Đây là câu chuyện như cổ tích giữa đời thường

Nguyen Ngoc Anh

   Đây là câu chuyện như cổ tích giữa đời thường

Ngày ấy, một cậu bé mồ côi Nigeria lạc lõng trên đường phố, chẳng ai nghĩ có ngày em sẽ khoác lên mình chiếc áo cử nhân. Nhưng nhờ vòng tay yêu thương của một người phụ nữ Anh nhân hậu, cuộc đời em sang trang: được đi học, được sống, được ước mơ.

Và hôm nay, em đã tốt nghiệp đại học. Một hành trình đầy nghị lực, nhân văn và khiến ai nghe cũng rưng rưng. Xin chúc mừng em – chàng trai từng không có gì, nay đã có cả tương lai

Hình Copy từ fb Tony trần cuộc sống Mỹ.

Cám ơn người phụ nữ nhân hậu


 

 Một chút bất cẩn ?!-Truyen ngan HAY

Tôi đi vòng trong một tiệm Target và chứng kiến cảnh người thu-ngân đang trao lại một số tiền cho cậu bé. Cậu chỉ độ 5 hay 6 tuổi.

– Người thu- ngân nói, Rất tiếc là em không có đủ tiền để mua con búp-bê này.

– Đoạn cậu bé quay sang bà cụ đứng cạnh: 

Bà à, bà có chắc là con không có đủ tiền không bà?

– Bà cụ đáp: Con à, con biết là con không có đủ tiền để mua con búp-bê này mà. Rồi bà cụ bảo cậu bé cứ đứng đó chờ 5 phút, bà đi một vòng ra khỏi tiệm, bà đi như rất vội…

– Cậu bé vẫn cầm con búp-bê trong tay chờ.. 

Cuối cùng, tôi bước đến cậu bé và hỏi là cậu muốn tặng con búp-bê này cho ai?

– Đây là con búp bê mà em gái của con yêu thích lắm và ước ao có được trong Giáng Sinh này. Em ấy tin là Ông già Noel sẽ mang quà này lại cho em ấy.

– Tôi trả lời cậu bé rằng : Thế nào Ông già Noel rồi cũng sẽ mang lại cho em con, con đừng lo.

– Nhưng cậu bé trả lời buồn bã:

Không, Ông già Noel không mang đến chỗ em đang ở được. Con phải trao con búp-bê này cho mẹ con, rồi mẹ con mới có thể trao lại cho em con khi mẹ đến đó… 

…. Đôi mắt cậu bé thật buồn khi nói những lời này. Em con đã trở về với Chúa. Ba con bảo là mẹ cũng sắp về với Chúa, bởi vậy con nghĩ là mẹ có thể mang con búp-bê này theo với mẹ để trao lại cho em con.

– Tim tôi như muốn ngừng đập..

– Cậu bé nhìn lên tôi và nói: Con nói với ba là hãy bảo mẹ đừng có đi vội. Con muốn mẹ con hãy chờ con đi mang con búp bê về rồi hãy đi. Rồi cậu lấy ra cho tôi xem một tấm ảnh trong đó cậu đang cười thích thú. Con cũng muốn mẹ mang theo tấm ảnh này của con để mẹ sẽ không quên con. Con thương mẹ con và mong ước mẹ không phải bỏ con để đi, nhưng ba con nói là mẹ phải đi để ở cạnh em của con. Rồi cậu bé lặng thinh nhìn con búp-bê buồn bã.

– Tôi vội vàng tìm ví bạc trong túi và nói với cậu bé: Hãy thử coi lại xem, biết đâu con lại có đủ tiền mua con búp-bê này thì sao?

– Dạ,  cậu bé đáp, con mong là có đủ tiền.

– Không cho cậu bé thấy, tôi kẹp thêm tiền vào mớ tiền của cậu bé, và chúng tôi cùng đếm. Chẳng những đủ số tiền cho con búp-bê mà còn dư thêm một ít nữa.

– Cậu bé nói: Cảm ơn Chúa đã cho con đủ tiền!

Rồi cậu nhìn tôi và nói thêm, tối qua trước khi đi ngủ, con đã hỏi xin Chúa hãy làm sao cho con có đủ tiền để mua con búp-bê này để mẹ con có thể mang đi cho em con. Chúa đã nghe lời cầu xin của con rồi.. và con cũng muốn có đủ tiền mua hoa hồng trắng cho mẹ con, nhưng không dám hỏi xin Chúa nhiều. Nhưng Ngài lại cho con đủ tiền để mua búp-bê và hoa hồng trắng nữa..!.

“Mẹ con yêu hoa hồng trắng lắm.”

 Vài phút sau bà cụ trở lại, dường như để giúp cậu bé và tôi cũng rời khỏi tiệm.

 Tôi làm xong việc mua sắm trong một trạng thái hoàn toàn khác hẳn với khi bắt đầu vào tiệm. Và tôi không thể rứt bỏ hình ảnh của cậu bé ra khỏi tâm trí tôi…

….Đoạn tôi nhớ lại một bài báo trong tờ nhật báo địa phương cách đây hai hôm. Bài báo viết về một tài xế say rượu lái xe vận tải đụng vào xe của một thiếu phụ và một bé gái nhỏ. Đứa bé gái chết ngay tại hiện trường, còn người mẹ được đưa đi cứu cấp trong tình trạng nguy kịch. Gia đình phải quyết định có nên rút ống máy trợ – sinh khỏi bệnh nhân hay không ? Vì người thiếu phụ này không còn có thể hồi tỉnh ra khỏi cơn hôn mê. 

Phải chăng đấy là gia đình của cậu bé??

 Hai ngày, sau khi gặp cậu bé, tôi đọc thấy trên báo là người thiếu phụ ấy đã qua đời…

 Tôi bị một sự thôi thúc và đã mua một bó hoa hồng trắng rồi đi thẳng đến nhà quàn, nơi tang lễ của người thiếu phụ đang diễn ra và mọi người cũng đến nhìn mặt người quá cố lần cuối cùng..

Cô nằm đó, trong cỗ áo quan, cầm trong tay một cành hoa hồng màu trắng với tấm ảnh của cậu bé và con búp-bê được đặt trên ngực của cô…

 Tôi rời nơi đó, nước mắt lưng tròng, cảm giác rằng đời tôi đã vĩnh viễn thay đổi. Tình yêu của cậu bé dành cho mẹ và em gái cho đến ngày nay thật khó mà tưởng tượng..

Và tôi cũng hiểu ra rằng, chỉ vì trong một phần nhỏ của một giây đồng hồ, một gã lái xe say rượu, hay một người lái xe bất cẩn nào đó, đã lấy đi tất cả những gì thân thiết nhất của cuộc đời cậu bé…

 Bài sưu tầm.

From: haiphuoc47 & NguyenNThu


 

BIẾT ƠN – Lm. Mark Link, S.J. 

Lm. Mark Link, S.J. 

Bà Dorothy Day là một người trở lại Công Giáo khi đã lớn tuổi.  Cuộc đời bà đáng được Hollywood dựng thành phim.  Khi bà từ trần năm 84 tuổi, tờ New York Time đã không do dự gọi bà là người có ảnh hưởng nhiều nhất trong lịch sử Công Giáo Hoa Kỳ.

 Sau cái chết của bà, đã có một phong trào vận động để tuyên thánh cho bà, nhất là vì những gì bà đã làm cho người nghèo và người tuyệt vọng ở Nữu Ước.

 Cách đây không lâu, tờ America đã phỏng vấn bà Eileen Egan, một người bạn thân của bà Dorothy.  Một trong những câu hỏi mà người phóng viên đặt ra với bà Eileen là “Điều gì đặc biệt nhất khi bà nghĩ đến bà Dorothy?” 

Không chút do dự, bà Eileen đáp, “Đó là tinh thần biết ơn.” Và bà đã đưa ra một thí dụ. 

Vào một ngày trời lạnh, cả hai đang ở trên chiếc xà lan.  Bà Dorothy chỉ khoác chiếc áo mỏng.  May mắn, bà có mang theo tờ báo nên bà lấy quấn quanh người bên dưới áo khoác.  Khi làm như vậy, bà mỉm cười và nói, “Tôi cảm ơn những người vô gia cư đã dạy tôi cách này để giữ ấm thân thể.” 

Bà Eileen nói thêm, “Bất cứ ở đâu, bà Dorothy đều tìm lấy lý do nào đó để cảm tạ.  Thí dụ, có lần bà nói, tôi biết ơn Chúa Giêsu đã đến sống trên mặt đất này đến độ đôi khi tôi cảm thấy muốn quỳ xuống hôn đất, chỉ vì chân của Chúa đã chạm đến nó.” 

Trên mộ bia của bà Dorothy ở Staten Island, hai chữ đi liền với tên của bà là: Deo Gratias, đó là “Tạ ơn Chúa.”  Chính bà đã yêu cầu khắc dòng chữ này. 

Câu chuyện của bà Dorothy đã dẫn chúng ta đến câu chuyện của mười người phong hủi trong bài Phúc Âm hôm nay vì câu chuyện của bà nhấn mạnh đến hai điểm quan trọng về sự biết ơn. 

Thứ nhất, nó phải chân thành.  Thứ hai, nó phải được thành tâm bày tỏ.  Thái độ biết ơn người vô gia cư của bà Dorothy vì họ đã dạy bà cách giữ ấm thân thể, và bà biết ơn Chúa Giêsu vì đã xuống thế làm người, cả hai đều chân thành và được thành tâm bày tỏ. 

Trong Phúc Âm hôm nay sự biết ơn của chín người phong hủi không trở lại cám ơn có lẽ thành tâm.  Chúng ta không biết. 

Nhưng chúng ta biết chỉ có một người trở lại bày tỏ sự biết ơn trong một phương cách chân thành.  Ông ta phủ phục dưới chân Chúa Giêsu. 

Một lớp học sinh trung học đang chuẩn bị thảo luận về bài Phúc Âm hôm nay.  Để bắt đầu, thầy giáo yêu cầu họ trả lời trên giấy hai câu hỏi sau:
Thứ nhất, đã bao lâu bạn chưa cám ơn cha mẹ vì điều gì đó?
Thứ hai, bạn cám ơn các đấng vì điều gì? 

Tôi muốn chia sẻ với các bạn hai câu trả lời của hai học sinh.  Câu trả lời thứ nhất viết: 

Lần sau cùng tôi nhớ đã cám ơn cha mẹ vào khoảng một tuần trước đây.  Tôi cám ơn mẹ tôi đã giúp tôi làm bài tập.  Tôi nhớ là bà đã tốn vài giờ đồng hồ.  Một tuần sau khi tôi đã nộp bài, bà còn đem về nhà các tài liệu liên quan đến đề bài và nói, “Những cái này cốt để cho con biết thêm.”

 Câu trả lời của học sinh thứ hai như sau: 

Tôi nhớ lần sau cùng cám ơn cha mẹ thì cách đây vài tuần.  Tôi sửa soạn đi chơi tối thứ Bẩy và để cha tôi ở nhà một mình, vì mẹ tôi đã từ trần hồi mùa hè qua.  Trước khi rời nhà, tôi đến với ông và đặt tay lên vai ông một cách thân mật.  Tôi không nói gì, nhưng tôi biết ông hiểu là tôi cám ơn ông vì đã cho phép tôi đi chơi. 

Tôi không biết các bạn nghĩ sao, nhưng tôi thấy hai câu trả lời này thật cảm động. 

Cả hai trường hợp, sự biết ơn của các học sinh thật chân thành.  Và trong cả hai trường hợp, sự biết ơn được bầy tỏ trong một phương cách nồng hậu và thành tâm. 

Điều đó đưa chúng ta đến việc cử hành Thánh Lễ hôm nay. 

Các câu chuyện của bà Dorothy Day, của các học sinh, và mười người phong hủi đã mời gọi chúng ta kiểm điểm lại thái độ biết ơn của chúng ta và cách bày tỏ sự biết ơn ấy. 

Thí dụ, có một chi tiết đáng kể trong câu chuyện Phúc Âm khiến chúng ta phải để ý.  Đó là nhận xét của Chúa Giêsu về người phong hủi trở lại cám ơn lại là người Samaritan. 

Qua chi tiết này, Chúa Giêsu muốn nói chín người kia là Do Thái.  Có thể nói, họ là người đồng hương của Chúa.  Bạn mong đợi họ tỏ lòng biết ơn nhau, nhưng họ đã không làm như vậy. 

Điều này cũng thường đúng với chúng ta.  Khi cần phải biết ơn gia đình, chúng ta thường cho đó là hành động đương nhiên khỏi phải nói lên.  Và, thật không may, chúng ta cũng thường hành động như vậy khi đối với Thiên Chúa.

 Có người nói khi coi sự biết ơn là đương nhiên – không bày tỏ ra bên ngoài – thì cũng giống như chúng ta nháy mắt ra hiệu cho nhau trong bóng tối.  Bạn biết khi bạn nháy mắt với họ, nhưng họ không thấy điều đó. 

Và vì thế, khi chúng ta trở về với bàn thờ, có lẽ chúng ta cần dành thời giờ để cảm tạ Thiên Chúa vì đã sai Con của Người xuống trần gian. 

Và chúng ta có thể tỏ lòng biết ơn qua việc cử hành Thánh Lễ một cách sốt sắng, một cách thành tâm.

Chúng ta hãy kết thúc bài giảng hôm nay với lời của Ngôn Sứ Isaia:

 “Hãy cảm tạ Thiên Chúa!…
Hãy nói với mọi dân tộc về những điều Người đã thực hiện.
Hãy nói với họ Người thật vĩ đại dường bao!
Hãy hát lên ca tụng Thiên Chúa vì những việc trọng đại Người đã thực hiện.”
Is 12:4-5 

Lm. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim


 

Yêu thương và tha thứ – Phùng Văn Phụng

Yêu thương và tha thứ

Bài này đặc biệt gởi cho học trò cũ, vì lúc còn ở Việt Nam cũng như khi qua Mỹ đã làm việc cật lực, đã hy sinh, lo lắng, giúp đỡ rất nhiều cho các em. Các em không biết sự hy sinh đó và đã có những lời nói xúc phạm đến em học trò đó. Từ đó, mấy năm nay rồi, sự xung đột với các em và người cha (vì binh vực các em) vẫn còn âm ỉ, chưa chấm dứt, nên em không ngủ được và bị stress nhiều.

