
Sưu tầm – Bình Luận-Sự Kiện
TÔI TIN
(Linh Mục Anphong Trần Đức Phương)
Chúng ta đang sống trong một xã hội mà khoa học đã tiến được những bước dài. Người ta đã có thể lên thăm “Mặt Trăng” và nhờ ống viễn kính, người ta có
thể dò thám các hành tinh khác và quan sát vũ trụ bao la. Phi thuyền không gian đã đưa được nhiều phi hành gia lên làm việc trên vũ trụ, sinh sống ở trên đó cả nhiều tháng trời, có khi cả năm, rồi lại trở về trái đất.
Nhờ tiến bộ kỹ thuật ‘Tin Học’ mà ngày nay chúng ta có thể thông tin cho nhau thật nhanh chóng qua hệ thống điện thư (Email) và vừa nói chuyện vừa thấy mặt nhau. Nhờ đó, thế giới thu nhỏ lại như một ngôi làng.
Tuy nhiên, do những tiến bộ vượt bậc này, con người dễ trở nên kiêu căng, tự phụ, coi mình là “Ông Trời” và chối bỏ đức tin vào Thiên Chúa. Giới trẻ bước vào đại học cũng dễ bị nhiễm những lý thuyết và tư tưởng vô thần. Từ vô thần con người cũng dễ đi đến vô luân (theo một nghĩa nào đó).
Thí dụ, ngày nay có những chính quyền chối bỏ luật tự nhiên, chủ trương “nam lấy nam nữ lấy nữ” cũng là hôn phối (same sex marriage). Ở bên Hoa kỳ, chẳng
hạn, đã có những vị chánh án phát biểu: “Thật là bất công, nếu ‘hôn phối’ (marriage) chỉ là giữa một người nam và một người nữ.” Họ quên rằng hôn phối tự nhiên “giữa một người nam và một người nữ” là để sinh con cái, và phát triển nhân loại; cũng như mọi vật trên trái đất đều phát triển qua các thế hệ nhờ sự kết hợp giữa “nam” và “nữ” hay “đực” và “cái”. Đã có những tiểu bang ở Hoa Kỳ cấp giấy phép để nam lấy nam, nữ lấy nữ thành ‘vợ chồng’ (same sex marriage) một cách phợp pháp và hưởng các quyền lợi như những đôi cưới nhau theo hôn phối tự nhiên. Lại có những nhà lãnh đạo các giáo phái chấp nhận như vậy và “làm phép hôn phối’ cho các đôi ‘nam lấy nam, nữ lấy nữ’. Ngoài ra chúng ta còn phải kể đến những phong trào luyến ái tự do, tự do ly dị, tự do phá thai (cha mẹ tự giết con của mình!)
Đứng trước những trào lưu ‘vô thần’ và ‘vô luân’ như vậy trong thế giới chúng ta ngày nay, Giáo Hội Công Giáo cố gắng củng cố Đức Tin cho các tín hữu các nơi và Đức Giáo
Hoàng đã lập ‘NĂM ĐỨC TIN’ để chúng ta cầu nguyện, học hỏi, xây dựng một nền
tảng Đức Tin vững chắc cho chúng ta, cho con cháu chúng ta và phát triển Đức
Tin chân thật cho mọi người chung quanh chúng ta, nơi sở làm, trường học, khu
xóm (Xin xem Thơ Philípphê 2:15).
Chúng ta phải cầu nguyện, vì Đức Tin là một ơn huệ Chúa thương ban và cần ơn Chúa giúp để tồn tại và phát triển, nhất là giữa thế giới đầy những phong trào vô thần và vô
luân ngày nay. Ngay cả các môn đệ theo Chúa Giêsu ngày xưa cũng thấy yếu Đức Tin và cần cầu xin Chúa thêm Đức Tin: “Lạy Thầy, xin Thầy thêm Đức Tin cho chúng con.” (Luca 17:5).
Trong Phúc Âm chúng ta thấy, sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ chữa lành các bịnh nhân, Chúa Giêsu thường nói “Đức Tin của con đã chữa con!” để nhấn mạnh
đến vai trò quan trọng của Đức Tin trong đời sống của những người theo
Chúa. Vì Đức Tin là nền tảng: Có tin Chúa, chúng ta mới trông cậy nơi quyền năng của Chúa và mới cầu xin Chúa. Chẳng hạn như câu chuyện hai người mù khi biết Chúa Giêsu đi ngang qua, đã khẩn thiết xin Chúa cho các anh được nhìn thấy, và dù mù loà các anh vẫn kiên nhẫn lần mò đi theo Chúa. Để thử thách niềm tin của các anh, Chúa Giêsu cứ đi như không để ý đến các anh, cho đến khi về tới nhà mà các anh vẫn theo tới. Bây giờ Chúa Giêsu mới hỏi: “Các anh có tin rằng tôi có thể chữa lành các anh được không?” Các anh liền thưa: “Chúng tôi tin!” Bấy giờ Chúa Giêsu sờ vào mặt các anh và nói: “Các anh tin thế nào thì được như vậy!” Mắt các anh liền mở ra và các anh đã thấy. (Xin xem Phúc Âm Matthêu 9:27-30; có thể xem thêm câu chuyện Chúa Giêsu chữa người đầy tớ của viên Đại Đội Trưởng (Mathêu 8:5-13).
Chúng ta nhớ lại, khi chúng ta chịu phép Rửa Tội, vị chủ sự hỏi chúng ta “Anh chị em xin gì với Hội Thánh Chúa?” Chúng ta thưa “Thưa xin Đức Tin.” “Đức Tin đem
lại điều gì cho anh chị em?” Chúng ta thưa “ Thưa Sự Sống Đời Đời.” Tin Thiên Chúa hằng hữu và tin ở cuộc đời sau; đó là niềm tin của chúng ta, và điều quan trọng nhất là “Sự Sống Đời Đời.” Vì đó là cùng đích của cuộc hành trình Đức Tin của chúng ta.
