Khi mọi ánh mắt dán vào một người phụ nữ đang vùng vẫy giữa mặt nước

Hong Thai Hoang 

Khi hàng chục chiếc điện thoại giơ lên để quay.

Khi mọi ánh mắt dán vào một người phụ nữ đang vùng vẫy giữa mặt nước — và không ai cử động.

Có duy nhất một người lao xuống. Anh ta không phải người Việt.

Anh ta không biết cô gái ấy là ai. Nhưng anh ta là người duy nhất nhảy xuống.

Và khi kéo được thi thể cô lên, mọi thứ đã quá muộn.

Trên mạng, người ta bình luận. Trên báo, người ta im lặng.

Không một dòng tin nào nhắc đến người nước ngoài ấy.

Không một tờ báo nào nói rằng người cứu cô gái đầu tiên không phải người Việt.

Họ cố tình giấu đi, vì sợ cái hình ảnh ấy —  một người phương Tây cúi xuống cứu một người Việt —  sẽ làm rạn nứt thứ niềm tự hào mà họ đang gắng sơn phết mỗi ngày.

Một xã hội có thể bỏ ra hàng tỉ đồng để sản xuất các chương trình nói về “lòng tự tôn dân tộc”, nhưng lại im lặng trước một hành động nhân bản của “phương Tây suy đồi”.

Một nền truyền thông có thể đưa tin tỉ mỉ về những con mèo bị lạc, nhưng lại không dám đăng hình người đã cứu người, vì anh ta không thuộc “phe ta”.

Sự thật không cần hô hào —  nó chỉ cần một hình ảnh: một người ngoại quốc lội xuống dòng nước đục,  giữa những tiếng xì xào của hàng trăm người Việt đứng trên bờ.

Cô gái đã chết.

Nhưng cái chết ấy không chỉ của cô — mà của cả một xã hội đã tự giết phần người còn sót lại trong chính mình.

Họ có thể lấp đi tin tức, xóa đi clip, bịt miệng tất cả những ai nói ra.

Nhưng họ không thể xóa được khoảnh khắc ấy khỏi lịch sử.

Bởi vì nó đã thành một chứng tích không thể tẩy rửa: người phương Tây đã cố gắng cứu một người Việt Nam, trước sự thờ ơ của hàng trăm trái tim Việt Nam đang có mặt ở đó.

Cô gái không sống lại được. Nhưng cái chết của cô — và hành động của anh — đã khắc thêm một đường rạn trong tâm hồn một xã hội đang được dạy phải “tự hào dân tộc”.

Khi một xã hội bắt đầu chọn cách che giấu những hành động tử tế chỉ vì nó đến từ “phương Tây”, thì không cần kẻ thù nào làm cho ta suy tàn nữa —  chúng ta đã tự giết mình bằng sự kiêu hãnh giả tạo của chính mình.

Hong Thai Hoang

TUỔI GIÀ SỐNG KHỔ NẾU KHÔNG BỚT 5 CÁI DẠI NÀY

Danh Ngôn Cuộc Sống

Khi đã đi đến một chặng đời mà tóc bắt đầu hoa râm, lưng bắt đầu mỏi, ta nhận ra: không gì quý bằng một ngày khỏe mạnh, lòng thanh thản, tâm không vướng bận. Để sống an yên hơn, xin được nhắn nhủ nhau: hãy buông bớt 5 điều này.

  1. Bớt lo xa.

Tương lai là chuyện của con cháu. Mỗi ngày còn mở mắt, còn đi lại được, còn tự pha ấm trà, là còn may mắn lắm rồi. Lo cho hôm nay khỏe mạnh, tỉnh táo đã là quý.

  1. Bớt cằn nhằn con cháu.

Chúng bận bịu mưu sinh, có mặt thăm ta vài phút cũng đáng trân trọng. Đừng trách móc sao ít về, đừng buồn khi chúng rời sớm. Yêu thương là đủ, kỳ vọng quá sẽ mệt tim mình.

  1. Bớt can thiệp, chỉ đạo

Mỗi thế hệ một cách sống. Mình góp ý nhẹ nhàng, không áp đặt. Đừng để những “ý tốt” của ta vô tình tạo áp lực, gây sứt mẻ tình cảm trong nhà.

  1. Bớt tham những thứ không thuộc về mình.

Cái gì là của mình, đã đến tay rồi. Đừng tranh giành, đừng mơ mộng chuyện tiền trời rơi. Hơn thua một chút đất, vài món thừa kế, cũng chẳng đổi được yên ổn cuối đời.

  1. Bớt đến những nơi tiêu cực.

Tránh xa chuyện thị phi, mạng xã hội tiêu cực, bàn nhậu ồn ào. Chọn ở bên những người tích cực, những không gian yên tĩnh. Gần điều lành thì lòng sẽ lành.

Tuổi già đẹp nhất là khi ta buông nhẹ, không phải vì ta bất lực, mà vì ta hiểu đời hơn.

Sống đủ, sống chậm, sống vui ấy mới là phúc phần.

#DanhngonCuocsong #baihoccuocsong #tuoigia #tamsu

 


 

Người Mỹ sống chung với ‘nợ công’

Ba’o Nguoi-Viet

October 24, 2025

Hiếu Chân/Người Việt

Chính phủ Mỹ đã đóng cửa sang ngày thứ 25 do Quốc Hội chưa thông qua được kế hoạch ngân sách liên bang 2025-2026, ảnh hưởng xấu tới mọi mặt đời sống.

Vướng mắc nằm ở chỗ hai đảng bất đồng sâu sắc chung quanh việc gia hạn hay không gia hạn tín dụng thuế để người dân mua bảo hiểm y tế theo luật Affordable Care Act.

Đảng Cộng Hoà cầm quyền muốn cắt giảm các chương trình xã hội để giảm nợ, ảnh hưởng trực tiếp đến chăm sóc y tế cho người nghèo và thu nhập thấp. (Hình minh họa: Spencer Platt/Getty Images)

Bất đồng này lại có nguồn gốc sâu xa từ một thực tế nhức nhối: Mỹ đang nợ như Chúa Chổm và đảng Cộng Hoà cầm quyền muốn cắt giảm các chương trình xã hội để giảm nợ trong khi vẫn giảm thuế làm thu hẹp nguồn thu của quốc gia.

Mỗi người gánh hơn $100,000 tiền nợ

Truyền thông dẫn số liệu của Bộ Tài Chính Mỹ hôm 22 Tháng Mười cho biết lần đầu tiên trong lịch sử tổng nợ công quốc gia của Mỹ đã vượt quá con số $38 ngàn tỷ (Người Việt, 23 Tháng Mười, 2025).

Tính bình quân dân Mỹ, từ ông bà già trong viện dưỡng lão tới trẻ em còn ẵm ngửa, mỗi người phải gánh trên vai khoản nợ $115,000! Núi nợ không dừng ở đó mà đang tăng rất nhanh: tăng thêm $1,000 tỷ chỉ trong hai tháng. Theo Ủy Ban Kinh Tế Hỗn Hợp của Quốc Hội, trong năm qua, nợ quốc gia của Mỹ tăng trung bình $69,713.82 mỗi giây đồng hồ.

Sở dĩ nước Mỹ phải vay nợ nhiều như vậy là do thâm hụt ngân sách kéo dài. Thâm hụt ngân sách (budget deficit) xảy ra khi chính phủ liên bang chi tiêu vượt quá mức thu; ngược lại là thặng dư (surplus). Trong năm tài chính 2025 chẳng hạn, chính phủ liên bang thu vào được $5.23 ngàn tỷ và chi ra $7.01 ngàn tỷ, thâm hụt $1.7 ngàn tỷ, theo dữ liệu của Bộ Tài Chính.

Cũng theo dữ liệu của Bộ Tài Chính trong 25 năm qua nước Mỹ chỉ đạt thặng dư ngân sách một lần duy nhất: năm 2001 dưới thời Tổng Thống Bill Clinton. Năm đó ngân sách liên bang thu nhiều hơn chi $130 tỷ, còn 24 năm sau đều thâm hụt, mức thâm hụt nặng nhất xảy ra cuối nhiệm kỳ đầu của Tổng Thống Donald Trump (năm 2020 thâm hụt $3.13 ngàn tỷ) do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.

Về lâu dài, tính toán của Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội cho biết, nếu năm 2024 thâm hụt ngân sách là $1.6 ngàn tỷ, bằng 5.6% tổng sản lượng quốc gia (GDP) thì mười năm nữa, năm 2034, số thâm hụt sẽ là $2.6 ngàn tỷ, bằng 6.1% GDP.

Nợ do chi tiêu nhiều

Để bù khoản thâm hụt, chính phủ phải phát hành công trái phiếu để vay tiền và phải trả tiền lời. Nhiều năm đi vay, nợ mới chồng lên nợ cũ, khiến núi nợ của quốc gia mỗi ngày một lớn và đã vượt mức $38,000 tỷ nói trên. Năm 2024, số tiền lời phải trả là $949 tỷ, nhiều hơn tiền chi cho chương trình Medicaid ($909 tỷ), Medicare ($848 tỷ) hoặc quốc phòng ($841 tỷ).

Ông Michael Peterson, chủ tịch Quỹ Peter G. Peterson Foundation, cho biết chi phí trả tiền lời của nợ công là phần tăng nhanh nhất trong ngân sách quốc gia: “Mười năm qua, nước Mỹ đã chi $4 ngàn tỷ cho tiền lời, nhưng trong mười năm tới con số đó sẽ lên tới $14 ngàn tỷ. Chi phí tiền lời đang ‘nuốt chửng’ những khoản đầu tư quan trọng vào tương lai, làm tổn hại nền kinh tế của mọi người dân.”

Tiền lời phải trả quá nhiều là yếu tố đầu tiên dẫn tới thâm hụt ngân sách. Thâm hụt tăng thì chính phủ phải vay nhiều hơn, phải trả tiền lời nhiều hơn và do vậy càng thâm hụt nhiều hơn. Cái vòng luẩn quẩn đó tiếp diễn từ năm này sang năm khác, khó mà dứt được.

Ngoài tiền lời, ngân sách liên bang còn phải chi cho nhiều khoản chi bắt buộc (mandatory spending), không thể không chi. Các khoản này bao gồm tiền an sinh xã hội (Social Security), chăm sóc y tế người cao tuổi (Medicare) và chăm sóc y tế người nghèo (Medicaid). Năm 2024, các khoản chi bắt buộc lên tới $2,935 tỷ, chiếm 40% tổng chi của chính quyền liên bang.

Các chuyên gia tài chính dự đoán, các khoản chi bắt buộc của chính quyền liên bang sẽ tăng trong vài năm nữa do thế hệ Baby Boomers (sinh ra trong khoảng thời gian 1946-1964) đang và sắp hưởng lương hưu sau nhiều năm làm việc và đóng góp vào quỹ an sinh xã hội. Dân số bị lão hoá cùng với chi phí chăm sóc y tế tăng nhanh hơn lạm phát sẽ khiến cho gánh nặng an sinh xã hội ngày càng đè nặng lên ngân sách quốc gia.

Ngoài ra ngân sách quốc phòng, với đội quân gần 3 triệu người đóng trong hàng trăm căn cứ ở 80 quốc gia, là một khoản chi không nhỏ và đang tăng nhanh theo biến động của tình hình quốc tế.

Nợ do giảm thu

Trong hoàn cảnh giật gấu vá vai thường xuyên như vậy, chính quyền phải tìm cách tăng thu hoặc giảm chi thay vì chỉ dựa vào tiền đi vay. Nhưng đáng chú ý là Mỹ lại liên tục ban hành các chính sách giảm nguồn thu, khiến mà nợ công ngày càng phình to đến mức nguy hiểm. Miễn thuế, giảm thuế đang bóp nghẹt nguồn tiền đổ vào ngân sách liên bang.

Phân tích cơ cấu nguồn thu $4.9 mà chính quyền liên bang thu được năm 2024, Trung Tâm Chính Sách Lưỡng Đảng (Bipartisan Policy Center) ghi nhận có gần một nửa (49.5%) là thuế thu nhập cá nhân ($2,426 tỷ), thuế thu nhập doanh nghiệp (corporate income tax) chỉ chiếm một khoản khiêm tốn là 0.11%, tương đương 530 tỷ!

So với các nước công nghiệp phát triển G7, Mỹ là nước có mức thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp thấp nhất.

Về thuế thu nhập cá nhân (individual income tax), mức cao nhất ở Mỹ là 37% áp dụng cho những người có thu nhập cao ngất ngưởng, chưa tính thuế đóng cho tiểu bang và địa phương; trong khi ở Nhật Bản mức cao nhất là 55.95%; ở Pháp 55.4%-55.6%; ở Canada 50%-54%; các nước Anh, Ý và Đức dao động trong mức từ 45% đến 47.9%. Người giàu ở Mỹ rõ ràng chịu thuế mức thuế dễ chịu hơn những người cùng đẳng cấp ở các nước khác.

