Thời kỳ Minh Trị Thiên Hoàng và cuộc Minh Trị Duy Tân

Thời kỳ Minh Trị Thiên Hoàng và cuộc Minh Trị Duy Tân

Minh Trị Thiên hoàng

(3 tháng 11 năm 1852 – 30 tháng 7 năm 1912)

Tháng 4 năm 1868, các lãnh tụ samurai trẻ đưa một thanh niên – Minh Trị Thiên Hòang lên ngôi với 5 Lời thề Hiến Chương (Charter Oath) như sau:

Điều 1: Dự trù thiết lập các hội đồng (quốc hội) rộng rãi khắp nơi, để lấy quyết định cho mọi thảo luận công cộng.

Điều 2 : Mọi giai cấp cao hay thấp phải đoàn kết thi hành việc quản trị đất nước

Điều 3: Mọi công dân phải được phép đeo đuổi nguyện vọng để tránh sự bất bình.

Điều 4: Mọi hủ tục trong quá khứ sẽ bị dẹp bỏ và tất cả mọi việc đều chỉ dựa trên các luật của Thiên Nhiên.

Điều 5: Hiểu biết sẽ được tìm kiếm khắp thế giới, để củng cố nền tảng cai trị của hoàng đế.

Có 3 điểm đáng chú ý nhất trong 5 lời thề này:

1/ Chuẩn bị cho một mô hình hiến pháp, chuyển từ một chế độ phong kiến sang một chế độ quốc hội nghị viện, tức là trao quyền lại cho quốc dân

2/ Đoạn tuyệt quyết liệt với một nền văn hóa cũ không còn thích hợp.

3/ Tìm kiếm những kiến thức mới trên khắp thế giới để canh tân đất nước.

Trong suốt thời gian trị nước Nhật từ năm 1968 cho đến 1912 Minh Trị Thiên Hoàng luôn theo đuổi 5 lời thề lúc nhậm chức.

Là một người vốn thông minh và sáng suốt, vua Minh Trị ý thức rõ ràng trách nhiệm của mình đối với tiền nhân và đối với tiền đồ của đất nước, đã dồn mọi tâm quyết vào việc canh tân đất nước để bắt kịp Tây Phương. May mắn cho giới trí thức Nhật là trong thời gian trị vì Minh Trị cũng là cơ hội thuận tiện nhất cho họ thi thố tài năng.

Ngày nay khi nói về vua Minh Trị, điều mà người Nhật biết ơn ông không phải là những đóng góp trong công cuộc canh tân đất nước, mà còn vì ông biết đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi cá nhân. Sau khi nghiên cứu quá trình phát triển của nền văn minh Tây Phương các nhà Tây học của Nhật nhận ra rằng muốn bắt kịp họ không phải chỉ học về kỹ thuật, mà còn phải có một thể chế chính trị do dân và vì dân. Sau 3 năm soạn thảo và bàn luận cuối cùng vào tháng 9 năm 1871 Hội Đồng Quốc Gia ra đời. Đây là bước đầu trước khi áp dụng thể chế Quân Chủ Lập Hiến theo kiểu Anh Quốc. Tháng 12 năm 1885 nước Nhật có Thủ tướng đầu tiên do Nhật Hoàng đề cử và đến đầu năm 1889 bản Hiến pháp đầu tiên ra đời, Nhật Bản chính thức trở thành nước theo thể chế quân chủ lập hiến, gồm Quốc Hội Nghị Viện do dân bầu. Đây là hệ thống chính phủ đại diện cho dân đầu tiên ở Á Châu.

Những năm đầu của Triều Đại Minh Trị là một giai đoạn khó khăn nhất, vấn đề nan giải làm sao để tập trung quyền hành về một mối, có nghĩa là phải dẹp bỏ các lãnh chúa địa phương, mà dưới quyền các lãnh chúa địa phương này là các võ sĩ sumarai. Chính quyền Minh Trị giải quyết bằng cách bồi thường cho các lãnh chúa địa phương và các samurai hoặc tuyển dụng các samurai cũ vào quân đội quốc gia mới thành lập.

Từ năm 1876 trở đi, trên đường phố Nhật Bản không còn thấy cảnh các samurai mặc quần áo võ sĩ, để tóc dài, đeo kiếm bên hông, trước đó là một đặt quyền. Xem như cuộc Cách Mạng Duy Tân đã hoàn tất mà không phải đổ máu giống như cuộc Cách mạnh Pháp năm 1789.

Cuộc cách mạng canh tân bắt đầu ngay sau khi vua Minh Trị lên ngôi, kéo dài 30 năm (1868-1898). Nhờ cuộc cách mạng này mà nước Nhật đã tạo được những thay đổi thần kỳ, là nền móng cơ bản đưa Nhật bản trở thành một trong những cường quốc trên thế giới. Trong đó 10 năm đầu là giai đoạn quan trọng nhất mà người Nhật gọi là “Thời kỳ Văn minh khai hóa”.

Khi nói về cuộc canh tân Minh Trị người ta thường nghĩ đơn giản đó là sự mở cửa để giao thương và học kỹ thuật tân tiến của Tây Phương. Thật sự không phải như vậy. Học hỏi kỹ thuật của Tây Phương chỉ là mặt nổi bên ngoài, thực chất của cuộc Minh Trị Duy Tân là người Nhật muốn học những tinh hoa văn minh của người Tây Phương để tự khai hóa mình và để gìn giữ được nền độc lập quốc gia.

May mắn thay cho nước Nhật, vào thập niên 1860, một nhóm trí thức Nhật Bản vì niềm hãnh diện dân tộc cùng với ý thức trách nhiệm đối với tiền đồ đất nước, quyết định tìm đến các nước Tây Phương để học hỏi. Họ nôn nóng cái gì cũng muốn biết, từ kỹ thuật, quân sự, chế độ chính trị cho đến tư tưởng, phong tục tập quán….

Họ ra đi bằng nhiều cách khác nhau, kẻ đi Âu, người đi Mỹ, kẻ đi chính thức, người trốn xuống các tàu buôn…tìm đến tập nơi, nhìn thấy tận mắt những thành quả của nền văn minh để so sánh với hiện trạng của đất nước mình và tránh vết xe đổ của nhà Thanh.

Sự nghiệp đáng nói của các bậc tiền nhân dân tộc Nhật Bản là không để mất cái đã có trong quá trình tiếp thu cái mới. Dù ngỡ ngàn trước ánh sáng của nền văn minh Tây Phương nhưng người Nhật lúc nào cũng chủ trương phải giữ lại tinh thần của Nhật Bản với niềm tự hào: “Người Âu Châu không dạy cho người Nhật mà chính vì người Nhật tự mình muốn học hỏi các phương pháp tổ chức dân sự và quân sự của phương Tây”.

Riêng đối với chính quyền, muốn đổi mới thì phải có kiến thức về kỹ thuật, kinh tế, chính trị, quan hệ ngoại giao, luật pháp… những ngành này mới lạ và chưa có ai dạy ở Nhật, cho nên chỉ còn cách là phải gởi người ra Tây Phương học hỏi Chính phủ chọn ra các sinh viên ưu tú gởi đi du học, bất kể là nam hay nữ, dựa vào năng khiếu của từng người gởi đến một quốc gia thích hợp nhất. Họ không chọn một quốc gia nào làm kiểu mẫu, mà chọn mô hình tốt nhất ở mỗi lãnh vực. Họ gởi người đến Đức để học về kỹ thuật, quân đội và y khoa, đến Anh học về hải quân-hàng hải, đến Pháp học về luận pháp và tòa án, đến Mỹ học về thương mại và mậu dịch.

Đồng thời một phái đoàn Ngoại giao của chính phủ có tên Iwakura Mission gồm 48 viên chức cao cấp bao gồm những nhân vật lỗi lạc như Itō Hirobumi, Ōkubo Toshimichi, Kido Takayoshi, Mori Arinori, trưởng phái đoàn là Bộ Trưởng Iwakura Tomomi, thực hiện một chuyến công du đến Âu Châu và Mỹ từ tháng 12 năm 1871 cho đến tháng 9 năm 1873 (gần 2 năm). Mục đích của chuyến đi là để đàm phám lại các hiệp ước bất bình đẳng đã ký với các nước Âu Châu và Hoa Kỳ, nhưng chính yếu là để thu thập các thông tin về quân sự, kinh tế, kỹ thuật, xã hội.. tại những nơi mà họ thăm viếng để trở về thực hiện chương hiện đại hóa đất nước.

Chính những thành phần đi du học hay tu nghiệp này, sau khi trở về trở thành lực lượng nồng cốt cho công cuộc canh tân, điển hình như Itō Hirobumi trở thành thủ tướng đầu tiên của Nhật và Mori Arinori trở thành Bộ Trưởng Giáo Dục – được xem là người sáng lập ra hệ thống giáo dục hiện đại của Nhật.

Học hỏi được từ người Mỹ, người Nhật bắt đầu thành lập những hội trí thức để chia sẻ nhau thông tin và phổ biến tư tưởng đến quần chúng. Hội có nhiều ảnh hưởng nhất với xã hội trong giai đoạn này là Hội Trí Thức Meirokusha, do Mori Arinori và Nishimura Shigeki sáng lập năm 1873, quy tụ những nhà khai sáng theo Tây học có tâm quyết như Nishi Amane, Tsuda Mamichi, Nakamura Masanao, Katô Hiroyuki, Mitsukuri Shuuhei, Fukuzawa Yukichi, Sugi Kôji, Mitsukuri Rinshô, Nishimura Shigeki.

Mục đích của hội là giới thiệu văn minh Tây Phương và khuyết khích người Nhật canh tân theo chiều hướng này. Họ lập ra tờ báo Meiroku – tạp chí tư tưởng đầu tiên ở Nhật để thảo luận mọi đề tài liên quan đến đất nước, xã hội, từ vấn đề vợ chồng, cách dạy con, đạo đức nam nữ, vấn đề hôn nhân, cho đến những việc trọng đại hơn như vấn đề giáo dục, tín ngưỡng, các quyền tự do, quyền được bình đẳng, quyền được chọn một quốc hội do dân bầu. Họ cũng bàn về tiền tệ, thuế má, mậu dịch, tài chính v.v..

Đồng thời hội chỉ dẫn cho người dân học cách suy nghĩ và phương pháp tư duy mới để vượt qua lối mòn của nho giáo chỉ lập lại những gì trong sách vỡ và may mắn cho họ là có nhiều người trẻ ở lứa tuổi 40 trong số các thành viên để tiếp nối và phần đông đã tham gia chính quyền để thực hiện hoài bão khai hóa quốc dân.

Các học giả Nhật làm điều này bằng cách dịch sách vở của Tây Phương sang tiếng mẹ đẻ, và áp dụng theo phương châm: “Thầy làm sao trò làm vậy.” Người Đức chế tạo cơ khí ra sao họ cố gắng làm theo như vậy, người Anh đóng tàu và tổ chức hải quân ra sao họ làm giống như vậy, người Pháp tổ chức hệ thống luật pháp ra sao họ cũng bắt chước làm theo như vậy…nhưng 10, 20 năm sau trò có thể qua mặt cả thầy.

Trong thời gian 10 năm đầu này, các tác phẩm chính yếu của nền văn minh Tây Phương đều được dịch sang tiếng Nhật tiêu biểu như: Lịch sử nền Văn minh của nước Anh (History of Civilization in England) của Henry T. Buckle, Khế ước xã hội (Du contrat social) của Jean-Jacques Rousseau, Quyền con người (Rights of Man) của Thomas Paine, Sự Thịnh Vượng của Quốc Gia (the Wealth of Nations) của Adam Smith, Tự Do Luận (On Liberty) và Các nguyên Lý về Chính Trị Kinh Tế Học (Principles of political economy) của John Stuart Mill, Tinh thần của luật pháp (De l’esprit des lois) của Montesquieu, Tự giúp (Self-help) của Samuel Smiles, Thuyết Tiến Hóa (The Theory of Evolution) của Charles Darwin….

