OAN KHỐC! –  Bùi Chí Vinh

Đặng Nam is with Exile Hoài Thạch Sơn.

Bùi Chí Vinh –

53 người bị chôn sống ở Trà My

Chôn sống khi đang còn mở mắt

Cơn thịnh nộ của núi rừng là một điều có thật

Sạt lở đất kèm theo sạt lở của lòng người!

53 sinh linh vô tội bị chôn vùi

Đừng đổ thừa tại tai trời ách nước

Mà hãy nhìn vào những ngọn núi trọc đầu, những khu rừng tang tóc

Những hệ thống thủy điện dã man tàn phá sạch môi trường!

Không còn gì ngăn cản được thần rừng

Núi đã trọc và rừng đã mất

Thiên nhiên bị hủy diệt màu xanh và bầu trời đã khóc

Bão tố mưa giông đại hồng thủy đã trả lời!

Tội nghiệp lũ lụt miền Trung và tội nghiệp dân tôi

53 người chết và nhiều người sẽ chết

Phải chăng sấm sét điên cuồng giáng xuống thành Thăng Long trong ngày Tết

Là điềm báo đầu tiên về cái chết cụ Kình

Về một năm đầy tà khí u minh!

29-10-2020

Bùi Chí Vinh.

 


 

Tỉnh giác – Nguồn fb: Tuệ Tâm

Những câu chuyện Nhân VănChi Nguyen

 Một cô gái đang ngồi chờ chuyến bay của mình trong phòng chờ ở một sân bay lớn.

Để giết thời gian chờ một tiếng, cô mua tạp chí để đọc và một gói bánh ăn cho đỡ đói.

Cô ngồi trong phòng VIP, nghỉ ngơi và giở sách ra đọc trong thanh thản.

Cùng trên ghế chờ, bên gói bánh, một người đàn ông cũng ngồi xuống, mở báo và lặng lẽ đọc.

Khi cô gái ăn chiếc bánh đầu thì người đàn ông cũng nhón ăn chiếc bánh tiếp theo.

Tuy không nói gì nhưng cô cảm thấy bực bội trong lòng, cô tự nghĩ: “Thật điên rồ! Nếu ta không lịch sự thì sẽ cho mi biết sự tự nhiên lố bịch của mi!”.

Cứ mỗi lần cô nhón ăn một chiếc, thì người đàn ông kia lại nhón ăn chiếc bánh tiếp theo.

Trong lòng cô, sự bực bội dần lên cao, tuy nhiên cô kiềm chế được nên chưa bộc lộ ra.

Khi chỉ còn lại một chiếc bánh duy nhất, cô nghĩ: “À được… thử xem người đàn ông ngỗ ngược này, mi sẽ xử lý sao đây?”.

Nhưng hắn bình tĩnh bẻ chiếc bánh làm đôi và mời cô dùng một nửa chiếc.

Ôi! Thật quá mức! Trong khi cô đang còn đói!

Cô đứng phắt dậy, gấp sách lại, giành lấy nửa bánh của mình rồi đi thẳng ra máy bay.

Khi đã vào trong máy bay, ngồi xuống ghế, cô lục túi tìm kính đeo của mình, thì thật ngạc nhiên trong túi xách của cô còn nguyên gói bánh chưa được mở! Cô cảm thấy hổ thẹn về hành động sai sót của mình…

Vì Cô đã để nguyên gói bánh trong túi mà chưa hề mở ra ăn!

Còn người đàn ông kia đã chia phần bánh của họ cho cô, nhưng họ không hề tức giận, không hề điên khùng và khó chịu…

Khi cô đang rơi vào trạng thái bối rối, hổ thẹn, nghĩ về người đàn ông kia thì thời gian cũng không còn để cô có thể giãi bày… để cô có thể tạ lỗi!

P/S : Trong cuộc sống, có bốn điều mà ta không sao sửa chữa được:

– Khi hòn đá… đã ném đi.

– Khi lời nói… đã buông ra.

– Khi cơ hội… đã bỏ lỡ.

– Khi thời gian… đã trôi qua…

Tỉnh giác – Nguồn fb: Tuệ Tâm

Ảnh minh họa

 

 


 

 Đâu phải giàu mới thành công!

Kimtrong Lam

Mai Lâm

– 27 tháng 10, 2025

Dù không giàu có, nếu bạn hài lòng với những gì mình có, liên tục học hỏi, không sợ thất bại và luôn sống thật với chính mình… điều đó chứng tỏ bạn là người thành công.

-Bạn hài lòng với những gì mình có

Một chiếc xe hơi sang trọng hay một căn hộ cao cấp có thể là điều tuyệt vời, nhưng liệu những điều đó có thực sự định nghĩa thành công không?

Thành công thực sự thường bắt nguồn từ sự hài lòng. Đó là việc trân trọng những gì mình đang có thay vì liên tục thèm muốn nhiều hơn. Đó là việc tìm thấy niềm vui trong những điều giản đơn và biết ơn vì chúng.

Vậy nên, nếu bạn là người nhìn xung quanh và cảm thấy hài lòng với cuộc sống, bạn đang thành công.

-Bạn liên tục học hỏi và phát triển

Cởi mở với việc học hỏi và phát triển bản thân là dấu hiệu chắc chắn của thành công. Tại sao? Bởi điều đó cho thấy bạn không chỉ quan tâm đến lợi nhuận tiền bạc. Thay vào đó, bạn cam kết cải thiện bản thân, mở rộng tầm nhìn và trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình.

Vì vậy, nếu bạn nhiệt tình tiếp thu kiến thức từ mọi nguồn có thể, hãy tự khen ngợi mình. Bạn đang làm đúng.

-Thất bại không làm bạn sợ

Bạn có phải người từng trải qua nhiều thất bại, từng muốn bỏ cuộc và đầu hàng, nhưng rồi cuối cùng bạn vẫn đứng vững và tiếp tục phấn đấu?

Đó chính là ý nghĩa thực sự của thành công. Thành công không có nghĩa là không bao giờ thất bại, mà là không để thất bại ngăn cản bạn. Đó là sử dụng những lần vấp ngã như bước đệm hướng tới ước mơ.

Việc chấp nhận thất bại có thể không khiến bạn trở nên giàu có theo nghĩa truyền thống. Nhưng nó khiến bạn trở nên giàu có về khả năng phục hồi, lòng dũng cảm và sự quyết tâm tuyệt đối – những phẩm chất đáng giá hơn nhiều so với bất kỳ số tiền nào.

-Bạn tạo ra tác động tích cực

Bạn đã bao giờ làm một việc nhỏ và có vẻ không đáng kể, chỉ để sau đó nhận ra rằng nó đã tạo ra sự khác biệt lớn trong cuộc sống của ai đó chưa?

Đôi khi chỉ là việc cắt cỏ trong sân sau giúp cho bà cụ hàng xóm. Có thể bạn không nghĩ nhiều về nó, nhưng bạn đã làm cho bà vui mừng và dường nào.

Thành công thực sự cũng có nghĩa là tạo ra tác động tích cực. Tác động đó không cần phải to tát hay chấn động thế giới. Đôi khi, chính những điều nhỏ nhặt lại có ý nghĩa nhất.

Nếu bạn đang phấn đấu để thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn theo cách riêng dù nhỏ hay lớn thì bạn đã thành công. Bởi thành công thực sự không chỉ là lợi ích cá nhân, mà còn là nâng đỡ người khác và tạo ra khác biệt.

-Bạn duy trì sự cân bằng lành mạnh giữa công việc và cuộc sống

Trong thế giới hối hả, thật dễ dàng bị cuốn vào vòng xoáy và quên mất sức khỏe. Nhưng hãy để tôi nói cho bạn biết điều này – làm việc quần quật không phải là dấu hiệu của thành công, đó là con đường dẫn đến kiệt sức.

Thành công thực sự bao gồm việc cân bằng hiệu quả các khía cạnh trong cuộc sống. Điều đó có nghĩa là dành thời gian cho việc thư giãn và giải trí, bên cạnh công việc. Đó là về việc vun đắp các mối quan hệ, theo đuổi sở thích và chăm sóc sức khỏe.

Điều tuyệt vời nhất khi cân bằng giữa công việc và cuộc sống cá nhân là gì? Bạn không cần phải hy sinh sức khỏe hoặc hạnh phúc của mình để đạt được điều đó.

-Bạn thực hành sự đồng cảm và thấu hiểu

Bạn từng có những lúc hiểu lầm người khác, đưa ra phán đoán quá nhanh và điều đó dẫn đến tổn thương? Nhưng theo thời gian, bạn học được rằng mọi người đều đang chiến đấu với những trận chiến riêng. Những trận chiến mà chúng ta có thể không hiểu hoặc thậm chí không nhận thức được.

Đây là lúc sự đồng cảm phát huy tác dụng. Bạn đặt mình vào vị trí của người khác và cố gắng hiểu quan điểm của họ. Bạn cố gắng thể hiện lòng tốt, ngay cả khi điều đó khó khăn.

Vì vậy, nếu bạn là người thực hành sự đồng cảm, người cố gắng hiểu thay vì phán xét, xin chúc mừng! Bạn đang thể hiện một trong những dấu hiệu thành công sâu sắc nhất.

Bởi thành công không chỉ là những gì chúng ta đạt được, nó còn là cách chúng ta đối xử với người khác trên suốt chặng đường.

-Bạn sống thật với chính mình

Trong một thế giới liên tục nhắc nhở bạn phải là ai, phải làm gì và hành động như thế nào, việc luôn là chính mình có thể là một thách thức thực sự.

Nhưng điều quan trọng là không có số tiền, quyền lực hay danh tiếng nào có thể thay thế cảm giác được là chính mình.

Bởi thành công không phải là việc phải phù hợp với một khuôn mẫu nào đó, mà là không hối hận khi là chính mình và sống đúng với con người thật của bạn.

(theo Hack Spirit)


 

Gởi ai đã và sắp đến tuổi già

Bài viết của một tác giả không nhớ rõ tên, có một nội dung quá thâm thuý, dành cho những ai trong tuổi Cao Niên nếu muốn có một đời sống hạnh phúc trong những ngày còn lại trên trần gian này, trước khi thân xác trở về cát bụi thì nên suy luận những điều được nêu ra trong bài viết này.

Đời người thật ngắn ngủi. Nhớ lại vào lứa tuổi đôi mươi, chúng ta lang thang trong khuôn viên trường đại học, vui cười vô tư và bây giờ đã hơn 40 năm trôi qua rồi. Đời người thoáng chốc đã già !

Bây giờ, những năm còn lại trong cuộc đời của một người, chúng ta cần sống thanh thản, sống thoải mái, sống hạnh phúc vì qua một ngày, chúng ta đã mất một ngày. Vì vậy, một ngày đến, chúng ta vui một ngày. Vui một ngày…rồi không biết được bao nhiêu ngày nửa. Hạnh phúc là do chính mình tạo ra, vui sướng cũng do chính mình tìm lấy vì những niềm vui ấy đã ẩn chứa trong những sự việc nhỏ nhặt xãy ra trong đời sống.

Hạnh phúc là những gì hiện đang ở chung quanh chúng ta, trong tầm tay chúng ta. Nhà nho Nguyễn Công Trứ quan niệm “ Tri túc, đãi túc, tiện túc, hà thời túc. Tri nhàn, đãi nhàn, tiện nhàn, hà thời nhàn”…

Tiền rất quan trọng trong đời sống của con người nhưng tiền không phải là tất cả. Đừng quá coi trọng đồng tiền và cũng đừng lệ thuộc vào đồng tiền, mặc dù biết rằng nếu không có tiền thi làm sao chúng ta sống, làm sao để được thoải mái.

Ta vẫn biết khi ta ra đời, ta đâu có mang nó đến và khi ra đi, chúng ta cũng không mang nó theo.

Đồng tiền có thể mua một lâu đài to lớn nhưng đồng tiền không mua được mái ấm gia đình.

Đồng tiền giúp chúng ta mua được nhiều thứ tiện nghi trong cuộc sống nhưng đồng tiền không mua được sức khỏe cũng như hạnh phúc trong đời sống.
Quảng đời còn lại thì quá ngắn ngủi, ta phải sống những ngày tháng cho đáng sống, ta phải làm cho cuộc đời thêm phong phú .

Những gì cần ăn thì cứ ăn, cần mặc thì cứ mua sắm, muốn đi du lịch thì cứ đi. Tập cho mình có nhiều đam mê, tự tìm niềm vui cho chính mình.

Vào trong internet để gửi thư cho bạn bè, để chia sẻ một tin hay, một chuyện vui, một bản nhạc, đọc những bài viết có giá trị, hay “chat” với người quen biết. Chúng ta cần trao dồi bộ óc để trí nhớ vẫn còn sáng suốt.

Nếu có người bạn cần giúp, ta cứ mở lòng nhân ái, tốt bụng với mọi người. Rảnh rổi đi làm những việc từ thiện xã hội, giúp một tay tại những nơi tôn kính như nhà Chùa, nhà Thờ,… lấy việc giúp người làm niềm vui, đó là những thú vui trong tuổi già

Hơn nửa đời, chúng ta dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho chính mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho thanh thản, vui vẽ.