Doanh nghiệp Mỹ tập hợp nhiều công ty hàng đầu thế giới ở tất cả các lĩnh vực, nhưng họ chỉ đóng thuế tối đa 21% của lợi tức, quy định trong đạo luật Giảm Thuế và Việc Làm (Tax Cuts and Jobs Act of 2017 – TCJA) ban hành trong năm đầu tiên của chính quyền Trump thứ 45. Trong khi đó thuế thu nhập doanh nghiệp ở Đức (30%), Nhật Bản (29.7%), Canada (26%), Anh và Pháp (25%), Ý (24%)… đều cao hơn đáng kể so với Mỹ.

Nói cách khác, doanh nghiệp Mỹ lớn hơn, giàu hơn nhưng đóng góp cho chính phủ và xã hội ít hơn các nước bạn. Chỉ riêng việc giảm thuế doanh nghiệp xuống còn 21% theo luật TCJA mà ông Trump ban hành năm 2017 đã làm ngân sách Mỹ thất thu hơn $2,000 tỷ! Đạo luật To Đẹp (Big Beautiful Act of 2025) mới ban hành “vĩnh viễn hoá” việc giảm thuế này lại càng ngân sách bị thất thu nhiều hơn nữa.

Việc giảm thuế, thu thuế thấp là yếu tố làm cho Mỹ trở thành nơi “đáng sống” nhưng chính phủ luôn phải đi vay để chi tiêu.

Ảo tưởng “thấm xuống”

Tại sao phải giảm thuế khi ngân sách thâm hụt triền miên mà không làm ngược lại là tăng thuế? Nhiều đời chính phủ Mỹ – nhất là các chính quyền do đảng Cộng Hòa kiểm soát – tin vào một lý thuyết gọi là “trickle down economics” (kinh tế thấm xuống). Lý thuyết này, có từ thời Tổng Thống Ronald Reagan, được các Tổng Thống George W. Bush và Donald Trump tích cực thực hiện, cho rằng giảm thuế cho người giàu và doanh nghiệp sẽ kích thích tăng trưởng, các chủ công ty sẽ đầu tư mở rộng sản xuất, tạo việc làm cho người lao động, cuối cùng lợi ích sẽ “thấm” xuống các tầng lớp lao động nghèo khó hơn.

Tuy vậy, thực tế cho thấy khi được giảm thuế và giữ lại phần lớn lợi tức, các chủ công ty sẽ đổ tiền mua lại cổ phần, đẩy giá cổ phiếu lên để họ trở nên giàu hơn, hoặc đem tiền ra nước ngoài đầu tư mở nhà máy mà không tạo việc làm cho người Mỹ, lợi ích không “thấm” xuống như kỳ vọng. Hậu quả là hố ngăn cách giàu nghèo trong xã hội Mỹ ngày càng rộng và ngân sách bị hụt thu ngày càng trầm trọng.

Hiện các gia đình giàu có thuộc “top 10%” sở hữu tới 70% tài sản quốc gia. Nước Mỹ tự hào có nhiều tỷ phú có tài sản hàng trăm tỷ đô la như Elon Musk, Jeff Bezos…, nhưng ngày càng nhiều người Mỹ phải thắt lưng buộc bụng và dễ dàng rơi vào cảnh cùng quẫn tuyệt vọng nếu chẳng may bị bệnh nan y, mất việc hay tai nạn bất ngờ.

Nợ cản đường tới tương lai

Một cuộc khảo sát của Peterson Foundation hồi tháng Chín 2025 ghi nhận, 81% người Mỹ nói rằng, nợ quốc gia là một vấn đề rất đáng lo ngại. Nợ công không chỉ là con số khó hình dung mà nó cản trở nước Mỹ thực hiện các chương trình đầu tư để cải thiện đời sống người dân, đồng thời cản đường tới tương lai thịnh vượng.

Vì nợ, mà Mỹ không có bảo hiểm y tế toàn dân. Vì nợ, chúng ta không có hệ thống đại học công lập miễn học phí. Vì nợ, chúng ta không có chương trình chăm sóc trẻ em không tốn tiền… Thậm chí, nhiều công trình hạ tầng thiết yếu của quốc gia như đường sá, cầu cống, phi trường, bến cảng ở nhiều bị hư hỏng, xuống cấp trầm trọng mà chính phủ không có tiền sửa chữa. Ai đã đi qua các thành phố, phi trường châu Á, kể cả Trung Quốc, sẽ thấy hạ tầng của Mỹ lạc hậu đến mức nào.

Nợ công đã trở thành lý do biện hộ cho những kế hoạch cắt giảm các chương trình an sinh xã hội đang hỗ trợ hàng chục triệu người dân, nếu không thì đóng cửa chính phủ. Đó là một lựa chọn vô trách nhiệm về ngân sách, lẽ ra phải được chấm dứt sớm. [kn]


 

Chính quyền Trump sẽ không dùng quỹ khẩn cấp để trang trải cho ‘Food Stamps’

Ba’o Nguoi-Viet

October 24, 2025

WASHINGTON, DC (NV) – Chính quyền Tổng Thống Donald Trump sẽ không sử dụng quỹ khẩn cấp để trang trải cho các khoản trợ cấp thực phẩm liên bang, khiến cho gần 42 triệu người Mỹ dựa vào chương trình chống đói lớn nhất của quốc gia có nguy cơ mất quyền lợi kể từ ngày 1 Tháng Mười Một, theo một bản ghi nhớ của Bộ Nông Nghiệp Mỹ (USDA) mà Politico đọc được hôm Thứ Sáu, 24 Tháng Mười.

Bản ghi nhớ ghi rằng quỹ dự phòng hay các chương trình dinh dưỡng sẽ không được đụng đến để trang trải chi phí của chương trình SNAP, thường được gọi là “Food Stamps,” cung cấp các phiếu thực phẩm cho những người nghèo. Theo dự trù, SNAP sẽ cạn tiền vào cuối tháng này.

Một cửa hàng thông báo chấp nhận thanh toán bằng phiếu thực phẩm ở Bronx, New York. (Hình minh họa: Spencer Platt/Getty Images)

Các thành viên Dân Chủ trong Quốc Hội và các nhóm hoạt động chống nạn đói đã thúc giục chính quyền Trump tiếp tục trợ cấp SNAP vào Tháng Mười Một. Một số người thậm chí còn lập luận rằng chính phủ liên bang có nghĩa vụ pháp lý lấy tiền từ các quỹ khác để trang trải cho SNAP.

Tuy nhiên, một số giới chức cấp cao nói với Politico rằng việc sử dụng các khoản tiền khác sẽ khiến không còn tiền cho các trường hợp khẩn cấp trong tương lai và các chương trình hỗ trợ lương thực lớn khác.

Giới chức chính quyền cho rằng các thống đốc Dân Chủ và các nhóm vận động sẽ kiện quyết định này, Politico dẫn lời hai người giấu tên nắm rõ vấn đề cho biết.

Quốc Hội có thể thông qua một dự luật độc lập để tài trợ cho SNAP vào Tháng Mười Một, nhưng nó cần phải được Thượng Viện thông qua vào đầu tuần tới và các dân biểu Hạ Viện có thể sẽ cần phải quay lại thủ đô Washington, DC để bỏ phiếu phê chuẩn. (NNL) [đ.d.]


 

Nhật Bản Lo Ngại Khi Việt Nam Ban Lệnh Cấm Xe Máy Chạy Xăng

Ba’o Dat Viet

October 24, 2025

Một quyết định được cho là “vì môi trường” đang đe dọa trở thành cú đánh mạnh vào nền kinh tế Việt Nam — khi chính phủ Cộng sản Việt Nam khăng khăng thực hiện kế hoạch cấm 

 chạy bằng xăng ở trung tâm Hà Nội từ giữa năm 2026. Động thái này không chỉ khiến các nhà sản xuất Nhật Bản lo ngại, mà còn có thể làm rung chuyển cả thị trường trị giá 4,6 tỷ đô la vốn đang bị thống trị bởi Honda.

Theo Reuters, sau khi Thủ tướng Phạm Minh Chính ban hành chỉ thị hồi tháng Bảy, Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Nội đã gửi thư cảnh báo các cơ quan chức năng Việt Nam rằng lệnh cấm đột ngột có thể gây “mất việc làm hàng loạt” trong các ngành công nghiệp hỗ trợ, bao gồm hệ thống đại lý và nhà cung cấp linh kiện. Dù không tiết lộ toàn bộ nội dung, phía Nhật Bản khẳng định Việt Nam cần một “lộ trình phù hợp” cho quá trình điện khí hóa, thay vì ban hành lệnh cấm kiểu mệnh lệnh hành chính.

Hiệp hội Các nhà sản xuất xe máy Việt Nam (VAMM) — trong đó có Honda, Yamaha và Suzuki — cũng đã gửi thư riêng cho chính phủ, cảnh báo rằng kế hoạch này có thể gây “gián đoạn sản xuất, phá sản hàng loạt và ảnh hưởng trực tiếp đến hàng trăm ngàn công nhân.” Hiệp hội yêu cầu ít nhất hai đến ba năm chuyển tiếp để các doanh nghiệp có thể điều chỉnh dây chuyền sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng sạc điện phù hợp.

Thế nhưng, theo các nguồn tin của Reuters, phía Việt Nam vẫn phớt lờ mọi khuyến nghị từ Tokyo lẫn giới công nghiệp. Không một phản hồi nào được chính phủ đưa ra, ngoài tuyên bố quen thuộc rằng “lệnh cấm là cần thiết để giảm ô nhiễm.”

Thị trường xe hai bánh của Việt Nam hiện là một trong những lớn nhất thế giới, với gần 80 triệu xe máy lưu hành — tương đương 80% dân số. Đó không chỉ là phương tiện di chuyển, mà còn là trụ cột sinh kế cho hàng triệu người. Việc cấm xe xăng đột ngột chẳng khác nào bóp nghẹt một phần khổng lồ của nền kinh tế.

Honda, công ty chiếm tới 80% thị phần xe máy với hơn 2,6 triệu xe bán ra mỗi năm, đã lên tiếng trong các cuộc gặp gần đây với giới chức Việt Nam. Theo nguồn tin Reuters, hãng này thậm chí cân nhắc khả năng thu hẹp quy mô sản xuất nếu Hà Nội vẫn duy trì lệnh cấm. Mặc dù Honda phủ nhận việc đóng cửa nhà máy, nhưng hãng thừa nhận đang “theo dõi sát diễn biến” khi doanh số tại Việt Nam đã giảm hơn 22% trong tháng Tám — ngay sau khi lệnh cấm được công bố.

Với bốn nhà máy hoạt động trên khắp Việt Nam, thương hiệu Honda đã trở thành đồng nghĩa với “xe máy” trong ngôn ngữ hàng ngày. Phần lớn sản phẩm của họ vẫn chạy bằng xăng, trong khi các mẫu xe điện như CUV e: và ICON e: mới chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ. Việc ép buộc chuyển đổi quá nhanh sang xe điện không chỉ là rủi ro kinh tế, mà còn đe dọa hàng trăm ngàn việc làm, từ công nhân dây chuyền đến người bán hàng nhỏ lẻ.

Trong khi đó, chính quyền Cộng sản vẫn tiếp tục quảng bá kế hoạch này như một “bước tiến xanh.” Cả Hà Nội và Sài Gòn đều đang nói đến “hạn chế xe xăng” như một thành tựu môi trường, bất chấp thực tế rằng cơ sở hạ tầng sạc điện gần như chưa tồn tại, và nguồn điện quốc gia vẫn chủ yếu đến từ than đá.

Sự cố chấp của chính quyền cho thấy một lối điều hành tùy tiện, thiếu thực tiễn, khi quyết sách lớn lại được áp đặt mà không có đối thoại thực chất với doanh nghiệp hay người dân. Nếu lệnh cấm được triển khai đúng như kế hoạch, Việt Nam có thể phải chứng kiến một cú sốc kinh tế – xã hội: mất việc hàng loạt, sụt giảm tiêu dùng, và một thị trường xe máy  vốn sôi động có nguy cơ bị xóa sổ chỉ trong vài năm.

Từ Tokyo, các nhà sản xuất Nhật Bản đang nhìn Việt Nam với sự cảnh giác. Còn tại Hà Nội, chính quyền Cộng sản vẫn đang say sưa với khẩu hiệu “chuyển đổi xanh” — mà quên rằng, không một nền kinh tế nào có thể xanh được nếu người dân mất việc và doanh nghiệp phải rút vốn ra đi.


 

 MƯỢN OAI “SHARK” HƯNG – KHI NIỀM TIN TRỞ THÀNH MÓN HÀNG (của Gã Khờ)

Nguyễn Quốc Chính

(của Gã Khờ)

Mùa gặt của lòng tin

Người Việt ta có một nét văn hóa độc đáo: càng nói khó tin, càng dễ được tin.

