NHỮNG NGÀY THÁNG KHÓ QUÊN SAU 1975…- Nguyễn Văn Tuấn

Việt Luận – Viet’s Herald

Nguyễn Văn Tuấn

Đó là những ngày tháng rất khó khăn sau 1975, mà ngày nay ít ai trong giới trẻ biết dù họ thỉnh thoảng nghe đến cái gọi là “Thời Bao Cấp”. Càng ít người nghe qua về chế độ tem phiếu, đốt sách, Đánh tư sản, Kinh tế mới, tù cải tạo, thảm nạn Thuyền Nhân, v.v…

Tem phiếu:

Một phần trong nền kinh tế mới sau 1975 là “chế độ tem phiếu”. Mặc dù nó đã có từ 1957 ở miền Bắc, nhưng dân trong Nam chẳng biết gì! Theo chánh sách tem phiếu này, tất cả nguồn lương thực, thực phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống được phân phối qua tem phiếu được cấp cho mỗi gia đình.

Nhà nước có những tiêu chuẩn cụ thể cho mỗi giai tầng trong xã hội. Một người dân được tiêu chuẩn 150 gram thịt mỗi tháng (tương đương với mức tiêu thụ thịt trung bình trong 1 ngày hiện nay của người trưởng thành). Nhưng các cán bộ nhà nước thì được hưởng 300 gram đến 500 gram mỗi tháng, tùy theo cấp bậc. Gạo cũng được phân phối theo chế độ tem phiếu, và tiêu chuẩn theo giai cấp rất rõ rệt.

Những tiêu chuẩn như thế không thể nào đủ sống. Hậu quả là người dân bị đói. Nên nhớ rằng miền Nam, đặc biệt là miền Tây, là vựa lúa của cả nước và người dân ở đây chưa bao giờ thiếu gạo ăn. Ấy vậy mà sau 1975 người dân bị đói vì thiếu gạo! Người ở thành thị đói hơn người ở nông thôn.

Danh từ “ăn độn” có nghĩa là người ta phải trộn gạo với các nguyên liệu khác như khoai mì, đôi khi lên đến 60-70 % để có một bữa ăn. Kiên Giang là tỉnh nông nghiệp, vậy mà ở Rạch Giá gạo được xem là hàng quý hiếm đến mức người ta phải cất giữ nó như sâm quý, chỉ dùng để nấu cháo khi đau ốm.

Đổi tiền:

Screenshot

Ngày 22 Tháng Chín 1975, chánh quyền mới ra lệnh đổi tiền, 500 đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa đổi lấy 1 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam tức loại tiền mới. Mỗi gia đình (hộ khẩu) được đổi tối đa 200 đồng mới. Tiền cũ còn dư phải gởi vào ngân hàng, rút ra và đổi từ từ.

Người dân xem là một biện pháp làm nghèo dân chúng. Sau 1975 ai cũng nghèo. Lúc đó, xuất hiện câu ca dao: “Năm đồng đổi lấy một xu/ Người khôn đi học [tập], thằng ngu làm thầy.”

Đốt sách:

Sau 1975, rất nhiều sách báo xuất bản trước 1975 ở miền Nam bị thiêu hủy. Nhà nước huy động thanh niên, thậm chí là trẻ em mang băng đỏ vào nhà của người dân để lục soát, tịch thu các thể loại sách vở, báo chí, băng đĩa. Một chủ tiệm cho thuê sách cạnh nhà thờ Ba Chuông (Quận 3, TPHCM) đã cho nổ một quả lựu đạn khi các em nhỏ đeo băng đỏ xông vào nhà để tịch thu sách.

Không ai biết con số chính xác là bao nhiêu, nhưng có vài con số đã được báo cáo. Nhưng năm 1977, một cán bộ tại TPHCM nói với báo chí quốc tế rằng có khoảng 700 tấn sách của miền Nam đã bị tịch thu và nghiền nát sau hai năm giải phóng. Ở Huế, một cán bộ cho biết hàng chục ngàn cuốn sách và tranh ảnh “lạc hậu” về “tình yêu ủy mị” và “tìm kiếm niềm vui thể xác” đã bị đốt bỏ.

Linh mục André Gelinas cho biết một số lượng lớn trong khoảng 80.000 cuốn sách của thư viện Trung tâm Giáo dục Alexandre de Rhodes tại Sài Gòn đã bị đốt bỏ theo chánh sách tiêu diệt “văn hóa tư sản”.

Đánh tư sản:

Có đến ba chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư nhân”, thường gọi là “Đánh tư sản” ở miền Nam. Các đợt Đánh tư sản được đánh mã số X1, X2 và X3.

Đợt X1 khởi động sáng 09 Tháng Chín 1975, diễn ra tại 17 tỉnh thành miền Nam và Sài Gòn. Mục tiêu chánh là nhà ở đô thị, tịch thu tài sản và buộc cư dân phải di dời đến các vùng Kinh tế Mới.

Đợt X2 bắt đầu từ Tháng Ba 1978, kéo dài đến sau Đổi Mới (khoảng 1990). Đợt này tập trung vào tư thương, tiểu tư sản và các cơ sở sản xuất nhỏ – vốn là nền tảng kinh tế tự do được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa hỗ trợ.

Song song với X2, đợt X3 diễn ra mạnh mẽ tại Sài Gòn, do Đỗ Mười trực tiếp chỉ huy. Mọi cửa hàng kinh doanh, từ lớn đến nhỏ, đều bị UBND TPHCM ra lệnh đóng cửa. Các cơ sở buôn bán, nhà hàng, kho bãi, dịch vụ bị niêm phong. Tổ công tác bất ngờ ập đến, kiểm soát tài sản, khống chế gia đình, không cho ra vào. Mỗi tổ niêm phong gồm ít nhất ba người từ các cơ quan khác nhau, không quen biết nhau, bao gồm thanh niên xung phong, công nhân, sinh viên và thanh niên địa phương.

Hậu quả là ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng và gia dụng bị phá hủy hoàn toàn. Các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy cũng ngừng hoạt động do chủ sở hữu bị quốc hữu hóa.

Nhà báo Huy Đức viết: “Không chỉ bị ‘tước đoạt tài sản’, các nhà tư sản còn bị buộc phải rời thành phố, cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh bạch. Ngày 10 Tháng Tư 1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới dạng ‘hỏi-đáp’, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.”

“Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: ‘Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn. Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn’. ”

Kinh tế mới:

Ngày nay, ít ai nhớ đến danh từ “Kinh tế mới”, nhưng thời đó (1975) là một nỗi ám ảnh lớn của cư dân Sài Gòn. Chủ trương là di dời 5 nhóm dân sau đây ra vùng kinh tế mới (theo lệnh ngày 19 Tháng Năm 1976):

  • Người thất nghiệp
  • Người cư ngụ bất hợp pháp
  • Người cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa
  • Tiểu thương gia, tiểu địa chủ, đại thương gia
  • Người gốc Hoa, dân theo đạo Công giáo.

Có lẽ ý tưởng chánh là giảm số người thuộc Việt Nam Cộng Hòa tập trung ở những đô thị. Trong thời gian 1975-80, đã có 832.000 người từ Sài Gòn bị di dời về vùng nông thôn. Phương pháp di dời bao gồm cưỡng bức, thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và các nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em nhập học khiến đối tượng phải di chuyển ra vùng nông thôn.

Tù cải tạo:

Tù cải tạo là một vấn đề nhức nhối cho đến ngày nay. Sau 1975, nhiều người từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa tình nguyện đi học tập vì nghĩ rằng chỉ vài tuần là xong, nhưng không ngờ có nhiều người phải đi cả chục năm trời. Có nhiều người qua đời trong các trại tù cải tạo.

