin L King JrHãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.
Như vậy anh em mới trở nên con cái của Cha anh em, Ðấng ngự trên trời
“.

Mt 5,44-45

Có lẽ không có lời khuyên nào của Ðức Giêsu lại khó đem ra thực hành cho bằng lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù”. Một số người chân thành nghĩ rằng, trong thực tế, không ai có thể giữ được lời khuyên này. Yêu người yêu mình thì dễ, còn ai lại đi yêu kẻ tìm cách làm hại mình một cách công khai hay âm thầm? Ðối với một số người khác như triết gia Nietzsche chẳng hạn, lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù” cũng đủ để chứng minh rằng đạo đức Kitô giáo chỉ dành cho những kẻ bạc nhược, nhát đảm, chứ không phải cho những người can đảm, dũng mạnh. Họ cho rằng Ðức Giêsu là người quá lý tưởng và thiếu thực tế.

Mặc dầu các câu hỏi này có được nhấn mạnh đến đâu chăng nữa và các thắc mắc có được lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần, lời khuyên của Ðức Giêsu vẫn tra vấn chúng ta hơn bao giờ hết. Hết biến động này đến biến động khác không ngừng nhắc nhở chúng ta rằng con người thời đại ngày nay đang đi trên con đường hận thù dẫn đến diệt vong và trầm luân. Thay vì là lời khuyên đạo đức của một kẻ mộng tưởng, thì lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù” lại là một điều cần thiết tuyệt đối, nếu chúng ta muốn sống còn. “Hãy yêu kẻ thù” là chìa khóa giúp chúng ta giải quyết các vấn đề trong thế giới ngày nay. Ðức Giêsu không phải là con người quá lý tưởng để quên mất thực tế; Người là con người thực tế đích thực.

Tôi tin rằng Ðức Giêsu biết rõ khó khăn khi nói phải “yêu kẻ thù”. Người không toa rập với những kẻ cho rằng sống đúng theo các đòi hỏi luân lý là chuyện dễ. Người biết rõ rằng mọi biểu hiện của tình yêu đích thực đều xuất phát từ sự phó thác hoàn toàn và dứt khoát vào Thiên Chúa. Khi Ðức Giêsu nói: “Hãy yêu kẻ thù”, thì không phải là Người không biết đến các đòi hỏi của lời khuyên này. Mỗi từ trong câu này đều có nghĩa của nó. Các Kitô hữu có trách nhiệm khám phá ý nghĩa của lời khuyên này và đem ra thực hành trong đời sống hàng ngày.

I

Chúng ta hãy tỏ ra thực tế và đặt cho mình câu hỏi sau đây: Làm thế nào chúng ta yêu kẻ thù được?

Thứ nhất, chúng ta phải phát huy và củng cố khả năng tha thứ. Không biết tha thứ thì cũng không biết yêu thương. Không thể bắt đầu yêu kẻ thù mà trước đó không chấp nhận cần phải không ngừng tha thứ cho những kẻ làm hại chúng ta. Cũng cần phải hiểu rõ rằng người tha thứ trước tiên phải là người đã bị lừa gạt và bị ám hại, người bị áp bức và gánh chịu bất công. Kẻ phạm tội có thể xin tha thứ, có thể quay về với chính mình và, như đứa con hoang đàng, đang rảo bước trên con đường đầy gió bụi nào đó, với lòng ao ước được tha thứ. Nhưng chỉ có người thân cận đã bị xúc phạm, người cha giàu lòng thương xót mới có thể đưa kẻ có tội vào ngôi nhà ấm áp và mới có thể tha thứ.

Tha thứ không phải là không biết điều đã phạm là một hành vi xấu hay gọi hành vi xấu này bằng một tên gọi không đúng với thực chất của nó. Ðúng hơn, tha thứ là xem hành vi xấu này không còn là một chướng ngại để thiết lập những quan hệ mới. Tha thứ là một chất xúc tác tạo nên một bầu khí cần thiết cho một cuộc lên đường, một khởi đầu mới. Tha thứ là cất đi một gánh nặng, hay xóa bỏ một món nợ. Chúng ta có thể nói: “Tôi tha thứ cho anh, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên điều anh làm cho tôi”. Nói như vậy không phải là tha thứ thật. Ðành rằng chúng ta không bao giờ quên, nghĩa là xóa bỏ hoàn toàn trong tâm trí điều người khác đã làm cho mình. Nhưng nếu chúng ta tha thứ, thì chúng ta cũng quên, nghĩa là điều người khác đã làm cho chúng ta không còn là một chướng ngại khả dĩ ngăn cản các quan hệ mới. Cũng không bao giờ chúng ta có thể nói: “Tôi tha thứ cho anh, nhưng tôi không muốn quan hệ với anh nữa”. Tha thứ là hòa giải, là gặp lại nhau. Nếu không, chẳng có ai có thể yêu kẻ thù. Mức độ chúng ta có thể tha thứ là thước đo mức độ chúng ta có thể yêu kẻ thù vậy.

Thứ hai, người thân cận làm tổn thương chúng ta chính là kẻ thù. Nhưng phải nhìn nhận rằng hành vi xấu của con người đó không bộc lộ hết toàn diện con người đó. Nơi kẻ thù tệ nhất, chúng ta có thể khám phá ra những điểm tốt lành. Nhân cách của mỗi người chúng ta có cái gì đó mang dáng dấp tâm thần phân lập, làm chúng ta tự chựng lại một cách bi thảm. Một cuộc chiến trường kỳ luôn diễn ra nơi mỗi cuộc sống, và có cái gì đó làm chúng ta phải thốt lên như thi sĩ Ovide: “Tôi nhận biết sự thiện, tôi chấp nhận sự thiện nhưng tôi lại làm sự ác”, hay như triết gia Platon khi nghĩ rằng con người giống như một cỗ xe song mã, nhưng mỗi con kéo theo một hướng, hoặc như thánh Phaolô: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).
Ðiều này đơn giản có nghĩa là nơi người xấu nhất vẫn có cái tốt và nơi người tốt nhất vẫn có cái xấu. Một khi khám phá ra chân lý này, chúng ta sẽ ít chiều theo khuynh hướng tự nhiên là ghét kẻ thù. Nếu nhìn kỹ bên dưới bề mặt, bên dưới những hành vi xung động, chúng ta có thể tìm thấy nơi kẻ thù một điều tốt lành, đồng thời chúng ta cũng nhận thấy rằng điều ác họ làm cũng không biểu lộ hết con người họ. Nhìn kẻ thù trong một ánh sáng mới, chúng ta mau chóng nhận thấy rằng hận thù nơi họ xuất phát từ sợ hãi, kiêu căng, ngu dốt, tiên kiến, hiểu lầm. Nhưng, dù sao, hình ảnh Thiên Chúa nơi họ không thể bị xóa nhòa. Như thế, chúng ta yêu kẻ thù vì biết rằng họ không hoàn toàn xấu về mọi phương diện và họ cũng không ở ngoài tầm tác động của tình yêu cứu chuộc mà Thiên Chúa dành cho họ.

