Kỹ Thuật cuối tuần: Máy bay siêu vượt thanh MD 19 của Trung Cộng mở ra kỷ nguyên mới cho drone

Tổng hợp báo chí Hoa Kỳ

MD-19  của Tàu có thể trở thành nền tảng thử nghiệm cho một loạt các cải tiến công nghệ mới vào thời điểm mà người Mỹ vẫn đang vật lộn để đưa ngay cả những vũ khí siêu thanh thô sơ vào kho vũ khí của mình.

Là một loại máy bay không người lái nhỏ gọn có khả năng đạt tốc độ trên Mach 7, MD-19 đại diện cho một cột mốc quan trọng trong lãnh vực bay siêu thanh, và đã tạo nên làn sóng chấn động lan tỏa khắp trên toàn cầu, đặc biệt là khiến Lầu Năm Góc phải báo động. Hệ thống này có thể bay với tốc độ vượt quá 3.800 dặm một giờ, trong khi vẫn duy trì khả năng giảm tốc, chuyển sang tốc độ dưới tốc độ của âm thanh và hạ cánh theo chiều ngang trên các đường băng tiêu chuẩn.

Máy bay không người lái siêu thanh MD-19 mới của Trung Quốc là cơn ác mộng đối với phòng không Hoa Kỳ

China’s New MD-19 Hypersonic Drone is a Nightmare for U.S. Air Defense

MD-19 là một thành tựu kỹ thuật quan trọng, vì việc chuyển đổi từ bay siêu thanh sang bay dưới thanh đòi hỏi hệ thống điều khiển bay tiên tiến, khí động học thích ứng và vật liệu có khả năng chịu được ứng suất nhiệt và cơ học khắc nghiệt. 

Thân máy bay không người lái hình nêm, cánh delta và đuôi thẳng đứng nghiêng giúp giảm lực cản và tăng cường độ ổn định ở tốc độ cao, trong khi động cơ của nó (có lẽ là động cơ tên lửa) cung cấp lực đẩy cần thiết để di chuyển ở tốc độ siêu thanh. Tất nhiên, một động cơ như vậy có thể hạn chế độ bền của máy bay không người lái, đặc biệt là khi so sánh với các phương án thay thế chạy bằng scramjet của các đối thủ siêu thanh khác

Trong quá trình chế tạo máy bay không người lái, Viện Cơ học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc và Viện Nghiên cứu Khí động học Quảng Đông – hai đơn vị phát triển chính – đã dựa trên nhiều năm nghiên cứu, bao gồm các cuộc thử nghiệm đường hầm gió siêu thanh JF-12 , một trong những cơ sở tiên tiến nhất thế giới để mô phỏng chuyến bay tốc độ cao. 

Một tính năng chính của MD-19 là tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI) tiên tiến mô phỏng các quá trình ra quyết định tự nhiên. Tính năng tự động do AI điều khiển này cho phép máy bay không người lái điều hướng các đường bay phức tạp, khiến nó trở thành một công cụ thay đổi cuộc chơi tiềm năng trong các hệ thống không người lái. 

Với một máy bay không người lái siêu thanh trong kho vũ khí của họ, và tiềm năng sản xuất hàng loạt các hệ thống này như xúc xích, Trung Quốc đã giành được một chiến thắng thực sự trước Hoa Kỳ. MD-19 có thể được trang bị đầu đạn thông thường, nhưng có khả năng mang đầu đạn hạt nhân—hoặc ít nhất là có thể dễ dàng được chế tạo để có khả năng mang đầu đạn hạt nhân) 

Khả năng di chuyển với tốc độ Mach 7 trên quãng đường dài, cùng với khả năng cơ động linh hoạt – được khuếch đại bởi tuyên bố rằng nó có hệ thống AI tiên tiến để điều khiển – sẽ chứng tỏ là thách thức đối với hệ thống phòng không hiện tại của Hoa Kỳ. 

Máy bay không người lái siêu thanh là mối đe dọa thực sự đối với nước Mỹ 

Trung Cộng đã tuyên truyền và khoe khoang khi nói đến năng lực công nghệ của họ, và không phải tất cả đều đáng tin. Tuy nhiên, về khả năng quân sự, họ vẫn không nên bị đánh giá thấp.

Trong các lĩnh vực như công nghệ siêu thanh, trí tuệ nhân tạo và máy bay không người lái, Bắc Kinh đã chứng tỏ mình là một đối thủ đáng gờm. 