Chánh quyền mới không cho biết con số tù nhân cải tạo là bao nhiêu. Nhưng Encyclopedia of the Vietnam War, sau năm 1975, số sĩ quan, công chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ tù khoảng hơn 1.000.000 người trên tổng dân số Nam Việt Nam lúc đó khoảng 20 triệu người. Tất cả bị giam tại trên 150 trại giam; theo đó khoảng 500.000 được thả về trong 3 tháng đầu; 200.000 bị giam từ 2 đến 4 năm; 250.000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60.000 người bị giữ lại.

Theo một bài báo: “Trong số trên 1.000.000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165.000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù cải tạo”.

“Thuyền nhân”:

Screenshot

Sau 1975, nhiều người (kể cả giới trí thức) không thấy tương lai trên quê hương, nên họ tìm đường vượt biên. Nhiều người tù cải tạo sau khi được trả tự do họ đều tìm đường vượt biên.

Chế độ mới áp dụng “chủ nghĩa lý lịch”, nên ngay cả con em của họ cũng không có cơ hội học đại học và đóng góp. Chẳng hạn như trong quy chế chọn sinh viên đại học, họ chia học sinh thành 14 nhóm theo lý lịch của thân nhân. Nhóm 1 và 2 là con em của “gia đình cách mạng” và được ưu tiên cho học dù năng lực học tập của họ rất kém. Ngược lại, những học sinh trong nhóm 13 và 14 sẽ không được đi học đại học vì được xem là con em của “những sĩ quan cao cấp, hay là người công giáo”.

Những người không thấy tương lai đành phải ra đi: Vượt biển.

Rất khó biết chính xác có bao nhiêu người Việt đã vượt biên. Nhưng theo Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, trong thời gian 1975-1995, có chừng 800.000 người Việt vượt biên bằng đường biển và chừng 100.000 bằng đường bộ. Đa số là xảy ra trong thời gian 1975-1985 vì đó là “cao trào” của làn sóng vượt biển.

Theo một nghiên cứu trên những thuyền nhân tới Thái Lan thì đa số (trên 50 %) thuyền tới bờ bị hải tặc Thái Lan tấn công. Vẫn theo Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, có ít nhứt 10 % người vượt biển bỏ mạng ngoài khơi, “vĩnh viễn không bao giờ tới miền đất hứa”. Dựa vào đó, chúng ta có thể ước tính rằng có ít nhứt 100.000 người Việt đã nằm trong lòng Biển Đông.

Nguyễn Văn Tuấn


 

 NĂM ẤY, TÔI TỐ CÁO CHÍNH MẸ MÌNH; NGÀY HÔM SAU BÀ BỊ XỬ BẮN

Dành cho Bò Đỏ và DLV

 NĂM ẤY, TÔI TỐ CÁO CHÍNH MẸ MÌNH; NGÀY HÔM SAU BÀ BỊ XỬ BẮN — GIỜ TÔI ĐÃ GIÀ, ĐÊM NÀO CŨNG SỐNG TRONG ÁC MỘNG†

Năm 1970, giữa cao trào Cách mạng Văn hóa, Trương Hồng Binh mới 16 tuổi nhưng đã là một hồng vệ binh cuồng tín. Với cậu, Mao Trạch Đông là chân lý tuyệt đối, còn mọi nghi ngờ đều là tội ác. Một buổi tối trong gia đình ở An Huy, khi tranh luận về sách vở, mẹ cậu – bà Phương Trung Mưu – buột miệng nói rằng có những câu người ta gán cho Mao thực ra không phải do Mao viết, và việc thần thánh hóa lãnh tụ là không bình thường. Chỉ vài câu nói ấy thôi cũng đủ làm không khí trong nhà nổ tung. Đối với người mẹ, đó có thể chỉ là lời than mệt mỏi; nhưng với cậu con trai đã được giáo dục bằng đấu tranh giai cấp, đó là lời “phản cách mạng” không thể tha thứ.

Cơn phẫn nộ nhanh chóng biến thành hành động. Trương Hồng Binh cùng cha mình viết đơn tố cáo chính người mẹ, người vợ trong gia đình, lên chính quyền địa phương. Không yên tâm, cậu còn tự tay viết thêm một bản tố cáo khác, đeo huy hiệu hồng vệ binh, lén gửi để chắc chắn vụ việc không bị bỏ qua. Chỉ trong một đêm, ranh giới giữa mẹ và “kẻ thù giai cấp” bị xóa sạch. Ngày hôm sau, bà Phương Trung Mưu bị bắt.

Vài tuần sau, tại một buổi “đấu tố” công khai với hàng nghìn người, bà bị trói, treo bảng “phản cách mạng” trước ngực, ép quỳ giữa quảng trường. Bản án được tuyên rất nhanh: tử hình, thi hành ngay. Khi đoàn xe chở bà ra pháp trường, Trương Hồng Binh đứng trong đám đông nhưng không dám tiến lên. Người mẹ bị bắn chết, còn cậu con trai – người đã góp phần đẩy bà đến cái chết – chỉ biết đứng chết lặng, vừa sợ hãi vừa trống rỗng.

Bi kịch không kết thúc ở đó. Gia đình tan nát, cha mẹ ly hôn trên giấy tờ để “cắt đứt quan hệ với kẻ phản cách mạng”, bản thân Trương Hồng Binh và cha cũng bị xã hội xa lánh. Nhiều năm trôi qua, khi Cách mạng Văn hóa kết thúc và sự cuồng tín dần lắng xuống, ông mới bắt đầu hiểu điều mình đã làm. Ông viết đơn, viết hồi ký, cố xin phục hồi danh dự cho mẹ, thú nhận rằng ngày ấy ông đã đặt khẩu hiệu lên trên tình mẫu tử.

Giờ đây, khi đã già, Trương Hồng Binh nói rằng mỗi đêm ông vẫn mơ thấy mẹ. Trong những cơn ác mộng ấy, không có khẩu hiệu, không có quảng trường, chỉ có ánh mắt của người phụ nữ đã sinh ra ông – ánh mắt của một người mẹ trước khi bị chính con mình đẩy ra trước họng súng. Đó là bản án không tòa án nào tuyên, nhưng kéo dài suốt phần đời còn lại.

https://hk.aboluowang.com/2021/0308/1565844.html

Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (Mt 1:23-24)- Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Ước mong bạn cảm thấy mình được yêu thương và được đón nhận bởi Thiên Chúa đang “ở cùng chúng ta” hôm nay.

Cha Vương

Thứ 5 T3MV: 18/12/2025. (t4-24)

TIN MỪNG: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (Mt 1:23-24)

SUY NIỆM: Mùa Giáng Sinh, mùa của hy vọng, an bình và niềm vui, đang đến gần, bạn hãy cố gắng đừng để những tổn thương của quá khứ làm bạn cáu kỉnh, khó chịu hoặc căng thẳng—thay vì mong đợi sự ra đời của Hoàng Tử Bình An. Như Thánh Giuse và Đức Mẹ đã một lòng một dạ “xin vâng” với Chúa, bạn hãy noi gương các ngài sống lời “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh, hãy dừng lại và suy gẫm mầu nhiệm Cứu Độ—Ngôi Hai Thiên Chúa có mặt sống động với chúng ta “ở đây và lúc này” giữa một xã hội đầy xáo trộn, đe dọa, một thế giới ngập tràn thử thách… Mời bạn hãy cầu nguyện cho nhau để chúng ta biết hết lòng tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa của ngay trong lúc chúng ta đang bị lo lắng, cáu kỉnh, bối rối dằn vặt.

LẮNG NGHE: Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. (Is 9:5)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, là Đấng từ bi và giàu lòng xót thương, xin mở lòng con để con chuẩn bị đón Chúa cho xứng đáng. Xin giúp con biết loại bỏ những cảm xúc không lành mạnh đang làm con xa lìa Chúa và anh em.