Việc dịch thuật từ tiếng Anh, Đức hay Pháp sang tiếng Nhật là một việc vô cùng khó khăn đối với các học giả Nhật vào thời phôi thai này, lý do là vì tiếng Nhật giống như tiếng nôm của ta dựa trên tiếng Hán, cho nên họ phải tự tìm ra những từ ngữ khoa học hay triết học tương xứng. Vậy mà họ vẫn vượt qua được. Chỉ việc này thôi họ đã đi trước người Trung Hoa và Việt Nam rất xa.

Thời kỳ Văn minh khai hóa này cũng tạo ra một dòng “văn học khai sáng”, ở đó các nhà văn viết hàng loạt “tiểu thuyết chính trị” để giải thích, không phải chỉ cho quốc dân mà còn cho những người lãnh đạo đất nước, hiểu về những giá trị của con người, về lợi ích của giáo dục, về bản chất của Tinh thần luật pháp, về dân chủ như một “giá trị đạo đức” và “phương thức quan hệ” trong xã hội, về con đường để rèn luyện văn hóa dân chủ và tuân thủ những giá trị đạo đức đó…

Những tên tuổi lớn của Nhật trong thời kỳ này gồm có Katô Hiroyuki là người tiên phong của nghành chính trị học, Nishi Amane mở đầu cho ngành triết học. Mitshkusi Rinsho là cha đẻ nghành nghiên cứu luật pháp. Sugi là người sáng lập ra ngành xác xuất thống kê (statistics). Fukuzawa Yukichi dẫn đầu trong ngành giáo dục, nhà tư tưởng Nakae Chômin được xem là một “Jean-Jacques Rousseau của phương Đông” v.v….

Những nhà canh tân của Nhật trong thời kỳ này không xa rời thực tế của đất nước họ. Vì tư tưởng của Tây Phương hoàn toàn mới lạ đối với đại đa số quần chúng, cho nên họ phải trang bị cho mình một kiến thức toàn khoa để đáp ứng được nhu cầu của thực tế.

Bên cạnh những sinh viên gởi đi du học, họ còn sẵn sàng trả số lương hậu hĩ cho các giáo sư, chuyên viên Tây Phương đến Nhật dạy tại các trường đại học, trường dạy nghề, cố vấn cho các công ty tư nhân và các cơ quan của chính phủ. Theo tài liệu của học giả Fukuzawa trong quyển “Khuyến Học” cho biết là chỉ trong 4 năm, từ 1868-1812, để học hỏi thể chế chính trị, xã hội và kỹ thuật của Phương Tây, chưa kể phần tư nhân, chính phủ Minh Trị, đã thuê hơn 500 chuyên viên, học giả sang Nhật làm việc, trong đó đông nhất là Bộ Công Nghiệp có 130 cố vấn Tây Phương.

Dĩ nhiên giữa những nhà canh tân không phải là không có những xung đột vì bất đồng quan điểm nhưng như một nhà văn Nhật đã nhận xét: “Cảnh tượng buổi đầu thời cận đại ở Nhật giống như một sân khấu lớn đầy những diễn viên đóng mọi vai trò. Những trào lưu tư tưởng đã xung đột, kết hợp, giao thoa với nhau để làm nguồn cảm hứng tạo ra một nước Nhật cận đại phong phú và đa dạng”

Dù đứng trên quan điểm nào những nhà tư tưởng khai sáng Nhật Bản cũng có chung một quan điểm là họ không thể đi ngược lại quá trình tiến hóa của nhân loại, từ man rợ tiến tới văn minh. Đồng thời họ cũng không thể quên chân lý từ ngàn xưa đến nay là muốn mở mang trí tuệ thì trước hết con người phải được thoải mái về vật chất.

Kết quả của 10 năm Khai Hóa Văn Minh

Nếu chỉ cần có 25 năm người Nhật đã biến một nước Nhật hoang tàn đổ nát sau Đệ Nhị Thế Chiến trở thành một cường quốc kinh tế thứ nhì trên thế giới, thì gần 100 năm trước đó người Nhật cũng làm được một phép lạ kinh tế tương tự. Chỉ có 10 năm sau khi bắt đầu cuộc Minh Trị Duy Tân, người Nhật đã tạo ra được những thành đáng nể, qua mặt cả một số nước ở Âu Châu.

Dưới đây chỉ là vài kết quả tiêu biểu:

– Năm 1871 hệ thống bưu điện, điện tín được thành lập.

– 1872 đường xe lửa nối liền Tokyo với hải cảng Yokohama dài gần 40km, Kobe được nối liền với Osaka năm 1874 và với Kyoto 3 năm sau, Tokyo – Kobe năm 1877.

– Cùng năm 1872 Bộ Giáo Dục được thành lập để quản trị từ bậc Tiểu Học lên đến Đại Học.

– Nhiều đại học được thành lập trong thời gian này, Đại Học Tsukuba được thành lập năm (1872), Đại Học Tokyo (1877), trước đó Đại học tư nhân của Fukuzawa là Keio được thành lập năm 1858.

– Xưởng đóng tàu tại Hyogo (Kobe) được thành lập 1868.

– Các hãng chế tạo vũ khí hiện đại tại Tokyo và Okasa cũng được thành lập.

– Năm 1870 hãng chế tạo đồ tiêu dùng Mitsubishi ra đời

– 1876, Mitsui Bank, ngân hàng tư nhân đầu tiên của Nhật được thành lập…

và vô số những thành quả khác.

Đến năm 1895 thì Nhật đã trở thành một nước mạnh nhất ở Á Châu khi đánh bại Trung Hoa và 10 năm họ đã thật sự trở thành một cường quốc sau khi đánh bại Nga tại eo biển Đối Mã. Chiến thắng này đã làm sửng sốt tất cả các nước Tây Phương bởi vì không ai nghĩ  họ có thể chiến thắng trước sức mạnh quân sự của Nga. Nên nhớ là vào thời điểm 1905 Nga đã là một đế quốc, lãnh thổ bao gồm phần lớn các nước trong Liên Bang Sô Viết cũ, rộng đến 23 triệu cây số vuông, dân số 140 triệu, trong lúc Nhật chỉ rộng có 377 ngàn cây số vuông, dân số 45 triệu vào thời điểm đó.

Tính từ năm 1868 đến 1905, có nghĩa là chỉ 37 năm kể từ khi cuộc Minh Trị Duy Tân bắt đầu, nước Nhật từ một nước phong kiến tụt hậu trở thành một cường quốc hiện đại trên thế giới. Thành tích thần kỳ là nhờ lòng yêu nước và niềm kiêm hãnh dân tộc là động lực khiến họ đoàn kết trên dưới một lòng quyết tâm đưa đất nước lên vị trí ngang hàng với các cường quốc Tây Phương.

Ngoài yếu tố tinh thần, một bài học mà chúng ta có thể học được từ cuộc Cách Mạnh Duy Tân của người Nhật là họ đã biết cách làm như thế nào để chuyển hóa từ một nước lạc hậu sang một nước văn minh.

Ngoài Minh Trị Thiên Hoàng, sẽ thật thiếu sót vô cùng nếu không nói về một nhân vật lỗi lạc khác của Nhật đã có công đóng góp rất lớn cuộc Minh Trị Duy Tân – một người mà cho đến ngày nay người Nhật vẫn gọi là “Người khai sinh ra nước Nhật hiện đại”.

Phạm Hoài Nam


 

NGHI NGỜ VÀ ĐẤU TRANH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thầy có thật là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”.

“Chúa chúng ta đã rời khỏi thế gian mà không để lại bất kỳ thông điệp bằng văn bản nào. Giáo lý của Ngài chính là Ngài!” – Fulton Sheen.

Kính thưa Anh Chị em,

Câu hỏi cốt lõi của Kitô giáo không phải là tin điều gì, nhưng là tin vào Ai? Tin Mừng hôm nay chạm đến câu hỏi ấy khi Gioan sai đồ đệ đến hỏi Chúa Giêsu, “Thầy có thật là Đấng phải đến?”. Đó là một câu hỏi rất ‘con người’ – câu hỏi của sự ‘nghi ngờ và đấu tranh!’.

Gioan là người dọn đường, đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu, đã giới thiệu Ngài là “Chiên Thiên Chúa”. Chẳng lẽ ông không biết Ngài? Hay phải chăng đó là một phương pháp sư phạm để các đồ đệ tự mình khám phá điều ông đã biết? Hoặc có thể Gioan đang ‘nghi ngờ và đấu tranh’ với đức tin của mình khi đang bị giam cầm? Tin Mừng không khẳng định giả thuyết nào, nhưng điều đó dẫn chúng ta đến một nhận định: đức tin không lớn lên bên ngoài thử thách, mà ngay trong thử thách! “Đức tin không cần ở trong nhà kính để khỏi gió mưa; thời gian dễ dàng làm yếu đức tin, thử thách mạnh mẽ củng cố nó!” – Elizabeth George.

Với câu hỏi của Gioan, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp mà bằng các dấu chỉ – kẻ mù thấy, kẻ điếc nghe, kẻ què đi, người nghèo nghe Tin Mừng – bài đọc một. Đó là những gì Isaia đã loan báo về ngày Chúa đến cứu dân. Ngài đang đến, không theo những mong đợi nóng vội; nhưng hiền hoà chữa lành, phục hồi và ban lại sự sống từ bên trong. Vì thế, thái độ cần có khi đức tin chúng ta bị thử thách là kiên nhẫn,Kìa xem nhà nông!”; “Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí!” – bài đọc hai. Kiên nhẫn không phải là thụ động, nhưng là ở lại trong niềm tin, cả khi chưa thấy kết quả. Ratzinger từng nói, “Người ta không bao giờ đạt được đức tin trọn vẹn; đức tin phải được ‘sống đi sống lại’ trong cuộc sống và trong đau khổ!”. Chính lúc ‘nghi ngờ và đấu tranh’ là lúc đức tin được tinh luyện.

Trong bối cảnh ấy, “Lạy Chúa, xin đến cứu chúng con!” – Thánh Vịnh đáp ca – không phải là tiếng nói của những người đã “nắm chắc mọi câu trả lời”, nhưng là lời van vỉ của những ai đang “chờ đợi trong đêm tối!”. Khi không thể giải thích, người tín hữu vẫn có thể cầu xin; và chính lời cầu xin ấy “giữ họ ở lại” với Thiên Chúa! “Cầu nguyện không phải là xin Thiên Chúa giải thích, nhưng là ‘ở lại với Ngài’ khi không có lời giải thích!” – Henri Nouwen.

Anh Chị em,

“Thầy có thật là Đấng phải đến?”. Gioan không kém vĩ đại vì đã đặt câu hỏi; trái lại, chính trong ‘nghi ngờ và đấu tranh’, lời chứng của Gioan càng trở nên giá trị và rạng rỡ. Chúa Nhật Hồng nhắc chúng ta rằng, niềm vui Kitô giáo không phát sinh từ việc đã thấy hết, nhưng từ việc biết chắc rằng – Chúa đang đến! Ngay giữa thử thách, Hội Thánh vẫn mỉm cười hy vọng, vì Đấng Phải Đến đang ở rất gần! “Đức tin bước lên những bậc thang mà tình yêu đã dựng, và nhìn qua những cửa sổ mà hy vọng đã mở!” – Charles Spurgeon.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con không xin hiểu hết, chỉ xin được ‘ở lại với Chúa’ trong lúc không hiểu gì!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

***********************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG, NĂM A

Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 11,2-11

2 Đang ngồi tù, ông Gio-an nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng : 3 “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?” 4 Đức Giê-su trả lời : “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe : 5 Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, 6 và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

7 Họ đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng : “Anh em ra xem gì trong hoang địa ? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng ? 8 Thế thì anh em ra xem gì ? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng ? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. 9 Thế thì anh em ra xem gì ? Một vị ngôn sứ chăng ? Đúng thế đó ; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. 10 Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng : Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.