Nếu chiến tranh nổ ra, máy bay không người lái siêu thanh MD-19 của Trung Quốc sẽ là vấn đề đáng kể đối với lực lượng Hoa Kỳ—và thậm chí có thể là mối đe dọa đối với đất nước Hoa Kỳ.

VƯỢT QUÁ TƯỞNG TƯỢNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 

“Đến mà ăn!”.

“Điểm phân biệt lớn nhất về sự toàn năng của Thiên Chúa, là khi nghĩ về nó, trí tưởng tượng của con người triệt tiêu! Ngài luôn nhiều hơn những gì có thể tưởng tượng, luôn vượt quá tưởng tượng!” – Pascal.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay chứng tỏ rằng, với Chúa Phục Sinh, mọi sự có thể bắt đầu lại, có thể phục hồi – kể cả những đổ vỡ, phản bội. Ngài có khả năng làm mới lại mọi sự, và những gì Ngài làm sẽ ‘vượt quá tưởng tượng!’.

Với tâm trạng thất bại, người ta thường có xu hướng trở lại nếp cũ hầu khôi phục sự tự tin và giá trị bản thân. Với Phêrô, nếp cũ là đánh cá; vì vậy ông ra biển, rủ các bạn cùng đi. Là những người cảm thấy cũng có lỗi với Thầy nên họ dễ dàng nhập cuộc với Phêrô. Vậy mà nhóm bạn chài đáng thương ấy thật may mắn, Thầy Giêsu đi tìm họ, Ngài sẽ băng bó và chữa lành những trái tim thương tổn của họ, dẫu họ không nhận ra Thầy.

Chúa Giêsu hiện ra – nơi lần đầu tiên Ngài gọi họ – bảo họ buông chài ‘bên phải’ mạn thuyền và họ bắt được rất nhiều cá. Mẻ cá mang tính biểu tượng cao! Biểu tượng trọng tâm là Chúa Phục Sinh đang ở với họ giữa những thất bại, ‘nếp cũ’. Và nếu họ tự nỗ lực để làm điều này, họ sẽ trắng tay; nhưng làm theo ‘cách mới’, tức là theo lệnh, theo cách, ‘trong thời gian của Ngài’, nỗ lực của họ sẽ mang lại thành quả ‘vượt quá tưởng tượng!’.

Chưa hết, “Bước lên bờ, các ông thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa”. Với Phêrô, lại là một biểu tượng! Ánh lửa của đêm nào sống lại trong ông, lửa phản bội, lửa chối Thầy; nhưng nay, lửa xót thương, lửa tha thứ! Trong đêm đó, ông đã nói, “Tôi không biết người ấy!”; nhưng giờ đây, cũng bên bếp lửa hồng, ‘Người Ấy’ lại nói “Đến mà ăn!”. Quá đỗi thâm trầm, ‘vượt quá tưởng tượng’; bởi lẽ, nó gợi lên những lời của đêm Tiệc Ly, lời từ các phép lạ bánh cá hoá nhiều, lời của những bữa ăn thắm tình Thầy, đượm tình trò.

Với Chúa Phục Sinh, mọi sự có thể bắt đầu lại, có thể phục hồi – kể cả những đổ vỡ, phản bội. Trước thượng hội đồng, Phêrô – người chối Thầy – chẳng hề sợ hãi, “Đấng quý vị đã đóng đinh vào thập giá, Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị. Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường!” – bài đọc một và Thánh Vịnh đáp ca. 

Anh chị em,

“Đến mà ăn!”. “Sự hiện diện của Chúa Phục Sinh biến đổi mọi sự: bóng tối trở thành ánh sáng, công việc phù phiếm trổ sinh hoa trái và đầy hứa hẹn, cảm giác mệt mỏi và bị bỏ rơi nhường chỗ cho một động lực mới và niềm tin chắc rằng, Chúa ở cùng chúng ta!”; “Khi lưới của chúng ta trống rỗng trong cuộc sống, thì đó không phải là lúc để cảm thấy thương hại cho bản thân, để quên đi mọi thứ, để quay lại với những trò tiêu khiển cũ. Nhưng đã đến lúc bắt đầu lại với Chúa Giêsu, đã đến lúc tìm lại lòng can đảm để bắt đầu lại, đã đến lúc ra khơi một lần nữa với Ngài!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con hiểu rằng, ân sủng phục sinh không chỉ kết thúc với việc con được tha thứ; hồi kết của nó ‘vượt quá tưởng tượng’ – con được biến đổi!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************

Thứ Sáu trong tuần Bát Nhật Phục Sinh

Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho môn đệ ; rồi cá, Người cũng làm như vậy.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.  Ga 21,1-14

1 Khi ấy, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. 2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông : “Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp : “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.

