DẤU CHÂN TRONG SA MẠC

DẤU CHÂN TRONG SA MẠC

 

Tác giả: M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng manh như trở bàn tay. Không ai là người có thể nắm giữ mạng sống. Cho dù giàu có, quyền cao chức trọng đến đâu, người ta cũng không thể nào thủ đắc được cuộc sống mình. Thế nhưng, thực tế trong cuộc sống, mọi người đều ra sức bảo tồn cuộc sống. Người khôn thì biết chọn lựa con đường khiến cho sự sống của mình được trường tồn hơn, kẻ dại thì tự hủy diệt chính mình.

Có nhiều cách khiến cho con người tự làm hại mình. Tựu trung cũng chỉ là lối sống ích kỉ,
hưởng thụ. Người chỉ biết ăn uống cho thỏa thuê khát vọng nhục dục, thì tự dẫn mình đến sự hủy hoại thân xác, làm mồi ngon cho những căn bệnh tai hại xâm nhập. Đó là cái chết về thân xác. Chưa kể đến cái chết tâm hồn. Những cái chết của lòng tham lam, ích kỉ, ghen tuông và thù hận, đã khiến cho con người sát hại, chiếm giết lẫn nhau.

Vậy thì, đâu là con đường duy nhất để có được sự sống đời đời? Thưa đó chính là con đường khổ giá. Đức Kytô, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ, mới đến được vinh quang. Vậy thì chúng ta, là những đồ đệ của Ngài, chúng ta cũng không thể đi con đường nào khác ngoài con đường thập tự. Đó là con đường của tự hủy, yêu mến và hy sinh. Chỉ những ai quên bản thân, quên chính mình mới có thể bước đi trên con đường ấy được.

Đường thập giá là gì? Đó chính là con đường từ bỏ. Từ bỏ bản thân và vác khổ giá của chính mình chứ không phải của người khác. Đức Giêsu đã khẳng định như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mc 8,34)

Thập tự ở đâu? Thập giá là ở chỗ nào? Phải chăng hệ tại  chính bản thân? Bởi nó trái ngược với ý muốn, sở thích, tham vọng của tôi, cho nên nó trở thành thập giá. Thập giá bản thân thì nặng hơn thánh giá của tha nhân. Đức Giêsu, đã gánh trên vai mình cả thập giá và thánh giá nhân loại. Mọi lỗi lầm của con người, Ngài đã đón nhận vào hết thân thể để đưa lên cây thập tự làm của lễ hòa giải nhân loại với Thiên Chúa. Cho nên, bổn phận của chúng ta là
phải bước đi theo Ngài, vác lấy thập giá bản thân và gánh đỡ thánh giá tha nhân, để tất cả đều được cứu độ. Chỉ khi nào, thế giới biết chung vai gánh đỡ thánh giá của nhau, lúc ấy mới hy vọng có thái bình, thịnh vượng.

Nói vậy, Đức Kytô là ai? Ngài là ai để phải gánh lấy thập tự nhân loại. Ngài đã làm gì nên tội để phải gánh vác lỗi lầm thế gian?

Thưa, Ngài chính là Đấng của yêu thương. Ngài chính là đường của sự sống. Chỉ có một con đường duy nhất mang lại sự sống vĩnh cửu đó là con đường Kytô. Là con đường yêu thương và tận diệt. Là con đường khổ giá và vinh quang. Tất cả chúng ta, ai cũng có thể bước đi trên con đường ấy và đạt được hạnh phúc bất diệt, không còn đau khổ và phải chết, chỉ cần chúng ta biết từ bỏ… không còn biết mình là ai….!

Lạy Chúa, nhu cầu tự tôn bản thân thiết yếu như nhu cầu ăn mặc, bởi không ai có thể ghét chính bản thân mình. Con người sinh ra, đã được phú bẩm bản năng bảo tồn sự sống. Vậy mà Ngài lại dạy chúng con muốn theo Ngài, muốn sống vĩnh cửu thì phải từ bỏ chính mình. Bỏ Ngài, chúng con còn biết theo ai? Bởi chỉ mình Thiên Chúa là cội nguồn sự sống, là chốn phải tựa nương. Bỏ Ngài, chúng con biết chọn con đường nào để được hạnh phúc chứ? Xin giúp con, đã nhất quyết thì một lòng, kiên trung bước đi đến cùng. Dẫu thế gian là nước mắt, trái ngang và khổ đau…như một hoang mạc hoang vu, thì hệ tại ngay chính
nơi ấy đã có bước chân Ngài in dấu. Con không tự quyền chọn lựa nơi để sinh ra, nhưng con có tự do để chọn lựa chốn phải đi về. Xin cho con, chỉ cần can đảm, vững vàng đặt lên dấu chân Ngài, là có thể bước đến chân trời hạnh phúc.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Nguồn:Maria Thanh Mai gởi

 

Chuyện ngược đời

Chuyện ngược đời

(Lễ Suy tôn Thánh Giá, năm B)

 

Tác giả: Trầm Thiên Thu

 

 

 

Thánh Phaolô có một ước muốn làm “nổi da gà” và “rợn tóc gáy”, hoàn toàn không giống ai: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6:14). Hãnh diện về thập giá? Hãnh diện vì gặp đau khổ? Hãnh diện vì bị nhục nhã? Thật là chuyện ngược đời!

Cố giám mục Lambert de la Motte (16/1/1624-15/1/1679), vị thừa sai người Pháp,
cũng đã có ý tưởng “không giống ai” nên mới sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc
hẳn ngài phải cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới dám có
“sở thích” kiểu đó!

Thập giá là biểu tượng của sự đau khổ hoặc bất hạnh, vì đó là hình phạt tồi tệ
và ghê gớm nhất thời đó, như ngày nay là án tử hình. Cuộc sống thường nhật cũng
chẳng ai “mê” đau khổ, mà cố tránh như tránh quái vật hoặc ma quỷ vậy. Thế mà
những người thực sự yêu mến Đức Kitô lại “khoái” đau khổ. Quá ngược đời! Với
người không có niềm tin vào Đức Kitô, thậm chí có thể ngay cả một số người nhận
mình là người Kitô giáo, không thể hiểu được ý nghĩa của thập giá. Họ cho đó là
dại dột, là ngu xuẩn, là điên rồ, là… “bó tay chấm com”.

Trách nhiệm và bổn phận là “gánh nặng” hằng ngày mà ai cũng có, mỗi người mỗi
kiểu và mỗi mức độ khác nhau. Thánh Phaolô tâm sự: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Rao giảng Tin Mừng là một trách nhiệm, kính mến Chúa và yêu thương tha nhân là bổn phận khác – nhưng vẫn song song. Chẳng có trách nhiệm và bổn phận nào dễ dàng, vì thế mà luôn phải cố gắng. Mệt lắm! Thánh Phaolô cho biết phải “tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” (1 Cr 9:17). Làm vì bị bắt buộc, vì miễn cưỡng, thì cũng tốt, nhưng tự nguyện bao giờ cũng tốt hơn. Cái khó đối với chúng ta là Thiên Chúa cho chúng ta hoàn toàn tự do hành động.

Vậy đâu là phần thưởng? Thánh nhân trả lời: “Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi
rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là
một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi
người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:18-19). Hoàn toàn tự
nguyện. Thánh nhân kể: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục
những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được
một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông
chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).

Cũng như “trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy,
nhưng chỉ có một người đoạt giải”, vì thế mà ai cũng phải cố gắng hết sức để
“chiếm cho được phần thưởng”. Không chỉ vậy, trước đó còn “phải kiêng kỵ đủ
điều”. Nghề nào cũng khó, ngành nào cũng mệt, muốn “chuyên nghiệp” về lĩnh vực
nào thì phải khổ luyện không ngừng. Người viết lách mà không viết thì bị “xuống
tay”, các văn nghệ sĩ không khổ luyện hằng ngày thì chẳng làm được trò trống
gì, các vận động viên không cố gắng khổ luyện thì đừng mong tranh tài,… Đơn
giản như học sinh đi học mà không chăm chỉ luyện tập thì không thể hoàn thiện
bản thân và không mong gì tươi sáng và đầy trách nhiệm như tục ngữ Việt Nam:
“Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.

Nhưng tất cả mọi hoạt động đó chỉ là để đoạt “phần thưởng chóng hư”. Còn chúng
ta, những người Kitô giáo, có một mục đích cao hơn, đó là “phần thưởng không
bao giờ hư nát”, là phúc trường sinh trên Thiên quốc. Không đạt được “phần
thưởng” Nước Trời là chúng ta phụ Tình Chúa, làm lãng phí giá Máu Cứu Độ của
Đức Kitô, là coi thường Lòng Chúa Thương Xót. Thánh Phaolô nói: “Vậy tôi đây
cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không
phải đấm vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau
khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1 Cr 9:26-27). Chúng ta
cũng phải quyết tâm vậy!

Chính Chúa Giêsu đã từng bảo chúng ta phải “từ bỏ mình” và “vác thập giá mình
hằng ngày” (Mt 10:37-38; Mc 8:34; Lc 14:26-27), phải “qua cửa hẹp” (Mt 7:13),
phải ăn chay, phải hãm mình,… Toàn những điều “làm khổ mình” thôi. Khó lắm!
Chúa không “chơi khăm” chúng ta mà chỉ muốn chúng ta “nên người”. Chứ Ngài “hô
biến” một cái là chúng ta vào Thiên đàng cả đám ngay, nhưng Chúa muốn chúng ta
tự thân cố gắng để có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa và giá trị của sự đau khổ,
đồng thời mới xứng đáng nhận phần thưởng. Có ăn lạt mới biết thương mèo. Có khổ
mới biết thương người khác.

Khổ luyện mình hằng ngày mới là thật lòng theo Chúa, chứ không thể ung dung tự
tại. Có chờ sung rụng thì cũng phải nhặt lấy, bỏ vô miệng, chứ chẳng bao giờ có
trái sung nào có thể rơi trúng ngay miệng mình – mà có trúng ngay miệng cũng
vẫn phải nhai, nuốt, và tiêu hóa. Việc đơn giản thế mà vẫn… mệt!

Có gian nan mới thành nhân, có đau khổ mới nên khôn, có thất bại mới biết cố
gắng vươn lên: “Thất bại là mẹ thành công” (Tục ngữ Việt Nam). Đức Phật được
người ta kính trọng vì ông đã cảm được nỗi đau khổ qua Tứ Diệu Đế. Các vĩ nhân
đều là những người đã từng nếm mùi gian khổ, các chính khách được thế giới tôn
vinh đều là những người đã kiên trì “nằm gai nếm mật”. Thật vậy, chẳng nếm mùi
gian khổ thì khó nên bậc siêu quần!

Nhưng phàm nhân chúng ta quá yếu đuối, ưa nhàn rỗi chứ không muốn “động chân,
động tay”. Kinh Phật nói: “Con người là nô lệ vì chưa hủy diệt được ý tưởng về
bản ngã trong nội tâm”. Đời là bể khổ. Có lúc chính chúng ta tự làm khổ mình.
Đời càng khổ thì chúng ta càng cần Chúa: “Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi mong
tới được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên
Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng” (Tv 84:3). Ngài là Chúa Tể càn khôn, là
Đức Vua, là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, “ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm,
cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con bên bàn thờ của Chúa” (Tv 84:4), thế chúng ta
lại không đáng hơn chim sẻ ư?

Phúc thay người ở trong thánh điện và luôn được hát mừng Ngài. Nhưng muốn vậy
thì phải khổ luyện, phải dám “ngược đời” như Chúa Giêsu. Nói dễ, làm khó. Ráng
mãi vẫn chưa được. Phàm nhân khốn nạn vậy đó. Hứa nhiều mà chẳng giữ bao nhiêu.
Trăm voi không được bát nước xáo! Do đó chúng ta phải không ngừng kêu van: “Lạy
Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin đoái nghe lời con cầu nguyện. Xin lắng tai, lạy
Chúa nhà Gia-cóp. Lạy Chúa là khiên mộc chở che, xin thương xem nhìn đến gương
mặt đấng Ngài đã xức dầu” (Tv 84:9-10). Nước Trời cực kỳ quý báu, không thể ví
với bất kỳ thứ gì. Thật vậy, “một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả
ngàn ngày” (Tv 84:11a). Người đời cũng nói: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại
ngoại” (một ngày ở tù dài đằng đẵng như ngàn năm), nói lên sự hạnh phúc của
cuộc sống tự do. Còn tác giả Thánh vịnh so sánh: “Thà con ở cổng đền Thiên Chúa
vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!” (Tv 84:11b).

Thiên Chúa là vầng thái dương, là thuẫn đỡ, là khiên che, và tặng ban ân huệ
với vinh quang. Thế nên “ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành”
(Tv 84:12). Đó không là “dụ dỗ” hoặc “mồi chài” mà chắc chắn như vậy: “Trước
khi trời đất qua đi, một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho
đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).