Chúng ta tin những gì? Thưa chúng ta tin tất cả những điều Chúa dạy chúng ta ở trong Kinh Thánh, mà đã được Giáo Hội tóm lại trong sách Giáo Lý (ngày xưa gọi là Sách Bổn), và ngắn gọn hơn trong “Kinh Tin Kính” mà chúng ta cùng nhau đọc trong mỗi Thánh Lễ Chúa Nhật, Lễ Trọng, và khi chúng ta đọc kinh trong gia đình hàng
ngày.
Chúng ta cũng phải luôn luôn cảnh giác trước những cám dỗ của các trào lưu vô thần, và vô luân, những cám dỗ (mà chúng tôi đã trình bày ở phần trên) làm xa lạc Đức Tin
chân chính, như Thánh Phêrô nói: “ Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức; vì ma
quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong Đức Tin mà chống cự lại; vì biết rằng toàn thể anh em trên thế giới đều trải qua những thử thách như thế. Thiên Chúa, nguồn mọi ân sủng, là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của người trong Đức Kitô, sẽ cho anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1 Phêrô 5:8-10). Ở một đoạn khác, thánh Phêrô nói: “ Anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu ngày nay anh em còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách do nhằm tinh luyện Đức Tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội (mà vàng là của phù vân, cũng vẫn phải chịu thử lửa!) Nhờ thế mà khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, Đức Tin đã được thanh luyện đó sẽ trở thành lời ngợi khen, và đem lại vinh quang, danh dự… Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến; tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang; bởi đã nhận được thành quả của Đức Tin là ơn cứu độ con người.” (1Phêrô 1:6-9) (Chúng ta có thể xem thêm Mathêu 17:20; Mathêu 21:21; Mátcô 11:23; Luca 7:4-10).
Vậy chúng ta hãy cầu nguyện chung cho nhau (nhất là trong Năm Đức Tin này), xin Chúa cho chúng ta quý trọng Đức Tin Chúa ban cho chúng ta, bảo vệ và phát triển
Đức Tin nơi chúng ta, nơi con cháu chúng ta, và loan truyền Đức Tin chân thật
cho mọi người chung quanh chúng ta.
Xin Chúa nhân từ, nhờ lời Đức Mẹ Maria, Thánh Giuse, và các Thánh Tử Đạo Việt Nam, và các Thánh chuyển cầu, ban muôn ân sủng và bình an cho chúng ta trong Năm Đức Tin này.
Maria Thanh Mai gởi
Ánh sáng và bóng tối (Mt 2,1-12)
Lễ Hiển Linh năm C
Thiên Phúc
Nhà đại thiên văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng sinh, có một hiện tượng bất bình thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng, bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau, năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi?
***
“Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông” (Mt 2,2). Người xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vị tinh tú
để đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Quả thật, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ. Đấng ấy được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh thánh: “Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng chỗi dậy từ Ítraen” (Ds 24,17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo: “Hỡi Belem, Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong hoang địa về đất hứa, thì người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Belem để gặp Đấng Cứu tinh.
Nhưng có một sự thật vô cùng trớ trêu: là khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sự thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Herôđê lại
còn hoảng hốt vì sự ngai vàng của mình bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện
cho lương dâng lại hăng hái lên đường, hăm hở tìm kiến, cho dù cuộc kiếm tìn
đầy phiêu lưu trắc trở. Và khi tìm được rồi, Đấng Cứu Thể cũng chẳng có vẻ gì
là một vị quân vương, không uy nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ
vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quí giá với tất cả tấm
lòng thành.
Sau này, chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Isaac và Gia cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài” (Mt 8, 11-12).
Lễ Hiển Linh là lẽ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền giáo.
Nhờ ngôi sao lạ mà các đạo sĩ đã tìm ra Đấng Cứu Thế; chúng ta cũng hãy là những ánh sao sáng thu hút những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm Chúa.
Nếu con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương.
Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng
Nếu Chúa đã gọi: “Chúng con là ánh sáng thế gian” (Mt 5, 14), thì đó là một vinh dự vô cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Chúng ta đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng; Nến sáng của tin yêu và hy vọng, của bác ái và vị tha, để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu Chúa.
Chúng ta đừng chỉ lo gìn giữ ngọn nến của ngày chịu phép rửa tội, nhưng hãy can đẩm thắp sáng những ngọn nến còn trong bón tối lầm lạc và tội lỗi, để thế giới này luôn đi trong ánh sáng chân thật của Chúa.
***
Lạy Chúa Hài đồng, Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới này và trong lòng mỗi người chúng con.
Xin cho chúng con biết kín múc nơi Chúa là chính Nguồn Sáng, để chúng con có khả năng đẩy lui mọi bóng tối trong chúng con và trong lòng mọi người. Amen.
Anh chị Thụ & Mai gởi
Giấc Mơ Của Mẹ Têrêxa Calcutta
Mẹ Têrêxa Calcutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 và là người sáng lập viện của dòng Nữ Tử thừa sai Bác Ai chuyên phục vụ người nghèo và hấp hối, đã kể lại ơn gọi phục vụ của Mẹ trong một lá thư viết từ Calcutta như sau:
“Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên Đàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho tôi vào Thiên Đàng. Ngài nói như sau: “Không thể để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào Thiên Đàng. Thiên Đàng không có nơi cùng khổ”.
Tôi mới tức giận nói với Ngài như sau: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên Đàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên Đàng”.
Tội nghiệp thánh Phêrô. Kể từ sau giấc mơ ấy, Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho Ngài được ở yên phút nào. Không biết bao nhiêu người cùng khổ và cô đơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên Đàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ.
Giai thoại trên đây của Mẹ Têrêxa Calcutta như muốn nói lên một chân lý: không ai
nên Thánh một mình, không ai lên Thiên Đàng một mình.
Đức Cha Fulton Sheen, vị diễn giả nổi tiếng trên các đài truyền thanh và truyền hình tại Hoa Kỳ, đã có lần phát biểu như sau: “Không ai trong chúng ta có thể vào Thiên Đàng, nếu ở đó không có ai nói với chúng ta: chính tôi đã giúp đỡ để bạn được vào Thiên Đàng”.