Thứ ba, chúng ta phải tránh làm nhục kẻ thù. Trái lại, phải tìm cách gây thiện cảm và cảm thông với họ. Có thể chúng ta có thừa khả năng cũng như các điều kiện thuận lợi để làm nhục kẻ thù. Ðiều không thể tránh được là họ cũng có những sơ hở, những giây phút yếu đuối và chúng ta có thể tận dụng các cơ hội này để thẳng tay tiêu diệt họ. Nhưng đây lại là điều chúng ta không bao giờ được phép làm. Trái lại, mỗi lời nói, mỗi hành vi của chúng ta phải góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết, cảm thông với kẻ thù, đồng thời tạo điều kiện để khai mở dòng thiện chí đã bị ngăn chặn bởi bức tường hận thù.

Chúng ta đừng lầm lẫn tình yêu chân thành với tình cảm ướt át. Tình yêu có cái gì đó sâu lắng hơn cảm xúc. Ở đây có lẽ tiếng Hy Lạp sẽ giúp chúng ta làm sáng tỏ ý nghĩa của tình yêu. Trong Tân Ước, tiếng Hy Lạp sử dụng ba từ để nói về tình yêu. Eros là tình yêu mang tính cách thẩm mỹ lãng mạn. Trong các đối thoại của Platon, eros là sự vươn lên của linh hồn tới lãnh vực thần linh. Philia là tình yêu liên kết cách mật thiết các bạn hữu. Chúng ta yêu người chúng ta ưa thích, và chúng ta yêu vì được người khác yêu. Agapè là tình yêu đặt nền tảng trên hiểu biết và cảm thông, ước muốn sáng tạo và cứu chuộc dành cho tất cả mọi người. Là tình yêu đầy tràn, không chờ đợi điều gì cho mình từ phía người khác, agapè là tình yêu Thiên Chúa tác động lòng trí con người. Ở mức độ này, chúng ta yêu mọi người không phải vì họ làm vừa lòng chúng ta, hay vì chính họ lôi kéo chúng ta, cũng không phải vì nơi họ có cái gì đó thuộc thần linh. Chúng ta yêu mỗi người chỉ vì Thiên Chúa yêu họ. Ở mức độ này, chúng ta yêu kẻ làm điều ác trong khi vẫn ghê tởm điều ác họ làm.

Bây giờ, chúng ta có thể nói gì khi nói “Hãy yêu kẻ thù”. Có lẽ chúng ta hãy vui mừng vì Ðức Giêsu đã không nói “Hãy quý trọng kẻ khác”, vì đây quả là điều chúng ta không thể làm được đối với một số người nào đó. Làm sao chúng ta có thể quý trọng một người muốn tiêu diệt chúng ta bằng cách đặt các chướng ngại trên đường đời chúng ta? Làm sao chúng ta có thể quý trọng một người đang đe dọa mạng sống con cái chúng ta, phá hoại nhà cửa chúng ta? Quả thật, đây là điều không thể làm được. Nhưng Ðức Giêsu cho chúng ta biết tình yêu thì ở một mức độ cao hơn quý trọng. Khi khuyên chúng ta yêu kẻ thù, Ðức Giêsu không nói đến tình yêu theo nghĩa eros hay philia; nhưng Người muốn nói tình yêu theo nghĩa agapè – một tình yêu đặt nền tảng trên cảm thông và ước muốn sáng tạo cứu chuộc dành cho mọi người. Chỉ bằng cách đi theo con đường này và dấn thân vào tình yêu này, chúng ta mới có thể trở thành con cái Cha chúng ta, Ðấng ngự trên trời vậy.

II

Bây giờ, chúng ta hãy từ thực tế sang lý thuyết, từ làm thế nào sang tại sao. Tại sao chúng ta phải yêu kẻ thù?

Lý do thứ nhất thật là hiển nhiên. Lấy oán báo oán chỉ có thể làm tăng thêm hận thù, chỉ có thể làm cho đêm tối lại càng thêm tối tăm mù mịt bởi thiếu vắng ánh sáng các vì sao. Bóng tối không thể nào xóa tan bóng tối. Chỉ có ánh sáng xóa tan bóng tối. Hận thù tăng thêm hận thù; bạo lực kéo theo bạo lực; tàn nhẫn nhân thêm tàn nhẫn, như một cơn gió xoáy ập tới tiêu diệt tất cả. Như vậy, khi khuyên chúng ta yêu kẻ thù, Ðức Giêsu đưa ra một lời cảnh giác mạnh mẽ về cái chung cuộc cuối cùng mà chúng ta không thoát khỏi, nếu không đem lời Người ra thực hành. Trong thế giới ngày nay, phải chăng chúng ta đang bị dồn vào chân tường là yêu kẻ thù, nếu không… thì điều gì sẽ xảy ra? Phản ứng dây chuyền của sự ác – hận thù tăng thêm hận thù, chiến tranh kéo theo chiến tranh, chúng ta phải chận đứng phản ứng này, nếu không tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố diệt vong.

Lý do thứ hai chúng ta phải yêu kẻ thù là vì hận thù làm tổn thương tinh thần và hủy diệt nhân cách. Quá nhấn mạnh đến hận thù như là một sức mạnh xấu, nguy hiểm, chúng ta thường quan tâm đến các tác hại nơi người bị oán ghét. Ðây là điều dễ hiểu vì hận thù gây nhiều tác hại không thể cứu vãn nỗi nơi các nạn nhân. Chúng ta đã chứng kiến các tội ác ghê tởm khi thấy hơn sáu triệu người Do Thái bị tiêu diệt man rợ bởi một tên điên rồ có tên là Hitler, khi thấy các người anh em da đen bị đọa đày bởi một tầng lớp người da trắng, khi thấy cảnh điêu tàn đổ nát do chiến tranh gây nên, khi thấy các bất công khổ nhục mà con cái Thiên Chúa phải gánh chịu.

