50 Năm Tìm Bạn – Đỗ Duy Ngọc

Kimtrong Lam

Đỗ Duy Ngọc

Ba giờ sáng, không ngủ được, ngồi dậy mở máy vào messenger mục tin nhắn đang chờ xoá bớt tin nhắn, thấy một tin của một người lạ: “Bảo đây. Tìm mày gần 50 năm. Hello Ngọc Nhà Đèn…Tao biết mày không thích cái tên này nhưng vẫn gọi vì tao chỉ nhớ đến cái tính ngông của mày.” Ngọc Nhà Đèn, cái nick name này ở đâu ra ta? Tôi nghĩ hoài không ra. Bảo nào? Tôi có nhiều người bạn tên Bảo. Vào Facebook của người này. Nhìn hình lạ hoắc, không gợi khuôn mặt thân quen nào, bèn trả lời:”Xin lỗi bạn, chắc bạn nhầm tôi với ai rồi.” Bên kia nhắn lại ngay:”Tôi có người bạn cùng tên, trước học ở ĐHVH phân khoa GD….tất cả giống bạn? Xin lỗi nếu đã nhầm. Cảm ơn bạn đã trả lời.” Lại suy nghĩ, nếu học Giáo Dục Vạn Hạnh thì chắc là người có thể không quen nhưng phải biết. Nên viết nhắn lại:” Bạn học Vạn Hạnh khoá nào và phân khoa gì? Tôi cũng có bạn tên Bảo học khoa Sử Địa người Nha Trang”. Nhắn thế thôi chứ tôi chưa nghĩ đến người bạn cũ tên Bảo, lâu nay tôi vẫn cố tìm. Trả lời:”Thêm vài chi tiết nữa, may ra bạn nhớ? Cái bức tranh vẽ vội đã nuôi bạn lúc đói mèm vào thời điểm đó. Đúng rồi, tôi đấy. Người đã cùng trọ với Vinh, người DN.” Trong lòng tôi vỡ oà niềm vui, đúng là người bạn cũ đây rồi. Tôi nhanh chóng nhắn tiếp:” Trời ơi sao bây giờ khác thế. Bảo người gốc Quảng Bình và nhà ở Nha Trang”. Nhắn lại:”Hình như có lần bạn ghé NT ,tụi mình ra biển ngắm sao đêm? Nhớ quá ngày ấy…bác Trần Đới, Bùi Giáng…”. Thế rồi hai thằng nối điện thoại nói chuyện với nhau hơn tiếng đồng hồ đến khi trời ửng sáng, nhắc đủ thứ chuyện của hơn 50 năm trước.

Hơn năm mươi năm trước, tôi là thằng sinh viên nghèo từ Đà Nẵng vào Sài Gòn đi học. Vì nhiều lý do khó kể ra, tôi vào Sài Gòn mà không có ai trợ cấp, sống như đứa con hoang. Rất nhiều hôm đói, rất nhiều ngày đói. Lâu lâu có bài đăng báo có được chút tiền còm. Rồi vẽ biểu ngữ, bán tranh, viết thông báo cho trường, thiết kế sân khấu cho Đoàn Văn nghệ Sinh viên Vạn Hạnh do anh Phạm Thế Mỹ làm trưởng đoàn. Thu nhập rất bấp bênh. Túi thường rỗng và bụng rất nhiều lần đói. Không nhớ sao lại có tiền thuê nhà ở hẻm 108 Trần Quang Diệu, căn nhà trống trải chẳng bàn ghế, không giường chiếu có một căn gác lửng bằng gỗ và ngoài sân có cây mận đầy sâu. Từ đường vào nhiều con hẻm ngoằn ngoèo mới đến nhà nằm gần con kinh nước đen. Tôi ở chung với hắn, Trần Ngọc Bảo và mấy người bạn nữa. Hắn cũng vốn gốc Quảng Bình và cũng dân di cư như tôi. Gia đình hắn ở Nha Trang, bố là Trung tá quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Hắn được gia đình tiếp tế hàng tháng, dù không nhiều vì sĩ quan hồi đấy sống nhờ lương lại đông con. Tuy vậy hắn còn khá hơn tôi vì đầu tháng có tiền để ăn học. Hắn thuộc tuýp người hiền lành, không đua đòi ăn chơi nên hợp với tôi, một thằng nghèo rớt mồng tơi ăn còn kiếm không ra lấy gì mà chơi. Hắn để tóc kiểu Beatles, mốt thịnh hành của thanh niên thời ấy, hai mắt to, tròn lúc nào cũng ngơ ngác và khuôn mặt dài. Hắn học cùng phân khoa Giáo Dục, Đại học Vạn Hạnh với tôi nhưng ban Sử Địa còn tôi ban Việt Hán. Hai thằng thường đi học chung với nhau. Đi bộ qua những con hẻm hẹp loanh quanh ra đến đường Trương Minh Giảng. Những lần tôi không có tiền ăn cơm, tôi ăn ké khay cơm của hắn. Hồi đó trường Đại học có câu lạc bộ sinh viên, bán phiếu cơm với giá rẻ cho sinh viên. Mỗi phần ăn gồm một khay có mấy ngăn, ngăn cơm, ngăn canh và ngăn món mặn thường là đậu hủ với vài miếng thịt bạc nhạc hay nửa khúc cá kho. Đồ ăn theo tiêu chuẩn nhưng cơm thì không hạn chế. Hắn mua phiếu, ngồi ăn hết cơm và thức ăn, thay vì mang khay vào trả thì hắn sẽ đứng lên và tôi thay vào chỗ hắn, mang khay vào lấy thêm cơm ra ăn với trái chuối hay chút nước mắm. Nhờ chiêu đó, tôi qua được những cơn đói ngặt nghèo.

Ở chung còn có lão thi sĩ Trần Đới, người có khuôn mặt và hàm râu giống nhà văn Nga nổi tiếng Mikhaylovich Dostoyevsky. Lão cũng là kẻ lang thang, suốt ngày làm thơ và ôm cái đàn mandolin gảy những hợp âm lộn xộn.

Lâu lâu cũng có nhóm bạn âm hồn của tôi ghé vào, toàn là dân biệt kích, không quân lái máy bay chiến đấu đi bỏ bom về và cũng không thiếu vài tay du đãng. Mỗi lần đám đó tụ hội là râm ran, bày đủ trò phá phách nhưng tôi và hắn không bao giờ tham gia. Có một lần tay bạn du đãng của tôi lúc ấy đang dính với một em me Mỹ. Thằng chồng Mỹ của ả đi hành quân, ả và tay giang hồ bạn tôi dọn sạch sành sanh đồ đạc trong nhà mang qua gởi nơi tụi tôi ở trọ. Tôi sợ quá năn nỉ chúng dọn đi gấp. Lần đó MP của Mỹ tìm vào xóm, may mà không phát hiện được gì vì đã chuyển đi trước đó. Hú hồn!

Ở chung cũng có người hoạt động Việt Cộng. Tụi tôi biết nhưng việc ai nấy làm, đời ai nấy sống, hồn ai nấy giữ nên cũng chẳng quan tâm. Sau 75 người này làm việc bên Sở Văn Hoá Thành phố.

Ở chung với nhau một thời gian thì tan hàng, mỗi đứa một phương. Trải qua bao nhiêu biến cố và đổi thay của thời cuộc cùng đời sống của mỗi người nên chẳng liên lạc gì với nhau. Nhất là sau 75, tan hàng, rã đám tôi và hắn bặt tin nhau. Tôi đôi khi cũng hỏi thăm về hắn nhưng chẳng ai biết. Tôi nghĩ chắc hắn di tản hay vượt biên rồi vì gia đình hắn ở Nha Trang sát biển và bố hắn lại là sĩ quan cao cấp VNCH. Giờ gặp lại hắn cho biết là trong những ngày cuối của cuộc chiến, hắn được lùa đi với đám lính Đại Hàn nên rời Việt Nam rất sớm. Bố hắn kẹt lại đi cải tạo mấy năm.

Giờ hắn định cư ở Úc, đã có chắt rồi và hắn bảo hắn tìm tôi hơn 50 năm nay giờ mới gặp qua Facebook. Cũng cảm ơn Facebook, nhờ nó mà chúng tôi lại tìm được nhau sau bao thăng trầm, biến đổi. Thằng nào cũng đã quá tuổi bảy mươi, nằm nhắc lại những kỷ niệm, ký ức lại tràn về. Nhìn lại những năm tháng của một thời, khó khăn nhưng vui, rất vui và nhiều khát vọng ở tương lai. Bây giờ chân đã run, sức đã yếu, sự nghiệp cũng chẳng có gì, những ký ức của ngày tháng cũ tràn về, vẫn nhớ như in những bước chân trong những con hẻm nhỏ, ngôi nhà trống trải, những bữa cơm ở câu lạc bộ sinh viên. Thời gian đi mau quá, chớp mắt đã hơn nửa thế kỷ rồi. Chúc bạn ta và cũng tự chúc mình có sức khỏe và niềm vui với tuổi già. Hy vọng có ngày gặp lại nhau.

6.2.2024

DODUYNGOC

 


 

TÔI CHỌN LẦM BẠN GÁI – Trần Linh

Trần Linh

Tôi sinh ra trong gia đình nghèo có mẹ đơn thân. Mẹ tôi luôn cố gắng chăm chỉ đi làm đủ mọi nghề để có thể nuôi tôi ăn học, lớn khôn. Sau khi tôi tốt nghiệp cấp 3, mẹ động viên tôi không cần lo lắng, cứ lên thành phố học hành rồi lập nghiệp để có tương lai rộng mở. Mặc dù rất thương và nhớ mẹ, tôi vẫn lên đường theo lời khuyên của mẹ. Tôi biết để tôi có thể học đại học trên thành phố, mẹ đã phải làm nhiều việc hơn. Tôi luôn tự nhủ với lòng cần phấn đấu hết sức, kiếm được dâu hiền vợ thảo để báo đáp công ơn của mẹ.