11 “Tôi nói thật với anh em : trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.”


 

VÌ SAO NHIỀU QUỐC GIA THẮNG TRONG CHIẾN TRANH NHƯNG THUA TRONG HÒA BÌNH?

Anh Chi TTV2 – Quan điểm cá nhân

Có một nghịch lý xuyên suốt lịch sử hiện đại:

Những nhà nước từng chiến thắng vẻ vang trong chiến tranh lại thường thất bại cay đắng trong hòa bình.

Đế quốc Nga thắng Thế chiến II nhưng Liên Xô tan rã năm 1991.

Nam Tư chiến thắng phát xít nhưng vỡ vụn trong nội chiến.

Cuba, Triều Tiên, Ethiopia, Angola… đều là những ví dụ của sự vinh quang trên mặt trận quân sự nhưng lao đao trong quản trị thời bình.

Vì sao?

Bởi chiến tranh và hòa bình đòi hỏi hai năng lực khác nhau.

Một nhà nước có thể rất mạnh trong chiến tranh nhưng lại không có bộ gen phù hợp để tồn tại trong hòa bình.

  1. Chiến tranh cần quyền lực tập trung; hòa bình cần quyền lực phân tán

Trong chiến tranh, mô hình hiệu quả nhất là:

– Mệnh lệnh từ trên xuống

– Kỷ luật tuyệt đối

– Sự hy sinh cá nhân cho mục tiêu chung

– Tập trung quyền lực để ra quyết định nhanh

Nhưng một mô hình quyền lực tập trung không thể vận hành xã hội dân sự trong hòa bình, nơi cần:

– Cơ chế kiểm soát

– Minh bạch

– Luật pháp độc lập

– Báo chí giám sát

– Người dân phản biện

Nhà nước quen dùng mệnh lệnh chiến tranh sẽ bị “đơ cứng” trong quản trị kinh tế – xã hội.

Một xã hội nhiều vấn đề nhưng lại ít cơ chế phản hồi giống như chiếc nồi áp suất không có van xả.

  1. Chiến tranh tôn vinh hy sinh; hòa bình đòi hỏi năng lực

Hậu chiến, nhiều vị trí chủ chốt được trao cho những người “có công” trong chiến đấu — điều hợp lý ở thời điểm ấy.

Nhưng ở thời bình, quốc gia cần chuyên gia:

– Kinh tế

– Luật pháp

– Công nghệ

– Giáo dục

– Quản trị công

Khi tiêu chuẩn bổ nhiệm vẫn dựa vào “thành tích cách mạng” thay vì năng lực quản trị, nhà nước bị mắc kẹt trong vinh quang quá khứ, không bước kịp thời đại.

Năng lực không tự sinh ra từ lòng dũng cảm.

Một vị tướng giỏi chiến trận chưa chắc là người xây dựng được thể chế pháp quyền.

  1. Cơ chế chiến tranh không chống được tham nhũng thời bình

Khi chiến tranh kết thúc, lượng tài nguyên tái thiết khổng lồ đổ vào hệ thống.

Nếu thiếu minh bạch – thiếu kiểm soát, thì tham nhũng trở thành sản phẩm tự nhiên.

Ví dụ điển hình:

– Liên Xô kiểm soát kinh tế thời chiến rất tốt, nhưng trong hòa bình, cơ chế bao cấp – độc quyền đẻ ra hệ thống tham nhũng khổng lồ.

– Nam Tư của Tito đoàn kết trong chiến tranh, nhưng sau hòa bình, các nhóm lợi ích địa phương tranh giành tài nguyên, dẫn đến sụp đổ.

Một bộ máy được xây dựng để đánh giặc không thể tự chuyển đổi thành bộ máy minh bạch.

  1. Tâm lý “kẻ thù” không phù hợp với xã hội dân sự

Trong chiến tranh: ai đặt câu hỏi = có thể nghi ngờ là kẻ phá hoại.

Trong hòa bình: người dân phải có quyền đặt câu hỏi, chất vấn, phản biện.

Nhưng nhiều nhà nước bước ra từ chiến tranh không thay đổi tư duy đối – lập:

– Phản biện bị xem là chống đối

– Báo chí bị kiểm soát

– Dân bị coi là đối tượng quản lý, không phải đối tác xây dựng quốc gia

– Cơ quan công quyền quen dùng biện pháp cưỡng chế hơn là phục vụ

Khi người dân trở thành “đối tượng”, còn nhà nước giữ tư duy “trật tự chiến tranh”, thì xã hội sớm muộn cũng rơi vào mâu thuẫn.

  1. Chiến thắng không đồng nghĩa với khả năng phát triển kinh tế

Lịch sử chứng minh:

đánh trận giỏi không đồng nghĩa quản lý kinh tế giỏi.

Hàn Quốc và Nhật Bản phát triển thần kỳ sau chiến tranh không phải nhờ chiến thắng, mà nhờ:

– Cải cách thể chế

– Tự do hóa kinh tế

– Minh bạch hóa bộ máy

– Giáo dục và công nghệ

– Tôn trọng quyền công dân

Ngược lại, nhiều quốc gia thắng chiến tranh nhưng stagnate (đình trệ) trong hòa bình vì:

– Duy trì cơ chế bao cấp

– Không khuyến khích sáng tạo

– Sợ thay đổi

– Sợ mất quyền kiểm soát

– Tâm lý tự mãn vì quá khứ

Sự tự mãn là kẻ thù của phát triển.

  1. Không có kẻ thù chung, sự đoàn kết thời chiến tan rã

Trong chiến tranh, toàn dân đoàn kết vì địch rất rõ ràng.

Trong hòa bình, các lợi ích nhóm xuất hiện:

– Nhóm kiểm soát tài nguyên

– Nhóm kiểm soát đất đai

– Nhóm kiểm soát quyền lực địa phương

– Nhóm kinh tế – chính trị

Nếu nhà nước không có cơ chế điều phối và kiểm soát quyền lực hiệu quả, thì xung đột lợi ích nội bộ phá hủy sự ổn định.

Nói cách khác:

chiến tranh thống nhất – hòa bình phân rã.

  1. Không chuyển đổi được từ “tự do chiến đấu” sang “tự do công dân”

Một quốc gia chỉ thực sự chiến thắng trong hòa bình khi:

– Quyền con người được bảo đảm

– Luật pháp bảo vệ dân, không chỉ bảo vệ bộ máy

– Cơ quan công quyền minh bạch và chịu trách nhiệm

– Công an – quân đội phục vụ dân, không đứng trên dân

– Người dân được quyền giám sát Nhà nước

Nếu một nhà nước coi hòa bình như “sự kéo dài của chiến tranh bằng biện pháp hành chính”, thì nó sẽ thua.

Một nhà nước thắng chiến tranh nhờ sức mạnh tập trung,

nhưng thắng hòa bình lại cần năng lực phân quyền, minh bạch, pháp quyền và tôn trọng nhân dân.

Nếu không thay đổi, vinh quang quá khứ trở thành chiếc neo kéo quốc gia đi xuống.

Hòa bình không phải là phần thưởng, mà là bài kiểm tra.

Và nhiều quốc gia đã không vượt qua bài kiểm tra đó.

Hong Thai Hoang

 


 

CHUYỆN CỦA BA CHÚ KHỈ – Mônica Têrêsa Túy Nga

CHUYỆN CỦA BA CHÚ KHỈ KHÔNG NHÌN KHÔNG NGHE KHÔNG NÓI

Mônica Têrêsa Túy Nga

(Viết với ánh nhìn đời thường) 

  1. Giới thiệu

*Xét về mặt giá trị mỹ thuật thì ba chú khỉ tượng trưng cho ba KHÔNG, làm bằng gốm mỹ nghệ cao cấp được nung bao phủ bên ngoài lớp sơn bóng nổi vân màu xanh cẩm thạch này xứng đáng bị gia chủ nào đó đem vứt bỏ vào ngày 28 Tết vừa qua. Vì nhìn chúng vừa cũ kỹ, vừa lại có chú đã bị gảy mất một bàn chân, có chú bị trầy sờn một bàn tay nữa… Thế mà tôi đã hân hoan đi ôm lượm mang hết về nhà, rửa chùi thật sạch, rồi ân cần đặt bên cạnh gốc cây mai nhỏ ngoài ngõ. Những ngày Mừng Xuân, con cháu rút hết về quê ăn Tết, tôi ở nhà một mình. Ngoài giờ đi tham dự Thánh lễ ở giáo đường và đọc Kinh cầu nguyện tại gia ra, tôi để mặc cho  ba chú khỉ khọt này múa máy làm khuấy động tâm trí tôi! Vì đây là sự “khuấy động” hướng thiện, gợi hứng cho tôi ngồi viết bài này. Rất mong nhận lại được nhiều ý kiến đóng góp, cho các vấn đề được sáng tỏ và hữu ích hơn. 

  1. Hình thức và một thoáng truy cứu về nguồn gốc

 *Cả ba chú khỉ hiện diện trước mặt tôi đều được nghệ nhân cho đổ khuôn theo kiểu ngồi chồm hổm, mỗi chú cao khoảng một tấc rưởi, nhìn kỹ tôi không thấy có chú nào toát nét vui vẻ gì cả. Nhưng chịu khó nhìn cho sâu hơn, toàn bộ cho tôi bắt gặp cái “khí thế ưng chịu” phải là như thế! Cho mọi sự giao thoa được bình yên. Thật thấy mà thương thay!! Và, vì “thương” nên tôi tìm hiểu thêm, được biết:- Ba bức tượng của ba chú khỉ này từ rất lâu nay được thoát thai từ bức tượng thần Vajrakilaya có sáu tay ở Ấn Độ. Mỗi đôi tay của tượng thần Vajrakilaya giơ cao lên để bịt kín đôi mắt, bịt kín miệng, và bịt kín hai tai của mình lại. Hiện nay ở vùng Nikko, cách Tokyo khoảng 140 cây số về  hướng Bắc, trong đền Toshogu hãy còn đó một bức điêu khắc cổ bằng gỗ quí, trong đó có ba chú khỉ nhìn rất sống động, ẩn ý triết lý răn dạy người đời một cách cao siêu, của một nghệ nhân  nổi tiếng vào thế kỷ 17, ông tên là Hidan Jingoro. Và Mizaru, Kikazaru, Lwazaru, là tên của ba chú khỉ đó. Chú khỉ Mizaru bịt mắt, không nhìn. Chú khỉ Kikazaru bịt tai, không nghe. Và chú khỉ Lwazaru, bịt miệng, không nói. Phía sau của ba chữ không nhìn không nghe không nói, chúng ta thấy có hai nguyên âm và hai phụ âm đứng gần nhau kết thành âm đôi zaru. Zaru khi phát âm ra lại giống trài trại với Saru, mà nghĩa của Saru là con khỉ. Thế là từ đó hình ảnh của ba con khỉ thân mến như đã nói bên trên được lên ngôi, làm biểu tượng khuyên răn con người. Con người nên nhìn, khi cần phải nhìn. Con người nên nói, khi cần phải nói. Con người nên nghe, khi cần phải nghe. Cả ba hành xử vừa nêu, ngay trong Năm Thánh này, đem kết hợp chặt chẽ với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, thì không có gì sánh bằng. 