Vào một ngày đẹp trời, Đức Giêsu tỉ tê tâm sự với các môn đệ thế này: “Mù mà
lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?” (Lc 6:39). Rồi Ngài
nói thêm: “Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi”
(Lc 6:40).

Chúa Giêsu rất bình dân, Ngài thực tế mà có duyên, nghiêm chỉnh mà cũng có “máu” hài hước. Ngài đặt vấn đề: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người
anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?” (Lc 6:41-42a). Lúc vui thì vui hết mình, mà lúc làm việc thì đâu ra đó. Cười cười mà “chết người” chứ chẳng chơi. Đừng thấy Chúa “nói nhẹ” mà tưởng Ngài “cho qua phà” rồi cả gan “được đằng chân, lân đằng đầu”!

Chúa Giêsu nói thẳng: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6:41-42b). Lại chuyện đạo đức giả. Thế gian nhiều loại người này, dù mức độ khác nhau, nên Chúa Giêsu rất ghét loại người “miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm”.

Không sống giả nhân giả nghĩa, sống trong sạch và cương trực, đó cũng là “vác thập giá mình” mà theo bước Chúa Giêsu lên Can-vê. Lên đó không phải để ngắm trời, ngắm đất, hoặc hóng gió mát rồi ngâm thơ và ca hát, hoặc lên đó đốt lửa trại, mà lên đó để “chết”. Chết thật chứ không chết giả!

Nhưng rồi mọi đau khổ sẽ biến thành vinh quang, và người chết sẽ sống lại để được trường sinh. Trên cả tuyệt vời!

Lạy Chúa, xin giúp chúng con đủ can đảm mà sống “ngược đời” như Con Chúa đã tiên phong nêu gương, biết yêu mến Thánh Giá mà dám chết cho tội mình và chết vì chân lý. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

Thầy thuốc của Lòng Chúa Thương Xót

Thầy thuốc của Lòng Chúa Thương Xót

Một bác sĩ trẻ tài năng nhưng khiêm nhường, sống rất nhân bản, sống yêu thương và phục vụ tha nhân theo tinh thần của Đức Kitô. Anh đúng là một nhà truyền giáo dù không được Giáo hội chính thức sai đi, là một tâm hồn vĩ đại, và là một thầy thuốc của lòng thương xót. Đó là một ơn gọi.

Xin trân trọng giới thiệu “tấm gương  sáng” của bác sĩ trẻ Công giáo này để cùng học hỏi…

 

BS Thomas Heyne được nhận Giải thưởng uy tín năm 2012 là Giải Ho Din
của ĐH Y dược Tây nam Texas.

Đức tin Công giáo của anh ảnh hưởng gia đình, và nhiệm vụ tới các nước thuộc Thế giới thứ ba đã khiến anh muốn phục vụ “những người nghèo nhất trong những người nghèo” theo tinh thần của Chân phước Mẹ Teresa Calcutta. BS trẻ Thomas Heyne 28 tuổi, bang Dallas, tốt nghiệp đã ĐH Dallas khoa Lịch sử và Sinh học, có bằng thạc sĩ thần học của ĐH Oxford ở Anh, và hoàn tất chương trình Fulbright Fellowship về nghiên cứu tôn giáo.

Trước khi tới Boston làm việc tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts, chuyên khoa nhi, anh đã trả lời phỏng vấn của NCRegister về mối quan tâm tới nhân đạo trong lĩnh vực y khoa.

Xin anh cho biết về gia đình và việc thụ hưởng nền giáo dục Công giáo.

Tôi là con thứ 6 trong 8 anh chị em: Em gái kế tôi là nữ tu đã vĩnh khấn. Chị tôi tốt nghiệp ĐH Công giáo Hoa Kỳ, có gia đình và là luật sư bảo vệ các nạn nhân bị lạm dụng tình dục. Cha tôi là BS Roy Heyne, chuyên khoa nhi, mẹ tôi là BS Elizabeth Heyne và là nhà tư vấn tâm lý. Cha mẹ tôi quan tâm các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, đã thành lập Trung tâm Phát triển Trẻ em Sinh thiếu tháng để chăm sóc các gia đình của các em này. Cha mẹ tôi thực sự hít thở không khí Tin Mừng. Cha mẹ đưa chúng tôi đi lễ hằng ngày tại tu viện Xitô và lần chuỗi Mân Côi chung hằng đêm trước khi đi ngủ. Công việc của cha mẹ tôi làm vì người nghèo (và vì chúng tôi) là tấm gương sáng ghi sâu trong lòng chúng tôi.

Điều gì thúc đẩy sự quan tâm của anh về ngành y và đặc biệt là nhu cầu cần thiết về y tế của người nghèo?

Chắc chắn tôi ảnh hưởng giáo dục. Có 5 thế hệ gia đình tôi làm y bác sĩ và y tá, có thể ngành y đã mã hóa gen của chúng tôi. Hồi nhỏ, Matthêu 25:31-46 nói về cuộc phán xét, Chúa Giêsu nhắc tới việc phục vụ “những người bé mọn nhất là phục vụ chính Ngài”, Thánh Phanxicô Assisi và Chân phước Mẹ Teresa Calcutta đã sống như vậy và cuộc đời các ngài đã
in đậm trong tôi. Theo tôi, chúng ta phải hợp lý hóa các giáo huấn của Đức Kitô về sự nghèo khó. Tôi càng đi nhiều, càng nhận thấy nhiều người sống trong những điều kiện hầu như không được nghe đến ở Hoa Kỳ. Ý tưởng phục vụ “những người nghèo nhất” có vẻ vừa hợp lý vừa tốt lành.

Công tác y tế của anh ở Mexico, Haiti, Ấn Độ, các nước Phi châu và Mỹ châu Latin đã ảnh hưởng anh thế nào?

Từ viễn cảnh y tế, tôi học thêm các lĩnh vực y học mà tôi không biết: Người ta không gặp nhiều bệnh sốt rét, bệnh leishmaniasis (do ký sinh leishmania gây ra), bệnh sởi, bệnh thấp tim (rheumatic heart disease), chứng kwashiorkor (suy dinh dưỡng thể phù),… ở Hoa
Kỳ. Từ viễn cảnh nhân đạo, tôi thấy những con người sống với phẩm giá và niềm tin giữa những điều kiện sống đau khổ. Tôi khâm phục sự đại lượng và cao quý của họ.

Ngay cả khi chúng ta nhận phần thưởng này hay phần thưởng nọ, ngay cả trong những ngày chúng ta hạnh phúc nhất, chúng ta cũng chỉ có thể nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17:10). Nếu gặp hoàn cảnh tương tự, có bao nhiêu người làm được hơn? Tôi nghĩ tới một em bé sắp chết đói mà tôi gặp ở Uganda, nhiều người bị mất chân hoặc mất tay ở Haiti, hoặc một phụ nữ bị bệnh lao xương nặng ở Ấn Độ. Những người này có thể đã làm được những điều vĩ đại hơn nếu họ có cơ hội tốt như chúng ta.

Từ viễn cảnh tâm linh, tôi đã đến những nước hầu như không nghe nói tới Phúc Âm hoặc các nước Công giáo vẫn có nhiều người hầu như không biết gì về đức tin. Sau khi học các trường Công giáo, tôi và một bác sĩ Tin Lành cùng đi công tác, tôi bắt đầu phản ánh sâu sắc về giáo huấn Công giáo đối với sự ủy thác nhiệm vụ.

Qua sự hấp thụ giáo dục, anh đã được một số giải thưởng và rất tích cực đưa ra các sáng kiến. Điều gì thúc đẩy anh thành lập Huynh đoàn Thánh Basiliô Cả tại ĐH Tây Nam Texas?

Huynh đoàn Thánh Basiliô là một hội “lạ” trong trường y dược. Tôi cảm hứng từ một thành viên trong khoa đề nghị rằng chiến lược ở trường thuốc không nên chỉ là sinh tồn mà còn là tiến bộ (nỗ lực làm thánh, phát triển đức tin và giúp đỡ người khác cũng làm như vậy).
Trường y dược là cơ hội minh chứng đối với người khác, giúp họ đến gần đức tin và đến gần tình yêu vô biên của Thiên Chúa.

Thánh Basiliô Cả là giám mục GP Caesarea, thế kỷ IV, là người mở bệnh viện công đầu tiên cho người nghèo (gọi là Basiliad). Chọn ngài là Thánh bảo trợ, chúng tôi muốn nhấn mạnh sự ảnh hưởng tích cực mà Công giáo đối với y tế, nhất là đối với người nghèo.

Thành công của nhóm không là gì, chỉ  có 200 người (cả Công giáo và không Công giáo) trong vòng 2 năm thành lập nhóm. Những người đến với những buổi nói chuyện buổi trưa của chúng tôi vì chất lượng giới thiệu, thường do các bác sĩ địa phương đảm trách hoặc các phát ngôn viên được hoan nghênh như Peter Kreeft. Qua những buổi nói chuyện này, cũng như việc phục vụ và tâm linh, chúng tôi cố gằng loan truyền tình yêu của Thiên Chúa, của
Giáo hội và lòng nhân đạo.

Anh có dự định riêng cho tương lai?

Tôi nói được tiếng Tây Ban Nha và tôi thích văn hóa Latin, cho nên tôi nghĩ tới việc hành động ở một trong các nước nghèo đói của Mỹ châu Latin, có thể mở một bệnh viện Công giáo hoặc hỗ trợ một tổ chức Công giáo phi chính phủ nào đó. Dĩ nhiên, tôi muốn một chiều kích tâm linh đối với công việc của tôi. Tôi cũng nghĩ tới việc giúp mở một trường học,
giúp một giáo phận hoặc một tổ chức tôn giáo về các chương trình giáo dục.

Các khó khăn về y tế ở Hoa Kỳ thì sao?

Bạn không cần là một thầy thuốc cũng có thể nhận ra rằng hệ thống y tế ở Hoa Kỳ có những vấn đề quan trọng. Nhưng, thành thật mà nói, nhu cầu y tế và các vấn đề của các nơi như Uganda hoặc Haiti làm còi cọc các mối quan tâm của chúng ta.

Một vấn đề khác là vấn đề đạo đức hoặc chính trị đối với cuộc sống. Đặc biệt vào lúc này, chúng ta phải tiếp tục cầu nguyện cho việc giải quyết tích cực về nhiều vấn đề đang được giải quyết tại các tòa án. Chúng ta được mời gọi yêu thương và và bảo vệ con người, kể cả các thai nhi, những người già, nhữn người nghèo và những người nhập cư.

Đối với tôi, các vấn đề trong HHS [Health and Human Services – lệnh y tế và con người] là nghiêm trọng. Ngay khi còn là sinh viêt y khoa, tôi đã cố gắng tìm cách hoàn tất phần việc liên quan sản phụ khoa mà không vi phạm lương tâm (một số thầy thuốc cho rằng thuốc phá thai hầu như là thuốc chữa bệnh). Khó để là một người Công giáo tích cực trong
cộng đồng y dược ngày này. Đó là lý do khác mà chúng tôi thành lập Huynh đoàn Thánh Basiliô Cả, nhằm “củng cố các bác sĩ tương lai đang bị áp lực đè nặng trên đe dưới búa”.

Chân phước Mẹ Teresa Calcutta đã ảnh hưởng ơn gọi y tế của anh thế nào?

Tôi may mắn được làm việc với các nữ tu Dòng Truyền giáo Bác ái (Missionary of Charity) ở nhiều nước, tấm khăn sari trắng với đường viền xanh luôn khiến tôi vui. Mẹ tôi đã đưa Mẹ Teresa tới Dallas để mở cơ sở của Dòng Truyền giáo Bác ái. Mẹ Teresa sống cơ bản, giản dị
và chính thống về Phúc Âm – cầu nguyện tập trung vào Thánh Thể, trực tiếp phục vụ những người nghèo và những người bị bỏ rơi, nhân đức tôi luyện trong sự nghèo khó, khiết tịnh và bác ái. Cách sống đó nói mạnh với thế giới hậu hiện đại. Mẹ Teresa luôn vui vẻ, tươi cười, đó là châm ngôn sống cho mọi người: “Hãy mỉm cười về mọi thứ, hãy dâng tất cả cho Chúa bằng một nụ cười vui vẻ”.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ NCRegister.com)

Maria Thanh Mai gởi

 

Ba cuộc đời – ba cách chết

Ba cuộc đời – ba cách chết

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

 

Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá. Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau. Đó chính là Thầy Giê-su ở giữa. Một người bên hữu được gọi là trộm lành. Một người bên tả truyền thống vẫn gọi là trộm dữ. Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón nhận lại khác nhau? Đâu là điểm khác biệt giữa ba con người?