Ai cũng có thể là một trợ giúp để đưa chúng ta vào cửa Thiên Đàng. Họ có thể là
những người cùng khổ mà chúng ta chìa tay để san sẻ, để giúp đỡ. Họ cũng có thể
là những người cách này hay cách khác làm cho chúng ta đau khổ. Nhưng ưu tiên
hơn cả vẫn là những người chúng ta cố gắng làm cho hạnh phúc. Chính những người
đó là kẻ giúp đỡ chúng ta được vào Thiên Đàng. Nhưng Thiên Đàng không đợi chờ ở
đời sau. Hạnh phúc cũng không chỉ dành lại cho đời sau: Thiên Đàng và Hạnh Phúc
có thể đến với chúng ta ngay từ cõi đời này. Và Thiên Đàng và Hạnh Phúc ấy là
gì nếu không phải là mỗi lần chúng ta cố gắng làm cho người khác được hạnh
phúc.
Trích Lẽ sống
Chị Nguyễn Kim Bằng gởi
Bí Quyết Hạnh Phúc
Trong một chương trình truyền hình Mỹ, người ta phỏng vấn một cụ già, tuổi hạc rất cao. Người ta đặt câu hỏi như sau: “Thưa cụ, chắc cụ có một bí quyết đặc biệt để được hạnh phúc?”
Cụ già trả lời một cách đơn sơ như sau: “Không, tôi chẳng có bí quyết nào gọi là đặc biệt cả. Trái lại, nó rất đơn giản như chiếc mũi trên mặt ông vậy!”. Cụ già giải thích như sau: “Mỗi buổi sáng mai, lúc thức dậy, tôi có hai điều chọn lựa, một là sống hạnh phúc, hai là sống bất hạnh. Ong nghĩ xem, tôi sẽ chọn điều nào? Dĩ nhiên tôi phải chọn được hạnh phúc”.
Câu trả lời trên đây của cụ già thật đơn giản. Abraham Lincol đã nói như sau: “Con người sở dĩ có được hạnh phúc, sung sướng hay không cũng tại lòng tưởng nghĩ như vậy”. Bạn có thể hạnh phúc, nếu bạn muốn như thế. Đó là điều dễ thực hiện nhất trên đời. Bạn hãy chọn lựa sự bất hạnh. Đi đến đâu bạn cũng than thân trách phận, chắc chắn bạn sẽ được như ý. Nhưng nếu lúc nào bạn cũng tự nhủ rằng: “Mọi việc đều tốt đẹp, đời vẫn đẹp và đáng sống. Tôi chọn sống hạnh phúc”, thì chắc chắn bạn sẽ được điều bạn muốn.
Trẻ con rành về nghệ thuật sống hạnh phúc hơn người lớn. Trẻ em mang vào giấc ngủ của mình vô số những mộng mơ và chúng cũng thức giấc với vô số những mộng ước, trong đó cơ bản nhất vẫn là được vui chơi.
Ngườilớn mà có được một tinh thần như trẻ thơ lúc tráng niên và vào tuổi già, thì
quả là một thiên tài, vì họ nắm được niềm hạnh phúc thật trong tâm hồn mà Chúa đã
dành để cho tuổi thanh xuân. Chúa Giêsu quả là tế nhị khi Ngài nói với chúng ta
rằng cần phải có tinh thần trẻ thơ thì mới vào được Nước Trời. Nước Trời là gì
nếu không phải là được sống hoan lạc trong tình yêu thương của Chúa?
Trích Lẽ sống
Chị Nguyễn Kim Bằng gởi
“Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ”
Nhà độc tài nào sau khi ra đi cũng trở thành bia cho không biết bao nhiêu những lời
đàm tiếu của thiên hạ. Năm 1986, người ta nói đến trên 3,000 đôi giày đã trở
thành bảo tàng viện của bà Imelda Marcos, phu nhân của cựu tổng thống Phi Luật
Tân, ông Ferdinand Marcos. Sau đó, người ta lại bàn tán về những đôi giày của
bà Elena, vợ của nhà độc tài Ceaucescu bị hành quyết tại Rumani.
Khi vợ chồng của cựu tổng thống Marcos bị bắt buộc phải bỏ nước Phi, dân chúng đã tuôn đến dinh tổng thống như một ngày hội: họ đến đó chỉ để xót xa so sánh cái cảnh giàu sang quá mức của gia đình nhà độc tài với cái đói khổ mạt rệp của dân chúng. Người dân Phi nói rằng, trong 9 năm liền, bà Imelda Marcos chỉ có thể mang một đôi giày không quá 3 lần là cùng. Sau khi hành quyết vợ chồng Ceaucescu, người ta mới khám phá ra rằng căn nhà mà họ cho là bình thường của họ chính là một biệt thự sang trọng với 40 phòng khác nhau được trang trí bằng những bức tranh đắt giá, phòng tắm được khảm bằng vàng. Mỗi phòng đều có truyền hình và máy video.
Tài sản của ông Ceaucescu cũng không thua kém gì những của cải biển lận của ông Noriega, cựu tổng thống bị truất phế của Panama. Ong tướng này không chỉ có những căn nhà lộng lẫy trong nước, mà còn không biết bao nhiêu biệt thự tại Pháp và các nước khác. Máy bay và những chuyến du thuyền của ông không còn là những phương tiện để di chuyển, mà là cả một thú sưu tầm.
Không có một nhà độc tài nào mà không tham lam tiền của. Người ta nói đến hàng tỷ Đôla của ông Marcos. Nhà độc tài của một nước nghèo nàn như Haiti cũng có đến 400 triệu Mỹ kim. Somoza, người bị lật đổ tại Nicaragua, thì có đến hàng trăm triệu Đô la đầu tư vào những kinh doanh đồi trụy như đĩ điếm, cờ bạc. Cựu hoàng đế Pokassa của một nước nghèo nàn lạc hậu như Cộng Hòa Trung Phi bên Phi Châu, đã làm lễ đăng quang năm 1976 với một phí tổn là 20 triệu Mỹ kim. Và hiện nay, người ta ước tính tài sản của tổng thống Zaire là ông Mobutu Sese Seko lên đến gần 5 tỷ Mỹ kim.
Giá của những tài sản bất chính ấy thường giống nhau: một cuộc lưu vong nhục nhã, một cuộc chốn chạy không kèn không trống, một cuộc hành quyết dã man hay một cuộc sống trong lo sợ từng ngày và làm mục tiêu cho những oán ghét.