THỰC HÀNH: Tặng cho người thân yêu của mình món quà “tha thứ” hôm nay nhé.

From: Do Dzung

************************

Ở Lại với Con – Hiền Thục

Từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản-Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

17/12/2025

Salomé Saqué là một nhà báo trẻ của Pháp, được biết đến bởi sự thẳng thắn, trí tuệ và lòng can đảm trong việc bảo vệ các giá trị dân chủ. Những điều cô nói không nhằm chỉ trích một dân tộc hay một chính quyền cụ thể nào. Đó là những lời cảnh tỉnh dành cho bất cứ xã hội nào đã sống quá lâu trong áp lực, hoặc mệt mỏi đến mức quên mất rằng: dân chủ không phải là thứ tự nhiên tồn tại – mà là thứ phải được nuôi dưỡng mỗi ngày.

Salomé Saqué

Dưới đây là một đoạn trong bài nói của cô:

“Nền dân chủ không bao giờ biến mất trong một ngày.

Nó chỉ tàn lụi khi người ta quen với bóng tối.”

Các xã hội không sụp đổ vì một biến cố bất ngờ, mà vì một quá trình dài: nỗi sợ được chấp nhận, sự bất công được coi là bình thường, và con người dần từ bỏ quyền lên tiếng của chính mình. Điều nguy hiểm nhất không phải là bạo lực, mà là sự thích nghi.

Bao giờ cũng vậy, trước khi tự do biến mất, một “giai điệu” quen thuộc sẽ vang lên:

rằng im lặng là khôn ngoan;

rằng phục tùng là an toàn;

rằng chân lý không quan trọng bằng sự yên ổn.

Thứ nhạc nền ấy ru con người vào trạng thái tê liệt, khiến họ tin rằng họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận. Đó chính là cách một xã hội đánh mất khả năng tự quyết: không phải vì con người thiếu hiểu biết hay thiếu dũng cảm, mà vì họ đã sống quá lâu trong một thế giới, nơi nỗi sợ trở thành thói quen, nơi sự thật bị bóp méo đến mức không còn nhận ra, nơi mỗi người thì thầm với chính mình: “Thôi, cố sống cho xong.”

Nhưng lịch sử chưa bao giờ được viết bằng sự cam chịu.

Không một nền dân chủ nào lớn lên từ sự im lặng kéo dài.

Tự do chỉ tồn tại khi con người tin rằng mình xứng đáng có nó.

Lịch sử luôn bắt đầu lại từ những khoảnh khắc rất nhỏ như thế.

Những lời nói trên của Salomé quả thật rất đáng suy ngẫm.

Nhưng tiếc thay, đó chỉ là… dân chủ tư sản.

Còn khi chúng ta đi học, chúng ta đã được dạy rất rõ ràng rằng:

“Dân chủ vô sản gấp một triệu lần dân chủ tư sản.”

Vậy nên, về nguyên tắc, những lời nhắc nhở của Salomé không dành cho Việt Nam.

Ở nước ta, dân chủ đã được giải quyết gọn gàng từ lâu. Đã có Đảng lãnh đạo tuyệt đối. Người lãnh đạo cao nhất của đất nước không cần dân bầu, vì Đảng đã bầu thay. Nhân dân, nhờ đó, được giải phóng khỏi một gánh nặng tinh thần rất lớn: khỏi phải suy nghĩ xem nên chọn ai.

Những ngày gần đây, trong nội bộ Đảng hình như đang có những cuộc đấu tranh khá quyết liệt để xem ai sẽ là người… được chọn. Tôi không có hiểu biết gì về các nhân vật chính trị này. Tôi chỉ thấy mạng xã hội xôn xao đủ loại tin đồn: ông nọ lên, bà kia xuống, người này “đang nguy”, người kia “sắp về”. Tin thật hay tin giả thì không ai biết, vì Đảng họp kín, chỉ có nhân dân là… họp hở.

Tôi cũng xin nói rõ: tôi không có hiểu biết gì về chính trị. Nhưng nếu buộc phải tổng kết một cách giản dị hai nền dân chủ, tư sản và vô sản, thì tôi thấy thế này:

Dân chủ tư sản thể hiện ở chỗ toàn dân tham gia bầu chọn người lãnh đạo cao nhất của mình. Dĩ nhiên, cũng có thể bầu sai. Ví dụ điển hình là… ông Trump hahaha.

Còn dân chủ vô sản thì khác. Toàn dân không bầu gì cả. Toàn dân chỉ… hóng.

Hóng xem ai được chọn.

Hóng xem ai bị loại.

Hóng xem ai “đi lò”.

Có thể gọi ngắn gọn là: dân chủ hóng hớt.

Nghĩ cho cùng, dân chủ như thế cũng đỡ mệt. Không phải bầu, không phải chịu trách nhiệm. Chỉ cần cập nhật tin đồn mỗi sáng là đủ cảm giác “tham gia đời sống chính trị”. Nếu dân chủ tư sản là quyền lựa chọn, thì dân chủ vô sản là nghệ thuật… chờ đợi. Ở những nơi khác, người ta đi bầu để quyết định tương lai; còn ở ta, người ta hóng để biết mình sẽ… chịu tương lai nào. Mà hóng hớt hình như lại là sở trường và môn thể thao yêu thích nhất của dân ta.

Dân chủ vô sản hiện đại, suy cho cùng, không cần phiếu bầu. Chỉ cần wifi mạnh, trí tưởng tượng phong phú và một tinh thần hóng hớt bền bỉ. Thế là đủ.


 

LỠ TÀU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã cao niên!”

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay kể chuyện về hai cặp đôi luống tuổi. Cựu Ước tường thuật cuộc truyền tin cho một người mẹ son sẻ; Tân Ước tường thuật cuộc truyền tin cho một người cha héo hắt. Thật thú vị – một đôi kịp tàu, đôi kia suýt ‘lỡ tàu!’.

Trong Thánh Kinh, không hiếm những bà mẹ chưa từng sinh con, nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa, được diễm phúc làm mẹ; thường là một bé trai mang một sứ mạng đặc biệt. “Đừng nói điều đó là không thể nếu còn có một lối – Thiên Chúa!” – Richelle Goodrich. Câu chuyện chào đời của Samson là một ví dụ. Vợ chồng Manôác đã mau mắn tin lời sứ thần, “Bà sẽ sinh một con trai và đặt tên là Samson”. Họ tin – nên họ kịp tàu!

Với Zacharia, câu chuyện ly kỳ hơn. Ông dâng hương trong Đền Thờ, cơ hội ngàn năm một thuở. Đó là khoảnh khắc đặc quyền trong một không gian linh thánh; hơn nữa, một Tổng lãnh thiên thần hiện ra với ông. Thế nhưng, trớ trêu thay, ông không tin! Tin Mừng xác nhận, “Hai ông bà là người công chính, không ai chê trách được điều gì”; vậy mà, sự công chính ấy không đủ giúp ông có niềm tin vào đúng thời điểm quyết định. Thiếu chút nữa, ông ‘lỡ tàu!’. “Nghi ngờ là dấu hỏi; đức tin là dấu chấm than!” – Criss Jami.

Zacharia nghĩ tuổi tác mình không còn phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa; ông đánh giá thấp quyền năng của Ngài. Nhưng Thiên Chúa không bị giới hạn; chính con người mới giới hạn quyền năng vô hạn của Ngài. “Kế hoạch của Thiên Chúa vẫn sẽ được thực hiện theo thời gian của Ngài!” – A.W. Tozer. Trước một người thiếu niềm tin, kế hoạch của Thiên Chúa sẽ ra sao? Không sao cả! Ngài vẫn tiếp tục chương trình của Ngài. Và điều Ngài cần lúc này là con người lặng yên, đừng động đạc! “Này đây ông sẽ bị câm cho đến ngày các điều ấy xảy ra!”.