Trước hết đó là Thầy Giê-su, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh. Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân gian.
Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu. Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì người khác. Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng. Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu. Cái chết của Ngài là bằng chứng cho tình yêu. Đau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc. Không nguyền rủa cuộc đời vì những gánh nặng đang đè trên vai. Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui. Và ngài đã đi vào cái chết trong thanh thản vì đã hoàn thành sứ mạng đời mình: “yêu thương và phục vụ” cho
người mình yêu. Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua. Ngài không hối hận vì việc mình đã làm. Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu. Ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại “mọi sự đã hoàn tất” và nói cùng Chúa Cha “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha”.

Người thứ hai là anh trộm lành. Anh là một tội nhân. Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình. Nhưng anh là một con người biết phải trái. Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải chịu hình phạt. Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân. Anh đã sống một cuộc đời chỉ làm hại người khác. Thế nên, anh đã nói với Chúa: “Tôi đã bị như thế này là xứng đáng với tội của tôi”. Anh đón nhận thập giá để đền bù những lầm lỗi đã qua. Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích đáng vì tội của mình. Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời người. Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng với Thầy Giê-su, anh chỉ mơ ước Thầy Giê-su nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng. Đối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi. Thập giá là nhịp cầu đưa anh vào thiên đàng. Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng theo mệnh trời. Anh không oán trời, oán đất. Anh đi vào cái chết với tâm hồn thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.

Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời như con thú đang tìm mồi. Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân. Vì ham muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá của tha nhân. Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ. Thế nên, anh không chấp nhận thập giá đến với anh. Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm trên thập giá. Anh đòi quyền sống. Sống để hưởng thụ. Anh nổi loạn vì đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái chết
đến với mình. Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình. Công lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn. Thập giá làm cho anh đau khổ. Cái chết làm cho anh  nổi loạn. Anh nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giê-su, một con người đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh. Anh đã chết trong sự hoảng loạn và khổ đau.

Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho chính mình. Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau. Có người chấp nhận thập giá để đền tội. Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu mến tha nhân. Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời.  Hạnh phúc hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta. Nhưng dù con người có muốn hay không? Thập giá vẫn hiện diện. Thập giá của bổn phận. Thập giá của hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ tầm thường.
Đón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hồn bình an vì đã sống đúng với bổn phận làm người. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.

Nguyện xin Chúa là Đấng đã vui lòng đón nhận thập giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng để chúng ta không hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình với lòng mến Chúa, yêu người. Amen

 

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

EPHATA

EPHATA

 

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT

nguồn:Conggiaovietnam.net

Trong tuần qua, có một ngày tôi được tin cha già Chân Tín sẽ rời bệnh viện về lại Nhà Dòng, ngóng cả ngày không thấy ngài về, tối xuống, khi
đã đến giờ chuẩn bị Kinh Tối, cô cháu ngài báo điện thoại: “Thưa cha, cha già sắp về”, tôi quyết định bỏ đọc kinh chung để đón ngài. 10g khuya ngài mới về đến nhà, ông cụ vẫn vui vẻ như thường lệ, mặt bị ứ nước do truyền dịch và thận bị suy nên xem ra có vẻ mập hơn. Cụ mừng rỡ hỏi thăm mọi người, trả lời cụ vài câu rồi tôi hỏi cụ: “Cụ có hỏi thăm gì về đất nước không ?” Cụ bật cười rồi lại nhanh tay lau nước mắt.

Có lần chúng tôi vào thăm cụ trong bệnh viện, cụ cũng hỏi thăm mọi người rồi cụ hỏi chúng tôi: “Tình hình đất nước ra sao rồi ?” Khi đó cụ đang rất mệt, anh em mới nói với cụ: “Cụ cứ bình an nghỉ, chuyện đất nước để người khác lo”. Một người khác đùa vào: “Cụ gần về với Chúa rồi mà còn lo chuyện đất nước !” Mọi người cười vui vẻ, cụ cũng vẫn hiền hòa đùa vui với anh em và cười vui vẻ, lúc đó, mắt cụ cũng ngấn lệ.

Hôm nay cụ xuất viện về trễ, quá trễ, nên tôi đùa với cụ:
“Nhà thương nào mà làm giấy xuất viện cho cụ vào 8 giờ tối ? Chắc cụ đi chơi
đâu rồi bây giờ mới về phải không ?” Chợt nhớ ra điều gì cụ bảo mấy đứa cháu
lấy hình cho tôi xem, hình vừa mới chụp còn trong máy, vừa chuyển hình mấy đứa
cháu tranh nhau kể cho chúng tôi nghe. Câu chuyện ly kỳ và độc đáo.

Trong những ngày ở bệnh viện, cụ được con cháu đẩy xe đi chơi buổi chiều để dạo mát, một ngày cụ khám phá ra trong góc khuất của bệnh viện Chợ Rẫy một hang đá Đức Mẹ Lộ Đức bị bỏ hoang, nhiều năm qua không ai biết đến, những chữ viết trên bia đá chứng tỏ hang đá này được lập năm 1963, mục đích để các bệnh nhân cầu nguyện, hàng chữ “Đức Mẹ phù hộ các bệnh nhân” nói lên điều đó.

Cụ tìm cách liên lạc với những người có trách nhiệm trong bệnh viện, yêu cầu để cụ phục hồi lại hang đá, được chấp thuận, cụ bảo con cháu lau chùi dọn dẹp hang đá, đem tượng Đức Mẹ đi sơn lại, bắt điện làm đèn cháy sáng cho hang, cố gắng làm xong mọi việc. Ngày cụ được xuất viện, cụ đã nán lại chờ cho công việc mọi mặt xong xuôi, thánh hiến lại hang đá, tổ chức cầu nguyện trước hang… Tất cả chu tất khi trời đã khuya, khi đó cụ mới về, đó là lý do cụ xuất viện trễ.

Chúa dùng ông cụ thật lạ lùng. Năm 1990 cụ bị đưa đi quản thúc ba năm ở huyện Duyên Hải ( Cần Giờ ). Duyên Hải là một huyện nghèo, tuy thuộc thành phố giàu sang nhất nước, nhưng Duyên Hải vô cùng xơ xác đìu hiu, tuyệt đại đa số dân nghèo ở sâu ở xa trong các rừng bần, rừng đước, sông rạch chằng chịt, việc học không được quan tâm, y tế còn lạc hậu, nhà toàn bằng tranh bằng nứa, nền đất, muỗi mòng gieo rắc mầm bệnh khắp nơi. Các
nhà giáo, các nhân viên y tế… Nói chung nhân viên mọi ngành nghề đều ngán ngẩm tránh né, Nhà Nước phải ra chính sách tăng lương, kèm phụ cấp và chỉ sau vài năm hứa sẽ cho quay trở về đất liền thì mới có người chịu ra nhiệm sở.

Kể từ khi phát kiến nuôi tôm, bộ mặt huyện này có phần thay đổi nhất là khi con đường nối huyện với thành phố Sàigòn được hình thành, một số gia đình bán đất cho các nhà đầu tư nuôi tôm, có tiền nên một số nhà gạch được xây cất, lượng xe hai bánh gắn máy của huyện cũng tăng lên. Nhưng rồi khi chuyện nuôi tôm tràn lan không quy hoạch, không được hỗ trợ đúng nghĩa, đầu ra đầu vào không ổn định nên thất bại thảm hại, đất đai ngổn ngang, người nghèo mất hết đất nên vẻ tiêu điều héo hắt lại y như hồi xưa…

Khi cụ Chân Tín về, ngày ấy dân Duyên Hải còn nghèo lắm, có hai gia đình được nghe Lời Chúa khi người cha trong nhà đi tù cải tạo, đến khi đoàn tụ rồi, họ lang thang tìm đến Nhà Thờ, may mắn được gặp cụ, cụ chăm sóc phần hồn, dạy Giáo Lý và ban Bí Tích Thánh Tẩy cho hai gia đình đầu tiên theo đạo ở xã An Thới Đông, một xã hoàn toàn không có người theo Đạo.

Cứ như vậy cho đến khi mãn hạn quản thúc năm 1993, cụ cứ lang thang len lỏi trong “hang cùng ngỏ hẻm” với dân Duyên Hải, dạy Giáo Lý, thăm viếng từng gia đình nghèo, bao nhiêu ngăn trở cụ cương quyết và hiên ngang vượt qua… An Thới Đông đã trở thành một Giáo Họ, khoảng hơn 500 người theo đạo, đã có Nhà Thờ khang trang và một cộng đoàn anh em chúng tôi bây giờ đang tiếp nối công việc của cụ ở đó.

Nghe kể lại rằng có những lần người ta ngăn cấm không cho cụ dạy Giáo Lý ở các gia đình, cụ cứ đến dạy, Công An xông vào, cụ cất sách kinh, bảo đang ngồi chơi thăm bà con, có luật nào cấm đi thăm nhau nhỉ ? Công An đi  rồi, cụ mở sách ra dạy tiếp, cả gia đình sau một ngày lao động về bên ánh đèn dầu chăm chỉ học, ngoài sân đất, đầu hè, hàng xóm tò mò sang ngồi nghe, nghe đôi ba lần rồi mê, xin cụ sang nhà dạy cho gia đình họ, cứ thế đất An Thới Đông được nghe Tin Mừng.

Một lần khác cụ làm Lễ ngay tại gia đình, Công An cấm, kết tội “hoạt động tôn giáo ngoài phạm vị Nhà Thờ”, cụ cứ làm, biết Công An sẽ đến, cụ cho dọn sẵn bát đĩa và đồ ăn gần đấy rồi cụ dâng Lễ, khi chó sủa báo hiệu họ đến, cụ cất chén Lễ và sách Lễ, ngồi nhậu khề khà với dân, “người anh em” chẳng làm gì được cụ !

Bài đọc thứ nhất Chúa Nhật 23 Quanh năm B hôm nay trích trong sách Ngôn Sứ Isaia kêu gọi chúng ta đừng sợ vì có Chúa, nếu cụ Chân Tín sợ thì làm sao ngày nay có Nhà Thờ, có Giáo Họ An Thới Đông hơn 500 người theo Đạo ? Không chỉ An Thới Đông nhưng sẽ còn nhiều Giáo Điểm nữa. Nếu cụ ngày ấy sợ, hễ “họ” cứ ho một cái là rụt lại, không xác tín được sứ mạng của mình, không ý thức được quyền năng của mình được Thiên Chúa trao phó, cũng không dám đòi những quyền sống tối  thiểu của mình, không dám lên tiếng cho Sự
Thật thì cả đời cứ đi trong tăm tối thôi.

Vâng, nếu ngày ấy chúng tôi ngăn cản cụ đừng làm thế, e rằng sẽ bị gây phiền nhiễu ảnh hưởng đến hoạt động chung của mọi anh em trong Dòng thì bây giờ và ngày sau sẽ ra sao ? Liệu chúng tôi có mãi tiếp tục hãnh diện về một thứ bình an giả tạo, khiếp nhược và hèn hạ không ? Lương tâm của chúng tôi có mãi yên ổn để hãnh diện kể công về một “mối tình tốt
đẹp giữa chúng tôi và Nhà Nước” không ?

Lao mình vào giữa rừng sâu, vượt qua ngăn trở sông rạch, cụ Chân Tín tìm đến với người nghèo, người bị bỏ rơi hơn cả. Thay vì chè chèn giao du với các đại gia, đi lại với người có quyền thế, cụ tìm đến gặp gỡ người nghèo.

Bài đọc hai của Chúa Nhật hôm nay trích trong thư của Thánh Giacôbê, nghe mà thấm thía, Thánh Giacôbê buộc chúng ta phải chọn lựa cách ứng xử trước mặt Thiên Chúa. Có hai người, một giàu có sang trọng bước vào, vòng vàng đầy tay, áo quần lộng lẫy, lại một nghèo hèn ăn mặc tồi tàn cũng tìm đến, cách chúng ta tiếp đón sẽ ra sao ?

Khối lần ta khúm núm trước người giàu, khối lần ta nghe lời tư vấn khuyến dụ của người quyền thế, khối lần ta để người có tiền quyết định cả những điều thánh thiêng theo hướng và quan điểm của họ, cho dù hướng ấy, quan điểm ấy nghịch hẳn với Tin Mừng. Đã có kẻ bỏ hẳn việc chia sẻ tiệc mừng với một cộng đoàn Giáo Xứ để đi dự tiệc của người giàu, đã có kẻ cho cả lớp Giáo Lý hàng trăm người “leo cây” ngồi chờ để đi vui với kẻ có tiền, kẻ đã tài
trợ cho mình…

Thánh Giacôbê buộc ta phải trả lời trước Chúa: “Đừng nghe xuông mà lừa dối chính mình”.