Mỗi dịp đầu năm, dường như ai cũng muốn làm một quyết tâm. 50% người Hoa Kỳ quyết tâm giảm thiểu sự ăn uống để gìn giữ sức khỏe.
Đối
với người Kitô chúng ta, sức khỏe tinh thần, sự cường tráng tâm linh có lẽ là
điều quan trọng hơn cả. Quyết tâm của chúng ta phải là quyết tâm điều chỉnh lại
sự lựa chọn cơ bản của chúng ta. Đâu là cùng đích của cuộc sống chúng ta? Đâu
là lý tưởng của chúng ta? Đâu là giá trị cao cả nhất trong cuộc sống của chúng
ta? Tiền bạc và nhất là tiền bạc bất chính có đem lại hạnh phúc cho đời Người
không?
Trích Lẽ sống
Chị Nguyễn Kim Bằng gởi
THIÊN CHÚA – MỘT HUYỀN NHIỆM
LỄ HIỂN LINH
Tác giả: Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
Khi dạy giáo lý cho người lớn, nhất là các đôi bạn chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, tôi hay hỏi nửa đùa, nửa thật: “Các bạn yêu nhau lắm, đúng không? Yêu đến mức nếu ngày nào không gặp nhau, ta nhớ thương, nhớ tiếc, nhớ da, nhớ diết, nhớ như có ai xé lòng mình, đúng không?”. Tất cả các bạn đều mỉm cười bẻn lẻn. Tôi nói tiếp: “Các bạn yêu nhau lắm, tưởng như người này hòa trộn trong người kia, nhưng người kia nghĩ gì, bạn có biết không?”. Tất cả trả lời: “thưa không!”.
Mỗi người là một huyền nhiệm. Huyền nhiệm này lớn cho đến mức, dẫu là tình yêu lứa đôi, một thứ tình yêu tưởng như nên một trong nhau, vậy mà hai người vẫn cứ là hai thế giới xa nhau diệu vợi.
Con người sống với nhau đã là huyền nhiệm dành cho nhau đến vậy, thì chúng ta càng không lạ gì khi Thiên Chúa luôn luôn là huyền nhiệm đối với con người. Lễ Hiển Linh tức là lễ Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Đại diện dân ngoại là ba nhà đạo sĩ phương Đông. Ba ông nhận ra ánh sao trên bầu trời và vội vã lên đường đi tìm Con Thiên Chúa vừa giáng sinh.
Gọi là Thiên Chúa tỏ mình, nhưng sự tỏ mình qua một ánh sao vẫn cho thấy Thiên Chúa là một huyền nhiệm lớn lao vô cùng. Dẫu ngôi sao trên bầu trời có lạ thường đến đâu, có sáng chói đến mức độ nào, thì sự tỏ mình ấy vẫn mù mờ, vẫn xa xăm đối với nhận thức của con người. Bởi đó, chỉ có ai thao thức tìm kiếm Thiên Chúa, chỉ có trung thành sống đức tin mới có thể nhận ra Thiên chúa đang tỏ mình với cuộc đời nói chung, và cuộc đời của chính mình nói riêng.
Đúng hơn, Thiên Chúa đã tỏ mình, nhưng tự bản chất, Người là huyền nhiệm, nên để nhận ra sự tỏ mình của Thiên Chúa, mãi mãi vẫn cần một điều kiện. Điều kiện đó là lòng thao thức tìm kiếm Thiên Chúa và sống đức tin trung thành. Có như thế, ta mới có thể nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện trong cuộc đời ta, dẫu phải trải qua từng biến cố sướng vui hay hạnh phúc.
Nói đơn giản: Thiên Chúa vẫn đang hiện diện và luôn luôn tỏ mình, chỉ cần bạn thao thức tìm kiếm Người và trung thành sống đức tin, bạn sẽ nhận ra Người.
Ba nhà đạo sĩ đã lên đường tìm kiếm. Bạn cũng sẽ nhận ra Thiên Chúa tỏ mình bằng đời sống đức tin, bằng sự cầu nguyện luôn mãi, bằng tình yêu mà bạn hiến dâng cho Người.
Lm VŨ XUÂN HẠNH
CƯU MANG VÀ SINH HẠ MỘT THẾ GIỚI MỚI
Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Hôm nay các mục đồng vào hang đá và nhận thấy một Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một
con người mới.
Đức Mẹ sinh ra một thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra. Thế giới cũ của bà Evà là một thế giới đổ vỡ. Từ chỗ bất tuân lệnh Thiên Chúa, thế giới đã đi đến chỗ bất hoà với nhau: ông Adong đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không những bất hoà với nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ chỗ bất hoà đi đến bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con người phân tán, chia rẽ. Thế giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu ngạo và thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình.
Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá.
Đức Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi thưa “Xin vâng” với thiên thần. Thánh
Giuse vâng phục Thiên Chúa nên trở về nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng vâng
theo lời thiên thần đến hang Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh sáng
ngôi sao đến thờ lạy Chúa.
Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải chỉ có giữa Chúa Giêsu với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa thiên nhiên, trong hơi ấm của bầy chiên bò, với đoàn mục đồng và Ba Vua quây quần chung quanh nói lên một thế giới chung sống hoà bình. Chúa sống hoà hợp với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con người sống hoà hợp với Chúa và với nhau.
Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa vị mình là Thiên Chúa để xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng thánh thiện để đến với người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha, nên quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, các con cái của mình. Và nhất là Chúa đã quên mình là vô tội đến nỗi sẵn lòng hiến thân chịu chết cho loài người tội lỗi. Thánh Giuse và Đức Mẹ quên mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Mục đồng quên mình, giữa đêm khuya lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình bỏ nhà cửa tiện nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên mình, quan tâm lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế giới mới chan chứa tình yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính là cảnh thái bình đáng mong ước.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay Đức Mẹ để thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong ước con người hãy biết sống hài hoà với nhau trong vâng phục Thiên Chúa, trong quên mình vì người khác để có một nền hoà bình thực sự trường cửu. Vì hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh nhưng còn là con người sống hài hoà trong tình tương thân tương ái.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và góp phần sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ chắc chắn phải đớn đau. Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giês, Đức Mẹ, Thánh Giuse, Ba Vua, các mục đồng và cả súc vật trong hang đá Bêlem biết vâng phục Thiên Chúa, biết sống hài hoà và quên mình thì mới mong kiến tạo được một nền hoà bình viên mãn.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở nên con người mới, góp phần cưu mang và sinh hạ một thế giới mới như lòng Chúa mong ước. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có mơ ước một thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu từ đâu trước?