  1. Nhìn – nghe – nói: Ba thú khoái của ma quỷ!

Có lẽ nên thử nghĩ lại mà xem, nếu toàn thể loài người chúng ta ai cũng không nhìn không nghe không nói gì cả thì hẳn thế giới này đã thành một thế giới câm. Đức Chúa Trời của chúng ta chưa hề ban cho chúng ta một thế giới câm như vậy. Ngài luôn muốn đoàn con cháu của Ngài sống đoàn kết yêu thương và vui vẻ hạnh phúc bên nhau. Ngài ban cho loài người đôi mắt  để nhìn vạn vật đẹp xung quanh. Ngài ban cho đôi tai để con người nghe điều hay lẽ phải, nghe được luôn các âm điệu dịu dàng ngọt lịm của thinh không là bầu trời xanh dẫn đưa con người gặp được vị Cha chung hằng ngự trên cõi thiên đàng. Ngài ban cho cái miệng để cho vào bao tử thức ăn thức uống có chọn lựa để nuôi thân, và để đôi môi phát ra êm ái những lời tế nhị ngọt ngào, giúp người xấu trở nên tốt, giúp người tốt càng lúc càng được tốt hơn. Thế nhưng, bất cứ ở nơi đâu càng tập trung nhiều người quyết chí sống đời thánh thiện, thì nơi đó là nơi “hấp dẫn” nhất đối với loài ma quỷ! Ma quỷ sẵn sàng len vào thần trí của con người không có hoặc không vững Đức Tin, để biến con người này trở thành công cụ sắc bén của chúng. Trong các tài liệu bộc bạch về lời Giảng Lễ của Cố Đức Thánh Cha Phanxicô chúng ta, tôi rất tâm đắc câu ngài nói: 

 <<Cái hay cái tuyệt vời của loài ma quỷ là chúng làm cho chúng ta không hề biết chúng chính là ma quỷ>>. 

Từ câu nói thực tế và rất chính xác trên của Cố Đức Thánh Cha Phanxicô, tôi xin phép được suy ra: Người chính là ma quỷ, nhưng rất dễ dàng làm cho người khác lầm tưởng họ là người thánh thiện người chân chính, chính là các Đấng bậc có chức có quyền cao trọng, hay có chức quyền phó cao trọng trong Giáo hội, phân nhỏ xuống Ông Bà Anh Chị làm Trưởng nhóm, phó nhóm, làm thơ ký trong các cộng đoàn, nói riêng và nói chung. Vì vậy, việc quyết tâm không mở cửa tâm linh cho loài ma quỷ nhảy xổm vào, làm chủ và quấy rối bản tâm, là việc làm phải chú ý hàng đầu, không loại trừ bất cứ ai, ngay trong thời điểm mà Ánh sáng và Bóng tối – Thiện lành và Tội lỗi đang tranh giành quyền lợi riêng. 

Còn đối với một người giáo dân bình thường như tôi, ma quỷ sẽ có cách cám dỗ ngọt ngào êm ái khác, nếu hằng ngày tôi sống buông lơi Lời Chúa và không xem các giờ Kinh Phụng Vụ là việc làm rất cần thiết nữa. Và nếu tôi đã là như vậy, thì tôi sẽ để cho đôi mắt tôi, đôi tai tôi, và cái miệng của tôi hoạt động một cách ráo riết, không hề biết mệt mỏi. 

-Đôi mắt tôi: Trừ giờ nằm ngủ, chúng cần mở to, để nhìn bên này, ngó bên kia. Nếu chúng ngó nhìn không rõ, chúng sẽ khiến tôi xê dịch chỗ đứng, cho tầm nhìn được ngắn hơn, để chúng soi rọi bới xới chuyện của người khác. Ai là người biết nhún nhường và thân thiện với tôi, đôi mắt tôi sẽ nhìn họ với ánh nhìn có chút phần thông cảm. Ai là người không cùng phe phái với tôi, chống đối tôi, đôi mắt của tôi sẵn sàng ban cho họ những tia hận thù và chia rẽ. 

-Đôi tai tôi: Vì tôi là tay sai của loài ma quỷ, nên tôi rất ghét nghe lời hay ý đẹp. Trái lại tôi rất khoái nghe các cô bà xúm nhau “tám” chuyện của người khác. Ôi thôi nào là chuyện đánh ghen của xóm trên kéo dài xuống chuyện giựt hụi của xóm dưới…. Nào là chuyện ông cha ở nhà thờ này giảng hay, ông cha ở nhà kia giảng dở ẹc. Nào là dì phước này mặt đẹp như tiên sa, tu sẽ không bền; dì phước nọ nhìn xấu xí, đi tu là phải, chứ ở ngoài đời, ai mà cưới cho. Đại khái, chuyện “tám, tám, tám…” của họ càng hoành tráng, đôi tai của tôi càng khoái nghe.

 -Cái miệng tôi: Phải nhìn nhận rằng thị giác và thính giác của tôi là hai cơ quan truyền thông rất hữu hiệu trong việc đưa các sự kiện lên bộ não tôi, một bộ não vốn hay tưởng tượng và cường điệu ra thêm. Rồi từ bộ não tôi con đường truyền thông này được tuôn ra miệng, buộc tôi phải nói… nói… và nói…. Nói sự thật không đã, tôi bèn thêm mắm dậm muối thêm vô, để chuyện không có gì tôi nói cho thành có, tôi mới thỏa lòng. 

Kết quả: Tôi bị gia đình, xóm giềng, bạn bè …xếp tôi vào hạng người đáng ghê tởm!Cần tránh xa ra! Nếu không sẽ bị họa lây những chuyện không hay do chính tôi gây ra.

 4-Bài học quý giá

Sau khi bị mọi người bỏ rơi, như vừa nói bên trên, tôi giựt mình, nhìn lại chính mình! Và, ngay giờ đây ba chú khỉ tượng trưng cho ba KHÔNG, tên Mizaru, Kikazaru, và Lwazaru chính là ba vị Thầy của tôi. 

– Chú khỉ Mizaru bịt mắt không nhìn, dạy tôi chỉ nhìn khi cần phải nhìn. Mà nếu đã nhìn thì hãy nhìn với ánh mắt của Lòng Chúa Xót Thương, từ đó mọi chuyện dù có xấu cũng được từ từ hóa giải cho thành tốt. 

-Chú khỉ Kikazaru bịt tai không nghe, dạy tôi biết lắng nghe với tinh thần biết trân trọng mọi sự, nhất là biết lấy lương tâm ra mà phân biệt tốt xấu phải trái để:- Hoặc tôi học theo gương sáng, hoặc tôi lấy bước vấp ngã của người khác mà làm kinh nghiệm cho con đường thẳng tiến tốt lành của mình. 

-Chú khỉ Lwazaru bịt miệng không nói, dạy tôi nên nói, khi cần thiết phải nói. Và nếu đã nói thì tôi chỉ nên luôn nói lời khiêm nhường dịu ngọt êm tai để làm vui lòng người khác. Cho dù người đang đứng trước mặt tôi đã từng làm đau lòng tôi. Hy sinh như vậy đâu ăn thua gì đối với Tình Yêu Thiên Chúa hằng ban cho tôi, nhất là trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót này. 

  1. Kết bài

“Ra đây lên núi chơi với khỉ

Khỉ nhảy cà tang ta nhảy cà tưng

Nhảy cho đã để quên đời khỉ gió

Mai mạnh giò ta tiếp bước gian truân”.

(Trích thơ của Nhạc sĩ Đynh Trầm Ca)

Và, theo tôi, không có gian truân nào khốn khổ cho bằng cái gian truân khi ta phải chiến đấu với ý thức hệ của chính bản thân ta. 

Mônica Têrêsa Túy Nga

From:  Ngoc Bich & KimBang Nguyen


 

ĐỜ ĐẪN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa!”.

“Thiên thần Niềm Tin bước vào lòng tôi; vừa đi, vừa hát, vừa thổi sáo. Những vị khách lần lượt ra đi – Sợ Hãi và Lo Lắng, Đau Buồn và Ảm Đạm lao vào màn đêm! Tôi tự hỏi, làm sao như thế được? Niềm Tin thì thầm, ‘Bạn không thấy sao? Họ thực sự không thể cùng tôi chung sống!’” – Một nhà thơ cổ.

Kính thưa Anh Chị em,

Đoản thơ trên hé mở một điều: khi niềm tin hiện diện, những gì làm tê liệt tâm hồn phải tự rút lui. Lời Chúa hôm nay cũng cho thấy, không chỉ thiên thần, nhưng chính Chúa Giêsu vẫn thường bước vào lòng chúng ta; Ngài vừa đi, vừa hát, vừa thổi sáo. Tiếc thay, như lũ trẻ ngoài chợ, không ít lần chúng ta lại trở nên… “đờ đẫn!”.

Isaia diễn tả ‘nhã nhạc’ Thiên Chúa hát cho dân Ngài, “Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của Ta, thì sự bình an của ngươi sẽ chan chứa như dòng sông!” – bài đọc một. Nhưng Israel bỏ ngoài tai. Thời Chúa Giêsu, cảnh tượng lặp lại! Ngài cất giọng mà hầu như chẳng ai hưởng ứng; Gioan được cho là “quỷ ám”, Ngài được gọi là “bợm nhậu”. “Chúng ta lại sợ chính thứ ánh sáng mà mình khao khát!” – C.S. Lewis.

Cũng thế với chúng ta. Khi không muốn nghe Chúa, chúng ta tìm đủ cách để khéo từ chối; và với thời gian, lòng ra tê liệt, không còn bén nhạy trước tiếng Ngài. Cần phân biệt trọng tâm sứ điệp với cách thức sứ điệp được chuyển tải. Phaolô nói, “Chúng tôi mang kho tàng ấy trong những bình sành” – chiếc bình không quan trọng bằng kho tàng nó chứa. Chúa vẫn dùng những tác nhân bất toàn để nói; nhiều người mang những yếu đuối đáng kể, thế nhưng không ít vị đã làm thánh vì và nhờ chính những yếu đuối đó. Nếu quá bận tâm đến “chiếc bình”, bạn và tôi sẽ bỏ lỡ “kho tàng!”. “Thiên Chúa không im lặng; chính chúng ta điếc trước Ngài!” – Søren Kierkegaard.

Thánh Vịnh đáp ca khẳng định, “Ai theo Chúa, sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống!”. Nhưng chỉ ai nhận ra bóng tối của mình mới gặp được ánh sáng ấy. “Quay mặt về phía ánh sáng, bạn sẽ không còn thấy bóng tối nữa!” – Helen Keller. Khi nghe một sứ điệp, chúng ta thường sàng lọc phong cách người rao giảng; bởi thế, khi một người chia sẻ Lời Chúa cho 20 người, có thể sinh ra 20 thông điệp khác nhau. Điều đó không sai, miễn là mỗi người thực sự để Chúa soi rọi và không để lòng mình ra chai lỳ.