4 Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. 5 Người nói với các ông : “Này các chú, không có gì ăn ư ?” Các ông trả lời : “Thưa không.” 6 Người bảo các ông : “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7 Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô : “Chúa đó !” Vừa nghe nói “Chúa đó !”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

9 Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. 10 Đức Giê-su bảo các ông : “Đem ít cá mới bắt được tới đây !” 11 Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12 Đức Giê-su nói : “Anh em đến mà ăn !” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai ?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13 Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông ; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14 Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.


 

TỐT NHẤT KHÔNG BẰNG PHÙ HỢP

Có những chiếc áo rất đẹp, nhưng mặc không vừa.

Có những đôi giày rất đẹp, nhưng khiến chân đau.

Có những giấc mơ rất đẹp, nhưng không thực tế.

Có những con người rất đẹp, nhưng không bao giờ thuộc về mình.

Trong tình cảm, không có xứng hay không xứng, chỉ có yêu hay không yêu.

Trong nhân sinh, không có dở nhất hoặc tốt nhất, chỉ có những lựa chọn vừa vặn và phù hợp với mình.

Vốn dĩ là của mình, không tranh không giành vẫn sẽ là của mình.

Vốn dĩ không phải của mình, trầy da tróc vẩy giành giật cũng chỉ nhận về một nắm hư không.

Lúc nào nên buông thì hãy buông, giữ lại cho bản thân một chút tôn nghiêm cuối cùng.

Buông xuống, mới có thể cầm lên.

Chấp nhận, mới có thể an ổn.

Mở lòng, mới có thể hạnh phúc.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu

TÌM LẠI NIỀM TIN ĐÃ MẤT – TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

Cả ba năm A, B, C của Chúa nhật thứ hai Phục sinh đều có chung một bài Phúc âm.   Đó là trình thuật của tác giả Gio-an về việc Chúa Giê-su phục sinh hiện đến với các tông đồ, lần thứ nhất không có Tô-ma, và lần thứ hai, có Tô-ma ở đó (x. Ga 20,19-31).  Biến cố thập giá đã gây cho ông Tô-ma một cú sốc quá lớn.  Trước đó, khi Chúa Giê-su quyết định đến Bê-ta-ni-a để làm cho ông La-gia-rô đã chết được sống lại, bất chấp những nguy hiểm đe dọa, ông Tô-ma đã khẳng khái nói với các tông đồ khác rằng: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11,16).  Điều này chứng tỏ ông là một người bạo dạn cương quyết trong việc theo Thầy mình.

 Trước biến cố thập giá, Tô-ma là người đã mất niềm tin.  Khi gặp Đấng Phục sinh bằng xương bằng thịt, ông tìm lại được niềm tin đã mất.  Trước cuộc thương khó của Thầy mình, Tô-ma cũng như các tông đồ khác đã cùng ăn uống với Người, nhưng bây giờ để tin, ông cần bằng chứng.  Cũng như biết bao người khác của mọi thời đại, Tô-ma cần có chứng cớ xác thực, làm nền tảng cho niềm tin của mình.  Ông đã thách thức: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”  Điều kiện của Tô-ma đưa ra cũng hợp lý.  Bởi lẽ để gửi gắm niềm tin nơi một người nào đó, người ta cần có chứng cớ cụ thể.  Ba động từ được ông dùng trong câu trích dẫn trên là thấy, xỏ ngón tay, đặt bàn tay.  Ông muốn khẳng định: để tin thì phải mắt thấy tai nghe và thân xác phải chạm tới.  Tuy vậy, tám ngày sau đó, khi Chúa Giê-su phục sinh hiện ra và chấp nhận những điều kiện của Tô-ma, thì ông lại “đứng hình” khiếp vía.  Ông không còn dám xỏ ngón tay và đặt bàn tay vào các vết thương của Người nữa.  Cuộc gặp gỡ Chúa Giê-su Phục sinh bằng xương bằng thịt đã làm cho Tô-ma hoàn toàn bị thuyết phục.  Điều đặc biệt ở đây là Tô-ma tuyên xưng đức tin bằng một công thức chưa hề có trước đó trong Tin Mừng thánh Gio-an: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”  Qua lời tuyên xưng này, ông Tô-ma đã diễn tả định nghĩa tín lý cốt lõi sau này của Ki-tô giáo.  Đối với Tô-ma và các tông đồ, từ nay Đức Giê-su không còn phải là Chúa, mà là Thiên Chúa, tức là Đấng quyền năng đã tỏ mình ra trong lịch sử của dân tộc Ít-ra-en.  Quyền năng ấy thể hiện ở việc cửa nhà đóng kín mà Người vẫn vào được.  Cũng vậy, dù các ông nhìn thấy Chúa bằng con mắt thể lý, nhưng vẫn chưa nhận ra Người vì chưa được Người soi sáng.  Đấng Phục sinh không còn bị giới hạn bởi thời gian và không gian.  Người là Thiên Chúa thật.  Niềm tin đã mất không chỉ được thấy lại, mà còn hoàn hảo và trọn vẹn sâu sắc hơn nhiều.