Ephata ! Mở rộng tai ra để nghe Lời của Chúa. Ephata ! Mở miệng tôi ra để cao rao Lời của Chúa. Đừng bưng tai bịt mắt, đừng nhát đảm sợ hãi mà không nói Sự Thật. Sự Thật nguồn cội là chính Chúa Giêsu.

Lm. VĨNH SANG, DCCT, Chúa nhật 9.9.2012 (Ephata 526)

Từ bi với mình…

Từ bi với mình…

BS Đỗ Hồng Ngọc

Hình như ta chẳng bao giờ thực sống trong hiện tại cả! Lúc còn trẻ, ta mơ ước tương
lai, sống cho tương lai. Nghĩ rằng phải đạt cái này cái nọ, có đựơc cái kia cái khác mới là sống. Khi có tuổi, khi đã có được cái này cái nọ,  cái kia cái khác thì ta lại sống cho quá khứ! Nhỏ mong cho mau lớn, lớn mong cho nhỏ lại. Quả là lý thú! Tóm lại, ta chẳng biết quý những phút giây hiện tại.  Từ ngày “thế giới phẳng”,  ta còn sống với đời sống ảo. Ta ngồi đây với bạn nhưng trò chuyện với một người nào khác, cười đùa, nhăn nhó, giận dữ, âu yếm
với một người nào khác ở nơi xa. Khi bắt lại câu chuyện thì nhiều khi đã lỡ nhịp! Hiểu ra những điều tầm thường đó, tôi biết qúy thời gian hơn,  quý phút giây hiện tại, ở đây và bây giờ hơn.

Nhờ vậy mà không có thì giờ cho già nữa! Hiện tại thì không có già, không có trẻ, không có quá khứ, vị lai. Dĩ nhiên, không phải là trốn chạy già mà hiểu nó, chấp nhận nó, thưởng thức nó. Khi biết “enjoy” nó thì quả có nhiều điều thú vị để phát hiện, để khám phá. Một người 60, tiếc mãi tuổi 45 của mình thì khi 75, họ sẽ tiếc mãi tuổi  60, rồi khi 80, họ sẽ càng tiếc 75! Vậy sao ta đang ở cái tuổi tuyệt vời nhất của mình lại không yêu thích nó đi, sao  cứ
phải… nguyền rủa, bất mãn với nó. Có phải tội nghiệp nó không? Ta đang ở cái tuổi nào thì nhất định tuổi đó phải là tuổi đẹp nhất rồi, không thể có tuổi nào đẹp hơn nữa!

Ta cũng có thể gạt gẫm mình chút đỉnh như đi giải phẫu thẩm mỹ chẳng hạn. Xóa chỗ này, bơm chỗ nọ, lóc chỗ kia. Nhưng nhức mỏi vẫn cứ nhức mỏi, loãng xương vẫn cứ loãng xương, tim mạch vẫn cứ tim mạch… Cơ thể ta cứ tiến triển theo một “lộ trình” đã được vạch sẵn của nó, không cần biết có ta! Mà hình như,  càng nguyền rủa, càng bất mãn với nó, nó càng làm dữ. Trái lại nếu biết thương yêu nó, chiều chuộng nó một chút, biết cách cho nó ăn, cho nó nghỉ, biết cách làm cho xương nó cứng cáp, làm cho mạch máu  nó thông thoáng, làm cho các khớp nó trơn tru thì nó cũng sẽ tử tế với ta hơn. Anh chàng Alexis Zorba nói: “Cũng phải chăm nom đến thân thể nữa chứ, hãy thương nó một chút. Cho nó ăn
với. Cho nó nghỉ với.  Đó là con lừa kéo xe của ta, nếu không cho nó ăn, nó nghỉ, nó sẽ bỏ rơi mình ngang xương giữa đường cho mà coi” (Nikos Kazantzaki). Từ ngày  biết thương “con lừa” của mình hơn, tử tế với nó hơn, thì có vẻ tôi… cũng khác tôi xưa. Tôi biết cho con lừa của mình ăn khi đói, không ép nó ăn lúc đang no, không cần phải cười cười nói nói trong lúc ăn. Món gì khoái khẩu thì ăn, chay mặn gì cũng tốt. Cá khô, mắm ruốc gì cũng được, miễn là đừng nhiều muối quá! Một người cô tôi “ăn không được”, ăn “không biết
ngon” vậy mà vẫn béo phì, đi không nổi, là bởi vì các con thương bà quá, mua toàn sữa Mỹ mắc tiền cho uống! Sữa giàu năng lượng, nhiều chất béo bổ quá, làm sao còn có thể ăn ngon, làm sao không béo phì cho được? Giá nghèo một chút thì hay hơn! Cá kho quẹt, rau muống mà tốt, miễn bà ăn thấy ngon, thấy sướng! Tôi cũng biết cho con lừa của mình ngủ hơn. Ngủ đẫy giấc, đủ giấc. Ngủ đủ giấc là cơ hội tốt nhất cho các tế bào não phục hồi, như sạc pin vậy. Sạc không đủ mà đòi pin ngon lành sao được! Bảy trăm năm trước, Trần Nhân Tông viết: cơ tắc xan  hề khốn tắc miên! Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền! trong bài Cư trần lạc đạo, ở đời mà vui đạo! Ông là vị vua nhà Trần sớm nhường ngôi cho con, lên tu ở núi
Yên tử, Tổ sư thiền phái Trúc Lâm. Tu hành như vậy mà khi quân Nguyên xâm lấn
nứơc ta, ông liền xuống núi, ra tay dẹp giặc, xong, phủi tay lên núi tu tiếp!

Mỗi người có đồng hồ sinh học của riêng mình, không ai giống ai, như vân tay vậy, cho nên không cần bắt chước, chỉ cần lắng nghe mình. Phương pháp này, phương pháp nọ của người này người kia bày vẽ chẳng qua cũng chỉ để tham khảo, nắm lấy nguyên tắc chung thôi, rồi áp dụng vào hoàn cảnh riêng cụ  thể của mình, tính cách mình, sinh lý mình. Phương pháp nào có sự ép buộc cứng ngắc quá thì phải cảnh giác!

Cũng nhớ rằng tới tuổi nào đó tai cũng sẽ bắt đầu kém nhạy, mắt bắt đầu kém tinh, đầu óc bắt đầu kém sắc sảo.  Tai kém nhạy để bớt nghe những điều chướng tai. Mắt kém tinh để bớt thấy những điều gai mắt. Đầu óc cứ sắc sảo hoài ai chịu cho nổi! Tuy vậy, tai kém mà muốn nghe gì thì nghe, không thì đóng lại; mắt kém mà muốn thấy gì thì thấy, không thì khép lại. Thế là “căn” hết tiếp xúc được với “trần”.  Tự dưng không tu hành gì cả mà cũng như tu, cũng thực tập ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm!

Rồi một hôm đẹp trời nào đó ta còn có thể phát hiện mắt mình chẳng những nhìn kém mà còn thấy những ngôi sao lấm chấm, những lốm đốm hoa trên bầu trời trong xanh vời vợi kia. Nếu không phải do một thứ bệnh mắt nào đó thì đây hẳn là hiện tượng thoái hóa của tuổi già, nói nôm na là xài lâu quá, hết thời hạn bảo hành. Cái mà người xưa gọi là “hoa đốm hư không” chính là nó. Tưởng hoa đốm của trời, ai dè trong mắt mình! Chính cái “tưởng” của ta nhiều khi làm hại ta. Biết vậy ta bớt mất thì giờ cho những cuộc tranh  tụng, bớt tiêu hao năng lượng vào những chuyện hơn thua. Dĩ nhiên có những chuyện phải ra ngô ra khoai nhưng cái cách cũng đã khác, cái nhìn đã khác, biết tôn trọng ý kiến người khác, biết
chấp nhận và nhìn lại mình.

Khi 20 tuổi người ta băn khoăn lo lắng không biết người khác nghĩ gì về mình. Đến 40 thì ai nghĩ gì mặc họ. Đến 60 mới biết chả  có ai nghĩ gì về mình cả!

Tóm lại, chấp nhận mình là mình và từ bi với mình một chút vậy!

 

BS Đỗ Hồng Ngọc

nguồn: Huỳnh Thanh Trúc gởi

CHỈ CÒN SỨC MẠNH CỦA LỜI CẦU NGUYỆN

CHỈ CÒN SỨC MẠNH CỦA LỜI CẦU NGUYỆN

Trích báo Ephata  526

Thế giới vào năm 1917 chỉ có 1,8 tỷ người, đang xẩy ra Thế Chiến thứ nhất làm thiệt mạng 11 triệu người thì Đức Mẹ hiện ra tại Fatima cho biết các phương thế hữu hiệu để cứu vãn nhân loại gồm có:

1. Ăn năn đền tội, cải thiện đời sống.

2. Tôn sùng Trái Tim Vẹn Sạch Ðức Mẹ

3. Lần chuỗi Mai Khôi.

Đây hoàn toàn là những phương thế hướng nội, đặt trọng tâm vào việc cầu nguyện hy sinh của mỗi cá nhân. Lạ lùng thay ta không thấy Đức Mẹ nhắc nhở về những hoạt động bên ngoài hướng tới tha thân như làm phúc bố thí, giáo dục thanh thiếu niên, chữa bệnh cho người nghèo.

Tại Fatima, Đức Mẹ còn cho biết những thảm họa khác kinh sợ hơn sẽ xẩy đến trong tương lai như:

1. Thế Chiến thứ hai làm thiệt mạng 60 triệu người.

2. Chủ nghĩa Cộng Sản làm thiệt mạng 100 triệu người.

Nhưng Đức Mẹ nói ra thảm họa bi thảm nhất không phải về số người phải chết ( xét cho cùng thì mọi người sinh ra đều sẽ phải chết đi ) nhưng là hỏa ngục, tức là số phận đời đời của những kẻ không làm theo thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời này.

Ðức Mẹ cho chúng con ( ba trẻ tại Fatima ) thấy một biển cả lửa hồng dường như ở dưới mặt đất. Chìm ngập trong lửa này là quỷ dữ và các linh hồn dưới hình thể con người, giống như những cục than hồng trong suốt, đen đủi hoặc xám xịt. Họ nổi lên trong đám cháy, bị các ngọn lửa nâng lên cao, những ngọn lửa này phát ra từ thân mình họ cùng với một đám
khói lớn. Họ lại rớt xuống mọi phía, giống như những tia lửa trong một đám cháy lớn, vô trọng lượng hoặc mất thăng bằng, và giữa những tiếng la hét và rên rỉ vì đau đớn và tuyệt vọng, làm kinh khiếp chúng con và làm chúng con run lên vì sợ hãi. ( Bí mật thứ nhất Fatima ).

Ngày nay nói về hỏa ngục thì chẳng mấy ai còn sợ nữa. Các Linh Mục trên tòa giảng ít khi nói về hỏa ngục vì có vẻ hoang đường ấu trĩ làm sao đó. Nói về Lòng Thương Xót Chúa, rằng Chúa thương xót mọi người và sau cùng ai cũng được lên Thiên Đàng trọn gói thì hấp dẫn người ta hơn.

Mỗi khi đọc tin về cuộc tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ 2012 thì tôi lại thấy ngoại trừ cầu nguyện, hy sinh, lần chuỗi hạt Mai Khôi (tức là những phương thế được Đức Mẹ Fatima đề ra ) thì không còn sức mạnh nào khác còn có thể cứu rỗi chúng ta.

– Ngày 10.2.2012 Tổng thống Obama ký Sắc Lệnh (HHS Mandate ) bắt buộc tất cả các cơ sở tôn giáo ( mà Công Giáo là đối tượng chính ) phải tài trợ cho nhân viên ngừa thai và phá thai.

– Ngày 9.5.2012 lần đầu tiên một Tổng thống Hoa Kỳ đương nhiệm, ông Obama lên tiếng công khai ủng hộ hôn nhân đồng tính.

– Ngày 3.9.2012 Đại Hội đảng Dân Chủ tại Charlotte, North Carolina đã biến thành một cuộc liên hoan ầm ĩ chào mừng chiến thắng của phong trào phá thai (được núp dưới mỹ từ quyền tự do chọn lựa của phụ nữ ).

Suy nghĩ cho kỹ thì ông Obama chỉ là một cá nhân, đảng Dân Chủ chỉ là một đảng phái chính trị. Đàng sau ông Obama và đảng Dân Chủ còn có đại đa số dân chúng Hoa Kỳ theo Thiên Chúa Giáo đã bỏ phiếu cho ông vào năm 2008 và vẫn đang ủng hộ ông vào năm 2012 ( theo cuộc thăm dò của CNN vào ngày 24.8.2012 thì 49% người Mỹ vẫn tán đồng ông Obama so với 47% theo phe ông Rommey là người chống đối phá thai ).