Từ chính bạn hay từ người khác?
2. Thế giới của Đức Mẹ có gì khác thế giới của bà Evà?
3. Đầu năm mới này, bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung quanh bạn?
Tất Cả Chỉ Là Hư Vô
Có một câu chuyện vui về phù thủy Mundaca. Ông nổi tiếng nhất trên thế giới vì có thể làm cho người chết được trở về sống lại trên trần gian này.
Một hôm, ông đến đọc thần chú trước ngôi mộ của một người nổi tiếng nhất trong vùng đã qua đời từ nhiều thế kỷ trước. Ngôi mộ mở ra và một vị sang trọng bước ra cúi mình chào vị phù thủy và nói:
– Xin cám ơn Ngài rất nhiều vì đã làm phép mầu cho tôi được trở lại từ cõi chết, đó là Ngài thực hiện một công việc hết sức quan trọng cho những người cùng thời với Ngài. Thế giới sẽ sống an vui và hạnh phúc hơn với công việc tôi sắp làm. Ngài có biết không, ngày xưa tôi sinh ra trong một dòng dõi sang trọng, tôi đã dùng hết sự giàu sang của mình để thực hiện những điều lợi ích cho mọi người chung quanh tôi sinh sống. Vì thế, giờ đây tôi được trở về trần gian, tôi sẽ dùng hết những việc tốt khi xưa để xây dựng hạnh phúc cho mọi người.
Nói xong những lời trên, người sang trọng vừa sống lại đó hăng hái bước về thành phố, nơi quê hương của mình sinh trưởng. Nhưng chỉ sau một ngày, phù thủy Mundaca đã thấy người vừa được sống trở lại gặp ông và năn nỉ:
– Xin hãy vui lòng đưa tôi trở về lòng đất.
Nhà phù thủy với giọng rất ngạc nhiên hỏi:
– Nhưng tại sao ông lại muốn chết trở lại?
Người sang trọng trả lời:
– Khi tôi trở về lại nơi tôi sinh sống, không ai biết tôi là ai cả, và cũng không có ai tin lời tôi nói. Tôi đã cố gắng nhắc lại cho họ về những điều tốt tôi đã làm cho mọi người khi trước, nhưng cũng không ích lợi gì. Dân tôi sinh sống ngày nay không còn nhớ gì nữa cả, đền đài kỷ niệm mà xưa tôi đã xây nên để ghi nhớ những gì tôi đã làm, nay không còn nữa. Giờ đây tôi mới hiểu câu nói: “Mọi vinh quang và vinh dự của con người đều chóng qua, tất cả chỉ là hư vô mà thôi”.
Nói xong những lời trên, người sang trọng xin nhà phù thủy cho về lại cõi chết.
***
Câu chuyện vui trên trình bày một quan điểm sống trần tục và vinh quang. người sang trọng kia lúc còn sống đã làm những điều tốt cho anh chị em mình để có tiếng tốt, để danh tánh được khắc ghi trên bia mộ lưu danh từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là những toan tính trần tục. Người khi được từ cõi chết trở về, danh tiếng từ thời trước bị lãng quên không còn nữa. Người sang trọng kia không còn đủ nghị lực để tạo lập sự nghiệp mới mà bi quan muốn trở về với cõi chết. Nếu chúng ta sống cõi đời này chỉ có một quan niệm trần tục như vậy thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng trống rỗng bi quan.
Mỗi người chúng ta cần xét lại quan điểm sống của mình theo ánh sáng lời dạy của Chúa. Mỗi người chúng ta cần xác tín rằng: tôi được sinh ra trên trần gian này để thi hành sứ mạng yêu thương: yêu thương phục vụ Thiên Chúa, và yêu thương phục vụ anh chị em. Những việc lành tốt để chứng tỏ tình yêu thương đối với Thiên Chúa dầu có được người đời biết hay không? có nhìn nhận hay không? không phải là quan trọng. Điều quan trọng là tôi có thật lòng làm vì yêu mến Chúa hay không, và việc yêu mến Chúa và phục vụ anh chị em một cách thiết thực hữu hiệu một cách có thể.
***
Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương cho chúng con noi theo. Là một vị Thiên Chúa, Chúa đã không màng chi đến việc sinh xuống trần gian làm người thấp hèn, để trở nên giống mọi người. Dầu con người có biết ơn và tin nhận Chúa hay không. Chúa thực hiện những dấu lạ, những hành động tốt để mời gọi chúng con, nhưng không bao giờ ép buộc cúng con phải tin Chúa. Chúa luôn thi ân cao cả cho dầu những chống đối khước từ. Xin giúp con sống theo gương mẫu của Chúa. Amen.
R. Veritas
Anh chị Thụ & Mai gởi
![]() |
Tượng trí thức (Thổ Nhĩ Kỳ) |
Tận thế mỗi ngày
Sat, 29/12/2012
Tác giả:
‘Tận thế’ mỗi ngày
Chúng ta đang chết một cái chết không đột ngột nhưng dần dần và phải nói là ‘tức tưởi’.
Con người với bản năng sinh tồn vốn có cộng với lòng tham của bản chất khiến cho chúng ta yêu và muốn níu kéo cuộc sống này hơn bao giờ hết. Điều này càng khó xảy ra với Việt Nam hơn khi mà nước ta với GDP ở top trên 100 nhưng chỉ số hạnh phúc là nhất, nhì thế giới. Vậy chúng ta được gì và mất gì với cuộc sống mà ta đang nắm giữ? Xin lý giải tại sao tôi – một người cực kỳ bình thường về tâm lý và thể trạng sức khỏe lại mong ngày tận thế đến như vậy.