Sau 10 năm học ngày học đêm, nỗ lực hết mình trong công việc, cuối cùng tôi cũng trở thành giám đốc một công ty, có thu nhập cao. Giờ đây, dù không giàu có, cuộc sống của tôi khá ổn, có thể mua nhà chung cư tại thành phố. Tôi mong muốn đón mẹ lên ở cùng nhưng mẹ không chịu. Mẹ bảo, mẹ ở quê quen rồi, không muốn đi đâu hết.

Khi sự nghiệp của tôi khá rộng mở, ở tuổi 33, tôi mới dám nghĩ đến chuyện yêu đương, kết hôn.

May mắn không mất quá nhiều thời gian, tôi đã quen một cô gái xinh xắn, hoạt bát. Em không ở đâu xa lạ, chính là cấp dưới của tôi. Em là người chủ động “tấn công” tôi. Em tiết lộ đã “thầm thương trộm nhớ” tôi từ lâu nhưng mãi đến giờ mới có cơ hội. Hẹn hò được gần một năm, tôi đã đến tuổi muốn cưới vợ, còn em cũng rất sẵn sàng cho chuyện hôn nhân. Chính vì vậy, tôi đưa em về quê ra mắt mẹ rồi sau đó sẽ đến xin phép gia đình em. Trước khi về quê, tôi nhiều lần muốn nói chi tiết cho em biết về hoàn cảnh gia đình tôi. Nhiều người thấy tôi hiện giữ vị trí giám đốc, cứ đồn bố mẹ tôi là ông này, bà kia, tôi sợ em hiểu lầm. Tuy nhiên, cứ mỗi lần tôi định kể sâu, em lại gạt đi nói: “Em hiểu mà anh, anh không cần nói quá nhiều đâu”.

Nghe em bảo vậy, tôi cũng yên tâm phần nào, vui vẻ đưa em về gặp mẹ. Vừa nhìn thấy ngôi nhà nhỏ, cũ kỹ ở quê của tôi, sắc mặt của em có chút thay đổi. Đang hào hứng xách túi quà, em bỗng dưng đứng khựng lại, còn hỏi đi hỏi lại đây có thực sự là nhà tôi không, tôi có nói đùa không…

Tôi chưa kịp trả lời, mẹ đã vui mừng chạy ra đón con dâu tương lai. Mẹ vừa hỏi han, quan tâm, vừa chạm tay vào người em thì em bỗng lùi lại. Nhìn qua tôi nhíu mày khó hiểu, em lại nở nụ cười chào hỏi mẹ.

Từ giây phút đấy đến sau bữa cơm trưa, tôi không thấy em cười nữa. Tưởng em ốm mệt, tôi hỏi thăm thì em nói không phải. Em cứ đi lòng vòng trong nhà tôi xong ra đến vườn ngó nghiêng như thể muốn tìm kiếm thứ gì đó.

– Em hỏi tôi: “Ở quê, anh còn ngôi nhà, mảnh đất nào nữa không?”.

– “Không em ạ, nhà anh chỉ có thế này thôi. Anh xuất thân nghèo khó, anh tưởng em biết rồi mà, anh lập gia đình sẽ đưa mẹ theo…”, tôi đáp.

– Bạn gái cứ ngớ người ra rồi xin phép đi vào nhà vệ sinh. Thấy em lâu quá chưa quay lại, tôi đi tìm thì thấy em ở sau vườn gọi điện cho ai đó. Đang định gọi em, tôi tình cờ nghe được đoạn hội thoại giữa em và mẹ em.

– “Ôi công ty đồn vớ vẩn rồi mẹ ơi, nhà anh ấy nghèo lắm, trong nhà còn chẳng có nổi thứ gì giá trị. Đã thế, mẹ anh còn là mẹ đơn thân, không hiểu hồi xưa ăn chơi hay làm sao mà không có chồng…”

–  Lời em nói khiến tôi như chết lặng…

Lấy lý do có công việc gấp, tôi nhanh chóng xin phép mẹ đưa bạn gái lên thành phố ngay. Suốt cả đường đi, tôi không nói lời nào, trong đầu bủa vây hàng đống suy nghĩ. Đưa em về đến cửa nhà, tôi chỉ nói ngắn gọn:

“Bọn mình chia tay đi, không ai có quyền xúc phạm mẹ anh, kể cả em”.

Một tuần nay, tôi xin nghỉ phép, không đến cơ quan. Bạn gái liên tục tìm đến nhà, khóc lóc trước cửa. Cô ấy gọi điện, nhắn tin cho tôi không ngừng nói xin lỗi rồi lại bảo chắc tôi đã hiểu lầm chuyện gì đó.

Nhưng tôi đã quyết tâm hủy hôn, không có ý định thay đổi. Đối với tôi, sau những gì mẹ đã hy sinh cho tôi, mẹ luôn là nhất, không ai có quyền có thái độ không đúng với mẹ tôi. Tôi có thể không có chút kinh nghiệm nào trong chuyện yêu đương nhưng tôi tin lần này, tôi làm đúng.

Càng suy nghĩ về những chuyện từ trước đến nay, nhất là hôm về quê, tôi càng thấy rằng, bạn gái là người ham vật chất, coi thường người nghèo. Thậm chí, cô ấy còn tỏ ý chê mẹ tôi quê mùa, chê tay mẹ tôi không sạch. Tự dưng tôi chảy nước mắt vì thương mẹ, tôi đã quá có lỗi với mẹ khi không tìm hiểu kỹ, đưa về ra mắt người con dâu không xứng đáng. Tôi đang tìm mua nhà đưa mẹ lên thành phố ở với tôi, nhà cũ của mẹ tôi sẽ sửa sang thật ấm cúng để ngày nghỉ tôi đưa mẹ về kỷ niệm của mẹ ..


 

Nhà Sư Và Linh Mục – phan ni tấn 

Nghệ Lâm Hồng

Mời đọc cốt truyện xẩy ra vào cuối đời của Đảng trưởng VNQDĐ: Nguyễn Thái Học.

Nhà Sư Và Linh Mục

phan ni tấn 

Linh mục Nguyên Khải vừa lên tới chân núi Yên Tử thì trời mưa tầm tã. Núi Yên Tử thuộc xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, là một dải núi cao nằm ở phía đông bắc Việt Nam. Mặc dù Cha Khải có mang theo chiếc ô, vừa che mưa che nắng vừa làm gậy phòng thân, nhưng đụng phải cơn mưa giông, sấm sét rền trời buộc ông phải lách mình vô sơn động núp mưa. Vừa bước vào cửa động Cha Khải suýt dẫm phải con rắn hổ mang bành dài khoảng 6m nằm chắn ngang đang nuốt con rắn lục to bằng hai ngón tay. Đúng lúc đó con chim bồ câu trắng sà xuống đậu trên cành muỗm gần chỗ Cha Khải đứng.

Con bồ câu vẫn nhận ra ông. Nó kêu cúc cúc, đưa cặp mắt màu hồng tươi lúc ngúc cái đầu nhìn ông. Như những lần trước, khi Cha Khải vừa tới lưng chừng núi ghé am cổ tự Bảo Sái thăm sư Lâm Mộc là con bồ câu xuất hiện như đại diện nhà sư chào đón khách phương xa. Lần nào cũng thế, Cha Khải nhẹ nhàng vuốt đầu nó, thì thầm với nó đôi câu xong là nó bay đi ngay. Năm ngoái, lúc nghỉ chân nơi am Ngọa Vân, Cha Khải đã kịp thời cứu con bồ câu thoát khỏi móng vuốt chim ưng. Lúc đem nó vô chùa, sư Lâm Mộc thấy đốm lông xám trên đỉnh đầu chim nên sư đặt tên là Lam câu và nuôi dưỡng nó đến nay.

Chùa Bảo Sái, xưa kia là một cái am thô sơ được Thiền sư Bảo Sái, đệ tử của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, dựng nên. Vì am cổ tự nằm cheo leo bên vách núi Yên Tử nhiều lần bị sụt lở vì mưa bão, về sau trải qua những biến đổi thăng trầm dần hồi am được trùng tu thành chùa mang tên của Thiền sư Bảo Sái.

Theo dòng thời gian mãi đến cuối thập niên 1930, một hôm chùa Bảo Sái tiếp nhận một đạo sư lang thang lạ mặt. Trang phục của sư thật giản dị, nhiều phần chắp vá và rách rưới. Ông mang đôi giầy vải, cổ đeo tràng hạt lớn, trên vai quàng một tấm vải nâu, râu ria lờm xờm. Cái thân hình hộ pháp trông dữ tợn nhưng ánh mắt thật hiền từ, nồng ấm. Điểm nổi bật ở ông là uyên thâm đạo pháp.

Đó là nhà sư Lâm Mộc, đến rồi đi, như con giao long ẩn hiện rầy đây mai đó. Sư vân du khắp nơi, hoằng pháp khắp xứ Bắc kỳ, mùa mưa mới âm thầm trở về chùa. 