Thế nên từ năm 2019, khi BBI Mall Việt Nam xuất hiện với lời hứa “lợi nhuận 180%/năm”, thiên hạ liền rủ nhau nạp tiền như thể tìm được mỏ vàng giữa thời lạm phát.

Nhưng điều kỳ diệu hơn cả nằm ở chỗ: không ai hỏi lợi nhuận đó từ đâu ra, mà chỉ hỏi ai đứng sau nó. Và khi thấy bóng dáng “Shark Hưng” – người từng ngồi ghế truyền hình, gật đầu thông tuệ trong ánh đèn sân khấu – thì nghi ngờ biến thành niềm tin, niềm tin hóa ra tiền, tiền hóa thành… hư vô.

Khi danh tiếng được niêm yết trên sàn… ảo

Theo kết quả điều tra, BBI Mall lôi kéo hơn 435.000 tài khoản, trong đó có 23.000 người thật nạp gần 780 tỷ đồng vào những “điểm thưởng” không hề có hàng hóa. Một mô hình đa cấp cũ kỹ khoác áo công nghệ, nhưng được đánh bóng bởi hào quang của “Shark”.

Trên slide, logo BBI sánh đôi cùng CenGroup – công ty của ông Hưng. Hình ảnh ấy có sức nặng hơn cả nghị định, thông tư hay báo cáo tài chính.

Vì trong một xã hội quen “tin người hơn tin luật”, khuôn mặt sáng đèn còn đáng giá hơn mười trang điều lệ.

Đám đông tin không phải vì họ hiểu mô hình, mà vì “Shark còn đầu tư, sao mình không?”.

Và khi bong bóng vỡ, người ta lại được nghe điệp khúc cũ: “Tôi chỉ góp 2%, đã thoái vốn từ lâu.”

Khi “Shark” thành bình phong, còn “cá nhỏ” thành mồi

Ở Việt Nam, các “Shark” đôi khi không bơi trong đại dương tài chính, mà chỉ lượn qua hồ PR – nơi mỗi cú bắt tay, mỗi tấm ảnh, được quy ra hàng tỷ đồng niềm tin.

Và khi niềm tin ấy bị đem ra thế chấp cho lòng tham của kẻ khác, thì ranh giới giữa “truyền cảm hứng” và “tiếp tay” mong manh hơn cả tấm danh thiếp.

Một cái gật đầu trên sân khấu có thể khiến hàng nghìn người dưới khán phòng bỏ tiền thật.

Và một lời “tôi không biết họ làm gì sau đó” lại đủ để gột rửa mọi trách nhiệm.

Pháp lý im lặng. Lương tâm thì… chưa chắc.

Lỗ hổng lớn nhất: trách nhiệm

Luật Việt Nam chưa định danh được “trách nhiệm liên đới của người cho mượn niềm tin”.

Nếu anh góp vốn nhỏ, không điều hành, anh vô can. Nhưng công chúng đâu phân biệt được điều hành hay không – họ chỉ thấy anh ngồi đó, nói về khởi nghiệp, mỉm cười tin cậy.

Hơn 23.000 người nạp tiền không phải vì họ ngây thơ, mà vì họ tin vào hình ảnh tử tế.

Và đó là điều đau nhất: khi niềm tin – thứ vốn quý của xã hội – lại bị biến thành công cụ huy động vốn cho một trò ảo tưởng.

Đạo đức doanh nhân: sự vắng mặt của tự trọng

Khi một người đã chọn trở thành “biểu tượng”, thì mỗi bước đi của họ đều có giá trị công chúng.

Anh không thể đứng trên sóng truyền hình dạy người khác cách làm giàu, rồi sau đó nói “tôi không biết gì” khi những kẻ mượn danh anh lừa thiên hạ.

Danh tiếng là tài sản, nhưng cũng là trách nhiệm.

Anh có thể cho thuê hình ảnh, nhưng không thể cho thuê niềm tin.

Vì niềm tin không phải của riêng anh – nó là phần tài sản chung mà xã hội trao cho anh.

Làm giàu bằng trí tuệ thì đáng kính. Làm giàu bằng danh tiếng – thì chỉ là một cách tinh vi của sự nghèo nhân cách.

Hậu khôn ngoan – khi ánh đèn tắt

BBI Mall rồi sẽ đi vào lịch sử cùng những vụ “tiền ảo”, “lợi nhuận ảo”, “niềm tin thật”.

Nhưng điều đáng sợ hơn là, sau mỗi cú sụp, người ta lại mau quên. Và rồi một “BBI khác” sẽ xuất hiện, lại mượn một “Shark khác” để tiếp tục vòng lặp.

Gã Khờ chỉ mong một điều giản dị:

Trước khi anh dạy người khác làm giàu, hãy dạy họ cách không để bị lừa.

Và trước khi anh mượn oai danh nhân, hãy tự hỏi: oai đó có còn là của anh, hay chỉ là món hàng đã được bán lại cho lòng tham?

Gã Khờ

– tháng 10/2025


 

Cái nghèo “ĐÁNG SỢ ” như thế nào?? Bài và ảnh : Lê Tuấn

Kimanh Tampa Florida

Bài và ảnh : Lê Tuấn

  Anh trai tôi lên tám tuổi bị bệnh sốt xuất huyết, bệnh viện yêu cầu truyền dịch gấp. Mẹ tôi không có tiền nên phải chạy bộ rất xa để vay bác ruột nhưng bác lại không cho vay mặc dù nhà rất giàu. Mẹ tôi lại chạy bộ rất xa nữa để vay người khác. Có tiền rồi, mẹ cố chạy thật nhanh để đến bệnh viện thì anh tôi cũng trút hơi thở cuối cùng…

  Hồi xưa, nhà không có tivi nên phải sang nhà hàng xóm xem ké. Vậy mà, họ lại chê nhà nghèo, bẩn thỉu nên đóng cửa lại không cho xem…

  Tết không có tiền mua thịt, mẹ tôi phải bán mái tóc của mình để mua. Đi học về thấy có nồi thịt kho nhưng tóc mẹ lại ngắn tôi chỉ biết chết lặng trong nước mắt!…

  Lúc nhỏ, thấy người ta uống sữa xong vứt cái hộp đi, tôi chạy lại nhặt lên uống. Sau đó, quay sang nói với mẹ: “Mẹ ơi! Người ta hút hết chả còn tí gì!”…

  Hồi xưa, nhà tôi nghèo lắm! Có lần, bà hàng xóm cho đồ ăn mà toàn đồ cũ ôi thiu. Vậy mà, cả nhà tôi ăn ngon đến lạ…

  Ngày đó, mẹ đi làm đồng về mua cho một gói mì ăn trưa, mẹ bảo: “Con nhớ pha nhiều nước. Con ăn mì còn nước để lại mẹ chan cơm”…

  Nhớ lúc năm tuổi, đi lại nhà cậu chơi ngay lúc cả nhà chuẩn bị ăn nui. Mợ thấy tôi đến, mợ bưng đồ ăn để hết vô kẹt tủ gạc – măng – rê…

  Hồi nhỏ, gần nhà tôi có một bãi rác nhưng nó lại là kho đồ chơi của tôi. Cứ chiều đi học về là lượn ra bới tìm đồ chơi, đến giờ còn nhiều thứ đồ chơi tôi vẫn còn giữ vì đó là cả tuổi thơ…

  Lúc nhỏ, nhà tôi rất xập xệ! Mỗi lần mưa bão là ra trước cửa đứng, sợ nhà sập không chạy kịp những đêm ướt mèm đó chắc không bao giờ quên được…

  Lúc trước, ba bị bệnh. Mẹ đã phải đi mượn từ người thân để chữa bệnh cho ba. Năm ấy, mẹ đi chúc tết thì bị người ta nói là “thiếu nợ mà cũng bày đặt đi chơi”…

Đêm giao thừa của năm mười tuổi. Tôi lén theo mẹ đi chợ, mẹ không cho theo cứ tò tò đi sau tưởng mẹ mua gì ngon mà giấu. Tôi đâu có ngờ, mẹ đi mót trái cây héo của người ta bỏ…

 Nghèo nhìn qua hàng xóm cũng nghèo giống mình, đôi khi thấy nhà hàng xóm có thèm,

Sưu tầm: Vivian phạm

 

 


 

Từ Georges Boudarel với Trại tù 113 đến các trại tù sau 1975-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

22/10/2025

Binh sĩ Nam VN đang

Tội ác trong các chế độ độc tài bao giờ cũng có mẫu số chung. Đó lá sự tàn bạo. Trước 1975, chúng ta ở miền Nam cũng có gần 100 đầu sách dịch mà tôi gọi là sách dịch thời thế.

Các tác giả này thường có những suy tư về các biến cố đang phủ trùm đời sống con người, đặc biệt họ là những người đối kháng với bước đi lạc đường lịch sử do tham vọng cá nhân, bè phái, đảng tính mà chủ yếu là do sự mù lòa trí tuệ. Họ là những tên tuổi như Arthur Koestler, Constantin Virgil Gheorghiu, Milovan Djilas, Boris Pasternak, Solzhennitsyn, Moris L. West.

“Sự nổ rợ các tác phẩm dịch này là điều hiểu được. Sự đối đầu giữa hai khối trong cuộc chiến không chỉ vạch ra các đường ranh súng đạn mà còn vạch ra một đường ranh trong tâm não con người. Tính ủy nhiệm và sự tham dự tích cực của các nhà tư tưởng cũng như nhà văn trở thành một thông điệp đối kháng với sự bạo tàn và áp bức.

Chúng ta đã có dịp làm quen với những bản dịch như “Nước đã đến chân” của Suzane Labin, “Thoát ly hỏa ngục” của Thomas Dooley, “Giờ thứ 25” của C.V. Georghiu, “Dr. Zhivago” của Boris Pasternark, “Quần đảo ngục tù” của Soljénitsyn, “Tầng đầu địa ngục” của Thomas P. Whitney.

Chỉ riêng Gheorghiu, ngoài tác phẩm “Giờ thứ 25”, ông còn có các cuốn khác đã được dịch sang tiếng Việt như “Lối thoát cuối cùng”, “Người Lữ hành cô độc”, “Kẻ ăn mày phép lạ”, “Chiếc roi ngựa”, vv..

Nhưng chỉ trong vòng 3 năm, từ 1970-1973, nhiều tác phẩm của Solzhennitsyn đã được dịch như “Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch”, rồi “Tầng đầu địa ngục” và cuốn gây sóng gió nhất là “Quần đảo ngục tù”.” (Nguyễn Văn Lục, 20 năm miền Nam 1955–1975, Tủ sách Tiếng Quê Hương, 2010, trang 396)

Khi nhìn lại hàng trăm tác giả ngoại quốc viết về sự bạo tàn của con người, đặc biệt là người cộng sản, tôi tự trách là khổ đau như thế, nhưng người miền Nam nói chung, các nhà văn nói riêng.

 Đã không có một ai có một tác phẩm ngang tầm với chiều kích bi kịch của sự tàn bạo. Huế 1968, Quảng Trị Mùa hè 1972, đã có tác phẩm nào cho tôi đọc để chia xẻ hết những nỗi đau ấy? Hình như trong cuộc chiến vừa qua có đến cả ngàn đầu sách mà phần đông người ngoại quốc “nói hộ” cho chúng ta.

Nào đã hết. Những bài học về tội ác đối với con người như chế độ Phát Xít Đức Quốc xã bút nào tả hết. Hàng triệu người đã chết dưới tay những tên đao phủ như thế tại các trại tập trung như Buchenwald, tại Bergen–Belsen, tại Landsberg, Flosenburg, Mauthausen. Cộng chung có 1500 trại tập trung rải rác những nơi dưới quyền của Đức Quốc Xã. Có những hố chôn tập thể hàng 2000 người. Nổi tiếng nhất là trại Dachau.

“Khi Dachau được giải phóng, viên hạ sĩ Harold Collum, thuộc đơn vị 392e pháo binh cùng với bốn binh sĩ khác dừng xe díp lại. Họ nhìn thấy những bộ xương người chậm rãi tiến tới gần họ, cánh tay dơ ra. Những người lính kinh hoàng khi nhìn cảnh tượng ấy đến không nói ra lời, Collum đưa cho họ mấy chiếc bánh be nhê, phần còn lại của bữa ăn sáng..Những bộ xương người khụy xuống quỳ lạy tỏ lòng biết ơn. Chiếc xe díp lại nổ máy đi tiếp. Tại trung tâm trại, một vị linh mục tuyên úy Mỹ, có tượng thánh giá bạc trên mũ của ông, trèo lên nắp xe díp, nói to lên trước đám đông những tù nhân bị lưu đày: Lạy Chúa, chúng con dâng lời cảm tạ Chúa.

Thế rồi, ông tiếp tục cầu nguyện bàng tiếng La tinh. Cả đám đông im lặng. Một số người quỳ gối xuống, có nhiều người khóc, nhiều người làm dấu Thánh giá. Một người lính leo lên nóc xe díp đứng bên cạnh vị tuyên úy, nói to lên bằng một thứ tiếng Đức “ăn đong”.