Mời em đọc bài này dầu cũ, nhưng cũng có thể giải tỏa tâm tư, tình cảm của em và lấy SỰ THA THỨ, YÊU THƯƠNG, thực hành lời dạy của thầy Chí Thánh là Đức Giêsu Kitô để đời sống hiện tại vui vẻ, BÌNH AN tìm lại được sự THANH THẢN của tâm hồn trong đời nay và HẠNH PHÚC Vĩnh Cửu ở đời sau, rồi chúng ta sẽ gặp lại trong ngày sau hết.(Kinh Tin Ki’nh)

********

Yêu thương và tha thứ

 Trong một cuộc phỏng vấn giữa hằng mấy ngàn bác sĩ y khoa với câu hỏi:

Trong số các bệnh nhân đến phòng mạch bác sĩ trong tuần, có bao nhiêu phần trăm bác sĩ thấy mình có đủ khả năng để điều trị cho họ?

Câu trả lời bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc.

Các bác sĩ trả lời rằng: Trong số 100 bịnh nhân thì chỉ có độ 10 người là chúng tôi nghĩ mình có đủ khả năng điều trị thôi! Còn 90 bệnh nhân kia cũng là những ngườí đau ốm thực sự. Nhưng bệnh của họ không phải là thứ bệnh về thể lý mà về tâm lý.

Bệnh họ là tâm bệnh không thể điều trị theo phương pháp y khoa.

Cội rễ cơn bệnh của họ là LÒNG GIẬN DỮ, HẰN THÙ, GHEN GHÉT và những điều khác như vậy.

Về các vấn đề như thế, chúng tôi, giới y sĩ đã không được dạy và chuẩn bị để đối phó khi còn đi theo học ở nhà trường y khoa”. Trích lịch phụng vụ Nhâm Dần 2022 (trang 125-126)

*Đa số người bịnh do tâm lý mà ra. Do thù hằn, ghen ghét, giận dữ, bất mãn người khác thành ra tâm hồn không ổn định, sinh ra mất ngủ, đau đớn về thể xác và đau đớn về tâm hồn, mà đau đớn về tâm hồn mới là quan trọng, sinh ra đủ thứ bịnh tật ung thư, đau dạ dày, trầm cảm v.v…

Cho nên để có thể được mạnh khỏe về thể xác hầu có tâm hồn vui vẻ, thoải mái nên đọc và thực hành thường xuyên Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô dạy rằng: “Đem yêu thương vào nơi oán thù, Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp…”

*Dụ ngôn người Cha nhân lành, yêu thương người con thứ, sau khi đứa con hư hỏng này tiêu hết nửa gia tài của người cha, trở về xin cha tha thứ làm cho chúng ta liên tưởng đến lòng thương yêu vô tận của Cha trên trời đối với chúng ta nếu chúng ta biết yêu thương, tha thứ, chúc phúc, cầu nguyện cho những người đã ngược đãi chúng ta. (Lc15,1-3 và 11-32)

Yêu thương, tha thứ không dễ dàng đâu. Nhưng nếu chúng ta cầu nguyện thật nhiều xin Chúa giúp sức, trông cậy vào Chúa thì chúng ta có thể làm được, vì sao vậy?

Vì nếu chúng ta không yêu thương và tha thứ cho người khác, (người đã làm hại chúng ta), thì người thiệt thòi trước tiên là chúng ta. Nếu chúng ta nuôi hận thù, điều trước tiên chúng ta chịu đựng là ăn không ngon, ngủ không yên. Thời gian dài mất ngủ sẽ sinh ra bịnh hoạn, được gọi là tâm bịnh. Tâm bịnh thì không có thuốc thang nào chữa được.

*Rũi ro khi ra đi với tâm trạng không yên, lòng chất chứa hận thù thì làm sao linh hồn ta thanh thoát, bình an được?

Muốn có thiên đàng trần thế này và thiên đàng vĩnh cửu mai sau không còn cách nào khác là thực tập yêu thương, tha thứ mỗi ngày.

Phùng Văn Phụng

CÁI GIÁ CỦA TUYÊN TRUYỀN NHỒI SỌ – Dương Quốc Chính

THÔNG LUẬN

Dương Quốc Chính

Trước đến giờ đảng ta vẫn có bài tuyên truyền nhồi sọ. Chơi kiểu ấy là chơi dao 2 lưỡi. Bởi vì đến ngày nào đó, vì sự phát triển, vì ngoại giao hay vì lý do nào đó, muốn cho nhân dân được biết sự thật trái ngược với nội dung đã tuyên truyền thì cực kỳ khó, cần có 1 độ trễ rất lâu, có thể đến hàng chục năm, để tuyên truyền ngược trở lại. Nó giống như cái cành cây bị uốn cong từ bé cho “đẹp” bởi “nghệ nhân cây cảnh”, muốn uốn thẳng lại cho tự nhiên rất mất công, vớ vẩn là gẫy cành.

Ví dụ như ngày thành lập đảng ban đầu là 6/1, sau 30 năm mới đổi sang 3/2. Chuyện đó không đến nỗi nhạy cảm nhưng cũng phải chờ cho thế hệ lãnh đạo đảng đầu tiên chết vãn rồi mới dám thay đổi. Không lẽ 30 năm mới biết là nhầm ngày, trong khi chính bác mình chủ trì việc thành lập đảng chứ ai?!

Hay chuyện anh Tám Lê, giờ cũng chả dám công bố sự thật, cứ lẳng lặng kệ mẹ bọn PĐ tuyên truyền cho dân biết. Đảng im, sợ dân sốc.

Rồi chuyện xe tăng nào vào dinh Độc lập đầu tiên nữa. Trót chỉ đạo cho lãnh đạo có công to nhất rồi, giờ đổi công lại cho ông lính thì phức tạp quá. Hóa ra lãnh đạo cướp công của lính? Thôi đành vùi sâu chôn chặt. Ai ngờ bọn nhà báo cứ chọc thối, nên đành công bố sự thật.

Hay như việc công bố ngày bác Hồ chết, nó không hề nhạy cảm khi nói ra sự thật. Nhưng cũng phải mất 20 năm mới dám công bố sự thật, đó cũng là sau đổi mới, tư tưởng cũng đã cởi mở hơn.

Chuyện phức tạp hơn nhiều lần là duy trì việc ướp xác. Bao năm nay đã tuyên truyền về việc PHẢI ướp xác rồi, giờ muốn thiêu là cực kỳ khó, bởi đồng bào quen với việc đi viếng lăng rồi, lại càng quen với việc sùng bái cá nhân bác. Nên giờ đố ông quan đương chức nào dám mở mồm đòi thực hiện đúng di nguyện của CT HCM. Thế nên chắc các ông đương mới phải xúi các ông cựu/hưu trí nói ra chuyện đó. Vừa rồi có ông Bin (cựu thứ trưởng) và ông Nghị (cựu bí thư HN). Nhưng mà các báo chính thống cũng ko dám đăng tin. Như kiến nghị của ông Nghị chỉ có tạp chí Xưa và Nay của Hội KH Lịch sử dám đăng. Mà TC đó có mấy ai đọc đâu. Bần nông và mấy ông CCB vào sinh ra tử mà đọc được thì sẽ đào cả mả bố tổng biên tập lên.

Tương tự vậy, về danh xưng “Ngụy”. Mình đoán thực tâm thì đảng và Tuyên giáo cũng muốn bỏ từ đó lâu rồi, thực tế báo chí CM mấy năm nay không còn dùng phổ biến nữa. Thể hiện rõ nhất khi viết về đám tang ông Nguyễn Hữu Hạnh vừa rồi, KHÔNG 1 tờ báo nào dám dùng từ Ngụy nữa. Kể cả báo đảng từ TƯ đến địa phương.

Nhưng đảng cũng chả dám ra 1 văn bản chính thức nào về việc từ bỏ danh xưng “Ngụy” để chỉ VNCH. Vì trót nhồi sọ nhân dân lâu quá rồi, bây giờ mà ra văn bản đấy, khéo bò đỏ nó biểu tình chứ chả phải mít tinh nữa đâu. Thế nên đảng mới chơi bài lẳng lặng xúi anh em sử gia sửa lại quốc sử, xóa chữ Ngụy đi. Vụ đấy chăm chăm là có chỉ đạo từ BCT, chứ bố các anh sử gia dám tự tiện. Nhưng mà đảng chơi thế cũng hèn, dám chơi mà không dám chịu, đảng ăn ốc mấy chục năm, giờ đẩy anh em sử gia đổ vỏ, làm cờ đỏ cho bò đỏ húc! Khổ thân anh em, cũng không dám nói ra với bò là bọn tao cũng đã được chỉ đạo rồi, đành đấu khẩu với bỏn. Mà gì thì gì, người húc nhau với bò thì chỉ có thiệt thân.

Việc bỏ khái niệm Ngụy là tất yếu phải làm, lý do cơ bản nhất là để có lý lẽ mà đòi HS TS (mình đã trích dẫn bài viết của Tạp chí Lý luận chính trị, cơ quan ngôn luận của HV Chính trị quốc gia HCM, chỗ đào tạo ra cả TBT và các UV BCT). Bài viết này ngang nhiên công nhận chế độ QGVN và VNCH, cũng ngang nhiên tồn tại mấy năm nay, không bị gỡ, đó chính là sự khẳng định về nhận định bên trên của mình.

Thực tế là thế nhưng tẩy não bò là vô cùng khó, chính đảng cũng phải sợ lũ này, nhất là mấy bố tướng tá, cậy dây tý máu giờ vỗ ngực công thần, nhận mình có chính nghĩa hơn cả đảng!

Mình có xem clip mấy ông tướng và 1 ông TS bò đỏ đòi gặp cả TBT để kiến nghị, bức xúc về việc bỏ từ Ngụy. TBT cáo bận, trưởng ban Tuyên giáo cáo bận, đẩy cmn cho anh Đam phó thủ ra tiếp bò! Đấy là đảng sợ mà đẩy chú phỉnh ra làm cao bồi. Xem clip đó buồn cười phết. Anh Đam dĩ nhiên không tự tin về lịch sử nên phải ngồi với anh gì GS TS Lịch sử, các anh vuốt ve xoa dịu, vuốt mông đàn bò. Đại khái là: “Mình bỏ từ Ngụy đi thôi, để còn dễ ăn nói với bạn bè quốc tế, chứ bản chất bọn kia vẫn là Ngụy mà, anh em cứ yên tâm, chỉ thay đổi cái danh xưng thôi.”

Anh em bò hỉ hả ra về ca khúc khải hoàn. Nhưng mà anh em sử gia vẫn kệ cm bỏn, vẫn chém oang oang là đéo có Ngụy ngiếc gì cả sất, báo chí CM vẫn cứ “quân lực VNCH” với “chính quyền VNCH”, coi bọn bò đúng là bọn bò.

Vừa rồi, chương trình Đối diện của VTV lúc lên sóng cho ông tướng chém gió chửi Ngụy, được đúng 1 hôm là xóa cmn luôn khỏi clip online. Đấy minh chứng của Tuyên giáo có coi bò ra gì đâu. Nhưng mà hèn, đếch dám ra mặt, chơi kiểu vừa đấm vừa xoa. Anh em bò đỏ lại lên cơn bức xúc làm đơn từ kiến nghị với anh Minh VTV, đòi phục hồi clip, mà có ăn thua đâu, bố anh Minh cũng chả dám phục hồi, khéo còn bị kiểm điểm rồi ý!

Anh em bò đỏ hiện đang lập team đấu tố bọn GS lật sử, đòi đốt Ngụy sử mới hài, mấy năm nay CM vẫn chưa thành công!

Điều nguy hiểm nữa khi nuôi bò đỏ, đó là 1 ngày đẹp trời bỏn giác ngộ CM, biết được sự thật. Thế là bỏn chạy từ thái cực này sang thái cực khác, quay ra chửi đảng như chó, vì đảng bịt mắt bịt tai, lừa bịp nó mấy chục năm! Bọn ấy mới manh động, dám giết đảng luôn, vì vẫn còn bầu nhiệt huyết trong người, ưa bạo lực CM.

Tóm lại là đảng nên bỏ cái kiểu tuyên truyền nhồi sọ đi được rồi, có bẻ lái thì cũng bẻ độ 90 độ thôi, chứ cua tay áo nó nguy hiểm lắm. Rồi lộng giả thành chân. Đảng có muốn tuyên truyền lại cho đúng sự thật cũng đếch ai tin đảng nữa. Rồi chính lũ bò do đảng tạo ra sẽ quay lại húc đảng, nếu đảng muốn đổi mới, muốn hòa hợp dân tộc, muốn bắt tay với Mỹ để phát triển đất nước và bảo vệ lãnh thổ (chính là để bảo vệ đảng).

Chính anh em bò đỏ đang là lực cản lớn nhất để đảng thay đổi. Mà cản trở thế chính là chống đảng, chống lại sự phát triển, mà đảng cũng sợ, đếch dám làm thịt bỏn, vì chính mình tạo ra bỏn. Giờ đi mắc núi về mắc sông, nên cải cách rất chi là từ từ, còn chờ bò chết già.

https://www.facebook.com/chinh.duong.quoc.kts


 

Tìm đâu ra những người biết đau và biết nhục

Ba’o Tieng Dan

Trần Trung Đạo

7-10-2025

Milovan Djilas là nhà nghiên cứu lý thuyết Cộng sản và từng là ủy viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản Nam Tư, Phó Chủ tịch Nhà nước Cộng sản Nam Tư, Chủ tịch Quốc hội Cộng sản Nam Tư. Sau khi phản tỉnh ông viết trong tác phẩm Giai Cấp Mới: Một phân tích về hệ thống Cộng sản, xuất bản năm 1957 như sau:

Trong một thời gian dài, đảng Cộng sản cố tình che giấu bản chất của mình. Quá trình hình thành của giai cấp mới không chỉ được che đậy bằng những thuật ngữ xã hội chủ nghĩa mà quan trọng hơn bằng hình thức sở hữu mới, sở hữu tập thể … Bản chất giai cấp của hình thức sở hữu này được che đậy bằng bình phong quyền lợi của toàn dân tộc“. (Giai Cấp Mới, Phạm Minh Ngọc dịch theo bản tiếng Nga, Talawas, 2005).