Sư Lâm Mộc là một cao tăng không chủ trương ở chùa. Ngay từ thuở thiếu thời, chịu ảnh hưởng cuộc sống cách mạng chống thực dân Pháp của bố mẹ nên sau một thời gian dài ẩn tu thành tựu tì kheo sư Lâm Mộc đã vân du hoằng pháp đó đây, coi trời đất là nhà, trần gian là chỗ tạm dung. Hằng năm vào mùa mưa, sư Lâm Mộc mới trở về chùa Bảo Sái náu mình trong kho củi ở khu vườn đá phía sau chùa. Thỉnh thoảng vào trung tuần tháng Sáu, linh mục Nguyên Khải từ giáo phận Vinh lặn lội đường xa vượt núi, đội mưa ghé thăm sư Lâm Mộc vấn an sức khoẻ, thăm hỏi sự tình.   

Sư Lâm Mộc và linh mục Nguyên Khải có cùng một huyết thống. Hai ông là con sinh đôi của nhà cách mạng Nguyễn Khúc Thụ, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, mẹ là bà Đỗ Thị Nâu thuộc đội hậu cần của Đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Năm 1930, ông Nguyễn Khúc Thụ hy sinh tại Yên Bái trong cuộc Tổng Khởi Nghĩa rạng mồng 10 tháng 2 năm 1930, chiều cùng ngày bà Nâu bị mật thám Pháp treo cổ trong nhà bếp của Cô Giang, người bạn đời chung thủy của Đảng trưởng Nguyễn Thái Học.

Cuôc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng thất bại, Nguyễn Thái Học cùng 12 nghĩa sĩ bị đưa lên đoạn đầu đài ở Yên Bái. Hai hôm sau, Cô Giang, tức nữ chí sĩ cách mạng Nguyễn Thị Giang, đã âm thầm trở về làng Thổ Tang tự sát bằng khẩu súng lục của Nguyễn Thái Học đã tặng cô ở đền Hùng ngày nào. Riêng Cô Bắc, em ruột của Cô Giang, cùng các nghĩa sĩ bị bắt đi tù 5 năm cấm cố. Nguyễn Thị Bắc qua đời năm 1943, khi mới 35 tuổi.

Lúc 13 anh hùng Việt Nam Quốc Dân Đảng bị xử chém thì một số đồng đảng thân cận của Nguyễn Thái Học may mắn chạy thoát khỏi sự săn đuổi của mật thám Pháp. Trong cuộc săn đuổi đó có hai người thanh niên tuổi vừa 20, cũng là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, hoạt động tích cực cho mục đích đấu tranh giành độc lập dân tộc, tức nhà sư Lâm Mộc và linh mục Nguyên Khải sau này.

Để tránh bị sát hại, hai ông đã phải thay tên đổi họ, chia tay nhau được các nghĩa sĩ bí mật gởi vào nương náu nơi cửa Phật ở Sầm Sơn và nhà thờ Chúa ở Ninh Bình.

Dòng đời cứ thế trôi mau. Thỉnh thoảng các nghĩa sĩ sống sót âm thầm trở về chốn thanh tu vấn an hai vị tu sĩ, nhưng dần hồi không còn thấy họ trở lại nữa. Dù vậy, cả nhà sư và linh mục đều nương vào đấng tối cao để sống còn. Họ không để oán thù dầy xé hoặc đau buồn quật ngã, vẫn hành trì đạo pháp.

Mười năm sau, lúc sư Lâm Mộc đi hóa duyên ngang qua nhà thờ đá Phát Diệm tình cờ gặp Cha Nguyên Khải vừa từ giáo phận Vinh trở về nhà Chúa. Sư và Cha vừa giáp mặt nhau trước cửa Chính Tòa, cả hai đều sửng sốt trố mắt nhìn nhau như thể hai ông đang nhìn vào chính bản thể mình. Là anh em sinh đôi nên họ giống như hai giọt nước, ngay cả các giáo dân của Cha Khải cũng ồ lên kinh ngạc. Từ khi trở thành tu sĩ, hai ông đều đi khắp nơi vừa truyền bá đạo pháp vừa âm thầm dò la tung tích người thân, kết cục cả Cha và Sư không thể ngờ lại có ngày tri ngộ ở Giáo xứ này.

Thoáng nhìn qua, sư Lâm Mộc biết ngay đây là sư đệ thất lạc của mình lúc chạy loạn, nhưng sư rất trầm tĩnh, âm thầm niệm hồng danh đức Phật thế tôn. Còn linh mục Nguyên Khải, qua những hoạt động mục vụ của nhà thờ, bản tánh thoáng hoạt hơn, Cha buột miệng nói rất khẽ: “Lạy Chúa tôi! Sư huynh…”.

Từ đó, khi có dịp thỉnh thoảng Sư xuống núi hoặc Cha lên núi vấn an nhau. Là bậc tu hành của đấng đại trí đã giác ngộ, Cha Nguyên Khải và Sư Lam Mộc lấy đức báo oán, lấy bác ái của trí nhân làm hướng đi và lấy máu mủ tình thâm mà thăm hỏi sự tình.

Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Đông Dương do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo chống thực dân Pháp tạo nên cảnh loạn lạc, đói kém, bệnh tật và chết chóc khiến sự đi lại của công chúng bị trở ngại và hạn chế rất nhiều.

Năm 1954, sau khi quân Pháp thất thủ tại Điện Biên Phủ, Hiệp Định Genève được ký kết chấm dứt chiến tranh Đông dương, chia đất nước ra làm hai tại vỹ tuyến 17, đưa đến cuộc di cư vĩ đại vào miền Nam Việt Nam từ tháng 8-1954 đến tháng 5-1955. 

Trong những cộng đồng Thiên chúa giáo miền Bắc dưới thời Pháp thuộc, các linh mục giữ vai trò lãnh đạo về dân sự và tinh thần. Nhận thức được viễn cảnh không tươi sáng do Việt Minh lãnh đạo, các Cha đã kêu gọi các tín đồ di cư vào Nam. Cuộc di cư 1954 là một cuộc di cư lịch sử của khoảng một triệu người dân miền Bắc (đa số là người Công giáo) đã ra đi trên những chuyến tàu há mồm do Mỹ và Pháp thực hiện. 

Trong tất cả những chuyến tàu di cư không tiền khoáng hậu đó không có mặt linh mục Nguyên Khải và sư Lâm Mộc.

* * *

Tôi, người được nghe kể câu chuyện này mà tâm không ngớt dao động. Năm ngoái từ Huế, nhóm Phật tử chúng tôi đã làm một cuộc hành hương ra Hà Nội, từ đó đi xe đò ra Ninh Bình dài khoảng 90km ghé thăm nhà thờ chính tòa Phát Diệm (còn gọi là nhà thờ đá), hôm sau vượt núi Yên Tử lên viếng chùa Bảo Sái.

Điểm đặc biệt của nhà thờ đá Phát Diệm được khởi công xây cất từ năm 1875, tuy là nhà thờ Công giáo nhưng lại kiến trúc theo hình thể chùa chiền.

Viếng nhà thờ Phát Diệm, cá nhân tôi chỉ là khách thập phương không có ý dò hỏi, hay mạo muội tìm kiếm dấu vết của linh mục Nguyên Khải. Nhưng chiêm ngưỡng giá trị trăm năm của nhà thờ đá tôi có cảm tưởng như Cha Khải vẫn bàng bạc đâu đó, trong nhà nguyện, trên tường đá hay dưới chân tượng Đức Mẹ Hằng Sống.

Còn chùa Bảo Sái, sau nhiều công trình trùng tu trải dài theo năm tháng, nay đã được mở rộng, gồm chánh điện, nhà Tổ, tượng Phật Bà Quán Thế Âm, tượng Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn, tượng Thiền sư Bảo Sái, tượng hổ, giếng thiêng và vườn đá phía sau chùa.

Khi lần vào vườn đá, tôi đứng lặng trước biến thiên của dòng đời. Nhà củi, nghe nói nơi nhà sư Lâm Mộc từng cư ngụ, không còn nữa. Tuy vậy, cái nền đất hoang phế cỏ mọc vẫn không phủ lấp hết những thanh củi dựng theo chiều đứng của mô đất. Những thanh củi rêu phong, mục nát, có vẻ như cam chịu nhưng vẫn đứng nghiêng mình theo tuế nguyệt dần qua.

Ở đời có nhiều bậc anh hùng vì nước mà hy sinh, trong đó có những người sống âm thầm như chiếc bóng và chết đi trong vô danh. Nhưng cũng có những người vì hoàn cảnh buộc phải rời khỏi vòng gươm giáo, như sư Lâm Mộc và linh mục Nguyên Khải, với tấm lòng nhân ái mang lại lợi ích cho người, tặng cho đời những suy nghĩ tốt lành, những việc làm dễ thương, họ không là Thánh nhân thì cũng thành nhân.


 

BUÔNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải!”.

“Mỗi thế hệ đều có bụt thần riêng của nó. Với Israel, đó là Baal và vàng bạc; với chúng ta, chính là sự mê hoặc của cải, quyền lực và cái tôi. Tất cả đều ngăn cản chúng ta gặp được Thiên Chúa thật!” – Timothy Keller.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến ‘bụt thần riêng’ của Israel và của người thanh niên đến với Chúa Giêsu, Đấng muốn hướng anh tới một điều gì đó cao cả hơn. Nhưng người trẻ ấy đã “buồn rầu bỏ đi”, vì anh ta không ‘buông’ nổi những gì anh có.

“Hồi ấy, con cái Israel đã làm điều dữ trái mắt Đức Chúa”. Chúa sai các thủ lãnh đến với họ, kêu gọi họ hãy ‘buông’ các bụt thần mà trở về với Ngài, “Nhưng rồi các thủ lãnh của họ, họ cũng chẳng nghe mà cứ đàng điếm với các thần ngoại lai và sụp lạy các thần đó”. Vậy là Chúa để họ rơi vào tay quân thù và lâm cảnh khốn cùng – bài đọc một.