Nhưng cũng có một điều mà chúng ta không bao giờ được phép quên, đó là hận thù cũng gây tác hại cho chính con người oán ghét kẻ khác. Như một căn bệnh ung thư tiềm ẩn, hận thù làm tổn thương và phá vỡ thế thống nhất của nhân cách. Hận thù làm con người không còn biết nhận thức các giá trị khách quan, coi cái đẹp là xấu, cái xấu là đẹp, lầm lẫn cái thật với cái giả và cái giả với cái thật.

Trong một cuốn sách về tính cách bệnh hoạn của nạn kỳ thị chủng tộc, E. Franklin Frazier cho chúng ta thấy một số trường hợp người da trắng bình thường, dễ mến trong quan hệ hàng ngày với những người da trắng khác, nhưng lại có những phản ứng rất phi lý, bất bình thường khi được mời gọi xem các người da đen là những người bình đẳng với mình hoặc chỉ thảo luận về các bất công do nạn kỳ thị chủng tộc gây nên. Ðây là điều xảy ra khi hận thù ngự trị lòng người. Các nhà phân tâm học cho biết rằng có những điều kỳ lạ như thế tồn tại và phát triển nơi tiềm thức, có những cuộc xung đột ác liệt diễn ra nơi nội tâm con người: đa số những điều này thường phát xuất từ hận thù. Họ đặt chúng ta trước một sự lựa chọn: “Yêu thương hoặc tiêu diệt”. Tâm lý học hiện đại nhìn nhận điều Ðức Giêsu đã dạy thuở xưa: hận thù hủy diệt còn tình yêu phát triển và thống nhất nhân cách một cách lạ lùng và hữu hiệu.

Lý do thứ ba chúng ta phải yêu kẻ thù là vì tình yêu là sức mạnh duy nhất có khả năng biến thù thành bạn. Chúng ta không bao giờ có thể loại bỏ kẻ thù bằng cách lấy hận thù đối lại hận thù. Chúng ta chỉ có thể loại bỏ kẻ thù bằng cách loại bỏ hận thù chiếm ngự lòng chúng ta. Tự bản chất, hận thù phá hoại, hủy diệt; còn tự bản chất, tình yêu sáng tạo và xây dựng. Tình yêu đổi mới bằng sức mạnh cứu chuộc.

Abraham Lincoln đã có một kinh nghiệm như thế về tình yêu và đã trở thành một gương mẫu tuyệt vời cho hậu thế. Trong cuộc vận động tranh cử chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ, Stanton là người chống đối Lincoln kịch liệt nhất. Vì một lý do nào đó, Stanton thù ghét và tìm hết mọi cách để hạ nhục Lincoln trước công chúng. Stanton chế diễu dáng điệu của Lincoln với lời lẽ khiếm nhã, đả kích mãnh liệt và gây bối rối cho Lincoln. Nhưng các cố gắng của Stanton đã không ngăn cản Lincoln đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ. Khi lập nội các, Tổng Thống Lincoln đã chọn một số cộng sự viên thân tín nắm giữ các bộ trong chính phủ nhằm thực hiện chương trình đã được đề ra. Ðến ngày phải chọn người giữ chức vụ quan trọng nhất là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, các bạn có biết Tổng Thống Lincoln đã chọn ai không? Không ai khác ngoài Stanton! Quyết định này đã làm dư luận xôn xao và các cố vấn thân tín đã phải lên tiếng can gián Tổng Thống: “Ngài đã phạm sai lầm. Ngài có biết Stanton là ai không? Và đã chống lại ngài quyết liệt như thế nào không? Stanton là kẻ thù của ngài và sẽ tìm cách phá hoại chương trình ngài đã đề ra. Ngài đã suy nghĩ kỹ chưa?” Tổng Thống Lincoln đã trả lời một cách lịch sự và thẳng thắn: “Tôi biết Stanton cũng như những điều Stanton đã nói và đã làm để chống lại tôi. Nhưng, tại quốc gia này, nhìn kỹ, tôi thấy Stanton là người thích hợp nhất để giữ chức Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng”. Và trong cương vị của mình, Stanton đã tận tình phục vụ Tổng Thống và Quốc Gia mình. Vài năm sau, Tổng Thống Lincoln bị ám sát. Nhiều người đã hết lời ca ngợi Lincoln. H. G. Wells xem Abraham Lincoln là một trong sáu người vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Nhưng một trong số những lời đã được nói để ca ngợi Tổng Thống Lincoln, không một lời nào có thế sánh được với những lời Stanton đã nói. Ðứng trước thi hài của người một thời đã là kẻ thù của mình, Stanton đã nói về Abraham Lincoln như một con người vĩ đại nhất đã sinh ra trên trái đất này, và ông tuyên bố: “Từ nay, Abraham Lincoln thuộc về lịch sử”.

Nếu Lincoln thù ghét Stanton, thì cả hai đều xuống mồ như kẻ thù. Nhưng nhờ sức mạnh tình yêu, Lincoln đã biến thù thành bạn. Ông cũng đã có một thái độ tương tự như vậy đối với Miền Nam trong cuộc nội chiến, khi chiến sự đến hồi ác liệt nhất. Một trong số quý bà nghe ông diễn thuyết, đã tỏ thái độ bất bình về cách phát biểu của Tổng Thống. Ông nói: “Biến thù thành bạn, phải chăng đã là tiêu diệt được kẻ thù rồi?” Ðây chính là sức mạnh của tình yêu có sức cứu độ.

Tuy vậy, chúng ta phải nói ngay rằng các lý do trên khiến chúng ta yêu kẻ thù cũng chưa phải là lý do quyết định. Lý do căn bản nhất và được diễn tả rõ ràng nhất chính là lý do Ðức Giêsu đã nêu lên khi nói: “Anh em hãy yêu kẻ thù ?. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Ðấng ngự trên trời”. Chúng ta được mời gọi làm công việc khó khăn này cốt là để cùng với Thiên Chúa tạo nên được một mối tương quan độc nhất vô nhị. Chúng ta có thể trở thành con cái Thiên Chúa. Nhờ yêu thương, chúng ta có thể biến khả năng này thành hiện thực. Chúng ta phải yêu kẻ thù vì, như vậy, chúng ta mới có thể biết được Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa là Ðấng Thánh.