Cũng trong tác phẩm Giai Cấp Mới, Milovan Djilas viết: “Năm 1936, nhân dịp công bố Hiến pháp mới, Stalin tuyên bố rằng ở Liên Xô đã không còn giai cấp bóc lột, nhưng trên thực tế người ta không chỉ thực hiện xong quá trình thủ tiêu các nhà tư sản và các giai cấp khác của chế độ cũ mà còn thiết lập một giai cấp hoàn toàn mới, chưa từng có trong lịch sử”.

Nhưng câu này của Milovan Djilas mới là chí lý: “Các lãnh đạo Cộng sản xử lý tài sản quốc gia như của riêng họ, nhưng đồng thời họ cũng lãng phí nó như thể nó là của người khác”.

Thời gian dài trôi qua từ khi tác phẩm ra đời nhưng bản chất của chế độ Cộng sản tại năm nước Cộng sản còn lại, trong đó có Việt Nam, vẫn đúng như Milovan Djilas nhận xét.

“Giai cấp mới” hình thành sau cuộc “đấu tranh giai cấp” tại các nước cộng sản, trong đó có Việt Nam. “Giai cấp mới” nắm giữ toàn bộ quyền lực. Tài sản xã hội trở thành tài sản của “giai cấp mới” này.

Sự tiêu pha và lãng phí của họ đã làm cho Việt Nam, một đất nước nhiều tiềm năng, thành là một nước nghèo so với tiêu chuẩn phát triển chung của thế giới. Các thế hệ Việt Nam đã đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu để nuôi dưỡng “giai cấp mới” hoàn toàn không làm một việc gì hữu ích cho xã hội ngoài hút máu dân tộc Việt.

Khái niệm “nhân dân làm chủ” chỉ là một chiếc bình phong để “giai cấp mới” toàn quyền sử dụng tài sản của đất nước như của chính mình, cũng như có toàn quyền lãng phí tài sản đất nước như không phải của mình.

“Giai cấp mới” hình thành bằng phương tiện “bạo lực cách mạng”. Cha đẻ của phương tiện này là Lenin và Felix Dzerzhinsky. Lenin khai triển quan điểm “đấu tranh giai cấp” của Marx trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản nhưng Felix Dzerzhinsky mới là người áp dụng một cách tàn bạo để tiêu diệt mọi mầm mống đối kháng tại Nga sau 1917.

Sergei Melgunov, một sử gia Nga nổi tiếng, chủ bút của tạp chí Tiếng vọng từ Quá khứ (Voice of the Past) và tác giả của nghiên cứu Khủng Bố Đỏ tại Nga 1918-1923 (The Red Terror in Russia 1918-1923) được in lần đầu tại Đức năm 1924, cho biết, danh từ “Red Terror” không phải là tiếng để báo chí hay dân chúng ám chỉ tội ác của Felix Dzerzhinsky hay kết án y, mà danh từ do chính Dzerzhinsky thừa nhận và cơ quan an ninh Cheka đã dùng trong các tài liệu chính thức của tổ chức.

Trong tài liệu của Cheka, mục đích của tổ chức này là “tận diệt mọi kẻ thù của giai cấp vô sản”.

Không riêng đàn ông mà vợ con những người tình nghi là phản cách mạng cũng bị giết. Trong nhiều trường hợp, trẻ em bị xử bắn trước sự chứng kiến của cha mẹ nhưng cũng có khi cha mẹ bị xử bắn trước mắt con cái còn rất nhỏ của họ.

Dzerzhinsky công khai thừa nhận và ủng hộ phương pháp khủng bố: “Chúng ta ủng hộ khủng bố có tổ chức. Khủng bố là một điều cần thiết trong thời kỳ cách mạng. Mục tiêu của chúng ta là chiến đấu chống kẻ thù của Chính quyền Xô Viết và trật tự sống mới. Chúng ta kết án nhanh chóng. Trong hầu hết trường hợp, chỉ cần một ngày, giữa bắt giữ kẻ phạm tội và xử án”.

Do đó, không lạ gì tượng Dzerzhinsky được dựng tại Việt Nam.

Lễ khánh thành tượng Dzerzhinsky ở Hà Nội. Nguồn: Học viện Cảnh sát Nhân dân VN

Milovan Djilas viết về bản chất, nguồn gốc lịch sử hình thành nên “giai cấp mới” nhưng ông có thể đã sót một đặc điểm quan trọng, “giai cấp mới” còn gồm những con người ích kỷ, vô lương tâm và vô cảm.

Mấy năm trước, nhìn bức hình các bà cụ đứng trong cơn mưa tầm tã để nhận một “bằng khen” trong khi chiếc dù duy nhất được dùng để che cho Nguyễn Xuân Phúc để thấy sự băng hoại, thối rữa về đạo đức trong xã hội Việt Nam ngày nay trầm trọng đến mức độ nào.

Nguồn: Internet

Thời gian đó nếu ai phê bình ông Nguyễn Xuân Phúc, có thể bị kết án 15 năm tù dù hôm nay cả nước đều biết các ông Nguyễn Xuân Phúc, Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ v.v.. là ai.

Tham nhũng dưới chế độ Cộng sản không phải phát xuất từ bản chất tham lam của một số người ở đâu cũng có thể có.

Tham nhũng tại Việt Nam có tính đảng vì chính đảng Cộng sản tạo môi trường cho tham nhũng sinh sôi, nuôi dưỡng tham nhũng lớn và tạo điều kiện để tham nhũng hoành hành.

Đối diện với tầng lớp cai trị, bộ máy tuyên truyền và bạo lực trấn áp khủng khiếp và thường trực của chế độ Cộng sản đã biến phần lớn người Việt thành một tầng lớp chỉ biết phục tùng vì mất hết khả năng chống đối.

Trời hành họ còn biết kêu trời nhưng đảng hành thì không ai dám kêu đảng. Nhà tù đang chờ họ. Trấn áp đang chờ họ. Chết đói, chết khát đang chờ họ. Bộ máy kìm kẹp của đảng Cộng sản siết chặt đến mức làm tê liệt ý thức phản kháng của con người. Họ lầm lũi như đoàn nô lệ da đen đi tìm một nơi để gọi quê hương.

Suốt thời gian chịu đựng Covid, hàng triệu người dân phải đã trở về trong căn nhà trơ trọi và bên ngoài mùa mưa đang đến, nước lụt đang dâng. Có tiếng than, tiếng khóc nửa đêm nhưng tuyệt nhiên không có tiếng trả lời hay an ủi.

Nhưng rồi đại dịch qua đi, những người dân bất hạnh lại sẽ vào thành phố tìm đường sống vì không còn gì để sống trên nơi chôn nhau cắt rốn. Và cứ thế, cuộc đời của tầng lớp người bị trị tại Việt Nam sẽ bị vùi dập trong trầm luân thống khổ cho đến chết.

Tìm ra những người biết đau và biết nhục tại Việt Nam rất khó nhưng phải tìm cho ra. Bởi vì, bài học từ các nước bị độc tài cai trị cho thấy, chính những người biết đau và biết nhục đã thay đổi vận mệnh đất nước họ.

Việt Nam có thể còn khá lâu nhưng nguyên lý không thay đổi, chỉ có những người biết đau, biết nhục mới thay đổi được vận mệnh Việt Nam.


 

 Người Việt Đi Nước Ngoài – Người Buôn Gió

Kimtrong Lam

Người Buôn Gió.

Đất nào sinh ra tôi

Mẹ hiền nào nuôi thân tôi

Miền nào nuôi thân tôi

Mà giờ này tôi xa rồi

Quê Hương Bỏ Lại là nhạc phẩm mà các ca sĩ hải ngoại di tản theo dạng thuyền nhân sau năm 1975 thường trình bày gây xúc động kiều bào vào thập kỷ 80 của thế kỷ trước.

Nội dung nhạc phẩm trải nỗi lòng của những người tị nạn rời xa quê hương, họ bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn và không hẹn ngày trở lại.

Hơn 30 năm sau, nhiều người trong số họ đã trở về từ Khánh Ly, Chế Linh đến các ca sĩ trẻ hơn như Mạnh Quỳnh, Phi Nhung.

Nhưng làn sóng người Việt rời xứ sở ra đi ngày một nhiều hơn, sự ra đi của họ không bi tráng như những thuyền nhân trước kia, họ ra đi trên những chiếc máy bay với một lịch trình cho cuộc sống trước mắt ở xứ người đã được sắp xếp chu đáo bởi các công ty tư vấn, dịch vụ định cư.

Ngày nay trên đường phố quanh khu Bolsa của Nam Cali, thủ phủ của cộng đồng người Việt tị nạn nhan nhản những tấm biển quảng cáo cho dịch vụ định cư, du học, việc làm. Có rất nhiều gia đình quan chức cộng sản đã tìm đến Hoa Kỳ định cư theo diện đầu tư như gia đình Nguyễn Công Khế. Một nữ tổng biên tập một tờ báo ở Việt Nam là Hồ Thu Hồng với cái tên gọi là Beo Hồng cũng đã có mặt trên đất Mỹ từ lâu, tổng biên tập tờ báo Vietnamnet đình đám một thời là Nguyễn Anh Tuấn cũng như Beo Hồng, gia đình Tuấn hiện đã sinh sống tại Mỹ.

Trước mắt các bạn đã thấy ba tổng biên tập của ba tờ báo lớn Việt Nam, những tờ báo hàng ngày vẫn ca ngợi đảng và chính phủ Việt Nam đem lại tăng trưởng, đem lại hạnh phúc, tự do cho nhân dân, họ đã đưa gia đình đến nơi mà tờ báo của họ từng miệt thị, chửi bới thậm tệ để sinh sống. Những người kế cận họ lại điệp khúc khen chế độ Việt Nam , chửi Mỹ và đánh đấm kiếm tiền đưa gia đình sang Mỹ.

Vô vàn các nghệ sĩ, ca sĩ Việt Nam bằng cách nào đó như kết hôn, hợp đồng lao động đã kiếm cho mình được tấm thẻ xanh trên đất Mỹ.

Bây giờ tôi thường xuyên nhận được tin nhắn hỏi về việc định cư tại châu Âu. Một chủ nhà hàng lớn trong chuyến du lịch đến châu Âu, vốn là người quen cũ, ông ta hẹn tôi uống cà phê và bày tỏ ý định tìm cách định cư tại châu Âu. Dự định của ông là mua nhà bên Hy Lạp với giá khoảng 250 ngàn Euro, chính phủ Hy Lạp đang khủng hoảng về tài chính, họ có chính sách bán nhà và cấp giấy định cư cho những người nước ngoài đến mua nhà. Người mua nhà ở Hy Lạp có giấy tờ đi lại trong khối Schengen tức đi lại trong 27 nước Tây Âu, với giấy tờ này người ta có thể sống và làm việc tại bất kỳ nước nào, miễn có việc làm và nuôi được bản thân không xin trợ cấp.

Rẻ hơn nữa là Latvia, với khoảng 150 nghìn Euro mua nhà bạn có thể sở hữu được tấm giấy phép như vậy.

Còn ở Đức thì giá đắt hơn, một gia đình có thể phải mất đến vài trăm ngàn để làm một dự án kinh doanh, nhà hàng, công ty tạo việc làm để đưa cả một gia đình đi.

Đỗ Liên, đại sứ danh dự Việt Nam ở Châu Phi, chủ hãng bảo hiểm AAA khi xưa nay đang cùng chồng sau sở hữu một nhà hàng lớn ở ngay trung tâm Berlin. Liên cùng chồng sau là Toàn và các con cái đã sống ở đây vài năm, họ vẫn đi đi về về Việt Nam điều hành việc làm ăn ở nhà. Quán của vợ chồng Toàn Liên sau vài năm mở để đưa cả gia đình sang, hiện đã sang bớt cổ phần cho Quán Ngon. Số tiền vợ chồng Toàn Liên chuyển sang đầu tư đến hàng triệu Euro, riêng phần bếp đã vài trăm nghìn. Có đến hàng trăm, đó là con số tôi có thể biết về những người Việt Nam đầu tư sang Châu Âu để kiếm giấy tờ hợp pháp sinh sống ở châu Âu như vậy.

Ở Hung ngày càng nhiều người Việt hơn, với 60 nghìn euro cho gia đình 4 người và thêm khoảng 100 ngàn euro mua nhà, cả gia đình 4 người đã có giấy tờ. Trước đây Hung còn có chính sách nếu ai mua trái phiếu chính phủ khoảng 3-400 trăm ngàn euro gì đó sẽ được cấp thẻ xanh vĩnh viễn, chương trình này chấm dứt rất nhanh bởi người Trung Quốc nhanh chóng ùa đến. Sau ba năm trở lại Hung, trên con phố đi bộ đắt nhất của thủ đô Hung, bên dòng Đa Nuyp thơ mộng. Những con người từ xứ Tô Châu đã tìm đến đây để sống với một môi trường trong sạch, an toàn không ô nhiễm và đầy bạo lực như quê hương họ.

Đại sứ quán Hung ở Việt Nam không đủ người để giải quyết hàng đống hồ sơ xin mua nhà, xin tạm cư của người Việt.

Ở Hung mua nhà không bị hỏi tiền ở đâu ra, miễn là bạn mua nhà hay bất động sản ở Hung thì bạn có cầm vali tiền mặt đều được chấp nhận. Hình như sau bao nhiên năm gì đó bạn mới được bán đi.