Thời gian thinh lặng ấy không phải là trừng phạt, nhưng là một quãng thai nghén, đợi ngày Thiên Chúa ra tay hầu mỗi người có thể cất lên “Miệng chứa chan lời tán tụng Chúa, suốt ngày chẳng ngớt tôn vinh Ngài!” – Thánh Vịnh đáp ca. Tiếng Chúa thường rất khẽ. Chúa chỉ cần con người không bướng bỉnh, không nổi loạn, biết lặng yên và mềm mỏng. Đến ngày con trẻ chào đời, Zacharia vâng lời sứ thần, đặt tên cho con là Gioan. Và ông đã kịp tàu.

Anh Chị em,

“Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy?”. Câu hỏi của Zacharia thường cũng là câu hỏi của mỗi người chúng ta. Bạn và tôi yếu đuối, chúng ta thiếu đức tin; không có một đức tin trọn vẹn như Maria, như Giuse hay các thánh. Nhưng khi khiêm tốn nhìn nhận điều đó, chúng ta đang ở một vị trí thuận lợi để Thiên Chúa hành động. “Đức tin là bước đi những bước đầu tiên dù bạn chưa thấy hết cầu thang!” – Martin Luther King Jr. Hãy để Ngài toàn quyền! Trước sau gì, Thiên Chúa – Đấng xót thương từ ái một niềm – không muốn ai phải lỡ tàu, nhất là chuyến tàu cuối.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, trước nghi nan, khủng hoảng, cho con biết lặng yên chờ đợi Chúa. Đừng để con bướng bỉnh, vùng vằng mà lỡ mất ngày giờ của Chúa… khi phải đợi con lên tàu!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

*****************************************

Lời Chúa Ngày 19/12, Thứ Sáu Tuần III Mùa Vọng

Gio-an Tẩy Giả sinh ra theo lời sứ thần Gáp-ri-en báo.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 1,5-25

5 Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a ; vợ ông tên là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. 6 Hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. 7 Nhưng họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi, và cả hai đều đã cao niên.

8 Vậy một ngày kia ông Da-ca-ri-a đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông. 9 Theo tục lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. 10 Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài.

11 Bấy giờ một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. 12 Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và phát sợ. 13 Nhưng sứ thần bảo ông : “Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin : bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. 14 Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan vì con trẻ chào đời. 15 Vì em sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Em sẽ không uống rượu và thức có men. Em sẽ được đầy Thánh Thần ngay khi còn trong lòng mẹ. 16 Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. 17 Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để đưa tâm hồn cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.” 18 Ông Da-ca-ri-a thưa với sứ thần : “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy ? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã cao niên.” 19 Sứ thần đáp : “Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. 20 Này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.” 21 Dân chúng đợi ông Da-ca-ri-a, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. 22 Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và họ biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm.

23 Khi thời gian phục vụ đã mãn, ông trở về nhà. 24 Ít lâu sau, bà Ê-li-sa-bét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. 25 Bà tự nhủ : “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.”


 

BỆNH KHOE CỦA NGƯỜI VIỆT…

Trong năm bậc nhu cầu tâm lý của con người, nhu cầu tự thể hiện mình được các nhà tâm lý học xếp ở vị trí cao nhất. Cái sự khoe chính là biểu hiện của nhu cầu tự thể hiện. Nó chỉ diễn ra khi mình có cái gì đó mà xung quanh không ai có.

Những năm cuối của thế kỷ trước, chiếc xe máy dream Thái là niềm mơ ước của nhiều người. Trong lúc tôi còn chưa có chiếc xe đạp tử tế mà đi thì ông anh họ đã bán đất, vay mượn tứ tung để rước về “con dream” giá 6 cây vàng. Tính theo giá vàng hiện nay, chiếc xe của anh tương đương 210 triệu đồng. Nhưng mua xe rồi, anh vẫn còng lưng đi xe đạp vì sợ xe máy xây xước, mau cũ. Hàng ngày, anh dựng xe trước cửa, tối lại dắt vào dựng ở phòng khách như một thứ đồ trang trí.

Những năm sau, thiên hạ lại chứng kiến người ta khoe điện thoại di động. Dù trong cuộc họp hay ngoài đường ngoài chợ, hễ nghe tiếng nhạc hiệu thật to thì thể nào chủ nhân của nó cũng sẽ oang oang đàm thoại, để ai cũng phải quay lại nhìn và biết rằng, anh ta đang sở hữu một món hàng đắt giá. Bây giờ nghĩ lại những trò lố ấy, thấy buồn cười không chịu được.

Giờ người ta khoe kiểu khác, đặc biệt là cái sự khoe của giới Showbiz Việt. Những diễn viên, người mẫu, ca sĩ cùng các hot girl lên báo không phải để khoe album mới, vai diễn thành công, giải thưởng danh giá mà là để khoe biệt thự triệu đô, khoe xe khủng, những bộ đồ hoặc trang sức “có một không hai”. Cao hơn nữa là khoe phi thuyền, máy bay riêng, biệt thự ở Mỹ, ở Úc… Nhưng trước khi có những thứ đó để khoe, nhiều chàng, nàng trong giới Showbiz Việt phải khoe thân trước đã. Có cô hoa hậu nọ xuất hiện trên các trang mạng với bộ áo dài trong suốt mà không mặc nội y. Họ tự hào với các danh hiệu “nữ hoàng nội y”, “vòng một khủng”. Thậm chí một số người (cả nam lẫn nữ) lại toàn khoe… “của quý”.

Rồi người ta khoe chồng, khoe bồ giàu và gắn mác ngoại. Một thời gian dài, báo chí tốn bao nhiêu giấy mực bởi anh chàng người mẫu mới tập tễnh vào làng giải trí Việt đã cặp kè một bà triệu phú còn lớn tuổi hơn cả mẹ mình rồi mang đi khoe khắp nơi. Và anh ta đã đạt mục đích trở nên nổi tiếng, dù không phải bằng các hoạt động nghề nghiệp. Nhưng không chỉ giới showbiz, hầu hết người Việt mắc bệnh khoe. Nhiều buổi họp lớp thực chất là dịp gặp nhau để khoe. Ai có gì khoe nấy, chủ yếu là tài sản, sự thành đạt của bản thân hay con cái đều học tại một trường danh tiếng nào đó “ở bển”! 

Vậy ở các nước Mỹ, Pháp, Úc… những người nổi tiếng có khoe không? Chắc chắn là có. Nhưng họ khoe gì? Theo dõi báo chí thì thấy họ khoe những hầm rượu mấy trăm năm, khoe những cuốn sách quý họ đọc được trong thư viện, khoe những chuyến đi và những vùng đất họ từng khám phá, về những con người ở xứ sở tít mù nào đó mà họ đã đến khám chữa bệnh, dạy học hay cứu trợ…

Chợt nhớ câu chuyện đọc được trên báo, nói về chuyến thăm Sa Pa của một tỷ phú Mỹ thế hệ 8x. Người ta cứ tưởng tỷ phú cùng bạn gái sẽ xuất hiện với siêu xe, hàng hiệu và vung tiền như nước nên rất ngỡ ngàng khi thấy tỷ phú đi dép lê, còn bạn gái mặc đồ rất bình thường. Và nhiều người đã thất vọng.

Cũng là khoe, nhưng người Việt mình khác thiên hạ quá!