Việc gì muốn thì làm, ai nói sao thì mặc kệ vì mình đâu phải sống để người khác thích hay không thích, nên sống thật với mình. Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức, ăn uống quá kiêng cử thì không đủ chất bổ dưởng, quá nhàn rổi thì buồn tẻ, quá ồn ào thì khó chịu…

Cuộc sống tuổi già thật đa dạng, nhiều màu sắc nên ta cần có nhiều bạn bè, nhiều nhóm bạn bè hoặc tham dự vào những sinh hoạt trong các Hội đoàn ái hữu lành mạnh. Gặp bạn, nói ra những điều phiền muộn cho nhau nghe. Hãy tìm cách gặp gở bạn bè và người thân vì không còn nhiều thời gian nửa.

Một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chổ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh. Đừng bao giờ nói, hay nghỉ là: “ Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nửa”. Đừng nói những lời hay những tư tưởng có ý tuyệt vọng.

Người già chỉ sảng khoái khi được có bạn tâm giao, đó là một liều thuốc bổ mà không Bác sĩ nào có thể biên toa cho ta mua được.

Ở tuổi hiện tại, chúng ta đừng nghỉ đến đồng tiền, đừng nghỉ đến giàu hay nghèo nửa và cũng đừng than trách hay hối hận vì những lầm lỗi trong quá khứ và cũng đừng tự hỏi là tại sao bây giờ ta không có nhiều tiền. Đừng nói ta không có tiền.

Có những thứ hiện đang chung quanh ta rất quí giá mà có nhiều tiền cũng không mua được, đó là người phối ngẩu của chúng ta.

Nếu có chút ít đồng tiền thì cứ tiêu xài những gì ta cần vì sẽ có lúc chúng ta để lại cho người khác xài. Nếu hôm nay ta còn khoẻ mạnh, còn ăn được những món ăn ta thích và ăn biết ngon là ta đã có một khối tài sản to lớn trong tuổi già.

Rồi ta tìm đến những người bạn cùng nhau uống tách trà nóng, ly cà phê buổi sáng, kể chuyện năm xưa hay trao đổi những kinh nghiệm trong cuộc sống hiện tại.

Cuối tuần, hẹn nhau với người bạn đi câu cá, hưởng không khí trong lành của thiên nhiên và cũng để cho tâm tư lắng đọng, tinh thần thanh thản. Đó là những niềm vui trong cuộc sống cuả tuổi già.

From: Tu-Phung


 

Nỗi Đau Lớn Nhất Của Tuổi Già…

Bảy mươi tuổi tôi mới hiểu: nỗi đau lớn nhất không phải là nhà trống trải.

Tôi tên là María.

Năm nay tôi tròn bảy mươi. Con số tròn, nghe sang thật đấy, mà chẳng đem lại chút niềm vui nào. Cả cái bánh sinh nhật con dâu làm cũng nhạt thếch. Hay có lẽ tôi đã mất vị giác — với đồ ngọt lẫn với sự quan tâm.

Lâu lắm rồi tôi vẫn nghĩ: già nghĩa là cô đơn — một căn nhà im ắng, điện thoại chẳng reo, cuối tuần chẳng ai ghé. Tôi tưởng đấy mới là nỗi đau tệ nhất.

Bây giờ tôi biết: còn tàn nhẫn hơn cả khoảng trống, là một ngôi nhà đầy người nhưng mình bị vô hình.

Chồng tôi mất mười năm trước.

Bốn mươi năm bên nhau. Một người đàn ông mộc mạc, vững chãi. Ông sửa được cái cửa kẹt, nhóm được bếp lửa, và luôn tìm đúng một câu ngắn gọn để tôi thấy yên lòng. Ông đi rồi, chân tôi như đứng trên khoảng không.

 Tôi ở lại với hai đứa con — Carlo và Laura. Tôi cho chúng tất cả. Không phải vì bổn phận, mà vì tôi chẳng biết yêu theo cách nào khác.

 Chẳng có chuyến đi xa hay bằng cấp oách, nhưng tôi luôn có mặt: lúc con sốt, lúc làm bài, lúc gặp ác mộng. Tôi nghĩ tình thương rồi sẽ quay lại với mình.

Dần dần, những lần ghé thăm thưa hẳn.

—  Mẹ ơi, con bận.

—  Cuối tuần này cũng không được đâu mẹ.

Và tôi chờ.

Một ngày, Carlo bảo:

—  Mẹ về ở với tụi con đi, cho mẹ có người bầu bạn.

Tôi xếp đồ. Cái mền tặng cô hàng xóm, cái ấm pha cà phê đem cho, cây đàn piano thì bán — rồi tôi về căn nhà rộng rãi, sáng sủa của con.

Ban đầu, dễ chịu lắm. Cháu trai ôm tôi, Laura rót cà phê cho tôi. Rồi mọi thứ đổi khác.

—  Mẹ ơi, vặn nhỏ tivi lại.

—  Mẹ ở trong phòng nhé, nhà có khách.

—  Mẹ chưa bỏ đồ giặt chung với tụi con sao?

Và những câu nói cứ dính chặt lên tường:

—  Tụi con mừng vì mẹ ở đây, nhưng đừng làm nhiều quá.

—  Mẹ ơi, đây không còn là nhà của mẹ nữa.

Tôi cố giúp: nấu ăn, giặt giũ, trông cháu. Nhưng như thể tôi không tồn tại. Hoặc tệ hơn: tôi là gánh nặng.

Một đêm, tôi nghe Laura nói chuyện điện thoại:

—  Mẹ chồng như bức tượng ở góc nhà. Có cũng như không. Thế lại… dễ cho mình hơn.

Đêm đó tôi không ngủ. Nhìn trần nhà và hiểu: người thân ở ngay bên, mà mình cô độc nhất đời.

Một tháng sau, tôi đi. Tôi nói có bạn rủ về quê ở chung.

— Mẹ đi vậy cũng tốt, Carlo đáp, nghe như thở phào.

Giờ tôi ở một căn phòng nhỏ ngoài rìa Granada. Tôi tự pha cà phê, đọc sách, viết những lá thư chẳng bao giờ gửi. Không ai chen ngang, không ai phán xét. Bảy mươi tuổi, tôi không mong gì nhiều. Chỉ muốn còn cảm thấy mình là một con người — không phải gánh nặng, không phải cái bóng.

Tôi đã hiểu:

Cô đơn thật sự không phải là sự im lặng của căn nhà.

 Đó là khi những người mình yêu ở ngay gần, mà chẳng ai nhìn thẳng vào mắt mình.

 Khi người ta chịu đựng mình thay vì lắng nghe.

Khi mình vẫn ở đó, nhưng đã bị coi như vô hình.

Tuổi già không nằm trên nếp nhăn.

 Tuổi già là tình yêu bạn đã từng cho đi… và còn ai cần đến nữa.

 Văn Chương/quinhon 11


 

Sống Chung Với Tuổi Già

Ai cũng tới lúc già đi, hãy sẵn sàng “sống chung với tuổi già”.

“Ôi cái bụng bự của tôi”, “Dạo này cứ 3, 4 giờ sáng là thức”, “Giời ạ, cứ nhớ trước quên sau, hay bị mất trí nhớ rồi ta!”… Đó là dấu hiệu bạn đang bước vào quá trình lão hóa.

Sinh-lão-bệnh-tử, bình thường, ai cũng phải qua bốn bước. Vậy bạn phải chấp nhận tuổi già sẽ ập đến.

Bao nhiêu người trong chúng ta muốn có một hướng dẫn đáng tin cậy với bằng chứng cụ thể về quá trình lão hóa, khi cơ thể và tâm trí sẽ thay đổi theo tuổi già và cách thích ứng với “bình thường mới”? Đó là một thách thức lớn. Lý do, quá trình lão hóa làm thay đổi con người diễn ra dần dần qua nhiều thập niên và được định hình bởi hoàn cảnh kinh tế xã hội của mỗi cá nhân; khu vực sống, cách sống và các yếu tố khác nữa.

Ngoài ra, dù chúng ta có các vấn đề sinh lý chung khi già đi, nhưng không theo cùng lộ trình mù mịt phía trước.

Bác sĩ Rosanne Leipzig, phó Chủ tịch giáo dục tại Khoa Lão khoa và Y học Giảm nhẹ Brookdale tại Trường y Icahn School of Medicine ở Mount Sinai, New York, nhận định: “Những thay đổi có thể dự đoán được không nhất thiết phải xảy ra cùng lúc hoặc theo cùng một trình tự. Những người lớn tuổi là nhóm không đồng nhất nhất trong các nhóm tuổi khác nhau”.

Leipzig, 72 tuổi, đang dành ra toàn thời gian để giảng dạy nội trú và nghiên cứu sinh cũng như khám bệnh cho bệnh nhân vừa xuất bản cuốn sách mới: “Honest Aging: An Insider’s Guide to the Second Half of Life” được đánh giá là: “Cuộc kiểm tra toàn diện nhất về những gì sẽ xảy ra trong nhiều chục năm khi chúng ta già dần”.

Leipzig có hai mục tiêu khi viết hướng dẫn này. Thứ nhất là: “Để vượt qua tất cả những suy nghĩ tiêu cực về lão hóa”. Thứ hai là: “Để giúp mọi người hiểu rằng có rất nhiều điều người già có thể làm trong việc thích nghi với trạng thái bình thường mới để có cuộc sống chất lượng hơn và có ý nghĩa”.

Khi được hỏi tại sao tựa sách lại có cụm từ “Honest Aging” (Tuổi già trung thực), bà giải thích: “Bởi vì có quá nhiều thứ dạy cách thích nghi với tuổi già là không đáng tin cậy. Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta nên tự nhủ: Già đi chính là ‘mặc định’ của loài người và thừa nhận chúng ta thật may mắn khi có thêm được ngần ấy năm sống với tuổi già”.

Mức tăng tuổi thọ của con người là phi thường trong thời kỳ hiện đại. Với những tiến bộ trong y học và sức khỏe cộng đồng, số người từ 60 tuổi trở lên đông hơn rất nhiều so với đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, đa số chúng ta đều thiếu hiểu biết rõ ràng về những gì xảy ra với cơ thể mình trong một khoảng thời gian đôi khi rất dài sau tuổi trung niên.

 Khi được hỏi, những câu hỏi nào người lớn tuổi thường hỏi nhất? Leipzig đưa ra một danh sách: Tôi có thể làm gì với cái bụng phệ này? Làm thế nào tôi có thể cải thiện giấc ngủ? Tôi gặp khó khăn khi nhớ tên và đây có phải là chứng mất trí nhớ? Tôi có thực sự cần nội soi hoặc chụp quang tuyến vú không? Tôi nên làm gì để lấy lại vóc dáng? Tôi có cần phải ngừng lái xe?”

Đằng sau những câu hỏi này là sự hiểu biết kém về những thay đổi ‘không thể tránh khỏi’ về thể chất và tinh thần mà tuổi già mang lại – bà nói và khẳng định – Các giai đoạn lão hóa không thể chia nhỏ theo từng thập niên. Những người ở độ tuổi 60 và 70 có sự khác biệt đáng kể về sức khỏe và chức năng.

“Thông thường, những thay đổi có thể dự đoán được liên quan đến quá trình lão hóa diễn ra nhiều hơn ở độ tuổi từ 75 đến 85”. Leipzig lên danh sách các vấn đề liên quan đến tuổi tác cần chú ý:

 – Người lớn tuổi thường có các triệu chứng khác với người trẻ tuổi khi bị bệnh. Ví dụ, người lớn tuổi bị đau tim có thể khó thở hoặc lú lẫn thay vì đau ngực. Người lớn tuổi bị viêm phổi có thể bị ngã hoặc chán ăn thay vì sốt và ho.

– Người già thường phản ứng khác với người trẻ với thuốc và rượu. Do những thay đổi về thành phần cơ thể và chức năng gan, thận, ruột, người lớn tuổi nhạy cảm hơn với thuốc và thường dùng liều lượng thấp hơn, kể cả các loại thuốc sử dụng đã nhiều năm.

– Người già giảm dự trữ năng lượng. Khi tuổi càng cao, tim hoạt động càng kém hiệu quả; phổi chuyển ít oxy vào máu hơn và cần nhiều protein hơn để tổng hợp cơ. Khối lượng cơ và sức mạnh cũng giảm. Kết quả, người già có ít năng lượng hơn lúc còn trẻ, ngay cả lúc cần nhiều năng lượng hơn để làm các công việc hàng ngày.

– Đói và khát cũng giảm dần. Vị giác và khứu giác của con người giảm sút, khiến món ăn bớt sức hấp dẫn. Chán ăn phổ biến hơn ở người cao tuổi và người già dễ no hơn dù ăn ít hơn. Nguy cơ mất nước tăng lên.

