TU TẠI GIA

TU TẠI GIA

Chuyện phiếm của Gã Siêu

Cách đây không lâu, gã có đọc được một câu chuyện đại khái như thế này:

Có ba người cùng tôn giáo, gồm một nhà truyền giáo, một anh tài xế lái xe đò và một bác nông dân có vợ và mười đứa con. Ba người đều thâm niên bốn mươi năm chức nghiệp, đã qua đời cùng một giờ, cùng một ngày và cùng được lên trình diện Chúa để xin vào thiên đàng. Ba người cùng tới một lúc, nên Thánh Phêrô mới nói:

– Các anh hãy tự nhường nhịn nhau, vậy anh nào muốn vào trước?

Nhà Truyền Giáo nói:

– Hai anh dành cho tôi vào trước được không?

Anh tài xế và bác nông dân đều kính nể vị lãnh đạo tinh thần, chẳc hẳn người có nhiều công lao, nên đồng thanh cất tiếng cùng một lúc:

– Chúng tôi xin nhường ngài vào trước.

Nhà truyền giáo rất lấy làm hãnh diện thấy mình được nhường, cúi đầu chào thánh Phêrô và chững chạc tiến vào cửa Thiên đàng, quỳ trước Thiên Nhan và tâu:

– Muôn lạy Chúa, con là nhà truyền giáo đã làm việc thay thế các Tông Đồ, suốt bốn mươi năm chuyên lo rao giảng Lời Chúa nhân từ cho giáo dân, xin cho con được vào Thiên đàng trước.

Chúa ngắm nhìn nhà truyền giáo với tấm lòng yêu thương dạt vào và rồi xuất khẩu thành thơ, Ngài phán:

– Bốn mươi năm dạy dỗ Lời Cha

Con giảng giáo dân ngủ gật gà

Đâu hiểu Phúc Âm mà áp dụng

Ra ngoài tạm nghỉ, đợi chờ Ta.

Nhà truyền giáo lủi thủi lui ra. Anh tài xế nói với bác nông dân:

– Bác nhường cho tui vào trước nhé vì tui thường chở bác đi đây đi đó.

Bác nông dân gật đầu chấp nhận vào sau chót. Anh tài nhanh nhảu cúi đầu chào thánh Phêrô và tiến vào cửa Thiên đàng, quỳ xuống, rồi ngẩng mặt lên chiêm ngưỡng Chúa và tâu:

– Muôn tâu lạy Chúa! Con làm tài xế xe đò, suốt bốn mươi năm con phục vụ đồng bào, chuyên chở vợ đi thăm chồng, con đi thăm cha, đem tình thương yêu đến với mọi người. Thỉnh xin Chúa cho con được vào Thiên đàng sớm.

Chúa nhìn anh tài xế, Ngài mỉm cười:

– Ừ, kể ra con cũng có nhiều công to đáng được thưởng, tuy nhiên con tạm ra ngoài nghỉ, chờ Cha xem kỹ lại một số hồ sơ vừa trình lên thưa kiện con vì bị thương dập mũi, trầy trán gì đó mà Cha chưa kịp xem hết.

Cũng xuất khẩu thành thơ, Ngài phán:

– Xe đò chuyên chở khách đi xa

Thăm viếng chồng, cha cũng tuyệt mà

Đáng thưởng Thiên đàng nhờ lái giỏi!

Mỗi lần con thắng, chúng kêu Ta!

Anh tài xế cũng chưa được vào, phải lui ra và ngồi chờ. Đến lượt bác nông dân, bác rụt rè sợ sệt vì nghĩ bụng hai người có công lớn như vậy mà chưa được vào. Còn mình chỉ có cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ, nuôi con, đâu có công lao gì, thì làm sao vào nổi Thiên đàng, nên rất hồi hộp lo âu! Anh trịnh trọng cúi đầu chào thánh Phêrô và nhỏ nhẹ thưa:

– Bẩm ngài, con được phép vào chưa?

Thánh Phêrô gật đầu và  nói:

– Con hãy vào trình diện Chúa đi.

Bác nông dân rụt rè tiến vào, còn cách cửa Thiên đàng cả trăm mét, bác đã quỳ xuống và di chuyển bằng hai đầu gối, gần đến cửa anh cúi rạp đầu và khúm núm tâu:

– Bẩm lạy Cha nhân từ! Con là một nông dân dốt nát, nghèo hèn, bốn mươi năm chỉ biết cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ và mười đứa con, ban tối còn phải phụ bà xã rửa chén, cuối tuần còn phải lau nhà nữa. Xin Cha rộng lòng thương cho con được nương náu dưới mái nhà thân yêu của Cha là con sung sướng lắm rồi. Cha muốn con làm bất cứ việc gì, con cũng xin vâng theo!

Chúa nhìn bác nông dân một cách trìu mến và Ngài phán:

– Con quả thực có công lớn.

Rồi Ngài đọc mấy vần thơ chợt nghĩ ra:

– Làm chồng chiều vợ tuyệt vời thay

Nhịn nhục khôn ngoan đáng bậc thầy!

Suốt bốn mươi năm con chịu nổi

Thiên đàng, Cha thưởng bước vô ngay.

Từ hình ảnh bác nông dân âm thầm chu toàn những bổn phận của mình, gã bỗng nhớ tới mấy câu ca dao về đường tu, thì cũng có dăm bảy đường:

– Thứ nhất thì tu tại gia,

Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu…dòng.

Là con nhà có đạo, chúng ta thường hiểu chữ tu là dấn thân theo đuổi lý tưởng phục vụ Chúa và người khác. Lý tưởng ấy được thực hiện bằng hai cách, đó là tu triều và tu dòng. Tu triều là dâng mình cho Chúa với mục đích làm công việc mục vụ, không bị ràng buộc bởi lời khấn khó nghèo và đời sống chung, nhưng đoan hứa giữ sự độc thân và vâng phục Giám mục như bề trên trực tiếp của mình. Còn tu dòng là dâng mình cho Chúa, bằng cách theo đuổi sự hoàn thiện của Tin Mừng: khó nghèo, trong sạch và vâng phục, với đời sống chung của cộng đoàn, được biểu lộ qua việc tuyên khấn công khai vĩnh viễn hay tạm thời theo qui luật riêng của từng dòng.

Tuy nhiên, nếu hiểu chữ tu theo nghĩa rộng là sửa sang lại cho hoàn thiện, nhất là bằng cách uốn nắn những sai lỗi, để trở thành một con người tốt lành và thánh thiện hơn, thì đó phải là bổn phận đầu tiên của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Đồng thời gia đình chính là môi trường thuận tiện để chúng ta thực hiện lý tưởng đời tu của mình.

Vì thế, ngoài tu triều và tu dòng, chúng ta còn có một cách tu khác nữa, đó là tu nhà hay tu tại gia, nghĩa là cứ ở tại nhà, cứ sống trong gia đình của mình mà tu bằng cách sửa đổi những khuyết điểm và chu toàn những bổn phận của đấng bậc mình: Là con cái thì phải thảo kính và vâng lời cha mẹ; là vợ chồng thì phải yêu thương và trung thành với nhau; là anh chị em thì phải hoà thuận và giúp đỡ lẫn nhau.

Các cụ ta ngày xưa đã từng nói: Phải tu thân trước đã, rồi sau mới tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Việc tu thân này tiên vàn phải được thực hiện ngay tại gia đình của mình, bởi vì nhiều khi chính những sai lỗi của chúng ta đã làm cho những người thân yêu buồn phiền, cuộc sống trở nên ngột ngạt và tình yêu đi dần tới chỗ rạn vỡ. Muốn được thương thì chúng ta cần phải trở nên một người thương được.

Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta giống như người mang hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ phía sau lưng thì đựng những sai lỗi của mình. Bởi đó, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi của người khác, để rồi lên tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao. Đang khi đó, những sai lỗi của bản thân thì lại không nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy, thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực, để bào chữa. Chúng ta thường rộng rãi với bản thân mà nghiêm khắc với người khác. Đáng lý ra chúng ta phải rộng rãi với người khác mà nghiêm khắc với chính bản thân mình.

Ngoài ra, gia đình còn là một xã hội thu nhỏ, trong đó chúng ta có được những mối liên hệ với nhau. Vì thế, việc tu nhà hay tu tại gia đòi buộc chúng ta phải chu toàn những bổn phận của đấng bậc mình, để làm cho gia đình thực sự trở thành một mái ấm ngập tràn hạnh phúc.

Trước hết, là vợ chồng chúng ta có bổn phận phải yêu thương, hoà thuận, trung thành và giúp đở lẫn nhau.

Hiện nay, nền tảng gia đình đang bị lung lay tận gốc rễ và hôn nhân đang rơi vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Số những đôi vợ chồng lôi nhau ra toà để ly dị mỗi ngày một gia tăng. Vậy phải làm thế nào để cứu vãn tình trạng đen tối này?

Theo gã nghĩ: Cái qui luật muôn đời của tình yêu, chính là sự hy sinh. Thực vậy, thánh nữ Têrêsa đã bảo:  Tình yêu chân thật phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh. Hay như một câu danh ngôn đã nói: Hãy cho tình yêu vào máy mà cán, nếu nó tiết ra chất hy sinh, thì đó là tình yêu thứ thiệc, bằng không thì đó chỉ là một tình yêu dỏm mà thôi. Và tình yêu thứ thiệc này thì đáng giá bằng cả cuộc đời.

Nếu suy nghĩ, chúng ta thấy tình yêu và sự hy sinh luôn gắn bó mật thiết với nhau. Hy sinh mà không có tình yêu thì đó chỉ là những sự thừa thãi. Còn tình yêu mà vắng bóng hy sinh, thì đó chỉ là những lạm dụng và giả dối, như Tagore đã nói: Tại sao hoa kia lại tàn và suối kia lại cạn. Xin thưa, chỉ vì người ta đã hái hoa mà ép vào ngực, chỉ vì người ta đã đắp đập chặn suối. Nếu không biết vượt qua tính ích kỷ thì tình yêu cũng sẽ khô cạn và tàn héo như vậy.

Hy sinh càng lớn sẽ làm cho tình yêu càng thêm nồng thắm. Và với một tình yêu nồng thắm người lại càng dễ chấp nhận những hy sinh to lớn hơn cho nhau và vì nhau. Đỉnh cao của hy sinh cũng như của tình yêu đó là dám chết cho người mình yêu. Thế nhưng, chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau cũng không phải là việc dễ dàng.

Chuyện rằng: Một người đàn ông nọ đi xưng tội. Cha giải tội ra việc đền tội bằng cách hôn kính Thánh Giá ba lần. Ông ta bèn chạy về nhà, ôm chầm lấy bà xã và hôn lấy hôn để những ba lần, bởi vì ông ta thầm nghĩ: Bà xã chính là cây Thập Giá Chúa đã gửi vào cuộc đời của ông ta.

Tiếp đến là cha mẹ, chúng ta có bổn phận phải sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục con cái.

Sống trong thời buổi “gạo châu củi quế”, vật giá leo thang đến chóng cả mặt, nên chu toàn được bổn phận sinh sản và nuôi dưỡng con cái không phải là chuyện dễ. Thảo nào mà nạn ngừa thai tràn lan khắp nơi và Việt Nam ta đứng hàng đầu về nạn phá thai.

Cùng với những tiến bộ về những phương tiện truyền thông: Nào điện thoại di động, nào nối mạng internet…Nhiều bậc làm cha làm mẹ đã không theo kịp con cái, thành thử việc giáo dục đã gặp phải không ít những khó khăn.

Tuy nhiên, đối với phần lớn người Việt Nam, con cái vẫn còn là một điều tốt lành đáng được mong ước. Trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: Đa tử, đa tôn, đa phú quí, có nghĩa là lắm con, nhiều cháu, lắm tiền, nhiều bạc. Sở dĩ như vậy vì con cái sẽ làm cho bầu khí gia đình được đầm ấm, được tươi vui như tục ngữ đã bảo: Con đàn như tre ấm bụi.

Mặc dù vốn biết rằng: Con cái đôi lúc đã trở thành một gánh nặng, thế nhưng cha mẹ vẫn có thể tìm thấy niềm hạnh phúc trong lành và đơn giản nơi con cái. Thiếu con cái là thiếu ánh sáng nơi con mắt. Nhiều tiền mà không con thì vẫn chưa hẳn là giàu. Trái lại đông con mà ít tiền, thì vẫn chưa hẳn là nghèo. Hơn nữa, nhiều khi con cái chính là chiếc gạch nối, chính là nhịp cầu cảm thông giữa hai vợ chồng. Đáng lý ra hai vợ chồng đã cãi cọ, đánh lộn hay lôi nhau ra tòa xin ly dị, nhưng vì con cái, họ không nỡ làm như vậy. Vì con cái, họ quên đi và tha thứ cho nhau. Vì con cái, họ tìm cách hòa giải cùng nhau. Vì con cái, họ sẵn sàng chập nhận mọi hy sinh gian khổ. Bởi vì nhà không có tiếng cười của trẻ thơ, thì vắng lặng, buồn tẻ như một ngôi mộ chết.

Ngoài ra, là con cái, chúng ta có bổn phận phải yêu mến, trọng kính, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ.

Làm sao kể ra cho hết những khổ đau, những vất vả, những hy sinh cha mẹ đã phải chịu vì chúng ta suốt chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và nuôi dạy chúng ta nên người. Chúng ta hãy nhớ lại hình ảnh người mẹ đã phải thức trắng nhiều đêm để canh giữ giấc ngủ cho đứa con, khi nó đau ốm. Chúng ta hãy nghĩ đến những giọt mồ hôi chảy xuống trên khuôn mặt người cha trong những giờ lao động cực nhọc ngoài đồng ruộng nóng cháy, trong hầm đá mệt mỏi, hay tại nhà máy ồn ào đinh tai nhức óc….tất cả những việc ấy để làm gì nếu không phải là để kiếm tiền về nuôi sống chúng ta và gia đình.

Bởi đó, chúng ta mắc nợ cha mẹ nhiều lắm, không phải chỉ mắc nợ về tiền bạc vật chất, mà còn mắc nợ về tình yêu thương. Một khi đã mắc nợ về tình yêu thương thì chỉ có thể đáp trả lai bằng tình yêu thương mà thôi. Ca dao đã nhiều lần khuyên nhủ:

– Dạy con, con chớ quên lời,

Yêu cha mến mẹ suốt đời không quen.

Cũng trong chiều hướng ấy, ca dao còn xác quyết:

– Tu đâu cho bằng tu nhà,

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.

Thuở xưa, có một anh chàng nghe nói về Phật, thì thích lắm, bèn quyết tâm đi tìm gặp Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp lên đường. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, thành phố, và gian nguy hiểm trở, chàng ta vẫn chưa gặp được Phật giống như hình dạng trong Kinh đã diễn tả: Thân Phật sắc vàng, cao một trượng sáu, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chói sáng.

Ngày kia, tại một sườn núi nọ, anh chàng tình cờ gặp một cụ già râu tóc bạc phơ, cốt cách siêu phàm. Mừng quá, anh chàng khẩn khoản:

– Thưa cụ, cụ có biết Phật đang ngụ ở đâu không? Xin chỉ dùm cho con với.

Ông lão mĩm cười:

– Ồ! Chỗ nào mà không có Phật. Trên quãng đường vừa qua, chả lẽ con không gặp được Ngài ư?

– Thưa cụ, trên đường đi con đã từng gặp vô số người, nhưng đều là hạng phàm phu tục tử cả. Con chưa từng thấy người nào có được vài tướng tốt như trong kinh đã mô tả về Phật cả.

Ông cụ cười ha hả:

– Cháu ngốc thật, cháu không biết rằng cái thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp đó người Ấn Độ đã đốt thành tro và chia nhau xây tháp thờ cúng cả rồi ư?

– Thế thì Phật chết rồi sao?

– Hiện giờ Đức Phật đang phân thân ở khắp mọi nơi. Ngài cũng mang thân tốt và xấu như chúng sinh vậy. Con có còn muốn gặp Ngài nữa không?

– Thưa, dù bất cứ với hình dáng nào, nếu đích thật là Ngài thì con vẫn vô cùng khát mong.

– Vậy thì, để ta mách nước cho con nhé. Con hãy quay trở về và trên đường, nếu con gặp người nào mang guốc trái ở chân phải, guốc phải ở chân trái, thì người đó chính là một hóa thân của Phật. Hãy cúng dường vị Phật ấy như trong kinh đã dạy.

Chàng trai hối hả quay trở về. Suốt quãng đường dài, chàng không gặp Đức Phật nào mà hình dạng như cụ già diễn tả. Chán nản, chàng đi luôn về nhà. Trời đã khuya, bà mẹ còn chong đèn ngồi đợi con. Nghe tiếng gọi cửa, bà mừng quá, quờ quạng tìm đôi guốc rồi chống gậy tất tả ra mở cửa. Chàng trai thấy mẹ tiều tụy, nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo, mang lộn chiếc guốc trái qua chân phải, guốc phải sang chân trái. Chàng ôm chầm lấy mẹ nghẹn ngào:

– Ôi Đức Phật yêu quí của con.

Sau cùng, là anh chị em với nhau, chúng ta có bổn phận phải yêu thương, hoà thuận và giúp đỡ lẫn nhau.

Người ta thường bảo: Chuyến đò nên nghĩa, miếng trầu nên duyên. Trong cuộc sống, có những người chúng ta mới chỉ gặp nhau một vài lần, trao đổi với nhau đôi ba câu chuyện, thế mà tình nghĩa đã mặn nồng, huống nữa là đối với anh chị em ruột thịt, là những người cùng sống với chúng ta dưới một mái nhà, cùng chia sẻ với chúng ta những nỗi vui buồn, cũng như cùng có chung một dĩ vãng. Vì thế, chúng ta càng phải yêu thương nhau hơn.

Hơn thế nữa, anh chị em còn có chung một ngồn gốc,  được sinh ra bởi cùng một cha một mẹ, cùng mang trong mình cùng một dòng máu. Chính vì thế tục ngữ đã diễn tả: Một giọt máu đào còn hơn một ao nước lã. Nếu chúng ta không yêu thương những người cận kề với chúng ta, nếu chúng ta không yêu thương chính thân xác chúng ta, chính máu huyết chúng ta, thì làm sao có thể yêu thương những kẻ xa lạ.