Hiển nhiên là những điều tôi vừa nói có liên quan đến vấn đề phân biệt chủng tộc. Sẽ không bao giờ có được một giải pháp lâu dài cho vấn đề này bao lâu các người bị áp bức chưa yêu kẻ thù. Bóng tối của nạn kỳ thị chủng tộc chỉ có thể bị xóa tan bởi ánh sáng của tình yêu tha thứ. Hơn ba thế kỷ, các người Mỹ da đen đã bị ngược đãi, ban ngày thì chịu đòn vọt, ban đêm thì bị ức hiếp một cách bất công và tàn nhẫn. Sống trong tủi nhục, hẳn chúng ta cũng muốn lấy ác báo ác, lấy hận thù đối lại hận thù. Nhưng nếu điều này xảy ra, thì trật tự mới chúng ta muốn xây dựng chẳng qua cũng chỉ là bản sao của trật tự cũ. Với tất cả sức mạnh và lòng khiêm nhường, chúng ta phải lấy tình yêu đối lại hận thù.

Dĩ nhiên làm như vậy quả là không thực tế. Sống là chiến đấu, cạnh tranh, giành giật, ăn miếng trả miếng. Thế mà tôi lại nói với các bạn rằng Ðức Giêsu dạy chúng ta phải yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ đã ngược đãi các bạn. Cũng như đa số các nhà giảng thuyết, phải chăng tôi cũng chỉ là một người quá lý tưởng để quên mất thực tế? Các bạn có thể nghĩ rằng, trong một thế giới mộng tưởng nào đó, thì điều tôi nói còn có thể nghe được, còn trong thế giới lạnh lùng, nghiệt ngã như thế giới chúng ta, thì hẳn là không nghe được rồi.

Thưa các bạn, trong quá khứ, chúng ta đã đánh mất quá nhiều thời gian khi đi theo một đường lối tạm gọi là thực tế, và nó đã dẫn chúng ta đến xáo trộn sâu xa và hỗn loạn. Nhiều cộng đồng đã lún sâu vào hận thù và bạo lực. Vì lợi ích của quốc gia chúng ta, vì lợi ích của toàn thể nhân loại, chúng ta phải từ bỏ đường lối này. Làm như vậy không có nghĩa là chúng ta không còn cố gắng đấu tranh cho công lý. Còn chút sức lực nào, chúng ta sẽ dùng nó để giải thoát quốc gia này khỏi cơn ác mộng của nạn kỳ thị chủng tộc. Nhưng trong quá trình đấu tranh, chúng ta không bao giờ từ bỏ bổn phận phải yêu kẻ thù. Dấn thân chống lại nạn kỳ thị chủng tộc, chúng ta hết lòng yêu thương những kẻ kỳ thị chủng tộc. Không có cách nào khác để chúng ta tạo nên một cộng đồng trong đó mọi người yêu thương nhau. Với những người thù ghét chúng ta nhất, chúng ta nói: “Quý vị làm chúng tôi đau khổ; để chống lại, chúng tôi chịu đựng đau khổ. Quý vị dùng bạo lực; để chống lại, chúng tôi dùng sức mạnh tinh thần. Ðối với chúng tôi, quý vị muốn làm gì tùy ý; chúng tôi vẫn hết lòng yêu thương quý vị. Theo lương tâm, chúng tôi không thể tuân theo những luật lệ quý vị áp đặt, vì không cộng tác làm điều ác cũng quan trọng như cộng tác làm điều lành. Quý vị tống chúng tôi vào ngục, chúng tôi vẫn yêu thương quý vị. Quý vị sai các tên khủng bố gieo rắc khiếp sợ trong các cộng đồng chúng tôi vào ban đêm, chúng tôi vẫn yêu thương quý vị. Xin quý vị biết cho rằng khả năng chịu đựng đau khổ của chúng tôi sẽ làm quý vị nản lòng, kiệt sức. Một ngày kia chúng tôi sẽ giành được tự do, nhưng không chỉ cho chúng tôi mà thôi. Chúng tôi sẽ gửi đến quý vị một lời kêu gọi đủ sức thức tỉnh lương tâm, lay chuyển con tim và biến đổi quý vị thành những người anh em trong khi chúng ta cùng nhau tiến bước trên đường đời. Như vậy, chúng tôi đã chiến thắng hai lần rồi vậy”.

Tình yêu là sức mạnh tồn tại lâu dài nhất ở thế gian này. Như được minh chứng một cách rõ ràng nơi đời sống Ðức Giêsu, tình yêu sáng tạo là công cụ hữu hiệu nhất mà nhân loại có thể sử dụng trong công cuộc tìm kiếm hòa bình và an toàn. Napoléon Bonaparte là một thiên tài quân sự vĩ đại. Người ta kể lại rằng, sau nhiều năm chinh chiến, ông đã nhận định như sau: “Alexandre, César, Charlemagne và tôi đã lập được những đế quốc rộng lớn. Nhưng nhờ vào gì? Nhờ sức mạnh. Thế mà, nhiều thế kỷ trước đây, Ðức Giêsu đã lập một đế quốc đặt nền tảng trên tình yêu và, cho đến ngày nay, hàng triệu người vẫn sẵn sàng chịu chết vì Người”. Ai có thể nghi ngờ tính xác thực của lời nhận định này? Các thiên tài quân sự đã biến mất; các đế quốc rộng lớn đã sụp đổ. Còn đế quốc mà Ðức Giêsu đã lập và đặt nền tảng vững chắc trên tình yêu thì vẫn tồn tại và không ngừng phát triển rộng lớn. Ðức Giêsu đã bắt đầu với một nhóm người dấn thân, thấm nhuần tinh thần của Người. Nhờ vậy, họ đã mở toang cánh cửa đế quốc Rôma, và rao giảng Tin Mừng khắp mọi nơi. Ngày nay, đế quốc trần thế của Ðức Kitô gồm hơn chín trăm triệu người, sinh sống khắp trên mặt đất. Ngày nay, chúng ta lại nghe nhắc lại lời hứa về một cuộc chiến thắng:

Ðức Giêsu ngự trị khắp nơi
bao lâu mặt trời chiếu soi ban ngày;
Triều đại Người lan rộng khắp nơi
bao lâu mặt trăng chiếu soi ban đêm
.”

Và một đoàn hợp xướng khác hân hoan đáp lại:
Nơi Ðức Kitô chẳng có Ðông và chẳng có Tây,
chẳng có Nam và chẳng có Bắc.
Nơi Ðức Kitô tình yêu huynh đệ
liên kết mọi người trên toàn cõi đất
.”

Ðức Giêsu luôn có lý. Lịch sử để lại biết bao cánh đồng đầy ắp xương khô tại những quốc gia đã từ chối nghe lời Người. Thế kỷ XX này, ước gì chúng ta biết nghe lời Người và đem ra thực hành, trước khi quá trễ! Ước gì chúng ta ý thức được rằng chúng ta sẽ không bao giờ là con cái đích thực của Cha chúng ta ở trên trời, trừ khi chúng ta yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi chúng ta.