Với câu chuyện Tin Mừng, xét về mặt con người, chàng thanh niên khá hoàn hảo; nhưng với Chúa Giêsu, những gì tối thiểu ấy xem ra không đủ – cũng không ổn – cho một người muốn nên trọn lành! Ngài cho biết, anh cần ‘buông’ những gì đang cột chặt anh để bước tiếp trên con đường vốn sẽ đem đến cho anh kho tàng trên trời! “Buông không phải là phủ nhận, nhưng là chấp nhận có một điều gì đó lớn lao hơn đang chờ tôi khi tôi thả ra những gì mình đang níu giữ!” – Richard Rohr.

Có một mối quan hệ giữa nỗi buồn và khả năng ‘buông’. Người thanh niên nắm giữ tài sản, vì ở một mức độ nào đó, anh cảm thấy nó mang lại hạnh phúc và an toàn. Cũng thế, bạn và tôi có thể bám víu vào một người, một hoàn cảnh với niềm tin rằng, hạnh phúc nằm ở đó. Trên thực tế, hạnh phúc, bình an và niềm vui thực sự nằm ở việc ‘buông’ bất cứ điều gì đang ngăn cản chúng ta đáp lại tiếng Chúa. Bi kịch của người thanh niên là anh ta yêu ‘của’ hơn yêu ‘người’; tài sản của anh ‘sở hữu’ anh chứ không ngược lại. “Nỗi buồn của việc buông không là dấu hiệu của yếu đuối, nhưng là ngưỡng cửa: một cửa hẹp mà trái tim phải bước qua để tìm thấy kho tàng vĩnh cửu!” – Fulton Sheen.

Anh Chị em,

“Người thanh niên buồn rầu bỏ đi”. Trong cuộc sống, có lẽ không ít lần bạn và tôi cũng tiu nghỉu bỏ đi. Nhiều người xem ra thường hài lòng với những gì ‘tối thiểu’, đơn giản là ‘ổn’; nhiều người có ý định tốt, nhưng xem ra rất ít người cam kết hoàn toàn với những gì cần thiết để thực sự đạt đến sự trọn lành – nói cách khác – nên thánh! Lời Chúa mời gọi chúng ta dám ‘buông’ để có thể đạt được điều tối thượng. Và mặc dù sẽ luôn thiếu sót, nhưng nhờ ơn Chúa, “Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con!” – Thánh Vịnh đáp ca – chúng ta cố gắng để nên thánh thiện hết mức có thể. “Sự thánh thiện không bao giờ đạt được bởi những ai dừng ở mức tối thiểu; nó dành cho những ai dám đi xa hơn sự dễ chịu để bước vào phó thác!” – Gioan Phaolô II.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con buồn khi ‘buông’ những gì từng tưởng là hạnh phúc, xin biến nỗi buồn ấy thành khởi đầu của một niềm vui vĩnh cửu nơi Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***********************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XX Thường Niên, Năm Lẻ

Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh, anh sẽ được một kho tàng trên trời.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 19,16-22

16 Khi ấy, có một người đến thưa Đức Giê-su rằng : “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời ?” 17 Đức Giê-su đáp : “Sao anh hỏi tôi về điều tốt ? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn.” 18 Người ấy hỏi : “Điều răn nào ?” Đức Giê-su đáp : “Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian. 19 Ngươi phải thờ cha kính mẹ”, và “Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình.” 20 Người thanh niên ấy nói : “Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa không ?” 21 Đức Giê-su đáp : “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ có được một kho tàng trên trời.

Rồi hãy đến theo tôi.” 22 Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.


 

Tiến sĩ toán Lương Minh Thắng giúp Google AI DeepMind đoạt giải huy chương vàng Olympic Toán Học – IMO

 


Tổng hợp báo chí

luong-minh-thang-1.jpg

TS Lương Minh Thắng, chuyên gia cao cấp trong dự án DeepMind của hãng Google.

Tiến sĩ Lương Minh Thắng, 38 tuổi, quê Đồng Nai, hiện là chuyên gia cao cấp tại Google DeepMind, bộ phận nghiên cứu trí tuệ nhân tạo (AI) của Google. Gần 10 năm làm việc ở đây, TS Thắng đã tham gia xây dựng hàng loạt chatbot AI, trong đó có Meena – chatbot được đánh giá tốt nhất thế giới năm 2020, sau này trở thành Bard và hiện là Gemini.

Đội Google DeepMind giành huy chương vàng IMO.

Các thành viên chủ chốt của đội giành huy chương vàng IMO của Google DeepMind, bao gồm tiến sĩ Lương minh Thắng, người đứng thứ hai từ trái sang. Ảnh: Google DeepMind

Là cựu học sinh chuyên Toán của trường Phổ thông Năng khiếu, Đại học Quốc gia TP HCM. Năm 2006, anh Thắng trở thành sinh viên Đại học Quốc gia Singapore (NUS). Tốt nghiệp năm 2010, anh Thắng ở lại Singapore làm nghiên cứu với giáo sư. Chỉ trong một năm, anh công bố 4 bài báo khoa học, là điểm nhấn giúp anh đỗ ngành Khoa học máy tính tại Stanford.

Anh Thắng tại Đại học Stanford. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Anh Thắng và vợ tại Đại học Stanford. Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Ngoài công việc tại Google, anh Thắng duy trì các nghiên cứu độc lập. Năm 2022, anh được Trịnh Hoàng Triều, nghiên cứu sinh tiến sĩ Đại học New York, giới thiệu AlphaGeometry – AI giải Toán hình.

Đầu năm ngoái, tiến sĩ Thắng bổ túc AlphaGeometry, nhờ đó nó giải được 25 trong 30 bài hình học ở các kỳ IMO, ngang thành tích một người đạt huy chương vàng.

AI anh 1

Các thành viên nhóm AlphaGeometry (từ trái sang) bao gồm Yuhuai Wu, Trịnh Hoàng Triều, Lê Viết Quốc và Lương Minh Thắng. Ảnh: Aaron Cohen.

Tiến sĩ Thắng cùng với nhóm nghiên cứu của Google còn xây AlphaProof có thể giải cả đại số và hình học. Với đề thi IMO 2024, AlphaProof giành điểm tuyệt đối 4 bài. Trong đó, bài hình số 4 được giải trong 19 giây.

“Tôi hy vọng năm 2026 sẽ có AI đạt giải Toán học Field như GS Ngô Bảo Châu”, anh Thắng nói. “Xa hơn, nếu AI có thể giải được những bài toán thiên niên kỷ là điều tuyệt vời”.

Thời gian này, TS Thắng đang dẫn dắt một dự án về siêu trí tuệ tại Google, làm sao để AI có tư duy một cách chặt chẽ, liên kết như con người. Với anh, AI phát triển theo cấp số nhân, nên các nhà nghiên cứu luôn phải tìm cách “đi tắt đón đầu”.

Anh Thắng cho rằng AI thông minh hơn con người chỉ là chuyện sớm muộn, nhưng không vì thế mà lo ngại. Nó sẽ như một chiếc máy tính mới, giúp cuộc sống tốt hơn.

“AI là nguồn năng lượng, công cụ mới giúp chúng ta khám phá khoa học, vũ trụ nhanh hơn”, anh nói. “Nếu muốn theo đuổi AI, các bạn cần có sự tò mò nhất định, và không sợ hãi”.


 

Một học sinh trung học vừa đánh bại các mô hình AI thông minh nhất thế giới

Theo báo WSJ và AI Copilot

Google DeepMind và OpenAI đã giành được huy chương vàng tại Olympic Toán học—nhưng những thiếu niên Mỹ vẫn đạt điểm cao hơn. Liệu đây có phải là lần cuối cùng mà con người còn cơ hội qua mặt AI?

Học sinh đang làm bài kiểm tra, đồng hồ chỉ 0:00.

Kỳ thi Olympic Toán học quốc tế năm nay thu hút học sinh trung học từ khắp nơi trên thế giới. Ảnh: Olympic Toán học quốc tế

Hàng năm, hàng trăm học sinh trung học ưu tú từ khắp nơi trên thế giới tụ họp tại Kỳ thi Olympic Toán học Quốc tế. Năm nay, những bộ óc xuất chúng ấy đã cùng tham gia với Google DeepMind và các công ty AI khác trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Tất cả đều đến đây để trải nghiệm một trong những bài kiểm tra khó và mới mẻ về tư duy, suy luận và sáng kiến. 

Kỳ thi IMO nổi tiếng khắc nghiệt này được tổ chức trong hai ngày, mỗi ngày  học sinh phải giải đáp ba bài toán với độ khó ngày càng cao hơn và các em có hơn bốn giờ để giải. Các câu hỏi trải ra từ môn đại số, hình học, lý thuyết số đến tích phân và bạn nên quên đi việc trả lời chúng nếu không phải là một thiên tài toán học. Chỉ cần cố gắng hiểu chúng thôi cũng đủ khiến não bộ của bạn phải vận động. 

Bởi vì những bài toán này vừa phức tạp vừa phi truyền thống, bài kiểm tra toán hàng năm đã trở thành một chuẩn mực hữu ích để đo lường sự tiến bộ của AI từ năm này sang năm khác. Trong thời đại phát triển chóng mặt này, các phòng thí nghiệm nghiên cứu hàng đầu đã mơ về một ngày hệ thống của họ có suy luận toán đủ mạnh để đạt được tiêu chuẩn huy chương vàng IMO.