 – Nhận thức chậm lại. Người lớn tuổi xử lý thông tin chậm hơn và phải mất nhiều thời gian hơn để hiểu thông tin mới. Đa nhiệm cũng khó khăn hơn, phản ứng chậm hơn và khó tìm đúng từ (đặc biệt là danh từ) hơn. Những thay đổi về nhận thức do thuốc và bệnh tật xảy ra thường xuyên hơn nhưng đa số là bình thường và không phải dấu hiệu của bệnh mất trí nhớ.

– Hệ thống cơ xương kém linh hoạt. Do các gai ngắn lại, các đĩa đệm ngăn cách các đốt sống cứng hơn và bị nén nhiều hơn, người lớn tuổi thường giảm chiều cao từ 1 đến 3 inch. Khả năng giữ thăng bằng bị giảm do những thay đổi ở tai trong, não và hệ thống tiền đình (một hệ thống phức tạp điều chỉnh sự cân bằng và ý thức về cảm giác). Người già định hướng không gian đường phố kém dần. Các cơ ở chân, hông và mông suy yếu và phạm vi chuyển động của các khớp hẹp dần. Gân và dây chằng không còn khỏe nữa. Té ngã và gãy xương thường xuyên hơn do xương giòn hơn.

– Thị lực và thính giác thay đổi. Người già cần nhiều ánh sáng để đọc hơn người trẻ. Họ khó nhìn thấy đường viền của các vật thể hoặc khó phân biệt giữa các màu gần giống vì khả năng nhận thức về màu sắc và độ tương phản đã suy giảm.

Do những thay đổi ở giác mạc, thủy tinh thể và chất lỏng trong mắt, mắt sẽ mất nhiều thời gian hơn để thích nghi với ánh sáng mặt trời cũng như bóng tối. Do các tế bào lông ở tai trong bị tổn thương nên người già khó nghe hơn, đặc biệt là ở tần số cao. Cũng khó hiểu được câu nói nhanh, câu nói chứa nhiều thông tin hoặc nói trong môi trường ồn ào.

– Giấc ngủ rời rạc. Người lớn tuổi mất nhiều thời gian hơn để chìm vào giấc ngủ và thức giấc nhiều hơn vào ban đêm.

Để giảm nhẹ các ảnh hưởng trên, Leipzig đề nghị các điều chỉnh người già nên làm.

– Đừng bỏ qua những thay đổi đột ngột trong chức năng vận động mà cần tìm kiếm sự chăm sóc y tế.

 – Mỗi lần đến gặp bác sĩ, hãy hỏi thuốc đang dùng liều lượng đã phù hợp chưa và có thể ngừng loại thuốc nào.

– Hãy chịu khó vận động thể chất nhẹ.

 – Hãy chắc chắn đã ăn đủ chất đạm, uống đủ nước ngay cả khi không thấy khát.

– Giảm bớt đa nhiệm và làm việc theo khả năng của mình.

– Thực hiện các bài tập thăng bằng.

– Hãy kiểm tra mắt hàng năm.

– Dùng trợ thính nếu thấy khó trò chuyện.

 – Không tập thể dục, uống rượu và ăn nhiều trong hai đến ba giờ trước khi đi ngủ.

Cuối cùng, “Đừng bao giờ nói ‘không bao giờ’ vì luôn có cách cải thiện tình trạng thể chất và tinh thần khi chúng ta già đi. Vấn đề là bạn phải luôn sẵn sàng sống chung với tuổi già,” Leipzig kết luận.

Lương Thái Sỹ (bài do bạn Bá Trần giới thiệu)

http://www.nuiansongtra.com/index.php?c=article&p=11968

From: Tu-Phung


 

Người Mỹ sống chung với ‘nợ công’

Ba’o Nguoi-Viet

October 24, 2025

Hiếu Chân/Người Việt

Chính phủ Mỹ đã đóng cửa sang ngày thứ 25 do Quốc Hội chưa thông qua được kế hoạch ngân sách liên bang 2025-2026, ảnh hưởng xấu tới mọi mặt đời sống.

Vướng mắc nằm ở chỗ hai đảng bất đồng sâu sắc chung quanh việc gia hạn hay không gia hạn tín dụng thuế để người dân mua bảo hiểm y tế theo luật Affordable Care Act.

Đảng Cộng Hoà cầm quyền muốn cắt giảm các chương trình xã hội để giảm nợ, ảnh hưởng trực tiếp đến chăm sóc y tế cho người nghèo và thu nhập thấp. (Hình minh họa: Spencer Platt/Getty Images)

Bất đồng này lại có nguồn gốc sâu xa từ một thực tế nhức nhối: Mỹ đang nợ như Chúa Chổm và đảng Cộng Hoà cầm quyền muốn cắt giảm các chương trình xã hội để giảm nợ trong khi vẫn giảm thuế làm thu hẹp nguồn thu của quốc gia.

Mỗi người gánh hơn $100,000 tiền nợ

Truyền thông dẫn số liệu của Bộ Tài Chính Mỹ hôm 22 Tháng Mười cho biết lần đầu tiên trong lịch sử tổng nợ công quốc gia của Mỹ đã vượt quá con số $38 ngàn tỷ (Người Việt, 23 Tháng Mười, 2025).

Tính bình quân dân Mỹ, từ ông bà già trong viện dưỡng lão tới trẻ em còn ẵm ngửa, mỗi người phải gánh trên vai khoản nợ $115,000! Núi nợ không dừng ở đó mà đang tăng rất nhanh: tăng thêm $1,000 tỷ chỉ trong hai tháng. Theo Ủy Ban Kinh Tế Hỗn Hợp của Quốc Hội, trong năm qua, nợ quốc gia của Mỹ tăng trung bình $69,713.82 mỗi giây đồng hồ.

Sở dĩ nước Mỹ phải vay nợ nhiều như vậy là do thâm hụt ngân sách kéo dài. Thâm hụt ngân sách (budget deficit) xảy ra khi chính phủ liên bang chi tiêu vượt quá mức thu; ngược lại là thặng dư (surplus). Trong năm tài chính 2025 chẳng hạn, chính phủ liên bang thu vào được $5.23 ngàn tỷ và chi ra $7.01 ngàn tỷ, thâm hụt $1.7 ngàn tỷ, theo dữ liệu của Bộ Tài Chính.

Cũng theo dữ liệu của Bộ Tài Chính trong 25 năm qua nước Mỹ chỉ đạt thặng dư ngân sách một lần duy nhất: năm 2001 dưới thời Tổng Thống Bill Clinton. Năm đó ngân sách liên bang thu nhiều hơn chi $130 tỷ, còn 24 năm sau đều thâm hụt, mức thâm hụt nặng nhất xảy ra cuối nhiệm kỳ đầu của Tổng Thống Donald Trump (năm 2020 thâm hụt $3.13 ngàn tỷ) do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.

Về lâu dài, tính toán của Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội cho biết, nếu năm 2024 thâm hụt ngân sách là $1.6 ngàn tỷ, bằng 5.6% tổng sản lượng quốc gia (GDP) thì mười năm nữa, năm 2034, số thâm hụt sẽ là $2.6 ngàn tỷ, bằng 6.1% GDP.

Nợ do chi tiêu nhiều

Để bù khoản thâm hụt, chính phủ phải phát hành công trái phiếu để vay tiền và phải trả tiền lời. Nhiều năm đi vay, nợ mới chồng lên nợ cũ, khiến núi nợ của quốc gia mỗi ngày một lớn và đã vượt mức $38,000 tỷ nói trên. Năm 2024, số tiền lời phải trả là $949 tỷ, nhiều hơn tiền chi cho chương trình Medicaid ($909 tỷ), Medicare ($848 tỷ) hoặc quốc phòng ($841 tỷ).

Ông Michael Peterson, chủ tịch Quỹ Peter G. Peterson Foundation, cho biết chi phí trả tiền lời của nợ công là phần tăng nhanh nhất trong ngân sách quốc gia: “Mười năm qua, nước Mỹ đã chi $4 ngàn tỷ cho tiền lời, nhưng trong mười năm tới con số đó sẽ lên tới $14 ngàn tỷ. Chi phí tiền lời đang ‘nuốt chửng’ những khoản đầu tư quan trọng vào tương lai, làm tổn hại nền kinh tế của mọi người dân.”

Tiền lời phải trả quá nhiều là yếu tố đầu tiên dẫn tới thâm hụt ngân sách. Thâm hụt tăng thì chính phủ phải vay nhiều hơn, phải trả tiền lời nhiều hơn và do vậy càng thâm hụt nhiều hơn. Cái vòng luẩn quẩn đó tiếp diễn từ năm này sang năm khác, khó mà dứt được.

Ngoài tiền lời, ngân sách liên bang còn phải chi cho nhiều khoản chi bắt buộc (mandatory spending), không thể không chi. Các khoản này bao gồm tiền an sinh xã hội (Social Security), chăm sóc y tế người cao tuổi (Medicare) và chăm sóc y tế người nghèo (Medicaid). Năm 2024, các khoản chi bắt buộc lên tới $2,935 tỷ, chiếm 40% tổng chi của chính quyền liên bang.

Các chuyên gia tài chính dự đoán, các khoản chi bắt buộc của chính quyền liên bang sẽ tăng trong vài năm nữa do thế hệ Baby Boomers (sinh ra trong khoảng thời gian 1946-1964) đang và sắp hưởng lương hưu sau nhiều năm làm việc và đóng góp vào quỹ an sinh xã hội. Dân số bị lão hoá cùng với chi phí chăm sóc y tế tăng nhanh hơn lạm phát sẽ khiến cho gánh nặng an sinh xã hội ngày càng đè nặng lên ngân sách quốc gia.

Ngoài ra ngân sách quốc phòng, với đội quân gần 3 triệu người đóng trong hàng trăm căn cứ ở 80 quốc gia, là một khoản chi không nhỏ và đang tăng nhanh theo biến động của tình hình quốc tế.

Nợ do giảm thu

Trong hoàn cảnh giật gấu vá vai thường xuyên như vậy, chính quyền phải tìm cách tăng thu hoặc giảm chi thay vì chỉ dựa vào tiền đi vay. Nhưng đáng chú ý là Mỹ lại liên tục ban hành các chính sách giảm nguồn thu, khiến mà nợ công ngày càng phình to đến mức nguy hiểm. Miễn thuế, giảm thuế đang bóp nghẹt nguồn tiền đổ vào ngân sách liên bang.

Phân tích cơ cấu nguồn thu $4.9 mà chính quyền liên bang thu được năm 2024, Trung Tâm Chính Sách Lưỡng Đảng (Bipartisan Policy Center) ghi nhận có gần một nửa (49.5%) là thuế thu nhập cá nhân ($2,426 tỷ), thuế thu nhập doanh nghiệp (corporate income tax) chỉ chiếm một khoản khiêm tốn là 0.11%, tương đương 530 tỷ!

So với các nước công nghiệp phát triển G7, Mỹ là nước có mức thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp thấp nhất.

Về thuế thu nhập cá nhân (individual income tax), mức cao nhất ở Mỹ là 37% áp dụng cho những người có thu nhập cao ngất ngưởng, chưa tính thuế đóng cho tiểu bang và địa phương; trong khi ở Nhật Bản mức cao nhất là 55.95%; ở Pháp 55.4%-55.6%; ở Canada 50%-54%; các nước Anh, Ý và Đức dao động trong mức từ 45% đến 47.9%. Người giàu ở Mỹ rõ ràng chịu thuế mức thuế dễ chịu hơn những người cùng đẳng cấp ở các nước khác.

Doanh nghiệp Mỹ tập hợp nhiều công ty hàng đầu thế giới ở tất cả các lĩnh vực, nhưng họ chỉ đóng thuế tối đa 21% của lợi tức, quy định trong đạo luật Giảm Thuế và Việc Làm (Tax Cuts and Jobs Act of 2017 – TCJA) ban hành trong năm đầu tiên của chính quyền Trump thứ 45. Trong khi đó thuế thu nhập doanh nghiệp ở Đức (30%), Nhật Bản (29.7%), Canada (26%), Anh và Pháp (25%), Ý (24%)… đều cao hơn đáng kể so với Mỹ.

Nói cách khác, doanh nghiệp Mỹ lớn hơn, giàu hơn nhưng đóng góp cho chính phủ và xã hội ít hơn các nước bạn. Chỉ riêng việc giảm thuế doanh nghiệp xuống còn 21% theo luật TCJA mà ông Trump ban hành năm 2017 đã làm ngân sách Mỹ thất thu hơn $2,000 tỷ! Đạo luật To Đẹp (Big Beautiful Act of 2025) mới ban hành “vĩnh viễn hoá” việc giảm thuế này lại càng ngân sách bị thất thu nhiều hơn nữa.

Việc giảm thuế, thu thuế thấp là yếu tố làm cho Mỹ trở thành nơi “đáng sống” nhưng chính phủ luôn phải đi vay để chi tiêu.