From: Tu-Phung


 

NGHÈO CHO MÌNH CON MẮT KHÁC VỀ TIỀN-Lm. Anmai, CSsR

Người Giồng Trôm

Có lẽ chẳng ai muốn sinh ra trong nghèo khó, nhưng chính cái nghèo lại là một người thầy khắc nghiệt và chân thật nhất, dạy cho ta những bài học mà không trường lớp nào có thể giảng giải tường tận được, đặc biệt là bài học về đồng tiền. Khi ta lớn lên giữa những thiếu thốn, khi đôi mắt trẻ thơ sớm phải chứng kiến cảnh cha mẹ cúi người cả ngày trên cánh đồng cháy nắng hay bên gánh hàng rong trĩu nặng chỉ để đổi lấy một bữa cơm chiều, tự nhiên ta sẽ hiểu rằng tiền không bao giờ là chuyện nói chơi. Tiền bạc, đối với người nghèo, chưa bao giờ là những con số vô tri nằm trên giấy hay trong tài khoản ngân hàng, mà nó là hiện thân của mồ hôi, của nước mắt, của sức khỏe mòn mỏi và đôi khi là cả sự hy sinh lòng tự trọng. Cái nghèo cho mình một con mắt khác về tiền, một cái nhìn không nhuốm màu toan tính tham lam nhưng lại trĩu nặng nỗi trân trọng và xót xa.

Tôi nhớ những ngày tháng cũ, khi cái nghèo còn đeo bám gia đình như một chiếc bóng dài lê thê không dứt. Trong ký ức ấy, hình ảnh ám ảnh nhất không phải là ngôi nhà dột nát hay mâm cơm đạm bạc, mà là tấm lưng của cha và đôi bàn tay của mẹ. Cha tôi, người đàn ông vạm vỡ nhưng lầm lũi, dường như cả cuộc đời chỉ biết cúi mặt xuống đất. Ông cúi xuống để cày xới, cúi xuống để gieo hạt, và cúi xuống để gặt hái những hy vọng mong manh từ đất đai cằn cỗi. Có những ngày nắng như đổ lửa, hơi nóng bốc lên từ mặt ruộng làm mờ cả mắt người, cha vẫn ở đó, lưng áo ướt đẫm, khuôn mặt sạm đen vì nắng gió. Mẹ tôi, người phụ nữ tần tảo, cũng dành cả đời để chắt chiu từng đồng xu lẻ. Tôi từng thấy mẹ ngồi đếm lại những tờ tiền lẻ nhàu nhĩ, vuốt thẳng chúng ra, xếp ngay ngắn rồi lại thở dài cất vào trong chiếc túi vải sờn rách. Cái thở dài ấy nặng nề hơn bất cứ lời than vãn nào. Nhìn cha mẹ cúi người cả ngày chỉ để đủ một bữa, đứa trẻ trong tôi bỗng chốc già đi trước tuổi. Tôi hiểu rằng, để có được tờ tiền đưa cho tôi đóng học phí, hay mua một chiếc áo mới, cha mẹ đã phải bán đi từng chút sức lực của chính mình. Tiền lúc ấy không còn là phương tiện trao đổi, nó là máu thịt.

Khi người ta chưa từng nếm trải cái nghèo, người ta dễ dàng nhìn đồng tiền bằng con mắt hời hợt. Người ta có thể vung tay quá trán cho những cuộc vui, có thể lãng phí thức ăn, có thể mua sắm những thứ vô bổ chỉ để thỏa mãn cơn thèm muốn nhất thời. Nhưng với những ai đã từng thấy cha mẹ phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, đồng tiền mang một sức nặng ngàn cân. Cầm đồng tiền trên tay, tôi không dám tiêu xài hoang phí, bởi tôi nhìn thấy trong đó là những giọt mồ hôi mặn chát của cha rơi xuống luống cày, là đôi bàn tay nứt nẻ rớm máu của mẹ vào những ngày đông giá rét. Sự chi tiêu dè sẻn không phải vì bần tiện hay keo kiệt, mà là vì xót. Xót cho công sức của người thân, xót cho những nhọc nhằn mà cha mẹ phải gánh chịu. Cái nghèo dạy cho ta biết sợ. Sợ cái cảm giác bất lực khi túng thiếu, sợ ánh mắt lo âu của mẹ khi hũ gạo đã vơi, sợ tiếng thở dài của cha trong đêm khuya thanh vắng. Nỗi sợ ấy biến thành ý thức trách nhiệm. Ta không dám lười biếng, không dám buông thả, bởi ta biết cái giá của sự lười biếng chính là sự đói khổ của những người ta yêu thương.

Con mắt nhìn về tiền của người nghèo cũng không nhuốm màu kiêu hãnh hay ngạo mạn. Nếu người giàu có thể dùng tiền để khẳng định vị thế, để mua lấy sự nể trọng, thì người nghèo dùng tiền chỉ để duy trì sự sống và bảo vệ phẩm giá tối thiểu của con người. Tôi đã thấy cha tôi, một người đàn ông đầy lòng tự trọng, phải cúi đầu vay mượn người khác khi trong nhà có người ốm đau. Cái cúi đầu ấy đau đớn hơn ngàn vết roi quất vào da thịt. Tiền lúc ấy trở thành một vị quan tòa phán xét, tước đi sự ngẩng cao đầu của một con người lương thiện. Từ đó, tôi học được rằng, kiếm tiền không phải để khoe khoang, mà là để không bao giờ phải rơi vào cảnh ngộ phải đánh đổi danh dự lấy sự tồn tại. Đồng tiền chân chính phải là đồng tiền sạch, được làm ra từ chính sức lao động lương thiện, dù ít ỏi nhưng đáng quý. Người nghèo hiểu rõ hơn ai hết rằng, đồng tiền bất chính có thể đến nhanh, nhưng nó sẽ cuốn trôi đi bình an và hạnh phúc. Chỉ có đồng tiền thấm đẫm mồ hôi mới mang lại giấc ngủ ngon, dù là trên chiếc chiếu manh rách nát.

Cái nghèo còn cho ta thấy một khía cạnh khác của tiền: đó là sự sẻ chia. Nghịch lý thay, đôi khi chính những người nghèo nhất lại là những người hào phóng nhất. Bởi họ hiểu cái cảm giác của sự thiếu thốn, họ thấm thía nỗi đau của cái đói, cái rét. Khi nhìn thấy cha mẹ tuy vất vả nhưng vẫn sẵn sàng san sẻ bát cơm cho người hàng xóm cơ nhỡ, hay cho đi mớ rau, con cá dù nhà mình cũng chẳng dư dả gì, tôi nhận ra giá trị của đồng tiền không nằm ở con số in trên đó, mà nằm ở cách ta sử dụng nó. Tiền có thể mua được thức ăn, nhưng không mua được bữa cơm gia đình ấm cúng; tiền có thể mua được thuốc men, nhưng không mua được sự quan tâm chăm sóc. Người nghèo, dù thiếu tiền, nhưng không bao giờ để mình nghèo tình thương. Chính trong sự khốn khó, tình người lại tỏa sáng rực rỡ nhất, như bông hoa sen vươn lên từ bùn lầy, ngát hương thơm ngát. Bài học ấy theo tôi suốt cả cuộc đời, nhắc nhở tôi rằng dù sau này có khá giả đến đâu, cũng đừng bao giờ để đồng tiền làm mờ mắt, làm chai sạn trái tim, làm ta quên đi cái gốc rễ yêu thương của con người.