Anh Chị em,

“Các anh không nhảy múa?”. Có thể bạn và tôi không nhảy múa vì để “sợ hãi, lo lắng, đau buồn, ảm đạm” chiếm chỗ. Đức Phanxicô cảnh báo, “Đó là những con người buồn bã vốn luôn chỉ trích những người rao giảng, vì sợ rằng mình sẽ mở lòng ra trước Thánh Thần. Hãy cầu nguyện để không trở nên buồn bã – những người cướp đi ‘sự tự do của Thánh Thần’ – vốn thường đến qua sự vụng về của người rao giảng. Thật bê bối khi Chúa nói qua những con người tội lỗi, giới hạn; nhưng bê bối hơn, khi Ngài cứu chúng ta qua một người tự nhận mình là Con Thiên Chúa nhưng kết thúc như một tội phạm!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con tê liệt trước tiếng Chúa. Xin cho con nhận ra giai điệu Ngài đang hát cho con mỗi ngày!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

***********************************

Lời Chúa Thứ Sáu Tuần II Mùa Vọng

Họ không nghe lời ông Gio-an, cũng chẳng nghe Con Người.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 11,16-19

16 Khi ấy, Đức Giê-su nói với đám đông rằng : “Tôi phải ví thế hệ này với ai ? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác, 17 và nói :

‘Tụi tôi thổi sáo cho các anh,
mà các anh không nhảy múa ;
tụi tôi hát bài đưa đám,
mà các anh không đấm ngực khóc than.’

18 Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo : ‘Ông ta bị quỷ ám.’ 19 Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo : ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.’ Nhưng đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.”


 

“Một quốc gia (ĐCSTQ) bị một phụ nữ trẻ người Nhật Bổn (Ayumi Hamasaki) đánh bại.” – Nhan Thuần Câu

Ca sĩ Ayumi Hamasaki

Bài viết của ông Nhan Thuần Câu: “Một quốc gia (ĐCSTQ) bị một phụ nữ trẻ người Nhật Bổn (Ayumi Hamasaki) đánh bại.”

Bất mãn trước việc Chính phủ Nhật can dự vấn đề Đài Loan, Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã hủy bỏ đột ngột buổi hòa nhạc của ca sĩ Nhật Bản Ayumi Hamasaki tại Thượng Hải vào ngày 29/11 để trút giận. Tuy vậy Cô cùng các vũ công vẫn trình diễn trọn vẹn với tinh thần bùng nổ trên sân khấu, dù trước mắt họ là 14.000 ghế trống. Nhà bình luận Nhan Thuần Câu cho rằng ĐCSTQ độc tài đã bị một người phụ nữ bé nhỏ đánh bại.

Cảnh buổi biểu diễn không khán giả của nữ ca sĩ trẻ nổi tiếng Nhật Bản Hamasaki Ayumi vào ngày 29/11/2025. (Ảnh: Facebook của Hamasaki Ayumi)

Trên mạng xã hội, nhiều thông tin nội bộ lan truyền cho biết Ayumi Hamasaki và ê-kíp lựa chọn cách tri ân người hâm mộ bằng việc trình diễn đủ tiết mục rồi ghi lại toàn bộ chương trình. Bản ghi này dự kiến sẽ được phát hành vào thời điểm thích hợp để bù đắp cho những khán giả đã chờ đợi.

Dưới đây là bài viết của nhà bình luận Nhan Thuần Câu về sự kiện trên:

Vài ngày trước, buổi biểu diễn của nữ ca sĩ Nhật Bản Hamasaki Ayumi tại Thượng Hải bị nhà chức trách Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) yêu cầu dừng lại. Đây là hành vi của nhà nước theo đúng nghĩa, đối với người trong cuộc thì đó là điều “bất khả kháng”.

Lẽ ra Hamasaki Ayumi chỉ có thể ngậm một bụng bực bội mà thu dọn đồ đạc trở về nước cho xong, nhưng nữ ca sĩ này lại khiến mọi người bất ngờ: Cô đứng trước một sân khấu hoàn toàn trống khán giả, và trình diễn toàn bộ chương trình từ đầu đến cuối.

Đây thực sự là một buổi biểu diễn “vô tiền khoáng hậu” xưa nay chưa từng có trong lịch sử. Hamasaki Ayumi sẽ vì buổi biểu diễn này mà được ghi danh vào sử sách.

Với tuổi tác của tôi, Hamasaki Ayumi đương nhiên không phải thần tượng của tôi. Lần đầu đọc tin, tôi chỉ thấy buồn cười, cảm thấy cô gái nhỏ này thật thú vị, coi một lệnh cấm như một trò đùa. Nhưng nghĩ sâu hơn, tôi lại khâm phục; trong chuyện này có hàm ý lớn, cô gái nhỏ ấy không hề đơn giản.

Trước hết, đây là sự thể hiện ý thức về quyền lợi. Địa điểm là do cô thuê, cô đã trả tiền. ĐCSTQ có quyền cấm khán giả vào, nhưng không có quyền cấm cô sử dụng địa điểm. Còn việc cô hát trước một sân khấu trống, chỉ cần cô thích, cô không ngại vất vả, thì cô có quyền làm như vậy. Điểm này ĐCSTQ hoàn toàn không có cách nào can thiệp.

Tiếp theo, đây là cách cô nhẹ nhàng bày tỏ lời xin lỗi với người hâm mộ Trung Quốc. Sự việc không bắt nguồn từ cô, nhưng cô cảm thấy có lỗi với khán giả Trung Quốc. Cô không nghĩ ra cách nào tốt hơn, nên cuối cùng đã chọn hát trọn vẹn một buổi trước sân khấu trống để bù đắp phần nào sự áy náy với người hâm mộ.

Thứ ba, đây là sự kiên trì với tinh thần hợp đồng. Nghe nói, những ca sĩ tầm cỡ như cô, sau khi ký hợp đồng thì thù lao đã được thanh toán đầy đủ. Sự cố không do cô gây ra, nhà tổ chức cũng không thể trách cô. Nhưng suy cho cùng, cô là một bên trong hợp đồng, cô có nghĩa vụ thực hiện. Việc hát trước sân khấu trống có thể xem là hai bên không ai nợ ai, và cô cũng có thể an tâm trở về.

Ngoài ra, hành động này cũng là một lời đáp trả mạnh mẽ đối với thủ đoạn chuyên chế của ĐCSTQ. Bạn có quyền lực, tôi không thể chống lại, nhưng tôi dùng cách thức này để thể hiện sự phản đối một cách khéo léo, cho bạn hiểu rằng tôi sẽ không nuốt trôi sự áp bức, mà còn muốn khiến cả thế giới ghi nhớ rằng ĐCSTQ chính là kẻ dùng những thủ đoạn man rợ như vậy để tước đoạt tự do của người dân Trung Quốc.

Cuối cùng, đây là một cú lật ngược đầy chiến lược, biến bị động thành chủ động, biến sự sỉ nhục và bị tổn hại thành một cú đấm mạnh mẽ thẳng vào mặt Tập Cận Bình. Tập Cận Bình không thể lên tiếng, chỉ có thể nuốt giận vào trong, còn Hamasaki Ayumi thì chỉ nhẹ nhàng phủi áo, khẽ vén tóc, mỉm cười tao nhã rồi quay lưng rời đi!

Người xưa Trung Quốc nói: “Lấy lớn đối nhỏ thì dùng nhân; lấy nhỏ đối lớn thì dùng trí.” Kẻ mạnh đối với kẻ yếu phải nói đến nhân nghĩa; người yếu đối với kẻ mạnh phải dùng mưu trí. ĐCSTQ không có thói quen nói nhân nghĩa, nhưng Hamasaki Ayumi lại dùng hành động của mình để giảng giải thế nào là mưu trí.

Người hâm mộ Trung Quốc thông qua hành động bất ngờ này của cô, đã nhận được trọn vẹn lời xin lỗi, cũng cảm nhận được lời trách móc hàm ý của cô. Người hâm mộ Trung Quốc sẽ ghi nhớ sự thiện lương và thông minh của cô, cũng sẽ ghi nhớ sự quan tâm và lời chúc phúc mà cô dành cho họ.

Còn ĐCSTQ, kẻ ra lệnh cấm, cũng sẽ cảm nhận được nỗi đau của “cái đinh mềm” mà cô đặt ra, nhận lấy sự khinh bỉ và trách móc không cần nói thành lời của cô. Đồng thời, sự khinh thường và bất mãn của dân chúng Trung Quốc đối với chính quyền sẽ đổ lên đầu ĐCSTQ từ mọi phía.

Tin tức chắc chắn lan khắp thế giới, từ các quốc gia dân chủ tiên tiến đến các nước đang phát triển chính trực, không một dân tộc bình thường nào tán đồng sự bá đạo của ĐCSTQ. Từ giờ trở đi, sự thô bạo và ngang ngược của ĐCSTQ sẽ là điều mà ai cũng đều biết.

Vì thế, nếu nói rằng sự việc này khiến “đường đường mộtchính quyền Trung Quốc” bị một người phụ nữ Nhật Bản đánh bại, thì cũng không hề quá lời. Chuyện xấu truyền đi ngàn dặm, Tập Cận Bình vì thế càng lộ rõ bản chất độc tài, từ đó giá trị quốc gia của ĐCSTQ cũng rách nát, họ sẽ bị kéo lên bục xét xử của lịch sử văn minh nhân loại.

Tại sao khi bị cường quyền áp bức, Hamasaki Ayumi lại nghĩ ra được chiêu thức đầy trí tuệ như vậy? Đương nhiên có liên quan đến việc cô là người Nhật, có liên quan đến đạo đức được người Nhật truyền từ đời này sang đời khác, cũng liên quan đến việc Nhật Bản chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa phương Tây tiến bộ.

Ngược lại, giả sử có ca sĩ Trung Quốc sang Nhật biểu diễn, và giả sử Chính phủ Nhật cũng cấm diễn (điều này hoàn toàn chỉ là giả thuyết, vì không bao giờ xảy ra), thì liệu ca sĩ Trung Quốc đó có dùng cách hát sân khấu trống để đáp trả hay không?

Tôi tin là rất khó. Ca sĩ Trung Quốc không có lòng can đảm và sự khôn khéo như vậy, phần lớn sẽ chọn trốn tránh cho xong, để khỏi phiền phức. Thái độ nghiêm túc của người Nhật đối với mọi việc, sự tinh tế và chu đáo trong cách họ xử lý quan hệ giữa người với người, sự kiên định trong niềm tin cá nhân và phẩm cách, tất cả những điều này khiến họ không bao giờ làm qua loa.

Nói cách khác, nếu sự việc xảy ra với một ca sĩ Nhật khác, họ cũng sẽ kiên trì giữ lập trường. Còn việc có hát sân khấu trống hay không thì chỉ tùy vào việc họ có nghĩ ra ý tưởng này hay không.

Ban đầu, ý đồ của ĐCSTQ là dùng thủ đoạn thô bạo để thể hiện sự bất mãn trước việc Chính phủ Nhật can dự vấn đề Đài Loan, qua đó trút giận. Nhưng Chính phủ Nhật là Chính phủ Nhật, còn Hamasaki Ayumi chỉ là một công dân Nhật, và một công dân không có nghĩa vụ phải “gánh trách nhiệm” cho chính phủ của mình.

ĐCSTQ hoàn toàn không có lý do dùng buổi biểu diễn của Hamasaki Ayumi làm công cụ để trả đũa. Nhưng vì sự hẹp hòi và tối tăm, ĐCSTQ vẫn dùng thủ đoạn hạ đẳng này để trút cơn tức vô cớ.

Tiếc rằng chiêu này của ĐCSTQ đang tự vả vào mặt mình. Kết quả ra sao? Hamasaki Ayumi chẳng hề hấn gì, đã nhận đủ thù lao, còn hát một buổi sân khấu trống để tri ân người hâm mộ, lễ phép chào tạm biệt Trung Quốc, để lại một chủ đề ngàn năm, lan truyền khắp thế giới.

Còn điều mà ĐCSTQ thu được lại hoàn toàn trái ngược với mục đích ban đầu: Muốn dương oai nhưng thành mất mặt, muốn làm ác nhưng lại phải nuốt hận.