“Hôm qua Mussolini đã bị lật đổ. Munich đã bị chiếm đóng. Các ông được tự do. Xin chào mọi người nhân danh Liên Hiệp Quốc.” (Joshua M. Green, “Justice à Dachau”, nxb calmann-lesvy, 2003, trang 31)

Tôi đã đọc lại những trang lịch sử kinh hoàng ấy trong xúc động về những tội ác đối với con người. Và tôi đành tự an ủi là: Những gì liên quan đến con người, dù độc ác tàn bạo đến đâu đi nữa thì cũng hiểu được theo tinh thần:

Tất cả những gì anh mong muốn người khác làm cho anh, thì chính anh hãy làm điều ấy cho người khác. Và đó là lề luật của các đấng tiên tri.” (Mathieu, 7,12)

Cho nên, chúng ta cũng không lạ gì tội ác và sự tàn bạo của người cộng sản đối với nhân loại, và đối với riêng người Việt Nam khốn khổ. Nhưng vì thế, tôi nghĩ rằng mỗi bài học là một kinh nghiệm riêng, quý báu để ta suy nghĩ trong những hoàn cảnh riêng của nó, trong từng trường hợp, trong cách ứng xử của từng cá nhân.

 Mỗi bài học, mỗi kinh nghiệm đau thương là một thông điệp gửi đi mà nhiều tội ác trở thành tội phạm chống lại con người.

Nói chung, trước những đau khổ ấy, thái độ tốt đẹp nhất là tôn trọng sự khổ đau theo cái tinh thần: ai có qua cầu mới hay.

Bài học của Georges Boudarel mà người viết nêu ra ở đây với Trại tù 113 (“Prisonnier au camp 113”) để lại vừa là bài học vỡ lòng và là một bài học tiêu biểu nhất người viết gửi đến bạn đọc, từ đó dẫn đưa bạn đọc đến các trại cải tạo giam giữ các “ngụy quân, ngụy quyền” sau 1975.

Nhưng trước hết Georges Boudarel là ai mới được? Có thể phần đông bạn đọc lần đầu tiên nghe đến tên này. Vì thế, cần có đôi hàng tóm tắt về tiểu sử và hành trạng của G. Boudarel trước.

Georges Boudarel – Chính uỷ Trại 113 của Việt Minh. Nguồn: Criminocorpus

Đọc hành trạng của G. Boudarel, bạn đọc có thể so sánh không ít đến bọn trí thức thiên tả đủ loại trước 1975 tai miền Nam.

  1. Boudarel, sinh năm 1926 ở Saint-Étienne, bên Pháp. Đi tu và khi sắp sửa dọn mình chịu chức linh mục, ông cởi áo nhà tu và đi theo đảng cộng sản Pháp. Ông là thứ công giáo cấp tiến, thiên cộng như phần đông trí thức công giáo thời bấy giờ. Sau đó, ông được đảng cộng sản Pháp gửi sang Việt Nam vào năm 1948. Ông đóng vai giáo sư dạy Triết tại trường Yersin, Đàlạt. Năm 1949, ông dạy sử và triết học ở trường trung học Marie Curie, Saigon.

Nhưng năm 1950, ông quyết định bỏ đi dạy và gia nhập Việt Minh / đảng cộng sản Đông Dương và làm chủ biên các chương trình phát thanh bằng tiếng Pháp, La voix de Saigon–Chợ Lớn libre (Tiếng nói Tự do của Saigon-Chợ Lớn) của đảng cộng sản đặt ở vùng Sông Bé. Ông làm việc ở đây 18 tháng và sau đó quyết định ra Bắc. Từ 1952 đến 1954, G. Boudarel giữ chức Chính uỷ với cộng sản trong chiến tranh chống Pháp. Năm 1953 Boudarel bị kết án phản quốc ở Pháp. Boudarel ở Hà Nội đến năm 1964 mới đi Prague.

Phải mất 6 tháng trời hay hơn thế nữa để G. Boudarel đi đường bộ từ Nam ra Bắc.

Sau này, khi ông trở về Pháp nhờ luật ân xá 18 tháng 6, 1966, làm giảng viên khoa Sử Việt Nam tại ĐH Paris VII. (Georges Boudarel, https://trialinternational.org/latest–post/georges–boudarel/ và Wikipedia.org

Trong thời gian sau này, G. Boudarel đã viết những tác phẩm sau đây:

  • Boudarel, Vo Nguyen Giap
  • Cent fleurs écloses dans la nuit du Viet Nam – Communisme et Dissidence (1954–1956.
  • Hanoi, city of the rising dragon với G. Boudarel, Nguyễn Văn Ky và William. Duiker
  • Banner of people war. The party’s military line với Vo Nguyen Giáp, Jean Lacouture và Georges Boudarel.

Tôi đã có dịp đọc cuốn đầu tiên viết về Võ Nguyên Giáp. Đối với tôi, đây chỉ là một cuốn sách thường, chẳng có gì đáng đọc. Nó chỉ là một tập tài liệu nhái lại những luận điệu tuyên truyền, chỉ nhằm mục đích ca tụng “ thiên tài” quân sự của Võ Nguyên Giáp. Trong một loạt bài biên khảo của tôi về tướng Giáp, tôi có trích dẫn G. Boudarel và đưa ra những nhận xét sau đây về ông:

“Chúng ta sẽ không lạ gì những tác giả như G. Boudarel cũng như nhiều tác giả Pháp khác. Ông là một người cộng sản Pháp nên toàn bộ cuốn sách của ông về tướng Giáp mà tôi đọc. Ông đã không hề nhắc nhở xa gần về vai trò của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.” (Nguyễn Văn Lục, Những chiến dịch mang tên Võ Nguyên Giáp, Ngoquyen.org)

Tóm tắt, theo tôi cuốn sách ít có giá trị sử học.

Nhận xét của tôi chỉ muốn nêu lên một nhận định: Đã là cộng sản thì không có tổ quốc.

  1. Boudarel đã dẫm đạp lên quyền lợi của nước Pháp, mù quáng chạy theo Việt Minh cộng sản. Vì thế, ông bị coi như một kẻ phản quốc. Ông là mẫu người tiêu biểu cho trí thức theo cộng sản có dấn thân vốn là một khuynh hướng chính trị có sức thu hút nhiều thành phần trí thức thiên tả đi theo họ.

Trào lưu này cũng đã một thời tác động lên một số không nhỏ trí thức thành phần thứ ba tại Việt Nam trước cuộc kháng chiến chống Pháp và sau 1954. Rồi chống Mỹ, nhất là giai đọan từ cuối thập niên 1960, đầu 1970. Sau 1975, một số lớn trong bọn họ mới chợt tỉnh và ý thức được những sai lầm mê muội của họ thì đã quá trễ.

Khi ông về lại bên Pháp, nhờ tiếp xúc được với nhiều giới cũng như thu tập được khá đủ tài liệu, các số báo Nhân văn Giai phẩm, ông bắt đầu viết những bài tham luận đăng trên tập san Sudestasie, số 50 năm 1988, nhan đề “Dissidences intellectuelles au Viet Nam L’affaire Nhân Văn Giai phẩm”. Sau đó ông tập trung lại in thành sách, “Cent fleurs éclosent dans la nuit du Viêt Nam: communisme et dissidence, 1954-1956, Jacques Bertoin, 1991”.

Trong những nhận định được coi là quan trọng và sắc bén nhất của Georges Boudarel, theo tôi, ông có một nhận xét khá tinh tế khi cho rằng các nhà văn trong NVGP có một nhầm lẫn lớn là nói ra quá sớm những điều chưa thể nói ở Việt Nam. (Le tort de parler trop tôt).

Đúng vậy, nói không đúng lúc, nói không đúng thời điểm, các tác giả trong NVGP trở thành nạn nhân của chế độ cộng sản. Phải biết lúc nào được nói, lúc nào được phép nói. Đơn giản là vậy.

Nhưng điều làm cho G. Boudarel “tỉnh ngộ” là vụ cải cách ruộng đất. Hồ Chí Minh lộ hình cho thấy là một kẻ tàn bạo khi tiến hành cải cách ruộng đất, giết hại cả trăm ngàn người vô tội, trong đó, không phải chỉ có giới phú nông mà còn có con em của nhưng người đã từng hy sinh tính mạng trong công cuộc đánh đuổi người Pháp.

Nếu Hồ Chí Minh là kẻ sát nhân trong vụ NVGP thì Lê Duẩn là tên tội đồ trong vự thảm sát tết Mậu Thân.

Do sự bất mãn với chế độ Việt Minh Cộng sản trong vụ cải cách ruộng đất, năm 1964, Boudarel đã phải tìm cách trốn đi khỏi Việt Nam để sang sống ở Moscou với một tên giả là “Boris”, rồi Prague.

Boudarel bị cộng sản Việt Minh kết án tử hình do tội bỏ trốn và đào ngũ vì chống lại vụ cải cách ruộng đất. Trong một cuộc phỏng vấn dài với đahi châu Âu 1, Boudarel trả lời cho những người đã chỉ trích ông,

Georges Boudarel

“Tôi không hối tiếc gì về việc đã theo bên của Việt Nam và người dân thuộc địa. Tôi tham gia vì niềm tin. Lúc đó tôi là một người cộng sản. Bây giờ tôi nghĩ rằng tôi đã làm sai 100 phần trăm khi lựa chọn cộng sản.” (Aan Riding, “Paris Journal; Vietnam Echo Stuns France: Case of Treachery?” Special to The New York Times, March 20, 1991)

Tuy nhiên bi kịch kinh hoàng nhất của G. Boudarel là ông ta được cộng sản Việt Minh cài đặt ông trông coi một trại tù, làm trung gian để giết hại các cựu tù nhân Pháp.

 Đây là một đòn thù tàn ác, ghê tởm dùng người Pháp giết người Pháp. Ông được bổ nhiệm làm phụ tá ủy viên chính trị trong một trại tù của Việt Minh, trại tù nổi danh với cái tên vỏn vẹn con số 113. Một cái tên khác gọi là trại tù Đại Đồng. Mọi sự tàn độc của cộng sản đối với tù binh Pháp nay đổ lên đầu một mình G. Boudarel. Mặc dầu có thể trên thực tế, ông không có một tý quyền hành gì cũng không dúng tay vào các tội ác.

Georges Boudarel (1953–1991) Communisme & Guerre Froide

Trại 113 nổi tiếng vì mức độ tàn độc về số tù nhân tử vong do đói khát, bệnh tật và nhiều nguyên nhân khác. Có nhiều con số đưa ra từ mức 50% đến 75% số tù nhân bị tử vong.

Thật cũng khó mà có được con số chính xác vì chỉ là những lời kể lại của các tù nhân–nhân chứng. Các tù nhân còn sống sót xác nhận rằng có 278 người chết trên tổng số 320.
Nhưng cho dù con số đưa ra không hoàn toàn chính xác vì chẳng ai trong số các tù nhân người Pháp có thể có điều kiện để đếm từng người, ngoại trừ cán bộ cộng sản coi tù? Cho đến nay thì muốn tìm tài liệu về phía cộng sản hẳn là ngay cái tên cái trại tù 113 cũng không hề có. Họ hẳn đã xoá sạch?

Câu chuyện trại tù 113 hầu như bị quên lãng! Và Georges Boudarel trở lại Pháp, rồi dạy đại học một cách công khai, không cần che dấu tên tuổi vì có sự che chở của một số trí thức cánh tả trong giới đại học.

Cho mãi đến năm 1991, trong một buổi hội thảo do Centre des hautes études sur l’Afrique et l’Asie moderne, Jean Jacques Beucler đã từng bị tù cộng sản Việt Minh trong bốn năm, tố cáo G. Boudarel và quy kết ông vào tội: Crimes contre l’humanité. (Tội ác chống lại con người). Sau đó đã có một số nhân chứng đã từng bị tù trong trại giam 113 như Jean Pouget, Charles Bora, Georges Le Gouron coi trại tù 113 một trại giam được coi như Les camps de la mort. Họ được dịp kể lại những gì họ đã sống, đã nhìn thấy bằng chính mắt họ trong sự xúc động, đau khổ khi nhắc nhở lại dĩ vãng đau thương khi thấy các đồng đội của họ bị bỏ chết đói và chết như thế nào. Xác người chết không kịp chôn, mùi hôi thối nồng nặc với những thân xác người như các bộ xương khô, hình ảnh gợi nhớ đến các cảnh kinh hoàng trong các trại tập trung thời Đức Quốc Xã.

Nhưng chính trong bối cảnh đó, có sự tố cáo lẫn nhau giữa các nhân chứng. Đây là thứ bi kịch thứ hai do cộng sản dùng ăng ten để tù kiểm soát tù. Người nọ tố cáo người kia làm ăng ten cho cộng sản.

Một cựu tù nhân đã chất vấn một cách hung hãn như hai kẻ thù, cho một cựu tù nhân khác: Khi ra khỏi tù, anh nặng bao nhiêu kí lô? Người kia trả lời 70 kí lô.