Nhìn sâu hơn vào khía cạnh tâm linh, cái nghèo và cái nhìn về tiền bạc còn là một hành trình đức tin đầy thử thách nhưng cũng đầy ân sủng. Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong nhung lụa, Người chọn máng cỏ hang lừa, chọn cuộc đời của một người thợ mộc lam lũ. Phải chăng, Người muốn thánh hóa sự nghèo khó và lao động? Khi nhìn cha mẹ cúi người làm việc, tôi thấp thoáng thấy hình ảnh của Đấng Tạo Hóa đang tiếp tục công trình sáng tạo qua đôi tay con người. Lao động không phải là hình phạt, mà là sự cộng tác với Thiên Chúa. Tiền bạc kiếm được từ lao động chân chính, vì thế, cũng mang một giá trị thiêng liêng. Nó là phương tiện để ta nuôi sống bản thân, phục vụ gia đình và bác ái với tha nhân. Cái nghèo dạy ta biết trông cậy vào Chúa. Khi túi tiền rỗng tuếch, khi mọi cánh cửa dường như đóng lại, ta mới học được cách quỳ gối cầu nguyện với một lòng tin thác tuyệt đối. Ta nhận ra rằng, tiền bạc là vật ngoại thân, nay còn mai mất, chỉ có tình yêu của Thiên Chúa và tình nghĩa giữa người với người mới là vĩnh cửu. Sự “nghèo khó trong tâm hồn” mà Tin Mừng nhắc tới, có lẽ cũng bắt đầu từ việc ta biết trân trọng những gì mình đang có, biết ơn từng tấm bánh, từng manh áo, và không để lòng tham lam tiền bạc chiếm ngự tâm hồn.

Sống trong một xã hội mà đồng tiền dường như đang chi phối mọi thang bậc giá trị, việc giữ cho mình một “con mắt khác” về tiền là điều không dễ dàng. Cám dỗ của vật chất luôn rình rập, mời gọi ta đánh đổi lương tâm để lấy sự giàu sang chóng vánh. Nhưng mỗi khi lòng tôi dao động, hình ảnh cha mẹ ngày xưa lại hiện về rõ mồn một. Tôi thấy lại giọt mồ hôi rơi trên trán cha, thấy lại vết chai sần trên tay mẹ, thấy lại mâm cơm đạm bạc mà chan chứa tiếng cười. Những hình ảnh ấy như một chiếc neo giữ con thuyền đời tôi không bị trôi dạt vào dòng xoáy của thực dụng và vô cảm. Tôi hiểu rằng, sự giàu có đích thực không được đo bằng số dư tài khoản, mà bằng sự bình an trong tâm hồn, bằng khả năng yêu thương và sẻ chia. Một người có thể nghèo tiền bạc, nhưng nếu họ biết sống ngẩng cao đầu, biết lao động chân chính và biết yêu thương, họ vẫn là những người giàu có nhất thế gian.

Đồng tiền, tự bản thân nó không xấu cũng không tốt, nó chỉ là tấm gương phản chiếu tâm tính của người sở hữu nó. Với người tham lam, tiền là ông chủ hà khắc sai khiến họ làm điều ác. Với người biết trân trọng giá trị lao động, tiền là người đầy tớ đắc lực giúp họ xây dựng cuộc sống và lan tỏa yêu thương. Cái nghèo đã cho tôi một đặc ân, đó là khả năng nhìn thấu bản chất của đồng tiền qua lăng kính của sự hy sinh. Tôi biết ơn những ngày tháng gian khó ấy, biết ơn sự hy sinh thầm lặng của cha mẹ. Chính nhờ những ngày “cúi người” của cha mẹ, mà tôi hôm nay mới có thể “đứng thẳng” làm người. Và bài học lớn nhất mà tôi mang theo trong hành trang cuộc đời mình, không phải là cách làm sao để kiếm thật nhiều tiền, mà là làm sao để sử dụng đồng tiền cho xứng đáng với những giọt mồ hôi nước mắt đã đổ xuống. Để mỗi khi cầm đồng tiền trên tay, tôi không chỉ thấy giá trị vật chất của nó, mà còn thấy cả một trời yêu thương, một đời hy sinh, và một lời nhắc nhở thiêng liêng về phẩm giá con người.

Cuộc sống hiện đại hối hả, con người lao vào cuộc đua kiếm tiền như những con thiêu thân. Đôi khi ta quên mất lý do thực sự ta cần tiền là gì. Ta làm việc bán sống bán chết để mua những ngôi nhà to hơn nhưng lại ít về nhà hơn; ta mua những chiếc giường đắt tiền hơn nhưng lại có ít giấc ngủ ngon hơn; ta mua những gói bảo hiểm cao cấp hơn nhưng lại ít quan tâm đến sức khỏe thực sự của cha mẹ già đang mòn mỏi ở quê nhà. Cái nghèo ngày xưa, dù khắc nghiệt, nhưng lại giữ cho gia đình một sự gắn kết bền chặt mà tiền bạc không thể mua được. Bữa cơm rau mắm ngày xưa tuy đạm bạc nhưng luôn đông đủ các thành viên, tiếng cười nói rộn ràng. Còn bây giờ, mâm cao cỗ đầy nhưng đôi khi lại thiếu vắng bóng người, hoặc nếu có đủ thì ai nấy cũng cắm cúi vào chiếc điện thoại, toan tính những chuyện làm ăn xa xôi. Phải chăng chúng ta đã “giàu” lên về vật chất nhưng lại đang “nghèo” đi về tình cảm? Phải chăng ta đã để đồng tiền làm chủ thay vì làm phương tiện? Nhớ về cái nghèo, về cha mẹ cúi người lam lũ, là cách để ta giật mình tỉnh thức, để sắp xếp lại thang giá trị của đời mình, để biết đâu là điểm dừng, đâu là hạnh phúc đích thực.

Mỗi lần dâng Thánh Lễ, khi nâng chén rượu và tấm bánh lên, tôi thường thầm thì cầu nguyện cho những người lao động nghèo khó, cho những bậc cha mẹ đang ngày đêm vất vả mưu sinh. Tôi xin Chúa thánh hóa những giọt mồ hôi của họ, biến những hy sinh thầm lặng ấy thành nguồn ân sủng nuôi dưỡng tâm hồn con cái họ. Và tôi cũng cầu xin cho chính mình, và cho tất cả chúng ta, những người có may mắn thoát khỏi cảnh nghèo, không bao giờ được phép quên đi quá khứ. Đừng bao giờ nhìn người nghèo bằng ánh mắt khinh miệt, bởi đằng sau manh áo rách ấy có thể là một tâm hồn vĩ đại hơn ta tưởng. Đừng bao giờ phung phí thức ăn, bởi đó là tội lỗi đối với những người đang đói khổ. Và quan trọng nhất, đừng bao giờ coi tiền bạc là mục đích tối thượng của cuộc đời. Hãy nhớ rằng, khi ta lìa bỏ thế gian này, ta không mang theo được một đồng xu nào cả, thứ duy nhất ta mang theo được là tình yêu ta đã trao đi và những việc lành ta đã làm.

Cái nghèo cho ta con mắt khác về tiền – một con mắt biết rưng rưng, biết trân trọng và biết yêu thương. Đó là một món quà vô giá mà có lẽ chỉ những ai đã từng đi qua giông bão của sự thiếu thốn mới có thể thấu hiểu trọn vẹn. Xin cho chúng ta luôn giữ được cái nhìn trong sáng ấy, để giữa dòng đời vạn biến, ta vẫn giữ được trái tim ấm nóng của một con người, biết sống xứng đáng với những hy sinh của tiền nhân, và biết dùng những gì mình có để làm đẹp cho đời, làm sáng danh Chúa. Bởi suy cho cùng, tiền chỉ là phương tiện để ta đi qua cuộc đời này, còn đích đến cuối cùng vẫn là Tình Yêu và Sự Sống đời đời. Nhìn cha mẹ cúi người, tôi học được cách ngẩng đầu sống đúng nghĩa, và tôi hiểu: Tiền không bao giờ là chuyện nói chơi, vì nó chứa đựng cả cuộc đời của những người tôi yêu thương nhất.

Lm. Anmai, CSsR


 

Thẩm phán Frank Caprio vừa qua đời ngày 20/08/2025.