Obama chỉ là một chính trị gia thừa gió bẻ măng, chiều theo nguyện vọng của đa số cử tri để tiến thân trên con đường sự nghiệp. Mỗi cá nhân có thể có những khuynh hướng khác nhau. Tôi không thể ép người khác phải  theo lập trường của tôi. Nhưng khi một dân tộc với đa số theo Thiên Chúa Giáo bỏ ngoài tai mọi hướng dẫn của Giáo Hội là người đại diện cho Chúa để tự đặt ra và quyết định cho mình những gì chỉ thuộc về quyền hạn của Chúa thì đất nước đó sẽ đi về đâu ?

Sự sống là của Chúa và chỉ có Chúa mới có quyền quyết định trên sự sống của một thai nhi. Những người ủng hộ phá thai nói rằng sự sống của thai nhi là của người mẹ vì thế người mẹ có quyền giữ con hay giết con. Trong trường hợp này người mẹ đã muốn trở thành Thiên Chúa.

Hôn nhân do Chúa thiết lập khi tạo dựng con người có nam có nữ nhằm mục đích thánh hóa con người và truyền sinh. Những người ủng hộ hôn nhân đồng tính nói rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa hai cá nhân, có thể giữa hai người nam hoặc giữa hai người nữ với nhau.
Những người này đã muốn trở thành Thiên Chúa khi bác bỏ mục đích truyền sinh của hôn nhân.

Nhưng họ không phải chỉ là một thiểu số nhưng là đa số trong một dân tộc của một đất nước hùng mạnh nhất thế giới, có tầm ảnh hưởng vô song về chính trị, kinh tế, văn hóa trên toàn nhân loại. Một dân tộc đã luôn in lên đồng dollars của mình câu khẳng định “Chúng Con Tin Vào Chúa” ( In God We Trust ) mà đang trược dốc ra khỏi con đường của Chúa như thế sẽ đi về đâu và nhân loại này sẽ đi theo về đâu ?

Trong khi đó những lời nhắc nhở của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ luôn bị chính những người Công Giáo thờ ơ. Chung quanh ông Obama luôn có những nhân vật quyền thế nhất là người Công Giáo triệt để ủng hộ ông. Trong số những người sẽ bỏ phiếu cho ông Obama được tiếp tục nhiệm kỳ hai chắc chắn có rất đông người Công Giáo. Khi đó ông sẽ tha hồ đẩy việc phá thai lên tầm cao mới, hàng loạt các cơ sở Công Giáo sẽ phải đóng cửa nếu không tài trợ cho phá thai ( tức là phản bội và bán đứng Chúa Giêsu như Giuđa đã từng làm ).

Đối với những người nghèo và thất nghiệp thì chắc chắn tiền trợ cấp là cực kỳ quan trọng. Vì quyền lợi này họ sẽ đặt Thiên Chúa xuống hàng thứ yếu.

Đối với những người nhập cư lậu thì không có gì quan trọng cho bằng được hợp pháp hóa quyền ở lại Hoa Kỳ. Vì thế thân nhân của họ sẽ ủng hộ ông Obama.

Đối với nhiều cô gái lỡ có thai ngoài ý muốn và gia đình của họ, giết đi một bào thai xem ra là giải pháp tốt đẹp nhất nên họ ủng hộ đảng Dân Chủ.

Tôi có dịp trao đổi với một số vị cao niên Công Giáo Việt Nam từ Mỹ về, họ đều cho biết sẽ bỏ phiếu cho Obama tại vì tiền hưu dưỡng của họ sẽ được nhiều hơn. Khi tôi hỏi họ có quan tâm về chủ trương phá thai của Obama không thì họ nói rằng hơi sức đâu mà lo chuyện bao đồng !

Đứng trước một trào lưu nhân loại hùng mạnh như thế dù có năng nổ hoạt động cách mấy chúng ta cũng đành bất lực.Tiếng nói của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ cũng chỉ như gió thoảng vào nhà trống.

Chúng ta chỉ còn biết như Phêrô sau khi đã kiệt sức đánh cá suốt đêm thâu, ta vẫn phải luôn luôn làm một cái gì đó cho người nghèo bị bỏ rơi, mà không bắt được một con cá nào. Qua cầu nguyện chúng ta phải nhận ra Chúa Giêsu đang đi trên mặt nước để đến với ta, và phải nghe được Lời Chúa nói: Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền. Ta vẫn phải bỏ lưới xuống. Khi làm theo lời đó ta đã có một hoạt động phát xuất từ cầu nguyện. Mọi việc còn lại Chúa sẽ làm cho ta.

 

NGUYỄN TRUNG, 9.2012

ĐỒNG TIỀN LIỀN CHỨC VỤ ĐỂ LÀM GÌ?

ĐỒNG TIỀN LIỀN CHỨC VỤ ĐỂ LÀM GÌ?

Lm Bùi Trọng Khẩn

Không ai phủ nhận giá trị và hấp lực của tiền của vật chất. Vì “Tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý, là chân lý cuộc đời”.

Trong Tin mừng có rất nhiều chỗ nói về Chúa Giêsu liên quan đến tiền của. Dụ ngôn những nén bạc (Mt 25, 14-30; Lc 19,11-27) ; Dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất (Lc 15,8-10) ; Dụ ngôn người quản gia bất lương (Lc 16,1-8) ; Dụ ngôn tên mắc nợ không biết xót thương (Mt 18,23-35). Ngài cũng nói đến mối nguy hiểm của nó: Chuyện người thanh niên có nhiều của cải (Mt 19,16-22) ; Người giầu có khó vào Nước Trời (Mt 19,23-26) ; Dụ ngôn ông nhà giầu và Lagiarô nghèo khó (Lc 16,19-31) ; Đức Giêsu đánh đuổi những người đang mua bán trong đền thờ (Mt 21,12-17) ; Xức dầu thơm tại Bê-ta-ni-a (Ga 12, 4-6) ; Giuđa nộp Đức Giêsu
(Mt 26,14-16) cũng vì tiền rồi Giuđa đi thắt cổ (Mt 27,3-10). Cho nên Ngài cũng khiển trách người Pharisêu ham tiền (Lc16,14-15) ; khi sai 12 tông đồ (Lc 9,1-6) và 72 môn đệ đi rao giảng (Lc 10,4) Ngài cũng dặn họ đừng mang tiền bạc. Nhưng trong hành trình truyền giáo của mình, Đức Giêsu cũng cần đến tiền của khi phải nộp thuế cho Xê-da (Mt 22,15-22 ; Lc 20,20-26); trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Ga 6, 5); vì thế, đã có những người phụ nữ lấy tiền của của mình để giúp đỡ cho Chúa và các môn đệ (Lc 8,1-3). Cuối cùng, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải nhìn thấy nơi tiền của có một giá trị tương đối : Hai đồng tiền nhỏ của bà góa (Lc 20,1-4) nên phải biết sử dụng nó một cách đúng ý nghiã và mục đích : Bán của cải đi mà bố thí (Lc 12,33-34) ; Khi đãi khách hãy mời những người nghèo khó (Lc 14,12-14) ; và Trung tín trong việc sử dụng tiền của (Lc 16, 9-12). Đó là một minh chứng thực tế về tiền của là con dao hai lưỡi.

Cao hơn nữa”con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu” (Lc 9, 58). Vậy “là đầu giáo đoàn, các linh mục sẽ thực hiện hiện đời sống tu trì riêng biệt của các Chúa chiên : từ bỏ những tiện nghi cá nhân, không tìm kiếm lợi ích riêng tư của mình, mà công ích đông đảo quần chúng, để họ được cứu rỗi(1Cr 10,23) (số 13).

“Trên thực tế, nhiều người chọn sai đường. Không những không biết sợ, mà còn hãnh diện. Nếu cả đến người môn đệ Đức Kitô, mà lại sống đời hưởng thụ ở mức độ cao, ít cầu nguyện, nghèo bác ái, ngại dấn thân, không thường ngày tập luyện nhân đức, không nhận thấy sự có Chúa trong mình và thực thi ý Chúa mới là tài sản lớn nhất của mình, thì còn đâu là chứng nhân cho sự lựa chọn con đường Chúa muốn. Hơn nữa, con đường thênh thang lại được người môn đệ Chúa bình thường hoá, thì người đời sẽ dễ bị dụ dỗ theo gương sai lầm đó.
Chính mình đi sai đường, lại khuyến khích người khác đi theo mình. Sự kiện này rất nguy hiểm” (Đức cha GB. Bùi Tuần, Hãy biết sợ, báo CGDT số 1483, trang 17).

“Chúa Giêsu, Đấng vốn giầu có, đã vì chúng ta trở nên nghèo, để chúng ta được giàu có bởi sự nghèo khó của Người (2 Cr 8, 9). Mẫu gương tuyệt vời đó dạy ta”Nhớ rằng ân huệ  mình lãnh nhận là nhưng không, linh mục sẽ sẵn sàng ban cho nhưng không và sử dụng vào thiện ích của giáo hội và vào các việc bác ái tất cả những gì mình nhận được khi thi hành phận vụ sau khi bảo đảm cuộc sống và chu toàn mọi bổn phận của đấng bậc mình. Xét cho cùng mặc dù ngài không sống đức khó nghèo do lời khấn công khai, linh mục vẫn phải sống một cuộc sống giản dị và xa lánh hết những gì là phù phiếm, tự nguyện sống khó nghèo để theo sát Đức Kitô. Trong mọi lãnh vực (nhà ở, phương tiện đi lại, nghỉ ngơi….) linh mục phải loại trừ mọi kiểu cách và xa hoa(Chỉ nam LM tr.73). “Sống bình dị trong cách ăn mặc là biểu hiện một tâm hồn đơn sơ rộng rãi và không cố chấp, đó là đức hạnh của linh mục. Sống bình dị trong cách ăn uống là biểu hiện một tâm hồn đạo đức hi sinh và vui  tươi, đó là đức hạnh cuả linh mục”(Lm.Nhân tài, tr. 88). Phải xếp đặt nhà ở mình làm sao cho mọi người có thể lui tới, và không một ai, dù là kẻ nghèo hèn, phải sợ hãi không dám lui tới”(17).

Linh mục, tu sĩ phải chứng minh cho sự hiện diện của Đức Kitô là Đấng đã đến “không phải để cho người ta hầu hạ nhưng để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 46 ; x.Ga 13, 12-17) ; “tôi đến cho chúng được sống dồi dào” (Ga 10,10). Cũng như bắt chước Phaolô “trở nên tôi tớ mọi người hầu cứu chuộc được nhiều người hơn”
(1Cr 9,19).

Như vậy, quyền hành trong giáo hội là để phục vụ. “Tôi tạ ơn Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ  người” ((1Tm 1,12). “Vì thế, chúng tôi kêu gọi anh chị em hãy nỗ lực và kiên trì dấn thân, để vừa xoa dịu nỗi khổ đau của anh chị em đồng loại, vừa làm cho Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong lòng xã hội chúng ta đang sống”(thư HĐGMVN, Sống đạo hôm nay, vai trò của linh mục và tu sĩ, số 8). Thật là đẹp đẽ hình ảnh người tông đồ Chúa Giêsu sống như
Ngài là”mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ
của chúng ta”.

Gần thời đại chúng ta có những con người thánh thiện đã qua đi,  nhưng gương sáng và lời dạy còn nóng hổi. Như Mẹ Têrêxa Calcutta: “việc yêu thương luôn đem lại bình an. Yêu thương là trái cây có quanh năm trong tầm tay hái của mọi người”. Như  ĐHY Px. Nguyễn Văn Thuận nói: nghệ thuật yêu thương đó là yêu thương như Đức Giêsu (bởi vì Người là tình yêu). Nghệ thuật yêu thương đó là yêu thương như Mẹ Maria. Và Mẹ Têrêxa Calcutta phát biểu: “Để yêu mến một người cần phải tiến tới gần người đó…Tôi không bao giờ
săn sóc các đám đông mà chỉ săn sóc các con người cụ thể thôi” (Chúa mang cho con tình yêu, Roma 1979, tr.48). Yêu thương là cách loan báo Tin mừng tốt nhất vì đạo chúng ta là đạo yêu thương-bác ái.

Một cách năng động hơn là luôn ý thức rằng “khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng. Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6,9-10) như thánh Augustinô đã tâm sự : vì anh em tôi là linh mục, với anh em tôi là kitô hữu. Đúng thế, “Thiên Chúa luôn luôn gọi các linh mục của Người từ các môi trường
nhân loại cũng như từ các giáo hội nhất định; các linh mục không thể không mang đậm những dấu ấn của những môi trường đó để phục vụ Tin mừng của Đức Kitô” (Tông Huấn các mục tử, số 5).