Dù tôi không còn là người Trung Quốc dưới sự cai trị của ĐCSTQ, nhưng mang dòng máu Trung Hoa, tôi vẫn cảm thấy xấu hổ đến tận xương tủy. Tôi cảm thấy mất mặt vì có một cố quốc như vậy.

ĐCSTQ hành ác không biết điểm dừng, liên tục phơi bày sự vô giáo dục và bóng tối tách rời với văn minh nhân loại. Người Trung Quốc muốn gột rửa sự nhục nhã dân tộc, chỉ có cách duy nhất: đoàn kết lật đổ sự thống trị tàn bạo của ĐCSTQ, khôi phục danh tiếng trong sạch và chính trực cho đất nước mình.

Nhan Thuần Câu

(Bài viết , bản gốc tiếng Trung Hoa được đăng trên trang Facebook của tác giả) 

 From: My Tran


 

Gia đình tù nhân lương tâm Cấn Thị Thêu được trao Giải Nhân Quyền Lê Đình Lượng 2025

Ba’o Nguoi-Viet

December 11, 2025

ORANGE COUNTY, California (NV) – Đảng Việt Tân vừa thông báo quyết định trao Giải Nhân Quyền Lê Đình Lượng 2025 cho gia đình tù nhân lương tâm Cấn Thị Thêu hôm 10 Tháng Mười Hai, nhân Ngày Quốc Tế Nhân Quyền, thông cáo báo chí của tổ chức này cho biết.

“Đảng Việt Tân trân trọng công bố Giải Nhân Quyền Lê Đình Lượng 2025, với chủ đề ‘Đồng Hành Cùng Gia Đình Tù Nhân Lương Tâm,’ được trao cho gia đình tù nhân lương tâm Cấn Thị Thêu,” thông cáo cho biết.

Bà Cấn Thị Thêu (phải) và hai người con trai, Trịnh Bá Tư (trái) và Trịnh Bá Phương. (Hình minh họa: Trịnh Bá Khiêm)

Theo thông cáo, gia đình tù nhân lương tâm Cấn Thị Thêu ở Dương Nội (Hà Đông, Hà Nội) là một trong những biểu tượng kiên cường nhất của phong trào dân oan và đấu tranh cho quyền con người tại Việt Nam. Từ việc phản đối các vụ cưỡng chế đất đai bất công đến việc lên tiếng cho các nạn nhân của bạo lực nhà nước, gia đình này đã gánh chịu nhiều năm tù đày, mất mát nhưng vẫn giữ vững tinh thần lạc quan, nâng đỡ nhau và khơi dậy niềm hy vọng cho hàng ngàn dân oan và tù nhân lương tâm khác.

“Sự đồng lòng và quyết tâm tranh đấu cho quyền con người của dân tộc Việt Nam của tất cả các thành viên trong gia đình tù nhân lương tâm Cấn Thị Thêu đã thuyết phục Ban Giám Khảo Giải Nhân Quyền Lê Đình Lượng 2025 bình chọn trao tặng giải thưởng năm nay cho gia đình này,” thông cáo tiếp.

Đảng Việt Tân cũng gởi lời cảm ơn chân thành các thành viên Ban Giám Khảo giúp công việc bình chọn cho giải thưởng gồm:

-Ông Adrian Tam, dân biểu tiểu bang Hawaii

-Ông John Waihe’e IV, ủy viên Văn Phòng Các Vấn Đề Người Hawaii Bản Địa

-Ông Christoph Schurhaus, đồng chủ tịch tổ chức ACAT ở Đức

-Nhà văn Trần Trung Đạo

-Luật Sư Đặng Đình Mạnh

-Luật Sư Lê Quốc Quân

-Giáo Sư Phạm Minh Hoàng

Buổi trao Giải Nhân Quyền Lê Đình Lượng 2025 sẽ được tổ chức vào ngày 14 Tháng Mười Hai tại Hawaii, Hoa Kỳ. Chương trình sẽ được livestream trên Facebook Việt Tân, Facebook Ước Mơ Việt Tân, và YouTube Việt Tân, theo thông cáo cho biết. [đ.d.]


 

ĐỨC MẸ GUADALUPE VÀ TẤM ÁO CHOÀNG THẦN KỲ – Tổng hợp và dịch : Goretti.Tran

Tổng hợp và dịch : Goretti.Tran

Đức Mẹ Guadalupe là một sự kiện thần kỳ và nổi tiếng ở xứ sở Mexico.  Đức Mẹ Guadalupe là một tước hiệu của Đức Mẹ Maria, tên gọi này chứng minh cho sự hiển linh của Đức Mẹ ở vùng Guadalupe, Mexico vào năm 1531.  Năm 1999, Giáo hội Công giáo chính thức tuyên bố biểu tượng Đức Mẹ Guadalupe là Nữ Thần bảo hộ Châu Mỹ.

 Ngày 12/12 hàng năm, Giáo hội mừng kính Đức Mẹ Guadalupe, đánh dấu ngày Đức Mẹ hiện ra với người nông dân tên Juan Diego ở Mexico vào năm 1531.  Theo các ghi chép về sự việc này, Đức Mẹ đã hiện ra vài lần trước mặt Juan Diego, yêu cầu Juan đến gặp vị Giám Mục sở tại xin ngài xây dựng một nguyện đường mới tại nơi này.  Vị Giám mục lúc đầu không tin, nên đã yêu cầu một dấu hiệu để chứng minh.  Juan Diego quay trở lại đồi Tepeyac để truyền đạt lại yêu cầu của Giám mục.

 Đức Mẹ chấp thuận và bảo Juan lên đỉnh đồi Tepeyac vốn rất khô cằn để gom một số hoa hồng vào áo Tilma của anh (Tilma là một loại áo choàng thô dệt bằng sợi cây xương rồng thổ dân nghèo châu Mỹ thường mặc).  Anh vâng lời Đức Mẹ đi lên đồi.  Anh đã thấy một vườn hoa hồng tuyệt đẹp mặc dù xung quanh đất đai cằn cỗi.  Juan đến gặp vị Giám mục một lần nữa.  Trước mặt vị Giám Mục, Juan mở áo choàng ra, hoa hồng rơi xuống đất để lộ chân dung mầu nhiệm của Đức Mẹ một cách thần kỳ.  Hình tượng Đức Mẹ trên tấm áo choàng Tilma về sau được biết đến dưới cái tên “Đức Mẹ Guadalupe.” 

Tấm áo choàng vẫn lưu tồn cho đến tận ngày nay.  Nó được treo trang trọng trên bàn thờ tại Vương Cung thánh đường Đức Mẹ Guadalupe tại thủ đô Mexico City. 

Các nhóm khoa học gia khác nhau đã tiến hành nhiều loại thí nghiệm trên lớp vải và bức hình.  Nhưng họ không thể tìm thấy bất kỳ lời giải thích khoa học nào cho quá trình tạo nên bức hình này. 

Thánh ảnh cho thấy Mẹ mặc áo mặt trời chân đạp trên mặt trăng hình lưỡi liềm, tượng trưng cho địa vị cao cả của Mẹ – vĩ đại hơn các mẫu tượng khác.  Mẹ mặc áo choàng màu ngọc lam xanh – tượng trưng cho hoàng tộc – khoác ngoài áo dài màu hồng tượng trưng cho tình yêu cao cả. 

“… Một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao….” (Khải Huyền 12:1)

 Một Số Chú Giải Liên Quan Đến Bức Tượng Đức Mẹ Guadalupe

 Đôi mắt: Đầu Mẹ hơi cúi xuống và đôi mắt đang nhìn xuống trong tư thế khiêm cung tượng trưng cho người nữ tỳ của Chúa.  Đôi mắt Mẹ ẩn chứa hình ảnh của Juan Diego và vị Giám mục, nhưng điều này chỉ có thể nhìn thấy bằng công nghệ hiện đại. 

Đôi bàn tay chấp niệm: Đôi bàn tay chắp trong tư thế cầu nguyện.  Bên trái tối và bên phải sáng hơn. Hình ảnh này đại diện cho hai chủng tộc. 

Nơ mẫu tử: Là hình ảnh của sự trinh tiết.  Vị trí này thể hiện Mẹ đang mang trong mình một đứa trẻ.  Dây Mẫu Tử thắt quanh eo tượng trưng cho người nữ đang mang thai. 

Bông hoa: Những hình mẫu này là ký tự của ngôn ngữ bản địa, chứa đựng các thông điệp phức tạp khác nhau 

Nhiệt độ: Nhiệt độ của chiếc áo choàng Tilma không thay đổi, ở mức 98,6°F = 37°C, tương đương với nhiệt độ của một cơ thể sống. 

Độ bền: Màu sắc của hình ảnh vẫn tươi mới một cách kì diệu dù đã hơn 500 năm tuổi.  Những hình ảnh được thực hiện trên vải thường tan rã trong vòng 15-30 năm nhưng tấm áo Tilma này không hề có dấu hiệu phai mờ hoặc nứt rạn của màu sắc 

Khả năng phục hồi: Tấm áo choàng Tilma đã sống sót sau một vụ đánh bom và cũng tự phục hồi một cách kỳ diệu sau khi bị dung môi axit nitric đổ vào. 

Ngôi sao: Các ngôi sao trên áo choàng của Mẹ phác họa ra chính xác các chòm sao khác nhau trên bầu trời Mexico ngày 12 tháng 12 năm 1531, Thứ Bảy, lúc 10:26 sáng. 

Nhịp tim: Khi đặt một ống nghe bên dưới chiếc nơ màu đen, đo được nhịp đập nhịp nhàng 115 mỗi phút, giống như nhịp tim của một em bé trong bụng mẹ. 

Bản gốc: Không có dấu hiệu của sơn, nét cọ, hoặc nét phác thảo nào được tìm thấy; hình ảnh này không thể tạo ra bản sao khác; Và nếu quan sát ở phạm vi 3-4 inch tính từ vải, hình ảnh này sẽ biến mất, chỉ còn lại tấm vải nguyên gốc. 

Mặt trăng: Người nữ đang đứng trên mặt trăng lưỡi liềm là tín hiệu cho biết Bà là đấng cao cả hơn hắc thần (thần đêm tối) và nguyệt thần (thần mặt trăng).  Bên cạnh đó, Mẹ đứng trên mặt trăng có lớp da rắn.  Đây là một biểu tượng của một vị thần rắn của người Azp về sự hy sinh của con người. 

Thiên thần: Thiên thần ở dưới chân Đức Mẹ với đôi cánh lông vũ mang Đức Mẹ đến với mọi người.  Chiếc áo choàng của thiên thần màu đỏ tượng trưng cho trái đất, trong khi chiếc áo choàng của Mẹ Maria màu xanh tượng trưng cho thiên đường. 

Tổng hợp và dịch : Goretti.Tran

From:: Langthangchieutim


 

 THỐNG KÊ CỦA UNHCR VỀ NGƯỜI VIỆT VƯỢT BIỂN…

 Việt Luận – Viet’s Herald

 THỐNG KÊ CỦA UNHCR VỀ NGƯỜI VIỆT VƯỢT BIỂN…

  1. Quy mô người vượt biển theo UNHCR

Tổng số người rời Việt Nam đường biển 1975–1995

– Khoảng 800.000 – 900.000 người vượt biển (UNHCR tổng hợp qua nhiều báo cáo thập niên 1980–1990).

Số người tới được các nước trong khu vực (ước tính UNHCR)

  • Malaysia: ~255.000
  • Hong Kong: ~143.000
  • Indonesia (Galang): ~122.000
  • Thái Lan: ~80.000
  • Philippines (Bataan): ~40.000
  • Singapore: ~30.000

(Số này bao gồm cả nhập cảnh trực tiếp lẫn cứu vớt trên biển.)