 Nghệ Lâm Hồng

“Trái tim dưới áo quan tòa” vừa qua đời

– by Vũ Thế Thành

Ảnh: quan tòa F. Caprio trong phiên xử người cựu chiến binh.

Sáng nay đọc báo Mỹ mới biết tin, thẩm phán Frank Caprio vừa qua đời hôm qua, ngày 20/08/2025.

Hồi SG bị lockdown vì đại dịch, tôi thường xem show truyền hình “Caught in Providence” của Caprio, chiếu lại qua Youtube cho đỡ buồn.

Frank Caprio là chánh án tòa án thành phố Providence (Mỹ). Các show truyền hình về diễn biến những phiên tòa mà ông chủ tọa, thường là vụ án nhỏ như vi phạm luật giao thông. Phiên tòa vừa trang nghiêm, vừa vui vẻ, chẳng có gì là căng thẳng giữa thẩm phán, bị cáo và những người tham dự, nhưng đầy chất nhân bản trong đó.

Tôi nhớ mang máng có show thế này: Một bà mẹ vi phạm luật giao thông, xuất hiện ở tòa cùng với đứa con gái nhỏ. Quan tòa Caprio đọc nội dung vi phạm, bị cáo vui vẻ nhận tội. Quan tòa gọi đứa bé lên đứng cạnh ông, rồi hỏi. Mẹ có bị lỗi không? Có – Mẹ bị phạt bằng này tiền, có đúng không? Đúng – Giảm một phần tiền phạt cho mẹ nhé? Đứa bé cười toét miệng. Quan tòa lại hỏi, cháu sẽ dùng tiền giảm phạt đó làm gì? Nói mẹ mua kẹo mời mọi người trong tòa ăn. Cả tòa cười rộ lên vì câu trả lời của đứa trẻ.

Nhưng ấn tượng nhất với tôi  là phiên tòa xử một ông cụ 96 tuổi, bị phạt do chạy quá tốc độ gần khu vực trường học. Ông buồn rầu nhận lỗi. Tòa hỏi, vì sao? Tôi chở đứa con trai (60 hay 70 tuổi?)  đi cấp cứu. Đây là lần đầu tiên tôi vi phạm luật giao thông – Quan tòa quay sang hỏi về nhân thân của ông cụ, với những câu hỏi ngắn – Tôi là cựu chiến binh tham dự thế chiến II, được nhiều huân chương… Xuất ngũ làm công nhân cho đến khi về hưu, và chăm sóc đứa con tật nguyền. Vợ ông mất lâu rồi, không ai phụ giúp ông cả. Không khí trong tòa lặng đi khi ông cụ chậm rãi trả lời từng câu hỏi của thẩm phán, về cuộc đời cụ.

Quan tòa phán, mọi người trong tòa này đều mắc nợ cụ., rồi tuyên miễn phạt cho ông cụ. Thẩm phán Frank Caprio sau đó đã phát biểu một câu nói để đời “ Tôi không đeo huy hiệu dưới áo choàng thẩm phán. Tôi mang theo trái tim.”

Nghĩ lại mấy vụ gần đây trong nước, thầy hiệu trưởng tham nhũng 10 triệu ở Cà Mau, hay vụ án mấy con gà lôi.. Ngao ngán!

Cầm cân nảy mực, nếu luật pháp chỉ là công bằng không thôi thì chưa đủ, mà còn phải công minh. Nền tư pháp trong nước dường như nhân danh “công minh” để lạm dụng công bằng. Quan tòa đã đeo dao găm dưới áo choàng thẩm phán.

Cách đây hơn một năm, tôi có đọc bài báo phỏng vấn quan tòa Caprio, lúc này ông đã nghỉ hưu, và ngưng show “Caught in Providence” lâu rồi. Trông ông gầy hẳn vì đang chống chọi với bệnh ung thư tuyến tụy, nhưng nụ cười vẫn hiền hậu, toát ra vẻ nhân ái.

Sáng nay đọc NY Post mới biết tin Frank Caprio, vị quan tòa đã dấu trái tim dưới lớp áo choàng thẩm phán, vừa mãn phần hôm qua (20/08/25), ở tuổi 88. Judge Frank Caprio, R.I.P

Vũ Thế Thành


 

 Vì sao trong tranh luận, người ta thường tấn công cá nhân thay vì tập trung vào nội dung,

Đoàn Thị Thùy Dương

 Vì sao trong tranh luận, người ta thường tấn công cá nhân thay vì tập trung vào nội dung, và hiện tượng này đặc biệt phổ biến ở những xã hội có nhà nước tập trung quyền lực?

Trong một xã hội lý tưởng, tranh luận là công cụ để tìm kiếm sự thật, làm rõ vấn đề và thúc đẩy tiến bộ. Tuy nhiên, trong thực tế, đặc biệt ở những nơi quyền lực nhà nước được tập trung cao độ, tranh luận thường nhanh chóng trượt khỏi nội dung cốt lõi và chuyển sang tấn công cá nhân. Hiện tượng này không phải ngẫu nhiên, mà là kết quả của nhiều yếu tố mang tính cấu trúc chính trị, tâm lý xã hội và văn hóa quyền lực.

Trước hết, tấn công cá nhân là hậu quả trực tiếp của việc thiếu không gian an toàn phê bình – chất vấn. Trong các xã hội tập trung quyền lực, quyền lực chính trị thường gắn chặt với “chân lý chính thống”. Khi một quan điểm được nhà nước hoặc hệ tư tưởng cầm quyền bảo trợ, việc phân tích, phê bình nội dung không còn là tranh luận học thuật, mà bị xem như hành vi thách thức quyền lực. Trong bối cảnh đó, người tranh luận không còn mục tiêu tìm đúng – sai, mà là bảo vệ vị thế an toàn của bản thân. Tấn công cá nhân trở thành cách đánh lạc hướng: thay vì trả lời lập luận, họ phá hủy uy tín người nói, biến vấn đề trí tuệ thành vấn đề đạo đức hay chính trị cá nhân.

Thứ hai, tranh luận nội dung đòi hỏi năng lực lý luận, trong khi tấn công cá nhân chỉ cần quyền lực hoặc cảm xúc. Phê bình một lập luận cần kiến thức, tư duy logic và khả năng chấp nhận khả năng mình sai. Ngược lại, tấn công cá nhân không cần chứng minh điều gì về nội dung, mà chỉ cần gán nhãn: “thiếu đạo đức”, “động cơ xấu”, “không đủ tư cách”. Trong xã hội tập trung quyền lực, nơi giáo dục thường ưu tiên sự tuân phục hơn là tư duy phản biện, kỹ năng tranh luận lý tính không được nuôi dưỡng. Khi thiếu công cụ để phản biện nội dung, con người tự nhiên chọn con đường dễ hơn: công kích người nói.

Thứ ba, quyền lực tập trung tạo ra tâm lý “đứng về phía mạnh” thay vì “đứng về phía đúng”. Khi quyền lực không bị kiểm soát, đúng – sai không còn được xác định bằng lý lẽ mà bằng vị trí quyền lực. Do đó, trong tranh luận, việc chứng minh đối phương “không thuộc phe đúng” quan trọng hơn việc chứng minh lập luận của họ sai. Tấn công cá nhân lúc này mang chức năng chính trị: loại đối phương ra khỏi cuộc chơi bằng cách gắn họ với hình ảnh “kẻ thù”, “phản động”, “thiếu trung thành” hay “động cơ đen tối”.

Thứ tư, nỗi sợ hãi làm méo mó hành vi tranh luận. Ở những xã hội quyền lực tập trung, tranh luận không chỉ là hành vi trí tuệ mà còn tiềm ẩn rủi ro xã hội, nghề nghiệp, thậm chí pháp lý. Trong bối cảnh sợ hãi, con người ít khi dám đối thoại công bằng. Thay vào đó, họ chọn cách thể hiện sự trung thành bằng cách công kích cá nhân người đưa ra ý kiến trái chiều. Tấn công cá nhân vì thế không chỉ là phản ứng cảm xúc, mà còn là chiến lược tự bảo vệ.