Tuy nhiên, trong cuộc sống, chúng ta thấy không thiếu gì những người anh em với nhau, chỉ vì đồng tiền cắc bạc, hàng rào bờ dậu…đã đi tới chỗ giận hờn và thù oán, không còn thèm nhìn mặt nhau nữa.

– Anh em khinh trước, làng nước khinh sau.

Nếu anh em trong gia đình mà không bảo ban, đùm bọc được nhau, thì làm sao có thể khuyên nhủ và nêu gương cho những người chung quanh.

Ông bố nọ trên giường hấp hối, đã gọi những người con của mình đến và trao cho mỗi người một chiếc đũa và bảo:

– Các con hãy bẻ đi.

Ai nấy đều bẻ được chiếc đũa một cách dễ dàng. Sau đó, ông trao cho mỗi người một bó đũa và cũng bảo:

– Các con hãy bẻ đi.

Ai nấy đều cố gắng hết mình, nghiến răng trợn mắt, vận dụng hết mọi nội công, mà cũng chẳng tài nào bẻ nổi bó đũa. Từ sự việc trên, ông đã khuyên nhủ:

– Bố sắp sửa ra đi và trở về cùng ông bà tổ tiên, lời nói sau cùng bố muốn trối lại cho các con, đó là các con hãy yêu thương, đoàn kết và đùm bọc lẫn  nhau. Chính nhờ sự yêu thương, đoàn kết và đùm bọc ấy, các con sẽ tạo được sự hòa thuận giữa các con đã đành, mà hơn thế nữa, các con còn tạo được sức mạnh để không một ai có thể  chèn ép, bóc lột các con được.

Hình ảnh bó đũa cũng là hình ảnh mà mỗi người chúng ta cần phải khắc ghi. Nếu từ trước đến giờ, chúng ta đã có những tị hiềm, những giận hờn, thì hãy mau mắn xóa bỏ và làm hòa cùng nhau. Là những người anh chị em cùng một cha một mẹ, cùng một cội nguồn, chúng ta phải biết thực sự yêu thương, hoà thuận và giúp đở lẫn nhau, bởi vì :

– Khôn ngoan đối đáp người ngoài,

Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

Để kết luận, gã xin mượn lại câu chuyện về thánh Simon Cột. Ngài sống vào thế kỷ thứ 5 tại Syrie, nổi tiếng là một người thánh thiện và khổ hạnh. Ngài làm một cái chòi nhỏ trên đầu một cây cột và sống ở đó suốt 35 năm trời. Sau khi ngài chết, để nêu cao mẫu gương thánh thiện và khổ hạnh của ngài, Giáo Hội đã tôn phong ngài, và người ta thường gọi ngài với biệt danh là Simon Cột.

Nghe xong câu chuyện này, một em nhỏ như được thôi thúc muốn bắt chước sự thánh thiện và lối sống khắc khổ của ngài. Thế là khi về đến nhà, em chồng những chiếc ghế đẩu trên một cái bàn, rồi leo lên. Giữa lúc đang loay hoay như thế, thì mẹ em nhìn thấy, bà đã la mắng và cấm không cho em được leo lên và bà nói tiếp:

– Con ơi, làm thánh ở trong nhà cũng khó lắm con à.

Báo Người Cao Tuổi: Bàn về “thị trường sao và vạch”

Báo Người Cao Tuổi: Bàn về “thị trường sao và vạch”

Đôi lời: Bài báo: Bàn về “thị trường sao và vạch” là một trong những bài viết trên báo Người Cao Tuổi bị cho rằng đã vi phạm điều 258, tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của các tổ chức công dân”. Bài viết đã bị gỡ bỏ khỏi các trang mạng. Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin đăng lại bài viết này. Kính mời độc giả.

Lê Quang Tạo

1-4-2014

H1

Tuần qua nhiều báo đăng tin “Công an lên tướng, Quân đội cũng lên tướng”. Là một cựu chiến binh có 42 năm quân ngũ, có đôi điều tâm tư tản mạn (cũng là của nhiều đồng đội) về đề tài “Sao và Vạch”. Đây là một việc rất nhạy cảm, mà ít khi công khai.

Nhiều cán bộ lão thành, lão tướng qua hai cuộc chiến oanh liệt (chống Pháp và chống Mỹ) cứ phàn nàn rằng: Tướng phải ra tướng chứ bây giờ tướng nhiều quá!

Thật vậy: Nhớ lại kháng chiến 9 năm đánh Pháp, khi cuộc chiến sang giai đoạn mở các chiến dịch tấn công, Quân đội được tăng cường mọi mặt thì Bác Hồ, Chủ tịch nước mới phong hàm tướng cho một số chỉ huy chủ chốt: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Nguyễn Bình, các Thiếu tướng chỉ đếm trên đầu ngón tay – đó là năm 1948. Rồi 10 năm sau, khi các tướng cầm quân thắng lợi lẫy lừng Điện Biên Phủ 1954, Quân đội tiến lên chính quy và thiết lập chế độ quân hàm trong toàn quân (từ Binh nhì đến Đại tướng). Bác Hồ phong thêm một đại tướng (đồng chí Nguyễn Chí Thanh), 2 thượng tướng, 4 trung tướng và hơn chục thiếu tướng. Quân đội bước vào giai đoạn ác liệt nhất: Kháng chiến chống Mỹ ở cả 2 miền, các tướng, tá của ta xung trận cùng toàn quân… cho đến hơn 10 năm sau (1974) mới có đợt phong tướng cho một số đồng chí. Rồi Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất… việc phong hàm tướng phải 4 năm mới có một lần. Các cụ vẫn tâm đắc: “Quân hùng, tướng mạnh, bách chiến bách thắng”.

Nhưng rồi những năm sau 2000, việc phong tướng cứ đều đều hằng năm, mỗi lần vài chục tướng, có năm 2 lần phong tướng; trần quân hàm tướng nới rộng, thậm chí giám đốc, phó giám đốc các doanh nghiệp cũng mang hàm tướng? Khi mà đất nước hoà bình, ổn định!

Tướng đã nhiều thì tá càng nhiều. Tôi nhớ rất rõ: Những năm 60, 70 (thế kỉ XX) khi chiến tranh chống Mỹ cả hai miền nóng bỏng thì Huyện đội trưởng mới mang hàm Thượng uý (thậm chí Trung uý), Tỉnh đội trưởng là Thiếu tá, Trung tá. Có một số sĩ quan thiếu tá, trung tá là sư đoàn trưởng trong chiến trường đánh đâu thắng đó, ở đâu cũng được nhân dân giúp đỡ. Bây giờ thời bình thì Phó Chỉ huy Quân sự huyện đều Thượng tá, Chỉ huy trưởng: Đại tá. Có Tiểu đoàn trưởng cũng Đại tá(!). Việc xây dựng “biểu biên chế tổ chức lực lượng” hằng năm do Tổng Tham mưu trưởng kí ban hành (Cục Quân lực làm tham mưu), đi kèm là trần quân hàm cho các cấp… Từ đó đẻ ra chuyện “chạy trần quân hàm” rồi “mượn” trần cũng xảy ra không thiếu!

Dư luận âm ỉ chuyện “Tướng chạy” là có thật. Bạn tôi tâm sự rằng: “Lúc ấy mình cũng ráng hết sức để đầu tư lên tướng… nhưng rồi hụt hơi, thua “thầu” nên chấp nhận lỗ nặng, còn tay ấy đủ lực và lên tướng nên chỉ sau 1, 2 năm thu hồi đủ vốn rồi lãi… được cả danh, cả kinh tế! Vốn là bao nhiêu cũng tuỳ vị trí!

Cách đây một tuần, Trung Quốc đã bắt giam Thượng tướng Từ Tài Hậu, Phó Chủ tịch Quân uỷ Trung ương với tội danh: Tướng bán quân hàm. Ông này còn là đồng minh thân cận của Chu Vĩnh Khang, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an cũng đang bị điều tra và vừa bị bắt một số người ruột thịt… Sự thật ấy đáng để suy ngẫm.

Cách đây hơn 50 năm, sau khi Quân đội xây dựng chế độ quân hàm, thì Công an cũng chính quy hoá. Đồng chí Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn mang hàm Thiếu tướng, các Thứ trưởng như Lê Quốc Thân cũng có hàm Thiếu tướng (thời kì làm Bộ trưởng là Trung tướng, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị). Bây giờ Lực lượng Công an có hàng trăm tướng, có cả nữ tướng, ngành quản lí trại giam có hàm đến Trung tướng. Cứ mở ti-vi chương trình ANTV là thấy đỏ rực quân hàm tướng. Thực tế ấy có cần không? Càng nhiều Tổng Cục ắt càng nhiều tướng. Bây giờ đất nước yên bình mà Phó trưởng Công an huyện cũng hàm Đại tá… Trưởng Công an các phường ở TP lớn hầu hết là Đại tá, có Giám đốc Công an thành phố hàm Trung tướng. Trong một địa bàn thành phố: Có Giám đốc Công an lại có Giám đốc Sở Cảnh sát PCCC. Tổ chức lực lượng Cảnh sát PCCC thì to ra, sẽ có thêm nhiều tướng, nhiều tá, nhưng hiệu quả nhiều vụ chữa cháy lớn ở các chợ, cây xăng lại bị kêu là: chậm trễ, thiếu nước, kém hiệu quả… Đầu tư cho người lính, lực lượng trực tiếp mới là xây dựng lực lượng hiệu quả. Tổ chức xây dựng lực lượng phù hợp yêu cầu nhiệm vụ là chuyện đương nhiên, nhưng từ các Cục, Vụ mà đẩy lên thành các Tổng Cục hàng loạt, quá nhiều… thực chất là thêm ghế tướng mà thôi.

Thế kỉ XX, đi ra đường hễ gặp các chiến sĩ áo vàng, Cảnh sát Giao thông, điều khiển trật tự rất nhã nhặn, quân hàm đều là hạ sĩ, thượng sĩ. Bây giờ trên mọi chặng đường đều nhìn thấy các trung tá, thượng tá cầm gậy chỉ huy giao thông?

Nhắc lại chuyện bán quân hàm, tôi mạnh dạn nói thật: “Thị trường” này bây giờ khá lộ liễu nếu không nói là nhức nhối. Tất nhiên việc rao giá không bao giờ thành văn mà là thoả thuận ngầm, càng không dễ gì giao dịch thành công vì đối tác phải rất kín để an toàn.

Quân hàm theo lương, lương của lực lượng vũ trang hoàn toàn lấy từ ngân sách nhà nước, là thuế của dân công sức, mồ hôi nước mắt người dân lao động. Quân đội và Công an được Đảng, Nhà nước rất ưu tiên xây dựng chính quy, hiện đại, tinh binh, tinh cán đáp ứng mọi tình huống xảy ra nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh, đừng chạy theo sự hào nhoáng, oai vệ mà thực lực, nội dung lại không tương xứng, đạo đức lại sa sút. Tốn kém xói mòn thì uy cũng lung lay. Chân dung người lính, người Công an phải luôn luôn là hình ảnh đẹp, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ đương đầu mọi gian khổ… càng không phải là cấp tướng, cấp tá mang xe biển đỏ… đi kinh doanh kiếm lời, người lính làm kinh tế nhưng chỉ trong giới hạn đặc thù, không thể thị trường hoá người lính.

Nâng cao dân trí – Tâm thư một Sinh viên Nhật gởi Thế Hệ Trẻ Việt Nam và Thư hồi đáp của một bạn trẻ Việt Nam

Nâng cao dân trí – Tâm thư một Sinh viên Nhật gởi Thế Hệ Trẻ Việt Nam và Thư hồi đáp của một bạn trẻ Việt Nam

Đây là hai lá thư có hiệu lực thức tỉnh nhất đối với tuổi trẻ Việt Nam, đập mạnh vào lương tri của con người. (Các) tác giả đã phơi bày những sự thật đau lòng không phải bằng thái độ chỉ trích hay dạy bảo mà bằng những lời lẽ rất thuyết phục, thấm đậm tình người.

Hai lá thư này cần được đưa vào sách giáo khoa về công dân giáo dục và rất thích hợp để trích dẫn trong các bài viết về lịch sử và văn hóa dân tộc.

Lê Xuân Khoa

Cùng các bạn:

Tôi đồng ý với GS Lê Xuân Khoa, thầy học sử địa 60 năm trước hồi trung học của tôi, là bài viết của Châu Sa và Tiểu My phải được đưa vào “Quốc Văn Giáo Khoa Thư thế kỷ 21” mà GS Phạm Toàn cùng bạn hữu đang soạn thảo (không cần tiền tỷ của Bộ Giáo dục – Đào tạo). Tôi cũng đề nghị chúng phải được lên trang mạng BauxiteVN mà GS Nguyễn Huệ Chi và GS Vũ Cao Đàm đang hướng về “nâng cao dân trí” vì thần tượng Võ Nguyên Giáp cũng đã chết theo ngài và theo thông tin của Đèn Cù.

Để đóng góp vào “nâng cao dân trí”, tôi đề nghị ta bỏ bớt lý luận tháp ngà, không chỉ ăn mày gương quá khứ của Phan Châu Trinh, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi…, mà nên đi vào đời sống của nhân loại, của Việt Nam thế kỷ 21. Tôi đề nghị, và nhiều người trong nước đang hưởng ứng, là ta tổ chức một quyển sách luân lưu hằng năm, phổ biến trên Internet nhưng cũng chọn lựa in ra và bán rất rẻ, về đề tài Thế Nào Là Hạnh Phúc Việt Nam? Phải cổ động rất nhiều người tham dự, như Reader’s Digest, bằng hình thức có giải thưởng khuyến khích (bài được lựa đăng) và giải thưởng vàng, bạc, đồng hằng năm.

Tôi đã tình nguyện cống hiến hết hết tài sản làm việc này, vì con cháu tại Mỹ không giàu nhưng may đã biết tự lập và rất ủng hộ tôi dùng tài sản còn lại để làm việc thực tế thay vì chỉ nói. Rất mong các bạn tiếp tay.

Phùng Liên Đoàn, 75 tuổi

· Chương Trình II: Nâng cao dân trí bằng cách viết “thế nào là hạnh phúc?”

Lịch sử nhân loại ghi nhận nhiều anh hùng trong chiến tranh nhưng nhớ ơn nhiều nhất những vĩ nhân đã đem hạnh phúc tới cho người dân mà tránh đổ máu. Hầu hết những khái niệm đẹp đẽ như “giải phóng, đoàn kết, nhân ái, công bình, dân chủ…” đều có cứu cánh cuối cùng là hạnh phúc; nghĩa là, giúp người dân cảm thấy sung sướng trong cuộc sống. Ngày nay Liên Hiệp Quốc định nghĩa “có hạnh phúc” là có bảy yếu tố: (1) an ninh thực phẩm, (2) an ninh sức khỏe, (3) an ninh kinh tế, (4) an ninh cá nhân, (5) an ninh cộng đồng, (6) an ninh môi trường, và (7) an ninh cơ chế.

Chương trình II sẽ nâng cao dân trí bằng cách tổ chức một chương trình thi đua viết (hoặc soạn nhạc, làm thơ, vẽ tranh, điêu khắc…) về hạnh phúc một cách lâu dài nhưng có kết quả hằng năm. Chúng ta sẽ duy trì một mạng lưới để mọi người, nhất là học sinh và sinh viên, viết (hoặc soạn nhạc, làm thơ, vẽ tranh, điêu khắc…) về 7 yếu tố trên, qua những ví dụ thực tế trong cuộc sống. Mỗi bài phải hạn chế khoảng 2000 chữ, phải hết sức gẫy gọn, không mắc lỗi văn phạm, và phải có hai tiết mục cuối cùng. Đó là, “bài này có thể áp dụng tại Việt Nam như thế nào?” và “phần đọc thêm”. Bài viết không cần phải nguyên tác, có thể ghi lại hoặc dịch từ những tài liệu có sẵn của nhân loại, bởi vì “bắt chước” là căn bản của giáo dục. Mỗi năm sẽ có 7 giải thưởng cho 7 bài hay nhất về hạnh phúc. Mỗi năm sẽ gom các bài viết thành một quyển sách, in ra bán rẻ, để học sinh và công dân có thể dùng làm tài liệu đọc hằng ngày.

Nếu có nhiều người viết/làm và nhiều người đọc/thực hành, thì chẳng bao lâu dân trí sẽ nâng cao, và các lãnh đạo tương lai sẽ biết phải làm sao cho người dân có được hạnh phúc.

Chương trình này nâng cao dân trí bằng cách thực hành chứ không phải chỉ nói trừu tượng.

Quí vị nào hoặc quí hội nào muốn cộng hưởng một trong hai chương trình trên thì xin liên lạc với Phùng Liên Đoàn tại dlp.vasfcesr@gmail.com.

***

VIỆT NAM – NHÀ GIÀU VÀ NHỮNG ĐỨA CON CHƯA NGOAN

Robbey – Vô tình đọc được bài viết về văn hóa con người Việt Nam, từ góc nhìn của một bạn du học sinh Nhật trong friendlist của mình. Cũng biết rằng đây là chủ đề nhạy cảm và nhiều bạn dễ nhảy chồm lên ném đá sau khi đọc vài đoạn, nhưng mình thấy nhiều ý kiến của bạn ấy đáng để chúng ta suy ngẫm, nên mình sẽ chia sẻ lại ở đây cho cả nhà cùng đọc. Nhật Bản là một quốc gia đáng học hỏi, cá nhân mình cũng mong muốn Việt Nam sớm phát triển được như họ. Cái gì mình không tốt thì phải đối diện và khắc phục, thế thôi!

Tôi hiện đang là một du học sinh Nhật có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của người Việt “Sự thật mất lòng”. Nhưng không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục – ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một.

Tôi có một nước Nhật để tự hào

Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Nhưng, “Trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất.” Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề, vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “Có một nước Nhật như thế”.

Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời.

Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của, lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ. Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết.

Bạn cũng có một nước Việt để tự hào

Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa… Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy.

Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn. Nhưng thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy. Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở các nhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phải việc của mỗi người dân. Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi?

Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Nhưng, thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày. Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; Người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy bird đã không phải chết yểu đau đớn; Người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách ba lô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; Người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; Người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mung, lọc lừa. Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sỹ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi… Vì đâu nên nỗi?

Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi?

Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – Khó lắm! Thật vậy sao?

Nguồn: https://www.facebook.com/robbeypage/photos/a.10152554252840206.952189.129440445205/10153952283630206/?type=1&theater

****

Thư hồi đáp: Là một người Việt – Khó lắm! Thật vậy !

Tiểu My

Bạn thân mến,

Lâu lắm rồi giới trẻ chúng tôi mới nhận được một bài viết nói lên sự thật ở đất nước tôi, dù sự thật ấy làm chúng tôi hết sức đau buồn.

Xin cám ơn bạn. Ở đất nước tôi có câu “sự thật mất lòng” nhưng cũng có câu “thương cho roi cho vọt”, “thuốc đắng đả tật”.

Bức thư của bạn đã làm thức dậy trong tôi niềm tự ái dân tộc lâu nay được ru ngủ bởi những bài học giáo điều từ nhà trường như “Chúng ta tự hào là một nước nhỏ đã đánh thắng hai cường quốc Pháp và Mỹ”.

Bạn đã nói đúng: “Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt, khó lắm. Thật vậy sao?”

Bạn biết đặt câu hỏi như thế là bạn đã có câu trả lời rồi. Những gì tôi viết sau đây chỉ là những lời tâm tình của một người trẻ thiếu niềm tin, với một người bạn đến từ một đất nước vững tin vào dân tộc mình, vào chính bản thân mình.

Bạn nói đúng. So với nước Nhật, nước Việt chúng tôi đẹp lắm. Đối với tôi không có tấm bản đồ của nước nào đẹp như tấm bản đồ của nước tôi. Tấm bản đồ ấy thon thả đánh một đường cong tuyệt đẹp bên bờ Thái Bình Dương ấm áp. Trên đất nước tôi không thiếu một thứ gì cho sự trù phú của một dân tộc . Nhưng chúng tôi thiếu một thứ.

Đó là Tự Do, Dân Chủ.

Lịch sử của chúng tôi là lịch sử của một dân tộc buồn.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Người đã từng nhận được đĩa vàng tại đất nước Nhật của các bạn năm 1970 (bán được trên 2 triệu bản) với bài hát “Ngủ Đi Con” đã từng khóc cho đất nước mình như sau:

“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu

Một trăm năm nô lệ giặc Tây

Hai mươi Năm nội chiến từng ngày

Gia tài của mẹ để lại cho con

Gia tài của mẹ là nước Việt buồn”.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong “hai mươi năm nội chiến từng ngày” ông sống tại miền nam Việt Nam nên nỗi đau của ông còn nhẹ hơn nỗi đau của người miền Bắc chúng tôi. Ông còn có hạnh phúc được tự do sáng tác, tự do gào khóc cho một đất nước bị chiến tranh xâu xé, được “đi trên đồi hoang hát trên những xác người” được mô tả người mẹ điên vì đứa con “chết hai lần thịt xương nát tan”.

Nếu ông sống ở miền Bắc ông đã bị cấm sáng tác những bài hát như thế hoặc nếu âm thầm sáng tác ông sẽ viết như sau:

“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu

Một trăm năm nô lệ giặc Tây

Bảy mươi năm Cộng Sản đọa đày

Gia tài của mẹ, để lại cho con

Gia tài của mẹ là nước Việt Buồn”

Bị đô hộ bởi một nước Tàu tự coi mình là bá chủ ở phương Bắc, bị một trăm năm Pháp thuộc ,một ít thời gian không bị ngoại bang đô hộ chúng tôi không có minh quân như Minh Trị Thiên Hoàng ở nước bạn. Huống gì thay vào đó chúng tôi bị cái xui là một trong những nước hiếm họi bị thống trị bởi một chế độ bị coi là quái vật của thế kỷ.

Tại sao người Việt tham vặt ?

Vì họ đã từng đói kinh khủng.Trong cuộc chiến tranh gọi là chống Mỹ chống Pháp người dân miền Bắc chúng tôi đã đói đến độ mất cả tình người. Vì một ký đường, một cái lốp xe đạp, vài lạng thịt người ta tố cáo nhau, chơi xấu nhau dù trước đó họ là người trí thức.

Cho nên ăn cắp là chuyện bình thường.

Tôi cũng xin nhắc cho bạn , năm 1945 hàng triệu người Việt miền Bắc đã chết đói vì một lý do có liên quan đến người Nhật các bạn đấy. Xin bạn tìm hiều phần này trong lịch sử quân Phiệt Nhật ở Việt Nam.

Tất nhiên người Việt vẫn nhớ câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” nhưng “thượng bất chính , hạ tắc loạn”.

Khi chấm dứt chiến tranh, người Việt biết họ phải tự cứu đói mình chứ không ai khác. Kẻ có quyền hành tranh dành nhau rừng vàng biển bac, kẻ nghèo xúm lại hôi của những xe chở hàng bị lật nhào .

Thật là nhục nhã, thật là đau lòng.

Bạn bảo rằng ở nước bạn người dân giử gìn vệ sinh công cộng rất tốt. Còn ở Việt Nam cái gì dơ bẩn đem đổ ra đường.

Đúng vậy! Nhưng Tự Do , Dân Chủ đã ăn vào máu của các bạn để các bạn ý thức rõ đây là đất nước của mình.

Còn chúng tôi? Chúng tôi chưa thấy nước Việt thực sự là của mình.

Ngày trước nước Việt là của Vua , có khi nước Việt thuộc Tàu, rồi nước Việt thuộc Pháp, rồi nước Việt là của Đảng Cộng Sản.

Ruộng của cha ông để lại đã từng trở thành của của hợp tác xã, rồi ruộng là của nhà nước chỉ cho dân mượn trong một thời gian nhất định. Đất là của nhà nước nếu bị quy hoạch người dân phải lìa bỏ ngôi nhà bao năm yêu dấu của mình để ra đi.

Cái gì không phải là của mình thì người dân không cảm thấy cần phải gìn giữ.

Nhưng sự mất mát đau lòng nhất trên đất nước chúng tôi là mất văn hóa và không còn nhuệ khí.

Biết làm sao được khi chúng tôi được dạy để trở thành công cụ chứ không được dạy để làm người.

Tiếc thay bản chất thông minh còn sót lại đã cho chúng tôi nhận ra chúng tôi đang bị dối gạt. Nhất là trong những giờ học về lịch sử, văn chương.

Lớp trẻ chúng tôi đã mất niềm tin và tìm vui trong những trò rẻ tiền trên TV, trên đường phố.

Nhớ năm nào nước của bạn cất công đem hoa anh đào qua Hà Nội cho người Hà Nội chúng tôi thưởng ngoạn . Và thanh niên Hà Nội đã nhào vô chụp giựt , bẻ nát cả hoa lẫn cành , chà đạp lên chính một nơi gọi là “ngàn năm Thăng Long văn hiến”.

Nhục thật bạn ạ. Nhưng lớp trẻ chúng tôi hầu như đang lạc lối, thiếu người dẫn đường thật sự chân thành thương yêu chúng tôi, thương yêu đất nước ngàn năm tang thương , đau khổ.

Thật buồn khi hàng ngày đọc trên báo bạn thấy giới trẻ nước tôi hầu như chỉ biết chạy theo một tương lai hạnh phúc dựa trên sắc đẹp và hàng hiệu. Họ không biết rằng nước Hàn có những hot girls, hot boys mà họ say mê còn là một quốc gia cực kỳ kỷ luật trong học hành, lao động.

Bạn nói đúng. Ngay cả bố mẹ chúng tôi thay vì nói với chúng tôi “con hãy chọn nghề nào làm cuộc sống con hạnh phúc nhất” thì họ chỉ muốn chúng tôi làm những công việc , ngồi vào những cái ghế có thể thu lợi tối đa dù là bất chính.

Chính cha mẹ đã chi tiền để con mình được làm tiếp viên hàng không, nhân viên hải quan, công an giao thông… với hy vọng tiền thu được dù bất minh sẽ nhiều hơn bội phần.

Một số người trẻ đã quên rằng bên cạnh các ca sĩ cặp với đại gia có nhà trăm tỉ, đi xe mười tỉ còn có bà mẹ cột hai con cùng nhảy sông tự tử vì nghèo đói. Mới đây mẹ 44 tuổi và con 24 tuổi cùng nhảy cầu tự tử vì không có tiền đóng viện phí cho con. Và ngày càng có nhiều bà mẹ tự sát vì cùng quẩn sau khi đất nước thái bình gần 40 năm.

Bạn ơi. Một ngày nào chúng tôi thực sự có tự do, dân chủ chúng ta sẽ sòng phẳng nói chuyện cùng nhau. Còn bây giờ thì :

“trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Dù sao cũng biết ơn bạn đã dám nói ra những sự thật dù có mất lòng.

Và chính bạn đã giúp tôi mạnh dạn nói ra những sự thật mà lâu nay tôi không biết tỏ cùng ai.

Thân ái.

Tiểu My

http://t-van.net/?p=16839

CÔ ĐƠN MÀ KHÔNG CÔ ĐỘC

CÔ ĐƠN MÀ KHÔNG CÔ ĐỘC

LM VĨNH SANG, DCCT

Tôi có một người bác là cha Dòng, năm nay cụ đúng 100 tuổi và sắp kỷ niệm 75 năm nhận Thánh chức Linh Mục ngày 4 tháng 8, một biến cố khá quan trọng, một dấu ấn thật tuyệt vời cho một đời người.  Mọi người kính cẩn hồi hộp chờ đúng ngày mừng lễ, còn hơn nửa năm nữa thôi.  Mới hôm qua chúng tôi đến thăm, cụ đã quá già nhưng đầu óc còn rất minh mẫn, mắt cụ bỗng dưng bị mờ cách đây không lâu, nhưng tai thì vẫn thính lắm, con cháu nói chuyện cụ nghe và đoán được đứa nào ngay.  Cụ hỏi thăm người này, nhắc tới người kia, đôi lúc còn nói bông đùa với con cháu một cách dí dỏm.

Trong bữa ăn cụ ngồi ngay ngắn vào vị trí của mình, xướng kinh khá rõ cho cộng đoàn anh em cùng đọc.  Khi cụ ăn, người giúp việc bỏ từng món thức ăn vào tô cho cụ, tay phải cụ vẫn còn cầm thìa để tự xúc, chỉ có tay trái do bệnh khớp đã bị co quắp lại thì đặt yên trên mặt bàn.  Ăn xong, món cuối cùng là sữa chua thì phải có người đút để khỏi bị nhiễu.  Ngồi chơi với anh em một lúc rồi cụ đứng lên, làm dấu đọc kinh cám ơn và chống gậy đi một vòng Nhà Thờ trước khi về giường nghỉ.

Ngày nào cũng vậy, không bao giờ bỏ Lễ, các giờ kinh cộng đoàn và một giờ chầu Thánh Thể.  Tôi hỏi thầy giúp việc xem cụ có cần gì, thầy nói cụ chỉ nhắc và mong con cháu đến thăm cho vui.  Cụ trải qua một cuộc đời Linh Mục rất bình dị, chỉ vài năm làm cha xứ, phần lớn thời gian làm Linh Hướng và dạy ở Chủng Viện, xem xét cuộc đời không có gì đặc biệt trổi trang, chẳng ghi được dấu ấn nào để đời cho nhân loại, nếu có “nổi tiếng” thì cụ nổi tiếng là người cầu nguyện lâu giờ trong Nhà Nguyện và tha thiết với Mình Thánh Chúa.  Anh em Linh Mục và con cháu của cụ nói với nhau, đó là một đời Linh Mục thành công, thành công vì đi trọn con đường của mình trong khiêm tốn, trong sự khó nghèo và yêu mến…

Còn mẹ tôi thì năm nay cũng đã 95 tuổi, bà yếu mệt không di chuyển được, chỉ nằm với ngồi quanh quẩn trong nhà, sáng nào trời ấm áp, người giúp việc bỏ bà lên xe lăn đưa bà đến Nhà Thờ.  Đi ra ngoài gặp người này người kia bà vui vẻ hẳn lên, tuy vậy cũng có lúc ngồi ngủ trên xe lúc nào không biết.  Bà ngủ ban ngày gà gật, nhưng ban đêm lại thức trắng không ngủ tý nào.  Chính khi không ngủ, giữa đêm thanh vắng, bà sợ cô đơn rồi luôn miệng gọi con gọi cháu, lắm lúc phải đến hai người giúp bà ban đêm mới chịu nổi.

Con cháu đến thăm hay ngay cả người nuôi bà, bà cứ níu lấy và bảo đừng đi, ở lại đây với bà.  Cảm giác cô đơn và sợ hãi luôn quanh quẩn bên bà.  Khi tôi về thăm, khó có thể chào bà mà đi, vì bà khóc và muốn tôi ở lại với bà, bà luôn miệng nói: “Sao con bỏ mẹ mà đi?”  Tôi cố gắng kiên nhẫn giải thích cho bà hiểu về cuộc sống tu trì của tôi, không thể về thăm bà nhiều và cũng không thể qua đêm ngoài Tu Viện, bà nghe thì hiểu nhưng vẫn khóc và tay vẫn nắm chặt lấy tôi.  Làm con trong hoàn cảnh này thật khó xử, không đi không được, ở lại cũng chẳng xong.  Rồi một mai mẹ mất rồi sẽ chẳng bao giờ còn được cầm tay mẹ nữa…

Tôi chia sẻ về hai người già, một người là mẹ và một người là Linh Mục.  Không phải bác tôi không bị rơi vào cảm giác cô đơn, cần con cháu viếng thăm, nhưng cuộc sống nhà tu đã tách bác tôi ra khỏi cuộc giao tiếp cùng những mối dây tương quan ruột thịt gần gũi.  Bây giờ về già, bác không thể có con ruột để đòi chiều chuộng, để buộc phải năng viếng thăm.  Ông cụ bình tĩnh và chấp nhận khá nhẹ nhàng vì ông cụ đã tập sống và sống quen cùng sự cô đơn của đời tu.  Ông cụ đảm nhận đời độc thân của mình vì ông cụ trung thành trong quá khứ để có một hiện tại tiếp tục sự trung thành ấy với Chúa và chỉ còn Chúa.  Dĩ nhiên người lập gia đình là người buộc mình vào những tương quan gia đình cho đến chết.

Tôi tâm đắc và vui mừng khi thấy nhiều Hội Dòng quan tâm chăm sóc các thành viên già cả và đau yếu, những thành viên này họ đã cống hiến cuộc đời của họ cho sứ vụ, nay họ xứng đáng và cần được hưởng một sự chăm sóc đặc biệt của anh em mình.  Sao cho những ngày cuối của cuộc đời trôi qua trong hạnh phúc, bình an và yêu mến.

Một cơ sở tương đối đáp ứng cho cuộc sống an dưỡng, một không gian yên tĩnh để cầu nguyện và nghỉ ngơi, một cơ cấu y tế cần mẫn hiệu quả và một hệ thống dinh dưỡng khoa học và an toàn.  Thời khóa biểu được tổ chức khoa học và đan kín, ngoài những giờ nghỉ ngơi các cụ còn được sử dụng thời gian vào việc tập vật lý trị liệu, hàng tuần tiếp các đoàn thiện nguyện mang lại niềm vui và sự tươi trẻ.  Các giao tiếp xã hội sẽ giúp các cụ linh hoạt hơn và nghị lực hơn.  Ngôi Nhà Nguyện là con tim của cộng đoàn, một Nhà Nguyện ấm áp, mát mẻ, yên tĩnh và riêng biệt sẽ giúp các cụ hạnh phúc sống đời tông đồ mãnh liệt hơn.

LM VĨNH SANG, DCCT


****************************************

Lạy Chúa, chúng con không muốn bỏ rơi những ai đang sống trong cảnh cô đơn và chính vì thế chúng con đặt biệt cầu nguyện cho họ.
Chúng con cầu xin Chúa cho những người không được một ai để ý đến và họ phải đau khổ vì không được yêu thương.
Cho những ai đang sống giữa đám đông đô thị nhưng lại cảm thấy mình lạc lõng bơ vơ.
Cho những ai ao ước xây dựng một mái ấm gia đình mà không có khả năng thể hiện được ước mơ.
Cho những ai bị gia đình mình ruồng bỏ, không tìm được một ai để ký thác nỗi niềm tâm sự.
Cho những ai sau khi đã được vây bọc bằng một bầu khí nóng bỏng yêu thương cuối cùng lại kết thúc cuộc đời mình trong cô quạnh thê lương.
Cho những ai vì không chịu đựng nổi cô đơn của cuộc đời mình nên đã luống công đi tìm khuây khỏa.
Cho những ai không hiểu được rằng chính Chúa đang có mặt trong nỗi cô đơn của họ và đang ban tặng cho họ một tình bạn khích lệ ân cần.
Cho những ai tiếp nhận cô đơn như một ân sủng, ân sủng của một cuộc sống thân tình sâu đậm hơn trong Chúa.
Cho những ai tìm thấy trong cô đơn con đường giúp mình triển nở bằng một cuộc hiến mình hơn nữa cho tha nhân.
Cho những ai tự nguyện sống đời độc thân vui chịu sự cô đơn và biết kết hợp với sự cô đơn của Chúa nơi vườn Giệt và trên đồi cao khổ giá.  Amen!

Prière au coeur du monde, J. Galot, sj –

Nguyễn Hùng Cường chuyển dịch

RW đánh giá tình hình nhân quyền Việt Nam

RW đánh giá tình hình nhân quyền Việt Nam

Hải Ninh, phóng viên RFA
2015-02-07

haininh02072015.mp3

ba-622.jpg

Ông Brad Adams, giám đốc Châu Á của tổ chức Human Rights Watch (trái) và phóng viên Hải Ninh tại trụ sở Đài Á Châu Tự Do ở Washington DC hôm 06/02/2015.

RFA

Your browser does not support the audio element.