 “Phúc thay những người không thấy mà tin!”  Đây không phải chỉ là lời dành cho Tô-ma, mà còn là thông điệp cho mọi thế hệ.  Cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi lúc đó đâu có nhìn thấy Đức Giê-su bằng xương bằng thịt, vậy mà số tín hữu càng ngày càng đông.  Niềm xác tín vào sự hiện diện của Đấng Phục sinh đã giúp ông Phê-rô có thể chữa bệnh, thậm chí cái bóng của ông phủ lên bệnh nhân, cũng làm cho họ được chữa lành khỏi những bệnh hiểm nghèo.  Cũng chính từ niềm tin Chúa Giê-su là Thiên Chúa mà các Ki-tô hữu hội họp tại hành lang Sa-lô-môn, tức là một phần của Đền thờ Giê-ru-sa-lem, là nơi thờ phượng Thiên Chúa của người Do Thái để ôn lại giáo huấn của Người.  Từ nay, Thiên Chúa của các Tổ phụ cũng là Thiên Chúa của các Ki-tô hữu (Bài đọc II).

 Hai mươi thế kỷ sau sự kiện Phục sinh, hôm nay Giáo Hội vẫn tiếp tục rao giảng Đấng Phục sinh và khẳng định: Người đang hiện diện giữa chúng ta!  Chúa Ki-tô đang sống!  Các tín hữu hôm nay và chúng ta đang được Đấng Phục sinh chúc phúc, vì chúng ta là những người “tuy không nhìn thấy mà vẫn vững niềm tin.”

 Trong Bài đọc II, tông đồ Gio-an chia sẻ với chúng ta hạnh phúc thiên đàng, là tương lai và lý tưởng của Ki-tô hữu.  Đó là hình ảnh Con Người trong vinh quang thiên quốc.  Phúc cho những ai vững niềm xác tín vào sự hiện diện của Đấng Hằng Sống, người đã chiến thắng tử thần và âm phủ.  Người đang được tôn vinh nơi thiên quốc và đồng thời cũng đang hiện diện giữa chúng ta. 

Hôm nay cũng là Chúa nhật của lòng Chúa Thương Xót, do sáng kiến của Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô từ năm 2000.  Mục đích của ngày này giúp chúng ta cảm nhận lòng thương xót của Chúa Cha thể hiện qua cuộc đời Chúa Giê-su mà đỉnh cao là biến cố thập giá, từ đó chúng ta sẽ thực thi lòng thương xót đối với tha nhân.  Nếu Chúa Giê-su chúc phúc cho những người tin vào Chúa, thì Người cũng chúc phúc cho những ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa, Đấng Tối cao (x.Mt 5,7).  Thế giới hôm nay rất cần đến lòng thương xót, không chỉ là từ nhu cầu vật chất, mà còn thiếu tình thương, tình liên đới cảm thông và giúp nhau hướng về sự thiện.  Mỗi chúng ta cũng cần đến lòng thương xót của Chúa, như lá chắn che chở chúng ta giữa những xô đẩy của dòng đời.  Lạy Chúa Giê-su, con tín thác vào Chúa!

 TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim


 

“Người tin thì không cần giải thích, người không tin thì giải thích cũng vô ích!” (Thánh Bernadette, Lộ Đức) – Cha Vương

Alleluia, Alleluia! Xin Chúa đồng hành với bạn luôn mãi nhé.