Đấy là những người có tiền, những người ít tiền hơn họ chọn cách ra đi bằng đường du lịch sang Nga và trốn đường rừng vào Ba Lan, Lát Vi A rồi sang đến Đức, nơi có cộng đồng đông đảo người Việt đang sinh sống, những đồng bào cùng miền quê với họ sẽ giúp họ tìm việc làm và đợi thời gian tích luỹ số tiền sẽ hợp pháp hoá giấy tờ trên cơ sở điều luật nhân đạo của Đức như kết hôn, nhận bố, nhận con. Rất nhiều cô gái trẻ người Việt mặt non choẹt đẩy xe nôi trên đường phố Berlin. Một phụ nữ Việt Nam vào Đức lậu, có bầu và được một người có giấy tờ Đức nhận là bố đưa trẻ, cô và đứa bé được ở lại Đức và nhà nước chu cấp đầy đủ cho hai mẹ con. Năm sau cô sinh đứa thứ hai, một người đàn ông Việt chưa có giấy tờ nhận là bố đứa trẻ, anh ta sẽ được giấy tờ và trợ cấp. Với cách thức như thế, càng ngày càng nhiều nam nữ thanh niên Việt Nam tìm đến nước Đức qua con đường trốn từ Nga sang. Từ năm ngoái ở Ba Lan có kiểu những người Việt đi du lịch sang Châu Âu, sẽ đến Ba Lan tìm một công ty dịch vụ làm giấy tờ chứng nhận họ có hợp đồng lao động ở Ba Lan, giá chỉ 2 ngàn euro là có một giấy tạm cư 2 năm tại Ba Lan. Đây là những nghèo khổ, ở quê hương họ không có việc làm, không có tương lai. Họ phải vay mượn, cầm cố đất đai cho những đường dây đưa người lậu để mong đến được nước Đức đổi đời.

Canada và Úc là những nước dễ nhập cư nếu như bạn có hợp đồng lao động. Một phụ nữ có hai đứa con nhỏ , chị kiếm được hợp đồng làm chăm sóc người già ở Canada, thế là chị và hai đứa con giờ ở Canada đã 5 năm. Một thằng em tôi quen trên Facebook, mới ngày nào còn la oai oái việc thanh toán tiền thi công của đối tác chậm ở Việt Nam, nay thấy ung dung đưa ảnh đang ăn hải sản bên Úc với con cua to đùng và gật gù khen ngon và rẻ hơn quê hương có mấy ngàn cây số ven biển của mình.

Những người ra đi sau này họ vẫn đi đi về Việt Nam để kiếm tiền bởi những quan hệ quan chức và các mối quan hệ làm ăn của họ vẫn đang hái ra tiền ở Việt Nam.

Một dự án hàng trăm triệu, hàng tỷ USD ở Việt Nam được thực hiện, tiền vốn chính phủ vay của nước ngoài, nhà thầu nước ngoài được phép thi công, các quan chức Việt Nam được nhà thầu lại quả trung bình 15%. Hãy hình dung chỉ cần dự án 100 triệu là có 15 triệu đủ để cả chục gia đình quan chức Việt Nam có tiền mua đất đai và giấy tờ định cư ở nước ngoài.

Những dự án đó phá hoại môi trường, gây ô nhiễm không khí, đẩy người dân vào cảnh mất đất và giao thông chật chội, hỗn loạn, khiến người dân Việt Nam luôn chất chứa sự uất ức mà chính họ không hiểu nguyên nhân. Sự uất ức đấy tích tụ và thành những hành động tiêu cực khi gặp việc, có thể họ trộn chất độc hại vào thức ăn để bán kiếm lời để lại mối hoạ ung thư tràn lan, hoặc họ rút dao ra đâm nhau khi có chuyện xích mích, hay đường sá và phương tiện với tỉ thứ trong đầu người dân khiến mạng sống con người có thể chấm dứt trong tích tắc trên đường.

Nhưng những người hái khế ưu tú đã có phương án của họ, ra đi để tránh cho gia đình mình phải chịu chung những mối lo như thế ở Việt Nam, quê hương chỉ là nơi họ hái khế phục vụ gia đình mình.

Và càng nhiều những người ra đi như dạng hái khế (không phải người nghèo đi trốn lậu) theo dạng đầu tư như trên, họ để lại đàng sau càng nhiều ô nhiễm môi trường, xã hội loan lạc, bệnh tật ở quê hương Việt Nam.

Người Buôn Gió.


 

5 BƯỚC ĐƠN GIẢN ĐỂ TÌM NIỀM VUI TUỔI GIÀ

Chuyện tuổi Xế Chiều – Ngọc Ánh

  5 BƯỚC ĐƠN GIẢN ĐỂ TÌM NIỀM VUI TUỔI GIÀ

Tuổi già không phải là điểm dừng, mà là một hành trình mới – chậm hơn, tĩnh hơn, nhưng sâu sắc hơn. Ở giai đoạn này, niềm vui không còn đến từ những điều lớn lao, mà nằm trong những khoảnh khắc bình dị: tách trà sáng, ánh nắng qua hiên, tiếng cười với người bạn cũ.

Dưới đây là 5 bước nhỏ nhưng ý nghĩa, giúp bạn tìm lại niềm vui và bình an mỗi ngày.

Bước 1: Học cách buông – để lòng nhẹ lại

Ở tuổi xế chiều, ta không cần tranh hơn thua, không cần níu giữ những điều đã qua.

Buông không có nghĩa là thua cuộc – mà là chọn an yên hơn giông bão.

Buông lời phán xét, buông những người không còn ở bên, buông cả những kỳ vọng quá lớn về con cháu hay cuộc đời.

Khi tâm không chất chứa oán trách, bạn sẽ thấy: mỗi hơi thở, mỗi ngày còn được sống, đều là món quà.

“Càng buông, càng thấy đời nhẹ như mây.”

Bước 2: Chăm sóc thân thể – vì đó là ngôi nhà cuối cùng của bạn

Không cần phải ép mình tập luyện quá sức.

Chỉ cần mỗi sáng đi bộ vài vòng quanh công viên, hít thở sâu, mỉm cười với người đi ngang.

Ăn uống thanh đạm, ngủ đủ giấc, uống đủ nước – những điều giản đơn lại là liều thuốc quý nhất.

Và đừng quên: đi khám sức khỏe định kỳ, không phải vì sợ bệnh, mà vì tôn trọng chính cơ thể đã đồng hành cùng ta cả đời.

“Cơ thể khỏe, lòng mới yên.”

Bước 3: Giữ tâm trí trẻ bằng việc học điều mới

Học không chỉ dành cho người trẻ.

Bạn có thể học nấu món mới, trồng cây cảnh, chơi đàn, học chụp ảnh, hay đơn giản là tập dùng điện thoại thông minh để gọi video cho cháu.

Khi não bộ được vận động, trí nhớ tốt hơn, tinh thần phấn chấn hơn.

Và quan trọng nhất – bạn sẽ cảm thấy mình vẫn đang sống, vẫn đang khám phá.

“Tuổi tác chỉ già khi ta ngừng tò mò.”

Bước 4: Kết nối – vì niềm vui luôn có trong sẻ chia

Đừng tự nhốt mình trong căn phòng im ắng.

Hãy ra ngoài – tham gia câu lạc bộ người cao tuổi, nhóm thiện nguyện, lớp dưỡng sinh, hay đơn giản là uống trà với hàng xóm.

Nụ cười, cái bắt tay, câu chuyện nhỏ có thể sưởi ấm cả một ngày.

Cô đơn chỉ đáng sợ khi ta quên rằng vẫn có rất nhiều người muốn lắng nghe và cùng ta chia sẻ.

“Khi trái tim mở ra, niềm vui tự tìm đến.”

Bước 5: Sống chậm – và biết ơn từng ngày còn có nhau

Không cần chạy theo điều gì nữa.

Mỗi sáng thức dậy, thử nói một câu đơn giản:

“Hôm nay tôi còn được thở, còn được nhìn thấy mặt trời – thế là đủ.”

Hãy viết vài dòng cảm ơn mỗi ngày: cảm ơn sức khỏe, cảm ơn người thân, cảm ơn chính mình vì đã đi qua bao sóng gió mà vẫn mỉm cười.

Khi lòng biết ơn trở thành thói quen, niềm vui sẽ ở lại thật lâu.

“Người hạnh phúc không phải người có nhiều, mà là người biết đủ.”

Tự chủ khi về già. Đây là cách sống không tủi nhục.

(Ai cũng nên biết) [https://youtu.be/jydtqTMRfL4](https://www.youtube.com/watch?v=jydtqTMRfL4)


 

VỀ GIÀ

 Xuyên Sơn

Về già, là khi ta có một đôi mắt mờ đi nhưng lại nhìn cuộc đời rõ hơn trước.

Vì có những thứ không thể nhìn bằng mắt thịt, và cũng có những điều không thể nghe bằng tai trần.

Về già, là khi đôi chân mỏi mệt khi đã bị kéo lê gần hết quãng đường đời nhưng khi ngoái đầu lại ta dường như mới là đứa trẻ ngày hôm qua.

Bây giờ ta bước chậm hơn trước, chắc hơn trước và cũng trân trọng hơn từng cái chạm đất, vì có thể ngày mai ta không còn bước đi được nữa.

Về già, là khi ta dùng đôi tai điếc của mình để nghe thiên hạ đang xôn xao về chuyện đời và ta biết rằng hơn một nửa trong số ấy không là thật.

Bây giờ, âm thanh êm dịu duy nhất chỉ có tiếng chim tiếng gió và những âm thanh còn đọng lại trong lòng ta, của những người ta từng trân quý nhưng bây giờ không còn thể gặp lại nữa.

Về già, là khi ta nhận ra rằng ta đã may mắn như thế nào khi từng được hít thở không khí một cách thoải mái, vì bây giờ, mỗi hơi thở là một thước đo của sự sống.

Ta thở ra nhưng ta không thể biết có thể hít vào một lần nữa được hay không?

Về già, là khi những người tri kỷ ta còn ngồi lại cùng ta hoài niệm về một thời xa xưa, tuy là không nhiều.

Âu đó cũng là quy luật tự nhiên, khi ta không còn giá trị, những bằng hữu sẽ rời xa ta, người còn ở lại nhất định ta phải trân quý.

Về già, là khi ta nếm đủ ngọt bùi đắng cay của cuộc đời.

Những thứ làm ta say đắm ngẫm lại vui sướng không là bao nhưng đau khổ lại rất nhiều.

Có những thứ ta cứ tưởng nắm chặt trong tay rồi thì ngày mai lại trôi đi mất.

Cuộc đời như một trò đùa mộng mị mà người chơi phải trả bằng cả tuổi thanh xuân của mình, bây giờ ngẫm lại chỉ toàn là hối tiếc…

Suốt đời quý nhất cũng chỉ là hai tiếng bình yên.

Hạnh phúc cũng không phải là điều gì quá xa vời, nhưng có những người gần lúc cuối đời mới nhận ra được điều đó.

(sưu tầm)


 

Câu chuyện: Già “khú đế” – BS Đỗ Hồng Ngọc

Những Câu Chuyện Thú Vị – Nguyen Minh

  Ngạc nhiên vì bài viết của BS Đỗ Hồng Ngọc được nhiều người tán thưởng…ngẫm ra độc giả …đa số đều già nên thấm thía những gì ông viết…

Mời các bạn đọc tiếp nhé :

Câu chuyện: Già “khú đế”

BS Đỗ Hồng Ngọc

  1. “Già khú” là giai đoạn một, thêm một bước nữa thì gọi là “già khú… đế”. Khú, Từ diển tiếng Việt bảo là “để thâm lại và có mùi hôi”, thí dụ dưa khú, tức là một thứ dưa để lâu quá, sắp hư. Khú đế là “vua” của khú, hơn hẳn các khú!

Thật là một sai lầm lớn khi ta nghĩ rằng già sẽ đến từ từ, cứ từ từ mà thích nghi, mà giải quyết mọi chuyện lần lượt. Không đâu. Già nó xồng xộc trên trời rơi xuống, dưới đất vọt lên. Không những xồng xộc nó còn gia tốc, tàn bạo như cơn sóng vỗ vào bờ đá, vội vã để mau chóng nhập vào dòng nước cuồn cuộn đuổi theo sau. Nó mạnh mẽ và tàn nhẫn, tung tóe, tan tác, lắng chìm, không một chút xót thương. Nó lãnh đạm bởi nhiệm vụ nó phải thế. Nó thú vị bởi nó không phân biệt. Giàu nghèo sang hèn, da trắng, da đen… Còn ta, ta chần chờ, chểnh mãng, làm ngơ… Hãy đợi đấy. Đi đâu mà vội… Không đâu! Một hôm già bỗng chuyển hệ sang già…khú, rồi khú đế đột ngột làm đảo lộn mọi thứ tính toan. Quên tuốt những ký ức, lẫn lộn điều nọ với điều kia, thứ này với thứ khác, tai không nghe rõ, nói không trôi chảy, mắt không nhìn tinh… như làn sóng đã bắt đầu tung tóe!

Già đến đột ngột và tàn bạo. Như một cơn động đất, không cần phải hỏi han, không cần báo trước. Như một cơn bão dữ, thổi ào qua, cuốn tất cả không thương tiếc. Khi nó khú đế, nó sẵn sàng làm ta trở nên lố bịch, buồn cười, ngớ ngẩn, đáng thương. Khi nhìn quanh những người già khú đế mà… còn khỏe, ta nghĩ ta chắc cũng sẽ như họ. Còn lâu. Số người như vậy rất hiếm.

Nhưng, như vậy phải chăng làm ta sẽ nhìn đời bi quan ? Không đâu. Trái lại. Nó làm cho cuộc sống của ta có chất lượng hơn, có ý nghĩa hơn. Người ta không cảm nhận được thời gian vì thực ra chẳng có thời gian.

  1. Thỉnh thoảng gặp người bạn thân lâu ngày chưa gặp lại, thấy bạn sao mà nhăn nheo, già khú, hỏi mới biết còn nhỏ hơn mình vài tuổi! Bạn kể cho nghe chuyện đôi khi gặp lại « người xưa » của bạn, tưởng tình ngỡ đã quên đi như lòng cố lạnh lùng, người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang… Ai dè không vậy. Đôi mắt huyền xưa, chiếc mũi dọc dừa… bây giờ khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang; vai gầy guộc nhỏ, từng ngón xuân nồng bây giờ chuối ngự…. Còn ta thì sao? Nguyên Sa bảo ta chỉ có thể đo đếm tuổi mình qua ánh mắt cố nhân. Thử nhìn vào gương. Có gì khác lạ đâu nào? Ấy là bởi mình quen nhau quá rồi nên chẳng kịp thấy đổi thay. Thế nhưng, đã không còn những dấu chân chim ở khóe mắt mà hằn sâu như vạn lý trường thành… Khóe miệng thì nặng nề trễ xuống như bị sức hút của quả đất. Ở một nơi không có trọng lực chắc không đến nỗi?