Người tù chất vấn trả lời: khi tôi ra tù chỉ nặng có 40 kilo. 70 kí và 40 kí là sự khác biệt giữa tù thật và tù làm ăng ten. Sự khác bệt giữa 40–70 kí là bằng chứng tội phạm.

Sự nghi ngờ và tố giác nhau công khai như thế, sau hơn 40 năm quả thật là một bi kịch chỉ có thể tìm thấy trong các nhà tù cộng sản. Họ la hét, họ bày tỏ tất cả nỗi oán giận lên người cùng số phận với họ như một thứ kẻ thù có thể ăn tươi nuốt sống. Nỗi oán hận ấy theo lẽ phải đổ lên đầu những tên cán bộ cộng sản vốn chúng độc ác, tàn bạo! Như thể có thật là vô lý hay không?

Phần G. Boudarel, về mặt pháp lý, toà án không có đầy đủ yếu tố buộc tội ông như các lời tố cáo của các tù nhân trại tù 113. Ông có thể bị bắt buộc phải làm theo lệnh của cộng sản. Ông có thể chỉ là trung gian truyền những mệnh lệnh của bọn lãnh đạo trại tù.

Vì thế, sau này, ông đã làm đơn kiện lên tòa án về 5 tội phạm mà ông cho là không có bằng cớ và đòi phải được bồi thường về sự vu khống?

Cho dù về mặt pháp lý, G. Boudarel được coi là người vô tội. Nhưng về mặt lương tâm con người, tôi nghĩ rằng chưa bao giờ lương tâm ông được yên ổn?

Cả đời ông làm sao quên được những người Pháp như ông bị bỏ đói, chết khát, chết vì đủ thứ bệnh truyền nhiễm, thân xác chỉ còn da bọc xương. Đã thế, còn bị hành hạ tinh thần, bị xỉ nhục bằng cách học tập, nhồi sọ lý thuyết Mác Xít?

Ông Boudarel cho biết ông đã trở thành “một tù nhân của một ý thức hệ đã gắn liền với bản thân mình. Tôi là một phần của hệ thống phân cấp và tôi phải tuân lệnh như những người lính Pháp phải tuân lệnh các sĩ quan của họ.” (Alan Riding, ibid., )

Tuy nhiên, tôi đã có dịp quan sát rất kỹ thái độ, cử chỉ, ánh mắt nhìn, cách trả lời của G. Boudarel với vẻ khinh mạn, thách thức, lạnh nhạt trước các lời tố cáo. Nếu chỉ nhìn G. Boudarel lúc ông phải đối diện với những nạn nhân trại tù 113, tôi cảm nhận ông là thứ người đã bị nhồi sọ, vô cảm. Một thứ bất nhân hết thuốc chữa. Không một chút gì cho thấy ông có một tấm lòng hay một sự hối cải nào. Ông lãnh đạm và đôi lúc còn tỏ ra khinh bỉ, coi thường những nạn nhân đã từng bị ông đối xử như bày súc vật.

Đó là điều đáng trách nhất và đáng nguyền rủa nhất của một người trí thức như G. Boudarel. Trong số những bọn trí thức thiên tả miền Nam, trước 1975, tôi cũng có thể so sánh cung cách thái độ của một số bọn họ chẳng khác gi G. Boudarel cả.

 Hèn nhát, nịnh bợ, a dua, về hùa, mất nhân tính khi gọi các trại cải tạo là nơi “nghỉ mát”.

Tôi đã có dịp trích dẫn cuốn của Alain Ruscio, “Vivre au Viêt Nam”, từ các trang 133 cho thấy tiêu biểu trại Nam Hà, vào năm 1978 như sau:

“Từ năm 1975, hơn 600 người đã ở đây. Khoảng 50 người đã được thả về. Các căn trại được xây bằng gạch. Các phòng, rất sạch sẽ, chúng giống như các doanh trại nhà binh. Mỗi căn trại có 50 người. Đúng như vậy. (..) Mỗi người có một cái chiếu, hai cái mền..Một nhân viên quản giáo cho chúng tôi biết quần áo, sà phòng, kem đánh răng, tất cả những gì cần thiết cho đời sông thường ngày thì đều được Trung tâm cung cấp đầy đủ. (…) Chúng tôi đã gặp nghị sĩ Ngô Văn Ham, cựu tướng Huỳnh Văn cao, không có dấu hiệu gì cho thấy sự đối xử… tàn bạo. Nói chung, toàn doanh trại cho thấy có dấu hiệu một trại trừng giới”

Tội ác từ Trại tù 113 thời Pháp đến các trại cải tạo sau 1975

Sách và tài liệu về phía Pháp viết về các trại tù cộng sản là những bằng cớ không chối cãi được sự dã man và tàn bạo của người cộng sản.

Về phía VNCH, cũng đã có một ít sách viết về trại Cải Tạo sau 1975 như các cuốn: Đáy Địa Ngục, Cùm đỏ, Trại Cải Tạo, Những năm cải tạo ở miền Bắc, The Vietnamese Holocaust and the Conscience of the civilized nations, Viet Nam after 1975: Bamboo Gulags and Subtle Genocide, Những sự thật không thể chối bỏ, Trại Đá Bàn, Một nửa VNCH kéo dài, Tôi phải sống, v.v.. Và nhất là Trại Cổng Trời của Kiều Duy Vĩnh và Trại Cổng Trời (phỏng vấn của Mạc Lâm, đài RFA)

Và số người đi cải tạo lên đến nửa triệu người. Vậy mà trong nửa triệu người ấy, tôi có thể đoan chắc có thể không có đến một hai người trở thành cộng sản. Điều đó là một nỗi mừng hãnh diện về tư cách cũng như tinh thần của các tù nhân cải tạo.

Trong khi đó, thời VNCH, trước 1975 số cán binh cộng sản được chiêu hồi lên đến con số không phải ngàn người mà hàng vạn người. Sự khác biệt ấy nói lên điều gì và không nói lên điều gì?

Vì thế, khi nêu trường hợp G. Boudarel ra đây, cũng như những nạn nhân trong trại tù 113 như cái cớ để nói về bi kịch những người đi học tập cải tạo của miền Nam. Mục đích rõ ràng là như thế! Những gì đã xảy ra ở trại tù 113 cũng có thể xảy ra trong các trại Học tập cải tạo sau 1975 như một thứ phiên bản?

Nếu trong trại tù 113, hơn phân nửa đã chết vì đói ăn và bệnh tật thì theo ông Kiều Duy Vĩnh trên trại Cổng Trời, vào năm 1959, có 72 người bị đầy lên trại Cổng Trời, phần đông bọn họ là linh mục, hai vị, tu sĩ, thày giảng, ông Trùm, (hai) bà sơ, giáo dân. Không một ai có cơ hội sống sót để trở về, trừ hai người là Kiều Duy Vĩnh và Nguyễn Hữu Đang may mắn hơn, chỉ vì họ không phải là người công giáo. Tội của người chết đơn giản vì họ là người công giáo. Sau này, 1977, có một số vị linh mục bị đầy lên trại Cổng Trời và lãnh bản án 22 năm tù đầy.

Trong số những tác giả viết về các trại Tập Trung cải tạo của cộng sản, tôi dành một chỗ cao nhất nếu có thể dành cho tác giả Kiều Duy Vĩnh, mặc dầu ông viết rất ít và rất ngắn.

Số người chết trong tù cải tạo sau này có thể không đông đảo bằng trại tù 113, nhưng chính sách và đường lối quản lý tù nhân thì có thể không thay đổi. Chính sách bỏ đói, cài đạt ăng ten, chỉ điểm, chính sách tẩy não, thời gian tù đầy “tù mù” không hạn định ngày được tha có thể vẫn y như cũ.

Đối với quan điểm của tôi, tôi không kết án những tên cai ngục, ngay cả những người trót dại chỉ điểm, nghĩa là không kết án con người trong cái guồng máy nghiền tội phạm ấy mà kết án cái chế độ ấy.

Trong cuốn Đáy Địa Ngục của họa sĩ Tạ Tỵ, xuất bản năm 1985, ông đã đủ can đảm nhiều thứ, trong đó ông thú nhận rằng:

“Đói là vấn đề lớn trong tù. Đúng vậy. Cộng sản cai trị dân Việt Nam qua cái dạ dầy. Nếu ai chưa bị đói, cái đói dài dài từ ngày này qua ngày khác, từ tháng nọ đến tháng kia, chứ không phải 1, 2 bữa, khó mà cảm thông với cơn đói cồn cào ruột gan, đói toát mồ hôi, đói đương ngủ phải thức dậy, đói đến điên cuồng của những người đi cải tạo miền Bắc, sống chui rúc trong các hang hốc của dãy Hoàng Liên Sơn trùng trùng, ngất ngất, sát miền biên giới Hoa–Việt và sau những lớp đồi giăng mắc như mắt lưới thuộc miền Trung Du Bắc Việt, hay ở chân dải Trường Sơn thăm thăm miền Thanh Nghệ Tĩnh.” (Tạ Tỵ, “Đáy Địa Ngục”, trang 17–18)

Phạm Quang Giai, trong cuốn Trại Cải Tạo cũng viết:

“Cộng sản không cần đánh đập, không cần kết án mà chúng đã dùng cái máy chém “Đói”, chúng lê cái máy này đến mọi nơi, mọi chốn có tù nhân chính trị miền Nam để trả thù, trả hận mà vẫn không mang tiếng là ác độc, là giết người.

Một khoảng triền núi Mường Ngãi (Sơn La) có bãi cát phẳng lỳ, thế mà chỉ sau vài ba tháng, hàng trăm ngôi mộ của tù chính trị miền Nam được đắp lên vội vã.” (Phạm Quang Giai, “Trại Cải Tạo”, trang 5)

Tôi cũng rất trân quý cuốn sách “Trại cải tạo” của Trung tá Phạm Quang Giai, bởi vì cuốn sách rất người, rất nhân bản, biết nghĩ đến đồng đội. Ông viết:

“Số người chết trong mùa đông thật nhiều.

Tổ chúng tôi trực xác chết được chừng một tháng thì vào giữa giai đoạn lạnh rét, thiên hạ bị chết nhiều quá. Có ngày phải chôn hai người, có ngày ba người. Anh em mệt quá nên trở nên bất lực, thì tên Quý thấy khu A làm ăn không bằng khu B nên ra lệnh cho khu B nhận lại làm luôn.” (Phạm Quang Giai, ibid., trang 228)

Chỉ mấy dòng này đủ để chúng ta suy nghĩ về sự tàn độc của cộng sản, giết người bằng cách để thiên nhiên hành động một cách tự nhiên như thế nào. Nó có khác gì mấy các trại tập trung Đức Quốc Xã hay không?

Và phần Tạ Tỵ cũng phải nhìn nhận, “Ở tù… mọi giá trị đều đảo lộn.” (Tạ Tỵ, ibid., trang 21)

Ở chỗ khác, ông viết:

“Vì quá chật chội, nên con người dễ sinh bực tức. Sự việc không đáng gì, ở đây, trở thành nặng nề, khó giải quyết. Mới đây, họ là những chiến hữu, chào hỏi nhau qua cấp bậc, nếu không quen biết cũng chẳng bao giờ có ý gây gỗ. Nhưng ở hoàn cảnh này, tình chiến hữu hình như phai nhạt, nhường chỗ cho ích kỷ, nhỏ nhen. Nói vậy không có nghĩa mọi người có mặt đều hành xử như nhau, nhưng “đa số trầm lặng”, không giúp ích gì trong việc giải quyết mâu thuẫn cấp thời.” (Tạ Tỵ, ibid., trang 283)

Tuy nhiên, rải rác trong suốt cuốn sách, họa sĩ Tạ Tỵ bị ám ảnh gần như soi mói vào từng cử chỉ, thái độ của các người bạn cải tạo. Rồi nghi ngờ, đánh giá cũng như nói xa gần đến những tù nhân tự nhận làm ăng ten cho giặc. Có những giọng điệu mỉa mai gián tiếp không cần thiết đối với các tướng lãnh, các người bạn đồng tù.

Có cần thiết phải làm như vậy không?

Như trong đoạn tranh cãi sau đây, một người người ngoài cuộc cảm thấy đau lòng cho cả đôi bên mà sự phân định phải trái thật không dễ dàng gì.