Tổ chức Theo dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch) vừa đưa một bản báo cáo về tình hình vi phạm nhân quyền ở Việt Nam năm 2014. Theo đó, báo cáo cho biết Việt Nam vẫn kiểm soát chặt chẽ những người ủng hộ dân chủ, phê bình chính quyền và cùng nhiều vấn đề vi phạm nhân quyền khác. Nhân dịp này, đại diện của Human Rights Watch là ông Brad Adams, giám đốc Châu Á của tổ chức này, dành cho Đài Á Châu Tự Do cuộc phỏng vấn đặc biệt.

Ngăn cấm quyền tự do ngôn luận

Hải Ninh: Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này. Thưa ông, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền vừa đưa ra một báo cáo về tình hình nhân quyền Việt Nam năm 2014. Vấn đề nào ông coi là nghiêm trọng nhất ở Việt Nam?

Brad Adams: Vấn đề chính ở Việt Nam là Việt Nam vẫn là một nhà nước độc đảng, ngăn cấm quyền căn bản về tự do ngôn luận và tụ tập. Việt Nam sống trong một thế giới hiện đại với một hệ thống chính trị cũ kỹ. Ý tưởng về nhà nước một đảng đáng lẽ phải vứt vào thùng rác từ lâu lắm rồi. Chúng tôi đề nghị chính quyền Việt Nam thực hiện tiến trình cải cách bằng việc tách chính phủ ra khỏi nhà nước, cho phép người dân những quyền tự do cơ bản, không bỏ tù người ta vì thể hiện quan điểm như là kêu gọi dân chủ, không lấy những luật hình sự như đạo luật hay 79 hay 88 để tống tù người ta vì có quan điểm chính trị khác biệt.

”  Vấn đề chính ở Việt Nam là Việt Nam vẫn là một nhà nước độc đảng, ngăn cấm quyền căn bản về tự do ngôn luận và tụ tập. Việt Nam sống trong một thế giới hiện đại với một hệ thống chính trị cũ kỹ.
-Brad Adams”

Cũng có một vấn đề nghiêm trọng về quyền lao động ở Việt Nam, công nhân nhà máy không được tụ tập tự do, họ không được đòi tăng lương hay đòi điều kiện làm việc tăng lên. Đây là một vấn đề lớn vì Việt Nam là một phần của nền kinh tế toàn cầu, họ phải tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Ngoài ra cũng có vấn đề lớn về đất đai ở Việt Nam với hàng loạt các cuộc biểu tình phản đối chiếm đất. Một phần là vì đất không đủ cho dân số, hơn nữa đảng và quân đội xông vào chiếm hoặc giao đất sinh sống cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án.

Điều chúng tôi muốn thấy là chính phủ Việt Nam phải thừa nhận rằng đúng, chúng tôi có một số vấn đề bởi vì nước nào cũng có những vấn đề của họ và chúng tôi sẽ nghiêm túc giải quyết nó.

Hải Ninh: Theo tôi thấy thì dường như có một sự đối lập ở đây. Chính phủ Việt Nam khi ra thế giới thì luôn hứa rằng chúng tôi sẽ cải thiện tình hình dân chủ, thế nhưng mặt khác thì họ lại bắt nhiều nhà bất đồng chính kiến, hay không cho phép người ta thực hiện tự do tôn giáo và nhiều vấn đề khác nữa. Tại sao lại như vậy?

ba-400.jpg

Ông Brad Adams, giám đốc Châu Á của tổ chức Human Rights Watch tại trụ sở Đài Á Châu Tự Do ở Washington DC hôm 06/02/2015. RFA PHOTO.

Brad Adams: Tôi nghĩ rằng đảng sợ rằng nếu họ nới lỏng tay và cho phép những quyền tự do cơ bản như quyền được phát biểu ý kiến, thì họ sẽ mất quyền kiểm soát tình hình chính trị. Đây là điều hầu hết các đảng cộng sản nghĩ. Họ có thể đúng, tuy nhiên, điều đó cũng có thể tốt, bởi vì việc mất quyền kiểm soát chính trị có nghĩa là người dân được quyền thể hiện quan điểm và quan điểm của họ có ảnh hưởng tới chính sách. Một điều mà đảng cộng sản Việt Nam nên làm, đó là cho phép bầu cử toàn quốc một cách tự do, công bằng và toàn diện, giống như tất cả các quốc gia trong khu vực trừ Lào và Việt Nam.

Chúng ta cũng bắt đầu thấy chính phủ Việt Nam thay đổi vì áp lực từ dưới lên. Ngày càng nhiều những người bất đồng chính kiến dũng cảm, phần lớn là những người trẻ, những blogger, những người trong giới truyền thông, các nhà hoạt động. Họ dấn thân vào những nguy hiểm nghiêm trọng, vì anh không biết điều mà anh nói hôm nay có thể dẫn tới việc anh bị tống vào tù ngày mai. Họ chấp nhận nguy hiểm đó và họ ngày càng tăng cường đòi quyền lợi. Họ muốn tham gia vào việc lèo lái quốc gia trong tương lai, họ muốn tham gia vào chính quyền, họ muốn có tiếng nói, và điều đó là hoàn toàn bình thường.

Vì thế, tôi nghĩ rằng chính phủ và đảng cộng sản cần phải điều chỉnh, họ tìm cách có những điều chỉnh nhỏ thôi nhưng họ sẽ phải có những thay đổi lớn hơn.

Trấn áp các tổ chức xã hội dân sự

Hải Ninh: Hiện nay có nhiều tổ chức xã hội dân sự đứng ra cổ vũ các vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Ông đánh giá thế nào về các hoạt động của họ và liệu Human Rights Watch có thể làm gì để giúp đỡ họ?

” Các nhóm cổ vũ nhân quyền không được phép hoạt động lâu ở Việt Nam. Thường thì các nhà lãnh đạo của họ bị tống vào tù khá nhanh chóng.
-Brad Adams”

Brad Adams: Các nhóm cổ vũ nhân quyền không được phép hoạt động lâu ở Việt Nam. Thường thì các nhà lãnh đạo của họ bị tống vào tù khá nhanh chóng. Các nhóm hoạt động cỗ vũ các vấn đề khác chẳng hạn như quyền phụ nữ, môi trường hoặc những vấn đề không bị chính phủ coi là nhạy cảm, họ thường được phép hoạt động trong một thời gian lâu hơn. Nếu chính phủ thấy rằng họ hoạt động có chút chính trị hoá, họ sẽ bị trấn áp và những người tham gia sẽ bị bắt. Điều đó không chấp nhận được.

Vì thế, chúng tôi tìm cách giúp họ một cách cẩn trọng. Chúng tôi không muốn có ai đó bị tống vào tù bởi vì họ liên lạc với Human Rights Watch hoặc bất cứ một tổ chức quốc tế nào. Chúng tôi hỗ trợ về tinh thần, kỹ thuật và thông tin, chúng tôi đưa các vụ việc ra quốc tế. Tuần này, tôi đã tới Nhà Trắng, Bộ Ngoại giao, sau đây tôi sẽ tới Lầu Năm Góc để bàn về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, và giúp truyền tải những quan ngại của người Việt Nam tới họ.

Chúng tôi có một trang web bằng tiếng Việt, và dịch tất cả các tài liệu của chúng tôi sang tiếng Việt. Những tài liệu này được đăng lại khắp nơi. Một điều rất thú vị ở đây là Facebook và mạng xã hội đang giúp lan truyền thông tin. Chính phủ Việt Nam không thể nào chặn những thông tin mà họ không thích nữa.

Hải Ninh: Human Rights Watch nhiều năm nay liên tục kêu gọi chính quyền Việt Nam tôn trọng quyền con người. Thế nhưng dường như chính quyền Việt Nam cố tình lờ đi. Họ cứ tiến một bước rồi lại lùi hai bước. Liệu Human Rights Watch có thể làm gì để thay đổi điều này?

Brad Adams: Điều tôi thấy ở đây là nếu cộng đồng đấu tranh về nhân quyền không tiến hành vận động cho những tù nhân bất đồng chính kiến, số người bị bắt còn nhiều hơn thế nữa. Chúng ta không biết còn những ai sẽ bị bắt nếu chúng tôi không làm việc của mình. Tôi đồng ý rằng khi chúng tôi vận động việc thả một tù nhân nhất định, dường như chính phủ Việt Nam lại bắt người khác thay thế. Điều rất đáng thất vọng bây giờ là họ đưa những tù nhân này ra nước ngoài sống lưu vong. Đó không phải là giải pháp hợp lý.

Họ còn dùng những tay côn đồ để đánh các nhà hoạt động, thay vì bắt bớ. Chính quyền Việt Nam nói với quốc tế rằng số lượng người bị bắt đã giảm xuống, mọi chuyện đã khá hơn. Tuy nhiên, trên thực tế, số lượng người bị bắt không thấp hơn, chúng tôi có con số chứng minh. Thêm vào đó, đánh người không tốt hơn là tống người ta vào tù và chúng ta bắt đầu thấy nó diễn ra và điều đó là hoàn toàn không thể chấp nhận được.

Về câu hỏi tầm ảnh hưởng của chúng tôi, chúng tôi đưa ra báo cáo về việc cảnh sát hành hung các nhà hoạt động vào năm ngoái, và thấy những sự phản ứng về chính sách ở cấp cao. Quốc hội Việt Nam đã tiến hành một cuộc điều trần ở uỷ ban tư pháp về việc cảnh sát đánh người, điều chưa từng xảy ra trước đó. Bộ trưởng Công an, phó bộ trưởng Công an, và các bộ trưởng khác phải đến và giải trình công khai trước quốc hội.

Tôi nghĩ sở dĩ điều  này diễn ra là vì chúng tôi chọn việc tập trung vào các báo cáo cảnh sát đánh người vì chúng tôi nghe được điều đó từ chính người dân Việt Nam, chúng tôi đọc được trên báo, người ta giận dữ về cách cảnh sát đối xử với người dân. Vì thế, chúng tôi tập trung vào các vấn đề mà chúng tôi nghĩ rằng chính phủ cũng nhận ra đó là một vấn nạn. Và dù họ không nói với chúng tôi rằng xin cảm ơn báo cáo của các vị, chúng tôi trân trọng việc các vị quan tâm tới các người Việt Nam được đối xử, và chúng tôi sẽ làm việc dựa trên các đề xuất của các vị, nhưng rõ ràng là họ có thay đổi. Tôi thấy có dấu hiệu rằng chính phủ Việt Nam nhận thấy họ không thể chỉ khư khư hoạt động trong vòng Việt Nam nữa và giả vờ rằng cả thế giới không tồn tại và rằng người dân Việt Nam chẳng biết gì cả.

Hải Ninh: Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.

Cuối Năm Nói (Chơi) Về Chuyện Cuối Đời

Cuối Năm Nói (Chơi) Về Chuyện Cuối Đời

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

RFA

Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già
Tố Hữu

Có bữa, đang ngồi hớt tóc, tôi chợt nhìn thấy vài đốm tóc trắng (li ti) chen lẫn với tóc đen trên chiếc khăn choàng. “Cái ông thợ cúp này làm biếng, không thay khăn mới, cũng không rũ sạch cái cũ nên nên mới còn sót lại tóc tai tùm lum của người khách trước – một khứa lão (mắc dịch) nào đó,” tôi nghĩ vậy.

Vài phút sau, tôi hốt hoảng nhận ra rằng: những vụn tóc đen, lấm tấm cùng với tóc trắng xuất hiện mỗi lúc một nhiều. Té ra, đó là tóc bạc của chính mình chớ còn “khứa lão” (mắc dịch) nào vô đó nữa!

Chèn ơi, vậy mà tui cứ tưởng là mình còn trẻ. Mái tóc của tôi, cách đây chưa lâu, chừng vài tuần hay vài năm gì đó, vẫn còn xanh (xanh) mà. Chớ tụi nó bạc hồi nào vậy, Trời? Sao kỳ cục vậy, mấy cha? Khi khổng, khi không cái tất cả chúng ta đều già cái rụp, và già (ngang) hết như vậy sao?

Mà tuổi già thì như chuối chín, càng chín nó càng mềm. Muốn cương cũng không được nữa, đành phải yên phận chịu (già) thôi.

– Ủa, mà già thì đã sao kìa? Làm gì mà nẫy giờ cứ chối đây đẩy, và cứ rẫy nẩy lên – như đỉa phải vôi – vậy cha nội?

– Ý, đừng có tưởng chuyện giỡn chơi à nha. Già thì lôi thôi lắm, lôi thôi lâu, và lôi thôi (luôn) cho đến chết. Coi: tuổi già đâu có khi nào chịu tới mình ên. Nó đi cặp kè với đủ thứ những chuyện (rất) bà rằn và lằng nhằng khác nữa: bệnh tật, chán chường, cô đơn, thiếu hụt…

Đã vậy, cuối năm, ông bạn Huy Phương kể chuyện (nghe) sao mà rầu muốn chết luôn:

“Trước ngày Giáng Sinh tôi có dịp vào viếng thăm một người bạn sắp qua đời trong một nursing home. Trên hành lang dẫn vào phòng người bạn, và ngay trước chỗ làm việc của nhân viên ở đây, tôi thấy nhiều ông bà cụ ngồi trên những chiếc xe lăn, nhìn những người qua lại. Các cô y tá đã sắp xếp cho các cụ ra ngồi trên hành lang đối điện với văn phòng làm việc, một phần để trông chừng các cụ, một phần cho các cụ đỡ buồn. Nhưng các cụ nhìn sự vật một cách dửng dưng, đôi mắt đờ đẫn, có người đã gục đầu xuống ngủ…”

Thiệt là ớn chè đậu!

Tui biết chắc là ông Huy Phương không đặt chuyện để hù em út nhưng, cùng lúc, tôi cũng biết rõ rằng cái cảnh “tầng đầu địa ngục” – vừa được mô tả – không phổ biến lắm ở Hoa Kỳ hay Gia Nã Đại. Cách phân chia chia tuổi già, và những công trình nghiên cứu khoa học, ở hai quốc gia này, cho chúng ta những con số tương đối  khả tín và khả xác hơn – về vấn đề này.

Người ta chia ra tuổi già làm ba loại:

  • Chớm già (young – old) là nhóm lớn nhất, chiếm 70 %.
  • Già (old-old) 20 %, kém hơn năng động hơn lớp trên thấy rõ.
  • Già quá cỡ thợ mộc (oldest-old) chừng 10 %. Trong số này chỉ có 4 %  – chớ không phải là 20 %, như nhiều người vẫn nghĩ – đang sống ở nursing home hay bệnh viện (Palmore et al. 2005 Encyclopedia of ageism, Binghamton, NY: Haworth).

Như vậy, chính xác, chỉ có 4 % người già – thuộc nhóm cuối cùng – sống ở viện dưỡng lão thôi. Đa phần còn lại đều có cuộc sống bình thường trong cộng đồng. Nhưng khách quan mà nói thì sống ở đâu chăng nữa thì khi đời đã về chiều cũng khó mà vui.

Xã hội, rõ ràng, chưa bao giờ chuẩn bị chu đáo cho những công dân lão hạng để họ bước vào giai đoạn (hụt hẫng) còn lại của kiếp người. Đến  tuổi nghỉ hưu, chúng ta bỗng dưng trở nên một người nào khác, không còn vai trò gì rõ rệt nữa trên cuộc đời này. Và hoàn cảnh sống (rồi) cũng khác luôn, thời giờ thì dư mà tiền thì thường thiếu. Đôi khi, lơ ngơ không biết làm gì cho nó hết một ngày. Nói chi tới một tuần, một tháng, hay cả một (hay hai) … chục năm sắp tới!

Làm sao sống an vui và có ý nghĩa, cho những năm tháng còn lại, là một câu hỏi khó – đối với phần lớn những công dân lão hạng – ở những quốc gia phú túc. Những định chế xã hội hiện hữu không có câu trả lời, và cũng không có những chức năng hổ trợ, cho sự an lạc của tuổi già.

Đây là chuyện riêng của từng cá nhân. Vị tha hay vị kỷ? Thủ cho nó chắc ăn hay xả láng, sáng về sớm là tùy ý mỗi người. Không có tổ chức, cũng không có cá nhân nào – kể cả vợ chồng con cái – có thể đóng góp gì nhiều, cho bất cứ ai, vào giai đoạn cuối cùng của kiếp nhân sinh.

Ở nước ta thì khác. Câu hỏi thiết thân của tuổi già không phải là sống ra sao mà làm sao để sống? Vấn đề, xem chừng, có vẻ giản dị hơn nhưng vẫn là một câu hỏi khó đối với rất nhiều người dân cao tuổi – ở Việt Nam.

Những định chế xã hội (cơ quan, ban ngành, đoàn thể, hội hè … thổ tả gì đó) thì có rất nhiều và cũng rất thừa. Chúng hoàn toàn vô can, cũng như vô trách nhiệm, với cuộc sống của những công dân lão hạng.

Đảng, Nhà Nước và Nhân Dân là ba phạm trù luôn luôn đi liền, và gắn bó mật thiết với nhau, khi có nhu cầu tuyên truyền hay đóng góp. Đâu cần nhân dân có, đâu khó có nhân dân. Khó trăm lần, dân liệu cũng xong. Nhưng chuyện sống còn và an sinh của mỗi công dân – vào lúc cuối đời – lại là chuyện thuần túy có tính cá nhân. Đảng và Nhà Nước tuyệt đối không dính dáng gì (ráo) vào chuyện đời của Nhân Dân khi trăm họ đến giai đoạn sức cùng, lực kiệt.

Cách đây chưa lâu, báo chí trong nước đồng loạt đăng tin (Cụ ông gần trăm tuổi đạp xích lô) của phóng viên Văn Nguyễn:

98 tuổi, cụ Đặng Huyền vẫn được người dân quen gọi là cụ Huần, ngày ngày vẫn đạp xích lô chở khách kiếm sống. Cụ thường bắt đầu một ngày làm việc từ khi trời còn mù sương.Trong hội thi diễu hành xích lô ở Festival làng nghề truyền thống Huế 2007, cụ Huần được vinh danh là người lái xích lô có tuổi nghề nhiều nhất tại Huế.”

“Con trai duy nhất bỏ quê vào Nam làm ăn, hơn 30 năm nay mất liên lạc, giờ cuộc sống gia đình cụ chỉ biết nhờ vào đồng công đạp xích lô và sự đùm bọc của làng xóm…Ngoài kiếm tiền nuôi bản thân, cụ Huần còn nuôi cụ bà Trần Thị Lặc, 86 tuổi, thường xuyên đau ốm.”