Martin Luther King: “Aimer les ennemis” trong “La Force d’aimer”, Ed. Casterman, Paris 1965, trg.63-74. Tóm tắt

Những cụ già VN không ai nuôi dưỡng thì kiếm sống như thế này đây

Những cụ già VN không ai nuôi dưỡng thì kiếm sống như thế này đây . Thật kính phục thay lòng tự trọng của các cụ vì nếu các cụ chỉ ra ngồi bên chợ , vỉa hè thì chỉ trong chốc lát , tiền bố thí sẽ gấp nhiều lần tiền các cụ kiếm được trong một ngày .

80 tuổi còm cõi, gồng mình gánh hàng rong đi bán đã khiến tôi rơi nước mắt.

Các bà tuổi đã cao, lưng đã còng, tóc đã bạc nhưng đôi chân vẫn sớm hôm đều bước giữa dòng đời…

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Gánh những bó rau từ lúc trời tờ mờ sáng

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Bán hàng tới lúc 1h đêm

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Đôi chân trần mải miết bước đi

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Gánh nặng trên vai những thứ quà lặt vặt

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Là 2 chiếc làn nhựa chỉ chứa được mấy đôi giày

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Dù cả ngày chỉ kiếm thêm được vài ba đồng vẫn còn hơn không có

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Dù những món hàng đem bán chỉ là mớ rau muống, bó dọc khoai.

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Số tiền lãi chỉ được tính bằng 1-2 nghìn lẻ.

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Các cụ vẫn rất yêu đời, vẫn cười tươi…

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

….Tuổi già đè nặng trên vai nhưng không có ai chia sẻ nên dù tuổi cao, dù lưng mỏi, các cụ vẫn phải lặn lội sớm khuya để kiếm thêm miếng cơm ăn, kiếm manh áo mặc…

 Xót lòng trước cảnh cụ bà còng lưng đi nhặt rác

Hình ảnh cụ bà nhặt rác

nguồn: Từ Đặng Thịnh gởi

Những cây cầu độc đáo trên khắp thế giới

Những cây cầu độc đáo trên khắp thế giới
  
  1. Henderson Wave 
 
 
 
 
Như một con trăn đang bò giữa không trung, Henderson Wave là cầu dành cho người đi bộ cao nhất ở Singapore . Đặc biệt, vào buổi tối, nơi đây quả là lý tưởng để thỏa sức ngắm cảnh của 2 khu vườn nổi tiếng, Mount Faber Garden và Telok Blangah Mount Garden.
 
2. Aiola Island
 
 
Cây cầu có hình dáng kỳ lạ này bắc qua sông Moore ở Australia và ngay lập tức trở thành điểm thu hút sự chú ý. Được xây dựng từ năm 2003 do họa sĩ người Mỹ Vito Acconnci phác họa, cây cầu ghi điểm trong mắt khách du lịch ở chỗ nó có khu tắm nắng, quán bar thời trang và nhà uống cafe ngay chính giữa cầu.
 
3. Langkawi Sky
 
 
Được hoàn thành năm 2004 ở Malaysia, cây cầu Langkawi Sky ngoằn nghèo như chú rắn uốn mình qua núi. Nó cao tới 700m so với mực nước biển và dải trên ngọn núi cao 125m.
 
4. Magdeburg Water
 
 
 
 
Một con sông ở giữa cầu, đó chỉ có thể là cây cầu Magdeburg Water cao 918m ở Đức mà thôi. Thiết kế độc đáo của Magdeburg Water cho phép tàu du lịch chở khách để ngao du ngắm cảnh.
 
5. Rolling Bridge
 
 
Một chú sâu cuộn tròn mình lại – bạn có thể hình dung hành động này để hiểu cơ chế hoạt động đặc biệt của cây cầu Rolling Bridge ở London , Anh.
 
6. Cầu phun nước Banpo tại Hàn Quốc
 
 
Lung linh và huyền ảo! Ai cũng phải thốt lên như vậy khi ngắm nhìn cây cầu này bắc qua sông Hàn, thủ đô Seoul , Hàn Quốc vào buổi tối. Nơi đây thường diễn ra những màn biểu diễn nước và ánh sáng trong những sự kiện lớn của xứ sở Kim chi.
 
7. Cầu Tianjin Eye
 
 
Cây cầu này nằm ở sông Haihe, Trung Quốc, nó có thể đưa người qua đường lên không trung qua bánh quay Ferris. Nhiều người cho rằng trên thế giới, đây là lần đầu tiên xuất hiện chiếc cầu có kiến trúc lạ như thế. Cây cầu được bắt đầu xây dựng từ năm 2007 và đi vào sử dụng ngày 7/4/2008. Các bánh quay được trang bị thiết bị điện, nên cây cầu có công suất chở được 768 người/giờ.
 
8. Python Bridge
 
 
Cây cầu Python hiện đại nằm trên cảng phía Tây của thành phố Amsterdam . Thật dễ để nhận thấy cây cầu này có hình dáng giống như một con mãng xà, và đó cũng là lý giải cho cái tên đặc biệt của nó. Được thiết kế do công ty West 8 và xây dựng năm 2001, cầu Python nối bán đảo Sporenburg với hòn đảo Borneo .
 
9. Cầu đi bộ ở La Roche-sur-Yon
 
 
Chiếc cầu hình trụ có màu sắc rực rỡ dành cho người đi bộ này nằm ở La Choche-sue-Yon, Pháp, và được xây dựng từ sự hợp tác giữa hai đội kiến trúc và kỹ sư ở New York và Paris, đứng đầu là Bernard Tschumi và Hugh Dutton. Cầu có cấu trúc hình trụ nhằm đảm bảo khả năng chống đỡ, khi được xây dựng gần các khu resort ở vùng biển phía Tây nước Pháp và có nhiều người qua lại. Có thể nói, chiếc cầu là liên kết giữa thành phố lịch sử “the Pentagon” (do Napoléon xây dựng) và các vùng lân cận, giúp cho người dân tiện qua lại đường quốc lộ và dễ dàng di chuyển từ thành phố vào thị trấn.
 