Điều không tưởng đã xảy ra vào đầu tháng này khi một mô hình AI của Google DeepMind đã giành huy chương vàng tại IMO bằng cách giải đáp hoàn hảo năm trong số sáu bài toán. Một diễn biến đầy kịch tính khác, OpenAI cũng giành huy chương vàng mặc dù không tham gia sự kiện chính thức. Các công ty mô tả chiến công của họ là những bước nhảy vọt hướng tới tương lai, dù vẫn còn đang chạy đua và chưa thực sự đến đích. 

Trên thực tế, điều đáng chú ý nhất của sự kiện đáng nhớ này là 26 học sinh đạt điểm cao hơn hệ thống AI trong kỳ thi IMO. Trong số đó có bốn ngôi sao của đội tuyển Hoa Kỳ, bao gồm Qiao (Tiger) Zhang, vận động viên hai lần đoạt huy chương vàng đến từ California, và Alexander Wang, người đã mang huy chương vàng thứ ba liên tiếp về New Jersey. Điều này khiến anh trở thành một trong những nhà toán học trẻ xuất sắc nhất mọi thời đại—và anh ấy là một học sinh theo lớp cuối trung học, người có thể giành thêm một huy chương vàng nữa tại IMO vào năm tới. 

Đội tuyển Hoa Kỳ đang cầm cờ Hoa Kỳ và trưng bày huy chương của họ.

Đội tuyển Hoa Kỳ tại Kỳ thi Olympic Toán học Quốc tế, bao gồm Alexander Wang, thứ tư từ phải sang, và Tiger Zhang, với chú gấu trúc đỏ nhồi bông trên đầu. Ảnh: Hiệp hội Toán học Hoa Kỳ.

Công ty OpenAI không tham gia thi đấu ở IMO, nhưng OpenAI đã cho mô hình lập luận mới nhất, dù vẫn còn đang ở giai đoạn thực nghiệm của mình giải quyết tất cả sáu bài toán và công ty đã mời các cựu vận động viên đạt huy chương trước đây làm giám khảo chấm điểm các lời giải. Giống như DeepMind, hệ thống của OpenAI đã giải quyết hoàn hảo năm bài toán và đạt 35/42 điểm, đạt tiêu chuẩn của huy chương vàng. 

Tại kỳ thi IMO năm nay, 72 thí sinh đã ra về với tấm huy chương vàng. Sáu thành viên của đội tuyển Hoa Kỳ đã giành được năm huy chương vàng và một huy chương bạc, xếp thứ hai chung cuộc sau Trung Cộng. Vào năm ngoái, Hoa Kỳ đã đánh bại họ để giành vị trí dẫn đầu (dẫu vậy thành viên đoàn Hoa Kỳ chiếm đa số là các em học sinh Mỹ gốc Hoa. 


Góp ý của AI Copilot:

1. AI trở thành “đồng đội” tưởng trong nghiên cứu toán học, Các hệ thống như AlphaTensor, Minerva, hay GPT-4 đã được chứng minh là có khả năng giải bài toán olympic, phát hiện định mới thậm chí cả các chí đề xuất ra cách chứng minh mình chưa từng được con người nghĩ tới.

2. AI có thể tạo ra tư duy và hệ lý luận toán học mới, ngay khi AI bắt đầu phát hiện các mẫu toán mà con người chưa từng tìm thấy, nó có thể sẽ đề xuất cách biểu thị mới, ký hiệu mới hoặc thậm chí một hệ thống lập luận mới. Điều này thể dẫn đến một “cuộc cách mạng Copernicus” trong toán học.

⚖️ Nhưng cũng cần cẩn thận…

  • Tính minh bạch : AI thể giải đúng bài toán, nhưng nó không phải lúc nào cũng giải thích được “tại sao”.
  • Tính sáng tạo con người : Một bài toán đẹp không chỉ lời giải, hành trình khám phá. AI thể rút ngắn tiến trình trả lời, nhưng liệu nó có làm mất vẻ đẹp của hành trình khám phá nơi con người?

GÂY SỐC – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Sự thật không bao giờ mang đến an bình tức thì; nó thường lột khỏi chúng ta những gì chúng ta bám víu, nhưng chính cú sốc đó mới mở ra tự do!” – Václav Havel.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay gồm những tuyên bố ‘gây sốc’ từ miệng Chúa Giêsu: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất!”; “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao?”; “Không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ!”. Chân lý chia rẽ trước dối trá; bác ái trước ích kỷ, công lý trước bất công…

Trong thế gian – và trong chính chúng ta – có sự pha trộn giữa thiện và ác; và chúng ta phải chọn lựa đang khi ý thức rằng, lòng trung thành luôn ‘gây sốc’. Thoả hiệp thì có vẻ dễ dàng hơn, nhưng kém ‘tính Phúc Âm hơn’. “Trung tín với lẽ thật không bao giờ là một lựa chọn thoải mái, nó luôn là một cú sốc cho những ai chỉ muốn yên ổn!” – Thomas Merton.

Chúng ta bị cám dỗ để điều chỉnh một ‘Phúc Âm’ theo ý thích. Vì thế, phải luôn tự thuyết phục mình rằng, đời sống Kitô hữu không thể chỉ là một thói quen, một quá trình ‘vượt qua’, mà không có khát vọng liên tục cải thiện và hoàn thiện. “Khi ta tìm cách điều chỉnh Tin Mừng cho hợp ý mình, ta không còn theo Chúa Kitô nữa, mà chỉ theo một ngẫu tượng do mình tạo ra!” – Søren Kierkegaard.

Mẫu gương tối cao của chúng ta là Chúa Kitô; phải luôn hướng mắt về Ngài, đặc biệt trong khó khăn và bách hại. Ngài đã tự nguyện chấp nhận thập giá để khôi phục tự do và hạnh phúc cho chúng ta. “Đừng bao giờ rời mắt khỏi Chúa Kitô chịu đóng đinh, bởi nơi đó, chúng ta học được sức mạnh của tình yêu!” – Têrêxa Avila. Trong thân xác bị đóng đinh của Ngài, tự do của Thiên Chúa và của con người gặp nhau một cách dứt khoát, có giá trị vĩnh cửu. Vì vậy, nếu luôn nhớ đến Ngài, chúng ta sẽ không nản lòng trước những nghịch cảnh.

Các bài đọc hôm nay cũng thật ‘gây sốc!’. Giêrêmia bị ném xuống giếng bùn; trong tuyệt vọng, tác giả Thánh Vịnh kêu lên, “Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ!”. Vì thế, chúng ta phải “kiên trì chạy trong cuộc đua, mắt hướng về Đức Giêsu” – bài đọc hai. Con đường trung thành không hứa hẹn an toàn, nhưng phải qua gian nan để chạm đến ơn phù trợ của Thiên Chúa. “Cú sốc của đau khổ không phải là dấu chấm hết, mà là cửa mở đến sự sống!” – Paul Claudel.

Anh Chị em,

Đường đi theo Chúa Kitô không hề êm ả, Tin Mừng của Ngài luôn gây khó chịu. Bởi lẽ nó luôn phơi bày sự giả dối và buộc chúng ta chọn lựa. Ngài không hứa hẹn một bình an rẻ tiền, nhưng hứa ban tự do thật nhờ thập giá. Trung tín với lẽ thật có thể đem lại chia rẽ và mất mát, nhưng cũng từ đó, chúng ta mới tìm được sự can đảm để sống đức tin một cách mới mẻ. Nhờ liên lỉ hướng mắt về Chúa Kitô chịu đóng đinh, chúng ta nhận ra rằng, tình yêu cứu độ chỉ đến từ hy sinh – nơi đó – mở ra tự do và hạnh phúc vĩnh cửu. “Tin Mừng gây sốc! Vì nó không ru ngủ, nhưng đánh thức ta khỏi sự giả dối và thoả hiệp!” – Kierkegaard.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con xác tín, Lời Chúa luôn thức tỉnh con, bẻ gãy sợ hãi và trao ban tự do!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

********************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN, NĂM C

Thầy không đến để ban hoà bình, nhưng là đem sự chia rẽ.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.      Lc 12,49-53    

49 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên ! 50 Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !

51 “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao ? Thầy bảo cho anh em biết : không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. 52 Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. 53 Họ sẽ chia rẽ nhau : cha chống lại con trai, con trai chống lại cha ; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng.”


 

LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI : SỰ KHÁC BIỆT-Lm Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

Lm Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

Chủ đề của bài giảng hôm nay là sự khác biệt, sự khác nhau.

Bốn mươi ngày sau khi sống lại, Chúa Giêsu lên trời cả hồn lẫn xác. Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ của Người, đức Maria lên trời cả xác lẫn hồn. Tuy cùng một động tác lên trời cả hồn lẫn xác, nhưng có cái khác rất lớn giữa Mẹ và Con. Khác cái gì? Ta sẽ trả lời.

Rồi khi ta kính một vị thánh, ta hát mừng vị thánh đó về trời, chứ không phải xuống đất. Hôm nay ta mừng thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, về trời. Cùng một động tác về trời, nhưng có cái khác biệt giữa các thánh kia với thánh Maria. Khác thế nào? Ta sẽ giải đáp.

  1. Khác biệt giữa thánh Maria lên trời và các thánh khác lên trời

Khác biệt nằm nơi chữ “xác”. Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác. Các thánh khác chỉ về trời, nói nôm na dễ hiểu, phần “hồn” thôi. Còn xác thịt hư nát này phải chờ đợi đến ngày quang lâm vinh hiển mới được nhập lại với hồn mà cùng hưởng vinh quang Thiên quốc. Cho dẫu xác vị đó là xác của một vị đạithánh nào đi chăng nữa, cho dẫu xác vị thánh đó vẫn còn nguyên vẹn trải qua hơn 750 năm như xác thánh Clara, thì xác đó đều phải chờ. Xác thánh Maria không chờ. Mà lên ngay. Về ngay trên thiên quốc cả xác lẫn hồn.