Cụ Đặng Huyền. Nguồn:vnexpress

Kiểu “vinh danh” của những vị tổ chức Festival làng nghề truyền thống Huế 2007,  xem ra, hơi lạ. Phản hồi của độc giả Lê Thu Hiền, dưới bài báo thượng dẫn, cũng lạ lùng không kém:

“ Cụ Huần thực sự là người đáng khâm phục vì sức khỏe, sự bền bỉ và dẻo dai của mình. Cuộc sống thêm lần nữa được minh chứng rằng không cần sự giàu sang phú quý, nghèo mà vẫn bền bỉ lao động vẫn tạo ra cuộc sống có ý nghĩa, sức khỏe niềm tin và hạnh phúc cho riêng mình.”

Cụ Phạm Đờn, một công dân Việt Nam lão hạng khác, lại ở vào một hoàn cảnh sống khác, kém “ý nghĩa” hơn. Bà cụ, xem chừng, đã không có khả năng tạo được “niềm tin và hạnh phúc cho riêng mình” – theo như tường thuật của ký giả Hải Luận:

“Đêm mùa đông rét như cắt da cắt thịt, cụ Phạm Thị Đờn, 76 tuổi, thôn Quảng Hội, xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cơ thể chỉ như da bọc xương, thức dậy từ 1 giờ khuya, lọ mọ xuống ngâm mình dưới biển mò cua bắt ốc kiếm gạo ăn qua ngày…   Từ 1 giờ sáng đến gần 11 giờ trưa trong bụng không có hột cơm, ngâm mình trong giá rét… nhưng chỉ bán được 17.000 đồng. Giá trị cả ngày lam lũ chỉ thu được 10.000-20.000 đồng, gặp lúc sóng to gió lớn chỉ được 5.000-7.000 đồng.”

Cụ Phạm Đờn cũng không được đoàn thể, hay tổ chức nào, “vinh danh” hết trơn hết trọi. Lý do, có lẽ, vì “mò cua bắt ốc” không phải là loại hình lao động được coi là vinh quang – theo tiêu chuẩn văn hoá của dân làng Ba Đình, Hà Nội.

Cụ Phạm Đờn. Nguồn: Tuổi Trẻ Online

Ông Nguyễn Văn Thành, còn có tên gọi là Lão Thành – một người mù, đang bán vé số để làm kế sinh nhai – cũng rơi vào trường hợp (không nằm trong tiêu chuẩn được vinh danh) tương tự. Phóng viên Giang Uyên –  báo Bưu Điện Việt Nam – đã không quá lời khi dùng từ ngữ “quăng quật” để mô tả cuộc sống vất vả (ngoài sức tưởng tượng) của người đàn ông khuyết tật, xấu số này:

“… đến giờ tên tuổi của cụ cũng chỉ còn là ký ức… mỗi ngày ông vẫn phải tự đi kiếm ăn qua tấm vé số và cuộc sống ‘tự lập’ nơi đầu đường xó chợ… Dù đã già yếu lắm rồi nhưng ngày ngày lão Thành vẫn phải lê bước đi khắp nơi để bán vé số tự nuôi thân. Có những hôm lão ốm nằm một chỗ nhiều ngày liền. Bụng đói không chịu đựng nổi, lão lại lọ mọ dậy bước liêu xiêu ra đường tìm đến đại lý vé số lấy vé đem bán.”

Ông Nguyễn Văn Thành. Nguồn: ictnews.

Tương tự như hai bài phóng sự viết về cuộc đời của cụ Phạm Đờn và cụ Đặng Huần, bên dưới bài viết về ông Thành cũng có những dòng chữ cuối – chỉ dẫn cách giúp đỡ đương sự – như sau:

“Mọi sự hỗ trợ của cộng đồng, độc giả đối với trường hợp ông Nguyễn Văn Thành có thể chuyển đến tận tay ông trước cửa Trung tâm tư vấn pháp luật công đoàn, thuộc Liên đoàn lao động tỉnh Đồng Nai, địa chỉ số 14, Bùi Văn Hòa, phường Hòa Bình – TP Biên Hòa.”

Không thấy ông nhà báo gì đến sự hổ trợ của Đảng, Nhà Nước, hay những ban ngành hội hè vớ vẩn gì đó – của Mặt Trận Tổ Quốc. Trong cả ba bài phóng sự thượng dẫn cũng đều có không một chữ nào đề cập đến nguyên nhân, và trách nhiệm – của bất cứ ai – về những mảnh đời te tua và bầm dập của những công dân lão hạng kể trên. Cứ như thể họ là những người thuộc một quốc gia hay hành tinh nào khác, chứ không phải là những công dân của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Tôi chợt nghĩ: lỡ sáng mai bà Phạm Đờn hay ông Nguyễn Văn Thành khi mở mắt ra và (bỗng) thấy mình đang sống trong một cái nursing home ở California – giường êm nệm ấm, cơm bưng nước rót, cam tươi sữa hộp cạnh bên, cả đống y tá bác sĩ lăng xăng kế cận – mà không dưng muốn… rơi nước mắt! Hai vị dám tưởng là mình đã lên tới thiên đường dù thực sự là họ vừa lạc vào tầng đầu địa ngục, theo như cách nhìn của nhiều người đang sống ở những quốc gia không có Độc Lập -Tự Do – Hạnh Phúc – như ở Việt Nam.

Mai! Anh đã quen em một ngày,

“Mai! Anh đã quen em một ngày,”
“Anh đã yêu em một ngày
Một tình yêu quá không may ..”

(Quốc Dũng – Mai)

(Ga 11: 4)

Trần Ngọc Mười Hai

Đành rằng, khi viết lên ca-từ này, tác giả Quốc Dũng nói nhiều về bạn tình và tình bạn của mình với ca sĩ Phương Mai, cũng là thế.

Nhưng, (lại chữ nhưng với chữ không gì nữa đây!), nếu hiểu theo ý của nhạc sĩ Từ Công Phụng, thì “Mai” ở đây có thể là bất cứ ai, bất cứ người nào, cũng được.

Hôm nay, bầy tôi đây dám gọi bạn hiền linh-mục tên là Mai Đào Hiền, cựu tu-sinh “Giáo Hoàng Học Viện” năm nào, đã về với Chúa có tình người hôm 04/2/2015 đúng vào lúc thúc giục bạn và tôi ta nghĩ về ngày “Mai” tuy xa xôi nhưng rất gần với đời người, hôm nay.

Hôm nay nữa, bần đạo đây lại thấy bài hát trên đầy ý-nghĩa, nên cứ tiếp tục hát:

“Mai! Anh nhớ môi em miệng cười,

Anh nhớ môi em ngọt lời.

Dù lời yêu thương chưa nói.

Mai! Anh đã yêu em thật rồi.

Anh đã yêu em thật nhiều.

Một tình yêu quá cô lieu.

Mai! Em đã cho anh hẹn hò.

Nhưng đã cho anh đợi chờ.

Để rồi không đến bao giờ”…

(Quốc Dũng – bđd)

Thú thật với bạn đọc và các bạn chả-bao-giờ-đọc bài của bần đạo, rằng thì là: kể cũng lạ, đời mình và đời người có những chữ và những lời đầy ý-nghĩa, chứ không chỉ có một chữ/một nghĩa như tên gọi hoặc tên họ của ai đó, cũng rất “Mai”.

Cũng lại thú thật với bạn đang đọc ở đây, rằng: nghĩ về chữ “Mai” không chỉ là nghĩ về thời-gian, nơi chốn nhưng là với người mà mình đang đi tới. Mai, có thể là tên người. Cũng có thể, là thời-gian ở “thì” tương lai chứ không phải “thì” hiện-tại.

Cũng có thể, là: tình-trạng sao đó của con người trong tương-lai và cả hiện tại, cũng đều thế. Nói tóm lại, “Mai” sẽ là tất cả và có thể sẽ không là gì cả. Có là gì, cũng tùy lập-trường và thế-đứng hoặc tầm-nhìn của người nói và/hoặc người viết, mà thôi.

Thế nhưng, nếu hiểu “khổ đau”, “âu sầu” hoặc “sự chết vào mai ngày”, theo nghĩa thần-học trong Đạo thì: có thể , ta cũng nên hiểu theo ý thày dạy của bần đạo, là Lm Kevin O’Shea, CSsR ở Úc như sau:

“Khoa-học, lại cũng đòi tất cả những ai có trọng-trách giáo-huấn bản-thân con người mình, hãy đặt nặng mọi sự lên yếu-tố đặc-trưng tương-quan cảm-xúc nơi con “người” và chuyên-chở ý-nghĩa đã và vẫn tiến-hoá, rất như thế.

Nay ta hãy hướng về vũ-trụ vạn-vật chưa hoàn-tất. Thật ra thì, chả có gì gọi là khởi-đầu trọn-hảo, hết. Cũng chẳng có cái-gọi-là vườn Địa-đàng thời khởi-nguyên, nào hết. Xưa nay, chưa từng có tình-trạng vẹn toàn nguyên-thủy của vũ-trụ, hết. Nhưng, tương-lai vẫn mở rộng ra cho mọi sự.

Mọi người được mời gọi hãy dấn bước vào thể-thức hiện-hữu vẫn tiến-hoá, trổi vực. Vẫn có tương-lai-mai-ngày chưa từng xảy đến, vào thời trước. Ý của Chúa, là tập-hợp tạo-dựng ngày một mật-thiết hơn. Thiên-Chúa đích-thực là Đấng tốt-lành quyền-uy, Ngài không có chọn-lựa nào khác, ngoài việc thiết-dựng và tạo nên vũ-trụ vẫn tiến-hoá, chưa hoàn-tất.

Tiến-hoá, là sự việc phù-hợp với niềm nhung nhớ. Vẫn có thứ gì đó, như thể-loại luyến-lưu nơi giấc mơ tái-lập sự trọn-hảo trong quá-trình hình-dung nên sự việc. Vẫn còn đó thứ gì như: nỗi ám-ảnh về một quá-khứ đầy lý-tưởng.

Ta vẫn cần diễn-giải theo cung-cách khác hẳn về khổ-đau, âu sầu và nỗi chết. Đau-khổ nhiều nhất và lớn nhất, lại chẳng liên-quan gì đến những lỗi cùng tội. Phần lớn thứ đó, đều là nỗi bi-ai, vô tội.

Ta cần diễn-tiến từ ý-niệm về phạt-vạ hoặc trừng-trị, để đến với ý-niệm quà-tặng, khi nói đến khổ-đau, âu sầu, buồn bã. Đau-khổ, vẫn có đó không để giúp ta thích-ứng với hoàn-cảnh rày xảy đến. Đau-khổ, đến từ một chuyển-động nào đó tiếp-cận với chuyển-động khác, vẫn cứ thế. Nó đến, từ một nơi không ai trông ngóng hoặc đợi chờ, và cũng chẳng ai muốn tuỳ nghi thích-ứng với nó, hết.

Đau-khổ, lâu nay được nối-kết với con người mà thôi, cốt là để trách-cứ họ về khổ-đau như thế và cũng để đặt Chúa ra ngoài mọi trách-nhiệm của người từng tặng-trao điều gì. Nói gì thì nói, mọi loài thú đều biết khổ biết đau. Loài vật có tri-giác, do đó chúng biết thế nào là khổ-đau, và phúc hạnh.

Ta cần nhìn về phía con người đang trải dài cuộc sống, và tái định-hình nguồn-cội của chính mình. Con “người”, không trải dài đời mình vào quá-khứ, cũng chẳng thích-ứng/thích-nghi với hiện-tại, nhưng họ đang trải dài đời mình cho tương-lai-mai-ngày của họ.” (x. Lm Kevin O’Shea, CSsR “Ơn Cứu Chuộc Nơi Ngài Chan Chứa”, nxb Hồng Đức sẽ cho in)

Hiểu “khổ đau”, “sầu buồn” và “sự chết” -trong mai ngày- phải hiểu như Lời Vàng do bậc hiển thánh đã từng viết:

“Nghe vậy, Đức Giêsu bảo:

“Bệnh này không đến nỗi chết đâu,

nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa:

qua bệnh này,

Con Thiên Chúa được tôn vinh.”

(Ga 11: 4)

Nghe Chúa nói, có lẽ ta cũng nên hát tiếp những lời ca đầy ý-nghĩa, như sau:

“Chiều về nhạt nhòa trên khu phố mưa bay.

Lòng buồn thêm xót xa niềm cay.

Lời hẹn hò đầu tiên em đã quên đi,

Con đường rộng vắng như biệt ly ..”

(Quốc Dũng – bđd)

Hiểu chữ “Mai” hoặc tên “Mai” như thế rồi, ta sẽ hát tiếp:

“Mai! Anh đã xa em thật rồi.
Anh sẽ xa em trọn đời.
Dù lòng thương nhớ không nguôi.
Mai! Anh biết em trong một ngày.
Anh đã yêu trong một ngày.
Cho sầu đau đến bao ngày …
Đời mình còn dài trong năm tháng chua cay.
Còn tìm đâu thấy những ngày vui.
Chuyện tình mình tựa như cơn gió trôi đi,
Riêng lòng anh xót xa biệt ly”…

(Quốc Dũng – bđd)

Lại thú thật với bạn và với tôi, rằng: mỗi khi nghe tin bạn bè/người thân của tôi và của bạn đi dần vào cõi chết, bần đạo đây dù niềm tin vào Chúa luôn cần sự vui tươi và vững vàng, nhưng vẫn thấy nao nao một “nghĩa” buồn nào đó, rất khôn nguôi.

Nghĩ thế nên, bần đạo lại xin về với “lời bàn” từ bậc thày trích-dẫn ở trên để kể tiếp:

“Nói đến đây, xin cho phép tôi được mượn câu chuyện của một người mà tôi từng gặp và nghe kể, để san-sẻ với anh em đây, hầu minh-hoạ cho việc ta đang bàn. Chuyện ở đây, do vị tuyên-úy lo về linh-đạo ở bệnh-viện nọ, kể về sự việc xảy ra tại bệnh viện này.

Hôm đó, có bà mẹ trẻ mang-thai-gần-đến-ngày-lâm-bồn/ở-cữ, được chuyển gấp đến phòng cấp-cứu, vì ca này rất khó sinh. Sự thể là, nửa đêm hôm ấy, tự dưng tim của thai-nhi đột nhiên ngừng đập; và thai-nhi đã chết trong bụng mẹ chẳng biết vì lý-do gì. Vị linh-mục, khi ấy, không biết làm sao để an-ủi bà mẹ trẻ này cho phải phép. Nhưng Rachel, tên người mẹ trẻ đáng thương kia, vẫn khóc hàng giờ vì con chị nay đã chết mà chẳng ai cứu-vớt được. Chị khước-từ mọi ủi-an, bất kể từ đâu đến vì có an-ủi cho nhiều, thì con chị cũng đã không còn nữa.

Sau một hồi lâu, chị thốt lên một câu, đại ý bảo rằng: “Tôi chỉ muốn nói một điều, là: tôi không thể nào hình-dung được, là: tôi đã làm gì để Chúa bắt tôi phải chịu đau-khổ như thế này!” Khi ấy, linh-mục kia nói: “Không! Không phải thế đâu! Chị đâu đã làm gì xấu đến thế!” Nhưng, chị tiếp-tục phân-trần: “Điều, con muốn nói là: lâu nay con chưa làm điều gì thất-đức cả, mà sao Chúa trừng-phạt con tệ đến thế?”

Thế rồi, vị linh-mục như nhận được ơn lành-thánh hiếm có, mới nói: “Phải chăng, đó là điều mà chị hằng tin-tưởng? Chị nói thế, phải chăng có ý bảo: chính Chúa đã giết con chị, để trừng-phạt? Chị đáp: “Không! Ý con không như thế. Nhưng, phải có lý-do gì đó Chúa mới bắt con phải chịu như thế này, chứ?”

Về lý do hoặc lý-lẽ, cũng chẳng có lý-sự nào xứng-hợp với Chúa, hết. Chỉ một lý-lẽ xuất từ sự đau-đớn/khốn-khổ mà người mẹ trẻ kia phải chịu, khiến chị nổi-giận và khóc-than, thôi. Một thứ lý-lẽ hoặc lý-sự nằm đằng sau mọi sự, mà chị vẫn giấu kín.

Và đây, điểm chính-yếu tôi muốn nói, là: anh em mình nên dừng lại trong phút chốc để suy-tư/bàn-bạc, xem sao. Lý-do hoặc lý-lẽ, do sự việc mà người mẹ trẻ kia lâu nay tìm cách chôn kín khổ-đau cùng cảm-xúc không đúng của chị. Đến đây, tôi lại xin phép được trở về với trình-thuật ta đọc ở Tin Mừng thánh Gioan mà, với tôi, cũng na-ná giống thế.

Đó là, truyện-kể về cái chết của Lazarô, nhất là câu: “Nếu Thày có ở đây, thì em con đã không chết!” Và, cảnh Maria khóc sướt-mướt, qua đó bản tiếng Anh thường dịch là: “Ngài thấy xốn xang trong lòng không ít, và đã động lòng trắc-ẩn”. Bản Hy-Lạp viết mạnh hơn, khi đề-cập đến ý-nghĩ bảo rằng: Đức Giêsu tỏ ra giận-dữ và Ngài nổi cơn thịnh-nộ trong lòng”. Cơn thịnh-nộ trong lòng ư? Vâng. Đúng thế! Ngay Đức Giêsu cũng xử-sự đến như thế. Ngài nổi giận đến mức cuồng-nộ trước khi Ngài đi vào cõi chết.

Bởi, Ngài đến với thế-gian, là để mang lại sự sống cho người khác. Bản thân Ngài, cũng đã chấp-nhận nỗi chết rất khổ-nhục. Và, Ngài cũng đã khóc rất nhiều. Ngài khóc bằng nước mắt của sự căm-phẫn, nổi giận. Ngài xúc-động quá mức cũng giống như Maria, Martha và nhiều người khác. Ngài biết khá nhiều và khá đủ về những thứ hoặc những sự thuộc loài người như những sự việc mà ta tìm không ra cách diễn-giải, để người có mặt hôm đó hiểu được lý-do hoặc lý-sự này khác.