Nền kinh tế kỹ trị tăng trưởng theo hình xoắn ốc với tốc độ nhanh chưa từng có và kéo theo nó cũng là sự xuống dốc trầm trọng về văn hóa, đạo đức và lối sống. Và vô vàn các ví dụ khác, những tiên đoán của các nhà khoa học về cái giá phải trả của sự phát triển giờ đã thành sự thật.
Sự phân hóa giai cấp đang tăng dần bất kể nước giàu hay nghèo, miễn ở đâu có quyền lực, ở đó có bất bình đẳng. Và khi áp lực đó gia tăng nhờ sự đè nén và chèn ép quy luật của tự nhiên, con người trở nên man rợ chưa từng thấy. Khoan hãy nói về vấn đề văn hóa, tôi sẽ đưa ra ví dụ để cho thấy loài người man rợ như thế nào. Loài nhện là một trong những loài hiếm hoi mà xảy ra hiện tượng ăn thịt đồng loại, con cái ăn thịt con đực nhưng thay vào đó là sự ra đời của những lứa đời sau khỏe mạnh hơn.
Con người thì khác, họ tranh giành nhau từng mảnh đất, bờ cõi phục vụ cho những mưu đồ chính trị, phát triển những ngành nghiên cứu khoa học vượt thời đại về chất xám để rồi phục vụ cho y học thì ít mà cho chiến tranh thì nhiều. Với số lượng bom nguyên tử mà các quốc gia hiện đang nắm giữ có uy lực phá hủy 6 lần trái đất. Vậy cuộc sống chúng ta có phải quá mong manh như ngàn cân treo sợi tóc, như ngọn đèn hắt hiu trước gió hay không khi mà chỉ cần một bộ não của một kẻ uy quyền nào đó đang thiếu hụt năng nề tính nhân bản có thể “bấm bút” và “bùm”. Cát bụi sẽ trở về với cát bụi. Hiroshima hay Nagashaki sẽ không còn là nhân chứng sống duy nhất nữa mà biết đâu đấy, chúng ta không còn cơ hội để nhìn thấy nhân chứng thứ hai. Đến lúc đó, cuộc sống phỏng còn có ích chi?
Nếu bạn đã đọc Lá thư được viết vào năm 2070 của cựu thủ tướng Ấn Độ thì bạn sẽ phải sửng sốt về những điều thực sự nói không ngoa chút nào. “Mọi người trông như những bóng ma: thân thể họ lờ đờ vì yếu đuối, nứt nẻ vì thiếu nước trầm trọng và bị lở loét vì ung thư da do bầu khí quyển không còn khả năng ngăn chặn tia tử ngoại khi tầng ozone bị phá hủy”. Nếu như bạn là người hay xem phim, hãy bỏ thời gian cho hai bộ phim là Thần rừng Lorax và In time. Khi mà nguồn tài nguyên quý
giá nhất của con người là nước, không khí, thậm chí cả những thứ vô hình như
thời gian cũng khan hiếm thì người ta sẽ sẵn sàng bằng mọi giá để giành giật
lấy nó như giành giật lấy sự sống này vậy.
Nhưng đó chỉ là những suy nghĩ về môi trường sống của chúng ta sẽ bị hủy hoại như thế nào, thực chất, điều bị hủy hoại mà tôi muốn nói ở đây là đạo đức, là văn hóa, là nhân phẩm con người. Không biết tự cái thuở nào con người vẫn còn sinh ra trong cái nôi gia đình với “Nhân chi sơ tính bản thiện” vậy mà giờ đây được nền văn minh nhào nặn để trở nên tham lam và vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân xâm chiếm lợi ích cộng đồng, tài nguyên bị bòn rút để tập trung vào tay một số kẻ có quyền lực.
Văn hóa du nhập, lai căng, những nét đẹp dân tộc giờ đây bị coi là cổ hủ và lạc hậu, nhường chỗ cho ngành truyền thông và quảng cáo. Chúng ta đang chết một cái chết không đột ngột nhưng dần dần và phải nói là “tức tưởi”. Đó mới là cái chết đau đớn
biết bao.
Chắc bạn đã nghe câu chuyện về cái cây ở bệnh viện phụ sản không thể chặt được với lý do có quá nhiều linh hồn nhỏ bé trú ngụ trên đó. Về thực chất câu chuyện đúng sai, duy tâm duy vật thế nào tôi không biết, chỉ có điều, một thực trạng trông thấy là
những linh hồn đang vất vưởng ngoài kia là những hài nhi chưa thành hình, là
sản phẩm của những phút nông nổi của giới trẻ, là kết quả của sự pha tạp văn hóa, hoặc những “giờ dạy con” của các bậc cha mẹ đã bị đánh cắp bởi cuộc đua tiền bạc dẫn đến sự vô định hướng của giới trẻ.
Khi mà con người ta lấy thước đo giá trị làm chuẩn mực để đánh giá một con người thì dường như mọi thứ bị đảo lộn, một thực tại không thể chối cãi được. Ở một quốc gia mà nhà nghỉ, khách sạn, nhà tù, phòng khám tư phá thai nhiều hơn cả trường học, bệnh viện cho người nghèo thì thử hỏi các bậc cha mẹ làm sao không khỏi đau đầu? 10 năm nữa liệu Việt Nam có còn coi “Mỗi đứa con là một món quà của trời cho” nữa không hay khi đó, việc duy trì nòi giống cần phải có sự can thiệp khuyến khích từ chính phủ.
Đi đến đây, tôi, bạn và chúng ta đã nhìn thấy những vết thủng lỗ chỗ trên nền văn minh đương đại, chúng ta có thể làm gì, nói gì nữa đây. Nếu bạn không phải là người nhạy cảm thì xin hãy cứ hát lên khúc ca của riêng mình và sống một cuộc sống như thể ngày mai là tận thế, cònnếu bạn giống tôi – người suốt ngày suy nghĩ thì hãy ngồi và cầu nguyện (hoặc thiền) cho một sự thay đổi cực lớn của nhân loại. Có thể là kết thúc của một hoàng hôn nhưng sẽ là bắt đầu của một bình minh. Tận thế ơi là tận thế!