Ảo tưởng “thấm xuống”

Tại sao phải giảm thuế khi ngân sách thâm hụt triền miên mà không làm ngược lại là tăng thuế? Nhiều đời chính phủ Mỹ – nhất là các chính quyền do đảng Cộng Hòa kiểm soát – tin vào một lý thuyết gọi là “trickle down economics” (kinh tế thấm xuống). Lý thuyết này, có từ thời Tổng Thống Ronald Reagan, được các Tổng Thống George W. Bush và Donald Trump tích cực thực hiện, cho rằng giảm thuế cho người giàu và doanh nghiệp sẽ kích thích tăng trưởng, các chủ công ty sẽ đầu tư mở rộng sản xuất, tạo việc làm cho người lao động, cuối cùng lợi ích sẽ “thấm” xuống các tầng lớp lao động nghèo khó hơn.

Tuy vậy, thực tế cho thấy khi được giảm thuế và giữ lại phần lớn lợi tức, các chủ công ty sẽ đổ tiền mua lại cổ phần, đẩy giá cổ phiếu lên để họ trở nên giàu hơn, hoặc đem tiền ra nước ngoài đầu tư mở nhà máy mà không tạo việc làm cho người Mỹ, lợi ích không “thấm” xuống như kỳ vọng. Hậu quả là hố ngăn cách giàu nghèo trong xã hội Mỹ ngày càng rộng và ngân sách bị hụt thu ngày càng trầm trọng.

Hiện các gia đình giàu có thuộc “top 10%” sở hữu tới 70% tài sản quốc gia. Nước Mỹ tự hào có nhiều tỷ phú có tài sản hàng trăm tỷ đô la như Elon Musk, Jeff Bezos…, nhưng ngày càng nhiều người Mỹ phải thắt lưng buộc bụng và dễ dàng rơi vào cảnh cùng quẫn tuyệt vọng nếu chẳng may bị bệnh nan y, mất việc hay tai nạn bất ngờ.

Nợ cản đường tới tương lai

Một cuộc khảo sát của Peterson Foundation hồi tháng Chín 2025 ghi nhận, 81% người Mỹ nói rằng, nợ quốc gia là một vấn đề rất đáng lo ngại. Nợ công không chỉ là con số khó hình dung mà nó cản trở nước Mỹ thực hiện các chương trình đầu tư để cải thiện đời sống người dân, đồng thời cản đường tới tương lai thịnh vượng.

Vì nợ, mà Mỹ không có bảo hiểm y tế toàn dân. Vì nợ, chúng ta không có hệ thống đại học công lập miễn học phí. Vì nợ, chúng ta không có chương trình chăm sóc trẻ em không tốn tiền… Thậm chí, nhiều công trình hạ tầng thiết yếu của quốc gia như đường sá, cầu cống, phi trường, bến cảng ở nhiều bị hư hỏng, xuống cấp trầm trọng mà chính phủ không có tiền sửa chữa. Ai đã đi qua các thành phố, phi trường châu Á, kể cả Trung Quốc, sẽ thấy hạ tầng của Mỹ lạc hậu đến mức nào.

Nợ công đã trở thành lý do biện hộ cho những kế hoạch cắt giảm các chương trình an sinh xã hội đang hỗ trợ hàng chục triệu người dân, nếu không thì đóng cửa chính phủ. Đó là một lựa chọn vô trách nhiệm về ngân sách, lẽ ra phải được chấm dứt sớm. [kn]


 

Chính quyền Trump sẽ không dùng quỹ khẩn cấp để trang trải cho ‘Food Stamps’

Ba’o Nguoi-Viet

October 24, 2025

WASHINGTON, DC (NV) – Chính quyền Tổng Thống Donald Trump sẽ không sử dụng quỹ khẩn cấp để trang trải cho các khoản trợ cấp thực phẩm liên bang, khiến cho gần 42 triệu người Mỹ dựa vào chương trình chống đói lớn nhất của quốc gia có nguy cơ mất quyền lợi kể từ ngày 1 Tháng Mười Một, theo một bản ghi nhớ của Bộ Nông Nghiệp Mỹ (USDA) mà Politico đọc được hôm Thứ Sáu, 24 Tháng Mười.

Bản ghi nhớ ghi rằng quỹ dự phòng hay các chương trình dinh dưỡng sẽ không được đụng đến để trang trải chi phí của chương trình SNAP, thường được gọi là “Food Stamps,” cung cấp các phiếu thực phẩm cho những người nghèo. Theo dự trù, SNAP sẽ cạn tiền vào cuối tháng này.

Một cửa hàng thông báo chấp nhận thanh toán bằng phiếu thực phẩm ở Bronx, New York. (Hình minh họa: Spencer Platt/Getty Images)

Các thành viên Dân Chủ trong Quốc Hội và các nhóm hoạt động chống nạn đói đã thúc giục chính quyền Trump tiếp tục trợ cấp SNAP vào Tháng Mười Một. Một số người thậm chí còn lập luận rằng chính phủ liên bang có nghĩa vụ pháp lý lấy tiền từ các quỹ khác để trang trải cho SNAP.

Tuy nhiên, một số giới chức cấp cao nói với Politico rằng việc sử dụng các khoản tiền khác sẽ khiến không còn tiền cho các trường hợp khẩn cấp trong tương lai và các chương trình hỗ trợ lương thực lớn khác.

Giới chức chính quyền cho rằng các thống đốc Dân Chủ và các nhóm vận động sẽ kiện quyết định này, Politico dẫn lời hai người giấu tên nắm rõ vấn đề cho biết.

Quốc Hội có thể thông qua một dự luật độc lập để tài trợ cho SNAP vào Tháng Mười Một, nhưng nó cần phải được Thượng Viện thông qua vào đầu tuần tới và các dân biểu Hạ Viện có thể sẽ cần phải quay lại thủ đô Washington, DC để bỏ phiếu phê chuẩn. (NNL) [đ.d.]


 

Nhật Bản Lo Ngại Khi Việt Nam Ban Lệnh Cấm Xe Máy Chạy Xăng

Ba’o Dat Viet

October 24, 2025

Một quyết định được cho là “vì môi trường” đang đe dọa trở thành cú đánh mạnh vào nền kinh tế Việt Nam — khi chính phủ Cộng sản Việt Nam khăng khăng thực hiện kế hoạch cấm 

 chạy bằng xăng ở trung tâm Hà Nội từ giữa năm 2026. Động thái này không chỉ khiến các nhà sản xuất Nhật Bản lo ngại, mà còn có thể làm rung chuyển cả thị trường trị giá 4,6 tỷ đô la vốn đang bị thống trị bởi Honda.

Theo Reuters, sau khi Thủ tướng Phạm Minh Chính ban hành chỉ thị hồi tháng Bảy, Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Nội đã gửi thư cảnh báo các cơ quan chức năng Việt Nam rằng lệnh cấm đột ngột có thể gây “mất việc làm hàng loạt” trong các ngành công nghiệp hỗ trợ, bao gồm hệ thống đại lý và nhà cung cấp linh kiện. Dù không tiết lộ toàn bộ nội dung, phía Nhật Bản khẳng định Việt Nam cần một “lộ trình phù hợp” cho quá trình điện khí hóa, thay vì ban hành lệnh cấm kiểu mệnh lệnh hành chính.

Hiệp hội Các nhà sản xuất xe máy Việt Nam (VAMM) — trong đó có Honda, Yamaha và Suzuki — cũng đã gửi thư riêng cho chính phủ, cảnh báo rằng kế hoạch này có thể gây “gián đoạn sản xuất, phá sản hàng loạt và ảnh hưởng trực tiếp đến hàng trăm ngàn công nhân.” Hiệp hội yêu cầu ít nhất hai đến ba năm chuyển tiếp để các doanh nghiệp có thể điều chỉnh dây chuyền sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng sạc điện phù hợp.

Thế nhưng, theo các nguồn tin của Reuters, phía Việt Nam vẫn phớt lờ mọi khuyến nghị từ Tokyo lẫn giới công nghiệp. Không một phản hồi nào được chính phủ đưa ra, ngoài tuyên bố quen thuộc rằng “lệnh cấm là cần thiết để giảm ô nhiễm.”

Thị trường xe hai bánh của Việt Nam hiện là một trong những lớn nhất thế giới, với gần 80 triệu xe máy lưu hành — tương đương 80% dân số. Đó không chỉ là phương tiện di chuyển, mà còn là trụ cột sinh kế cho hàng triệu người. Việc cấm xe xăng đột ngột chẳng khác nào bóp nghẹt một phần khổng lồ của nền kinh tế.

Honda, công ty chiếm tới 80% thị phần xe máy với hơn 2,6 triệu xe bán ra mỗi năm, đã lên tiếng trong các cuộc gặp gần đây với giới chức Việt Nam. Theo nguồn tin Reuters, hãng này thậm chí cân nhắc khả năng thu hẹp quy mô sản xuất nếu Hà Nội vẫn duy trì lệnh cấm. Mặc dù Honda phủ nhận việc đóng cửa nhà máy, nhưng hãng thừa nhận đang “theo dõi sát diễn biến” khi doanh số tại Việt Nam đã giảm hơn 22% trong tháng Tám — ngay sau khi lệnh cấm được công bố.

Với bốn nhà máy hoạt động trên khắp Việt Nam, thương hiệu Honda đã trở thành đồng nghĩa với “xe máy” trong ngôn ngữ hàng ngày. Phần lớn sản phẩm của họ vẫn chạy bằng xăng, trong khi các mẫu xe điện như CUV e: và ICON e: mới chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ. Việc ép buộc chuyển đổi quá nhanh sang xe điện không chỉ là rủi ro kinh tế, mà còn đe dọa hàng trăm ngàn việc làm, từ công nhân dây chuyền đến người bán hàng nhỏ lẻ.

Trong khi đó, chính quyền Cộng sản vẫn tiếp tục quảng bá kế hoạch này như một “bước tiến xanh.” Cả Hà Nội và Sài Gòn đều đang nói đến “hạn chế xe xăng” như một thành tựu môi trường, bất chấp thực tế rằng cơ sở hạ tầng sạc điện gần như chưa tồn tại, và nguồn điện quốc gia vẫn chủ yếu đến từ than đá.

Sự cố chấp của chính quyền cho thấy một lối điều hành tùy tiện, thiếu thực tiễn, khi quyết sách lớn lại được áp đặt mà không có đối thoại thực chất với doanh nghiệp hay người dân. Nếu lệnh cấm được triển khai đúng như kế hoạch, Việt Nam có thể phải chứng kiến một cú sốc kinh tế – xã hội: mất việc hàng loạt, sụt giảm tiêu dùng, và một thị trường xe máy  vốn sôi động có nguy cơ bị xóa sổ chỉ trong vài năm.

Từ Tokyo, các nhà sản xuất Nhật Bản đang nhìn Việt Nam với sự cảnh giác. Còn tại Hà Nội, chính quyền Cộng sản vẫn đang say sưa với khẩu hiệu “chuyển đổi xanh” — mà quên rằng, không một nền kinh tế nào có thể xanh được nếu người dân mất việc và doanh nghiệp phải rút vốn ra đi.


 

 MƯỢN OAI “SHARK” HƯNG – KHI NIỀM TIN TRỞ THÀNH MÓN HÀNG (của Gã Khờ)

Nguyễn Quốc Chính

(của Gã Khờ)

Mùa gặt của lòng tin

Người Việt ta có một nét văn hóa độc đáo: càng nói khó tin, càng dễ được tin.

Thế nên từ năm 2019, khi BBI Mall Việt Nam xuất hiện với lời hứa “lợi nhuận 180%/năm”, thiên hạ liền rủ nhau nạp tiền như thể tìm được mỏ vàng giữa thời lạm phát.

Nhưng điều kỳ diệu hơn cả nằm ở chỗ: không ai hỏi lợi nhuận đó từ đâu ra, mà chỉ hỏi ai đứng sau nó. Và khi thấy bóng dáng “Shark Hưng” – người từng ngồi ghế truyền hình, gật đầu thông tuệ trong ánh đèn sân khấu – thì nghi ngờ biến thành niềm tin, niềm tin hóa ra tiền, tiền hóa thành… hư vô.

Khi danh tiếng được niêm yết trên sàn… ảo

Theo kết quả điều tra, BBI Mall lôi kéo hơn 435.000 tài khoản, trong đó có 23.000 người thật nạp gần 780 tỷ đồng vào những “điểm thưởng” không hề có hàng hóa. Một mô hình đa cấp cũ kỹ khoác áo công nghệ, nhưng được đánh bóng bởi hào quang của “Shark”.

Trên slide, logo BBI sánh đôi cùng CenGroup – công ty của ông Hưng. Hình ảnh ấy có sức nặng hơn cả nghị định, thông tư hay báo cáo tài chính.

Vì trong một xã hội quen “tin người hơn tin luật”, khuôn mặt sáng đèn còn đáng giá hơn mười trang điều lệ.

Đám đông tin không phải vì họ hiểu mô hình, mà vì “Shark còn đầu tư, sao mình không?”.