Đức Giêsu đã để cho những người có mặt hôm đó chôn kín các xúc-cảm của họ và của Ngài, nơi mộ phần. Ngài đặt-để các thương-tổn cũng như buồn-đau của họ vào mộ phần cùng với Lazarô. Và, những người có mặt hôm ấy, cũng đã lăn hòn đá-tảng-lấp-mồ khá nặng mà họ thấy và “khoá-chặt” anh ở trong đó.

Và nỗi buồn-đau, có thể sẽ ở tình-thế rất “khoá-chặt”, suốt ngày này tháng nọ. Mọi thương-tổn, được chôn-kín sẽ không động đậy; nhưng, vẫn ở tình-trạng đó mãi sau này. Và rồi, có thể là: mọi người cũng sẽ quên đi những chuyện tương-tự. Có thể là như thế. Nhưng, mãi mãi ở trong đó, vẫn có các thương-tổn từng được chôn-kín, mãi về sau.

Liền sau đó, Đức Giêsu đứng dậy rồi nói: “Hãy lăn đá-tảng lấp mồ đi nơi khác!” Câu này như có nghĩa: “Hãy để mọi thứ như thế, ra bên ngoài chốn mở ngỏ. Bởi, sự thể không tệ như anh em nghĩ đâu. Anh em vẫn có thể đối đầu với nó được. Nhưng, đừng để cho niềm thương-nhớ bị “khoá chặt” trong mộ phần. Hãy để nó sống-động trong cuộc sống của anh em, để rồi cùng với anh em sẽ sống mãi, rất vững mạnh.

Sự sống, lúc nào cũng lớn-lao hơn mọi thứ. Đừng “khoá-chặt” nỗi buồn-đau đằng sau hòn đá tảng lấp mồ. Nhưng, hãy mở rộng cửa lòng mình xuống tận phần đất ở bên dưới. Bởi, nơi đó nay đã khác. Và, ở đây nữa, các nhà thần-học hôm ấy cũng có mặt ở quanh đó nhưng vẫn đứng xa xa. Các ngài cố tìm cho ra lý lẽ và lý-sự của mọi việc nên vẫn hỏi những câu tương-tự như: sao lại như thế? Các ngài tuy có hỏi, nhưng lại tìm không ra thứ lý-lẽ nào cho phải phép, đúng ý mình.

Một lần nữa, ta hãy mượn tiếp một truyện-kể khác cũng từ vị linh-mục tuyên-úy bệnh-viện nói trên. Hôm ấy, vị linh-mục nói ở trên, đã đi thăm cụ bà trọng tuổi nọ ở bệnh-viện; cụ đang gặp chuyện bực-bội cách bất-thường, nhưng không phải chuyện đớn-đau/bệnh-tật mà cụ đang mắc phải. Nhưng, là sự việc: cụ vừa nghe tin con trai cụ bị ám sát, nay đã chết. Linh-mục hôm ấy yêu cầu cụ kể cho ông nghe đôi chút về người con của cụ. Thế là, tự dưng cụ bật lên thành tiếng khóc nức-nở đến nửa tiếng đồng-hồ, khi cụ kể về thời thơ-ấu an-lành của người con, cùng bạn bè và công việc anh đang làm, nhưng phần chính là cụ rất tự-hào về người con mà cụ từng thương-yêu hết mực.

Khi cụ kết thúc câu truyện về người con trai ấy, thì linh-mục thấy mình chẳng làm được gì cho cụ, ấy thế mà cụ vẫn bảo: “Cảm ơn Cha. Chắc cha cũng biết là tôi không cần phải kể về chuyện ấy nhiều đến thế?” Cụ đã thực-sự chôn-vùi nỗi nhớ của cụ nơi mộ-phần rồi. Và, cụ cũng đã lăn hòn đá-tảng-lấp-mồ đi nơi khác. Và, ký ức của cụ không còn bị chôn-kín ở nơi nào nữa. Cụ cũng biến nỗi nhớ về người con của mình, để nó nên thành-phần cuộc sống của cụ, rất thật sự”. (x. Lm Kevin O’Shea, Ơn Cứu Chuộc Nơi Ngài Chan Chứa, chương 5, nxb Hồng Đức sẽ cho in)

Hiểu sự khác-biệt của hai bà mẹ về nỗi buồn đau mất con ở trên rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào truyện kể nhè nhẹ mà bạn đạo nọ vừa gửi để hỗ-trợ bần đạo, như sau:

Một Phật tử đến hỏi Ni sư Tenzin Palmo một câu hỏi rất thú vị:

-Đọc cuốn “Cave in the Snow”, con biết là Jetsuma đã suy nghĩ về cái chết từ khi còn rất bé, ở độ tuổi mà các con của con chỉ biết ăn ngủ, và chơi đùa mà thôi. Trong 12 năm ẩn-tu trên núi tuyết, Ni Sư nhiều lần đối-diện với hiểm-nguy. Có lần Ni Sư bị chôn sống nhiều ngày trong hang do trận bão tuyết nọ xảy ra và tưởng chừng không thể thoát khỏi lưỡi hái của Tử thần… Xin Ni Sư hoan-hỉ cho biết cảm-nghĩ của Ni Sư về Cái Chết.”

-Tôi may mắn sinh ra trong một gia-đình “lạ đời” ở Luân đôn! Cái chết không là điều cấm kỵ nhưng luôn được gia-đình bàn/cãi hàng ngày cách cởi mở. Trong khoảng đời ở trong hang trên núi tuyết, nhờ tu/tập mà tôi đã bình-tĩnh đối-phó mọi chuyện. Tôi bình-thản đón-nhận cái chết nếu nó xảy ra cho tôi vào thời-điểm ấy. Bây giờ, đôi khi tôi lại nghĩ: “A! Cái chết đến hả? Chắc là hứng-khởi lắm đây!

Cử-toạ cười ồ trước câu kết dí-dỏm, nửa đùa nửa thật của Ni Sư Tenzin Palmo.

Từ cuối phòng, cô trụ-trì mở lối cho một thính-giả đi lên phía trước Chánh điện. Anh trông tiều-tụy, da dẻ xám xanh và nét mặt lộ vẻ lo buồn. Anh chắp tay vái chào, ngồi xuống ngước nhìn Ni Sư, nghẹn ngào không nói nên lời. Cô trụ-trì đỡ lời:

-Anh bạn đây muốn xin ý-kiến Ni Sư về việc sửa soạn thế nào khi sắp lìa đời. Anh bị ung-thư phổi, đã qua giải-phãu, hóa-trị gần ba năm nay nhưng bệnh tình không thuyên-giảm, căn-bệnh nay đến thời kỳ cuối. Mạng sống của anh không còn bao lăm. Nay anh đến hỏi Ni Sư điều này cho biết, dù anh là người Công giáo.

Mọi người im lặng vì kinh-ngạc, chờ đợi ni sư trả lời. Ni sư xoay người đối diện với bệnh nhân với ánh mắt đầy thương-cảm, thế rồi Ni sư hỏi:

-Anh có muốn nói chuyện riêng với tôi không?”

Anh thưa:

-Dạ không cần. Tôi muốn Ni Sư trả lời cho trước mặt mọi người để ai cũng được lợi.

Lại một tràng pháo tay nổi lên tán thưởng sự can-đảm và độ lượng của anh.

Hướng về anh, Ni sư Tenzin Palmo chậm rãi nói từng tiếng:

-Ai rồi cũng phải chết. Có những em bé chết từ thuở sơ sanh. Có kẻ chết trẻ, người chết già vì đủ mọi lý do: tai nạn, bịnh tật, già yếu… Ai cũng biết về cái chết nhưng cứ tưởng nó đến với người khác chứ chưa đến lượt mình… mãi đến lúc nó thình lình hiện ra trước mắt thì hoảng hốt, lo sợ, bấn loạn vì thiếu chuẩn bị. Chết vì bệnh, là may mắn hơn vì có thời gian sửa-soạn cho sự ra đi, sửa soạn lìa bỏ cuộc đời:

1/ Điều trước tiên nên làm, là: buông bỏ giận-hờn, oán-hận mà từ trước tới nay mình ôm ấp trong lòng. Mở lòng tha thứ hết mọi người. Buông xã hết.

2/ Hãy nói những lời yêu thương và biết ơn mình muốn nói nhưng chưa có dịp hoặc còn ngần ngại.

3/ Hãy để lại di chúc về tài sản, ước muốn của mình. Cần phân-minh, công-bằng để thân-nhân không tranh-giành, cãi cọ trong thời gian ta mới vừa lìa đời.

4/ Hướng tâm, nghĩ tưởng về Chúa Mẹ nếu là người Công giáo, về Phật nếu là Phật tử. Nếu không tín ngưỡng, hãy hướng về Ánh Sáng.

5/ Thân-nhân không nên than khóc níu kéo: “Đừng đi, đừng bỏ em, đừng bỏ con…” vì sẽ tạo quyến-luyến, khó-khăn cho người sắp ra đi. Điều nên làm, là: hãy nhắc-nhở kẻ hấp-hối nhớ những điều thiện/lành. Dù người ấy như đang hôn mê, không nói năng được, nhưng thân-nhân vẫn luôn nhắc-nhở, cầu nguyện vì tận phần thâm sâu, họ vẫn biết.

6/ Nếu thân-thể bị đau-đớn thì hãy dùng thuốc giảm đau. Người tu-tập cao có thể chịu đựng vì quán chiếu của cơn đau. Nhưng với người bình thường, đau-đớn quá sức sẽ làm họ bấn loạn. Hơn nữa, thuốc giảm đau không gây ảnh-hưởng đến thần-thức sau khi chết.

7/ Một điều cần nhắc nữa, là: khi ra đi, người chết thường thấy hình ảnh ông bà, cha mẹ hay người quá cố hiện ra, vẫy gọi mình. Đừng đi theo họ, mà chỉ hướng đến Chúa, Phật hay Ánh Sáng, là con đường hướng thượng.”(Hiền Thuận viết theo ý Cư sĩ Minh Mẫn)

Hiểu được như trên về sự chết và nỗi khổ đau về cái chết của người thân thuộc nhữ vừa kể, nay xin bạn và tôi, ta cứ đầu cao/mắt sáng hát lên lời ca rất “tình” để kết thúc chuyện phiếm rất “loạn” ở đây, rằng:

“Mai! Anh đã yêu em thật rồi

Anh đã yêu em thật nhiều

Một tình yêu quá cô liêu ..

Mai! Em đã cho anh hẹn hò

Nhưng đã cho anh đợi chờ

Để rồi không đến bao giờ ..”

(Quốc Dũng – bđd)

Thật ra, có diễn-nghĩa thế nào đi nữa, thì “Mai” vẫn là Mai, tức: cái ngày-sau-hôm-nay chứ không phải hiện tại, đâu bạn ạ. Thật ra, có nói và hát thế nào đi nữa về cái “ngày-sau-hôm-nay đến bất ngờ với mọi người”, thì bạn và tôi, ta vẫn công nhận rằng: dù gì đi nữa, có buồn sầu/khổ đau hoặc chết chóc ngay hôm nay hoặc ngày nào đi nữa, tất cả vẫn là “ân-huệ” cho mình, và cho người.

Và, hỡi bạn và tôi, ta hãy nhớ đến những kỷ-niệm vui với người đã khuất, hơn là cứ buồn sầu, khổ đau, hoặc trách móc bất cứ ai, mãi nhé.

Trần Ngọc Mười Hai

Chợt có một chút suy tư

nhân cái chết của một bạn linh mục

mình quen biết cũng khá nhiều

dù chưa một lần tiếp xúc trực tiếp.

Thế rồi, trăng sáng lung linh,

“Thế rồi, trăng sáng lung linh,”

“Em mười sáu tuổi giận hờn vu vơ”.

(Dẫn nhập từ thơ Nguyễn Tất Nhiên )

Mc 1: 40-45

Mai Tá lược dịch

Diễn giải cho chính xác cụm từ Hy lạp trong Tin Mừng, ta biết thánh Máccô có ý nói đến phong thái “nổi giận” chứ không phải lòng “thương hại” của Đức Kitô. Ngoại trừ trích đoạn Tin Mừng thánh Gioan kể lại Đức Kitô “nổi đoá” thật sự khi Ngài bước vào đền thờ, mà thôi. Phần đông các dịch giả Sách thánh thường “lúng túng” khi liên-tưởng đến cảnh Đức Giêsu cũng “nổi giận”.

Tuy nhiên, Giêsu Đức Chúa có “nổi giận” đi nữa, điều đó cho thấy Ngài có cái nhìn thấu-đáo, cẩn-trọng nơi tâm-can của Ngài. Và, đây là thách thức lớn gửi đến chúng ta. Hẳn ai cũng rõ, giận dữ là trạng thái thường tình cho thấy có cái gì đó không ổn xảy ra trong cuộc sống chung đụng giữa người với người.

Giận-dữ là cảm xúc quan-trọng được thẩm-định, rất rõ nét. Nổi giận, mang tính trung-hòa trong giá-trị tu-đức của người đi Đạo. Trong cuộc sống thường nhật, tùy cách-thức ta giải-quyết các trường-hợp nóng giận, mọi người sẽ thấy ảnh-hưởng của bẩy thứ tình cảm Những “hỉ, nộ, ái, ố, ai, hoan, lạc” ở trong ta. Có người cứ ở lỳ mãi trong tư-thế nổi giận để rồi, kết cuộc sẽ bị “cháy” và “thấm đòn” vì có tính-khí ấy. Người khác, lại nhân cơ-hội này rút kinh-nghiệm tạo nghị-lực mà sửa-đổi những gì sai trái, vẫn chưa ổn.

Với xã hội Palestin vào thế kỷ đầu đời, bất cứ người nào có vấn đề ngoài da đều được tặng cho cái mũ chụp lên đầu bằng tên gọi “phung/cùi”, nghe kinh khiếp. Họ bị buộc phải sống bên lề xã-hội, xa làng mạc thị-thành vốn thân quen, vào độ trước. Bị bắt buộc như thế, họ không còn được cận-kề người đồng-hương, đồng chủng nữa. Mỗi lần cất bước đi đâu, làm việc gì đều phải báo-động, kêu to “Ô-uế! Ô-uế! Chúng tôi là phường ô-uế!”

Lại nữa, họ chẳng khi nào dám bén mảng đến chốn đông người dù đó có là đền thờ, chợ búa hoặc chồn dân gian bình thường ở đời. Người đời khinh bỉ họ như những kẻ bị Chúa chúc dữ, không thể kể tên trong danh-sách “Dân được chọn”. Bởi thế nên, cũng chẳng lạ gì khi thấy Đức Kitô tỏ dấu giận-dữ khi Ngài được bảo cho biết là: người bệnh phong cùi bị đối xử tệ bạc, bỏ rơi.

Mỗi lần gặp họ, là Ngài công-khai đối đầu với cả một hệ-thống quan-quyền dám cướp đi phẩm-cách cao quý của người mắc những dị-tật buồn, hẩm-hiu, lẻ bóng. Mặt khác, lề-luật trong Đạo cũng chẳng chùn tay do-dự khi tước đọat khỏi nơi họ mọi hy-vọng để sống còn. Sống cho ra người. Sống cho xứng đáng với tư-cách cao sang của kiếp người.

Phúc-âm hôm nay, đưa ra hai chi-tiết quan-trọng, cần được xem xét. Thứ nhất, về người phung cùi/ghẻ lở, dù mắc bệnh ngặt-nghèo khiến mọi người ghê tởm, anh vẫn can-đảm bước tới giáp mặt Đức Chúa để trình-bày nỗi niềm riêng và yêu-cầu Ngài chữa lành cho anh.

Ở đây, truyện kể ghi rõ Đức Giêsu đã đụng tay vào người anh; và rồi, mọi vết hằn trên da thịt đều tan- biến.

Về tình-huống đối đầu với luật-pháp, mọi điều-khoản trong lề-luật ở xã hội cũng như tôn-giáo nay đã bị bẻ gẫy. Thật ra, việc Đức Giêsu chữa lành cho người phong hủi không chỉ mang ý-nghĩa thách-thức đối-chọi với luật-pháp hoặc húy-kỵ các thói quen vẫn giữ ở xã-hội ngoài đời, thôi.

Hành-động của Đức Giêsu, còn thúc-giục người bệnh ra đi thực-hiện những gì luật đạo dạy anh làm. Có như thế, anh mới có thể về với đền thờ, với cộng-đoàn thân-yêu của mình.

Giải quyết khúc mắc căn-bản này, Đức Kitô cho thấy: Ngài quan-tâm đến công-tác hoán-cải cuộc đời của những người mà Ngài gặp trong hành-trình rao truyền ơn cứu-độ. Và Ngài đưa họ về với bộ luật cao-cả của Đức Chúa, đó là: lòng yêu-mến/xót-thương tất cả mọi người, kể cả những người bị bỏ rơi, lánh mặt.

Chi-tiết thứ hai mà trình-thuật nay đề cập, là nhận-định đúng mức các thách-đố đặt nơi cơn giận của chúng ta. Thách-thức đây, không chỉ liên-quan đến việc tranh-đấu cho quyền-lợi chính-đáng của mỗi người, cả khi người này phạm nhiều sai trái, lỗi luật. Thách-thức đây, còn mang nghĩa đấu-tranh cho phẩm-cách và quyền-hạn của người khác được mau chóng phục-hồi.

Đấu-tranh ấy, ngày nay, mang nhiều dạng-thức rất khác biệt, như: nỗ-lực chấm-dứt hành-vi tước-đoạt quyền làm người của các hài-nhi chưa mở mắt chào đời, quyết tranh-đấu chống lại mọi manh-tâm cướp đi quyền được sống của những người mắc bệnh nan y, gần kề cõi chết. Tranh-đấu cho thế-hệ mai ngày, bằng việc quan-tâm, chăm sóc địa cầu mình đang sống cũng rất cần.