Cha Vương

Thứ 5, BNPS: 24/4/2025

TIN MỪNG: Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24:40-41)

SUY NIỆM: Thánh Bernadette, Lộ Đức nói: “Người tin thì không cần giải thích, người không tin thì giải thích cũng vô ích!” (Thánh Bernadette, Lộ Đức) Một lối giải thích về đức tin hữu hiệu nhất là hãy sống đức tin. Chúa Giêsu sau khi phục sinh dường như vẫn luôn hiện diện đồng hành thật gần gũi với các môn đệ và với những người thân quen để nâng đỡ, cảm thông và khích lệ họ sống và làm chứng cho Chúa Phục sinh. Có khi Ngài đến với họ như một người làm vườn để thăm hỏi an ủi: “Này bà, sao bà khóc?” (Ga 20:13). Bà tìm ai? Có khi ngài hiện diện như người đồng hành với hai môn đệ đi làng Emmau. “Các ông vừa đi vừa nói những chuyện gì vậy?” (Lc 24:17). Và rồi qua sự gần gũi ấy, Chúa Giêsu từng bước dùng Kinh Thánh để soi dẫn cho họ hiểu về những gì đang xảy ra trong mầu nhiệm ơn cứu độ: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Vậy thì, Chúa Phục sinh có gần gũi hoặc đang hành động trong cuộc đời của bạn hay không?

LẮNG NGHE: Anh em là dân riêng của THIÊN CHÚA, hãy loan truyền những công trình vĩ đại của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền. (1 Pr 2:9)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, trong Chúa sự sự sống là tiếng nói cuối cùng trên sự chết, xin tăng thêm niềm tin cho con.

THỰC HÀNH: Đọc một Kinh Lạy Cha, 3 Kinh Kính Mừng và một Kinh Vực Sâu cầu nguyện cho Linh Hồn Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô.

From: Do Dzung

***************************

Chúa Đồng Hành Cùng Con (Sáng tác: Đại Tài) – Th. Nguyễn Trí

Ai sẽ được bầu làm Giáo Hoàng trong mật nghị hồng y sắp tới

Tổng hợp báo chí  Mật nghị của các hồng y sắp diễn ra sẽ không chỉ đơn giản là chọn một người kế nhiệm ngai tòa, nó sẽ là sự chọn lựa về một hướng đi của con thuyền Giáo Hội. Liệu Giáo hội sẽ tăng lên gấp đôi sức mạnh của sự tiếp cận mục vụ giống như những gì Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã thực hiện, hay xoay trục về nền tảng vững chắc và truyền thống của giáo lý Công Giáo? Liệu mật nghị  sẽ nhìn vào Nam Bán Cầu hay Châu Âu hoặc thậm chí Bắc Mỹ để tìm vị lãnh đạo? Mỗi hồng y từ các đại lục này đều đại diện cho một tầm nhìn khác nhau về tương lai của Giáo Hội Công giáo. Bất kể ai được cộng nhận  qua làn khói trắng ở điện Sistine, sự lựa chọn sẽ có ý nghĩa sâu sắc không chỉ đối với người Công giáo, mà còn đối với trường quốc tế.

Hồng Y nào sẽ được chọn trong Mật Nghị?

Theo đài TV CBS

Đức Hồng y Pietro Parolin, Bộ trưởng Ngoại giao Vatican 

Đức Hồng y Pietro Parolin, 70 tuổi, là người đứng thứ hai tại Vatican và là một nhà ngoại giao lâu năm luôn vượt lên trên mọi biến động trong triều đại giáo hoàng của mình. 

Quốc vụ khanh Tòa thánh Vatican Hồng y Pietro Parolin
Bộ trưởng Ngoại giao Vatican, Hồng y Pietro Parolin chủ trì Thánh lễ kỷ niệm 20 năm ngày mất của Đức Giáo hoàng Thánh Gioan Phaolô II tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào ngày 2 tháng 4 năm 2025,Hình ảnh Simone Risoluti / Getty

Ông được coi là người ôn hòa, nếu được bầu, có thể hàn gắn rạn nứt bên trong nhà thờ. Ông cũng được coi là người tiến bộ với tầm nhìn toàn cầu. 