Cuối cùng, khi quyền lực không bị chất vấn, sự thật trở nên thứ yếu. Tranh luận nội dung chỉ có ý nghĩa khi mọi bên đều thừa nhận rằng sự thật tồn tại độc lập với quyền lực. Nhưng trong hệ thống quyền lực tập trung, “sự thật” thường được định nghĩa sẵn. Khi kết luận đã có trước, tranh luận nội dung trở nên vô nghĩa; việc còn lại chỉ là xác định ai “được phép nói” và ai “không được phép nói”. Tấn công cá nhân, vì vậy, trở thành công cụ duy trì trật tự quyền lực hơn là công cụ tìm kiếm chân lý.

Tóm lại, hiện tượng tranh luận chuyển hướng sang tấn công cá nhân không đơn giản là vấn đề đạo đức cá nhân hay văn hóa ứng xử, mà phản ánh sâu sắc cấu trúc quyền lực của xã hội. Ở nơi quyền lực càng tập trung, tranh luận càng ít xoay quanh lý lẽ và càng nhiều xoay quanh con người. Khi lý trí không còn được bảo vệ, công kích cá nhân trở thành ngôn ngữ thay thế cho lập luận. Và đó là dấu hiệu rõ ràng cho thấy xã hội ấy không sợ sai, mà sợ bị chất vấn.


 

400 năm ngày giỗ Thuỷ tổ Quốc ngữ Việt Nam

My Lan Pham

Francisco de Pina (1585 – 15/12/1625)

Cách đây tròn bốn thế kỷ, ngày 15 tháng 12 năm 1625, tại vùng biển Đà Nẵng, linh mục Dòng Tên Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha, đã vĩnh viễn ra đi trong một tai nạn chìm tàu khi ông lao mình cứu giúp những hành khách gặp nạn. Cái chết của ông lặng lẽ, nhưng di sản mà ông để lại thì bền bỉ và sâu xa, gắn liền với lịch sử hình thành chữ Quốc ngữ Việt Nam.

Francisco de Pina được xem là người châu Âu đầu tiên nói tiếng Việt một cách trôi chảy, không chỉ để giao tiếp mà còn để giảng dạy, truyền đạo và nghiên cứu ngôn ngữ. Trong bối cảnh đầu thế kỷ XVII, khi người Việt chưa có một hệ thống chữ viết ghi âm tiếng nói phổ thông bằng mẫu tự dễ học, cha Pina đã sớm nhận ra nhu cầu cấp thiết ấy. Từ đó, ông trở thành người tiên phong đặt nền móng cho việc ghi âm tiếng Việt bằng ký tự La-tinh.

Năm 1619, khi mới 34 tuổi, cha Pina đã biên soạn bản từ vựng tiếng Việt đầu tiên (nay đã thất lạc). Đến khoảng 1622–1623, ông báo cáo với Toà Thánh rằng mình đã hoàn thành một cuốn sách về luật chính tả và ngữ âm tiếng Việt ,điều cho thấy ông không chỉ học tiếng Việt, mà còn tiếp cận ngôn ngữ này bằng tư duy khoa học, có hệ thống. Đây chính là viên đá nền đầu tiên cho tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ sau này.

Năm 1624, khi linh mục Alexandre de Rhodes đến Thanh Chiêm (Quảng Nam), ông đã tận mắt chứng kiến cha Pina giảng Kinh Thánh hoàn toàn bằng tiếng Việt. Đối với các giáo sĩ châu Âu đương thời, đây là một hiện tượng chưa từng có: một người phương Tây không cần thông ngôn, giảng đạo bằng chính ngôn ngữ bản địa với sự uyển chuyển và chính xác hiếm thấy. Alexandre de Rhodes sau này nhiều lần thừa nhận rằng cha Pina là người thầy đầu tiên và quan trọng nhất của ông về tiếng Việt.

Đáng tiếc thay, khi công trình ngôn ngữ còn dang dở, cha Francisco de Pina đã qua đời quá sớm. Phần lớn các bản thảo của ông không còn lưu lại, nhưng tinh thần khoa học, phương pháp ghi âm và tư duy ngữ âm học mà ông khởi xướng đã được các thế hệ giáo sĩ kế tiếp tiếp thu, phát triển và hoàn thiện. Vì vậy, trong lịch sử chữ Quốc ngữ, Francisco de Pina xứng đáng được nhìn nhận là thuỷ tổ ,người đặt nền móng đầu tiên, trước khi chữ Quốc ngữ đạt đến hình thức hoàn chỉnh hơn vào giữa thế kỷ XVII.

Ngày nay, chữ Quốc ngữ đã trở thành linh hồn của văn hoá Việt hiện đại, là phương tiện giúp người Việt tiếp cận tri thức, xây dựng văn học, báo chí và bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới. Nhìn lại hành trình ấy, không thể không dành sự ngưỡng mộ đối với tài năng ngôn ngữ, và lòng biết ơn sâu sắc đối với Francisco de Pina ,người đã âm thầm gieo hạt giống đầu tiên cho một cuộc chuyển mình lớn lao của tiếng Việt.

400 năm sau ngày ông mất, tưởng nhớ Francisco de Pina không chỉ là một hành động tri ân lịch sử, mà còn là dịp để chúng ta nhận ra rằng: ngôn ngữ không chỉ là công cụ giao tiếp, mà là chiếc cầu nối giữa các nền văn hoá, giữa quá khứ và tương lai.

 


 

Tĩnh tâm ở Giáo Triều Roma với Đức Thánh Cha

Giảng Thuyết: Linh mục dòng OFM , Roberto Paosolini.

Roberto Pasolini O.FM Cap. ( Milan , ngày 5 tháng 11 năm 1971) là một nhà thần học người Ý và là tu sĩ dòng Phan xi cô của Giáo hội Công giáo , Giảng thuyết viên cho Phủ Giáo hoàng .

Tiểu sử

Đang khi là một kỹ sư máy tính trẻ,  tham gia điều hành lĩnh vực máy tính, cũng như hoạt động chính trị, anh Roberto chợt khám phá ra rằng các hệ tư tưởng không làm cho con người tự do hơn. Tự do duy nhất chỉ có thể đến từ Chúa vì “tự do thực sự là giải thoát bản thân khỏi cảm giác tội lỗi, bởi vì sự cứu chuộc của Chúa Kitô đã khôi phục lại mối liên hệ tốt đẹp với Chúa”. Rồi ơn gọi của Chúa đến …

Cha Roberto khấn trọn đời trong Dòng Phanxicô của các anh em Capuchin vào ngày 7 tháng 9 năm 2002 và được thụ phong linh mục vào ngày 23 tháng 9 năm 2006. Sau khi lấy bằng tiến sĩ thần học Kinh Thánh tại Đại học Giáo hoàng Gregorian ở Rome, Ngài là giáo sư ngôn ngữ Kinh Thánh và Kinh thánh tại Studio Teologico Laurentianum Interprovincial của dòng Phan xi cô khó khăn,  Capuchin ở Milan và Venice.

Cha Roberto PasoliniNgày 20 tháng 12 năm 2024, Cha Roberto Pasolini, giảng thuyết cho Giáo hoàng, đã kêu gọi các nhà lãnh đạo Giáo hội hãy trân trọng phẩm chất “khiêm nhường” trong dịp tĩnh tâm Giáng sinh, kêu gọi các tín hữu noi gương Chúa Kitô và phản đối nhu cầu phải cảm thấy “quan trọng trong mắt người khác”. | Nguồn: Ảnh do Festival Bíblico cung cấp