Bạn nhắc toàn chuyện nửa thế kỷ trước… Nào đi cắm trại Suối Lồ Ồ với Nguiễn Ngu Í, Lê Phương Chi, Hồ Xích Tú, Nguyễn Công Thuần, Quách Giao…, nào lang thang chợ sách vỉa hè Saigon, “truy lùng” sách quý, nào cà phê chiều tím, chiều nhớ thương ai… Mấy đứa cháu nội mười bảy mười tám ra vòng tay chào bác, chào bác… Bạn quắc mắt: “Ông” chớ sao lại bác! Thấy chưa, tụi nó gọi ông bằng ông nội mà gọi tui bằng bác, thấy chưa?

Bạn có khoảng đất rộng chơi cây kiểng một thời. Cả một vườn mai vàng rực cho những ngày Tết nay đà xơ xác. Căn nhà rộng đã nhường cho các con, cất một mái nho nhỏ bên cạnh như một cái am cốc, một tủ sách, một cái TV, và nhất định không xài điện thoại di động, vi tính… Đủ rồi đó, nay mai, sẽ dọn dần về những căn nhà nhỏ hơn, nhỏ hơn nữa. Rồi cùng mà cười. Bạn nói đã làm xong di chúc. Và cũng đã căn dặn, rải xuống sông Soài Rạp, quê nhà.

Phone cho người bạn ở tận miền Trung xem bạn đã khú ra sao. Bạn đi vắng. Không biết đi đâu. Chị càu nhàu. Hỏi “tình hình” sao rồi? Chịu hổng nổi ổng. Chị nói. Tôi chỉ muốn “cắn” ổng mấy cái! Ấy, chớ, đừng. Đừng cắn. Chị mà cắn ổng người ta tưởng chị “mê” ổng lắm đó. Tục ngữ có câu: “Yêu nhau lắm cắn nhau đau” mà, nhớ không? Hồi xưa hai ông bà mê nhau như điếu đổ! Anh bạn làm thầy giáo, một nhà thơ rất dễ thương, lấy bút hiệu con gái để dễ đăng những bài thơ mượt mà trên các báo thời đó. Giờ anh đi lai rai chỗ bạn bè, em cháu, những chốn chùa chiền…

  1. Nhân có bác sĩ Thịnh ở Mỹ về, chúng tôi ơi ới gọi nhau rôm rả ở một quán hải sản thành phố. Theo lời một anh bạn, quán hải sản có cấu trúc mỗi phòng như một khoang thuyền để mọi người lắc lư cùng sóng gió.

Thiệt là tay bắt mặt mừng. Nhiều khi ngớ ra. Biết mặt mà quên tên. Biết tên mà quên mặt. Học chung với nhau dưới mái trường y khoa Saigon đằng đẵng bảy năm trời, không thể không quen, vậy mà đôi lúc cũng ngỡ ngàng, chưng hửng! Người thì hom hem… người thì béo ị… người bạc trắng, người cà khêu… Ôi cái thời sinh viên y khoa hào hoa phong nhã, tếu táo vung trời! Có lẽ do cái sự học y dài lâu và nghiệt ngã, tiếp cận bao nỗi con người… nên bọn y khoa nổi tiếng là tiếu lâm hạng nhứt, mặc dù học hành nghiêm túc chẳng ai bằng!

Nhớ thời đó, ai vào y khoa cũng bị đặt cho một cái “biệt danh”, cái “hỗn danh”, cái “tục danh” chịu hổng nổi, rồi chết cứng với tên gọi đó suốt đời. Bạn bè gặp nhau chỉ cần kêu một tiếng thì cả một dĩ vãng ùa về…! Tên có thể quên chớ tục danh thì khó mà không nhớ. Thịnh, là Thịnh Văn Chương, “Chương còm”. Qua Mỹ mất tên, còn họ, “Doctor Thịnh”! Tại sao còm? Bởi còn có Chương “chuột”, rồi Cầm “chim”, Sơn “gà”…Tại sao chuột? Nhìn nó… chuột, thế thôi. Còm nay đã hết còm, chuột nay không còn chuột. Thế mà cái “tục danh” còn đeo đẳng mãi làm nhớ cái anh ốm nhom, lòm còm mà nhanh nhẹn, cái anh thấp lùn mà lém lĩnh, thông minh…. Còn anh bạn Mai cao nhòng, ngất ngưỡng, hình như có lúc làm ban đại diện lớp, được gọi là “Mai vói” (phát âm theo giọng Nam bộ!), bởi ai muốn nói chuyện với anh cũng phải vói lên một chút!. Rồi bạn C – có lẽ vì nghiêm trang, ít khi đùa giỡn – nên được gọi là “ C bặt”. Nhưng chuyện của anh bây giờ là một tấm gương luôn được bạn bè nhắc tới. Anh bị đủ thứ bệnh, toàn bệnh nặng, biến chứng tùm lum, mấy phen tưởng đã xong, thế rồi anh quyết định tự xây cho mình một cái kim tĩnh… Từ đó anh khỏe hẳn ra, không thèm bệnh, không thèm chết nữa!

Bỗng có bạn hỏi, Lộc bây giờ ở đâu? Lộc nào? Lộc nào? Nhao nhao lên. Lộc “tr” hả? Đang ở Úc, rồi Q heo, rồi H “nám”, để khác với H “Rhade”, H “mù”, H “con”… Rồi Cường “sùi”, Thăng “lùn”, Bá… kẻ còn người mất. Cả đám bác sĩ vào trường y nửa thế kỷ trước bây giờ đều trên dưới bảy mươi không mấy ai là không bệnh tật! Đã bệnh thì toàn thứ dữ. Bác sĩ mà! Nhồi máu cơ tim, nong, stent, by pass… tai biến mạch máu não, tiểu đường, thận, khớp,…

Nhưng thật lạ lùng, bạn bè cũ cứ ngồi với nhau một lúc nhắc những chuyện xưa bỗng dưng ai nấy đều trẻ lại không ngờ. Trẻ như không hề có thời gian.

Muốn tìm lại tuổi trẻ,

Cứ đi kiếm bạn già!

Chuyện xưa như pháo nổ,

Tuổi trẻ về tà tà

Thân người dùng quá đát,

Bệnh tật tới phà phà!!!

Chữa đây, nẩy ra đó?

Bực mình cười ha ha.

Chẳng chữa, xây kim tĩnh!

Quên quá, thì cứ khà,

Tụ tập khú và đế,


 

 Bhutan

  Bhutan

Bhutan là đất nước nhỏ nhắn nằm cheo leo trên những triền núi của dãy Hymalayas hùng vĩ. Được mệnh danh là đất nước hạnh phúc nhất thế giới, ở Bhutan không có sự phân biệt giàu nghèo, họ không coi trọng vật chất mà lấy thước đo tinh thần làm chỉ số đánh giá hạnh phúc trong cuộc sống. Người Bhutan luôn duy trì niềm vui trong cuộc sống và nụ cười mãn nguyện luôn nở trên môi.

Ở Bhutan, trẻ con không được hỏi rằng “Hôm nay con được mấy điểm?”, mà là “Hôm nay con có khiến ai mỉm cười không?”

Người Bhutan dạy con không phải bắt đầu từ những bài học về toán hay tiếng Anh, mà bắt đầu từ việc cúi đầu chào một cụ già, chia đôi bánh với bạn và buông tha cho một con kiến đang tìm đường về tổ.

Trong mỗi bữa ăn, họ nhắc con thầm cảm ơn người đã nấu, người đã gieo trồng, người đã gánh gạo qua núi rừng…

Lòng biết ơn ấy thấm dần thành sự tử tế không cần điều kiện.

Họ không trừng phạt khi con nổi giận, họ ngồi bên và nói:

“Con buồn phải không? Mình cùng thở nhé.”

Chỉ vậy thôi, cơn giận bé lại như một đám mây tan trên đỉnh núi.

Ở nơi ấy, lòng từ bi không phải điều cần dạy, mà là điều cần sống cùng mỗi ngày.

Từng cái nắm tay, từng cái ôm, từng lời nói dịu dàng – chính là mảnh đất để hạt giống yêu thương lớn lên trong con trẻ.

Có lẽ, ta không cần dạy con trở thành người giỏi nhất lớp.

Chỉ cần con biết không giẫm lên hoa, không cười khi bạn khóc, và biết xin lỗi khi lỡ làm ai buồn.

(Theo Những Câu Chuyện Nhân Văn)

 From: haiphuoc47 & NguyenNThu

Sách cũ miền nam 1954 -1975- Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

03/10/2025

Đã định tâm như thế rồi. Cho nên, khoảng 6 tháng trước khi về Sàigòn để thăm lại bạn bè, bà con mình, tôi đã nhờ bạn bè bên ấy tìm cho tôi những sách mà tôi muốn tìm. Thật ra ít có ai có thì giờ và có lòng để đi làm một công việc vô bổ như thế. Biết bao nhiêu phần đời tôi, biết tìm cái gì, biết mua ra sao…

…Rất may là tôi còn những người bạn có lòng để tâm giúp đỡ, tên anh là Hồ Công Danh. Đó không phải là đi mua sách cũ mà là một việc truy lùng, sục sạo, mò mẫm đầy bất trắc và may rủi, nhưng cũng đầy thú vị và mủi lòng.

Bởi vì sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất còn. Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như thế. Đứa may trốn thoát. Tôi có đứa cháu trai, hồi đó, 6, 7 tuổi. Khi đi di tản năm 1975, cháu chỉ mang cặp sách của cháu và nhặt một cuốn sách giáo khoa tâm lý học tôi viết thời đó. Sang sau vài năm, cháu đưa lại cho tôi. Kể cũng mừng và cũng buồn cười. Đứa yểu tử thì làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa không may làm giấy gói xôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít. Đó là cuộc trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên 12, 13 tuổi. Các cháu ngoan bác Hồ. Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường. Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo hò như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ gian. Chúng lục soát tận tình, chúng đánh trống, chúng hát hò như một cuộc ra quân của một đoàn quân chiến thắng.

Gia đình nào cũng sợ hãi cái quang cảnh đó nên kẻ mà phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở.

Sách vở gì cũng sợ nên sách gì cũng phải tẩu tán. Sách vở bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, mặc dầu chúng là người ngoại quốc, mặc dầu chả dính dáng gì đến chuyện chính trị hay chiến tranh Việt nam, chúng cũng chịu chung số phận. Tôi cũng có khá nhiều sách vở bằng tiếng Pháp, nhưng tôi biết rằng, trước sau gì tôi sẽ không bao giờ dùng đến chúng nó nên lôi ra bán ve chai mà không thương tiếc. Sách nhỏ bán trước, sách lớn bán sau, cuối cùng là bộ Bách Khoa tự điển bằng tiếng Anh tuần tự rơi vào tay các ông bà bán ve chai. Ở nơi ấy, chẳng mấy khi mà Aristote gặp được Kant. Cũng chẳng ai ngờ được Bùi Giáng gặp mặt được Heideigger.

Sách cũ đối với tôi là một ám ảnh mời gọi tìm về. Trong đó đặc biệt có truyện sưu tập tài liệu triết cũ. Cũng từ những sách cũ đó mà trước đây tôi lớn lên, được nuôi dưỡng và phát triển về trí năng mỗi ngày. Nếu cơm gạo miền Nam cho tôi lớn lên thì sách miền Nam nuôi dưỡng tôi thành người thông tuệ.

Đi truy lùng lại sách cũ là tìm lại một phần bản thân tôi vậy.

Nhưng khi tôi nói sách cũ thì không có nghĩa là sách cổ, mà là sách của miền Nam xuất bản trước 1975. Sách mà theo báo cáo của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại kỳ họp thứ nhất của Quốc Hội, ngày 26 tháng 6, năm 1976 là: “Việc xây dựng nền Văn Hóa mới đuợc tiến hành trong cuộc đấu tranh quét sạch những tàn dư mà Mỹ đã gieo rắc ở miền Nam. Đó là thứ Văn Hóa ‘nô dịch’, lai căng, đồi trụy, cực kỳ phản động..” [I].

Để thực hiện nghị quyết trên, họ đã làm mọi cách: tịch thu, tàng trữ và đốt sách và coi sách vở báo chí miền Nam chỉ là thứ rác rưởi. Phần tôi, tôi dám gọi đó là đống rác tinh thần, tài sản của tất cả trí thức, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà phê bình, nhà khoa học miền Nam trong vòng hai mươi năm đã bị đốt. Tóm lại, đó là đống rác thân yêu của miền Nam, cho người miền Nam gìn giữ lấy.

A.- Tình hình sách cũ hồi 1975.

Cộng chung số sách đã bị tịch thâu, hay bị đốt theo là bao nhiêu. Hình như chưa có ai hỏi câu hỏi đó và cũng chưa bao giờ có câu trả lời. Có thể chẳng ai biết được. Chỉ tính theo đầu sách thôi, các số liệu cũ của Bộ Thông Tin cho thấy, vào tháng 9-1972, theo Ủy Hội Quốc Gia Unesco, Việt Nam Cộng Hòa trung bình đã cấp giấy phép cho 3000 đầu sách được xuất bản một năm. Cộng chung từ năm 1954 đến 1975, đã có khoảng từ 50.000 – 60.000 đầu sách đủ loại được xuất bản, thêm vào đó 200.018 đầu sách ngoại quốc được nhập cảng. Giả dụ mỗi đầu sách in tối thiểu 3000 cuốn. Sẽ có 180 triệu cuốn sách tiếng Việt bị tiêu hủy. Đây chỉ là một lối tính ước chừng. Và như vậy số sách bị tịch thâu, bị đốt, bị bán ra vỉa hè hay ve chai là khoảng 180 triệu cuốn trên khắp miền Nam. Miền Nam theo nghĩa từ Bến Hải vào đến Cà Mâu.