Nói cho con người: Lm. Chân Tín (31)
Đăng bởi lúc 2:09 Sáng 2/01/13
VRNs (02.01.2013) – Sàigòn –
Tự do Tôn giáo
(Thư kính gửi Đức Hồng y Phạm Đình Tụng, Chủ tịch HĐGMVN)
Vũng Tàu, ngày 10 tháng 7 năm 1998
Kính thưa Đức Hồng y,
Hôm kỷ niệm 49 năm thụ phong linh mục của Đức Hồng y và của 3 anh em chúng con (6.6.1998), con có điện thoại cho Đức Hồng y dâng lên Thiên Chúa lời tạ ơn. Đức Hồng y có nhã ý mời con ra Hà Nội nhưng con không đi được vì bận dạy giáo lý tân lòng và cũng vì những vết thương ở chân và tay con chưa lành hẳn. Những vết thương này là do “người ta” cố ý gây tai nạn giao thông, trong khi anh Nguyễn Ngọc Lan chở con vào Tân Sơn Nhất để dự đám tang của cụ Nguyễn Văn Trấn thọ 84 tuổi và đã trên 60 tuổi Đảng, đồng thời cũng là người bạn thân của chúng con trong cuộc tranh đấu cho nhân quyền và cho tự do báo chí ở Việt Nam.
Nay con về Vũng Tàu vài hôm, con xin gửi đến Đức Hồng y một vài trăn trở của con, khi đọc những chỉ thị của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo, ra ngày 2 tháng 7 vừa qua.
Trước hết, khi đề cập đến tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo, Bộ Chính trị nói: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Đảng và Nhà nước chủ trương và thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo, không tín ngưỡng và không tôn giáo của nhân dân”. Con xin thưa với Đức hồng y: Đây không phải là một nhu cầu của một bộ phận nhân dân nhưng là của đại đa số nhân dân, chỉ có một số nhỏ không tín ngưỡng. Đã là nhu cầu tinh thần của đại đa số thì Đảng và Nhà nước càng phải tạo điều kiện để các tôn giáo phát huy những giá trị tinh thần của đại đa số nhân dân, phải tôn trọng các giáo hội xây dựng đời sống tinh
thần của các tín đồ. Nhưng trong thực tế hiện nay Đảng và Nhà nước gây nhiều
khó dễ cho các giáo hội, hạn chế hoạt động tôn giáo và gây khó khăn cho việc đào tạo các chức sắc và các tu sĩ của các giáo hội, bóp nghẹt các giáo hội bằng cách hạn chế việc chiêu sinh.
Riêng phái Công giáo thì như trong giáo phận Sài Gòn, từ 1975 đến nay có khoảng 250 linh mục qua đời và Nhà nước chỉ chấp thuận 150 tân linh mục. Chính con đã viết thư cho Đức Hồng y Etchegaray ngày 7 tháng năm 1989: “Tự do tôn giáo đích thực mặc nhiên bảo đảm cho Giáo hội được tự do chọn các giáo sư và các chủng sinh. Thế mà hiện nay, việc tổ chức các chủng viện phải chịu đủ thứ hạn chế, chẳng hạn ấn định tỷ số về các chủng sinh. Việc tuyển chọn chủng sinh và các giáo sư chủng viện phải lệ
thuộc sự chấp thuận của Nhà nước… Hiện nay tại Sài Gòn chúng con có một khóa
tuyển sinh 50 chủng sinh cho 10 giáo phận phía Nam. Thời hạn ấn định cho khóa
này là 6 năm, không có tuyển khóa mỗi năm mà chỉ có mãn khóa đầu. Cụ thể mỗi
giáo phận gửi vào chủng viện 5 chủng sinh. Sau 6 năm, 2 chủng sinh có thể tự ý
xin rút lui, một anh khác có thể không được phong chức vì không hợp nhãn Nhà
nước, một anh khác có thể không đạt tiêu chuẩn của Giáo hội, chỉ còn một chủng
sinh thôi. Trong thời gian đó có biết bao linh mục chết đi vì già, vì bệnh, vì
tai nạn”. (Xem hồ sơ Chân Tín: Nói cho con người. tr.27, nxb Tin Paris,
1993). Thế có nghĩa là từ 1975 đến 1989, không có một khoá đào tạo nào trên
toàn thể Đất nước. Và từ 1989 đến nay có đổi đôi chút nhưng không thấm vào đâu,
như thư của một vị giám mục viết sau hội nghị Thường niên Hội đồng Giám Mục
Việt Nam (tháng 10.1997): “Hội đồng Giám mục Việt Nam chúng ta hôm nay chỉ có
33 vị. Về tuổi tác, đại đa số nay đã già, về sức khỏe hầu hết đều bệnh hoạn,
hoàn cảnh các linh mục cũng không khác nhau bao nhiêu vì việc đào tạo và phong
chức đã bị gián đoạn nhiều năm”. Về vấn đề chủng viện, lá thư ấy nói tiếp:
“Giáo hội Việt Nam trước đây có hàng chục đại và tiểu chủng viện… nhưng hiện
nay chúng ta chỉ có 6 đại chủng viện cho toàn quốc với tổng số 752 chủng sinh.
Cơ sở vật chất thì chật chội, ban giảng huấn thì vừa cao niên vừa thiếu hụt. Từ
lâu, Hội đồng Giám mục đã xin phép mở thêm hai đại chủng viện nữa nhưng đến nay
vẫn chưa được”. (Tin Nhà số 31, tr.13).
Kính thưa Đức Hồng y,
Phải chăng những gì con viết vào năm cho Đức Hồng y Etchegaray thì nay vẫn còn y nguyên. Người ta cố tình giết chết Giáo hội khi không cho phép mở thêm chủng viện đào tạo linh mục và tự do chiêu sinh.
Với những hạn chế như thế mà Bộ Chính trị dám nói: “Chính sách tín ngưỡng tôn giáo của Đảng và Nhà nước đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân, củng cố niềm tin đối với Đảng và Nhà nước, tạo được tinh thần phấn khởi cho đồng bào tín đồ các tôn giáo… tín đồ các tôn giáo ngày càng yên tâm tin tưởng và hăng say thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước”. Ôi thật mỉa mai!