Đây là đoạn tranh cãi giữa tướng Cao và một vị linh mục trẻ:

“Cách đây mấy hôm, không hiểu có chuyện gì với tướng Cao, vị linh mục Tuyên úy này đã có thái độ quyết liệt nói thẳng:

Tại sao ông lại xuyên tạc sự thật? Ông báo cáo với cán bộ những điều tôi không làm, không nói?
Tướng Cao trả lời lạnh lùng:
Ở đây, ai cũng có quyền báo cáo chả riêng gì tôi!
Đúng, báo cáo là quyền của ông, nhưng tôi chỉ mong ông đừng xuyên tạc sự thực là được. Chúng ta mọi người ở đây đều là tù, không có Tướng Tá gì hết. Cách mạng đã ghi trong nội quy như vậy. Ông muốn về sớm hơn anh em, ông có quyền làm tất cả tất cả những gì thuộc riêng ông thôi, đừng hại anh em, để được tha trước. Nói xong, vị linh mục trẻ này quay về phía anh em nói to:
Phải lôi rắn ra khỏi hang mà đánh.” (Tạ Tỵ, ibid., trang 473)

Lạy Chúa, ai là rắn , rắn nào đây? Rắn ấy vốn là đồng đội với nhau trước 1975?

Có lẽ đây là một trong số những câu truyện xảy ra đáng buồn nhất trong cuốn Hồi ký của Tạ Tỵ. Cái mồi câu nếu học tập tốt sẽ được về sớm đã là một trong những đòn nhử mà cộng sản tàn độc đã dùng để những người tù cải tạo sẵn sàng hại lẫn nhau. Cả vị linh mục lẫn tướng Huỳnh Văn Cao đều tin vào một Chúa, ở ngoài đời chắc đã có sự tương kính không tránh được. Nhưng ở đây thì khác, họ đang tố cáo nhau như thể những kẻ thù.

Trong cuốn Hồi ký, tôi thấy chỉ cần một chi tiết nhỏ cũng có thể trở thành một mối đe dọa, một bản án, một chụp mũ rất vô bằng và bất công cho những ai được bọn cán bộ chỉ định làm toán trưởng. Chúng ta thử đọc một đoạn tiếp:

“ Chổi đâu? Một tiếng nói như gắt. Anh Bảy (toán trưởng) nhỏ nhẹ.
— Mấy anh tự tìm lấy. Tôi cũng như mấy anh biết gì đâu mà hỏi!
— Anh là B. Trưởng mà! Nghe câu đó, anh Bảy không giữ được bình tĩnh:
— B. cái con mẹ gì? Tôi yêu cầu ba anh Tổ trưởng phân công cho anh em làm vệ sinh. Nếu không, tôi sẽ…

Anh chưa nói hết câu, nhưng mọi người đều nhận biết đó là lời đe dọa! Một tiếng nói vọng ra từ góc nhà.

— Đù mẹ, chưa chi đã phách lối!” ( Tạ Tỵ, ibid., trang 31–32)

Câu chửi thề ấy rất có thể trở thành một bản án rồi đấy! Sự chia rẽ, nghi kỵ có thể bắt đầu từ đây.

Nhận diện và kết án một ai đó làm ăng ten là một điều không dễ.

Có những người đi học tập có chút nghề riêng thường dễ được xử dụng và hưởng được chút biệt đãĩ như thầy thuốc, thợ mộc đóng bàn ghế, thợ sửa đồng hồ. Hoặc biết chút âm nhạc, hội họa đôi khi cũng có chỗ để dùng. Như chính trường hợp Tạ Tỵ, nhờ biết vẽ, mặc dầu không chuyên về vẽ truyền thần hay phong cảnh, nhưng cần gì. Ông vẫn được trọng dụng để vẽ chân dung Hồ Chí Minh chẳng hạn..

Những trường hợp này có thể nào bị gán ghép là làm ăng ten? Chính Tạ Tỵ kể có lần vẽ cho một cán bộ có em gái đi lấy chồng nhờ ông vẽ một tấm bảng Song Hỷ, có lsửng hoa, v.v. Sau đó, ông được cán bộ tặng cho một gói thuốc lào An Thái, 2 trái su hào to và một hũ mật nhỏ.

Trường hợp Duyên Anh

Hình từ trái qua phải: Ô. Trần Hữu Hoàng, Duyên Anh và vợ, các ông . Nguyễn ý Thuần, Trần Quốc Bảo, Hồ Văn Xuân Nhi, Lê Phước Vinh – hình chụp cuối năm 1987 lần đầu tiên Duyên Anh đến Mỹ và gặp gỡ nhóm chủ trương nguyệt san Tuổi Ngọc ( Mỹ ). Nguồn: chs-tb-nth-hn.com

Nhân đọc bài viết của tác giả Vĩnh Phúc viết về nhà văn Duyên Anh, tôi thấy cần thiết đóng góp một tiếng nói khác về dư luận kết án Duyên Anh làm ăng ten cho cộng sản.

Trong cuốn Hồi ký của Tạ Tỵ , tôi cảm thấy khó chịu khi ông họa sĩ tìm đọc những cuốn: Chân dung các tướng ngụy Sài Gòn. Cuốn sách do một trung tá cộng sản đã dùng những bản tự khai của mỗi tướng lãnh, rồi pha chế thêm. Xin trich đoạn sách những nhận xét của tên trung tá:

“Khi nhìn thấy tôi (tác giả), tướng Kim đang uống nước, vội bỏ ly xuống, chạy ra chắp tay chào bàng một giọng lễ phép! Còn đề đốc Trần Văn Chơn lúc này đã ăn chay, niệm Phật! Tướng Lê Minh Đảo, tướng Lam Sơn, tướng Có, tướng Á, v.v.. Mỗi vị tướng được nói đến như gắn vào ngực một bản án ô nhục, nếu còn sống ngày nào cũng chẳng dám ngửa mặt nhìn ai. Qua cuốn sách, không vị tướng nào còn chút giá trị trước mắt người đọc. Nó nói hết những gì trước kia được che dấu dưới ánh sáng của những ngôi sao.” ( Tạ Tỵ, ibid., trang 598-599)

Tạ Tỵ cũng tiết lộ cho biết ông còn đọc cuốn “Bộ mặt thực của các tướng ngụy”. Về cuốn này Tạ Tỵ viết:

“Cuốn này đề cập cả đến những khuôn mặt tướng lãnh đã di tản như Vĩnh Lộc, Phạm Quốc Thuần và Tôn Thất Đính, v.v.. Nội dung vẫn chỉ nói xấu, nhưng cũng phần nào đúng, nếu ai được biết qua “đời tư Lữ Bố” chẳng hạn, tướng Lam Sơn có mấy vợ? Tên các con gái toàn Mỹ Kim, Anh Kim, Đức Kim, Quý Kim, v.v.. Nghe loảng xoảng toàn vàng bạc. Còn người tình của tướng Khôi thiết giáp là ai? Vì sao, cô ta lại yêu tướng Khôi, dù ông đã có vợ con!

Đứng về mặt nghệ thuật, cả hai cuốn đó đều không có, nhưng đứng về mặt tài liệu, chúng có một giá trị tương đối. Trong thời gian vừa qua, có mấy ông tướng được đưa về trại Nam Hà. Một sáng ngồi chờ lao động, tôi thấy mấy ông Tướng đứng thập thò nơi đầu ngõ, lấm lét nhìn tên công an đang đứng gác các Đội, sửa soạn đi lao động. … Tôi không còn nhìn thấy chút oai phong nào ở nơi các ông ấy.” (Tạ Tỵ, ibid., trang 598-599)

Tôi đọc và trích dẫn hai đoạn văn trên của họa sĩ Tạ Tỵ. Tôi nhận ra được tất cả cái tâm địa tầm thường của tác giả. Có người tù nào trong trại cải tạo, dù là sĩ quan hay tướng lãnh, đói ăn và bệnh hoạn làm thế nào để họ giữ được oai phong tướng lãnh?

Không biết, Tạ Tỵ tự nhìn bản thân ông vốn là một sĩ quan cấp trung tá, nhưng chưa một ngày chiến trận, có được cái oai phong thuở nào không?

Hai cuốn sách của cộng sản nhằm hạ nhục tướng lãnh quân đội VNCH, bêu xấu đồi tư của họ. Có đáng được gọi là “tài liệu” và để dẫn chứng ra trong cuốn sách không? Tôi thấy ông hoạ sĩ lập thể có thói quen vẽ tranh thế nào thì viết về người như thế! Thật đáng tiếc.

 (7/5/1975) BẠI TRẬN TẠI ĐÀ NẴNG—Binh sĩ Nam VN đang bị canh gác sau khi Đà Nẵng sụp đổ, trong bức ảnh nhận được hôm thứ tư tại New York từ Thông tấn xã Giải Phóng của Nam VN. Chú thích kèm theo bức ảnh viết: “Hàng ngàn binh lính “tinh nhuệ” của bè lũ Thiệu-Kỳ bảo vệ Đà Nẵng đã nhanh chóng bị quân giải phóng quét sạch hay làm tan rã. Hàng ngàn quân địch đã bị bắt làm tù binh trên các mặt trận và chuyển đến những khu vực bảo đảm.” Nguồn: AP Wirephoto

 Được biết, sau này khi sang Mỹ, Tạ Tỵ còn viết bài trên tạp chí Văn của Mai Thảo, tố cáo Duyên Anh “đầu hàng cộng sản, bán xác anh em”. Theo Vũ Trung Hiền, Duyên Anh phản công dữ dội. Ngoài một số bài trên các báo, Duyên Anh còn nhắc tới Tạ Tỵ khá kỹ trong Hồi ký: Nhà tù và trại tập trung về “thành tích vẽ ảnh Hồ Chí Minh, ăn vụng thịt, ăn tranh phần cơm cháy của heo.” (Vũ Trung Hiền, “Duyên Anh và tôi”, Tân Tây Sơn xuất bản, tháng giêng 2000, trang 63)

Đây là sự tranh cãi, tố cáo nhau bẩn thỉu nhất mà tôi đọc được mà tất cả đều dựa trên tin đồn, lời truyền miệng từ người nọ đến người kia. Tôi không làm công việc bênh vực Duyên Anh. Bởi vì, tôi không có điều kiện đi tù cải tạo, không ở cùng trại tù Xuyên Mộc với Duyên Anh. Nhưng cũng chắc chắn tôi không dễ dãi đồng ý với cách thức kết án của họa sĩ Tạ Tỵ.

Cũng xin trích ra đây lời tâm sự của Duyên Anh với Vũ Trung Hiền:

“Xét cho cùng, chỉ có chủ nghĩa cộng sản và bọn thiểu số lãnh tụ chóp bu là kẻ thù để mình chống thôi. Những thứ cắc ké như bọn cán bộ quản giáo, công an coi tù, chúng nó có ra cái gì, mà mình phải coi chúng là kẻ thù?

— Mình chỉ chống chủ nghĩa thôi chẳng nên chống con người”

Ông giải thích tiếp:

“Thì cũng là vì anh tội nghiệp những thằng công an con nít, cho chúng nó thuốc lá, lạp xưởng, dạy chúng nó làm thơ tán gái, một số bạn tù cho rằng anh khiếp nhược, sợ bọn cai tù, đầu hàng cộng sản. Thậm chí còn có người bảo anh làm việc cho cộng sản nữa. Nhưng không sao anh bằng lòng chịu những hệ lụy đó. Để khỏi a dua với chúng nó.” (Vũ Trung Hiền, ibid., trang 83)

Đặc điểm của tinh thần “chống nhau” thay vì dồn sức lực chống kẻ thù cũng là nét đặc trưng của các cộng đồng người Việt hiện nay ở hải ngoại.

Nói về nhân cách con người cũng như sự hèn nhát thì không nhất thiết phải tìm trong các trại tù cải tạo! Xin mời đọc đoạn trao dổi giữa Vũ Trung Hiền và Trần Đình Thục, người họa sĩ cùng đi với Duyên Anh và chứng kiến từ đầu đến cuối tấn bi kịch Duyên Anh bị đánh giữa khu Bolsa như sau, Trần Đình Thục kể:

“Trưa hôm nay, anh Duyên Anh đi với anh Lê Quý An, tôi và em tôi đến khu Bolsa Mini Mall, định ăn trưa ở quán Ngân Đình. Chúng tôi gặp Mai Thảo, bác sĩ NM (Nguyễn Mạnh, chú thích của NVL) và bác sĩ NTV (Ngô Thế Vinh — chú thích của NVL) ở trước cửa quán. Duyên Anh dừng lại nói chuyện với họ khoảng chừng mươi mười lăm phút. Ăn trưa xong, khoảng một giờ, chúng tôi đang đi bộ về phía đường Bolsa thì bốn tên từ phía sau trờ tới. Một ten vỗ vai Duyên Anh. Ngay khi anh vừa quay lại, nó đánh thật mạnh vào thái dương bên trái, rồi bồi thêm một cú móc dưới cằm. Duyên Anh ngã quỵ xuống. Sự việc xảy ra đột ngột không kịp phản ứng. (…) Chúng tôi xốc Duyên Anh, dìu anh đến ngồi trước bậc thềm, bên ngoài phòng chụp quang tuyến của bác sĩ NM. (Nguyễn Mạnh)(…) Tôi chạy vào phòng quang tuyến, xin bác sĩ NM. (Nguyễn Mạnh) làm ơn ra coi cho Duyên Anh. Có cả bác sĩ NTV (Ngô Thế Vinh) cũng đang ngồi trong đó nữa.