Niềm tin này đã có từ xa xưa, chứ không cần đợi đến ngày lễ các thánh 1-11-1950, khi ĐGH Piô 12  tuyên bố tín điều ĐM Hồn xác về trời, người ta mới tin. Dân chúng đã tin từ lâu, nên đã dệt nên một giai thoại mà chúng ta chắc đã nghe đến mòn tai. Giai thoại về ông Toma tông đồ cứng tin :

Lúc Đức Mẹ lên 64 tuổi, Đức Mẹ được Chúa cho biết ngày hội ngộ với Con trên Thiên đàng đã gần đến. Giáo dân bao quanh Mẹ vì sợ mất Mẹ, vì sợ giây phút chia ly. Các Tông đồ hay tin đã vội vã trở về, để được chiêm ngắm Mẹ lần cuối cùng.

Nhưng trong các Tông đồ có một vị chuyên môn lỡ hẹn là ông thánh Tôma. Lần này không phải lỗi ông, mà vì ông đi giảng xa quá về không kịp. Nghe nói xa nhất trong các tông đồ, tận miền Ấn Độ xa xôi. Khi về tới Ephêsô, nơi Đức Mẹ ở cùng Gioan trong những năm cuối đời, thì Đức Mẹ đã nằm xuống và được an táng trong một phần mộ khoét trong đá. Toma khóc lóc mong được thấy mặt Mẹ của Thầy mình lần cuối, nên để làm vừa lòng Tôma, các Tông đồ và giáo dân đã đi ra phần mộ. Đến nơi, chỉ ngửi thấy phảng phất mùi hoa huệ thơm tho. Và khi mở hòn đá che huyệt ra thì không thấy xác Đức Mẹ Maria đâu cả.

Giai thoại thì thường không có thật, nhưng nó được xây dựng trên một niềm tin, trên một xác tín nào đó. Như giai thoại Âu Cơ lấy Lạc Long Quân đẻ ra bọc trứng 100 quả, nở thành 100 người con, nói lên niềm tin mọi người là “đồng bào”, ‘cùng một bọc’ mà ra. Trong trường hợp giai thoại Toma này, xác tín đó là thánh Maria đã về trời cả hồn lẫn xác, khác với các vị thánh khác, chỉ mới về trời phần hồn, còn xác vẫn còn lưu lạc dưới đất. Mặc dầu thần học mới bây giờ không xem hồn xác tách biệt hoàn toàn sau khi chết, mà vẫn một cách nào đó liên kết với nhau, thì vẫn khác với xác thánh Maria, kết hợp hoàn toàn trọn vẹn với hồn và đang ở nơi Thiên Quốc. Đó là cái khác thứ nhất: thánh Maria khác với các thánh khác khi về trời. Khác nơi chứ “xác”.

  1. Khác biệt giữa Mẹ về trời cả hồn lẫn xác với Con của Mẹ về trời cả xác lẫn hồn.

Điểm khác biệt ở đây, nằm nơi động tác. Mẹ được đưa về trời. Con của Mẹ tự mình lên trời. Nếu chúng ta gọi đơn giản cho nhanh, lễ Chúa lên trời, lễ Mẹ lên trời, thì ta chưa nói được cái khác. Ngôn ngữ chính thức bằng tiếng La tinh dùng hai chữ khác nhau cho Mẹ và Con. Cho Con, phụng vụ dùng chữ Ascentio, Ascension (Assenseur thang máy). Cho Mẹ, phụng vụ dùng chữ khác hẳn: Assumptio(n) : sự đảm nhận, sự bảo lãnh. Ai bảo lãnh ai. Chúa bảo lãnh Mẹ. Dễ hiểu hơn: Con bảo lãnh Mẹ. Không có người con ở bên Mỹ bảo lãnh, làm sao mẹ qua được nước Hoa Kỳ. Có lẽ từ ngữ xưa, lễ Mông Triệu, nói được ý này hơn. Mẹ được triệu về nơi cao xa. Mông là cao xa: mông lung, mênh mông. Triệu là gọi về, gọi đến. Triệu tập. 

Trong một vài thành phố nhỏ quanh thủ đô Roma, nước Ý, vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, người ta có một tục lệ rất quyến rũ. Tục lệ đó được gọi là Incinata, nghĩa là cuộc rước đón chào. Dân làng kiệu tượng Đức Mẹ theo đường phố chính – Đức Mẹ đang trên đường về trời. Từ hướng đối diện, đoàn rước khác kiệu tượng Chúa Giêsu – Ngài đang tiến gần đến tượng Đức Mẹ. Hai đoàn rước gặp nhau dưới một khung vòm đầy cành phủ lá và hoa rực rỡ. Hai tượng sắp đặt để cúi chào nhau ba lần. Rồi người ta kiệu hai tượng đi song song vào nhà thờ giáo xứ – Chúa chúng ta dẫn Mẹ Ngài lên ngai trên trời.

Nghi thức đơn giản, ngây thơ này là một phương cách gây ấn tượng sâu sắc để diễn tả chân lý cao cả và vinh quang mà chúng ta cử hành hôm nay, tức là sự kiện Đức Maria, sau khi qua đời được bảo lãnh về trời cả hồn lẫn xác.

Lễ Các Thánh ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, tại quảng trường Thánh Phêrô, Rôma, trước 40 Hồng y, 500 Tổng Giám mục và Giám mục, hàng trăm đại diện chính quyền quốc gia, hàng ngàn linh mục tu sĩ nam nữ và hơn 700.000 dân chúng dưới bầu trời tươi sáng, Đức Piô XII sốt sắng cất tiếng trong máy vi âm ngân vang khắp quảng trường Thánh Phêrô, vọng vang vào đền thờ chật ních hơn 80.000 dân chúng, vang xa khắp hoàn cầu, vang lên tới cung trời cao thẳm những lời trịnh trọng tuyên tín: “Do uy quyền của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và với thẩm quyền của Ta, Ta phán quyết, tuyên ngôn, và định tín là tín điều đã được mạc khải rằng: Đức Maria, Mẹ Vô nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau khi hoàn tất cuộc sống trần gian này, đã được bảo lãnh hưởng phúc vinh quang Thiên đàng cả hồn và xác. Nếu ai cả dám tự ý chối bỏ hay nghi ngờ điều Ta đã định tín, thì họ phải biết rằng họ phản bội đức tin Công giáo của Thiên Chúa.”

Chúa Giêsu không muốn Mẹ Ngài chịu một giây phút nào dưới quyền lực satan, nên Ngài đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội, ngay từ phút giây vào đời. Và đến giây phút lìa đời, Người Con này đã không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu mục nát, nên Ngài bảo lãnh cho Mẹ được vào hưởng vinh quang thiên quốc cả xác lẫn hồn.

Chúa Giêsu Kitô cũng sẽ bảo lãnh cho chúng ta, những Kitô hữu đây được vào hưởng vinh quang cả xác lẫn hồn như Mẹ Maria, chỉ khác với Mẹ, một chút thôi, tức là Chúa sẽ nói với ta “xác hãy chờ một chút.” just a moment. Một chút của Chúa có thể là giây lát, có thể là mười năm, mà cũng có thể là thế hệ này đến thế hệ khác. Nhưng khi ta đã lìa đời này rồi, thì ta đã sống ngoài thời gian, nên khái niệm ngày giờ năm tháng không còn nữa, nên ‘một chút so với ‘ngàn năm’ cũng chỉ là một. Chờ một chút. 

Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi lại. Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến, là được bảo lãnh về Trời cả hồn lẫn xác, riêng xác, ‘hãy đợi đấy, chờ một chút’.

 Lm Anphong Nguyễn Công Minh, ofm 

From: Ngoc Bich& KimBang Nguyen

SỐNG VỚI NGƯỜI CỘC CẰN…

Gieo Mầm Ơn Gọi

Có một kiểu mỏi mệt không đến từ việc bị đánh đập, mà đến từ việc mỗi ngày phải đối mặt với một người luôn cau có, cộc cằn, sẵn sàng ném vào không khí cả một rổ nặng lời chỉ vì… họ “đang mệt.”

Bạn biết kiểu người đó chứ?

Nói chuyện lúc nào cũng cụt lủn.

Bạn hỏi một câu, họ đáp bằng một cái cau mày.

Bạn vui vẻ kể chuyện, họ “ừ hử” bằng ánh mắt thiếu kiên nhẫn.

Bạn góp ý nhẹ nhàng, họ quát lên: “Đừng có mà nói nhiều!”

Và rồi lại bảo: “Tính tôi nó vậy…”

Nhưng sống lâu với người “tính vậy đó”, có ngày bạn sẽ héo rũ mà chẳng rõ vì sao.

Bạn không còn dám mở lời.

Không còn dám kể chuyện vụn vặt trong ngày.

Không còn dám nũng nịu. Không còn dám buồn.

Bởi bạn biết ở phía đối diện là một tâm tính lúc nào cũng như chực chờ bùng cháy.

Có người từng nói với tôi:

“Chị ạ, em sống với chồng như đi trên mảnh kính. Nhẹ quá thì bị phớt lờ. Mạnh quá thì vỡ. Lỡ miệng là bầu không khí đóng băng cả ngày.”

Và đáng buồn thay, nhiều người đã quen sống như vậy.

Quen nghĩ rằng cộc cằn là bản tính.

Quen nhủ lòng: “Mình chịu nhịn một chút cũng không sao, miễn là nhà cửa êm ấm.”

Nhưng nhà đâu thể gọi là tổ ấm nếu mỗi ngày mình phải… co lại?