Tự do in sách tôn giáo cũng chẳng có. Nhà nước đòi áp đặp một số luật về in ấn sách kinh tôn giáo. Mấy ông vô thần và vô tín ngưỡng lại đòi kiểm soát sách tôn giáo thì thật là ngô nghê. Biết gì về Đạo, hiểu gì về Đạo mà đòi kiểm soát về giáo lý của các tôn giáo và các hoạt động nội bộ của tôn giáo.
Chỉ thị của Bộ chính trị còn nêu ra một điều trái ngược với bản chất tôn giáo: “Một số người không phải là nhà tu hành truyền đạo vi phạm pháp luật”. Ta phải nói thẳng: không có quyền lực nào cấm tín đồ của một tôn giáo truyền đạo cho kẻ khác. Đối với đạo Chúa Kitô đó là mệnh lệnh, là một nghĩa vụ tối cao của mỗi tín ngưỡng của mỗi tín hữu phải đem Tin Mừng Cứu độ cho mọi người, chứ không riêng gì người tu hành mới giảng đạo. Nhà nước không có quyền áp đặt hạn chế đó. Hội đồng Giám mục phải lên tiếng chống lại ý đồ của Đảng và Nhà nước. Họ lăm le áp đặt nay mai nhiều luật lệ phá đạo: “Nhà nước chưa kịp thời bổ sung các văn bản hướng dẫn và qui định cụ thể
về các hoạt động tôn giáo. Chính phủ bổ sung nghị định qui định về hoạt động
của tôn giáo, soạn thảo pháp lệnh tôn giáo trình ủy ban thường vụ Quốc hội ban
hành”.
Một vấn đề quan trọng khác là vấn đề các dòng tu, các tu hội. Chỉ thị Bộ Chính trị viết: “Chính phủ có qui định và hướng dẫn cụ thể về hoạt động của các tôn giáo”. Trong vấn đề các dòng tu và tu hội, các bề trên các dòng tu cùng với Hội đồng Giám mục phải có tiếng nói và đưa ra đường hướng để tránh sự lệch lạc của mấy người vô thần duy vật muốn định đoạt sinh hoạt của người tu hành dấn thân phục vụ con người nói chung và con người Việt Nam nói riêng.
Ngoài chỉ thị công khai của Bộ Chính trị nói trên còn chỉ thị ngầm qua Ban Tôn giáo trung ương. Trong dịp Hội nghị thường niên của Hội đồng Giám mục Việt Nam vào tháng 10.1997, ông Lê Quang Vịnh, Trưởng Ban Tôn giáo trung ương có đề cập dài dòng về Ủy ban Đoàn kết Công giáo. Giáo sư Đỗ Mạnh Tri gọi là ngôn ngữ gỗ thứ luận điệu cũ rích về chính sách tự do tôn giáo. Đòi hỏi đoàn kết chưa đủ, ông Vịnh còn thêm vào thái độ cha chú, quan lại một cách ngây thơ (để khỏi nói là ngu xuẩn)” (Tin Nhà số 32, tr.11).
Có thể là ông Lê Quang Vịnh dựa vào chỉ thị ngầm của Bộ Chính trị để có thái độ cha chú. Điểm cần nói ở đây có thể là một âm mưu mới của Đảng Cộng sản muốn biến một số linh mục, giám mục làm tay sai trong cái gọi là Ủy ban Đoàn kết Công giáo. Họ không thể tạo ra một giáo hội tự trị như ở Trung Quốc, hoặc một giáo hội quốc doanh. Do đó, họ muốn có những linh mục, giám mục trong Ủy ban Đoàn kết công giáo để chi phối hoạt động của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Họ muốn củng cố lại Ủy ban Đoàn kết đang tan rã để làm một thứ giáo hội quốc doanh ngay trong lòng Giáo hội Việt Nam. Họ có tham vọng “muốn cứu vớt Ủy ban Đoàn kết với bất cứ giá nào” (Đỗ Mạnh Tri, tài liệu đã dẫn) và hơn nữa muốn dùng Ủy ban Đoàn kết để phá hoại Giáo hội Việt Nam từ bên trong.
Trong bài phát biểu về vấn đề “Đảng Cọng sản Việt Nam thật sự tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng”, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu có nói với lãnh đạo các tỉnh, các ban, bộ, ngành trung ương đã về dự đại hội: “Đảng ta thật sự tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, nhân dân ta có quyền theo đạo, đổi đạo, bỏ hoặc không theo đạo. Không một thế lực nào ngăn cản hoặc vi phạm quyền tự do đó”. Nhưng thực tế trong các cơ quan người ta không tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhân viên cao cấp và đảng viên phải từ bỏ đạo Công giáo. Ông Tổng bí thư nói thế nghĩa là đảng viên và công chức cao cấp
Chính phủ không phải là nhân dân, thế họ là thứ gì? Như vậy, chính sách tôn
giáo của Đảng Cộng sản vẫn trước sau như một, nghĩa là chống phá tôn giáo, chứ
chưa có gì đổi mới.
Kính thưa Đức Hồng y,
Trên đây là những trăn trở của một người con Giáo hội Công giáo Việt Nam và cũng chắc là trăn trở của mọi Kitô hữu chân chính, Đức Hồng y và Hội đồng Giám mục Việt Nam cần phải lên tiếng đòi hỏi tự do tín ngưỡng một cách cụ thể, tách riêng trong những vấn đề căn bản của Giáo hội và mong rằng những vấn đề quan trọng ấy cần được công khai hóa, chứ không thể âm thầm gửi cho Nhà nước để rồi lặng lẽ chờ người ta trả lời và không bao giờ có câu trả lời của Nhà nước, như thư của Hội đồng Giám mục gửi cho Nhà nước tháng 10.1997 vừa qua. Cần phải công khai hóa để gây ý thức cho mọi người, để Dân Chúa cùng một lòng đấu tranh cho tự do tín ngưỡng.
Kính chúc Đức Hồng y nhiều sức khỏe, sáng suốt và can đảm.
Xin Đức Hồng y chúc lành cho chúng con.
Kính thư,
Lm. Chân Tín
38, Kỳ Đồng, Q.3, Tp.HCM
(TN số 35,1998)