Và khi bong bóng vỡ, người ta lại được nghe điệp khúc cũ: “Tôi chỉ góp 2%, đã thoái vốn từ lâu.”

Khi “Shark” thành bình phong, còn “cá nhỏ” thành mồi

Ở Việt Nam, các “Shark” đôi khi không bơi trong đại dương tài chính, mà chỉ lượn qua hồ PR – nơi mỗi cú bắt tay, mỗi tấm ảnh, được quy ra hàng tỷ đồng niềm tin.

Và khi niềm tin ấy bị đem ra thế chấp cho lòng tham của kẻ khác, thì ranh giới giữa “truyền cảm hứng” và “tiếp tay” mong manh hơn cả tấm danh thiếp.

Một cái gật đầu trên sân khấu có thể khiến hàng nghìn người dưới khán phòng bỏ tiền thật.

Và một lời “tôi không biết họ làm gì sau đó” lại đủ để gột rửa mọi trách nhiệm.

Pháp lý im lặng. Lương tâm thì… chưa chắc.

Lỗ hổng lớn nhất: trách nhiệm

Luật Việt Nam chưa định danh được “trách nhiệm liên đới của người cho mượn niềm tin”.

Nếu anh góp vốn nhỏ, không điều hành, anh vô can. Nhưng công chúng đâu phân biệt được điều hành hay không – họ chỉ thấy anh ngồi đó, nói về khởi nghiệp, mỉm cười tin cậy.

Hơn 23.000 người nạp tiền không phải vì họ ngây thơ, mà vì họ tin vào hình ảnh tử tế.

Và đó là điều đau nhất: khi niềm tin – thứ vốn quý của xã hội – lại bị biến thành công cụ huy động vốn cho một trò ảo tưởng.

Đạo đức doanh nhân: sự vắng mặt của tự trọng

Khi một người đã chọn trở thành “biểu tượng”, thì mỗi bước đi của họ đều có giá trị công chúng.

Anh không thể đứng trên sóng truyền hình dạy người khác cách làm giàu, rồi sau đó nói “tôi không biết gì” khi những kẻ mượn danh anh lừa thiên hạ.

Danh tiếng là tài sản, nhưng cũng là trách nhiệm.

Anh có thể cho thuê hình ảnh, nhưng không thể cho thuê niềm tin.

Vì niềm tin không phải của riêng anh – nó là phần tài sản chung mà xã hội trao cho anh.

Làm giàu bằng trí tuệ thì đáng kính. Làm giàu bằng danh tiếng – thì chỉ là một cách tinh vi của sự nghèo nhân cách.

Hậu khôn ngoan – khi ánh đèn tắt

BBI Mall rồi sẽ đi vào lịch sử cùng những vụ “tiền ảo”, “lợi nhuận ảo”, “niềm tin thật”.

Nhưng điều đáng sợ hơn là, sau mỗi cú sụp, người ta lại mau quên. Và rồi một “BBI khác” sẽ xuất hiện, lại mượn một “Shark khác” để tiếp tục vòng lặp.

Gã Khờ chỉ mong một điều giản dị:

Trước khi anh dạy người khác làm giàu, hãy dạy họ cách không để bị lừa.

Và trước khi anh mượn oai danh nhân, hãy tự hỏi: oai đó có còn là của anh, hay chỉ là món hàng đã được bán lại cho lòng tham?

Gã Khờ

– tháng 10/2025


 

Cái nghèo “ĐÁNG SỢ ” như thế nào?? Bài và ảnh : Lê Tuấn

Kimanh Tampa Florida

Bài và ảnh : Lê Tuấn

  Anh trai tôi lên tám tuổi bị bệnh sốt xuất huyết, bệnh viện yêu cầu truyền dịch gấp. Mẹ tôi không có tiền nên phải chạy bộ rất xa để vay bác ruột nhưng bác lại không cho vay mặc dù nhà rất giàu. Mẹ tôi lại chạy bộ rất xa nữa để vay người khác. Có tiền rồi, mẹ cố chạy thật nhanh để đến bệnh viện thì anh tôi cũng trút hơi thở cuối cùng…

  Hồi xưa, nhà không có tivi nên phải sang nhà hàng xóm xem ké. Vậy mà, họ lại chê nhà nghèo, bẩn thỉu nên đóng cửa lại không cho xem…

  Tết không có tiền mua thịt, mẹ tôi phải bán mái tóc của mình để mua. Đi học về thấy có nồi thịt kho nhưng tóc mẹ lại ngắn tôi chỉ biết chết lặng trong nước mắt!…

  Lúc nhỏ, thấy người ta uống sữa xong vứt cái hộp đi, tôi chạy lại nhặt lên uống. Sau đó, quay sang nói với mẹ: “Mẹ ơi! Người ta hút hết chả còn tí gì!”…

  Hồi xưa, nhà tôi nghèo lắm! Có lần, bà hàng xóm cho đồ ăn mà toàn đồ cũ ôi thiu. Vậy mà, cả nhà tôi ăn ngon đến lạ…

  Ngày đó, mẹ đi làm đồng về mua cho một gói mì ăn trưa, mẹ bảo: “Con nhớ pha nhiều nước. Con ăn mì còn nước để lại mẹ chan cơm”…

  Nhớ lúc năm tuổi, đi lại nhà cậu chơi ngay lúc cả nhà chuẩn bị ăn nui. Mợ thấy tôi đến, mợ bưng đồ ăn để hết vô kẹt tủ gạc – măng – rê…

  Hồi nhỏ, gần nhà tôi có một bãi rác nhưng nó lại là kho đồ chơi của tôi. Cứ chiều đi học về là lượn ra bới tìm đồ chơi, đến giờ còn nhiều thứ đồ chơi tôi vẫn còn giữ vì đó là cả tuổi thơ…

  Lúc nhỏ, nhà tôi rất xập xệ! Mỗi lần mưa bão là ra trước cửa đứng, sợ nhà sập không chạy kịp những đêm ướt mèm đó chắc không bao giờ quên được…

  Lúc trước, ba bị bệnh. Mẹ đã phải đi mượn từ người thân để chữa bệnh cho ba. Năm ấy, mẹ đi chúc tết thì bị người ta nói là “thiếu nợ mà cũng bày đặt đi chơi”…

Đêm giao thừa của năm mười tuổi. Tôi lén theo mẹ đi chợ, mẹ không cho theo cứ tò tò đi sau tưởng mẹ mua gì ngon mà giấu. Tôi đâu có ngờ, mẹ đi mót trái cây héo của người ta bỏ…

 Nghèo nhìn qua hàng xóm cũng nghèo giống mình, đôi khi thấy nhà hàng xóm có thèm,

Sưu tầm: Vivian phạm

 

 


 

Từ Georges Boudarel với Trại tù 113 đến các trại tù sau 1975-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

22/10/2025

Binh sĩ Nam VN đang

Tội ác trong các chế độ độc tài bao giờ cũng có mẫu số chung. Đó lá sự tàn bạo. Trước 1975, chúng ta ở miền Nam cũng có gần 100 đầu sách dịch mà tôi gọi là sách dịch thời thế.

Các tác giả này thường có những suy tư về các biến cố đang phủ trùm đời sống con người, đặc biệt họ là những người đối kháng với bước đi lạc đường lịch sử do tham vọng cá nhân, bè phái, đảng tính mà chủ yếu là do sự mù lòa trí tuệ. Họ là những tên tuổi như Arthur Koestler, Constantin Virgil Gheorghiu, Milovan Djilas, Boris Pasternak, Solzhennitsyn, Moris L. West.

“Sự nổ rợ các tác phẩm dịch này là điều hiểu được. Sự đối đầu giữa hai khối trong cuộc chiến không chỉ vạch ra các đường ranh súng đạn mà còn vạch ra một đường ranh trong tâm não con người. Tính ủy nhiệm và sự tham dự tích cực của các nhà tư tưởng cũng như nhà văn trở thành một thông điệp đối kháng với sự bạo tàn và áp bức.

Chúng ta đã có dịp làm quen với những bản dịch như “Nước đã đến chân” của Suzane Labin, “Thoát ly hỏa ngục” của Thomas Dooley, “Giờ thứ 25” của C.V. Georghiu, “Dr. Zhivago” của Boris Pasternark, “Quần đảo ngục tù” của Soljénitsyn, “Tầng đầu địa ngục” của Thomas P. Whitney.

Chỉ riêng Gheorghiu, ngoài tác phẩm “Giờ thứ 25”, ông còn có các cuốn khác đã được dịch sang tiếng Việt như “Lối thoát cuối cùng”, “Người Lữ hành cô độc”, “Kẻ ăn mày phép lạ”, “Chiếc roi ngựa”, vv..

Nhưng chỉ trong vòng 3 năm, từ 1970-1973, nhiều tác phẩm của Solzhennitsyn đã được dịch như “Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch”, rồi “Tầng đầu địa ngục” và cuốn gây sóng gió nhất là “Quần đảo ngục tù”.” (Nguyễn Văn Lục, 20 năm miền Nam 1955–1975, Tủ sách Tiếng Quê Hương, 2010, trang 396)

Khi nhìn lại hàng trăm tác giả ngoại quốc viết về sự bạo tàn của con người, đặc biệt là người cộng sản, tôi tự trách là khổ đau như thế, nhưng người miền Nam nói chung, các nhà văn nói riêng.

 Đã không có một ai có một tác phẩm ngang tầm với chiều kích bi kịch của sự tàn bạo. Huế 1968, Quảng Trị Mùa hè 1972, đã có tác phẩm nào cho tôi đọc để chia xẻ hết những nỗi đau ấy? Hình như trong cuộc chiến vừa qua có đến cả ngàn đầu sách mà phần đông người ngoại quốc “nói hộ” cho chúng ta.

Nào đã hết. Những bài học về tội ác đối với con người như chế độ Phát Xít Đức Quốc xã bút nào tả hết. Hàng triệu người đã chết dưới tay những tên đao phủ như thế tại các trại tập trung như Buchenwald, tại Bergen–Belsen, tại Landsberg, Flosenburg, Mauthausen. Cộng chung có 1500 trại tập trung rải rác những nơi dưới quyền của Đức Quốc Xã. Có những hố chôn tập thể hàng 2000 người. Nổi tiếng nhất là trại Dachau.

“Khi Dachau được giải phóng, viên hạ sĩ Harold Collum, thuộc đơn vị 392e pháo binh cùng với bốn binh sĩ khác dừng xe díp lại. Họ nhìn thấy những bộ xương người chậm rãi tiến tới gần họ, cánh tay dơ ra. Những người lính kinh hoàng khi nhìn cảnh tượng ấy đến không nói ra lời, Collum đưa cho họ mấy chiếc bánh be nhê, phần còn lại của bữa ăn sáng..Những bộ xương người khụy xuống quỳ lạy tỏ lòng biết ơn. Chiếc xe díp lại nổ máy đi tiếp. Tại trung tâm trại, một vị linh mục tuyên úy Mỹ, có tượng thánh giá bạc trên mũ của ông, trèo lên nắp xe díp, nói to lên trước đám đông những tù nhân bị lưu đày: Lạy Chúa, chúng con dâng lời cảm tạ Chúa.

Thế rồi, ông tiếp tục cầu nguyện bàng tiếng La tinh. Cả đám đông im lặng. Một số người quỳ gối xuống, có nhiều người khóc, nhiều người làm dấu Thánh giá. Một người lính leo lên nóc xe díp đứng bên cạnh vị tuyên úy, nói to lên bằng một thứ tiếng Đức “ăn đong”.

“Hôm qua Mussolini đã bị lật đổ. Munich đã bị chiếm đóng. Các ông được tự do. Xin chào mọi người nhân danh Liên Hiệp Quốc.” (Joshua M. Green, “Justice à Dachau”, nxb calmann-lesvy, 2003, trang 31)

Tôi đã đọc lại những trang lịch sử kinh hoàng ấy trong xúc động về những tội ác đối với con người. Và tôi đành tự an ủi là: Những gì liên quan đến con người, dù độc ác tàn bạo đến đâu đi nữa thì cũng hiểu được theo tinh thần:

Tất cả những gì anh mong muốn người khác làm cho anh, thì chính anh hãy làm điều ấy cho người khác. Và đó là lề luật của các đấng tiên tri.” (Mathieu, 7,12)

Cho nên, chúng ta cũng không lạ gì tội ác và sự tàn bạo của người cộng sản đối với nhân loại, và đối với riêng người Việt Nam khốn khổ. Nhưng vì thế, tôi nghĩ rằng mỗi bài học là một kinh nghiệm riêng, quý báu để ta suy nghĩ trong những hoàn cảnh riêng của nó, trong từng trường hợp, trong cách ứng xử của từng cá nhân.

 Mỗi bài học, mỗi kinh nghiệm đau thương là một thông điệp gửi đi mà nhiều tội ác trở thành tội phạm chống lại con người.