Tôi cần nói luôn, cộc cằn không phải là cá tính.

Nó là sự thiếu kiểm soát cảm xúc. Là kết quả của việc sống mà không học cách điều chỉnh bản thân cho phù hợp với người khác.

Họ có thể không giỏi ngôn từ, nhưng không có nghĩa họ được phép nặng lời.

Họ có thể mệt mỏi, nhưng không có nghĩa họ được quyền đổ hết những mệt nhọc đó lên những người yêu thương mình.

Vậy nếu bạn đang sống với một người cộc cằn thì sao?

Bạn có hai lựa chọn.

Một là chịu đựng, nhưng đừng nhầm đó là yêu thương.

Im lặng quá lâu không khiến họ thay đổi, nó chỉ khiến bạn đánh mất chính mình mà thôi.

Giống như nồi nước sôi bị đè nắp lại, lâu dần nước trong nồi sẽ… cạn sạch.

Hai là giao tiếp, thiết lập ranh giới và lựa chọn lại cách yêu.

Không cần phải hét lên, nhưng cũng không phải nín lặng.

Bạn hãy thử nói ra cảm xúc thật của mình.

Ví dụ:

“Em biết anh không cố ý, chỉ là khi anh gắt gỏng, em thấy mình nhỏ bé, em buồn lắm, em không biết phải nói chuyện với anh thế nào.”

Thay vì cứ lặp đi lặp lại cái vòng luẩn quẩn: một người gắt – một người nín nhịn, hãy thử cùng nhau học cách làm… người tử tế trong chính tổ ấm của mình.

Tử tế, không cần “đúng từng câu từng chữ”.

Chỉ cần:

– Không làm nhau tổn thương.

– Không lấy mệt mỏi để biện minh cho sự vô tâm.

– Không nhầm lẫn “im lặng” là bằng chứng của yêu thương nữa.

Tính cách có thể là bản năng.

Nhưng cách cư xử là lựa chọn.

St


 

NHỤC THÂN BẤT HOẠI TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Thao Teresa

Nhục thân bất hoại là hiện tượng một số vị thánh, sau khi qua đời, thân xác không phân hủy theo quy luật tự nhiên, dù không được ướp hay bảo quản đặc biệt.

Giáo hội nhìn nhận đây là một dấu chỉ ân sủng, minh chứng cho sự thánh thiện và sự hiện diện của Thiên Chúa nơi con người đó.

Không phải tất cả các vị thánh đều có hiện tượng này, và sự bất hoại không phải điều kiện cần để được phong thánh. Nhưng khi xảy ra, đó là một dấu lạ khiến rất nhiều tín hữu thêm lòng tin.

MỘT VÀI TRƯỜNG HỢP ĐIỂN HÌNH

  1. Thánh Bernadette Soubirous (1844–1879) – thị nhân Lộ Đức

Năm 1879, tại tu viện Saint-Gildard, Nevers (Pháp), Bernadette Soubirous — cô gái nghèo từng được Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức — đã âm thầm trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 35. Khi ấy, chị em dòng chỉ thấy một thiếu nữ gầy gò, yếu đuối, cả đời chịu bệnh tật, nhưng lại có đôi mắt chan chứa đức tin. Bernadette không để lại gì ngoài chuỗi Mân Côi cũ mòn và lòng tin tuyệt đối vào Mẹ Maria.

Năm 1909, sau 30 năm chôn cất, Giáo hội cho khai quật mộ để phục vụ tiến trình phong thánh. Khi nắp quan tài mở ra, các nữ tu run rẩy — bởi thi thể Bernadette vẫn nguyên vẹn, mềm mại, không hề có dấu hiệu phân hủy, dù quan tài ẩm ướt, vải liệm đã mục nát. Khuôn mặt ngài như đang ngủ, bình an, đôi bàn tay vẫn cầm chuỗi tràng hạt. Các bác sĩ có mặt lúc ấy đã phải ký xác nhận: “Không thể giải thích hiện tượng này theo tự nhiên.”

Để chắc chắn, Giáo hội còn khai quật hai lần nữa (1919 và 1925). Cả ba lần, thân xác Bernadette đều còn nguyên. Ngày nay, thi thể ngài được đặt trong hòm kính tại tu viện Saint-Gildard, và bao người hành hương đã xúc động khi thấy một thiếu nữ “như đang ngủ”, vẫn tỏa ra sự bình an thánh thiện.

Thi hài bất hoại của Thánh Bernadette như một lời chứng hùng hồn rằng:

Lời Mẹ Maria hứa ở Lộ Đức là thật: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng là đời sau.”

Sự thánh thiện giản dị — dù nghèo khó, đau bệnh, nhưng lòng tin và tình yêu Thiên Chúa đủ để làm thân xác trở thành đền thờ bất hoại.

  1. Thánh Gioan Vianey (1786–1859) – Cha sở xứ Ars

Cha Gioan Maria Vianey (1786–1859) chỉ là một linh mục nghèo, học hành chậm chạp, nhưng lại có một trái tim cháy lửa yêu mến Chúa và các linh hồn. Ngài được bổ nhiệm về xứ Ars, một ngôi làng nhỏ bé, nơi người dân nguội lạnh đức tin.

Ban đầu, giáo dân thờ ơ, nhưng ngài kiên nhẫn cầu nguyện, ăn chay, và nhất là ngồi hàng giờ trong tòa giải tội. Người ta kể có ngày cha nghe xưng tội 16–18 tiếng đồng hồ, đến mức tay tê cứng. Từng lời cha nói chan chứa lòng thương xót, đưa bao linh hồn trở về với Chúa. Dần dần, Ars trở thành nơi hành hương của hàng ngàn người khắp nước Pháp.

Cha Vianey rất khổ sở vì quỷ dữ thường hiện hình quấy phá, lật giường, đập tường, thậm chí đốt chăn của ngài, bởi ma quỷ giận dữ khi thấy bao linh hồn được cứu qua cha. Nhưng cha chỉ mỉm cười:

“Con chó của Chúa (ám chỉ ma quỷ) chỉ gầm gừ quanh, nó không làm hại được con, vì Chúa đang bảo vệ con.”

Năm 1859, sau bao năm hy sinh, cha thanh thản ra đi. Đám tang của ngài thu hút hơn 6.000 người, một con số khổng lồ cho ngôi làng nhỏ bé ấy.

Năm 1904, khi mở mộ cha để phục vụ án phong thánh, các linh mục và bác sĩ đã kinh ngạc: thi hài cha vẫn nguyên vẹn, đôi bàn tay gầy gò, khuôn mặt khắc khổ, tất cả còn y nguyên như lúc cha vừa ngủ một giấc dài.

Ngày nay, thân xác ngài được đặt trong hòm kính tại đền thánh Ars (Pháp). Hàng triệu tín hữu đến chiêm ngắm, nhiều người bật khóc khi thấy thân xác của một vị linh mục nghèo nhưng thánh thiện, như đang hiện diện sống động để cầu bầu cho con cái mình.

Nhục thân bất hoại của ngài là minh chứng cho quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, giữ gìn thân xác vị linh mục nghèo khó như một “bí tích sống” của lòng thương xót.

Nơi Ars, bao người đã hoán cải, bao phép lạ chữa lành đã xảy ra, và đến nay ngài vẫn là vị cha sở của thế giới.

  1. Thánh Catarina thành Siena (1347–1380)

Catarina sinh tại Siena (Ý), là con thứ 23 trong một gia đình đông con. Từ bé, ngài đã có những thị kiến thiêng liêng và kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu. Năm 7 tuổi, Catarina đã khấn giữ trinh khiết và dành trọn đời cho Thiên Chúa.

Ngài trở thành nữ tu dòng Ba Đa Minh, nổi bật với đời sống chiêm niệm và hoạt động: vừa cầu nguyện khổ hạnh, vừa dấn thân hòa giải các gia đình, các thành phố đang chia rẽ, thậm chí can đảm khuyên nhủ cả Giáo hoàng quay trở lại Rôma từ Avignon.

Catarina được Chúa ban nhiều ơn lạ, trong đó có dấu thánh (stigmata) – những vết thương của Chúa Giêsu trên thân thể, nhưng đặc biệt chúng vô hình đối với người khác, chỉ mình Catarina cảm nhận nỗi đau. Ngài khiêm nhường không muốn ai ca ngợi mình.

Thánh Catarina qua đời năm 1380, khi mới 33 tuổi – cùng tuổi với Chúa Giêsu khi chịu nạn. Sau khi an táng tại Rôma, thi hài ngài tỏa hương thơm lạ, và thân xác còn nguyên vẹn rất lâu sau đó.

Vì lòng tôn kính quá lớn, thi thể ngài được chia thánh tích:

Đầu thánh nữ được cung kính đặt tại Vương cung Thánh đường Thánh Đa Minh ở Siena.

Thân thể được giữ tại Vương cung Thánh đường Santa Maria sopra Minerva ở Rôma.

Ngày nay, thánh tích của ngài vẫn được bảo tồn, và nhiều tín hữu đến hành hương cảm nhận sự bình an kỳ diệu.

Dấu thánh và nhục thân bất hoại của ngài là chứng tá rằng: ai sống cho sự thật và tình yêu của Chúa sẽ không bao giờ mất đi.

  1. Thánh Rita thành Cascia (1381–1457)

Rita sinh ra tại Ý trong một gia đình nghèo, từ nhỏ đã khao khát sống đời dâng hiến. Nhưng theo phong tục, cô phải lập gia đình. Hôn nhân của Rita đầy đau khổ: chồng cô nóng nảy, thô bạo, nhiều lần làm cô chịu tổn thương. Thế nhưng Rita kiên nhẫn chịu đựng, âm thầm cầu nguyện và dần dần, trái tim chồng cô được biến đổi. Ông sám hối, trở thành người cha hiền từ hơn.