Đồng thời, thách-thức và tranh-đấu còn có nghĩa đứng lên mà hành-động cho phải phép, quyết bênh-vực những người đang chung sống trong cùng mái ấm cơ ngơi với mình hoặc những người cùng xứ đạo cộng-đoàn, hoặc sở làm vẫn năng nổ hoặc những người cùng xóm quẩn quanh với mình, những người cùng tổ quốc thân yêu, cùng một thế-giới sinh-động, ở nơi đó vẫn còn nhiều đối-xử tệ-bạc, đầy tủi hổ. Ở nơi đó, vẫn còn nhiều người phong hủi vẫn bị liệt vào thành phần ô uế, phải tránh xa.

Cuối cùng, nếu hỏi rằng: sao ta cứ bận tâm với những nóng giận như thế?  Thì, xin thưa rằng, vì Chúa-nhật hôm nay, Đức Kitô lại đã đến với ta một lần nữa. Ngài đến công-khai khẳng-định rằng: dù ta có nghĩ mình tệ-lậu đến mức-độ nào đi nữa, dù người kia hoặc người nào khác có đối-xử với ta chẳng ra gì đi nữa, thì vẫn chẳng có gì tồi tệ ở trong ta lại không được Chúa quan-tâm, đến chữa lành.

Chẳng có gì khiến ta ra tuyệt-vọng, dù ngày mai đây đất trời lồng-lộng có ngả nghiêng, sụp đổ đi chăng nữa, cũng thế.

Cầu mong sao, Tiệc thánh hôm nay đem đến cho ta tình yêu nóng bỏng và lòng xót thương chữa lành của Đức Chúa để ta đấu tranh vì người khác, cho phẩm giá của người khác, người đồng lọai đang mang bệnh phung hủi, hiểm nghèo. Phẩm giá con người chính là quà tặng cao quý ta nhận được từ vị Chúa tể của Tình yêu thương, xót xa.

Cầu và mong sao, ta vẫn hy-vọng vào cơn giận rất thực của chính mình. Vì biết rằng, mọi buồn phiền, giận dữ ta đang gặp cũng sẽ thành như cơn giận chính-đáng Đức Kitô để lộ hôm trước. Để rồi, Ngài sẽ biến-đổi ta thành nhân-tố tốt lành khả dĩ lay-chuyển và kiến-tạo một Giáo-hội lành-mạnh và công-chính hơn. Và, thế-giới ta sống, sẽ công bình hơn bao giờ hết.

Nóng như thế, mới là nóng đích thực. Giận như thế, mới là giận tự-nhiên. Nóng giận rất chóng qua, để rồi sẽ đổi mới cuộc đời lâu nay còn nguội lạnh. Nguội và lạnh, như viên đá xanh trơ trẽn trước tình-yêu nóng-bỏng của Đức Chúa, vẫn tỏ lộ cho mỗi người và mọi người. Vậy thì, ta có nên gọi đây là cơn giận lành, được hay chăng?

Cảm-nghiệm tính lành-mạnh nơi cơn giận-dữ của Ngài, cũng nên ngâm tiếp lời thơ trên, mà rằng:

“Thế rồi trăng sáng lung linh,

Em mười sáu tuổi, giận hờn vu vơ.

Sang năm mười bảy không ngờ,

Tình tôi nít nhỏ, ngồi mơ cũng thừa.

Tôi mười bảy tuổi buồn chưa,

Đầu niên học mới dầm mưa cả ngày.”

(Nguyễn Tất Nhiên – Trúc Đào)

Tình của tôi hay ai đó, dù “nít nhỏ” vì dầm mưa hay lưa thưa tuổi mười sáu rất giận dỗi, vẫn là thứ tình không “vu vơ”, “không ngờ” hoặc “buồn chưa”, đâu đấy; nhưng vẫn là thứ tình của người thường có Chúa phù trợ, đỡ nâng, rất không buồn.

Lm Richard Leonard sj,

Mai Tá lược dịch

XIN ƠN KHÔNG BÁM VÍU VÀO CỦA CẢI VẬT CHẤT

XIN ƠN KHÔNG BÁM VÍU VÀO CỦA CẢI VẬT CHẤT

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Trên trời cao, ta thấy có những áng mây trôi lơ lửng.  Nhìn mây cuồn cuộn hàng hàng lớp lớp như thể điều gì kinh khủng lắm, nhưng chẳng ai có thể nắm được mây trong lòng bàn tay.  Mây chỉ là ảo ảnh trước mắt ta.  Mây chẳng bao giờ cố định.  Mây sẽ thay đổi hình dạng mình theo cơn gió.  Mây mỏng manh vô cùng, vì thấy đó rồi mất đó, có đó rồi chẳng thấy đâu.  Mây sẽ tan khi cơn gió đến.  Mây chỉ là kết quả của một cuộc hợp rồi tan.  Tuy mây đẹp và lôi cuốn, nhưng mây không bao giờ có thể là biểu tượng của sự vững bền.

Cuộc đời này, xét cho cùng, cũng giống hệt như mây.  Có biết bao điều trông thì lôi cuốn, sinh động, hấp dẫn, nhưng có bền lâu mãi đâu.  Những vinh hoa, danh dự, tiền tài chỉ như ảo giác.  Nhìn có vẻ đẹp nhưng rồi cũng sẽ tan hết.  Cớ sao ta cứ luôn hoài muốn bắt lấy?  Một chút thỏa mãn và niềm vui ta có đó liệu có nằm trong tay ta mãi không? C ó những con người điên cuồng bất chấp để chiếm hữu, nhưng rồi cũng buông tay khi bóng chiều của cuộc đời ập đến.  Cố gắng để người khác biết đến mình, yêu mến mình, nhưng liệu người ta có thần tượng mình mãi không?  Sắc đẹp, thời trang cũng bập bềnh theo nhịp sống.  Sẽ có lúc ta già đi, nét đẹp cũng lặng mất.  Cố chiếm giữ lòng người làm gì, để rồi sẽ nhận lấy hụt hẫng?  Cố chạy theo danh tiếng làm chi, để rồi suốt cuộc đời mất đi tự do vì chúng?

Trong Vườn Địa Đàng, trước khi con rắn xuất hiện, đối với bà Evà, trái cấm cũng bình thường như bao trái cây khác, chỉ có điều không được phép ăn theo lệnh của Thiên Chúa.  Nhưng khi con rắn thổi vào tai bà những lời dụ dỗ có phần lý thú, cái nhìn của bà về trái cấm bỗng dưng khác đi.  Bà thấy nó hấp dẫn, lôi cuốn.  Bà thấy nơi trái cấm ấy là cả một âm mưu đen tối của Thiên Chúa và một tham vọng hão huyền muốn trở thành thiên chúa.  Trái cấm khơi dậy trong lòng bà một nỗi sợ kiếp sống hữu hạn mà bà đang mang, một khao khát muốn trường sinh, muốn hiểu biết, muốn sở hữu cái tuyệt đối.  Kết cục cho cái tham vọng ngông cuồng ấy là một hố thẳm ngàn trượng vô đáy đang chờ bà.  Bà đã cố nắm lấy một điều ảo tưởng.  Ý định không thành tựu như bà tưởng, trái lại còn để lại trong bà một hậu họa  thảm khốc vô lường.

Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh tỉnh những người lắng nghe Ngài khi Ngài rao giảng, rằng ích gì khi an vui bởi mình lắm bạc tiền, kho lẫm đầy ứ.  Đêm nay, lỡ như thần chết đến kéo mình đi, những thứ kia để làm gì.  Cố gắng tích trữ chúng bằng mọi giá để làm chi, khi mình không còn hơi thở, không còn sự sống để tiếp tục vui hưởng chúng.  Chàng trai trẻ có lòng khao khát tìm Nước Chúa, khi nghe đến điều kiện là hãy về, bán hết của cải, cho người nghèo thì đã buồn sầu bỏ đi.  Tiền bạc mang đến cho anh ta nhiều cảm giác vui sướng hơn cây thập giá và cuộc đời lang bạt của Giêsu.  Vua Hêrôđê, Philatô, các thượng tế và kinh sư… một đời sống trong nhung lụa, bày hết mưu này chước nọ để hại người ngay, để cố giữ chút danh lợi và bạc tiền trong tay.  Rốt cuộc, tất cả cũng trở về với bụi tro.  Cái gì mau qua chỉ là hư ảo, cái gì vĩnh viễn mới là chân lý.

Có chuyện ngụ ngôn kể rằng một con gà kia phát hiện ra một kho lúa.  Nó đi lòng vòng tìm cách vào. Cuối cùng nó phát hiện có một cái lỗ nhỏ là lối đi duy nhất có thể giúp nó tiến vào trong.  Nhưng cái lỗ ấy nhỏ quá.  Thế là nó quyết định nhịn ăn để thân hình nó ốm bớt.  Khi đã ốm đủ, nó cố gắng len mình qua cái lỗ và chui được vào trong.  Nó tha hồ ăn thóc ăn lúa.  Ăn nhiều đến độ, nó trở nên béo phì.  Nó nghĩ đến việc chui ra khỏi cái lỗ để tận hưởng cuộc sống bên ngoài, thoáng hơn, mát hơn.  Thế nhưng, nó quá mập nên không thể ra được.  Nhưng nó cũng không thể ở kho lúa này mãi.  Thế nên, nó lại quyết định nhịn ăn để có thể ốm đi mà chui ra.  Sau một khoảng thời gian dài, nó cũng chui ra được. Quay đầu lại nhìn kho lúa, nó thầm nhủ: trước khi ta vào, ta ốm nhom; sau khi ta ra, ta cũng chẳng hơn gì, cũng chỉ như thế thôi.

Vâng, áng mây đẹp lắm nhưng chỉ nên ngồi đó ngắm thôi.  Hãy thưởng thức những hình thù mây tạo dáng.  Hãy chỉ xem nó như một trò chơi của tự nhiên.  Đừng cố nắm bắt mây làm gì, đừng cố níu giữ nó làm gì, vì rốt cuộc ta có được chi đâu.  Áng mây trời nhắc nhở chúng ta về thân phận mong manh của mình, về cái vô thường của mọi sự trên trần gian.  Rồi sẽ qua đi hết, rồi sẽ chẳng còn gì.  Tất cả trước mắt ta chỉ là ảnh ảo, là tạm bợ.  Đừng bám víu vào chúng, đừng cho rằng chúng là vĩnh cửu, đừng để cuộc sống mình cậy dựa hoàn toàn vào chúng.

Có bao giờ các bạn tự hỏi: đâu là chân lý của đời tôi?  Đâu là cái mà tôi cần cố để nắm bắt?

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Kẻ thù của tiến trình dân chủ hoá ở Việt Nam

Kẻ thù của tiến trình dân chủ hoá ở Việt Nam

Nguyễn Hưng Quốc

05.02.2015

Kẻ thù của dân chủ ở Việt Nam, trước hết, là chế độ độc tài. Nhưng tại sao chế độ độc tài ấy vẫn cứ vững mạnh? Câu trả lời dĩ nhiên không phải vì cái chế độ ấy…vững mạnh. Vấn đề, bởi vậy, cần được đẩy xa hơn: Tại sao chế độ ấy vẫn vững mạnh, tiếp tục vững mạnh; và dù bị dân chúng căm ghét, không có dấu hiệu gì lung lay và yếu ớt cả? Nói cách khác, cần tìm các kẻ thù của dân chủ ở ngoài chế độ độc tài.

Nhìn vấn đề như vậy, theo tôi, có hai kẻ thù chính: Một là óc tư lợi và hai là chủ nghĩa thực tiễn (realism).

Trước hết, về tư lợi, xin lưu ý là có nhiều hình thức độc tài khác nhau, từ độc tài quân chủ đến độc tài quân phiệt, độc tài cá nhân và độc tài đảng trị. Về bản chất, các hình thức độc tài ấy giống nhau: thâu tóm quyền lực và quyền lợi vào trong tay của một người hoặc một nhóm người cùng lúc với việc tước bỏ mọi thứ quyền (rights) căn bản của đại đa số quần chúng. Về mức độ độc ác, chà đạp lên quyền làm người, chúng cũng không khác nhau mấy: số nạn nhân bị giết chết dưới chế độ độc tài đảng trị của Stalin, Mao Trạch Đông và Pol Pot không hề thua kém số nạn nhân do độc tài cá nhân của Hitler sát hại. Có điều đáng buồn là, về tuổi thọ, trong thời kỳ hiện đại, loại độc tài đảng trị tồn tại lâu và khó đánh gục nhất. Lý do đơn giản: dưới chế độ đảng trị, quyền lực và quyền lợi được san sẻ cho nhiều người, do đó, lực lượng của họ rất đông và vì đông, nên cũng vững mạnh. Ví dụ ở Việt Nam, quyền lực tối cao nằm trong tay mười mấy người trong Bộ Chính trị, tuy nhiên, dưới Bộ Chính trị, có mấy trăm người trong Trung ương đảng cũng có rất nhiều quyền lực; xuống nữa, thấp hơn, tận các địa phương nhỏ, mấy triệu đảng viên cũng có những quyền lực và quyền lợi hơn hẳn dân chúng: Chính mấy triệu đảng viên ấy , vì tư lợi của họ, hay nói theo lời đại tá Trần Đăng Thanh, vì những cuốn sổ hưu của họ, trở thành những nguồn hỗ trợ cho chính quyền độc tài, làm cho chính quyền, ít nhất, cho tới nay, hầu như bất khả xâm phạm.

Nhưng kẻ thù ấy, thật ra, chưa phải là kẻ thù chính. Số lượng đảng viên đông thì đông thật nhưng dù sao cũng không nhằm nhò gì so với 90 triệu dân. Nếu tất cả dân chúng, hay chỉ cần vài trăm ngàn người dân đổ ra đường biểu tình chống lại độc tài thì, trước sức ép của thế giới, cả mấy triệu đảng viên cũng chịu bó tay. Kinh nghiệm từ các cuộc cách mạng trên thế giới từ xưa đến nay, cụ thể hơn hết, những năm gần đây tại Trung Đông và Bắc Phi, cho thấy điều đó. Độc tài có thể ra lệnh cho quân đội xả súng vào cả hàng ngàn người, thậm chí, hàng chục ngàn người, nhưng không có ai dám ra lệnh bắn cả hàng trăm ngàn người, đặc biệt trong thời hiện đại, khi, với hệ thống truyền thông đại chúng vừa tinh vi vừa nhanh chóng, việc tàn sát ấy dễ dàng lan rộng khiến cả thế giới lên án và can thiệp.

Thế thì tại sao trong một quốc gia có gần 100 triệu người không thể hoặc chưa thể có mấy trăm ngàn người xuống đường biểu tình đòi tự do và dân chủ? Câu trả lời đầu tiên, dễ hiện ra nhất, là vì sợ. Nhưng theo tôi, câu trả lời ấy chưa phải là vấn đề căn bản. Chỉ cần theo dõi dân tình tại Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy ngay vấn đề chính của đại đa số quần chúng không phải là sự sợ hãi mà chủ yếu là người ta không thực sự quan tâm đến xu hướng dân chủ hoá. Họ không đoái hoài đến chính trị. Họ vô cảm trước hoạ độc tài. Với họ, Việt Nam do ai cai trị và cai trị thế nào không quan trọng. Điều quan trọng nhất, với họ, là họ có thể làm ăn, mua sắm xe cộ và nhà cửa. Bởi vậy, điều họ cần nhất là sự ổn định về chính trị và những cơ hội để làm giàu hoặc ít nhất, kiếm sống. Lâu nay, chúng ta thường gọi đó là tâm lý vô cảm hay chủ nghĩa mặc-kệ-nó, tuy nhiên, ẩn giấu đằng sau sự vô cảm ấy chính là óc tư lợi, chỉ nghĩ đến những lợi ích của bản thân mình và gia đình mình hơn là quyền lợi chung cho cả đất nước.

Bên cạnh óc tư lợi của các đảng viên cũng như của dân chúng nói chung, tiến trình dân chủ hóa còn có một kẻ thù khác nữa: chủ nghĩa thực tiễn (realism) của các cường quốc trên thế giới.

Trong chính trị học, khái niệm chủ nghĩa thực tiễn được sử dụng nhiều nhất trong lãnh vực quan hệ quốc tế. Nói một cách vắn tắt, chủ nghĩa thực tiễn chủ trương, một, trong quan hệ quốc tế, không có một quyền lực nào bên ngoài hay ở trên có khả năng chi phối cách hành xử giữa các quốc gia với nhau; hai, yếu tố chính quyết định sự lựa chọn của mỗi quốc gia là quyền lợi của chính nước ấy; và ba, quan hệ quốc tế, do đó, thay đổi theo từng lợi ích cụ thể chứ không phải là một ý thức hệ nào cố định cả. Trong ý nghĩa ấy, có thể nói hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, các chính sách ngoại giao của Tây phương đều xuất phát từ quan điểm thực tiễn luận. Trên lý thuyết, họ hay nói đến vấn đề nhân quyền như một nền tảng ngoại giao, nhưng trên thực tế, mọi quyết định của họ đều tùy thuộc vào quyền lợi của quốc gia họ. Trong lịch sử, kể cả lịch sử rất gần, hơn nữa, kéo dài đến tận ngày nay, Mỹ cũng như hầu hết các quốc gia Tây phương đều duy trì quan hệ mật thiết với nhiều quốc gia còn chìm đắm dưới họa độc tài. Như với Ai Cập dưới thời Hosni Mubarak hay Pakistan và Saudi Arabia hiện nay.