Quảng đại cho ®i còn bộc lộ bằng sự hiệp thông dựa trên nền tảng tình yêu cứu chuộc của Đức Kitô, niềm khao khát mãnh liệt hoà giải nhân loại với Thiên Chúa. Nên hãy tránh tìm lợi lộc cá nhân, phe nhóm chủ nghĩa, mua tiếng khen danh vọng ; vô tình tạo ra hàng rào biên giới trong cộng đoàn hay giữa giáo xứ này với giáo xứ kia, tầng lớp này với tầng lớp khác. Thời đại cần chứng nhân hơn thầy dạy, không có nghĩa là coi thường thầy dạy nhưng đề cao giá trị của lời nói đi đôi với việc làm, nhất nữa là sống theo gương mẫu Đức Kitô
sống chết vì đoàn chiên, đến để được phục vụ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ rằng : “Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế cả kẻ gieo lẫn người gặt đều hớn hở vui mừng. Thật vậy, câu tục ngữ kẻ này gieo người kia gặt quả là đúng! Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ” (Ga 4, 36-38).

Lm Bùi Trọng Khẩn

nguồn:Maria Thanh Mai gởi

Mẹ, động lực tình yêu cho cuộc đời

Mẹ, động lực tình yêu cho cuộc đời

Tâm Thương

Đoàn Thị Sáu vẫn cố gắng hết sức đi lượm ve chai đem bán mỗi ngày

WGPSG — Câu chuyện cảm động giữa đời thường

Trên trang báo mạng có đăng một câu chuyện với tựa đề “Mẹ già gần 70 tuổi nhặt ve chai nuôi 2 con tâm thần”. Người mẹ ấy tên là Đoàn Thị Sáu (ở huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai). Già rồi, bệnh tật nhiều, bà vẫn cố gắng hết sức đi lượm ve chai đem bán mỗi ngày. Bà lấy chồng năm 22 tuổi, sinh được 3 người con trai. Thế nhưng, thật trớ trêu, chồng và hai người con trai của bà đã vĩnh biệt bà. Thật ngậm ngùi và xót xa. Tác giả bài báo này viết như
sau: “Chiều về trong căn nhà nhỏ thật buồn: con trai ngồi nhe răng cười vô hồn, con gái thu mình trong góc nhà ẩm tối; còn bà cụ nước mắt ngắn dài. Ở độ tuổi thất thập, dù mắc nhiều căn bệnh khó chữa nhưng bà vẫn phải oằn lưng kiếm từng đồng lẻ.”

Bạn thân mến, câu chuyện trên đây gợi ta nhớ tới sự hy sinh âm thầm và quả tim vĩ đại vô bờ bến của những người Mẹ giữa đời thường hôm nay. Ngày Lễ Vu Lan (31.08.2012) mới vừa diễn ra cách đây một tuần lễ. Người ta cài lên chiếc áo của mẹ chiếc bông hồng. Đó là loài hoa của tình yêu. Đó là nghĩa cử của tình yêu. Và động lực để Mẹ sống trong cuộc đời này là động lực tình yêu. Vậy, bạn và tôi trải nghiệm “Mẹ, động lực tình yêu cho cuộc
đời” như thế nào?

Mẹ hy sinh trong âm thầm vì yêu thương con

Trước hết, động lực tình yêu của Mẹ được thể hiện bằng sự hy sinh âm thầm cho con cái. Điều này đã được thể hiện cụ thể nơi cuộc đời của người mẹ già gần 70 tuổi trong câu chuyện trên đây. Tác giả diễn tả sự hy sinh của bà như thế này: “Ở độ tuổi thất thập, bà vẫn phải oằn lưng nuôi con. Vài chục ngàn từ gánh ve chai chỉ có thể lo cho 3 mẹ con rau cháo qua ngày. Hằng ngày phải chăm sóc, tắm giặt cho con đã lấy đi của bà Sáu không biết
bao nhiêu sức lực. Vì tuổi cao sức yếu cộng với sự thiếu thốn trăm bề nên nhiều  năm nay, bà Sáu mang trên mình các căn bệnh khó chữa: hen phế quản, suy tim độ 2 do suy mạch vành, tụt huyết áp…”. Bà cụ tâm sự cảm động: “Một tháng 30 ngày, hết 20 ngày tôi nằm điều trị ở BV đa khoa Dầu Giây rồi. Uống thuốc nhiều hơn là ăn cơm. Chỉ tội cho 2 đứa con vất vưởng. Đi lên đây mà ruột gan cứ nóng hừng hực…”

Bạn thân mến, nếu không có tình yêu thì người mẹ già trên đây đâu đủ sức hy sinh phi thường như thế. Hy sinh sống ở căn nhà cũ kĩ, nghèo nàn hơn 10 năm. Hy sinh lao động cực nhọc vất vả suốt ngày để kiếm tiền lo cho 2 người con bệnh tâm thần. Bởi thế, nếu không có hy sinh thì tình yêu trở nên vô nghĩa. Nếu không có tình yêu thì không thể hy sinh. Cho nên, Marie Antoinette đã cảm thấu: “Không ai có thể hiểu những đau khổ của tôi, hay
nỗi kinh hoàng dâng lên trong lồng ngực, nếu người đó không hiểu trái tim của một người mẹ.” Còn Thánh Augustinô thì khẳng định: “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm.” Điều này phải chăng được thể hiện cụ thể nơi những hy sinh âm thầm của Mẹ giữa cuộc sống đời thường hôm nay?

Mẹ luôn tha thứ và che chở đời con

Tiếp đến, động lực tình yêu nơi Mẹ được thể  hiện qua tha thứ và che chở đời con. Từ thuở chúng ta còn trong nôi, Mẹ luôn dõi mắt chăm nom và bảo vệ từng giấc ngủ của chúng ta. Lời ru của Mẹ, bàn tay của Mẹ đút ta từng bữa cháo, từng ly sữa khi ta còn tấm bé. Đến khi ta lớn khôn, ánh mắt và bàn tay ấy vẫn dõi theo cuộc đời chúng ta. Thật vậy, Mẹ lúc nào cũng muốn bảo vệ và che chở con cái của mình. Cho dù con mình có bệnh hoạn, tật nguyền hay bị người ta khinh ghét nhưng mẹ vẫn luôn là điểm tựa chắc chắn cho cuộc đời của con cái mình. Thế nên, bạn Vũ Vinh Quang tâm sự nỗi lòng nhớ mẹ như sau: “Những lúc gặp nhiều rắc rối trong cuộc sống, gặp những điều không ưng ý, hay là khi qua đây, mỗi khi làm việc vất vả quá, những lúc cảm thấy cô đơn, buồn quá thì Quang nghĩ đến Mẹ nhiều. Ngay cả trong giấc ngủ, từ lúc qua đây đến giờ đã 3 năm rồi, Quang nằm mơ thấy Mẹ liên tục. Nói chung, thường những lúc mình cảm thấy chán nản trong cuộc sống thì Quang hay mơ đến Mẹ, giống như là Mẹ tạo cho mình niềm tin động viên vậy đó.”

Tôi biết được hoàn cảnh cảm động của một người chị ở một vùng quê nghèo. Chồng chị mất sớm với chứng bệnh ung thư cổ. Chị phải sống trong cảnh “gà mẹ nuôi con” cho tới giờ phút này. Bây giờ ba người con trai của chị đều học hành đến nơi đến chốn. Ngẫm nghĩ mới thấy chị thật tuyệt vời. Luôn chăm sóc, che chở và bảo vệ con. Bởi vậy, cũng không lạ gì khi Mẹ tôi thường bảo rằng: ‘Người ta có nói gì thì nói, ghét gì thì ghét nhưng Mẹ làm sao bỏ con cái của mình cho được.” Quả thật, Mẹ lúc nào cũng đón nhận và tha thứ cho con. Dù con có lỗi lầm, sa ngã. Dù con có thất bại hay thành công. Thử hỏi, nếu không có tình yêu thì làm sao có sự tha thứ của Mẹ trong cuộc đời này?

Mẹ, động lực tình yêu cho con cái và cho cuộc đời

Bạn thân mến, thật hạnh phúc khi Thượng Đế ban cho chúng ta những người Mẹ trong cuộc đời. Mẹ luôn sống vì và cho tình yêu. Bởi thế, diễm phúc cho những ai còn Mẹ trong cuộc đời này. Phải chăng, mất cha là mất cả một bầu trời và mất Mẹ là mất cả một cuộc đời? Mẹ là minh chứng của giá trị tình yêu cho cuộc đời. Bởi vậy, bổn phận là con cái, chúng ta cần phải làm gì? Có bao giờ, bạn và tôi đã đọc được những câu ca dao hỏi lòng như thế này: “Mẹ anh quần quật một đời. Sao anh ngoảnh mặt anh cười cợt hoa … Mẹ anh lội bụi lội bờ. Sao anh áo lụa quần tơ ngày ngày. Mẹ anh bụng đói thân gầy. Sao anh vui thú mâm đầy cỗ cao?”

Ngày Lễ Vu Lan qua đi nhưng âm hưởng của nó vẫn còn vang lên tình yêu của Mẹ. Vì thế, đã có những dòng cảm thấu động lực tình yêu của Mẹ nơi những người con thật đáng trân quý. Chẳng hạn cảm nhận của một người con mới chập chững bước chân vào đời như sau: “Em nghĩ tới Mẹ lúc em đi học về, lúc em đói bụng. Nghĩ hồi trước về nhà, đi học về, có Mẹ nấu đồ ăn, có cơm sẵn cho mình ăn. Bây giờ, đi học về, ngồi gặm bánh mì thui thủi một mình hay nấu mì gói.” Hay như bạn Trần Trung Đạo mồ côi Mẹ đã cảm thấu Mẹ là tình
yêu vĩ đại bằng những câu thơ thấm thía như sau: “Giá mà tôi đổi thời gian được. Ðổi cả thiên thu tiếng Mẹ cười.” Hay một người con hiếu thảo nào đó đã trải nghiệm: “Con dù lớn vẫn là con của Mẹ. Đi hết đời lòng Mẹ vẫn theo con.”

Vậy, động lực của mỗi Kitô hữu chúng ta sống trong cuộc đời này là gì? Phải chăng đó là động lực tình yêu như những người Mẹ đã sống? Phải chăng đó là một cuộc đời luôn quy hướng về Thiên Chúa là cội nguồn của tình yêu như Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8)?

nguồn:Maria Thanh Mai gởi

Hãy yêu thương nhau

Hãy yêu thương nhau

tocngan k1

“Một người phụ nữ vừa bước ra khỏi nhà thì nhìn thấy có 3 cụ già râu tóc bạc phơ đang ngồi trên phiến đá ở trước sân nhà. Bà không quen biết họ, nhưng là người tốt bụng, bà lên tiếng nói: “Tôi không quen biết các cụ nhưng chắc là các cụ đang đói bụng lắm, vậy xin mời các cụ vào nhà tôi dùng một chút gì cho ấm bụng nhé… “.

– Rất tiếc thưa bà, cả ba chúng tôi không thể vào nhà bà cùng một lúc được. Họ đồng thanh đáp.

– Vì sao lại thế thưa các cụ…. Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi.

Một cụ già bèn đứng dậy từ tốn giải thích:

– Cụ ông này tên là Giàu Sang, còn kia là cụ ông Thành Đạt, và còn lão già đây là Tình Thương. Bây giờ bà hãy vào nhà hỏi ông nhà xem sẽ mời ai trong ba lão chúng tôi vào nhà trước nhé. Người phụ nữ đi vào nhà và kể lại sự việc cho chồng.

– Ồ vậy thì tuyệt quá! Người chồng vui mừng nói.

– “Vậy thì tại sao chúng ta không mời cụ ông Giàu Sang vào trước. Cụ là điềm phước rồi đây, sẽ cho chúng ta nhiều tiền bạc của cải sung túc”. Nhưng người vợ lại không đồng ý. “Nếu vậy thì tại sao chúng ta lại không mời cụ Thành Đạt vào trước chứ… Chúng ta sẽ có quyền cao chức trọng và được mọi người kính nể. ” Hai vợ chồng cứ tranh cãi một lúc mà vẫn chưa đi đến quyết định.