Đức Hồng Y Pierbattista Pizzaballa, Thượng Phụ La Tinh của Jerusalem 

Đức Hồng y Pierbattista Pizzaballa, 60 tuổi, là ứng cử viên mục vụ đã lên tiếng trong cuộc chiến tranh Israel-Hamas và đã đến thăm Gaza trong suốt cuộc xung đột. 

JORDAN-CƠ ĐỐC GIÁO HỘI
Đức Thượng phụ Latinh của Jerusalem Pierbattista Pizzaballa, bên phải, đang có bài phát biểu trong khi Bộ trưởng Ngoại giao Vatican, Hồng y Pietro Parolin chứng kiến ​​lễ cung hiến Nhà thờ Chúa Giêsu chịu phép rửa tại Al-Maghtas ở Jordan vào ngày 10 tháng 1 năm 2025.KHALIL MAZRAAWI/AFP qua Getty Images

Ông là người ủng hộ công lý xã hội và coi mình là người phục vụ nhân dân. Ông giống với Francis về mối quan tâm đối với người di cư, đối thoại liên tôn và sự khinh miệt của ông đối với chủ nghĩa giáo sĩ. 

Đức Hồng Y Luis Tagle của Philippines

Đức Hồng y Luis Tagle, 67 tuổi, phó tổng trưởng Bộ Truyền giáo các Dân tộc, được mệnh danh là “Đức Phanxicô châu Á” vì tinh thần truyền giáo cũng như sự chú trọng chăm sóc người nghèo và chào đón những người LGBTQ và những người Công giáo đã ly hôn và tái hôn.

Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle
Đức Hồng y Luis Antonio Tagle tham dự thánh lễ trọng thể về Cuộc Thương Khó của Chúa vào Thứ Sáu Tuần Thánh tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào ngày 18 tháng 4 năm 2025 tại Thành phố Vatican./ Hình ảnh Getty

Ông là cựu Tổng giám mục Manila, Philippines, một trong những quốc gia Công giáo nhất ở lục địa Châu Á, và đã học tập tại Hoa Kỳ trong bảy năm. Việc ông được bầu làm Giáo hoàng sẽ báo hiệu sự tiếp nối triều đại Giáo hoàng của Francis. 

Đức Hồng Y Matteo Zuppi, Tổng Giám mục Bologna, Ý 

Đức Hồng y Matteo Zuppi, 69 tuổi, là chủ tịch hội đồng giám mục Ý. Ông được biết đến như một “linh mục đường phố” và nhà truyền giáo và muốn có một nhà thờ lắng nghe tín đồ và sẵn sàng hiện đại hóa. Zuppi bao gồm cả các cặp đôi đồng giới, cũng như những người theo các tôn giáo khác nhau.

Đức Hồng Y Matteo Maria Zupp
Đức Hồng y Matteo Maria Zuppi tham dự Thánh lễ khai mạc Thượng hội đồng giám mục do Đức Giáo hoàng Phanxicô chủ trì tại Quảng trường Thánh Phêrô vào ngày 2 tháng 10 năm 2024./ Hình ảnh Getty

Đức Phanxicô đã chọn Zuppi làm sứ giả của mình tới Nga và Ukraine, cũng như tới Bờ Tây và Bắc Kinh, để thúc đẩy hòa bình.

 

Đức Hồng Y Peter Erdo, Tổng Giám Mục Budapest, Hungary

Hồng y Peter Erdo, một luật sư giáo luật 72 tuổi, là nhà lãnh đạo Công giáo cấp cao nhất ở một quốc gia có 80% dân số là người theo đạo Thiên chúa. Ông được biết đến với sự ủng hộ của mình đối với việc giáo hoàng tiếp cận với những người theo đạo Chính thống giáo.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô chào đón Đức Hồng Y Peter Erdo, Tổng Giám Mục Budapest

 

Đức Giáo hoàng Phanxicô chào đón Tổng giám mục Budapest, Hồng y Peter Erdo, vào ngày 28 tháng 4 năm 2023, khi ngài đến thăm Budapest, Hungary. / Hình ảnh Getty

Erdo cũng thuộc phe bảo thủ của sự chia rẽ văn hóa châu Âu. Về vấn đề di cư, một vấn đề quan trọng đối với Hungary, ông đã truyền đạt một cách tiếp cận cân bằng, công nhận quyền di cư nhưng cũng coi trọng việc đảm bảo ổn định chính trị. Erdo được coi là người theo chủ nghĩa truyền thống nhưng cũng được những người theo chủ nghĩa tự do tôn trọng, điều này có thể khiến ông trở thành một thế lực thống nhất trong nhà thờ. 