Sau khi chồng và hai con qua đời, Rita xin gia nhập dòng thánh Augustinô. Nhiều năm chị sống âm thầm, cầu nguyện, và được ơn hiệp thông đặc biệt với Chúa Kitô chịu đóng đinh. Một ngày nọ, trong cơn xuất thần khi ngắm nhìn Thánh Giá, Rita được Chúa ban cho dấu thương tích trên trán – giống như một mảnh gai từ mão gai của Chúa Giêsu. Từ đó, Rita chịu đau đớn suốt 15 năm, nhưng luôn vui tươi, dâng từng nỗi đau để cầu cho các linh hồn.

Khi gần lìa đời, Rita yếu lắm, không thể ăn uống. Một người chị em hỏi ngài có ước muốn gì không. Rita thì thầm:

“Em ước có một bông hồng từ khu vườn nhà mẹ ở Roccaporena.”

Nhưng đó là giữa mùa đông tuyết trắng, không ai nghĩ có hoa nở. Vậy mà khi người nhà tìm đến, họ thấy một bông hồng đỏ thắm nở rực rỡ giữa băng giá. Họ hái mang đến cho Rita. Ngài mỉm cười hạnh phúc, coi đó là dấu chỉ tình yêu Chúa dành cho mình. Sau đó, một phép lạ khác xảy ra: một trái vả ngọt ngào cũng mọc ra trái mùa, được mang về cho ngài ăn.

Đó là lý do đến nay, người ta thường dâng hoa hồng để kính nhớ Thánh Rita.

Rita qua đời năm 1457. Khi chôn cất, một mùi hương lạ tỏa ra từ thi thể. Sau nhiều thế kỷ, khi khai quật, người ta kinh ngạc thấy thi hài Rita còn nguyên vẹn, khuôn mặt vẫn bình an. Nhiều nhân chứng kể rằng từ thi hài ngài thường tỏa hương thơm ngọt ngào, khác thường.

Ngày nay, thân xác bất hoại của Thánh nữ Rita được đặt trong nhà nguyện tại Cascia (Ý), nơi hàng triệu tín hữu đến cầu khẩn. Bao người đã nhận được ơn chữa lành, hòa giải gia đình, và được an ủi trong những hoàn cảnh tưởng chừng tuyệt vọng.

5–Thánh Padre Pio (1887–1968)

Padre Pio, tên thật là Francesco Forgione, sinh tại Ý trong một gia đình nghèo nhưng đạo đức. Từ nhỏ, ngài đã có lòng yêu mến Chúa sâu xa, thường được thị kiến thiên thần và Chúa Giêsu.

Năm 1910, ngài được thụ phong linh mục. Suốt cuộc đời, ngài hầu như chỉ sống ở tu viện nhỏ tại San Giovanni Rotondo, nhưng lại trở thành vị cha giải tội cho hàng triệu người. Người ta từ khắp nơi trên thế giới tìm đến ngài để được ơn hòa giải và chữa lành.

Năm 1918, khi đang cầu nguyện trước Thánh Giá, Padre Pio nhận dấu thánh của Chúa Giêsu nơi tay, chân và cạnh sườn. Các vết thương này rỉ máu suốt 50 năm, nhưng kỳ lạ thay, máu tỏa ra mùi hương thơm ngát.

Nhiều người chứng kiến ngài có những ơn lạ:

Đọc được tâm hồn: ngài biết cả những tội mà hối nhân chưa kịp xưng.

Song trùng hiện diện: có lúc người ta thấy ngài xuất hiện ở hai nơi cùng một lúc để cứu giúp.

Chữa lành bệnh tật: nhiều bệnh nhân nan y được chữa khỏi khi ngài cầu nguyện.

Khi khai quật mộ vào năm 2008, sau 40 năm an táng, người ta kinh ngạc vì thi hài Thánh Padre Pio hầu như còn nguyên vẹn, khuôn mặt an bình như đang ngủ. Thi thể ngài hiện được đặt trong đền thánh San Giovanni Rotondo để tín hữu kính viếng.

6–Thánh Têrêsa Avila (1515–1582)

Têrêsa sinh ra tại Avila (Tây Ban Nha). Từ nhỏ, ngài đã yêu mến Chúa say đắm, từng muốn cùng em trai đi “tử đạo” nơi đất ngoại giáo để được thấy Thiên Đàng sớm hơn. Khi trưởng thành, Têrêsa gia nhập Dòng Kín Cát Minh.

Ban đầu, chị sống đời tu còn lưng chừng, bị bệnh tật hành hạ, nhưng sau một cuộc hoán cải sâu xa, chị bước vào con đường chiêm niệm thánh thiện, được Chúa ban nhiều thị kiến. Chính Têrêsa đã viết ra những tác phẩm thiêng liêng vĩ đại như “Lâu đài nội tâm”, “Đường trọn lành”, hướng dẫn các linh hồn tiến vào sự kết hiệp với Chúa.

Ngài còn là nhà cải cách lớn, sáng lập và canh tân nhiều tu viện, đưa Dòng Cát Minh trở lại đời sống khó nghèo và cầu nguyện đúng tinh thần ban đầu.

Thánh nữ nhiều lần được Chúa Giêsu và các thiên thần hiện ra. Một trong những thị kiến nổi tiếng nhất là “vết thương tình yêu”:

Một thiên thần cầm mũi lao lửa đâm vào trái tim Têrêsa, khiến ngài chìm trong đau đớn nhưng cũng đầy ngọt ngào siêu nhiên.

Từ đó, trái tim thánh nữ luôn rực cháy, khao khát hiến dâng trọn vẹn cho Chúa.

Khi qua đời năm 1582, thi hài Têrêsa được an táng trong tu viện. Nhiều năm sau, khi khai quật, người ta kinh ngạc thấy thân thể ngài còn nguyên vẹn, toả ra hương thơm dễ chịu. Đặc biệt, trái tim của ngài được tìm thấy còn mềm mại và mang dấu vết vết thương lạ kỳ – dấu chỉ của thị kiến “mũi lao lửa” năm xưa.

Đến nay, thánh tích trái tim và một phần thi thể Thánh nữ Têrêsa vẫn được bảo tồn và tôn kính ở nhiều nơi tại Tây Ban Nha, còn phần lớn nhục thân được giữ tại Avila.

Nhục thân bất hoại và trái tim mang dấu thương tích tình yêu của ngài là chứng tá mạnh mẽ rằng: ai để cho Chúa chiếm trọn trái tim, người ấy sẽ được biến đổi mãi mãi.

Nhục thân bất hoại không phải là “phép thuật” hay điều kỳ lạ thuần túy tự nhiên, mà là dấu chỉ lòng thương xót của Thiên Chúa, khẳng định rằng thân xác con người được mời gọi tham dự vào sự sống vĩnh cửu.

Nó cũng nhắc nhở tín hữu về sự phục sinh thân xác trong ngày sau hết.

(MPT tổng hợp)


 

 Huyền Nhiệm Bệnh Tật

Ngài Gọi Con

 Huyền Nhiệm Bệnh Tật

Khi mang trong mình những đau đớn của bệnh tật, nếu nằm trên giường bệnh đủ “Lặng” và đủ “Lắng” thì có thể ta sẽ nhận ra được nhiều điều thú vị. Chẳng hạn như:

Bệnh tật nhắc nhở ta: Thân xác là quà tặng của Thiên Chúa.

Bệnh tật nhắc nhở ta đừng quên mình là thụ tạo mỏng giòn và yếu đuối.

Bệnh tật giúp ta biết mình hơn: thấy được giới hạn của bản thân.

Bệnh tật giúp ta khiêm tốn, hạ mình để cậy nhờ người khác.

Bệnh tật giúp ta thấy tình trạng nội tâm và sức mạnh tinh thần của mình.

Bệnh tật giúp ta biết trân quý thân thể lúc khỏe mạnh, giữ gìn và chăm sóc nó tốt hơn.

Bệnh tật giúp ta biết cảm thông trước nỗi đau thể xác của người khác.

Bệnh tật đập tan mọi tham vọng, tự mãn, kiêu căng và ngạo nghễ nơi mình.

Bệnh tật nhắc nhở ta: công danh, quyền lực, lợi thú, sắc đẹp… cũng chỉ là phù vân và vô thường trước sức phá hủy của thời gian.

Bệnh tật nhắc nhở về sự hữu hạn của cuộc sống nơi trần thế và mời gọi ta suy tư về sự chết cùng ý nghĩa cuộc đời.

Bệnh tật giúp ta sống nhỏ bé, khiêm nhường trước mặt Chúa và tha nhân.

Bệnh tật cũng là cơ hội giúp ta thánh hóa bản thân qua các hy sinh, hãm mình và đền tội.

Bệnh tật giúp ta biết yêu mến và cậy trông vào Thiên Chúa hơn.

Bệnh tật là một ân huệ của Chúa để giúp ta nhận ra nhiều điều.

Tóm lại, với cái nhìn Đức Tin, bệnh tật không hẳn là “mối hoạ” cho bằng “mối phúc” của Chúa. Nhờ bệnh tật, ta biết hiệp thông chính mình vào cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu để mưu ích cho phần rỗi linh hồn chính mình và tha nhân hơn.

Ạ.M.D.G

Minh Đức, SJ

14.8.2025

Lễ thánh Maximiliano Kolbe, Lm. Tử Đạo.

(Thăm bà nội lúc đang đau bệnh)