— Các ông ấy ra ngay chứ?
— Không có ai ra cả. Bác sĩ M. (Nguyễn Mạnh) bảo tôi, ông ta không khám bệnh, chỉ chụp quang tuyến thôi.
— Như vậy, ai gọi 911?

Lúc tôi ra ngoài, anh Lê Quý An đang xin nhân viên ở đó gọi dùm

— Bao lâu thì xe cứu thương mới tới.
— Khoảng 20 phút sau
— Suốt thời gian đó, không ai ngó ngàng gì đến Duyên Anh?
— Không có ai cả. Tôi lấy làm lạ, vì sao hai ông bác sĩ đó không thể bước ra ngoài nhìn Duyên Anh một chút, dù trước đó một tiếng, họ đã bắt tay và nói chuyện với anh ấy.” (Vũ Trung Hiền, ibid., trang 142-143)

 Và cũng trong cái tinh thần ấy, không một tờ báo nào ở quận Cam dám lên tiếng bênh vực Duyên Anh. Đỗ Quý Toàn, tờ Người Việt đâu? Việt báo của Nhã Ca sướt mướt với Giải Khăn Xô cho Huế ở đâu nhỉ?

Thắc mắc cuối cùng của tôi đặt ra cho độc giả, giữa cái hèn của người tù cải tạo và cái hèn của người ngoài tù, ai hèn hơn ai? Và thắc mắc thứ hai là khi ra khỏi trại tù cộng sản, Duyên Anh nặng bao nhiêu kí và Tạ Tỵ nặng bao nhiêu ký?


 

Chuyện lừa đảo xưa và nay- Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

18/10/2025

Tôi thường hay viết về những vấn đề rắc rối, nhiều khi khiến người đọc nhức đầu, và cũng làm cho không ít người ghét tôi. Hôm nay, để thay đổi không khí và chuộc tội, tôi xin kể chuyện nhẹ nhàng hơn — vẫn là chuyện đời, nhưng dễ nghe hơn một chút.

Lừa đảo có muôn hình vạn trạng. Hôm nay, tôi kể lại một kiểu lừa rất hay mà rất có thể bạn chưa từng nghe.

Kẻ làm tiền giả

Có một ông A, vốn là người khá giả, hám tiền, sống ở Paris, có nhiều căn nhà cũ kỹ cho thuê vào năm 1937. Ông cũng sống ngay trong tòa nhà ấy. Trong cùng tòa nhà, có một bà B tương đối lớn tuổi, bị chứng mất ngủ. Ban đêm, bà thường đứng bên cửa sổ nhìn sang căn phòng đối diện và phát hiện người thuê nhà bên kia (anh T) không bao giờ ngủ, cứ đi đi lại lại suốt đêm, rồi đến sáng thì biến mất.

Bà B mách lại với ông A chủ nhà. Ông A thấy anh T là người lịch sự, đàng hoàng, luôn trả tiền thuê đúng hạn, nên cũng không nghi ngờ. Nhưng bà B lại hay thóc mách, nằng nặc đòi ông A phải điều tra, thậm chí còn nghi anh T là kẻ khủng bố.

Một đêm, ông A cầm súng lục, dùng chìa khóa dự phòng mở cửa phòng anh T, bất ngờ xông vào. Anh T sợ tái mặt, quỳ lạy van xin ông A đừng bắn. Ông A nhìn quanh và thấy căn phòng đầy những dụng cụ in ấn. Bi Ép hỏi, T run rẩy khai rằng mình đang làm tiền giả.

Anh T nói tiền anh in giống thật 100%, rồi đưa cho ông A hai tờ 1.000 franc, bảo ông cứ thử tiêu ngày mai.

Hôm sau, ông A mang tiền ra chợ tiêu, chẳng ai nghi ngờ gì. Thậm chí ông còn vào Ngân hàng Trung ương đổi tờ 1.000 franc thành tiền lẻ, cố ý nói nhân viên kiểm tra kỹ. Họ xác nhận hoàn toàn bình thường.

Thấy tiền giả mà như thật, lòng tham của ông A trỗi dậy. Đêm sau, ông lại lên gặp anh T, đòi chia một nửa số tiền in được, nếu không sẽ tố cáo cho cảnh sát. T sợ quá nên đồng ý.

Sau đó, A hỏi một đêm làm được bao nhiêu tờ. T đáp chỉ làm được hai tờ. A sốt ruột hỏi sao không tăng năng suất, T nói phải mua thêm một máy hiện đại hơn, giá 10 triệu. Ông A về đếm lại tiền, chỉ có 5 triệu, bèn tìm đến bà B kể lại hết chuyện và rủ đầu tư. Bà B tham tiền nên cũng góp 5 triệu.

Đêm hôm sau, ông A mang 10 triệu đến đưa cho T, bảo mai đi mua máy. Sáng hôm sau, T biến mất, không bao giờ quay lại.

A và B câm lặng, chẳng dám tố cáo vì sợ liên lụy. Họ không biết rằng T đã nghiên cứu kỹ từ đầu, thuê phòng chỉ để giả vờ làm tiền giả. Tiền mà T đưa cho A thử là tiền thật, nên cả ngân hàng cũng không nghi ngờ. Một cú lừa quá quái chiêu!

Sau này, T tiếp tục hành nghề lừa đảo, rồi cũng bị bắt. Trong lời khai, hắn kể lại vụ này — khiến cảnh sát vừa buồn cười vừa khâm phục.

Ngày xưa, con người cũng đã biết lừa nhau đến mức tinh vi như thế đấy.

Chuyện ngày nay

Đừng tưởng chỉ Việt Nam mới có chuyện lừa đảo qua điện thoại. Gần đây, điện thoại di động của tôi ở Pháp cũng liên tục nhận được các cuộc gọi lừa đảo. Bọn này tinh vi hơn, dùng số thuê bao thật ở Pháp để tăng độ tin cậy. Nhưng gặp phải tôi thì đúng là “gặp hạn”.

Chuyện lừa đảo qua mạng đã trở thành một hiện tượng toàn cầu. Người Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề. Từ những vụ lừa nhỏ lẻ ban đầu, nay nó đã trở thành một ngành công nghiệp với quy mô khổng lồ, thậm chí có sự đồng lõa của một số chính quyền.

Những “nhà máy lừa đảo” đầu tiên do mafia Trung Quốc lập ra vào khoảng năm 2010 tại Campuchia, quanh khu casino ở Sihanoukville, rồi lan sang Myanmar.

USIP (United States Institute of Peace) — Viện Hòa bình Hoa Kỳ, một cơ quan nghiên cứu độc lập do Quốc hội Mỹ tài trợ — có trụ sở ở Miến Điện với ông Jason Tower là giám đốc. Ông là chuyên gia nghiên cứu về vấn đề lừa đảo này.

Kèm theo bài viết này, tôi có bản đồ các « nhà máy » lừa đảo ở Đông Nam Á.

Tại những địa điểm này, có các tòa nhà kiên cố, được bảo vệ nghiêm ngặt. Theo USIP, các “nhà máy” này do mafia Trung Quốc tổ chức và điều hành, có sự bảo kê của chính quyền sở tại.

Điều gây sốc là số lượng và quốc tịch của những người bị lừa đến làm việc ở đây. Ước tính có 150.000–200.000 người, đến từ khắp nơi trên thế giới, thậm chí có cả người Pháp. Ở trung tâm “KK số 3”, có một nhóm lớn người Pháp chuyên lừa… người Pháp.

Số đông nhất vẫn là người châu Phi và châu Á.

Theo ông Jason Tower, ngành công nghiệp lừa đảo này kiếm được khoảng 70 tỷ USD mỗi năm, trong đó 46 tỷ từ châu Á, 5 tỷ từ Mỹ. FBI cũng có các số liệu về số người và số tiền của Mỹ bị lừa.

Những vụ lừa lớn thường không chỉ là “tiền điện, tiền nước” mà là các trò đầu tư tiền ảo, đánh vào lòng tham.

Các “nhân viên” trong đó cũng chỉ được hưởng một phần nhỏ, rồi bị ép tiêu tiền trong các dịch vụ mại dâm…

Một khi đã bị đưa vào đó thì không có đường ra. Nhiều người bị giam giữ, tra tấn, bán như nô lệ thời trung cổ. Một số quốc gia đã phải bỏ tiền chuộc công dân của mình. Tôi không biết VN ta có chuộc được công dân nào không.

Thậm chí, có những vụ bắt cóc người để đưa vào làm việc trong các “nhà máy lừa đảo”. Điển hình là vụ Hoang Xing, diễn viên Trung Quốc bị bắt cóc, khiến Bắc Kinh phải cử đoàn đặc nhiệm sang giải cứu.

May mắn là gần đây, các nước lớn — nhất là Anh và Mỹ — đã bắt đầu hành động mạnh để triệt phá hệ thống này. Nhưng công việc không hề dễ dàng, vì chúng được bảo kê bởi chính quyền sở tại, thậm chí có khi bởi nguyên thủ quốc gia.

Dù các “nhà máy” không nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, nhưng mọi đường dây đều do người Trung Quốc cầm đầu. Mức độ dính líu của quan chức Bắc Kinh tới đâu thì chưa rõ, nhưng có một điều chắc chắn: Trung Quốc vẫn là kẻ hưởng lợi cuối cùng.

Một vài lời cảnh tỉnh

Mỗi người chúng ta đều phải cảnh giác để tránh bị thiệt hại. Những nguyên tắc cơ bản nhất để không bị lừa là:

Không tham. Ai cho không bất cứ thứ gì thì cũng không lấy — vì không ai cho không ai cái gì cả.

Không tin. Mọi lời hứa, mọi tin nhắn, mọi cú điện thoại nói đến tiền, dù là người quen, đều từ chối luôn.

Không chuyển tiền, không cung cấp thông tin cá nhân, nhất là mã OTP hay mật khẩu ngân hàng cho bất kỳ ai.

Lừa đảo xưa nay vẫn thế: chỉ khác ở chỗ phương tiện tinh vi hơn, còn lòng tham của con người thì vẫn y nguyên.


 

HỌC CÁCH TỰ VUI VỚI CHÍNH MÌNH – BÀI HỌC LỚN NHẤT CỦA TUỔI GIÀ

 Tu Le is at Gota Coffee

Khi còn trẻ, ta dễ nghĩ rằng niềm vui là thứ được ban tặng từ bên ngoài: một cái ôm, một buổi họp mặt đông vui, một người yêu luôn nhắn tin mỗi tối. Nhưng rồi đời sống dạy ta một điều chậm rãi mà chắc chắn: hạnh phúc thật sự không nằm ở những tiếng cười xôn xao, mà nằm ở sự bình yên bên trong, lúc chẳng còn ai bên cạnh.

Có người già đi giữa phố, tay cầm túi xách nhỏ, dáng lặng lẽ như cái bóng dài của hoàng hôn. Thấy cụ ngồi ở công viên, nhẩn nha ăn một cái bánh mì nhỏ, mắt vẫn ánh lên niềm vui, tôi chợt nhận ra: người biết tự vui với chính mình, là người đã học được điều quan trọng nhất sau bao năm tháng bôn ba.

Người ta có thể sống giữa con cháu sum vầy, nhưng lòng vẫn thấy cô đơn. Bởi sự có mặt về thể xác không thể thay thế sự đồng hành của tâm hồn. Con cháu có thể hiếu thảo, có thể chăm lo từng bữa ăn, từng viên thuốc. Nhưng không ai có thể đi cùng ta vào giấc mơ đêm khuya, không ai sống thay những nỗi trống vắng âm thầm trong lòng.

Rồi sẽ đến lúc những buổi tụ họp thưa dần, ai cũng bận rộn với đời mình. Những tin nhắn thưa thớt, những cuộc gọi vội vã. Nếu ta không học cách tự làm bạn với chính mình, thì những tháng năm sau cùng của cuộc đời dễ trở thành những ngày dài thở dài.

Vì vậy, tập tự vui với mình không phải là buông xuôi, mà là buông bớt. Buông những kỳ vọng không cần thiết. Buông sự lệ thuộc vào người khác để được hạnh phúc. Buông cái thói quen đòi hỏi đời phải giống như trong mơ. Rồi ta mới thấy: sống nhẹ lòng là một nghệ thuật, mà ai cũng cần học, nhất là khi tuổi đã xế chiều.

Đừng chờ ai đó rảnh rang mới rủ ta đi uống cà phê. Hãy tự chọn một quán quen, tự kêu món mình thích, và lặng lẽ nhìn người qua lại như một thước phim đời. Đừng chờ con cháu nhớ ngày sinh nhật, hãy tự mua tặng mình một món quà – nhỏ thôi, nhưng ý nghĩa. Một chậu hoa, một cuốn sách, một cái bánh. Cuộc đời, có khi chỉ cần vậy là đủ để lòng ấm.