Con số này đã không còn đúng nữa khi ta đọc một bài viết của ông Vũ Hạnh, một nhà văn thời VNCH và là một đảng viên cộng sản trong bài: “Mấy ý nghĩ về Văn Nghệ thực dân mới đăng trong tuần báo Đại Đoàn kết: Từ 1954 đến 1972, có 271 ngàn loại sách lưu hành tại miền Nam, với số bản là 800 triệu bản.” Trong khi đó sách của ông Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra con số 357 ngàn loại. Và ông Đàn dám cả gan nói: Như vậy là con số của Vũ Hạnh gần như khớp với con số chúng tôi tìm được. Thưa ông Trần Trọng Đăng Đàn, con số cách nhau gần một trăm ngàn mà ông dám bảo là khớp thì tôi chịu ông. Các ông đã bao giờ biết nói thật chưa.

Cũng vậy, tờ Tin Sáng số ra ngày 1 tháng 8, năm 1976 tính rằng: Từ năm 1962 về sau, tại Nam Việt Nam đã xuất bản 208 bộ sách chưởng, gồm 850 quyển, con số phát hành này ước tính 5 triệu bản, bằng số sách giáo khoa trung học xuất bản cùng thời gian. [ii]

Con số này, xin nhờ những vị chuyên gia về Kim Dung cho biết xem thực hư ra sao. [iii]

Độc giả thân mến, xin ghi nhận những thống kê của Ủy Hội Quốc Gia Unesco VN là tài liệu đáng tin cẩn. Tôi chỉ xin nói một điều, nước Pháp hiện nay mỗi năm xuất bản khoảng 1000 đầu sách tiểu thuyết mới. Làm sao VNCH có thể xuất bản mỗi năm hơn 20 chục ngàn đầu sách một năm. Những con số của ông Vũ Hạnh hay gì khác là một thổi phồng đến phi sự thực. Tôi không dám bảo là ông ấy nói láo khoét. Hãy trả lại các ông ấy những gì các ông ấy viết. Chỉ cần so sánh con số dự đoán giữa ông và Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra cũng cách nhau cả gần một trăm ngàn đầu sách. Điều đó muốn nói với chúng ta điều gì.

Nay tất cả những sách đó đều ra tro. Đây là một chính sách man rợ và xuẩn động của nhà cầm quyền Hà Nội. Dĩ nhiên, người ta đã không đốt hết mà mang bán, chính vì thế nay còn rơi rớt lại một số nhỏ nơi các tiệm bán sách.

Vì sợ hãi nên người ta mang sách vở tài liệu ra chợ bán ký, đó là thứ hàng vô dụng và nguy hiểm nhất trong lúc ấy. Người ta đốt những sách nào liên quan đến chính trị, nhất là sách vở chống Cộng. Người ta đốt những nhà văn nào liên quan đến chính trị như Nguyễn Mạnh Côn. Nhã Ca, Phan Nhật Nam v.v… Người ta cũng đốt tài liệu, hình ảnh cũ, giấy tờ, huân chương, bằng khen. Đó cũng là thứ mà những người chủ mới không muốn nó có mặt.

Người ta đốt tất cả những kỷ niệm, dù đẹp nhất của đời mình.

Mọi người phải tự hiểu rằng, phải đốt tất cả những gì cần đốt, không phải chỉ đốt những kỷ niệm mà tất cả những gì liên quan đến đời sống đó. Một đời sống mà tự nó đã là một điều xấu, một bản án.

Muốn sống yên, người ta phải đốt tất cả quá khứ đời một người cùng với những kỷ niệm, những sự nghiệp từ quá khứ đó mà ra.

Sách không đốt thì được bày bán lén hoặc công khai. Sự bầy bán sách vở như thế coi như dân chúng bắt mạch được thâm ý người chủ mới muốn gì. Nhưng trong số vạn người bán, vạn người mua, vẫn có những người nhà buôn bất đắc dĩ mà đặc loại là một số nhà văn, nhà giáo chế độ cũ nắm được cái chìa khóa của nhu cầu và ý nuốn của người đọc. Họ tìm ra giữa những kẽ hở để thấy được trong hàng tấn sách báo thải loại, cái nào là thứ hàng có giá trị, có giá đối với người chủ mới. Nạn chợ đen, nạn săn tìm sách cũ cho một thị trường mới nhờ thế càng phát triển.

Một cách nào đó, chính những nhà giáo, nhà văn, những kẻ bán sách lề đường, những tên lái sách trở thành những người bảo tồn Văn hóa miền Nam.

Sách phản động càng cấm, càng có giá. Đó là phản ứng ngược chiều ở thời điểm đó. Trên báo Đại Ðoàn Kết, ngày 10-11-1982, Đinh Trần Phương Nam thú nhận một thực tế phũ phàng như sau: “Các hoạt động của chúng ta vừa qua thật rầm rộ, thật phong phú và đa dạng, song các loại sách báo phản động đồi trụy, đã bị quét hết chưa. Xin thưa ngay là chưa.” Số Tiền Phong ngày 23-9-1985 cũng than thở “Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều đợt bài trừ sách báo xấu, nhưng hiện nay hiện tượng mua bán và cho thuê các loại sách báo xấu vẫn còn tồn tại.” [iv]

Những sách càng bị cấm lại càng có giá trên thị trường đen. Trên vỉa hè phố, những sách từ ngoài đó được phép bầy bán nằm chống mốc, cong queo ít được ai ngó tới. Người ta bầy những sách trên để che mắt mà thôi. Người mua sách sành điệu chỉ cần hỏi tên một tác giả nhà văn Ngụy. Năm phút sau, chạy đi một lúc có liền.

Lại một thách đố nữa cho người chủ nhân ông mới.

Sách Ngụy trở thành một thách đố chính quyền mới, thách đố ai hơn ai chứ không phải ai thắng ai.

Thách đố mang tầm vóc văn học, giá trị nghệ thuật dựa trên nhu cầu người đọc. Sách hay thì tìm đọc, sách tuyên truyền thì không đọc.

Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in ấn trước ngày 30 tháng tư được coi là đồi trụy. Nhiều người tiếc rẻ đem bán kilô. Các gói xôi bán buổi sáng, nay có tên Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền. Vừa ăn, vừa đọc kể cũng vui. Nhiều chỗ mang sách vở cũ ra đốt. Mà phải đốt lén vào ban đêm.

Nhưng sau đó ai cũng thấy đốt là phí phạm. Không đốt thì sách vở đó đi đâu? Không ai biết nữa. Nhiều người nhắc nhở đến tên Tần Thủy Hoàng. Nhưng chẳng ai để ý đến có mối liên hệ gì giữa chuyện xưa và chuyện nay.

Tại sao lại dị ứng với văn học như thế? Không lẽ tất cả đều là phế liệu, tàn dư Mỹ Ngụy hết sao?

Sách nào là phản động, đồi trụy?

Vì thế sách cũ ở đây được đồng hóa với sách cực kỳ phản động, không phản động thì đồi trụy, không đồi trụy thì lai căng. Mấy chữ trên như những khẩu lệnh bao trùm và truy chụp hầu như bất cứ tác giả nào và bất cứ quyển sách nào.

  • Trước hết, các nhà xuất bản sách thiếu nhi bị cấm toàn bộ.

Đó là các nhà xuất bản như Tuổi Thơ, Nắng Sớm, Tuổi Hoa Niên, Sách Đẹp, Viễn Du, Hùng Dũng, Hoa Hồng, Hoa Hướng Dương, Hoa Mai.

  • Các dịch giả Kiếm Hiệp sau đây cũng bị cấm: Kim Dung, Cổ Long, Trần Thanh Vân, Nam Kim Thạch, Từ Khánh Phụng, Phan Cảnh Trung, Long Đức Nhân.
  • Các tác giả có sách bị cấm toàn bộ như: Bùi Giáng, Chu Tử, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Doãn Quốc Sỹ, Đinh Hùng, Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Hải Thủy, Lệ Hằng, Mai Thảo, Nguyên Sa, Nguyễn Đình Toàn, Thế Uyên, Thanh Nam, Võ Phiến, Văn Quang, Vũ Hoàng Chương, Vũ Tài Lực, Nguyễn Mộng Giác, Thảo Trường, Nguyễn Thị Hoàng..

Nhận xét:

– Những nhà xuất bản sách thiếu nhi này ấn hành đặc biệt các truyện dành cho thiếu nhi. Những sách đó có tính cách giáo dục, giải trí, hay nêu gương tốt cho các em thiếu nhi. Nội dung lành mạnh và có chất lượng giáo dục. Những nhà xuất bản này thường bất vụ lợi, có sự tài trợ đằng sau của những tổ chức tôn giáo, hay những nhà xuất bản có lòng như trường hợp ông Khai Trí. Vậy mà tội tình gì cũng bị cấm. Cứ cấm là cấm, cấm một cách trùy dập vô tội vạ và vô ý thức.

Các trẻ em miền nam tự nhiên mù chữ vì không có sách đọc.

Về các dịch giả truyện Kiếm Hiệp cho thấy đây là những sách dịch vô tội vạ, vô thưởng vô phạt xét về mặt luân lý, giáo dục. Chủ đích của người dịch trước hết có thể là giải trí người đọc. Ai đọc truyện kiếm hiệp chả thấy hấp dẫn và hay, đọc để giải trí. Sau đó mới nói tới những chủ đề tình yêu, y học, võ thuật, nhân vật truyện, chất hài, chất ghen tuông, chất giang hồ, kiếm pháp trong các truyện kiếm hiệp ấy. Sách phải được coi là bổ ích và nó là bộ phận không nhỏ trong sinh hoạt Văn học miền Nam.

Trẻ đọc, già đọc, bình dân đọc, trí thức đọc… Mỗi người tìm ra được cái thích thú cho riêng mình.

Đến có thể nói, một trong những nét đặc thù trong sinh hoạt Văn Học miền Nam là sách của Kim Dung.

Kim Dung tên thật là Trà Lương Dung. Truyện võ hiệp đầu tay là Thư Kiếm Ân Cừu, xuất bản ở Hương Cảng, từ đó có bút danh Kim Dung. Năm 1957 ra bộ Anh Hùng Xạ Điêu, 1969 ra Lộc Đỉnh Ký. Cho mãi đến 1978 Đài Loan mới rút lệnh cấm tác phẩm Kim Dung và 1986, sau khi tiến lên 4 Hiện Ðại Hóa ở Trung Quốc mới xuất hiện Kim Dung. Truyện chưởng Kim Dung “độc bá quần hùng” trong sinh hoạt văn học ở miền Nam thời ấy. Vào năm 1968, khi xuất hiện Tiếu Ngạo Giang Hồ trên tờ Minh Báo thì có đến 44 nhật báo ở Sàigòn đều tranh nhau dịch và đăng lại. Tình trạng mê Kim Dung đến như thế, và kéo dài cho đến 1972-1974 khi bộ Lộc Đỉnh Ký ra đời. Và đây là lời Vũ Đức Sao Biển, tốt nghiệp Đại học Văn Khoa, Sàigòn, ban Hán Văn: “Tôi học cách làm người, cách đối xử nhân thế, đắc thủ được những kiến thức hoàn toàn không có trong giáo trình đại học từ các tác phẩm của một nhà văn nước ngoài chưa hề biết mặt.”

Với lượng tác phẩm đồ sộ như thế, với số người đọc đông như thế, không thể không tìm hiểu văn học miền Nam nhất là văn học dịch mà bỏ qua tác giả Kim Dung. Người ta có thể bàn về bất cứ vấn đề nào của con người, của xã hội. Có thể từ tình yêu, bạo lực, đạo đức, tâm lý hay sự đánh tụt giá của chủ nghĩa bạo lực trong truyện Kim Dung. Từ vấn đề nghệ thuật, cách xây dựng nhân vật tiểu thuyết, chất thơ, chất hài… đến chứng cứ kiếm pháp, Võ và Hiệp, cho đến những vấn đề có thể trở thành tranh luận văn học như hư cấu nhân vật, hư cấu lịch sử. Kim Dung đã hư cấu lịch sử Trung Hoa cách đấy ba thế kỷ mà vẫn hay với cấu trúc tiểu thuyết liên hoàn. Vương Sóc, nhà văn-nhà phê bình Trung Hoa (mà nghĩ đến ông tôi bắt nghĩ đến Trần Trọng Đăng Đàn của Việt Nam), đã gọi tiểu thuyết Kim Dung là một trong “tứ đại tục” bởi đã hư cấu méo mó hình tượng người Trung Hoa. Từ đó đã gây thành những tranh luận lớn khắp Hoa Lục. Lại còn vấn đề tôn giáo, giáo phái trong tiểu thuyết. Luận về anh hùng và những nhân vật biểu tượng như Kiều Phong, một đại trí, đại dũng lại rất giầu tình cảm và lòng nhân ái vời vợi? Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung, tài trí hơn người, hành xử quang minh lỗi lạc, tốt bụng hơn người? Dương Quá, Địch Vân, Hồ Phỉ… Rồi còn nhân vật nữ, những mỹ nhân như Hân Tố Tố, Nhậm Doanh Doanh, Triệu Minh, Tiểu Siêu, Song Nhi, v.v… mỗi người mỗi vẻ, mỗi người một thông điệp. Không có những nhân vật nữ đó, tiểu thuyết Kim Dung còn gì?

Vấn đề tâm đắc đối với tôi: Vấn đề chính hay tà, vấn đề thị phi trong cuộc đời, giữa Hiệp nghĩa và xã hội đen, giữa danh môn chính phái và ma giáo. Ai chính, ai tà. Tà chính khác nhau chỗ nào? Đọc Kim Dung sẽ thấy sự phân biệt Chính và Tà là vô thực. Trong Kim Dung, có một cố gắng đánh tụt giá những người tự nhận là Chính Nghĩa, và qua họ, những giá trị mà họ tượng trưng. Sự sa đọa xuống tới sự bất nhân, sự dâm loạn, sự ngu xuẩn của những đệ tử phái Toàn Chân thì còn ai tin gì ở Chính Nghĩa?