  1. Số người tử vong (ước tính của UNHCR)

UNHCR nhiều lần nhấn mạnh không thể xác định chính xác số tử vong do:

  • Không có hồ sơ chính thức.
  • Nhiều thuyền mất tích hoàn toàn.

Các ước tính UNHCR đưa ra ở nhiều báo cáo:

  • 200.000 – 400.000 người chết trên biển.

(Bao gồm chết đuối, bão tố, khát nước, đói, bệnh, cướp biển.)

Một báo cáo của UNHCR năm 1985 cho biết:

  • Tỉ lệ tử vong có nơi lên tới 40–70% trên một số tuyến vượt biển.
  1. Cướp biển (UNHCR: Pirate Attacks in the Gulf of Thailand)

UNHCR thống kê trong giai đoạn cao điểm:

  • Hơn 3.000 vụ tấn công cướp biển Thái Lan trong thập niên 1980.
  • Phần lớn thuyền neo đậu hoặc trôi dạt gần vịnh Thái Lan đều bị tấn công ít nhất 1 lần.
  • Hơn 10.000 phụ nữ và trẻ em là nạn nhân bị bạo hành tình dục hoặc bắt cóc (ước tính vì thiếu báo cáo đầy đủ).
  1. Tái định cư (UNHCR Resettlement Statistics)

Khoảng 1,3 – 1,4 triệu người Việt Nam được tái định cư qua UNHCR và chương trình của các nước (bao gồm cả đường không lẫn đường biển).

Trong đó thuyền nhân chiếm khoảng 800.000 – 900.000 người.

Phân bổ:

  • Hoa Kỳ: ~823.000
  • Canada: ~150.000
  • Úc: ~137.000
  • Pháp: ~96.000
  • Các nước Bắc Âu & châu Âu khác: ~50.000+
  1. Trại tị nạn (theo UNHCR & ICM – Comprehensive Plan of Action 1989)

Lớn nhất:

  • Pulau Bidong (Malaysia): đỉnh điểm 40.000–45.000 người
  • Galang (Indonesia): đỉnh điểm ~20.000
  • Hong Kong (Whitehead, Sham Shui Po): ~50.000 giai đoạn 1988–1991

UNHCR ước tính hơn 2 triệu người đã đi qua các trại tị nạn Đông Nam Á trước khi đóng cửa hoàn toàn năm 1996.

  1. Chương trình Hồi hương (UNHCR Repatriation Program)
  • Từ 1989–1996, UNHCR tổ chức hồi hương hơn 110.000 người Việt không được công nhận quy chế tị nạn.
  • Khoảng 93% trong số này là tự nguyện (có hỗ trợ tài chính nhỏ), 7% bị cưỡng chế.

Nguồn: Fb Bảo Tồn Tiếng Việt


 

CAO TRỌNG HƠN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn Gioan!”.

Trong đoản thơ “Những Chiếc Bóng Đổ” – “Shadows” – tác giả chia sẻ: “Thật tuyệt vời khi bạn chạy và ‘những chiếc bóng đổ’ chạy; khi bạn hạnh phúc, ‘những chiếc bóng đổ’ reo; khi bạn ngân nga, ‘những chiếc bóng đổ’ nhại. Chúng chạy theo khi cuộc sống của bạn ngập tràn ánh nắng và hân hoan. Bạn quả là lắm phúc!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Nếu nữ thi sĩ Martha Wadsworth không tiếc lời để nói về ‘những chiếc bóng đổ’ của một người mẹ, thì với Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không tiếc lời làm điều tương tự với Gioan Tiền Hô. Tuy nhiên, Ngài bất ngờ kết luận, “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn Gioan!”. Vậy sẽ có người ‘cao trọng hơn’ Gioan sao?

Đúng thế. Chính chúng ta đây! Chúng ta ‘cao trọng hơn’ Gioan vì Gioan chỉ đứng bên ngoài các mầu nhiệm trong khi chúng ta được ở trong đó. Gioan giới thiệu Đấng Xoá Tội, nhưng chưa thấy Ngài xoá tội cách nào – thập giá; Gioan loan báo Giao Ước Mới, nhưng không sống trong Giao Ước ấy; Gioan nói về Đấng Messia, nhưng không bước vào Triều Đại Thiên Sai; Gioan loan báo Thánh Thần và Nước Trời, nhưng không lãnh nhận Thánh Thần, cũng chưa thấy dung mạo Nước Trời – Giáo Hội; Gioan chỉ về Ánh Sáng, nhưng chưa bao giờ chìm trong Ánh Sáng. “Kitô hữu sống bên trong các mầu nhiệm mà người khác chỉ thoáng thấy!” – Karl Rahner.

Như vậy, chúng ta được trao những ân phúc mà Gioan không hề hưởng nhận. Thánh Thần đổ tràn ân sủng qua các Bí tích; Tin Mừng và toàn bộ Tân Ước mở toang trước mắt; đời sống trong lòng Hội Thánh nơi Chúa Phục Sinh hiện diện; và khả năng trở nên môn đệ của Đấng đã chết và sống lại. Không phải chúng ta lớn hơn Gioan, nhưng những ân phúc chúng ta được ban thì nhiều hơn. Đó là lý do người nhỏ nhất thuộc về Chúa Kitô vẫn ‘cao trọng hơn’ vị tiền hô vĩ đại nhất.

Vậy mà Đức Phanxicô nói, “Hãy xin Gioan ơn can đảm tông đồ để luôn nói sự thật; và ơn yêu thương mục vụ – nghĩa là đón nhận mọi người bằng những gì ít ỏi ta có thể cho đi. Phần còn lại, Chúa sẽ làm!”. Được như thế, hình ảnh “những chiếc bóng đổ” trở nên đẹp lạ; chúng thấy mình nhỏ bé, lặng lẽ, nhưng được ánh sáng Ngài chiếu rọi, phản chiếu tình yêu và hy vọng đến với mọi người, dẫn đưa người khác về với Ánh Sáng thật. “Tình yêu bạn trao đi không bao giờ mất; nó trở thành công trình của Chúa trong đời một ai đó!” – Dietrich Bonhoeffer.

Anh Chị em,

“Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn Gioan!”. Bạn và tôi là những kẻ nhỏ nhất trong Vương Quốc của Đức Kitô trở nên ‘cao trọng hơn’ Gioan không vì sức mạnh hay thành tích, mà vì ánh sáng Ngài toả qua chúng ta. Mỗi hành động thầm lặng, mỗi lời nói yêu thương, mỗi cử chỉ tha thứ đều trở thành dấu chỉ Nước Trời. Từ đó, “những chiếc bóng đổ” nhỏ được nâng lên, và chính trong sự khiêm nhường ấy, chúng ta phản chiếu vinh quang của Đấng Phục Sinh. “Mặt trăng sáng hơn khi nó phản chiếu mặt trời!” – G.K. Chesterton.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con đánh mất sự cao trọng; cho con, ‘chiếc bóng đổ’ lắm phúc nhiều may, biết chia sẻ ân phúc và ‘ánh nắng’ cho những ai vận xúi, vô phúc!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

********************************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần II Mùa Vọng

Chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 11,11-15

11 Khi ấy, Đức Giê-su nói với đám đông rằng : “Tôi nói thật với anh em : trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông. 12 Từ thời ông Gio-an Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được. 13 Cho đến ông Gio-an, tất cả các ngôn sứ cũng như Lề Luật đều đã nói tiên tri. 14 Và nếu anh em muốn chấp nhận, thì ông Gio-an chính là Ê-li-a, người phải đến. 15 Ai có tai thì nghe.”


 

TỪ BI VỚI MÌNH – Sống vui từng ngày

  TỪ BI VỚI MÌNH – Sống vui từng ngày

     Ngậm ngùi bởi tiếc nuối tuổi trẻ đã trôi qua lúc nào không hay! Ngậm ngùi phải chi hồi đó thế này thế khác… Hình như ta chẳng bao giờ thực sống. Lúc còn trẻ, ta mơ ước tương lai, sống cho tương lai. Nghĩ rằng phải đạt cái này cái nọ, có được cái kia cái khác mới là sống. Khi có tuổi, khi đã có được cái này cái nọ, cái kia cái khác thì ta lại sống cho quá khứ! Nhỏ mong cho mau lớn, lớn mong cho nhỏ lại. Quả là lý thú! Tóm lại, ta chẳng biết quý những giây phút hiện tại.

    Từ ngày “thế giới phẳng”, ta còn sống với đời sống ảo. Ta ngồi đây với bạn nhưng chuyện trò với một người nào khác, cười đùa, nhăn nhó, giận dữ, âu yếm với một người nào khác ở nơi xa. Khi bắt lại câu chuyện thì nhiều khi đã lỡ nhịp! Hiểu ra những điều tầm thường đó, tôi biết quý thời gian hơn, quý phút giây hiện tại, ở đây và bây giờ hơn. Nhờ vậy mà không có thì giờ cho già nữa! Hiện tại thì không có già, không có trẻ, không có quá khứ vị lai. Dĩ nhiên, không phải trốn chạy già mà hiểu nó, chấp nhận nó, thưởng thức nó. Khi biết “enjoy” nó thì quả có nhiều điều thú vị để phát hiện, để khám phá.

     Một người 60, tiếc mãi tuổi 45 của mình, thì khi 75, họ sẽ tiếc mãi tuổi 60, rồi khi 80, họ sẽ càng tiếc 75! Vậy sao ta đang ở cái tuổi tuyệt vời nhất của mình lại không yêu thích nó đi, sao cứ phải….nguyền rủa, bất mãn với nó. Có phải tội nghiệp nó không? Ta đang ở cái tuổi nào thì nhất định tuổi đó phải là tuổi đẹp nhất rồi, không thể có tuổi nào đẹp hơn nữa!

     Ta cũng có thể gạt gẫm mình chút đỉnh như đi giải phẫu thẩm mỹ chẳng hạn. Xóa chỗ này, bơm chỗ nọ, lóc chỗ kia. Nhưng nhức mỏi vẫn cứ nhức mỏi, loãng xương vẫn cứ loãng xương, tim mạch vẫn cứ tim mạch… Cơ thể ta cứ tiến triển theo một “lộ trình” đã được vạch sãn của nó, không cần biết có ta! Mà hình như, càng nguyền rủa, càng bất mãn với nó, nó càng làm dữ. Trái lại nếu biết thương yêu nó, chiều chuộng nó một chút, biết cách cho nó ăn, cho nó nghỉ, biết cách làm cho xương nó cứng cáp, làm cho mạch máu nó thông thoáng, làm cho các khớp nó trơn tru thì nó cũng sẽ tử tế với ta hơn. Anh chàng Alexis Zorba nói: “Cũng phải chăm nom đến thân thể nữa chứ, hãy thương nó một chút. Cho nó ăn với. Cho nó nghỉ với. Đó là con lừa kéo xe của ta, nếu không cho nó ăn, nó nghỉ, nó sẽ bỏ rơi mình ngang xương giữa đường cho mà coi” (Nikos Kazantzaki).

     Từ ngày biết thương “con lừa” của mình hơn, tử tế với nó hơn, thì có vẻ tôi… cũng khác tôi xưa. Tôi biết cho con lừa của mình ăn khi đói, không ép nó ăn lúc đang no, không cần phải cười cười nói nói trong lúc ăn. Món gì khoái khẩu thì ăn, chay mặn gì cũng tốt. Cá khô, mắm ruốc gì cũng được, miễn là đừng nhiều muối quá! Một người cô tôi mắc bệnh “ăn không được”, “ăn không biết ngon” vậy mà vẫn béo phì, đi không nổi, là bởi vì các con thương bà quá, mua toàn sữa Mỹ mắc tiền cho uống ! Sữa giàu năng lượng, nhiều chất béo bổ quá, làm sao còn có thể ăn ngon, làm sao không béo phì cho được? Giá nghèo một chút còn hay hơn! Cá kho quẹt, rau muống mà tốt, miễn bà ăn thấy ngon, thấy sướng! Tôi cũng biết cho con lừa của mình ngủ hơn. Ngủ đầy giấc, đủ giấc. Ngủ đủ giấc là cơ hội tốt nhất cho các tế bào não phục hồi, như sạc pin vậy. Sạc không đủ ma đòi pin ngon lành sao được !