Nói chung, trước những đau khổ ấy, thái độ tốt đẹp nhất là tôn trọng sự khổ đau theo cái tinh thần: ai có qua cầu mới hay.

Bài học của Georges Boudarel mà người viết nêu ra ở đây với Trại tù 113 (“Prisonnier au camp 113”) để lại vừa là bài học vỡ lòng và là một bài học tiêu biểu nhất người viết gửi đến bạn đọc, từ đó dẫn đưa bạn đọc đến các trại cải tạo giam giữ các “ngụy quân, ngụy quyền” sau 1975.

Nhưng trước hết Georges Boudarel là ai mới được? Có thể phần đông bạn đọc lần đầu tiên nghe đến tên này. Vì thế, cần có đôi hàng tóm tắt về tiểu sử và hành trạng của G. Boudarel trước.

Georges Boudarel – Chính uỷ Trại 113 của Việt Minh. Nguồn: Criminocorpus

Đọc hành trạng của G. Boudarel, bạn đọc có thể so sánh không ít đến bọn trí thức thiên tả đủ loại trước 1975 tai miền Nam.

  1. Boudarel, sinh năm 1926 ở Saint-Étienne, bên Pháp. Đi tu và khi sắp sửa dọn mình chịu chức linh mục, ông cởi áo nhà tu và đi theo đảng cộng sản Pháp. Ông là thứ công giáo cấp tiến, thiên cộng như phần đông trí thức công giáo thời bấy giờ. Sau đó, ông được đảng cộng sản Pháp gửi sang Việt Nam vào năm 1948. Ông đóng vai giáo sư dạy Triết tại trường Yersin, Đàlạt. Năm 1949, ông dạy sử và triết học ở trường trung học Marie Curie, Saigon.

Nhưng năm 1950, ông quyết định bỏ đi dạy và gia nhập Việt Minh / đảng cộng sản Đông Dương và làm chủ biên các chương trình phát thanh bằng tiếng Pháp, La voix de Saigon–Chợ Lớn libre (Tiếng nói Tự do của Saigon-Chợ Lớn) của đảng cộng sản đặt ở vùng Sông Bé. Ông làm việc ở đây 18 tháng và sau đó quyết định ra Bắc. Từ 1952 đến 1954, G. Boudarel giữ chức Chính uỷ với cộng sản trong chiến tranh chống Pháp. Năm 1953 Boudarel bị kết án phản quốc ở Pháp. Boudarel ở Hà Nội đến năm 1964 mới đi Prague.

Phải mất 6 tháng trời hay hơn thế nữa để G. Boudarel đi đường bộ từ Nam ra Bắc.

Sau này, khi ông trở về Pháp nhờ luật ân xá 18 tháng 6, 1966, làm giảng viên khoa Sử Việt Nam tại ĐH Paris VII. (Georges Boudarel, https://trialinternational.org/latest–post/georges–boudarel/ và Wikipedia.org

Trong thời gian sau này, G. Boudarel đã viết những tác phẩm sau đây:

  • Boudarel, Vo Nguyen Giap
  • Cent fleurs écloses dans la nuit du Viet Nam – Communisme et Dissidence (1954–1956.
  • Hanoi, city of the rising dragon với G. Boudarel, Nguyễn Văn Ky và William. Duiker
  • Banner of people war. The party’s military line với Vo Nguyen Giáp, Jean Lacouture và Georges Boudarel.

Tôi đã có dịp đọc cuốn đầu tiên viết về Võ Nguyên Giáp. Đối với tôi, đây chỉ là một cuốn sách thường, chẳng có gì đáng đọc. Nó chỉ là một tập tài liệu nhái lại những luận điệu tuyên truyền, chỉ nhằm mục đích ca tụng “ thiên tài” quân sự của Võ Nguyên Giáp. Trong một loạt bài biên khảo của tôi về tướng Giáp, tôi có trích dẫn G. Boudarel và đưa ra những nhận xét sau đây về ông:

“Chúng ta sẽ không lạ gì những tác giả như G. Boudarel cũng như nhiều tác giả Pháp khác. Ông là một người cộng sản Pháp nên toàn bộ cuốn sách của ông về tướng Giáp mà tôi đọc. Ông đã không hề nhắc nhở xa gần về vai trò của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.” (Nguyễn Văn Lục, Những chiến dịch mang tên Võ Nguyên Giáp, Ngoquyen.org)

Tóm tắt, theo tôi cuốn sách ít có giá trị sử học.

Nhận xét của tôi chỉ muốn nêu lên một nhận định: Đã là cộng sản thì không có tổ quốc.

  1. Boudarel đã dẫm đạp lên quyền lợi của nước Pháp, mù quáng chạy theo Việt Minh cộng sản. Vì thế, ông bị coi như một kẻ phản quốc. Ông là mẫu người tiêu biểu cho trí thức theo cộng sản có dấn thân vốn là một khuynh hướng chính trị có sức thu hút nhiều thành phần trí thức thiên tả đi theo họ.

Trào lưu này cũng đã một thời tác động lên một số không nhỏ trí thức thành phần thứ ba tại Việt Nam trước cuộc kháng chiến chống Pháp và sau 1954. Rồi chống Mỹ, nhất là giai đọan từ cuối thập niên 1960, đầu 1970. Sau 1975, một số lớn trong bọn họ mới chợt tỉnh và ý thức được những sai lầm mê muội của họ thì đã quá trễ.

Khi ông về lại bên Pháp, nhờ tiếp xúc được với nhiều giới cũng như thu tập được khá đủ tài liệu, các số báo Nhân văn Giai phẩm, ông bắt đầu viết những bài tham luận đăng trên tập san Sudestasie, số 50 năm 1988, nhan đề “Dissidences intellectuelles au Viet Nam L’affaire Nhân Văn Giai phẩm”. Sau đó ông tập trung lại in thành sách, “Cent fleurs éclosent dans la nuit du Viêt Nam: communisme et dissidence, 1954-1956, Jacques Bertoin, 1991”.

Trong những nhận định được coi là quan trọng và sắc bén nhất của Georges Boudarel, theo tôi, ông có một nhận xét khá tinh tế khi cho rằng các nhà văn trong NVGP có một nhầm lẫn lớn là nói ra quá sớm những điều chưa thể nói ở Việt Nam. (Le tort de parler trop tôt).

Đúng vậy, nói không đúng lúc, nói không đúng thời điểm, các tác giả trong NVGP trở thành nạn nhân của chế độ cộng sản. Phải biết lúc nào được nói, lúc nào được phép nói. Đơn giản là vậy.

Nhưng điều làm cho G. Boudarel “tỉnh ngộ” là vụ cải cách ruộng đất. Hồ Chí Minh lộ hình cho thấy là một kẻ tàn bạo khi tiến hành cải cách ruộng đất, giết hại cả trăm ngàn người vô tội, trong đó, không phải chỉ có giới phú nông mà còn có con em của nhưng người đã từng hy sinh tính mạng trong công cuộc đánh đuổi người Pháp.

Nếu Hồ Chí Minh là kẻ sát nhân trong vụ NVGP thì Lê Duẩn là tên tội đồ trong vự thảm sát tết Mậu Thân.

Do sự bất mãn với chế độ Việt Minh Cộng sản trong vụ cải cách ruộng đất, năm 1964, Boudarel đã phải tìm cách trốn đi khỏi Việt Nam để sang sống ở Moscou với một tên giả là “Boris”, rồi Prague.

Boudarel bị cộng sản Việt Minh kết án tử hình do tội bỏ trốn và đào ngũ vì chống lại vụ cải cách ruộng đất. Trong một cuộc phỏng vấn dài với đahi châu Âu 1, Boudarel trả lời cho những người đã chỉ trích ông,

Georges Boudarel

“Tôi không hối tiếc gì về việc đã theo bên của Việt Nam và người dân thuộc địa. Tôi tham gia vì niềm tin. Lúc đó tôi là một người cộng sản. Bây giờ tôi nghĩ rằng tôi đã làm sai 100 phần trăm khi lựa chọn cộng sản.” (Aan Riding, “Paris Journal; Vietnam Echo Stuns France: Case of Treachery?” Special to The New York Times, March 20, 1991)

Tuy nhiên bi kịch kinh hoàng nhất của G. Boudarel là ông ta được cộng sản Việt Minh cài đặt ông trông coi một trại tù, làm trung gian để giết hại các cựu tù nhân Pháp.

 Đây là một đòn thù tàn ác, ghê tởm dùng người Pháp giết người Pháp. Ông được bổ nhiệm làm phụ tá ủy viên chính trị trong một trại tù của Việt Minh, trại tù nổi danh với cái tên vỏn vẹn con số 113. Một cái tên khác gọi là trại tù Đại Đồng. Mọi sự tàn độc của cộng sản đối với tù binh Pháp nay đổ lên đầu một mình G. Boudarel. Mặc dầu có thể trên thực tế, ông không có một tý quyền hành gì cũng không dúng tay vào các tội ác.

Georges Boudarel (1953–1991) Communisme & Guerre Froide

Trại 113 nổi tiếng vì mức độ tàn độc về số tù nhân tử vong do đói khát, bệnh tật và nhiều nguyên nhân khác. Có nhiều con số đưa ra từ mức 50% đến 75% số tù nhân bị tử vong.

Thật cũng khó mà có được con số chính xác vì chỉ là những lời kể lại của các tù nhân–nhân chứng. Các tù nhân còn sống sót xác nhận rằng có 278 người chết trên tổng số 320.
Nhưng cho dù con số đưa ra không hoàn toàn chính xác vì chẳng ai trong số các tù nhân người Pháp có thể có điều kiện để đếm từng người, ngoại trừ cán bộ cộng sản coi tù? Cho đến nay thì muốn tìm tài liệu về phía cộng sản hẳn là ngay cái tên cái trại tù 113 cũng không hề có. Họ hẳn đã xoá sạch?

Câu chuyện trại tù 113 hầu như bị quên lãng! Và Georges Boudarel trở lại Pháp, rồi dạy đại học một cách công khai, không cần che dấu tên tuổi vì có sự che chở của một số trí thức cánh tả trong giới đại học.

Cho mãi đến năm 1991, trong một buổi hội thảo do Centre des hautes études sur l’Afrique et l’Asie moderne, Jean Jacques Beucler đã từng bị tù cộng sản Việt Minh trong bốn năm, tố cáo G. Boudarel và quy kết ông vào tội: Crimes contre l’humanité. (Tội ác chống lại con người). Sau đó đã có một số nhân chứng đã từng bị tù trong trại giam 113 như Jean Pouget, Charles Bora, Georges Le Gouron coi trại tù 113 một trại giam được coi như Les camps de la mort. Họ được dịp kể lại những gì họ đã sống, đã nhìn thấy bằng chính mắt họ trong sự xúc động, đau khổ khi nhắc nhở lại dĩ vãng đau thương khi thấy các đồng đội của họ bị bỏ chết đói và chết như thế nào. Xác người chết không kịp chôn, mùi hôi thối nồng nặc với những thân xác người như các bộ xương khô, hình ảnh gợi nhớ đến các cảnh kinh hoàng trong các trại tập trung thời Đức Quốc Xã.

Nhưng chính trong bối cảnh đó, có sự tố cáo lẫn nhau giữa các nhân chứng. Đây là thứ bi kịch thứ hai do cộng sản dùng ăng ten để tù kiểm soát tù. Người nọ tố cáo người kia làm ăng ten cho cộng sản.

Một cựu tù nhân đã chất vấn một cách hung hãn như hai kẻ thù, cho một cựu tù nhân khác: Khi ra khỏi tù, anh nặng bao nhiêu kí lô? Người kia trả lời 70 kí lô.

Người tù chất vấn trả lời: khi tôi ra tù chỉ nặng có 40 kilo. 70 kí và 40 kí là sự khác biệt giữa tù thật và tù làm ăng ten. Sự khác bệt giữa 40–70 kí là bằng chứng tội phạm.

Sự nghi ngờ và tố giác nhau công khai như thế, sau hơn 40 năm quả thật là một bi kịch chỉ có thể tìm thấy trong các nhà tù cộng sản. Họ la hét, họ bày tỏ tất cả nỗi oán giận lên người cùng số phận với họ như một thứ kẻ thù có thể ăn tươi nuốt sống. Nỗi oán hận ấy theo lẽ phải đổ lên đầu những tên cán bộ cộng sản vốn chúng độc ác, tàn bạo! Như thể có thật là vô lý hay không?

Phần G. Boudarel, về mặt pháp lý, toà án không có đầy đủ yếu tố buộc tội ông như các lời tố cáo của các tù nhân trại tù 113. Ông có thể bị bắt buộc phải làm theo lệnh của cộng sản. Ông có thể chỉ là trung gian truyền những mệnh lệnh của bọn lãnh đạo trại tù.

Vì thế, sau này, ông đã làm đơn kiện lên tòa án về 5 tội phạm mà ông cho là không có bằng cớ và đòi phải được bồi thường về sự vu khống?