Người già sống thanh thản là người không giận con cháu vì ít gọi điện, không trách người thân vì không hỏi thăm đều đặn. Bởi người ấy hiểu rằng: ai rồi cũng có hành trình riêng, đâu thể quanh quẩn mãi bên nhau được. Cái quý của đời không nằm ở việc người khác nhớ mình mỗi ngày, mà ở chỗ mình nhớ thương họ một cách yên bình, không oán trách.

Tự pha một ly trà, tự đi bộ vài vòng quanh hồ, tự xem một bộ phim cũ từng thích. Đó không phải là những hành động nhỏ nhặt. Đó là những bài tập thảnh thơi giúp ta trở về với chính mình. Cuộc đời này, ai rồi cũng sẽ đối diện với những buổi chiều lặng gió, những đêm không ai bên cạnh. Học cách vui với những điều nhỏ nhất – ấy là đang chuẩn bị cho một tuổi già không tủi thân.

Người già hạnh phúc không phải người có nhiều tiền, nhiều nhà, mà là người có một tâm hồn đầy đủ. Đầy từ sự biết ơn. Đầy từ những kỷ niệm đã qua mà không tiếc nuối. Đầy từ sự bằng lòng với hiện tại, dù nó chẳng còn bao nhiêu náo nhiệt.

Có những thứ mất đi rồi ta mới biết quý, nhưng cũng có những thứ, chỉ khi buông bớt, ta mới thấy đời thảnh thơi hơn. Tình thân, nếu có – xin trân trọng. Nếu thưa vắng – xin nhẹ lòng. Sức khỏe, còn được bao nhiêu – hãy gìn giữ và trân quý. Ngày nào còn đi lại được, còn nghe được tiếng chim hót sáng mai – ngày đó còn là một món quà.

Tuổi già không nên chỉ là chuỗi ngày lặp lại, sống mòn. Tuổi già cũng có thể là mùa đẹp nhất, nếu ta biết sống chậm, sống sâu, sống tử tế – trước hết là với chính mình.

Sống đến ngần này tuổi, ai cũng từng trải qua mất mát, từng gãy đổ, từng hy vọng rồi thất vọng. Nhưng nếu sau tất cả, ta vẫn có thể mỉm cười với một buổi sáng đầy nắng, thấy lòng dịu lại khi nghe một khúc nhạc cũ, thì có nghĩa là ta đang sống thật sự, không cần ai thay mình, cũng không cần đám đông phải công nhận.

Và có lẽ, bài học lớn nhất của đời người – sau bao năm thăng trầm, chính là:

Biết tự vui, tự an, tự thương lấy mình.

____

#gotacoffee – #ngườiviếtgiữahaimiền


 

SỰ CÔ ĐƠN – TIẾNG VỌNG CỦA TÂM HỒN TÌM VỀ CHÍNH MÌNH -Sr Mây Trắng, SPP

Gieo Mầm Ơn Gọi

Sr Mây Trắng, SPP

Chúng ta của thời đại hôm nay sống giữa vô vàn mối liên hệ: qua mạng xã hội, công việc, gia đình, bạn bè. Nhưng càng nhiều kết nối, dường như ta lại càng cô đơn. Cô đơn không còn là khoảng trống bên ngoài, mà là một nỗi trống vắng bên trong nơi con người cảm thấy lạc lõng ngay giữa những tiếng cười, giữa muôn lời nói, giữa chốn đông người.

Cô đơn, trong chiều sâu của nó, không chỉ là thiếu vắng người khác, mà là một lời mời gọi đối diện với chính mình. Khi mọi ồn ào tạm lắng xuống, khi những vai diễn xã hội được tháo bỏ, ta bỗng đứng trần trụi trước sự thật về bản thân với những khát vọng, nỗi sợ, và câu hỏi chưa có lời đáp. Chính trong cô đơn, con người được thử thách: hoặc chạy trốn, hoặc can đảm đi sâu vào nội tâm để tìm lại bản ngã thật.

Nhiều người sợ cô đơn, vì trong đó ta không còn điểm tựa. Nhưng có lẽ, chính nơi tận cùng của nỗi cô đơn, con người mới chạm được vào chiều sâu của tồn tại. Ở đó, ta nhận ra rằng mọi mối tương quan đều mong manh, chỉ có sự hiện diện của chính mình và của Đấng Tuyệt Đối là vững bền. Cô đơn, nếu biết đón nhận, không còn là nỗi buồn, mà trở thành con đường dẫn đến tự do và thức tỉnh.

Trong ánh sáng đức tin, cô đơn không phải là sự vắng bóng của Thiên Chúa, mà là không gian để Ngài đến gần hơn. Khi ta cảm thấy bị bỏ rơi, Ngài lại âm thầm hiện diện; khi ta tưởng mình lạc lõng, chính Ngài đang dìu ta qua đêm tối của tâm hồn. Cô đơn trở thành một thứ ân sủng giúp ta lắng nghe tiếng Chúa thì thầm giữa im lặng, và nhận ra rằng chỉ nơi Ngài, con tim con người mới tìm được sự bình an thật sự.

Cô đơn vì thế không còn là kết thúc, mà là một khởi đầu mới nơi con người gặp lại chính mình, gặp lại Thiên Chúa, và từ đó có thể bước ra, trao tặng tình yêu sâu hơn cho cuộc đời.

Lạy Chúa, giữa những ồn ào của cuộc sống hôm nay, khi lòng con trở nên trống rỗng và cô đơn bao phủ, xin cho con đủ can đảm để không trốn chạy, nhưng dám ở lại trong thinh lặng, để nghe được tiếng Ngài đang nói trong sâu thẳm tâm hồn. Xin biến nỗi cô đơn của con thành nơi gặp gỡ, nơi con nhận ra tình yêu Ngài vẫn âm thầm hiện diện, và để từ đó, con biết ra đi trao ban bình an và tình thương cho những người cũng đang cô đơn như con. Amen.

Sr Mây Trắng, SPP


 

Hoàng Xuân Chiến, thứ trưởng Quốc Phòng CSVN, ‘sờ mó tình dục’ ở Nam Hàn

Ba’o Nguoi-Viet

October 20, 2025

SEOUL, Nam Hàn (NV) – Thượng Tướng Hoàng Xuân Chiến, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam, bị tố có hành động “sờ mó tình dục” tại một buổi tiệc ở Seoul, Nam Hàn, hồi Tháng Chín, theo hãng thông tấn Yonhap News hôm Thứ Hai, 20 Tháng Mười.

Bản tin, dẫn lời các giới chức Bộ Quốc Phòng Nam Hàn cho biết, họ đã triệu tập tùy viên quân sự tại tòa đại sứ Việt Nam ở Seoul đến và nói cho biết hành động của ông Chiến.

Thượng Tướng Hoàng Xuân Chiến (bìa phải) tại Đối Thoại Quốc Phòng Seoul 2025 ở Nam Hàn. (Hình: Tiền Phong)

Theo các giới chức Nam Hàn, Thượng Tướng Hoàng Xuân Chiến đã “sờ mó một cách không đúng mức” một công chức nhà nước trong lúc tham dự buổi tiệc của các giới chức quân sự cao cấp hôm 11 Tháng Chín.

Ông Chiến có mặt tại Seoul trong thời gian tham dự Đối Thoại Quốc Phòng Seoul diễn ra từ ngày 8 đến ngày 10 Tháng Chín.

Vì mức độ của sự việc, Bộ Quốc Phòng Nam Hàn triệu tập tùy viên quân sự Việt Nam tám ngày sau đó để phản đối hành động của ông Chiến.

Bộ Quốc Phòng Nam Hàn kêu gọi có các biện pháp ngăn ngừa chuyện như vậy tái diễn, trong khi phía Việt Nam được biết là “bày tỏ quyết tâm bảo đảm chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra,” vẫn theo Yonhap.

“Bộ Quốc Phòng thực hiện các biện pháp cần thiết phù hợp với những nguyên tắc sẵn có liên quan đến sự việc,” một giới chức quốc phòng Nam Hàn nói với Yonhap, và thêm rằng ông không thể đưa ra thêm chi tiết vì muốn tôn trọng quyền riêng tư theo ý muốn của nạn nhân.

Thượng Tướng Hoàng Xuân Chiến, có trình độ tiến sĩ Luật, hiện là ủy viên Trung Ương Đảng, ủy viên thường vụ Quân Ủy Trung Ương, và là một trong 10 thứ trưởng Quốc Phòng Việt Nam. Ông phụ trách công tác đối ngoại, biên giới.

Ông Chiến được bổ nhiệm giữ chức thứ trưởng từ Tháng Bảy, 2020. Trước đó, ông là tư lệnh Bộ Đội Biên Phòng Việt Nam.

Đáng lưu ý, chỉ tám ngày sau khi xảy ra vụ “sờ mó một cách không đúng mức” ở Nam Hàn, hôm 19 Tháng Chín, Thủ Tướng Phạm Minh Chính ký quyết định số 2096/QĐ-TTg “Kéo dài thời gian giữ chức vụ thứ trưởng Bộ Quốc Phòng theo quy định đối với đồng chí Thượng Tướng Hoàng Xuân Chiến.”

Đài truyền hinh Nam Hàn, SBS News đưa tin về vụ cáo buộc ông Hoàng Xuân Chiến. (Hình: Chụp qua màn hình)

Ông Chiến là người gốc Hưng Yên, cùng quê với ông Tô Lâm, tổng bí thư đảng CSVN.

Thượng Tướng Hoàng Xuân Chiến gây chú ý dư luận hồi năm 2021 khi bị Thủ Tướng Hun Sen của Cambodia nêu đích danh và đòi Việt Nam cách chức ông.

Theo Khmer Times, trong một buổi lễ có sự hiện diện của ông Vương Văn Thiên, đại sứ Trung Quốc tại Cambodia, ông Hun Sen tuyên bố một cách giận giữ và mỉa mai: “Tôi đang nói tới Tướng Hoàng Xuân Chiến. COVID-19 không hề tràn từ Cambodia sang Việt Nam như sông Mekong, ngược lại mới đúng. Tôi đã yêu cầu cách chức ông này, nhưng mà ông ấy lại được ‘cách chức’ từ hai sao lên ba sao.”

Theo VOA Tiếng Việt, hôm 10 Tháng Ba, 2020, ông Hoàng Xuân Chiến, bấy giờ còn là trung tướng, được nghe nói có chủ trì một hội nghị tăng cường công tác quản lý, bảo vệ biên giới, kiểm soát cửa khẩu và triển khai phòng, chống dịch COVID-19 trên tuyến biên giới Việt Nam-Cambodia của Bộ Tư Lệnh Bộ Đội Biên Phòng Việt Nam tại Sài Gòn.

Tại hội nghị, ông Chiến yêu cầu lực lượng biên phòng các tỉnh có biên giới giáp Cambodia tăng cường kiểm soát các cửa khẩu giữa lúc Việt Nam trải qua đợt bùng phát COVID-19 bắt nguồn từ các ca nhiễm do người nhập cảnh trái phép qua đường biên giới với các tỉnh miền Trung.

Quyết định của Thủ Tướng Phạm Minh Chính hôm 19 Tháng Chín, “kéo dài thời gian giữ chức vụ thứ trưởng Bộ Quốc Phòng đối với Thượng Tướng Hoàng Xuân Chiến. (Hình: Chụp từ trang web chính phủ Việt Nam)

Đây là vụ bê bối mới nhất về “quấy nhiễu tình dục” liên quan đến các giới chức của nhà cầm quyền Việt Nam mỗi lần công du ở ngoại quốc.

Gần đây nhất, Tháng Mười Một, 2024, truyền thông và dư luận Chile phản ứng mạnh mẽ sau vụ một cận vệ của Chủ Tịch Nước Lương Cường bị cáo buộc lạm dụng tình dục trong khi phái đoàn Việt Nam có chuyến thăm chính thức Chile từ ngày 9 đến 12 Tháng Mười Một.

Báo chí Chile sau đó tường thuật từ tòa án cho biết, viên cận vệ này tên là Thái Đắc Tuấn, 59 tuổi, là đội trưởng đội bảo vệ chuyến công du của Chủ Tịch Nước Lương Cường.

Một tháng sau đó và ở một quốc gia khác là New Zealand. Cảnh sát New Zealand hôm 12 Tháng Mười Hai, 2024, cho biết “hai nghi phạm là quan chức Việt Nam” bị cáo buộc đã xâm hại tình dục hai nữ phục vụ bàn tại một nhà hàng Việt Nam mang tên SAIGON Restaurant & Bar on Willis ở thủ đô Wellington, hồi Tháng Ba, 2024.

So sánh cột mốc thời gian, vụ này xảy ra nhiều phần trong chuyến đi tiền trạm chuẩn bị cho chuyến thăm chính thức của Thủ Tướng Phạm Minh Chính đến New Zealand từ ngày 10 đến 11 Tháng Ba, 2024.

Cả hai vụ này, báo chí tại Việt Nam do đảng Cộng Sản quản lý đã không đăng một tin nào. (Đ.D.) [kn]