Chuyện đã hay, cơ man nào nhân vật, cơ man nào tình tiết chòng chéo lôi kéo người đọc. Kim Dung phải là người kiến thức rộng, đọc nhiều, dùng Quan Thoại, một thứ ngôn ngữ trong sáng, lại kế thừa truyền thống của những nhà văn như Lâm Ngữ Đường, Tào Ngu, Lỗ Tấn… đã biến những chuyện võ hiệp tầm thường thành những tác phẩm để đời. Đã vậy, có những dịch giả như Hàn Giang Nhạn chuyển ngữ tài tình làm say mê độc giả VN.

Hễ hay thì người đọc, dở thì bị người bỏ quên.

– Về các tác giả, các nhà văn bị xóa sổ cho thấy tính cách tổng quát hóa và khái quát hóa đồng loạt. Tỉ dụ thơ của Vũ Hoàng Chương như Hoa Đăng, Thơ Say, Tâm Sự Kẻ Sang Tần thì tại sao cấm. Gìn Vàng Giữ Ngọc và Giòng Sông Định Mệnh của Doãn Quốc Sỹ thì chỗ nào là phản động, chỗ nào là đồi trụy. Duyên Anh với Hoa Thiên Lý, Sa Mạc Tuổi Trẻ, Ngựa Chứng Trong Sân Trường, Dấu Chân Sỏi Ðá thì chẳng những không đồi trụy mà còn có tác dụng giáo dục nữa. Thơ Nguyên Sa, Gõ Ðầu Trẻ, Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ thì hoặc là có tác dụng giáo dục, hoặc đặt ra những vấn đề tranh luận trong văn học. Hầu hết người ta không biết hoặc quên rằng Nguyên Sa còn có tập thơ “Những năm 1960”, trong đó là thứ thơ dấn thân, nhập cuộc. Thảo Trường với Người Ðàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp thì có giá trị tố cáo sự tàn bạo của chiến tranh. Bùi Giáng với Mưa Nguồn, Đi Vào Cõi Thơ là những chất ngọc nào phải thứ đồi trụy rẻ tiền.

Có vẻ nhà cầm quyền lúc đó muốn truy chụp tác giả hơn là tác phẩm. Vũ Hoàng Chương, Mai Thảo, Duyên Anh, Đinh Hùng, Hoàng Hải Thủy, Nguyên Sa, Chu Tử, Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca, Võ Phiến, Văn Quang, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Tạ Tỵ có viết gì cũng vẫn bị coi là thứ biệt kích văn nghệ.

Xin lấy trường hợp Vũ Hoàng Chương làm điển hình. Ai đã gặp Vũ Hoàng Chương rồi thì đều thấy đó là một thi sĩ gầy ốm tong teo, nói năng nhỏ nhẹ, lúc nào cũng ăn mặc rất chải chuốt, tươm tất, đầu chải mượt với cà rà vạt. Tác phẩm thì tóm gọn trong hai chữ mà thôi: Thơ Tình. Cả đời chỉ biết làm thơ. Và chỉ biết có thơ. Nhưng dù chỉ làm thơ cũng bị coi là người bội phản. Ông đã đi tù như một số nhà văn khác như trường hợp Hồ Hữu Tường. Khi ra khỏi tù được vài ngày thì ông chết.

Mai Thảo dù chỉ viết truyện thuần túy văn chương như Người Thầy Cũ, Mười Ðêm Ngà Ngọc, Căn Nhà Vùng Nước Mặn hay Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật cũng vẫn bị coi là tên biệt kích văn nghệ hàng đầu của miền Nam. Thanh Tâm Tuyền dù siêu thực hay lãng đãng bí hiểm như Tôi Không Còn Cô Ðộc, Bếp Lửa, Cát Lầy cũng là kẻ cấy mầm độc tư tưởng ngoại lai thoái hóa. Hủy diệt các niềm tin thì đã có Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện. Duyên Anh có viết Dấu Chân Sỏi Ðá, Hoa Thiên Lý, Thằng Khoa, Gấu Rừng, Giặc Ô Kê cho trẻ con cũng vẫn là tên đầu sỏ văn nghệ nguy hiểm.

Người ta nhắm đánh vào người, nhắm thái độ lập trường chính trị để đánh giá tác phẩm của tác giả. Vì nhắm tác giả nên có nhiều nhà văn tự nhiên được sót tên một cách cố ý. Đó là những nhà văn một mặt nào đó có thể không chịu xếp hàng trong xã hội miền Nam cho dù thực sự họ cũng xếp hàng như mọi người. Có nghĩa là xét về mặt tác phẩm thì những nhà văn này cũng chẳng khác gì các nhà văn vừa kể ở trên. Có gì phân biệt được về phong cách viết giữa Bình Nguyên Lộc với Lê Xuyên hay với Võ Phiến. Nhưng Bình Nguyên Lộc được tha. Giữa Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung mà đôi khi ta tưởng hai người có cùng một lập trường, cùng một quan điểm và cùng một đường lối. Nhưng sách vở thì lại bị phân biệt đối xử khác nhau.

Trong số những người sót tên trong sổ đen phải kể đến Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn, Thích Nhất Hạnh.

Sự đánh phá và truy chụp đó nói cho cùng là một sự muốn xóa trắng Văn học miền Nam. Xin trích dẫn vài tư liệu làm bằng cớ trong sách Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 200: “Theo Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, trong Nhà Văn VN, từ 1954-1975 có 286 bài viết nhằm vu khống, xuyên tạc văn học miền Nam. Chỉ thị của Lê Duẩn sau giải phóng, kỳ họp Quốc Hội khóa 5: Sau ngày giải phóng nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hóa ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để.”

Về những bài viết, xin kể vài bài: Tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hóa mới. Nọc độc văn hóa nô dịch. Những tên biệt kích cầm bút. Lại bàn về nọc độc văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-75.

Tên những người viết đó là: Trần Trọng Đăng Đàn, Lê Đình Ky, Trần Văn Giàu, Nguyễn Huy Khánh, Thạch Phương, Phan Đắc Lập, Bùi Công Hùng và cả Lữ Phương.

Miền Nam có thể thua cuộc. Nhưng cái văn học đó không có lý do gì bị xóa trắng oan uổng như thế. Bởi vì trong 20 năm sinh hoạt văn học đó, nó xác định cho thấy chỗ đứng của nó với sắc thái và cá tính của một nền Văn học đích thực. Một nền văn học mà sản phẩm của nó là kết quả của tự do suy nghĩ, tự do sáng tác. Đấy là cái ưu vượt của sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam mà trong suốt mấy chục năm chia cắt và cả sau mấy chục năm thống nhất đất nước rồi, người ta vẫn chưa thực hiện nổi một điều đơn giản đó.

Đặc biệt các giáo sư Triết, dù bị phê phán vì rao truyền chủ nghĩa Hiện Sinh, nhưng sách vở của họ lại không bị cấm lưu hành toàn bộ như Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh, Trần Văn Toàn, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và các lớp giáo sư trẻ như Đặng Phùng Quân, Nguyễn Trọng Văn. Trừ một trường hợp đặc biệt, dù là giáo sư triết, nhưng viết văn nên cấm lưu hành toàn bộ như sách của Huỳnh Phan Anh và Nguyễn Xuân Hoàng.

Phần tôi nghĩ rằng, thời kỳ sau 1975, đó là thời kỳ Văn Học bất hạnh cho toàn miền Nam

Bất hạnh vì sách bị tịch thu, bị thiêu hủy. Bất hạnh vì hơn 200 nhà văn, nghệ sĩ bị đưa đi cải tạo. Bất hạnh theo suốt cả đời họ. Vì kể từ đó, họ bị khước từ là nhà văn, bản án tù cứ thế kéo dài mãi mãi vì họ không bao giờ còn có cơ hội để viết. Và kể từ đó đến sau này, ta không còn bắt gặp lại mảnh đất miền Nam với những cây trái văn học nữa, cùng lắm có những cây trái đau khổ, đọa đầy và hủy diệt.

Và cái người bất hạnh nhất, tiêu biểu nhất có lẽ là nhà văn Nguyễn Thụy Long mà người ta quen gọi là nhà văn ‘Loan mắt nhung’. Sau 1975, ông lê kiếp số phận nhà văn như một con chó đói, một loài chuột chui nhúc để kiếm sống.

Hãy nghe ông kể: “Tôi về sống với mẹ già ở Ấp Đông Ba Gia Định sau ngày ‘giải phóng’, bên này Cầu Bông, sau khi bị phía nhà vợ thuộc gia đình Cách mạng đuổi ra khỏi nhà… Tôi ngậm đắng nuốt cay bước ra khỏi nhà sau khi bị vu bao nhiêu là thứ tội, kể cả tội ăn cắp tài sản của chính mình, suốt nhiều năm cầm bút tạo thành… Mất nhà, mất vợ chẳng nói làm gì, vì đã cạn tầu ráo máng rồi, nhưng mất con tôi mới đau.” Sau khi hồ Con Rùa trên đường Duy Tân bị nổ, ông cùng nhiều trí thức, văn nghệ sĩ bị bắt vì vụ này. Xin đọc tiếp: “Những câu chuyện vặt trong phòng giam bỗng im bặt, khi tiếng nói thật lớn thật to ở phòng giam tử tội cuối hành lang cất lên: Chào tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em còn ở lại. Tôi là Nguyễn Xuân Hùng, tự Ali Hùng, hai người bạn tôi, một là linh mục, một là chiến sĩ. Tôi là một người Việt Nam lai da đen, xứ Phi Châu Sénégalais, mẹ tôi là người Việt Nam, vậy tôi xin nhận nơi này làm quê hương, vì mẹ Việt Nam của tôi đã nuôi tôi khôn lớn và thành người. Trong phòng giam của tôi, vị linh mục đang quỳ dâng mình cho Chúa, người bạn chiến sĩ thì đang huấn nhục. Tôi có giọng khỏe, xin được hát thân tặng lại tất cả những anh em còn ở lại. Những bài hát thấm đượm tình quê hương của Phạm Duy mà tôi rất ngưỡng mộ.”

Chúng tôi đã mất Sàigòn thật rồi. [v]

Sau này, theo bs Trần Ngọc Ninh viết lại trên tờ Khởi Hành, tháng 9-2005, ông từ chối không cho nhà xuất bản sửa dù một chữ những tác phẩm của ông: “Tôi còn gì để mất ngoài liêm sỉ, thà chết đói chứ tôi không sửa văn tôi viết trước kia được.”

Chính ông cũng kể lại về trường hợp có nhà xuất bản cho người đến đề nghị in lại cuốn Kinh Nước Ðen với điều kiện nó phải được sửa chữa lại. Ông đã từ chối không chịu.Nay thì tờ Khởi Hành đang tiến hành giải văn chương năm nay dành cho ông. Thực tế trước mắt là ông sẽ nhận được một số tiền để sinh sống ra khỏi kiếp chó đọa đầy.

B.- Tình hình sách cũ hiện nay.

Về Sàigòn hôm nay, chỉ ở Sàigòn thôi mà không ở Hànội, tôi tìm lại xem trong đống tro tàn đó còn lại được gì. Không còn bao nhiêu. Tôi thấy họa hiếm mới còn sót lại một vài cuốn truyện. Và càng ngày, số lượng nó càng ít đi, vì mua vào mà không bán ra hoặc theo thời gian bị tiêu ma vì không có thư viện bảo quản. Chỉ còn lại một số rất ít mà trên lý thuyết vẫn là sách cấm lưu hành, bất hợp pháp, nhưng lại được bày bán công khai như thể hợp pháp. Hơn thế nữa, các loại ‘sách cũ’ thuộc loại sách chưởng, kiếm hiệp, mặc dầu vẫn là sách cấm lưu hành lại được in lại, sách cũ trở thành ‘sách mới’, bày bán công khai và hợp pháp. Chẳng hạn những sách của Vũ Đức Sao Biển như Kim Dung Giữa Ðời Tôi gồm các quyển Kiều Phong, Khát Vọng Tự Do, quyển thượng, Thiên Hạ Ðệ Nhất Mỹ Nhân, quyển trung, Từ AQ Ðến Vi Tiểu Bảo, quyển hạ và Thanh Kiếm Và Cây Ðàn, quyển kết thì đã được Nhà xuất bản Trẻ in ấn và phát hành đoàng hoàng. Gần như toàn bộ các loại sách kiếm hiệp được in lại. Sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn cũng vậy. Sách Triết cũng được in lại rất nhiều với các tác giả Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm.

Thế thì những bá cáo chính trị suốt bao nhiêu năm cũng như những văn kiện, nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung Ương Ðảng Cộng sản phải chăng chỉ còn có giá trị như những tấm giấy lộn.

Để hiểu rõ thêm về phần sách cũ này, tôi có một nhận xét như sau: Kể từ 1975 đến 1985, Sàigòn hay miền Nam có hai bộ mặt sinh hoạt văn học: Mặt nổi và mặt chìm. Mặt nổi bao gồm những sách báo in ấn chính thức từ miền Bắc gửi vào. Đó là một thứ văn học Cộng Sản mà tự nó mang tính chất đồng phục, tính chất hợp pháp và giáo điều buồn nản và tầm thường. Tôi còn nhớ trên vỉa hè phố Sàigòn những cuốn sách dịch in trên giấy xấu đến khó coi cả từ bề ngoài đến tựa đề. Đọc lên nghe tức anh ách như: Mười Ngày Của Bôcaxiô. 10 ngày gì mới được chứ. Thằng Cười, dịch V.Hugô. Cửa Hàng Vì Hạnh Phúc Các Bà của E. Zôla… Dịch lạ quá, tôi đi tìm sách của nhà văn này, nhưng đành chịu không kiếm ra cái tựa đề Cửa Hàng Vì Hạnh Phúc Các Bà ở đâu. Trăm Năm Cô Ðơn của G. Market. Tuổi Thơ Mãi Mãi Cùng Ta của M. Karim, Đất Vỡ Hoang của M. Sôlôkhốp, Thời Gian Ðể Sống Và Ðể chết của E. Rơmacơ. Ông Già Và Biển Cả của E. Hemingway, Đồi Gió Hú của E. pônti. Cả ba cuốn này đều đã được dịch ở trong Nam trước đó rồi. Đốt Đỉnh Gió Hú, đốt Lão Ngư Ông Và Biển Cả, đốt Thời Gian Ðể Sống Và Ðể Chết của miền Nam mà chất lượng dịch đã hẳn là bảo đảm hơn miền Bắc để mang nguyên con những thứ đó vào miền Nam với phẩm chất không bảo đảm và giấy thì thật xấu. Để làm gì?