Cô con gái nãy giờ đứng nghe yên lặng ở góc phòng bỗng lên tiếng nhỏ nhẹ: “Ba mẹ ạ, tại sao chúng ta không thử mời ông già Tình Thương vào nhà trước đi. Nhà mình khi ấy sẽ tràn ngập tình thương yêu ấm áp, và ông già sẽ cho gia đình chúng ta thật nhiều hạnh phúc. ”

– “Có lẽ con gái mình nói đúng”.
Người chồng suy nghĩ rồi bảo vợ, “Vậy thì em hãy mau ra ngoài mời cụ Tình
Thương vào trước đi vậy. ”

Người phụ nữ ra ngoài và cất tiếng mời, “Gia đình chúng tôi xin hân hạnh mời cụ Tình Thương làm vị khách mời đầu tiên vào với gia đình của chúng tôi”. Cụ già Tình Thương từ tốn đứng dậy và chầm chậm bước vào nhà. Nhưng hai cụ già kia cũng từ từ đứng dậy và bước
theo cụ già Tình Thương…

Rất đỗi ngạc nhiên, người phụ nữ bước lại gần hai cụ Giàu Sang và Thành Đạt hỏi:

– “Tại sao hai cụ cũng cùng vào theo… Các cụ đã chẳng nói là cả ba cụ không thể vào nhà cùng một lúc sao”. Khi ấy cả hai cụ cùng trả lời: “Nếu bà mời cụ Giàu Sang hay Thành Đạt tôi đây, thì chỉ một trong hai chúng tôi vào nhà được thôi, nhưng vì bà mời cụ ông Tình
Thương, nên cả hai chúng tôi cũng sẽ vào theo. Bởi vì ở đâu có Tình Thương thì ở đó sẽ có Giàu Sang và Thành Đạt đó bà ạ”.

Câu chuyện minh họa như nhắc nhở chúng ta điều quan trọng nhất trong cuộc đời là tình thương. Chúa Giêsu cũng vì yêu thương đã mang lấy thân phận con người để cứu độ chúng ta. Trong đời rao giảng, Chúa làm mọi việc cũng vì yêu, nhưng những người kinh sư và Pharisêu hay rình mò để bắt lỗi Người. Phúc Âm thánh Luca hôm nay đã ghi lại việc Chúa chữa người bại tay cho dù những người Do Thái đưa những luật lệ của họ ra để ngăn cản Người.

Đức Giêsu nói với họ: “Tôi xin hỏi các ông: ngày sabát, được phép làm điều lành hay
điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?” (Lc 6,9)

Lạy Chúa Giêsu mến yêu, Chúa luôn bảo chúng con hãy yêu thương nhau, nhưng chúng con quá cứng lòng nên làm khổ nhau vì tính ích kỷ của mình. Xin cho chúng con biết thực thi Lời Chúa để cuộc đời đầy những niềm vui và những nụ cười.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

Lịch sử ngày Thánh Mẫu

Lịch sử ngày Thánh Mẫu
image
“Năm 2012”là tựa đề một cuốn phim rất nổi tiếng cách đây 3 năm, cuốn phim mô
tả một thiên tai như lụt thời Noe tận diệt nhân loại mà những người còn sống sót sẽ là tinh hoa của nhân loại không phải về mặt trí tuệ nhưng là nhân ái và yêu thương.
Ngày Thánh Mẫu 2012 đặc biệt hơn mọi năm, vì đây là một cái mốc đặc biệt để
nhìn lại những điều kỳ diệu Chúa và Mẹ Maria đã thực hiện suốt 35 năm qua cho những người sống sót trong cuộc đào thoát vượt biển tìm tự do. Hay nói đúng hơn đây là lần thứ 35 Mẹ qui tụ tất cả con cái Mẹ đang tản mác khắp nơi trên khắp thế giới lại dưới bóng Mẹ tại thành phố Carthage nhỏ bé này, để Mẹ yêu thương che chở và khẳng định với họ là Mẹ vẫn luôn hiện diện ở đó với họ để đồng hành và săn sóc họ dù họ có lưu lạc đến phương trời nào đi nữa. Để cảm nghiệm được NTM chính là công việc của Mẹ Maria, chúng ta hãy nhìn lại 10 ngày Thánh Mẫu đầu tiên.
image
Năm 1975, vâng lời người Anh Cả dấu yêu rời Việt Nam để bảo tồn Hội Dòng,
những tu sĩ Dòng Đồng Công đã mang theo trong tim mình ngọn lửa yêu mến
Mẹ và họ vẫn luôn khắc khoải làm thế nào để tôn vinh Mẹ và loan truyền lòng yêu mến Mẹ cho những đồng bào Việt Nam đang tha hương trên đất khách quê người.
image
Năm 1977, để thể hiện sự khát khao mong mỏi cho mọi người yêu mến Mẹ, các
bề trên Dòng đã quyết định tổ chức ngày tôn vinh Đức Mẹ và kêu mời những
người Việt Nam đang định cư tại các thành phố gần nhà Dòng đến tham dự.
Người đầu tiên làm trưởng ban tổ chức là linh mục Nguyễn Đức Thiệp, CMC. Số người tham dự có chừng hơn 500 người và nhà Dòng lo cả chỗ ngủ lẫn việc ăn uống của người hành hương. Vì lần này nhà Dòng đứng ra mời nên không gọi là Ngày Thánh Mẫu.
Ngày 3/6/1978 Ngày Thánh Mẫu lần đầu tiên được tổ chức với danh nghĩa là
“Ngày Đền Tạ Trái Tim Mẹ” do Nguyệt San Trái Tim Mẹ điều hành với số người tham dự là 1.540 người. Không có Giám mục nào tham dự mà chỉ có 28 linh mục. Thế nhưng Ngày Thánh Mẫu lần thứ hai diễn ra trong 3 ngày 1-3/6/1979 không những con số người tham dự tăng lên gấp đôi, có Đức Hồng Y Carberry, Tổng Giám Mục St. Louis, MO và Giám mục sở tại là Đức Cha Benard Law chủ tọa mà còn có Cuộc cung nghinh Thánh Tượng Mẹ Fatima với việc máy bay tung hoa tươi và truyền đơn xuống địa điểm hành lễ.
image
Điểm qua mười NTM đầu tiên, cứ mỗi lần tổ chức là một lần nữa ghi đậm dấu ấn
lời hiệu triệu của Mẹ với con cái của mình, bắt đầu từ NTM thứ 3, khách hành hương đã thấy đến từ các tiểu bang xa như California, Florida….Dịp này ĐGM đã truyền chức Phó Tế cho 5 tu sĩ Dòng Đồng Công.
Đến NTM thứ 4, số người tham dự đã hơn 6.000 người. Lần đầu tiên, một ca
đoàn Tổng Hợp đầu tiên được thành lập gồm 14 ca đoàn thuộc một số cộng
đoàn và giáo xứ trên khắp nước Mỹ cùng góp tiếng trong thánh lễ Đại Trào
thứ Bảy 13/6/1981. Huy hiệu chính thức cho NTM đã được ban Tổ Chức chọn
là huy hiệu hình tam giác có hai bàn tay chắp đang lần chuỗi. Huy hiệu này do cố tu sĩ Carôlô M.Đinh Bá CMC họa tặng NTM và anh đã chết vì bệnh ung thư xương chỉ mấy tháng sau NTM thứ 4, huy hiệu này vẫn được dùng cho tới ngày nay chỉ thay đổi màu sắc và ngày tháng cho mỗi năm.
image
NTM thứ 5 bắt đầu vào ngày 13-15 tháng 8 năm 1982 thay vì tháng 6 như
trước, số người tham dự là 8.200 người. Lần này, ngoài ĐGM giáo phận còn
có Đức Cha Giacôbê Huỳnh Văn Của thuộc giáo phận Phú Cường tham dự.
image
Với con số vượt kỷ lục là 16.000 người đã về tham dự NTM thứ 6 được tổ chức
trong 3 ngày từ 12-14/8/1983. Trong lần tổ chức này, ĐGM giáo phận đã cắt băng khánh thành Công Trường Nữ Vương Hòa Bình với tượng Đức Mẹ Tỵ Nạn cao 34 feet. Một công trình được xây cất hơn 1 năm trời do cha Hòa CMC chủ trì với sự ủng hộ của một gia đình ẩn danh tại Port Arthur. Về mặt giáo quyền, lần đầu tiên Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Pio Laghi tới tham dự NTM cùng 4 giám mục khác.
image
NTM thứ 7 từ  ngày 10-12-1984 trùng vào dịp kỷ niệm 2000 năm sinh nhật Đức
Trinh Nữ Maria. Chi Dòng Đồng Công được tổ chức Đạo Binh Xanh Quốc Tế
cho phép đón rước tượng Mẹ Fatima Thánh Du về đặt tại Đền Thánh Khiết
Tâm Mẹ. Đặc biệt năm nay có sự hiện diện của ĐTGM Ngô Đình Thục, nguyên
TGM địa phận Huế.
Hơn 22.000 người đã nô nức đổ về thành phố Carthage, Missouri để tham dự
NTM thứ 8 trong 3 ngày 9-11-1985, cũng là kỷ niệm 10 năm tha hương. Nhân
dịp này, cha Barnabas Nguyễn Đức Thiệp, Giám tỉnh Chi Dòng Đồng Công
Hoa Kỳ và cha Piô Nguyễn Quang Đán, trưởng ban tổ chức đặt vòng hoa tưởng niệm những người đã chết vì tự do và hòa bình trên biển cả và trong suốt cuộc chiến.
image
NTM thứ 9 trùng với dịp Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ mừng kỷ niệm 33 năm thành
lập Dòng 1953-1986, đã có tới 30.000 người đổ về khuôn viên Nhà Dòng. Cũng trong dịp đặc biệt này, Đức Hồng Y Bernard Law và Đức Khâm Sứ Tòa Thánh tại Hoa Kỳ cũng đến tham dự NTM.
Từ NTM thứ 10, ban tổ chức đã quyết định thời gian để tổ chức NTM sẽ là 4
ngày từ 6-9/8/1987. Dịp này, 40.000 người đã về tham dự NTM để mừng kỷ
niệm 70 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Dịp này mọi người đã hướng về Cha
Bề Trên Đaminh Maria Trần Đình Thủ , Sáng Lập Dòng Đồng Công và một số
linh mục tu sĩ đang bị tù tại Việt Nam.
Từ đó NTM được tổ chức ngày một nề nếp hơn và số người tham dự tăng dần
lên cho đến năm 2011 vừa rồi có khoảng 65 ngàn người tham dự.
image
2011
image
image
Nếu có ai đó hỏi rằng điều đáng nói nhất trong 35 lần tổ chức NTM là gì?
Phải chăng đó là an ninh luôn được đảm bảo hay thời tiết tốt đẹp …cho dù
có đôi lần bị mưa, hay là nhà Dòng tổ chức, sắp xếp công việc chu đáo.
Xin thưa: Không phải, mặc dù đây là những yếu tố quan trọng trong việc
tổ chức. Điều đáng nói nhất ở đây chính là Mẹ Maria. Chính Mẹ đã chọn
thành phố nhỏ bé này, và chính Mẹ đã soi sáng, dẫn dắt muôn người từ
muôn phương về đây, không có sự quảng cáo hay sức mạnh nào có thể làm
cho hàng chục ngàn người bỏ giường êm, nệm ấm để đến NTM mấy ngày liền,
ngủ lều, nằm đất, chịu đủ thứ bất tiện. Ngoài Mẹ Maria không có một tổ
chức nào, một Hội Dòng nào có thể làm được như vậy. Hầu hết những người
đã đến tham dự NTM đều cảm nhận được Tình Mẹ Maria qua các bí tích, qua
thời tiết, an ninh…….để có thể nói NTM là “những ngày của Mẹ.”
Thiên Minh
Ngày thánh Mẫu năm 2012
Từ ngày 2 tháng 8 đến ngày 5 tháng 8 năm 2012
Tại Tỉnh dòng Đồng Công Hoa Kỳ, Carthage, Missouri, USA
Hằng năm lại có một kỳ
Đại Hội Thánh Mẫu Car-thage ai ơi
Rủ nhau xếp việc nghỉ ngơi
Carthage xum họp vui nơi tình người…
(Thơ của Joseph Khoa Nguyễn)
nguồn: Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Tiền bạc – mối đe dọa truyền kiếp

 

 

Tiền bạc – mối đe dọa truyền kiếp

 

Br. Huynh Quang                               nguồn: Brother Huynh Quảng

 

Aristotle cho rằng, tiền bạc chỉ là phương tiện hữu ích, nó chỉ có giá trị khi ta dùng nó để giúp ta đạt được những điều khác.

Khi quá tích trử và gom góp cho đời sống con người, chúng ta sẽ lãng quên khả năng tích trử công đức cho đời sống vĩnh cửu

Thời xưa, các ẩn sỉ ra chợ bán hàng và dùng tiền để mua bánh mì. Nếu tiền còn dư, họ sẽ cho người nghèo hết, vì họ sợ rằng, mang tiền về sẽ làm cho họ hằng ngày bận tâm tới việc cất giữ chúng; và nguy hiểm hơn chính là họ dần dần đặt sự an toàn của mình vào số tiền trong kho đó thay vì là Chúa.

.