Đức Hồng Y Fridolin Ambongo, tổng giám mục Kinshasa, Cộng hòa Dân chủ Congo 

Đức Hồng y Fridolin Ambongo, chủ tịch Hội đồng Giám mục Châu Phi và Madagascar, đã thu hút sự chú ý của toàn cầu vì các giám mục hàng đầu Châu Phi đã nhất trí bác bỏ “Fiducia Supplicans”, một tuyên bố mà Vatican ban hành năm 2023, trong đó có hướng dẫn về việc ban phước cho những người trong mối quan hệ đồng giới.

Đức Hồng Y Fridolin Ambongo Besungu

 

Đức Hồng y Fridolin Ambongo Besungu sau buổi lễ bổ nhiệm của Đức Giáo hoàng Phanxicô vào ngày 5 tháng 10 năm 2019 tại VaticanTIZIANA FABI / AFP qua Getty Images

Ở tuổi 65, ông được biết đến là người ủng hộ chính thống giáo và bảo vệ chế độ độc thân của linh mục và giáo lý đạo đức của Giáo hội. Ông cũng được biết đến là người thúc đẩy công lý xã hội và là người bảo vệ người nghèo và người không có tiếng nói, và thẳng thắn chỉ trích chính phủ Congo. 

Đức Hồng Y Mario Grech, Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục

Hồng y Mario Grech, 68 tuổi, là một luật sư giáo luật có ảnh hưởng lớn đến cách điều hành các hội đồng trong nhà thờ. Những người ủng hộ đã ca ngợi ông vì đã dẫn đầu trong việc thực hiện một cách tiếp cận mang tính tham vấn và toàn diện hơn đối với việc quản lý nhà thờ. 

Đức Hồng Y Mario Grech

 

Đức Hồng y Mario Grech, tổng thư ký của Thượng hội đồng giám mục, tham dự Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào ngày 29 tháng 10 năm 2023.TIZIANA FABI / AFP qua Getty Images

Grech đến từ Malta, một trong những quốc gia nhỏ nhất thế giới. 

Quân Dân Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử qua Hiệp định Paris 1973

Austin D Nguyen

Quân Dân Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử qua Hiệp định Paris 1973 :

“Trong khi Mỹ cắt giảm viện trợ cho miền Nam từ 2 tỉ 300 triệu xuống 964 triệu và cuối cùng bác bỏ luôn ngân khoản này thì Nga Xô tăng mức viện trợ quân sự năm 1974 cho Bắc Việt lên gấp đôi là 1 tỉ 700 triệu. Trung Quốc cũng gửi qua Bắc Việt 500 ngàn súng cá nhân với 90 triệu đạn, 21 ngàn súng cộng đồng với 4 triệu 500 ngàn đạn và ngót 3 triệu quân trang, quân phục… Trong khi quân đội Mỹ cùng các quốc gia đồng minh rút khỏi miền Nam thì tàu hàng Nga Xô chở đầy ắp chiến cụ nối nhau cập bến cảng Hải Phòng.

Cuối tháng 2-1973, tức vỏn vẹn 30 ngày sau hiệp định ngưng bắn, phi cơ quan sát đã ghi nhận 175 xe vận tải và 223 chiến xa Bắc Việt băng qua khu phi quân sự vượt đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập miền Nam. Cuộc xâm nhập không còn lén lút vì quân đội Mỹ đã rời cuộc chiến và hiệp định ngưng bắn cũng loại bỏ hoàn toàn khả năng ngăn chặn bằng không quân của quân đội Miền Nam. 

Cuối tháng 4-1975, tin ghi nhận cho biết đã có 18 ngàn lượt xe vận tải công khai chạy trên đường mòn Hồ Chí Minh chở vào Nam gần 80 ngàn quân cùng hàng trăm ngàn tấn chiến cụ, các loại đại pháo, hoả tiễn tối tân của Nga Xô và 650 xe tăng…”

(Pierre Darcourt, Dương Hiếu Nghĩa dịch)

 


 

Phiên bản khác của “Thương Tiếc – Uyên Nguyên

Tran Triet

Uyên Nguyên

Trong một không gian thinh lặng, “Thương Tiếc” hiện ra không như một hình khối bất động, mà như một tiếng thở dài đã hóa đá — tiếng thở dài của một người lính đã đi qua chiến tranh, không bằng vẻ kiêu hùng mà với ánh mắt nhìn xa xăm, tâm tư trĩu nặng của một thời loạn không thể nguôi quên.