10. Cầu Kintaikyo, Iwakuni, Nhật Bản
 
Đây là chiếc cầu đời thứ 3 bắc qua sông Nishiki, Nhật Bản sau khi trải qua nhiều trận bão lớn và lũ lụt khủng khiếp. Trước kia, cây cầu gốc được xây dựng từ năm 1673 rồi bị hư hại nặng do lũ lụt. Sau đó, nó được xây dựng lại và tồn tại hơn 200 năm, cho đến khi một cơn bão ập xuống đánh sập hoàn toàn vào năm 1950. Điểm đặc biệt của cây cầu này nằm ở chỗ nó có 5 vòm gỗ với những chi tiết đáng kinh ngạc về nghệ thuật đóng tàu thủ công của người dân Nhật Bản, chỉ sử dụng kẹp và dây điện để xây dựng.
 
nguồn: Bryan Đỗ gởi

BẤT AN

BẤT AN                                             

                                                                             Huỳnh Ngọc Chênh

Trước 75, ngay khi sống trong thời chiến, tôi vẫn luôn cảm thấy an lành. Những năm chiến tranh ác liệt ấy, gia đình tôi tách ra làm hai. Ba tôi xuống thành phố, còn mẹ tôi vẫn ở lại quê bám trụ. Tôi đi đi về về cả hai nơi. Đêm ngủ ở quê, thường xuyên nghe tiếng đại bác nổ ven rìa làng do lính Mỹ bắn cầm canh từ phi trường Đà Nẵng. Thỉnh thoảng cũng có vài quả đại bác bay lạc vào nhà dân gây ra cảnh tang thương chết chóc thế nhưng không hiểu vì sao tôi vẫn không cảm thấy bất an. Đêm ngủ ở Đà Nẵng thỉnh thoảng lại nghe hú còi báo động có pháo kích của Việt Cộng bắn về thành phố, nhiều người phải chạy vào nấp dưới hầm, riêng tôi vẫn nằm tỉnh queo trên giường, không chút lo sợ.
Bây giờ sống trong hòa bình, mà hòa bình đã gần 40 năm rồi sao trong lòng cứ thắc thỏm bất an. Do tuổi già ư? Không phải như vậy.
 
Làm sao mà yên ổn được khi bước ra đường phải lo sợ trước bao nhiêu điều hiểm nguy đang rình rập. kẹt xe, khói bụi ô nhiễm, tai nạn giao thông, đinh tặc, cướp giật, va quẹt xe đưa đến bị hành hung, cây đổ, dây điện đứt, sụp hố cống…. Một ngày ở thành phố lớn như Sài Gòn, xảy ra không biết bao nhiêu vụ tai nạn giao thông, bao nhiêu vụ cướp giật, hành hung, đâm chém…thấy tận mắt hoặc đọc báo, nghe đài mà oải cả người.
Hầu như mọi thứ thức ăn đều có nguy cơ chứa chất độc hại do dư lượng thuốc trừ sâu, dư lượng kháng sinh, do chất kích thích hoặc do làm ra gian dối. Không thể nào yên tâm với thức ăn ở các hàng quán. Cà phê hóa chất, phở ngâm formol, dầu ăn từ cống rãnh, chế biến thức ăn bên cạnh nhà vệ sinh… Thực phẩm mua ở chợ về tự chế biến cũng hoàn toàn không yên tâm. Rau, giá, trái cây đầy rẫy chất kích thích cực độc (nhất là trái cây Trung cộng), cá thì bị ướp hàn the, thịt thì không kiểm định hoặc thịt bị dùng chất tăng trưởng độc hại. Bất an với món ăn ở hàng quán nhưng cũng không thể nào an tâm với bửa ăn tự nấu nướng ở nhà.
Tình trạng ô nhiểm thì kinh hồn. Đường xá thì khí thải và bụi bẩn bay mù mịt, cống rãnh và kênh rạch thì đen ngòm vì chất thải bẩn. Rồi ô nhiểm âm thanh mới kinh hồn.
Trong công việc mưu sinh, bất an khắp mọi nơi. Vật giá liên tục leo thang, quá nhiều công ty nợ nần phá sản, chiếm dụng vốn và lừa đảo khắp mọi nơi. Khuyến mãi lừa đảo, bán hàng đa cấp lừa đảo, thế chấp vay lừa đảo…Sụ bất an do suy thoái kinh tế làm người có vốn không dám bỏ tiền ra đâu tư, người làm công cứ thắc thỏm lo mất việc từng ngày.
Khi bị ngã bệnh, phải đến bệnh viện thì người dân hoàn toàn không yên tâm. Chỗ nằm thiếu, phương tiện y tế lạc hậu, tay nghề cũng như lương tâm thấp kém của y bác sĩ có thể làm cho bệnh nhân không những không được cứu chữa thích đáng mà còn gây ra tử vong vô lý nữa. Biết bao nhiêu cái chết oan khiên được nêu ra và không được nêu ra do sự tắc trách của bệnh viện.
Hành chính thì nhũng nhiễu, thường gây ra sự phiền hà cho dân để công chức ăn hối lộ thay vì tận tụy phục vụ dân. Có việc đến cơ quan công quyền như thuế vụ, hải quan, nhà đất, ủy ban các cấp, công an…người dân phải khúm núm quỵ lụy và lo lót thì sự việc mới trơn tru. Có lỗi bị tạm giữ trong đồn công an, người bị tạm giữ hoàn toàn không yên tâm. Chuyện bị chết trong đồn công an đã trở nên quá phổ biến.
Chuyện an ninh quốc phòng thì được nghe nói đã có đảng và nhà nước lo nhưng người dân hoàn toàn thấy bất an. Ngư dân ra khơi là bị Trung cộng đuổi bắt hoặc đâm chìm tàu. Tàu chiến, tàu hải giám, tàu cá của Trung Cộng hầu như đã chiếm lĩnh toàn bộ biển Đông. Trong đất liền thì chỗ nào, lãnh vực nào cũng có mặt người Tàu.
Cơ quan chức năng và ban bệ rất nhiều, người dân phải è lưng ra đóng thuế để nuôi một bộ máy nhà nước vô cùng cồng kềnh, nhưng bộ máy ấy hoàn toàn không làm cho người dân an tâm.Bất ngờ đau ốm không dễ dàng có xe cấp cứu đến, bị cướp bóc trấn lột không dễ gì gọi được công an. Thức ăn nhiểm bẩn hầu như không có cơ quan nào quan tâm….Người dân cảm thấy bị bơ vơ đơn độc giữa cuộc đời.
Một nhà nước yếu kém, bất lực và vô trách nhiệm  như vậy mà sao vẫn tồn tại lâu vậy nhỉ? Đây có lẽ là nỗi bất an lớn nhất mà người dân phải mang nặng trong lòng.