Cho dù về mặt pháp lý, G. Boudarel được coi là người vô tội. Nhưng về mặt lương tâm con người, tôi nghĩ rằng chưa bao giờ lương tâm ông được yên ổn?

Cả đời ông làm sao quên được những người Pháp như ông bị bỏ đói, chết khát, chết vì đủ thứ bệnh truyền nhiễm, thân xác chỉ còn da bọc xương. Đã thế, còn bị hành hạ tinh thần, bị xỉ nhục bằng cách học tập, nhồi sọ lý thuyết Mác Xít?

Ông Boudarel cho biết ông đã trở thành “một tù nhân của một ý thức hệ đã gắn liền với bản thân mình. Tôi là một phần của hệ thống phân cấp và tôi phải tuân lệnh như những người lính Pháp phải tuân lệnh các sĩ quan của họ.” (Alan Riding, ibid., )

Tuy nhiên, tôi đã có dịp quan sát rất kỹ thái độ, cử chỉ, ánh mắt nhìn, cách trả lời của G. Boudarel với vẻ khinh mạn, thách thức, lạnh nhạt trước các lời tố cáo. Nếu chỉ nhìn G. Boudarel lúc ông phải đối diện với những nạn nhân trại tù 113, tôi cảm nhận ông là thứ người đã bị nhồi sọ, vô cảm. Một thứ bất nhân hết thuốc chữa. Không một chút gì cho thấy ông có một tấm lòng hay một sự hối cải nào. Ông lãnh đạm và đôi lúc còn tỏ ra khinh bỉ, coi thường những nạn nhân đã từng bị ông đối xử như bày súc vật.

Đó là điều đáng trách nhất và đáng nguyền rủa nhất của một người trí thức như G. Boudarel. Trong số những bọn trí thức thiên tả miền Nam, trước 1975, tôi cũng có thể so sánh cung cách thái độ của một số bọn họ chẳng khác gi G. Boudarel cả.

 Hèn nhát, nịnh bợ, a dua, về hùa, mất nhân tính khi gọi các trại cải tạo là nơi “nghỉ mát”.

Tôi đã có dịp trích dẫn cuốn của Alain Ruscio, “Vivre au Viêt Nam”, từ các trang 133 cho thấy tiêu biểu trại Nam Hà, vào năm 1978 như sau:

“Từ năm 1975, hơn 600 người đã ở đây. Khoảng 50 người đã được thả về. Các căn trại được xây bằng gạch. Các phòng, rất sạch sẽ, chúng giống như các doanh trại nhà binh. Mỗi căn trại có 50 người. Đúng như vậy. (..) Mỗi người có một cái chiếu, hai cái mền..Một nhân viên quản giáo cho chúng tôi biết quần áo, sà phòng, kem đánh răng, tất cả những gì cần thiết cho đời sông thường ngày thì đều được Trung tâm cung cấp đầy đủ. (…) Chúng tôi đã gặp nghị sĩ Ngô Văn Ham, cựu tướng Huỳnh Văn cao, không có dấu hiệu gì cho thấy sự đối xử… tàn bạo. Nói chung, toàn doanh trại cho thấy có dấu hiệu một trại trừng giới”

Tội ác từ Trại tù 113 thời Pháp đến các trại cải tạo sau 1975

Sách và tài liệu về phía Pháp viết về các trại tù cộng sản là những bằng cớ không chối cãi được sự dã man và tàn bạo của người cộng sản.

Về phía VNCH, cũng đã có một ít sách viết về trại Cải Tạo sau 1975 như các cuốn: Đáy Địa Ngục, Cùm đỏ, Trại Cải Tạo, Những năm cải tạo ở miền Bắc, The Vietnamese Holocaust and the Conscience of the civilized nations, Viet Nam after 1975: Bamboo Gulags and Subtle Genocide, Những sự thật không thể chối bỏ, Trại Đá Bàn, Một nửa VNCH kéo dài, Tôi phải sống, v.v.. Và nhất là Trại Cổng Trời của Kiều Duy Vĩnh và Trại Cổng Trời (phỏng vấn của Mạc Lâm, đài RFA)

Và số người đi cải tạo lên đến nửa triệu người. Vậy mà trong nửa triệu người ấy, tôi có thể đoan chắc có thể không có đến một hai người trở thành cộng sản. Điều đó là một nỗi mừng hãnh diện về tư cách cũng như tinh thần của các tù nhân cải tạo.

Trong khi đó, thời VNCH, trước 1975 số cán binh cộng sản được chiêu hồi lên đến con số không phải ngàn người mà hàng vạn người. Sự khác biệt ấy nói lên điều gì và không nói lên điều gì?

Vì thế, khi nêu trường hợp G. Boudarel ra đây, cũng như những nạn nhân trong trại tù 113 như cái cớ để nói về bi kịch những người đi học tập cải tạo của miền Nam. Mục đích rõ ràng là như thế! Những gì đã xảy ra ở trại tù 113 cũng có thể xảy ra trong các trại Học tập cải tạo sau 1975 như một thứ phiên bản?

Nếu trong trại tù 113, hơn phân nửa đã chết vì đói ăn và bệnh tật thì theo ông Kiều Duy Vĩnh trên trại Cổng Trời, vào năm 1959, có 72 người bị đầy lên trại Cổng Trời, phần đông bọn họ là linh mục, hai vị, tu sĩ, thày giảng, ông Trùm, (hai) bà sơ, giáo dân. Không một ai có cơ hội sống sót để trở về, trừ hai người là Kiều Duy Vĩnh và Nguyễn Hữu Đang may mắn hơn, chỉ vì họ không phải là người công giáo. Tội của người chết đơn giản vì họ là người công giáo. Sau này, 1977, có một số vị linh mục bị đầy lên trại Cổng Trời và lãnh bản án 22 năm tù đầy.

Trong số những tác giả viết về các trại Tập Trung cải tạo của cộng sản, tôi dành một chỗ cao nhất nếu có thể dành cho tác giả Kiều Duy Vĩnh, mặc dầu ông viết rất ít và rất ngắn.

Số người chết trong tù cải tạo sau này có thể không đông đảo bằng trại tù 113, nhưng chính sách và đường lối quản lý tù nhân thì có thể không thay đổi. Chính sách bỏ đói, cài đạt ăng ten, chỉ điểm, chính sách tẩy não, thời gian tù đầy “tù mù” không hạn định ngày được tha có thể vẫn y như cũ.

Đối với quan điểm của tôi, tôi không kết án những tên cai ngục, ngay cả những người trót dại chỉ điểm, nghĩa là không kết án con người trong cái guồng máy nghiền tội phạm ấy mà kết án cái chế độ ấy.

Trong cuốn Đáy Địa Ngục của họa sĩ Tạ Tỵ, xuất bản năm 1985, ông đã đủ can đảm nhiều thứ, trong đó ông thú nhận rằng:

“Đói là vấn đề lớn trong tù. Đúng vậy. Cộng sản cai trị dân Việt Nam qua cái dạ dầy. Nếu ai chưa bị đói, cái đói dài dài từ ngày này qua ngày khác, từ tháng nọ đến tháng kia, chứ không phải 1, 2 bữa, khó mà cảm thông với cơn đói cồn cào ruột gan, đói toát mồ hôi, đói đương ngủ phải thức dậy, đói đến điên cuồng của những người đi cải tạo miền Bắc, sống chui rúc trong các hang hốc của dãy Hoàng Liên Sơn trùng trùng, ngất ngất, sát miền biên giới Hoa–Việt và sau những lớp đồi giăng mắc như mắt lưới thuộc miền Trung Du Bắc Việt, hay ở chân dải Trường Sơn thăm thăm miền Thanh Nghệ Tĩnh.” (Tạ Tỵ, “Đáy Địa Ngục”, trang 17–18)

Phạm Quang Giai, trong cuốn Trại Cải Tạo cũng viết:

“Cộng sản không cần đánh đập, không cần kết án mà chúng đã dùng cái máy chém “Đói”, chúng lê cái máy này đến mọi nơi, mọi chốn có tù nhân chính trị miền Nam để trả thù, trả hận mà vẫn không mang tiếng là ác độc, là giết người.

Một khoảng triền núi Mường Ngãi (Sơn La) có bãi cát phẳng lỳ, thế mà chỉ sau vài ba tháng, hàng trăm ngôi mộ của tù chính trị miền Nam được đắp lên vội vã.” (Phạm Quang Giai, “Trại Cải Tạo”, trang 5)

Tôi cũng rất trân quý cuốn sách “Trại cải tạo” của Trung tá Phạm Quang Giai, bởi vì cuốn sách rất người, rất nhân bản, biết nghĩ đến đồng đội. Ông viết:

“Số người chết trong mùa đông thật nhiều.

Tổ chúng tôi trực xác chết được chừng một tháng thì vào giữa giai đoạn lạnh rét, thiên hạ bị chết nhiều quá. Có ngày phải chôn hai người, có ngày ba người. Anh em mệt quá nên trở nên bất lực, thì tên Quý thấy khu A làm ăn không bằng khu B nên ra lệnh cho khu B nhận lại làm luôn.” (Phạm Quang Giai, ibid., trang 228)

Chỉ mấy dòng này đủ để chúng ta suy nghĩ về sự tàn độc của cộng sản, giết người bằng cách để thiên nhiên hành động một cách tự nhiên như thế nào. Nó có khác gì mấy các trại tập trung Đức Quốc Xã hay không?

Và phần Tạ Tỵ cũng phải nhìn nhận, “Ở tù… mọi giá trị đều đảo lộn.” (Tạ Tỵ, ibid., trang 21)

Ở chỗ khác, ông viết:

“Vì quá chật chội, nên con người dễ sinh bực tức. Sự việc không đáng gì, ở đây, trở thành nặng nề, khó giải quyết. Mới đây, họ là những chiến hữu, chào hỏi nhau qua cấp bậc, nếu không quen biết cũng chẳng bao giờ có ý gây gỗ. Nhưng ở hoàn cảnh này, tình chiến hữu hình như phai nhạt, nhường chỗ cho ích kỷ, nhỏ nhen. Nói vậy không có nghĩa mọi người có mặt đều hành xử như nhau, nhưng “đa số trầm lặng”, không giúp ích gì trong việc giải quyết mâu thuẫn cấp thời.” (Tạ Tỵ, ibid., trang 283)

Tuy nhiên, rải rác trong suốt cuốn sách, họa sĩ Tạ Tỵ bị ám ảnh gần như soi mói vào từng cử chỉ, thái độ của các người bạn cải tạo. Rồi nghi ngờ, đánh giá cũng như nói xa gần đến những tù nhân tự nhận làm ăng ten cho giặc. Có những giọng điệu mỉa mai gián tiếp không cần thiết đối với các tướng lãnh, các người bạn đồng tù.

Có cần thiết phải làm như vậy không?

Như trong đoạn tranh cãi sau đây, một người người ngoài cuộc cảm thấy đau lòng cho cả đôi bên mà sự phân định phải trái thật không dễ dàng gì.

Đây là đoạn tranh cãi giữa tướng Cao và một vị linh mục trẻ:

“Cách đây mấy hôm, không hiểu có chuyện gì với tướng Cao, vị linh mục Tuyên úy này đã có thái độ quyết liệt nói thẳng:

Tại sao ông lại xuyên tạc sự thật? Ông báo cáo với cán bộ những điều tôi không làm, không nói?
Tướng Cao trả lời lạnh lùng:
Ở đây, ai cũng có quyền báo cáo chả riêng gì tôi!
Đúng, báo cáo là quyền của ông, nhưng tôi chỉ mong ông đừng xuyên tạc sự thực là được. Chúng ta mọi người ở đây đều là tù, không có Tướng Tá gì hết. Cách mạng đã ghi trong nội quy như vậy. Ông muốn về sớm hơn anh em, ông có quyền làm tất cả tất cả những gì thuộc riêng ông thôi, đừng hại anh em, để được tha trước. Nói xong, vị linh mục trẻ này quay về phía anh em nói to:
Phải lôi rắn ra khỏi hang mà đánh.” (Tạ Tỵ, ibid., trang 473)

Lạy Chúa, ai là rắn , rắn nào đây? Rắn ấy vốn là đồng đội với nhau trước 1975?

Có lẽ đây là một trong số những câu truyện xảy ra đáng buồn nhất trong cuốn Hồi ký của Tạ Tỵ. Cái mồi câu nếu học tập tốt sẽ được về sớm đã là một trong những đòn nhử mà cộng sản tàn độc đã dùng để những người tù cải tạo sẵn sàng hại lẫn nhau. Cả vị linh mục lẫn tướng Huỳnh Văn Cao đều tin vào một Chúa, ở ngoài đời chắc đã có sự tương kính không tránh được. Nhưng ở đây thì khác, họ đang tố cáo nhau như thể những kẻ thù.