Từ những kinh nghiệm ấy, chúng ta có thể đặt vấn đề: Liệu Mỹ và Tây phương có đẩy mạnh sự hợp tác chiến lược với Việt Nam trong khi Việt Nam vẫn còn độc tài và tiếp tục chà đạp lên nhân quyền hay không? Theo cách trả lời phỏng vấn của một số quan chức trong guồng máy chính trị ở Mỹ và Tây phương nói chung thì dường như là không. Họ lớn tiếng tuyên bố việc cải thiện nhân quyền là một trong những điều kiện căn bản của mọi sự hợp tác có tầm chiến lược. Với họ, dường như đó là một nguyên tắc. Nhưng đó chỉ là những lời tuyên bố. Khi việc hợp tác thực sự có lợi, người ta sẽ bất chấp tất cả những nguyên tắc và các điều kiện ấy như điều họ vẫn làm đối với các chế độ độc tài khác ở Nam Mỹ, Bắc Phi, Trung Đông từ trước đến nay. Nói cách khác, trở ngại chính trong quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ cũng như với các quốc gia Tây phương hiện nay không phải vấn đề dân chủ hay nhân quyền mà thực ra là vấn đề tin cậy: chính quyền Việt Nam phải làm sao cho thế giới thấy là họ có một chiến lược rõ ràng, đặc biệt, trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, sự tin cậy chỉ có thể đạt được khi người ta chia sẻ một bảng giá trị chung; trong bảng giá trị ấy, nhân quyền lại là một trung tâm. Do đó, mặc dù bị chìm phía dưới, nhân quyền vẫn là một yếu tố quan trọng trong bất cứ một liên minh nào với Tây phương. Yếu tố trung tâm này chỉ bị gạt qua một bên trong trường hợp sự liên minh trở thành thiết yếu, không thể không có.

Dĩ nhiên, người Việt, nhất là cộng đồng người Việt ở hải ngoại vẫn nên và cần tiếp tục vận động để Mỹ và Tây phương tăng cường áp lực lên chính quyền Việt Nam để cải thiện nhân quyền, nhưng cũng không nên quên tất cả những nhà lãnh đạo Tây phương đều là những nhà thực tiễn luận (realist): Cuối cùng, điều họ làm là những gì có lợi nhất cho đất nước họ.

Chứ không phải là ý thức hệ hay ý tưởng. Kể cả các ý tưởng về dân chủ và nhân quyền.

Kiếp khổ

Kiếp khổ

TRẦM THIÊN THU

Chuacưuthe.com

VRNs (06.02.2015) – Sài Gòn – Đời là bể khổ. Đó là câu nói “cửa miệng” khi người ta nói tới cuộc đời. Khi sinh ra, ai cũng cất tiếng khóc chào đời. Chào đời là vui mà không cười, sao lại khóc? Phải chăng “định mệnh” đã an bài? Chúa Giêsu cũng đã nói: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34). Ông Thích Ca Mâu Ni vốn là một hoàng tử, sống sung sướng an nhàn, nhưng sau khi tham quan bốn cửa thành, ông đã nhìn thấy dân chúng đau khổ, rồi “giác ngộ” và nhận định : “Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, và tử là khổ”. Phật giáo bốn chân lý cao cả làm nền tảng, đó là Tứ Diệu Đế (còn gọi là Tứ Thánh Đế): Khổ đế (chân lý về sự đau khổ), Tập đế (chân lý về sự phát sinh đau khổ), Diệt đế (chân lý về sự diệt khổ), và Đạo đế (chân lý về đường dẫn tới sự diệt khổ).

Quả thật, cái khổ bao vây tứ phía, mở mắt ra là thấy khổ, khổ suốt ngày cho tới khuya, đôi khi nằm ngủ cũng chưa yên. Vì thấy khổ quá nhiều, Chúa Giêsu đã luôn chạnh lòng thương khi người ta chịu sự kìm kẹp của đau khổ. Ở đâu cũng có đau khổ: Ở trên, ở dưới, ở trước, ở sau, ở bên phải, ở bên trái. Chẳng tránh đâu cho khỏi nắng. Càng tránh đau khổ thì càng đau khổ. Muốn tránh khổ, chỉ có cách “đi xuyên qua nó”, tức là coi nó như không có, chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23). Đau khổ là mầu nhiệm. Dù không tỳ vết tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu vẫn PHẢI chịu đau khổ (Mt 16:21; Mt 17:22; Mc 8:31; Lc 9:22; Lc 17:25). Ngài chịu đau khổ để cứu độ nhân loại.

150205008

Đau khổ như ma quỷ, nó cứ “ám” chúng ta suốt ngày đêm. William Arthur Ward (1921-1994, ký giả và thi sĩ Mỹ) rút ra kinh nghiệm: “Người khôn ngoan là người học được những sự thật này: Rắc rối là tạm thời, thời gian là thuốc bổ, đau khổ là ống nghiệm” (Wise are they who have learned these truths: Trouble is temporary, time is tonic, tribulation is a test tube). Dù sao thì cũng phải ráng thôi!

Đau khổ xuất hiện ở mọi nơi và mọi lúc, từ khi Nguyên Tổ nghe lời xúi dại của Con Rắn. Thiên Chúa thấy sự ác lan tràn mặt đất nên Ngài buồn rầu (St 6 :5-6). Thiên Chúa không gây ra điều ác, vì Ngài tốt lành, từ bi và nhân hậu, chính dục vọng của con người gây ra tội lỗi, và tội lỗi sinh ra cái chết (x. Gc 1:13-15). Đó là quy trình của đau khổ trên thế gian này.

Trong dịp ĐGH Phanxicô tông du Phi Luật Tân hồi trung tuần tháng 1-2015, bé gái mồ côi Glyzelle đã khiến ngài và cả thế giới mủi lòng khi em hỏi trong niếng nấc nghẹn ngào: “Tại sao Thiên Chúa cho phép chuyện này xảy ra? Trẻ em không có lỗi chi. Tại sao chúng con chỉ được một số ít người giúp đỡ?”. Một câu hỏi hóc búa quá! ĐGH Phanxicô cũng không biết phải nói gì hơn là ôm chặt em trong vòng tay yêu thương và cảm thông.

Ông Gióp là hiện thân của đau khổ, dù ông sống tốt lành. Ông nhận xét: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công; cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi nào trời sáng?’. Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng!” (G 7:1-4). Cả cuộc đời hầu như phàm nhân không được ngơi nghỉ, lo rồi sợ, sợ rồi hoang mang. Cứ thế, kiếp người bị đày đọa trong kiếp khổ triền miên, cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng!

Thất vọng rồi hầu như tuyệt vọng. Ông Gióp tha thiết cầu xin: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:6-7). Buồn quá! Não nề quá! Thế nhưng bị đau khổ có khi lại là cái may, vì sung sướng quá có thể hóa rồ dại, lúc đó còn nguy hại hơn là chịu đau khổ.

Cái mình bảo là hên nhưng lại có thể là xui, cái mình cho là xui lại có thể là hên, giống như chuyện Tái Ông mất ngựa vậy. Nhưng tất cả đều là Thánh Ý Chúa nhiệm mầu, chúng ta không thể hiểu thấu. Vậy thì chúng ta lại phải tạ ơn Ngài mà thôi, như tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy! Chúa là Đấng xây dựng lại Giêrusalem, quy tụ dân Ítraen tản lạc về” (Tv 147:1-2).

Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài đã từng mủi lòng và bật khóc khi thấy người khác chịu mất mát, đau khổ (Lc 11:35). Kinh Thánh cho biết: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành. Người ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một. Chúa chúng ta thật là cao cả, uy lực vô biên, trí tuệ khôn lường! Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy, bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen” (Tv 147:3-6). Thiên Chúa của chúng ta luôn trắc ẩn, đặc biệt là đối với những người hèn mọn. Chính người đời còn biết nhận xét: “Cánh cửa này khép lại, cánh cửa khác mở ra”. Chắc chắn không ai phải cùng đường hoặc không lối thoát giữa những nỗi đau khổ hằng ngày trên đường lữ hành trần gian.

Dù chịu bao gian khổ, nhưng Thánh Phaolô vẫn kiên trì và tự nhủ: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Không làm điều đó thì khốn, nhưng nếu làm điều đó thì phúc. Thánh Phaolô lý luận: “Tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:15-19). Chấp nhận và tự nguyện làm nô lệ tức là chấp nhận và tự nguyện chịu đau khổ. Ngược đời thế đấy!

Thánh Phaolô nói và làm thật, không nói suông: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).

Sinh, lão, bệnh, tử là bốn “mũi nhọn” chĩa vào con người. Đánh vần chữ KHỔ là “ca hát ô khô hỏi Khổ”, “ca hát” thì vui, thế mà chả vui tí ti nào. Khổ thật! Có lẽ vì thế mà ngày nay người ta đánh vần là “khờ ô khô hỏi Khổ”, khổ quá nên “khờ” phải rồi! Và Tin Mừng hôm nay (Mc 1:29-39) nói về việc Chúa Giêsu diệt trừ một trong bốn cái khổ đó.

Một hôm, vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Đây là hai “cặp bài trùng” được Chúa Giêsu gọi làm các môn đệ đầu tiên. Lúc đó, nhạc mẫu của ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Lạ thay, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.

Tin lành hoặc tin dữ luôn được người ta đồn rất nhanh. Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Ngài. Thánh sử Mác-cô cho biết rõ ràng: “Cả thành xúm lại trước cửa”. Thế thì đông lắm, đông như kiến, vì ai cũng muốn tận mắt chứng kiến “sự lạ” nhãn tiền. Hôm đó, Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai. Ngài không cho quỷ tiết lộ bí mật vì “giờ của Ngài chưa đến”.

Hôm sau, mới sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Hành động của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng cầu nguyện là điều vô cùng cần thiết, nhất là khi mới thức dậy. Không thấy Sư Phụ Giêsu đâu, ông Simôn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Cà phê cà pháo chi sớm rứa? Ăn sáng thì càng phải từ từ chứ!

Nghe mấy đệ tử nói vậy, Ngài lại bảo họ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Chúa Giêsu luôn quan tâm và chú trọng việc cầu nguyện và làm việc. Sau đó, Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ – tức là diệt khổ cho những người đang phải chịu đau khổ.

Sai lầm dẫn tới phạm tội, tội lỗi sinh ra đau khổ. Kinh Thánh cho biết: “Có sáu điều làm Đức Chúa gớm ghét, có bảy điều khiến Ngài ghê tởm: Mắt kiêu kỳ, lưỡi điêu ngoa, tay đổ máu người vô tội, lòng mưu tính những chuyện xấu xa, chân mau mắn chạy đi làm điều dữ, kẻ làm chứng gian thốt ra lời dối trá, người gieo xung khắc giữa anh em” (Cn 6:16-19). Tránh được những điều đó thì chúng ta khả dĩ tránh được sai lầm, tránh sai lầm thì tránh được tội lỗi, tránh tội lỗi thì tránh được đau khổ.

Đau khổ có giá trị đặc biệt. Chịu đau khổ là vác thập giá, chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô, để đền tội của chính mình và đền tội thay cho người khác. Cuộc đời các thánh cho chúng ta thấy rằng các ngài đều đã từng đau khổ nhiều – đau khổ tinh thần, đau khổ thể lý, hoặc cả hai dạng. Như vậy, đau khổ là điều kỳ diệu. Đau khổ càng lớn thì hạnh phúc càng nhiều!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chân nhận giá trị của đau khổ mà không than thân trách phận. Chúng con không dám xin Ngài kéo chúng con ra khỏi đau khổ, nhưng xin Ngài đừng bỏ mặc chúng con trong đau khổ. Tất cả xin vì sáng danh Chúa và cứu các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

40 năm Người Việt tại Canada và dự luật S-219

40 năm Người Việt tại Canada và dự luật S-219

Mặc Lâm – RFA
2015-02-06

senator-ngo

Nghị sĩ Ngô Thanh Hải

RFA photo

Mặc Lâm: Thưa TNS Ngô Thanh Hải, xin ông cho biết mục đích mà ông soạn thảo Dự luật S-219 ban đầu có tên là Tháng Tư đen, sau đổi lại là “Ngày hành trình tới tự do” nhằm nói lên điểu gì thưa ông?

TNS Ngô Thanh Hải: Đó là dự luật để tưởng nhớ tới hơn hai triệu người Việt Nam bỏ nước ra đi với tư cách là tị nạn, là thuyền nhân. Thứ hai là để tưởng nhớ 250 ngàn người Việt Nam đã bỏ mình trên biển cả hoặc là bị cướp, bị bão hay điều gì đó. Thứ ba nữa dự luật này nhằm cám ơn chính phủ Canada đã nhận một trăm hai chục ngàn người Việt Nam tỵ nạn vào cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 rồi sau này lên tới 300 ngàn người. Đồng thời cũng là cám ơn chính phủ Canada đã mở rộng vòng tay để đón nhận thuyền nhân tỵ nạn của chúng ta tại đây. Thứ tư nữa là cám ơn chính phủ, nhân dân Canada đã sponsor từ cá nhân, nhà thờ đến các cơ quan thiện nguyện đã bảo trợ giúp đỡ cho chúng ta. Thứ năm là Canada là một quốc gia mà trong thập niên đó, cuối 70 đầu 80 thì Canada là quốc gia đầu tiên trên thế giới đã nhận người tỵ nạn do đó mà Cao Ủy Tỵ Nạn (UNHCR) Canada đã trao giải Nansen cho Canada. Đạo luật này dựa trên 5 điều đó thôi.

Mặc Lâm: Thưa, ông là một dân cử gốc Việt tại Canada với chức vụ Thượng Nghị Sĩ liên bang, đời sống của người Việt nam hôm nay vừa đúng 40 năm kỷ niệm ngày ra đi của họ thì ông thấy có sự thành tựu nào đáng kể nơi xứ tạm dung mà bây giờ đã trở thành quê hương thứ hai của họ hay không?

TNS Ngô Thanh Hải: Thưa bây giờ thì mình thấy rằng cộng đồngViệt Nam mình tại Canada sau 40 năm thì phát triển rất mạnh. Tôi thấy Việt Nam mình đóng góp

” … tại Montreal thì đa số người Việt mình là bác sĩ, dược sĩ ở Montreal. Tại vùng Ontario thì bác sĩ, kỹ sư đủ hết mọi ngành chuyên môn, luật sư bây giờ cũng đông lắm. Vùng Calgary thì kỹ sư rất nhiều vì tỉnh bang đó có rất nhiều dầu mỏ thành ra Việt Nam mình ở trên xứ Cadana này thành công rất nhiều. Không những như thế…

TNS Ngô Thanh Hải”

cho xứ sở, xã hội Canada rất nhiều, chính phủ Canada cũng đã công nhận sự đóng góp của người Việt tại đây và họ đã để ý rất nhiều chẳng hạn như cách đây ba năm chính phủ Canada của Đảng Bảo thủ đã nhận hết những người tỵ nạn tại Phi Luật Tân còn lại, khoảng hai trăm mấy chục người đã nhận rồi và đồng thời mới đây cũng hai năm rồi chính phủ đã chính thức chấp nhận tất cả người Việt tỵ nạn còn lại tại Thái Lan và Cao Miên (Campuchia). Trong tháng vừa rối bốn mươi mấy gần năm chục người tỵ nạn tại Thái đã qua tới Canada. Hy vọng cuối năm nay hết một trăm mấy chục người đó sẽ đến Canada để chấm dứt giai đoạn chót của người tỵ nạn chúng ta đã ra đi hơn mấy chục năm nay.

Mặc Lâm: Thưa ông nhìn chung vấn đề người Việt tỵ nạn khắp nơi được chính phủ Canada mở rộng vòng tay để đón họ và ông là người đại diện cho người Việt ở đó ông có cảm thấy sự thành tựu của họ trên lĩnh vực kinh tế, kiến thức hay khoa học thì lĩnh vực nào thành công nhất thưa ông?

TNS Ngô Thanh Hải: Cộng đồng của mình thì anh thấy chẳng hạn như tại Montreal thì đa số người Việt mình là bác sĩ, dược sĩ ở Montreal. Tại vùng Ontario thì bác sĩ, kỹ sư đủ hết mọi ngành chuyên môn, luật sư bây giờ cũng đông lắm. Vùng Calgary thì kỹ sư rất nhiều vì tỉnh bang đó có rất nhiều dầu mỏ thành ra Việt Nam mình ở trên xứ Cadana này thành công rất nhiều. Không những như thế mà cộng đồng người Việt mình cũng đã đứng ra để nhận lãnh nếu kể ra thì hai trăm mười mấy người bên Phi Luật Tân và một trăm mấy chục người bên Thái và Cao Miên. Chính cộng đồng bỏ tiền ra đóng góp mua vé máy bay, bảo hiểm sức khỏe cho khoảng 400 người tỵ nạn cuối cùng của cái lớp đã bỏ đi từ 75 tới giờ.

Không những như thế mà cộng đồng còn đứng ra bảo lãnh những người đó qua để mà tiếp tay với chính phủ đã từng làm cho chúng ta nên bây giờ phải đáp lại bằng cách yễm trợ và bảo trợ người Việt Nam tỵ nạn còn lại của chúng ta. Đa số những người này bị kẹt từ hai tới ba mươi năm ở Phi và Thái Lan.

Mặc Lâm: Vâng, thưa ông bên cạnh những thành tựu nhất định đó thì chắc chắn bất cứ một cộng đồng nào cũng đều có những trở ngại khó khăn. Ông có thể cho biết cộng đồng Việt Nam tại Canada thì những trở ngại khó khăn ấy cụ thể là gì?

TNS Ngô Thanh Hải: Tôi thấy thì những trở ngại của cộng đồng không có gì lắm bởi vì đa số thế hệ thứ nhất cũng đã thành công rồi còn thế hệ thứ hai, thứ ba thế hệ con cháu chúng ta đã hội nhập vào xã hội Canada từ nhỏ cho tới lớn. Thành ra theo tôi nghĩ, tôi không biết chỗ nào khác nhưng riêng Canada này thì những trở ngại của cộng đồng nếu mà có thì cũng nho nhỏ thôi, chẳng hạn như con cái của chúng ta lớn lên thì vấn đề tiếng Việt của mình nó hơi khó khăn. Trường học dù có mở lớp tiếng Việt dạy cho con em của chúng ta nhưng chắc con em mình nó đã thấm nhuần xã hội Canada nói tiếng Anh nhiều hơn tiếng Việt thành ra đó là cái mà tôi lo ngại nhất. Tôi hy vọng văn hóa Việt Nam mình sẽ tồn tại tới thế hệ thứ ba, thứ tư và ngay cả về sau này nữa. Đó là điểu mà tôi lo ngại thôi chứ ngoài ra thì tôi thấy cộng đồng người Việt riêng tại Canada thành công rất nhiều. Trở ngại thì văn hóa và tiếng mẹ đẻ của con em chúng ta lớn lên ở đây thì nó hơi khó khăn trong vấn để đó

Mặc Lâm: Xin cám ơn TNS Ngô Thanh Hải.