Chuyện khôn, dại

Chuyện khôn, dại

 lúc 12:09 Sáng 16/08/12

VRNs (16.08.2012) – Sài Gòn – Ngay trong cuộc sống đời thường cũng luôn có nhiều “chuyện lạ”, nhưng mỗi chuyện đều có những mức độ “lạ” khác nhau, thậm chí là khác hẳn. Tốt cũng “lạ”, xấu cũng “lạ”. Vì vậy mà cần phải tỉnh táo, biết phân biệt cái gì đúng hoặc cái gì sai. Đó là người thông minh và khôn ngoan. Chúa Giêsu dạy cách xử sự: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16).

Sự khôn ngoan rất quan trọng trong mọi trường hợp. Kinh thánh cho biết: Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột, hạ thú vật, pha chế rượu, dọn bàn ăn và sai các nữ tỳ ra đi. Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố và kêu gọi: “Hỡi người ngây thơ, hãy lại đây!” (Cn 9:4). Với người ngu si, Đức Khôn Ngoan bảo: “Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết” (Cn 9:5-6).

Đường lối Chúa luôn cao siêu và kỳ diệu, vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải thầm nhủ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Ngài chẳng ngớt trên môi” [Tv 33 (34):2], đồng thời còn nói cho người khác biết: “Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Ngài” [Tv 33 (34):3-4], rồi giải thích lý do: “Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Ngài đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng” [Tv 33 (34):5]. Tình yêu của Thiên Chúa bao la, lòng thương xót của Ngài vô biên, chắc chắn rằng “ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi” [Tv 33 (34):6]. Sự thường thì “vô tri, bất mộ”. Nhưng một khi đã “nếm thử” sự ngọt ngào của Ngài rồi, người ta sẽ khiêm nhường khi làm chứng về Ngài: “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” [Tv 33 (34):7].

Thánh vịnh 33 (34) muốn nhắc nhở chúng ta một điều: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” [Tv 33 (34):9]. Nghiệm ra Chúa rồi thì người ta sẽ thêm khôn ngoan, biết sống theo lời khuyên tốt lành: “Phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa; hãy làm lành, lánh dữ;, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” [Tv 33 (34):14-15].

Tục ngữ Việt Nam khuyên: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Đó là phép lịch sự cơ bản nhưng lại thể hiện sự ý tứ, tinh tế và khôn khéo. Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối” (Ep 5:15-16). Thánh nhân “vuốt mặt” mà không cần “nể mũi”, cứ nói thẳng nói thật: “Anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là Ý Chúa. Chớ say sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới truỵ lạc, nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí” (Ep 5:17-18). Đó mới là cách sống khôn ngoan, mà người nào có “sống khôn” thì mới có thể “chết thiêng”. Hệ lụy lô-gích!

Ngày xưa, những người có “máu nhạc” bị coi là “xướng ca vô loài”, nghĩa là “không giống ai” theo dạng “kỳ quặc”, kiểu như “con giáp thứ 13” không hề có trong số các con giáp. Thế nhưng Thánh Phaolô lại khuyên: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5:19). Đặc biệt hơn, thánh nhân nhấn mạnh: “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha” (Ep 5:20). Tạ ơn khi vui mừng và may mắn thì đó là điều dễ dàng, không có gì đáng nói; nhưng tạ ơn khi buồn rầu và kém may mắn thì đó mới là điều đáng nói. Khó lắm! Nhưng Thánh Gióp đã làm được điều đó, dù đời ông là bản “trường ca đau khổ”. Chúng ta phải nỗ lực noi gương Thánh Gióp vậy!

Nếu lần đầu nghe Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51). Liệu chúng ta có thể tin “chuyện động trời” như vậy? Chắc là không! Người Do-thái khi nghe Chúa Giêsu nói vậy, họ liền tranh luận sôi nổi với nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6:52). Ăn thịt sống của động vật đã là “điều lạ”, huống chi là “ăn thịt và uống máu người”. Phải nói là kinh dị! Chắc là Chúa Giêsu cười thầm trong bụng. Biết họ không thể tin vì “chói tai”, nhưng Ngài vẫn xác quyết: “Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” (Ga 6:53-55). Chắc là lúc đó ai cũng trố mắt ngạc nhiên, nhưng vẫn há hốc mồm miệng và vểnh tai nghe “điều lạ”. Chúa Giêsu nói tiếp: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6:56-57).

Chúa Giêsu là nhà hùng biện vĩ đại. Họ im lặng tức là có cảm giác “khác” rồi. Đúng là “lời nói lung lay, gương lành lôi kéo”. Ngài tiếp tục tái xác định: “Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:58).

Có lý lắm. Chắc hẳn lúc đó có nhiều người đang “mềm” lòng như sáp nến gặp lửa nóng vậy. Trong số những người khôn thì chắc cũng không thiếu những người dại. Họ dại vì họ cố chấp, biết đúng mà cứ muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình; họ dại vì quá tự ái, cái “tôi” lớn hơn cái “chúng ta”; họ dại vì không muốn tin vào quyền năng của “chàng trai trẻ” Giêsu.

Và chúng ta ngày nay cũng thế thôi, có người khôn và cũng có người dại!

Lạy Chúa, xin giúp chúng con được đức khôn ngoan và đức khiêm nhường để sống tốt lành ngay trên trần gian này, để chúng con được mãi mãi “ở lại trong tình thương của Chúa” (Ga 15:9). Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Đàn ông Việt ‘thăng tiến trên bàn nhậu’?

Đàn ông Việt ‘thăng tiến trên bàn nhậu’?

 

                                                                                                     Hà Mi

                                                                                                                           BBCVietnamese.com

Thứ tư, 15 tháng 8, 2012

 Uống bia 

Nhậu sau giờ làm đã trở thành thói quen không thể thiếu của nhiều người tại Việt Nam

Cảnh các quán bia rượu, nhà hàng luôn đông đúc, đặc biệt sau giờ tan tầm ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành quá quen thuộc với người dân tại Việt Nam.

Tình trạng ăn nhậu đã trở nên rất phổ biến này ban đầu chỉ là một phần của văn hóa ẩm thực, giải trí, thậm chí trở thành thói quen không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày nhưng đang có tác động xã hội sâu rộng.

Việc các ông chồng đi nhậu sau giờ làm đã trở thành điều rất nhiều bà vợ chấp nhận và coi đấy là bình thường. Thậm chí hình ảnh cả gia đình quây quần bên bữa ăn tối mỗi ngày giờ đây trở thành ước mơ của nhiều bà vợ.