Trong cuốn Hồi ký, tôi thấy chỉ cần một chi tiết nhỏ cũng có thể trở thành một mối đe dọa, một bản án, một chụp mũ rất vô bằng và bất công cho những ai được bọn cán bộ chỉ định làm toán trưởng. Chúng ta thử đọc một đoạn tiếp:

“ Chổi đâu? Một tiếng nói như gắt. Anh Bảy (toán trưởng) nhỏ nhẹ.
— Mấy anh tự tìm lấy. Tôi cũng như mấy anh biết gì đâu mà hỏi!
— Anh là B. Trưởng mà! Nghe câu đó, anh Bảy không giữ được bình tĩnh:
— B. cái con mẹ gì? Tôi yêu cầu ba anh Tổ trưởng phân công cho anh em làm vệ sinh. Nếu không, tôi sẽ…

Anh chưa nói hết câu, nhưng mọi người đều nhận biết đó là lời đe dọa! Một tiếng nói vọng ra từ góc nhà.

— Đù mẹ, chưa chi đã phách lối!” ( Tạ Tỵ, ibid., trang 31–32)

Câu chửi thề ấy rất có thể trở thành một bản án rồi đấy! Sự chia rẽ, nghi kỵ có thể bắt đầu từ đây.

Nhận diện và kết án một ai đó làm ăng ten là một điều không dễ.

Có những người đi học tập có chút nghề riêng thường dễ được xử dụng và hưởng được chút biệt đãĩ như thầy thuốc, thợ mộc đóng bàn ghế, thợ sửa đồng hồ. Hoặc biết chút âm nhạc, hội họa đôi khi cũng có chỗ để dùng. Như chính trường hợp Tạ Tỵ, nhờ biết vẽ, mặc dầu không chuyên về vẽ truyền thần hay phong cảnh, nhưng cần gì. Ông vẫn được trọng dụng để vẽ chân dung Hồ Chí Minh chẳng hạn..

Những trường hợp này có thể nào bị gán ghép là làm ăng ten? Chính Tạ Tỵ kể có lần vẽ cho một cán bộ có em gái đi lấy chồng nhờ ông vẽ một tấm bảng Song Hỷ, có lsửng hoa, v.v. Sau đó, ông được cán bộ tặng cho một gói thuốc lào An Thái, 2 trái su hào to và một hũ mật nhỏ.

Trường hợp Duyên Anh

Hình từ trái qua phải: Ô. Trần Hữu Hoàng, Duyên Anh và vợ, các ông . Nguyễn ý Thuần, Trần Quốc Bảo, Hồ Văn Xuân Nhi, Lê Phước Vinh – hình chụp cuối năm 1987 lần đầu tiên Duyên Anh đến Mỹ và gặp gỡ nhóm chủ trương nguyệt san Tuổi Ngọc ( Mỹ ). Nguồn: chs-tb-nth-hn.com

Nhân đọc bài viết của tác giả Vĩnh Phúc viết về nhà văn Duyên Anh, tôi thấy cần thiết đóng góp một tiếng nói khác về dư luận kết án Duyên Anh làm ăng ten cho cộng sản.

Trong cuốn Hồi ký của Tạ Tỵ , tôi cảm thấy khó chịu khi ông họa sĩ tìm đọc những cuốn: Chân dung các tướng ngụy Sài Gòn. Cuốn sách do một trung tá cộng sản đã dùng những bản tự khai của mỗi tướng lãnh, rồi pha chế thêm. Xin trich đoạn sách những nhận xét của tên trung tá:

“Khi nhìn thấy tôi (tác giả), tướng Kim đang uống nước, vội bỏ ly xuống, chạy ra chắp tay chào bàng một giọng lễ phép! Còn đề đốc Trần Văn Chơn lúc này đã ăn chay, niệm Phật! Tướng Lê Minh Đảo, tướng Lam Sơn, tướng Có, tướng Á, v.v.. Mỗi vị tướng được nói đến như gắn vào ngực một bản án ô nhục, nếu còn sống ngày nào cũng chẳng dám ngửa mặt nhìn ai. Qua cuốn sách, không vị tướng nào còn chút giá trị trước mắt người đọc. Nó nói hết những gì trước kia được che dấu dưới ánh sáng của những ngôi sao.” ( Tạ Tỵ, ibid., trang 598-599)

Tạ Tỵ cũng tiết lộ cho biết ông còn đọc cuốn “Bộ mặt thực của các tướng ngụy”. Về cuốn này Tạ Tỵ viết:

“Cuốn này đề cập cả đến những khuôn mặt tướng lãnh đã di tản như Vĩnh Lộc, Phạm Quốc Thuần và Tôn Thất Đính, v.v.. Nội dung vẫn chỉ nói xấu, nhưng cũng phần nào đúng, nếu ai được biết qua “đời tư Lữ Bố” chẳng hạn, tướng Lam Sơn có mấy vợ? Tên các con gái toàn Mỹ Kim, Anh Kim, Đức Kim, Quý Kim, v.v.. Nghe loảng xoảng toàn vàng bạc. Còn người tình của tướng Khôi thiết giáp là ai? Vì sao, cô ta lại yêu tướng Khôi, dù ông đã có vợ con!

Đứng về mặt nghệ thuật, cả hai cuốn đó đều không có, nhưng đứng về mặt tài liệu, chúng có một giá trị tương đối. Trong thời gian vừa qua, có mấy ông tướng được đưa về trại Nam Hà. Một sáng ngồi chờ lao động, tôi thấy mấy ông Tướng đứng thập thò nơi đầu ngõ, lấm lét nhìn tên công an đang đứng gác các Đội, sửa soạn đi lao động. … Tôi không còn nhìn thấy chút oai phong nào ở nơi các ông ấy.” (Tạ Tỵ, ibid., trang 598-599)

Tôi đọc và trích dẫn hai đoạn văn trên của họa sĩ Tạ Tỵ. Tôi nhận ra được tất cả cái tâm địa tầm thường của tác giả. Có người tù nào trong trại cải tạo, dù là sĩ quan hay tướng lãnh, đói ăn và bệnh hoạn làm thế nào để họ giữ được oai phong tướng lãnh?

Không biết, Tạ Tỵ tự nhìn bản thân ông vốn là một sĩ quan cấp trung tá, nhưng chưa một ngày chiến trận, có được cái oai phong thuở nào không?

Hai cuốn sách của cộng sản nhằm hạ nhục tướng lãnh quân đội VNCH, bêu xấu đồi tư của họ. Có đáng được gọi là “tài liệu” và để dẫn chứng ra trong cuốn sách không? Tôi thấy ông hoạ sĩ lập thể có thói quen vẽ tranh thế nào thì viết về người như thế! Thật đáng tiếc.

 (7/5/1975) BẠI TRẬN TẠI ĐÀ NẴNG—Binh sĩ Nam VN đang bị canh gác sau khi Đà Nẵng sụp đổ, trong bức ảnh nhận được hôm thứ tư tại New York từ Thông tấn xã Giải Phóng của Nam VN. Chú thích kèm theo bức ảnh viết: “Hàng ngàn binh lính “tinh nhuệ” của bè lũ Thiệu-Kỳ bảo vệ Đà Nẵng đã nhanh chóng bị quân giải phóng quét sạch hay làm tan rã. Hàng ngàn quân địch đã bị bắt làm tù binh trên các mặt trận và chuyển đến những khu vực bảo đảm.” Nguồn: AP Wirephoto

 Được biết, sau này khi sang Mỹ, Tạ Tỵ còn viết bài trên tạp chí Văn của Mai Thảo, tố cáo Duyên Anh “đầu hàng cộng sản, bán xác anh em”. Theo Vũ Trung Hiền, Duyên Anh phản công dữ dội. Ngoài một số bài trên các báo, Duyên Anh còn nhắc tới Tạ Tỵ khá kỹ trong Hồi ký: Nhà tù và trại tập trung về “thành tích vẽ ảnh Hồ Chí Minh, ăn vụng thịt, ăn tranh phần cơm cháy của heo.” (Vũ Trung Hiền, “Duyên Anh và tôi”, Tân Tây Sơn xuất bản, tháng giêng 2000, trang 63)

Đây là sự tranh cãi, tố cáo nhau bẩn thỉu nhất mà tôi đọc được mà tất cả đều dựa trên tin đồn, lời truyền miệng từ người nọ đến người kia. Tôi không làm công việc bênh vực Duyên Anh. Bởi vì, tôi không có điều kiện đi tù cải tạo, không ở cùng trại tù Xuyên Mộc với Duyên Anh. Nhưng cũng chắc chắn tôi không dễ dãi đồng ý với cách thức kết án của họa sĩ Tạ Tỵ.

Cũng xin trích ra đây lời tâm sự của Duyên Anh với Vũ Trung Hiền:

“Xét cho cùng, chỉ có chủ nghĩa cộng sản và bọn thiểu số lãnh tụ chóp bu là kẻ thù để mình chống thôi. Những thứ cắc ké như bọn cán bộ quản giáo, công an coi tù, chúng nó có ra cái gì, mà mình phải coi chúng là kẻ thù?

— Mình chỉ chống chủ nghĩa thôi chẳng nên chống con người”

Ông giải thích tiếp:

“Thì cũng là vì anh tội nghiệp những thằng công an con nít, cho chúng nó thuốc lá, lạp xưởng, dạy chúng nó làm thơ tán gái, một số bạn tù cho rằng anh khiếp nhược, sợ bọn cai tù, đầu hàng cộng sản. Thậm chí còn có người bảo anh làm việc cho cộng sản nữa. Nhưng không sao anh bằng lòng chịu những hệ lụy đó. Để khỏi a dua với chúng nó.” (Vũ Trung Hiền, ibid., trang 83)

Đặc điểm của tinh thần “chống nhau” thay vì dồn sức lực chống kẻ thù cũng là nét đặc trưng của các cộng đồng người Việt hiện nay ở hải ngoại.

Nói về nhân cách con người cũng như sự hèn nhát thì không nhất thiết phải tìm trong các trại tù cải tạo! Xin mời đọc đoạn trao dổi giữa Vũ Trung Hiền và Trần Đình Thục, người họa sĩ cùng đi với Duyên Anh và chứng kiến từ đầu đến cuối tấn bi kịch Duyên Anh bị đánh giữa khu Bolsa như sau, Trần Đình Thục kể:

“Trưa hôm nay, anh Duyên Anh đi với anh Lê Quý An, tôi và em tôi đến khu Bolsa Mini Mall, định ăn trưa ở quán Ngân Đình. Chúng tôi gặp Mai Thảo, bác sĩ NM (Nguyễn Mạnh, chú thích của NVL) và bác sĩ NTV (Ngô Thế Vinh — chú thích của NVL) ở trước cửa quán. Duyên Anh dừng lại nói chuyện với họ khoảng chừng mươi mười lăm phút. Ăn trưa xong, khoảng một giờ, chúng tôi đang đi bộ về phía đường Bolsa thì bốn tên từ phía sau trờ tới. Một ten vỗ vai Duyên Anh. Ngay khi anh vừa quay lại, nó đánh thật mạnh vào thái dương bên trái, rồi bồi thêm một cú móc dưới cằm. Duyên Anh ngã quỵ xuống. Sự việc xảy ra đột ngột không kịp phản ứng. (…) Chúng tôi xốc Duyên Anh, dìu anh đến ngồi trước bậc thềm, bên ngoài phòng chụp quang tuyến của bác sĩ NM. (Nguyễn Mạnh)(…) Tôi chạy vào phòng quang tuyến, xin bác sĩ NM. (Nguyễn Mạnh) làm ơn ra coi cho Duyên Anh. Có cả bác sĩ NTV (Ngô Thế Vinh) cũng đang ngồi trong đó nữa.

— Các ông ấy ra ngay chứ?
— Không có ai ra cả. Bác sĩ M. (Nguyễn Mạnh) bảo tôi, ông ta không khám bệnh, chỉ chụp quang tuyến thôi.
— Như vậy, ai gọi 911?

Lúc tôi ra ngoài, anh Lê Quý An đang xin nhân viên ở đó gọi dùm

— Bao lâu thì xe cứu thương mới tới.
— Khoảng 20 phút sau
— Suốt thời gian đó, không ai ngó ngàng gì đến Duyên Anh?
— Không có ai cả. Tôi lấy làm lạ, vì sao hai ông bác sĩ đó không thể bước ra ngoài nhìn Duyên Anh một chút, dù trước đó một tiếng, họ đã bắt tay và nói chuyện với anh ấy.” (Vũ Trung Hiền, ibid., trang 142-143)

 Và cũng trong cái tinh thần ấy, không một tờ báo nào ở quận Cam dám lên tiếng bênh vực Duyên Anh. Đỗ Quý Toàn, tờ Người Việt đâu? Việt báo của Nhã Ca sướt mướt với Giải Khăn Xô cho Huế ở đâu nhỉ?

Thắc mắc cuối cùng của tôi đặt ra cho độc giả, giữa cái hèn của người tù cải tạo và cái hèn của người ngoài tù, ai hèn hơn ai? Và thắc mắc thứ hai là khi ra khỏi trại tù cộng sản, Duyên Anh nặng bao nhiêu kí và Tạ Tỵ nặng bao nhiêu ký?