Vì thế dân chúng trong Nam vẫn chịu khó tốn công, tốn tiền đi tìm sách báo cũ để đọc, chuyền tay nhau để đọc. Bởi vì, chính những sản phẩm văn hóa đó đã làm nên họ, là của họ, là bản thân họ và trở thành biểu tượng của những giá trị quá khứ cần được nâng niu giữ gìn. Và như thể, nếu không có những thứ văn hóa phẩm đó được nuôi dưỡng thì họ không còn là họ nữa, khô chồi và thui chột.

Nhưng một phần thì sinh hoạt văn học miền Nam dừng lại ở đó, bằng lòng với tất cả những thứ đến từ dĩ vãng, quá khứ và trong tương lai sẽ mỗi ngày mỗi thưa vắng đi, bởi vì không có người làm công việc sáng tác nữa. Đó là thứ văn học không có tương lai mà chỉ còn mở ra một sinh lộ: Quay lại quá khứ của chính mình để nhớ, để thương và để sống lại. Nếu ở Hải ngoại thời đó người ta gọi VHHN là thời kỳ văn học lưu vong. Trong nước phải gọi là thời kỳ văn học của quá khứ, vang bóng một thời.

Từ một nền văn học đồng phục, bị động, nghèo nàn với những sách vở lưa thưa và chưa định hình. Sách báo miền Nam cũ vẫn có mặt mà chưa có kế thừa và thay thế. Kể từ đó, sau ngày 30-4, sách báo miền Nam vỉa hè, giống như số phận của chính nền văn học ấy, thực sự trở thành sinh động chỉ nhờ vào sách báo cũ. “Điều đáng chú ý là đa số chủ nhân các tụ điểm văn hóa này là những người có học. Không thể nói là họ không am hiểu nội dung và tác hại của thử sách ra. Lạ một điều là bất chấp mọi hậu quả, họ cứ thản nhiên bày bán, những thứ rác rưởi văn hóa đó, ngày này qua ngày khác. Cứ mỗi độ chiều về, ở những điểm này, người bán kẻ mua tấp nập.” [vi]

Không có gì lạ. Cái lạ là các ông không hiểu gì về nếp sống, nếp nghĩ, sinh hoạt văn học miền Nam cả. Những thứ mà quý ông gọi là rác rưởi thì dân miền Nam lại coi là thứ rác quý, rác hiếm.

Sau 30-4, miền Nam có nhiều thứ rác lắm. Những thứ rác có thể đốt. Nhưng đốt thứ rác sách vở, báo chí văn học nghệ thuật miền Nam, các ông đã đụng chạm đến tinh thần và niềm tự hào của cả một miền đất nước thân yêu của họ. Điều đó khó mà tha thứ được.

C.- Những người có công với sách cũ của Sàigòn.

Sách vở, báo chí miền Nam trở thành món ăn tinh thần là do công sức của các nhà văn, nhà phê bình, giáo sư đến các học giả. Điều hiển nhiên là thế. Nhưng sức bật, sự tác động để phổ biến những văn hóa phẩm ấy là nhờ vào một số lớn nhà xuất bản có công với Văn Học. Họ là những nhà xuất bản như Trình Bày, Nam Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hóa Á Châu, Diên Hồng, Xưa nay, Khai Trí, Lá Bối, An Tiêm. Những nhà xuất bản này đã đóng góp vào việc xuất bản 200 triệu cuốn sách trong 20 năm. Con số thật không nhỏ.

1.- Ông Khai Trí:

Chẳng mấy ai biết tên thật của ông, thành ra thương hiệu nhà sách KT, 62 Lê Lợi được đồng hóa vào tên ông. Thật ra tên ông là Nguyễn Hùng Trương, với hai tay trắng làm nên sự nghiệp. Ông vừa là một doanh gia, vừa là người làm văn hóa. Ông biên soạn khoảng 15 cuốn sách như Thơ Tình Việt Nam và Thế Giới Chọn Lọc, Chánh Tả Cho Người Miền Nam… và chủ trương tuần báo Thiếu Nhi cùng với Nhật Tiến.

Sau giải phóng, nhà sách Khai Trí là nạn nhân của nạn hôi của, đốt phá. Sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường. Tôi đã chính mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực, bất lực của một người tự xếp hàng vào người thua cuộc. Tôi không biết lúc bấy giờ ông Khai Trí đứng ở đâu. Đứng ở đâu thì cũng cùng tâm cảnh đau xót đó thôi. Khi đã chứng kiến cảnh này rồi thì đừng bảo tôi có thể nghĩ hay cho những người mới đến. Họ không hiểu được điều đó vì quá hăng say trong men chiến thắng hay họ chưa bao giờ biết nghĩ tới người dân muốn gì, nghĩ gì. Tiếp theo đó là hai kho sách lớn cũng bi trưng thâu. Hằng vài trăm ngàn cuốn sách ra khỏi kho, rồi biến mất dạng.

Ông trắng tay sau bao nhiêu năm tốn công gây dựng.

Sau này, ông ở Mỹ về VN một lần nữa, mang theo hy vọng làm được một chút gì cho đất nước. Ông đã mang về 2000 đầu sách để tiếp tục làm Văn hóa. Sách bị tịch thâu với lý do: in trước 75. Theo Nguyễn Thụy Long, phần lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là sách về giáo dục, sách hiền, sách tốt cả. Mà dại gì ông mang sách dữ, mà làm gì kiếm ra đâu được sách dữ. Nó chỉ có một cái tội: Tội đã in trước 1975.

Trước 75 là xấu, vi phạm luật. Sau 75 là tốt.

Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục chẳng đi đến đâu.

Trước khi ông mất, người ta đã không quên đặt tên ông cho một con phố nhỏ. Đúng như ông thày TQ nhận xét: Hôm qua nó giết mình, hôm sau nó mang vòng hoa đến phúng điếu.

…Ông ra đi lúc 5h15 ngày 11/3/2005, linh cữu quàn tại nhà riêng (237 Điện Biên Phủ, quận 3, TP HCM), lễ động quan lúc 6h ngày 14/3, hỏa táng tại Bình Dương. Nguyện vọng của gia đình là gửi tiền phúng điếu vào quỹ từ thiện thành phố.

Cụ Toan Ánh, năm đó 91 tuổi, trong bữa đưa đám ma ông Khai Trí than thở: tại sao mình sống lâu như thế, ông Khai Trí mới có 80 tuổi.

2.- Nhà Lá Bối:

Nhà Lá Bối do nguyên Đại đức Từ Mẫn, tên thật là Võ Thắng Tiết trông nom. Sau ông hoàn tục. Ông là người có lòng, để việc phụng sự văn học nghệ thuật lên trên tiền bạc. Từ Mẫn đã giúp các nhà văn có nơi xuất bản những đầu sách có giá trị và người đọc có cơ hội đọc những cuốn sách trang nhã, chăm sóc từng chút trong việc trình bầy ấn loát và cả đến nội dung sách. Tất cả sách của Nhất Hạnh đều từ đây mà ra. Nếu không có Lá Bối, những Chiến Tranh và Hòa Bình, Chiến Quốc Sách, Sử Ký Tư Mã Thiên, Kiếp Người của Sommerset Maugham, Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay và Lối Thoát Cuối Cùng của V. Georghiu sẽ nằm ở đâu? Nếu không có Lá Bối, nhiều sách chắc gì đã có cơ hội ra mắt bạn đọc. Nhất là bộ Chiến Tranh và Hòa Bình của Léon Tolstoi. Sách in tốn vài ba triệu thời bấy giờ, bao giờ lấy lại vốn. Sau này, ở hải ngoại, ông tiếp tục làm công tác văn học với nhà xuất bản Văn Nghệ. Nếu cần một vinh danh gì cho 20 năm Văn học dịch nói riêng và Văn học nói chung, có cần nên nhắc đến Võ Thắng Tiết không? Kẻ lót đường cho Văn học miền Nam.

3.- An Tiêm Thanh Tuệ:

Tôi chỉ xin trích dẫn hai bài viết lúc mà Thanh Tuệ nằm xuống để thấy được rằng nhà xuất bản An Tiêm với Thanh Tuệ có lòng với văn chương như thế nào.

– Tiếc Văn Chương, thương chữ nghĩa, Trần Thị Lai Hồng.

Biết là vô thường, nhưng vẫn không khỏi tiếc thương. Tôi tiếc thương người An Tiêm Thanh Tuệ hiền hòa đã đành, mà nỗi tiếc Thương Văn Chương chữ nghĩa còn trĩu quá nặng.

Thôi từ nay, còn ai khổ công lặn lội tìm tòi đãi lọc để phổ biến văn chương như đã từng với Tuệ Sĩ, Bùi Giáng, Sao Trên Rừng, Nguyễn Đức Sơn. Thôi từ nay còn ai trân quý nâng niu bảo trọng chữ nghĩa như đã từng với Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mười Hai con Mắt… Đêm Nguyệt Động, Cái Chuồng Khỉ và còn nhiều, rất nhiều công lao với văn học đã, đang và chưa thực hiện được.

– Với nhà văn Lê Thị Huệ:

Rồi bỗng nhiên nghe tin Ông chết. Đặng Ngọc Loan hôm trước rủ đi uống cà phê với Ông một lần, gọi điện thoại nói với tôi: Tin gì kỳ cục. Sao người vậy mà chết nghe kỳ cục quá.

4.- Doanh nghiệp sách Thành Nghĩa, Sàigòn:

Có lẽ phải nói đây là một ông Khai Trí thứ hai. Trong một dịp đi dự một buổi phát giải thưởng, do cái TTNCBTVPHVHDT. Viết tắt thế để quý vị khỏi mất thời giờ với cái Trung Tâm đó. Tôi có gặp anh Võ Thành Tân, Tổng giám đốc nhà sách Thành Nghĩa và nhất là anh Vũ Quang Trình, trợ lý TGĐ trong bữa ăn trưa đó. Gốc gác các anh đều là dân Quảng Nam, Quảng Ngãi mà người dân gọi đùa là: Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Quảng Nam, Đà Nẵng. Gọi như thế để thấy cái dân ngoài đó đi theo đảng nhà nước tận tình. Nay sau 30 tháng tư, họ, những người dân miền ấy có mặt khắp nơi, nhất là trong ngành báo chí, xuất bản. Các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên v.v… đều có người của họ. Chẳng hạn báo Thanh Niên có Nguyễn Công Khế, Tuổi Trẻ có Hùng Sơn Phước, Công An thành phố Trần Trữ Loang, Sàgòn Time có Võ Như Lanh, Kinh Tế VN có Cung Văn, Nhất Ánh..

Võ Thành Tân, sau 75 đang còn học Văn Khoa. Với cái vốn liếng ấy đâm ra hữu dụng, anh làm nghề mua bán sách cũ. Biết sách nào quý, biết sách nào giá trị là sở trường của một người mua bán sách cũ. Có tý vốn rồi, anh mua lại một cái ki ốt bán sách lẻ ở đường An Dương Vương. Kịp đến thời mở cửa, 1986… Theo lời anh Trình, các anh liên kết với các nxb của nhà nước để in sách. Họ đứng tên, cho giấy phép rồi họ mặc cho mình muốn làm gì thì làm. Một cuốn sách mới đầu ít vốn in 1000 cuốn thăm dò. Bán chạy thì in lại, bán tiếp. Một năm mới đầu xuất bản 4, 5 đầu sách, rồi cứ thế tăng dần. Đến năm 2004 thì đã cho xuất bản đến 3000 đầu sách đủ loại. 2005 tăng lên 3500 đầu sách một năm.

Nay thì các anh trở thành tỉ tỉ phú trong ngành xuất bản. Ngoài ra, các anh còn mở ra 18 cửa hàng bán sách với 2000 nhân viên. Hỏi sao có nhiều nhân viên như thế. Trả lời là để trông chừng những khách hàng ăn trộm đồ trong tiệm sách.

Có những tiệm sách lớn có đến 40 chục ngàn đầu sách đủ loại.

Làm gì còn có những Thanh Tuệ, những Từ mẫn nữa. Làm gì còn có Lá Bối, An Tiêm, Nam Sơn nữa. Làm gì còn có ‘Loan Mắt Nhung’ nữa.

Thôi chào vĩnh biệt sách cũ Sàigòn. Chào những đứa con tinh thần sinh trước 1975 còn sót lại.

Và như trong một số bài viết của tôi, tôi luôn luôn đòi hỏi nhà cầm quyền đương thời một điều, một điều thôi. Trước khi nói hoà giải, trước khi nói tình nghĩa, trước khi kêu gọi Việt kiều về nước, trước khi nói đến khúc ruột ngàn dặm v.v. và v.v… Yêu cầu các ông một lời xin lỗi chúng tôi, xin lỗi những người lính VN Cộng Hòa, xin lỗi các nhà văn, nhà trí thức, xin lỗi các bà vợ, xin lỗi người mẹ, xin lỗi trẻ con miền Nam và cuối cùng xin lỗi sách vở miền Nam. Xin lỗi tất cả.

Không làm thì hãy khoan nói đến truyện gì khác.

Nguyễn Văn Lục

_____________________

[i] Trích Văn Hoá, Văn Nghệ. Nam Việt Nam 1954-1975, Trần Trọng Đăng Đàn, trang 779, nxb Văn Hóa Thông Tin Hànội- 2000.
[ii] Trích lại trong Văn Hóa Văn Nghệ Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Dàn, trang 502, nxb Văn Hóa Thông tin.
[iii] Trích lại trong Văn Hoá, Văn Nghệ, Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Đàn. Nxb Văn Hóa Thông tin. Trang 502.
[iv] Trích Văn Học Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản, Nguyễn Hưng Quốc, trang 226, nxb Văn Nghệ, 1991
[v] Trích Ký ức về tiếng hát của người tử tù, Nguyễn Thụy Long, tạp chí Khởi Hành số tháng 9-2005, trang 23.
[vi] Trích SGGP, ngày 15-2-1987. Trong Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 228. nxb Văn Nghệ.