     Bảy trăm năm trước, Trần Nhân Tông viết: Cơ tắc xan hề khốn tắc miên! (Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền!) trong bài Cư trần lạc đạo, (ở đời mà vui đạo)! Ông là vị vua nhà Trần sớm nhường ngôi cho con, lên tu ở núi Yên Tử, Tổ sư thiền phái Trúc Lâm. Tu hành như vậy mà khi quân Nguyên xâm lấn nước ta, ông liền xuống núi, ra tay dẹp giặc, xong, phủi tay lên núi tu tiếp !

     Mỗi người có đồng hồ sinh học của riêng mình, không ai giống ai, như vân tay vậy, cho nên không cần bắt chước, chỉ cần lắng nghe mình. Phương pháp này, phương pháp nọ của người này người kia bày vẽ chẳng qua cũng chỉ để tham khảo, nắm lấy nguyên tắc chung thôi, rồi áp dụng vào hoàn cảnh riêng cụ thể của mình, tính cách mình, sinh lý mình. Phương pháp nào có sự ép buộc cứng ngắc quá thì phải cảnh giác!

    Cũng nhớ rằng tới tuổi nào đó, tai ta sẽ bắt đầu kém nhạy, mắt bắt đầu kém tinh, đấu óc bắt đầu kém sắc sảo. Tai kém nhạy để bớt nghe những điều chướng tai. Mắt kém tinh để bớt thấy những điều gai mắt. Đầu óc cứ sắc sảo hoài ai chịu cho nổi! Tuy vậy, tai kém mà muốn nghe gì thì nghe, không thì đóng lại; mắt kém mà muốn thấy gì thì thấy, không thì khép lại. Thế là “căn” hết tiếp xúc được với “trần”. Tự dưng không tu hành gì cả mà cũng như tu, cũng thực tập ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm!

     Rồi một hôm đẹp trời nào đó ta còn có thể phát hiện mắt mình chẳng những nhìn kém mà còn thấy những ngôi sao lấm chấm, những lốm đốm hoa trên bầu trời trong xanh vời vợi kia. Nếu không phải do một thứ bệnh mắt nào đó thì đây hẳn là hiện tượng thoái hóa của tuổi già, nói nôm na là xài lâu quá, hết thời hạn bảo hành. Cái mà người xưa gọi là “hoa đốm hư không” chính là nó. Tưởng hoa đốm của trời, ai dè trong mắt mình! Chỉnh cái “tưởng” của ta nhiều khi làm hại ta. Biết vậy ta bớt mất thì giờ cho những cuộc tranh tụng, bớt tiêu hao năng lượng vào những chuyện hơn thua. Dĩ nhiên có những chuyện phải ra ngô ra khoai, nhưng cái cách cũng đã khác, cái nhìn đã khác, biết tôn trọng ý kiến người khác, biết chấp nhận và nhìn lại mình.

     Khi 20 tuổi người ta băn khoăn lo lắng không biết người khác nghĩ gì về mình. Đến 40 thì ai nghĩ gì mặc họ. Đến 60 mới biết chả có ai nghĩ gì về mình cả! Tóm lại, chấp nhận mình là mình và từ bi với mình một chút. Nhưng muốn vậy, phải… chuyển đổi cách thở. Thở ư? Đúng vậy! Một bác sĩ có thể biết rất nhiều về bộ máy hô hấp, về cơ thể học, sinh lý học, bệnh lý học của bộ máy hô hấp nhưng chưa chắc đã biết thở !

 ******************

Già

Lâu nay cứ tưởng mình già

Bây giờ mới biết quả là y chang

Suốt ngày nói chuyện thuốc thang

Gặp nhau lại kể cả tràng chuyện xưa

Tivi dỗ giấc ngủ trưa

Sức khoẻ lại giảm, mắt mờ, da nhăn

Đọc chữ phóng đại mấy trăm

Lại còn đãng trí, tần ngần, hay quên

Cả ngày mỏi mắt đi tìm

Hết tìm khoá cửa lại tìm khoá xe

Nhiều hôm thăm viếng bạn bè

Được dăm ba phút nằm phè ngủ ngon

Tóc bạc chen chúc tóc non

Không dám nhổ nữa sợ còn bình vôi

Kiến thức mới nuốt chẳng trôi

Bước ra khỏi cửa trùm người áo len

Ra đường chẳng ai gọi tên

Cứ gọi chú, bác có phiền hay không ?

Khi lên xe buýt dẫu đông

Dăm người nhường chỗ ‘Mời ông cứ ngồi

Lại hay nhạy cảm, tủi đời

Thích được săn sóc hơn thời ngày xưa

Thấy tình nhân trẻ vui đùa

Mà lòng chua xót phận vừa cuối thu

Suốt ngày trung tiện lu bù

Cơm thì phải nhão, phở cho thật mềm

Thích nghe tiếng hỏi, lời khen

‘Lúc này thon thả, trẻ hơn dạo nào’

Thức ăn cứ lấy ào ào

Ăn thì chẳng nổi mà sao cứ thèm

Ngủ trưa giấc cứ dài thêm

Đứng, ngồi, ‘chuyện ấy’ ngày thêm chậm rì

Đánh răng, tìm thuốc loai gì

Để răng được trắng không thì khó coi

Cà phê chỉ hớp một hơi

Đêm về trắng mắt nhìn trời đếm sao

Gặp người cùng tuổi như nhau

Thường hay hỏi ‘Bác thế nào ? Khoẻ không?’

Cell Phone thì khổ vô ngần

Lúng ta lúng túng thường không trả lời

Để chuông reo mãi một hồi

Mở ra thì đã chậm rồi còn đâu ?

Bệnh tật nó đến từ đâu

Cao mỡ, cao máu lâu lâu … tiểu đường

Tránh né việc nặng là thường

Việc nhẹ thì cũng đau xương, mệt nhoài

Đi chơi càng khổ gấp hai

Đi đâu cũng ngại đường dài lái xe

Giữ thân cho khỏi tròn xoe

Vòng hai sao cứ bè bè phình to

Thang lầu càng nghĩ càng lo

Chỉ sợ trượt ngã khổ cho thân này

Ngủ thì chẳng ngủ được say

Bốn năm giờ sáng dậy ngay tức thì

Sinh nhật, sinh nhiếc làm gì

Cái chuyện lẻ tẻ ấy thì nên quên

Vẫn hay nhìn kiếng thường xuyên

Xem chân dung đã trở nên thế nào

Buồn tình đếm thử xem sao

Bao nhiêu triệu chứng ấy bao nhiêu già!

 Vo Danh

From: Ngoc Bich & KimBang Nguyen


 

NỖI ĐAU KHÔNG CÒN GÌ ĐỂ MẤT… – BS Xuân Sơn Võ

Việt Luận – Viet’s Herald

BS Xuân Sơn Võ

“… Đặt mình vào vị trí người dân ở đây, có lẽ sẽ cảm thấy đau lắm, khi phải chịu mất mát, mà không phải do mình ẩu, cũng không phải do Trời phạt mình. Mất chỉ vì thằng khác ẩu. Mà nó không ẩu để gây hậu quả cho nó, cho cha mẹ nó, cho vợ con nó. Nó ẩu mà nó gây hậu quả cho bà con mình, cho bản thân mình, và gia đình mình… Nó lời một đồng, nó làm người ta mất hết tài sản. Nó ăn một miếng, còn người ta thì mất mạng…”

Một trong các thắc mắc mà mấy anh em chúng tôi cứ hỏi nhau hoài, là làm sao có thể tính được thiệt hại vật chất trong vụ lũ lụt vừa qua ở những nơi chúng tôi đến, tại Khánh Hòa, tại Phú Yên?

Mất sạch. Có lẽ đó là khái niệm chung nhất của bà con ở những vùng lũ lụt nặng. Nhưng mất sạch theo quan niệm chung, là mất những cái “động sản”, còn những thứ thuộc về “bất động sản” thì đâu có mất đi đâu. Nhưng không. Truyền thông đưa tin, nơi có 7 cái trang trại nuôi heo bò gà vịt đã bị biến thành một dòng sông. Ngay cả bất động sản cũng bị lũ cuốn trôi luôn.

Mất sạch ở đây cần được hiểu rằng, có gì mất nấy. Có ít mất ít, có nhiều mất nhiều. Có càng nhiều mất lại càng nhiều. Sau lũ, ai cũng trắng tay, ai cũng bắt đầu lại với hai bàn tay trắng… bệch. Cứu trợ bao nhiêu cho đủ, đền bù bao nhiêu cho đủ. Tiền tỉ mang ra đó, cũng chỉ như muối bỏ biển, chẳng thấm tháp vào đâu. Cái gì cũng phải mua lại, từ cây kim, sợi chỉ, đến xong nồi, chén dĩa, đũa muổng…

Anh Toàn, chủ một cơ sở bida thuộc hàng top đầu ở Tuy Hòa, Phú Yên với 20 cái bàn bida phải bỏ đi, phải thay mới hoàn toàn. Đi trên đường Võ Nguyên Giáp ở Nha Trang, bạt ngàn xe hơi chờ sửa sau khi bị ngập. Ngay trong thành phố Nha Trang, cứ chỗ nào thấy xe hơi xếp hàng dài, lớp trong lớp ngoài, là y như rằng ở đó có cái garage, xe xếp hàng đó để chờ đến lượt vô sửa. Đi trên cao tốc, ngoài các chuyến xe cứu trợ có gắn bandrole, thì nhiều thứ nhì là những chuyến xe cứu hộ, kéo những chiếc xe bị lũ đi từng đoàn, từng đoàn… theo hướng ngược lại.

Nhiều tỉnh đã phải điều xe rác đến Khánh Hòa, Phú Yên để giúp dọn rác. Dân ở đây làm gì mà lắm rác vậy? Không, đó là của cải, là tài sản, là mồ hôi, là nước mắt… của bao nhiêu người dân, bị lũ lụt biến thành rác. Chứng kiến một chỗ người ta đốt rác, trong đó lỏng chỏng tủ lạnh, TV… Không chỉ có cảm giác xót ruột. Của cải, tài sản không phải của mình, nhưng sống mũi cứ cay cay, lái xe nhìn đường cứ nhòe đi.

Đặt mình vào vị trí người dân ở đây, có lẽ sẽ cảm thấy đau lắm, khi phải chịu mất mát, mà không phải do mình ẩu, cũng không phải do Trời phạt mình. Mất chỉ vì thằng khác ẩu. Mà nó không ẩu để gây hậu quả cho nó, cho cha mẹ nó, cho vợ con nó. Nó ẩu mà nó gây hậu quả cho bà con mình, cho bản thân mình, và gia đình mình… Nó lời một đồng, nó làm người ta mất hết tài sản. Nó ăn một miếng, còn người ta thì mất mạng.

Đau hơn nữa, là biết vậy, mà vẫn cứ phải cắn răng chịu mất, cứ phải chống mắt nhìn nó ăn, nhìn nó kiếm tiền, nhìn bà con mình bỏ mạng, nhìn của cải, đồ đạc mất sạch, nhìn hai bàn tay trắng bệch…

BS Xuân Sơn Võ