Tác động xã hội

Chi phí cho bia rượu, được VnExpress trích thuật từ khảo sát của Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, lên tới 1,3 tỷ lít bia và hơn 300 triệu lít rượu mỗi năm, tức là chi tiêu hàng năm lên tới cả nghìn tỷ đồng cho bia rượu.

Đó là chưa kể tới những phí tổn cho bệnh tật từ rượu hay tai nạn giao thông do lái xe sau khi uống rượu.

Lý do cho các cuộc ăn nhậu rất đa dạng, vì công việc làm ăn, tiếp đối tác, ăn mừng sinh nhật, khao lương, đón người mới hay tiễn người cũ.

Ông Hùng, một trí thức, hiện làm giám đốc một công ty sửa chữa tàu biển tại thành phố Hồ Chí Minh, cho BBC hay mỗi lần đi ăn nhậu tiếp khách đối với ông là “cực hình” nhưng “vẫn phải đi vì nó là thủ tục nghiễm nhiên, chứ có quí báu gì đâu, uống vào có khi về đến nhà lại cho ra hết!”.

Chị Thi, vợ một giám đốc công ty cung cấp thiết bị truyền thông, trực thuộc công ty VTC tại Hà Nội cho biết chị và hai con thậm chí rất ngạc nhiên nếu có chiều nào đó thấy chồng về nhà ăn cơm với vợ con mà không đi ăn nhậu.

Điều làm phụ nữ này lo lắng là việc chồng thường lái xe sau mỗi lần đi nhậu sau giờ làm bất kể uống ít uống nhiều.

Một nghệ sĩ ưu tú khá nổi tiếng trong ngành điện ảnh không muốn nêu tên cho biết ông sẽ không bao giờ ra sống ở nước ngoài vì “ở nước ngoài làm gì chuyện hô một tiếng là chỉ chưa đầy một tiếng đồng hồ đã có thể tụ tập cả đám ăn nhậu như thế này!”

Với ông, những buổi ăn nhậu là để xả stress sau một ngày làm việc căng thẳng.

Thị trường mở rộng

Theo một khảo sát nhanh với 5 ngàn phiếu trả lời do tờ báo mạng VnExpress thực hiện và công bố hôm 15/8 thì “số người ra quán để ‘giải quyết công việc’ chỉ chiếm 16%, trong khi gần 40% số người được hỏi nhậu theo kiểu ngẫu hứng, nghĩa là thích thì ra quán, không có mục đích gì cả”.

Tờ báo này cũng viết “Ngoài ra, cứ 10 người thì có gần một người thừa nhận ra quán chỉ để trốn việc nhà”.

Trong khi một khảo sát nhanh khác cũng của VnExpress với hơn 6 ngàn phiếu cho thấy hơn 50% nam giới đi nhậu sau khi tan sở, trong đó 13% ngày nào đi nhậu và 14% trả lời không bao giờ đi nhậu sau giờ làm.

 Uống bia

Tỉ lệ sử dụng rượu bia cao nhất ở nam giới và dân công sở

Một cuộc điều tra trên diện rộng của Viện Chiến lược và Chính sách y tế về tình hình lạm dụng rượu bia tại Việt Nam hồi năm 2006 cho thấy tỷ lệ sử dụng rượu bia cao nhất là ở nam giới và nhóm cán bộ nhà nước, tiếp đến là công nhân trong các doanh nghiệp, người hưu trí và nông dân.

Điều đáng chú ý những người có trình độ học vấn cao có tỷ lệ sử dụng rượu bia cao nhất, tới 63%.

Vẫn theo nghiên cứu này thì mức độ tiêu thụ rượu bia gia tăng trong cả nước là kết quả của nhiều yếu tố, mà chủ yếu là do mức sống tăng, tập quán truyền thống và thêm vào đó là thị trường rượu bia mở rộng.

Hiệp hội sản xuất rượu whisky của Scotland (SWA) cho biết xuất khẩu sang Việt Nam đạt gần một triệu bảng mỗi năm, và Việt Nam được coi là một thị trường mới nổi được ưu tiên cao đối với ngành công nghiệp rượu Whisky.

Tại Việt Nam luôn có tình trạng chuốc rượu hay khích nhau uống để chứng tỏ nam tính với những tiếng hô “trăm phần trăm” và “zô zô” ồn ào để rồi nhiều người gục bên bàn nhậu vì say xỉn.

Có một số phụ nữ cho biết buộc phải tham gia các cuộc nhậu vì làm doanh nghiệp nên không thể không có mặt khi tiếp đối tác làm ăn, hay vì muốn đi theo để “kèm chồng cho chồng đỡ say xỉn” hoặc buộc phải đi theo chồng hay người yêu những khi không thể từ chối.

‘Thăng tiến trên bàn nhậu’?

Nhiều người nước ngoài khi tới Việt Nam làm việc đã không khỏi ngạc nhiên khi được mời uống bia rượu vào bữa trưa – tức vẫn trong giờ làm việc.

Ở Anh chẳng hạn, dân công sở cũng thường có thói quen chiều thứ Sáu tan làm rủ nhau ra quán uống một hai ly bia chừng 1-2 tiếng đồng hồ để thư giãn và họ tin rằng nó tạo cơ hội có quan hệ tốt hơn với đồng nghiệp.

Hiệu vẫn còn những ý kiến khác nhau về “văn hóa nhậu” tại Việt Nam.

Một số cho rằng nếu chỉ uống 1,2 ly để tiếp khách hay giải stress thì có thể chấp nhận được, rồi “nam vô tửu như kỳ vô phong” – đàn ông mà không uống rượu thì không thể hiện nam tính, và chỉ khi uống theo kiểu thách đố đến say xỉn mới thôi thì như thế mới có thể coi là một tệ nạn.

Trong khi một số khác thì lập luận rằng nếu ai cũng biết kiềm chế khi uống và biết dừng khi nên dừng thì đã không có chuyện phải bàn về “văn hóa nhậu”.

Phải chăng lề thói văn hóa của Việt Nam từ xưa theo kiểu “miếng trầu làm đầu câu chuyện” đã dẫn tới “chuyện làm ăn là phải nói trên bàn nhậu, thăng quan tiến chức, lương bổng …cũng trên bàn nhậu” như hiện nay?

Và để thay đổi được “văn hóa nhậu” này có lẽ sẽ là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi có những thay đổi căn bản cách nhìn nhận trong xã hội về giá trị hạnh phúc gia đình, quan điểm về vai trò của người vợ và người chồng ở nhà và trong xã hội, và có thể cần tới cả những quy định hạn chế chi phí cho việc tiếp đãi khách của các công ty.