“Đam mê tiền của là cội rể của mọi sự dữ” (I Tim 6:10). Giàu có không phải là tội, nhưng để tiền của làm chủ đích mọi suy nghĩ và hành động của mình là điều dễ dẫn ta tới tội. Mối nguy hiểm chính là khi ta có nhiều tiền bạc, ta dễ bị đánh lừa và nhận thức sai lầm rằng: Tiền bạc có thể ban cho ta có mọi thứ ta muốn mà không cần Chúa.[1] Nhưng thực ra, tài khoản trong nhà băng, dù nhiều đến bao nhiêu cũng không thể mua được bình an, công bằng, và tự tại. Như thế, tham lam cũng được cho là gốc của các loại tội vì nó rất gần với kêu ngạo – muốn làm chủ đời mình mà không cần Thiên Chúa. Mình muốn dùng những phương tiện vật chất để đảm bảo lấy trách nhiệm cuộc sống của mình và gạt Chúa ra khỏi đời mình – không lệ thuộc vào Đấng Tạo Hóa nữa, đó là một khuôn mặt mới của tội kêu ngạo.

Nhưng thực ra, theo Beothius, “Chúng ta càng sở hữu tiền của bao nhiêu, thì chúng ta cũng mất nhiều thời gian, sức lực, và tiền của bấy nhiêu để bảo vệ chúng.”[2] Như thế, sự giàu sang không làm cho ta nên giàu có, mà làm cho ta thêm héo khô, lo lắng, và bất an. Một ẩn sĩ đã tâm sự rằng, “Một tu sĩ với nhiều tiền của sẽ như một con thuyền nặng nề dễ dàng bị chìm trong cơn bão tố.”[3]

* * *

Chàng thanh niên trong Tin Mừng đã chạy đến Chúa Giêsu để hỏi xem làm thế nào để được hưởng sự sống đời đời (x. Mt 19:17). Ngoài vấn đề giữ lề luật ra, Đức Giêsu đánh thẳng vào tâm điểm của ơn gọi làm môn đệ khi Ngài mời gọi anh ta bán tất cả của cải mình có, bố thí cho người nghèo, và theo Ngài (x. Mt 19:22). Cốt lõi của vấn đề chính là từ bỏ chính mình, đặt cuộc đời mình trong tay Chúa, và liều thân theo Chúa với phận nghèo.

Tin Mừng thuật lại người thanh niên đã giữ nhiều lề  luật trong Mười Điều Răn, (chớ giết người, chớ ngoại tình, chở trộm cắp, chớ làm chứng dối, thảo kính cha mẹ, yêu người thân cận; ở đây, anh ta không nói đến lề luật “chớ tham tham”). Rõ ràng, “Khi đối diện với luật hoàn hảo của Thiên Chúa, anh ta buộc phải đối diện với điều luật ‘chớ tham lam’ (Ex 20:17).”[4] Tham lam, tôn sùng của cải là cản trở lớn nhất để người thanh niên theo Chúa. Anh ta không muốn từ bỏ của cải mình để theo Chúa, là vì của cải đã trở thành điểm tựa cho đời anh; của cải trở thành “chúa” của đời anh. Buồn thay, chân lý đã có được trong tầm tay, tự do và bình an đã được ban tặng, nhưng chỉ vì quá bận tâm đến của cải trần thế, người thanh niên đã khước từ những giá trị vĩnh cửu mà chọn những giá trị tạm bợ chóng qua. Đọc tiếp Mt 19: 23-30, Phêrô cũng đặt một câu hỏi tương tự như thế, “Thưa Thầy, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?” Câu trả lời là các con “Sẽ được gấp trăm ở đời này và đời sau.” Ai theo Chúa với tất cả niềm tín thác đều xác tín và cảm nghiệm lời Chúa đúng tuyệt đối.

* * *

Trong thư I Timothê 6:6-10, thánh Phaolô đã khuyên nhủ rằng, “Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa vào cám dỗ với cạm bẫy, và lắm đam mê ngông cuồng tai hại, mà trầm luân diệt vong, hư khốn. Vì tham tiền là cội rễ mọi sự dữ. Cầu thỏa lòng tham, thì có kẻ đã lạc xa đức tin và bị bao nỗi đớn đau xâu xé.”

Với tiền bạc sẵn có trong tay, tính tham lam sẽ có cơ hội trỗi dậy. Vì tham lam không những là mong muốn chiếm đoạt điều mình không có, nhưng còn muốn sở hữu và chiếm đoạt những thứ mà mình hoàn toàn không cần đến.

Thói quen “shopping” dường như trở thành một thói quen của nhiều người, đặc biệt tại Hoa Kỳ. Thói quen đi shopping hằng tuần ở những nơi “on sales” thực ra đó là những lần mua những hàng hóa ngoài nhu cầu cần thiết. Shopping nhiều lần như thế sẽ trở thành thói quen xấu. Vì thực ra của cải vật chất phải là phương tiện để phục vụ con người, chứ chúng không thể trở nên trung tâm đời sống chúng ta và làm cho chúng ta quá bận tâm tới việc sở hữu
chúng. Quá bận tâm sỡ hữu một sự vật nào đó biểu lộ cho thấy tâm hồn ta đang ở
trong tình trạng bất an, đang muốn tìm một điều gì để khỏa lấp nỗi bất an, trống vắng ấy. Và như thế, suy nghĩ về điều gì, muốn sỡ hữu điều gì, muốn trao tặng điều gì đều là những biểu hiện khác nhau của một quả tim ẩn chứa sự khao khát muốn lấp đầy và kiếm tìm để được no thỏa.

Rất nhiều gia đình đã tan vỡ cũng chỉ vì liên quan đến tiền bạc, mua sắm vật chất.

Anh A làm lụng vất vả hằng ngày; chị B lo chăm sóc con cái và đưa chúng đi học. Rảnh rỗi đôi chút, chị đọc báo thấy “on sales” ở siêu thị này, siêu thị nọ liền lên kế hoạch, trước là chỉ để xem cho biết vì rẻ, dần dần chị mua một hai món hàng thật sự rẻ – và đúng nó rất rẻ theo giá cả thị trường. Từ từ chị B có thói quen đi shopping và mua những món hàng chỉ vì thấy
chúng rẻ và lý luận, “Nếu không mua thì uổng.”

Anh A tỏ ra khó chịu, cứ mỗi tuần đi làm về thấy nhiều món hàng mới lạ trong nhà mà vợ cho rằng mua chúng vì rẻ. Nào lá cái máy xay sinh tố, nào là cái thớt cắt thịt, nào là cái máy xay đậu, v.v,… “Chúng ta đã sắm đầy đủ rồi mà,” anh A lên tiếng. “Rẻ mà anh, on sales không mua thì uổng.” Cứ như thế, anh A dần nghĩ rằng vợ mình không biết quí công sức và đồng lương mình kiếm được; chị B lại cho rằng chồng mình tỏ ra keo kiệt không thương mình như xưa nữa, chỉ có mấy đồng bạc mà cũng đắn đo, cằn nhằn.

Mối bất hòa dần dần xuất hiện khi để cho tiền và vật chất chiếm chỗ trung tâm trong lối suy nghĩ của hai người; chủ đề của nhưng lần gặp gỡ chỉ là xoay quanh những món hàng và tiền bạc. Và để bảo vệ mình và lập trường của mình, anh A tìm những biện minh, lý lẽ để chứng mình rằng việc mình nói là đúng. Đồng thời, chị B cũng tìm mọi lý lẽ biện hộ để bảo vệ cái tôi của mình. Những cuộc nói chuyện của họ dần dần đi ra xa những chủ đề về con cái,
gia đình, bà con, bạn hữu, nhưng thay bằng là tiền, là hàng hóa vật chất. Mối rạn nứt bắn đầu khi chị B nghĩ rằng anh A không thương mình nữa; còn anh A thì cho rằng chị B không còn biết lo cho gia đình, cho mình và cho con. Cải vã, lời qua tiếng lại, bằng mặt mà không bằng lòng,… từ từ hiện diện giữa hai người,… hạnh phúc bay xa tầm hai người.

Đối với bất cứ ai, tiền bạc vật chất có thể sẽ là một đầy tớ tốt trung tín, nhưng chúng cũng có thể là ông chủ rất tồi. Anh A không hiểu được chị B đi mua sắm chẳng qua là biểu hiện một sự thiếu hụt nào đó trong con tim, trong gia đình, chứ từ ban đầu chị B đâu có ý tiêu xài phung phí. Chị B đâu có hiểu rằng việc anh A “tính toán” đôi chút đó là một sự biểu hiện sự lo lắng cho tương lai của mình, vợ và con của mình – Nơi anh A có một chút lo âu cho gia tương lai gia đình. Nếu những cuộc trò chuyện của họ nhằm vào hai điểm này, thì chắc chắn bầu khí hạnh phúc trong gia đình sẽ phát triển tốt đẹp hơn, nhưng vì trung tâm của nhưng lần trò chuyện là tiền và vật chất, nên không lạ gì chuyện bất hòa là có thật. Như thế đó, bản chất của vấn đề là tình cảm, tình yêu chứ đâu phải vật chất tiền bạc. Nhưng nếu không hiểu nội vụ đằng sau của sự kiện, mà lại quá chú trọng đến tiền bạc trên bề mặt, người ta sẽ bị dẫn đến thảm cảnh chia lìa, đau xót ngay trong gia đình và tâm hồn mình mà chính đương sự không hay biết.

Các tác giả Tin Mừng kết luận rằng, Giuđa nộp Thầy là vì lòng tham tiền bạc. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng, “Chớ lo lắng về ngày mai…” (Mt 6:25). Quả thật, khi quá chú tâm đến của đời sống dương thế, con người sẽ đành mất hướng đi vào Nước Trời. Khi quá tích trử và gom góp cho đời sống con người, chúng ta sẽ lãng quên khả năng tích trử công đức cho đời sống vĩnh cửu. Đó chính là mối nguy hiểm lớn nhất của lòng tham.

* * *

Cốt lõi  của vấn đề chính là từ bỏ chính mình, đặt cuộc đời mình trong tay Chúa, và liều  thân theo Chúa với phận nghèo.

Nhìn vào chính con người của mình chúng ta thừa nhận rằng, dường như chúng ta dễ đánh giá người khác theo tiêu chuẩn “having” (có) mà không là “being” (là), đó là dấu hiệu của sự đảo lộn trật tự trong tâm thức của con người chúng ta. Chúng ta thích làm bạn với những người có tiền của, nể vị những người chức quyền và học vị cao, trong khi chúng ta ít để ý hay quan tâm đến những người bình thường khác trong cộng đoàn và xã hội. Nhưng theo đức
tin chúng ta tuyên xưng, mọi người đều là con cái Thiên Chúa và họ là anh em với nhau. Chạy theo tiêu chuẩn trần thế, ta không những coi thường phẩm giá của người khác, mà còn đánh mất căn tính Kitô của mình. Theo chân phước John Paul II, con người chạy theo cái gọi là “tiêu chuẩn cuộc sống” được hiểu là hữu dụng, có chức năng và phong phú về mặt kinh tế.[5] Với tiêu chuẩn này, con người chỉ có giá trị khi họ còn sức lao động, làm ra của cải vật chất, nếu không, họ không còn có giá trị nữa. Xét theo “tiêu chuẩn” này,các em bé và những người già yếu trở nên những “người thừa” của xã hội. Vì họ không “hữu dựng và có chức năng về mặt kinh tế.” Đến đây ta nhận định rằng, đây là sự sai lạc nghiêm trọng trong lối suy nghĩ đề cao tiền của vật chất trong đời sống và mối quan hệ. Nếu quan niệm tiền bạc lên trên giá trị con người và để cho tiền bạc điều khiển cuộc sống của mình, một ngày nào đó, không sớm thì muộn, đương sự ấy sẽ không tìm thấy “giá trị” của mình nữa; vì có lúc đời mình cũng trắng tay như một em bé mới chào đời. Chẳng lẽ khi con người trắng tay thì mình không còn giá trị?!

Tóm lại, thánh Augustino đã trải qua kinh nghiệm rong ruỗi những giá trị vật chất tạm bợ, cuối cùng cũng nhận định rằng: “Chúng ta sẽ không bao giờ có thể thỏa mãn nổi khao khát về hoàn mỹ sâu thẳm trong con người của mình bằng những giá trị tạm bợ bất toàn.”[6]

(Còn tiếp)

 

[1] Cf. Aquinas, 1368-72.

[2] Loc. 1383-88.

[3] Loc. 1383-88.

[4] Warren W. Wiersbe, Wiersbe’s Expository Outlines on
the New Testament
, 71-72 (Wheaton, Ill.: Victor Books, 1997).

[5] Cf. Loc. 1358-63.

[6] Loc. 1388-93.