Tác phẩm của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu vừa là biểu tượng của người lính – vừa là hiện thân của một thời đại, một khúc ngoặt định mệnh trong lịch sử dân tộc. Người lính không đứng trong tư thế chiến đấu, không hô vang khẩu hiệu mà ngồi lặng trên một phiến đá, tay đặt hờ lên vũ khí như đang vấn lại một câu hỏi không ai trả lời: “Chúng ta mất gì, và còn lại gì?”

Từng đường nét trên gương mặt như chạm từ ký ức – chứa đựng một nỗi buồn kiêu hãnh. Chiếc nón sắt không còn là vật che chở mà trở thành một bóng mờ đè nặng ký ức. Bàn tay rắn chắc không còn siết chặt vũ khí, mà đang buông thõng giữa hai đầu gối, như thể đang ôm lấy một nỗi mất mát không tên.

Đây chỉ là một phiên bản khác của “Thương Tiếc”. Còn bức tượng nguyên thủy đã bị lật đổ vào những ngày tháng Tư, 1975, theo định mệnh quê hương và số phận của một thành phố đã mất tên. Tác giả của nó – người nghệ sĩ từng tạc nỗi đau vào đá – đã gánh lấy tù tội và giờ đây, đang thở những hơi dốc cuối đời trên giường bệnh. Với ông, có lẽ lúc này không còn gì để sợ mất. Nhưng cái chúng ta còn giữ được là gì? Vẫn còn là một câu hỏi. Phải chăng, mỗi chúng ta là một phiên bản khác của “Thương Tiếc” – sau 50 năm im tiếng súng, chỉ còn tiếng khóc thầm.

Không hô hào, không bi lụy, không lên án cũng không cầu xin, “Thương Tiếc” là một lời tưởng niệm trong im lặng. Im lặng để lắng nghe tiếng bước chân đồng đội không về. Im lặng để nhận diện từng khuôn mặt đã rơi vào vô danh. Im lặng để trái tim người xem tự thốt lên những câu hỏi về giá trị của sự hy sinh, về chiều sâu của khổ đau và về cái đẹp đau đớn của sự thua cuộc mà vẫn giữ nhân tính.

Trong khối đá rắn đó, Nguyễn Thanh Thu đã gửi vào không chỉ kỹ thuật điêu khắc, mà cả linh hồn của một thế hệ. Một linh hồn không muốn lãng quên, cũng không dám quên. Một linh hồn cúi đầu trước bi thương, nhưng ngẩng lên bằng nhân phẩm.

Bức tượng này, vì thế, không để chiêm ngưỡng, mà dành để chúng ta cúi đầu!

(Khúc chiêu niệm Tháng Tư – 22.4. 2025)

https://uyennguyen.net/…/uyen-nguyen-phien-ban-tiec…/


 

ĐƠN SƠ ĐẾN TẬN CÙNG – MỘT CÁI CHẾT NÓI LÊN CẢ MỘT CUỘC ĐỜI-Lm. Anmai, CSsR

Thao Teresa

Lm. Anmai, CSsR

Không hương hoa.

Không đèn nến.

Không di ảnh lộng lẫy.

Linh cữu Đức Thánh Cha Phanxicô lặng lẽ nằm đó – giữa đền thờ Thánh Phêrô uy nghi, chỉ là một cỗ quan tài gỗ trơn, mộc mạc, không một hoa văn, không một điểm nhấn xa hoa.

Ngài đến với Hội Thánh bằng đôi chân trần của Tin Mừng.

Ngài sống giữa trần gian với trái tim của một người cha nghèo – gần gũi, đơn sơ, không ồn ào, không phô trương.

Và rồi, Ngài ra đi – cũng nhẹ nhàng như thế.

Đám tang của một Giáo Hoàng – người đứng đầu Giáo Hội hoàn vũ, nhưng lại được tổ chức giản dị đến ngỡ ngàng. Không vì thiếu tôn kính. Mà vì sự tôn kính cao cả nhất chính là tôn trọng nguyện ước cuối cùng của một con người – được trở về với Chúa trong tinh thần khó nghèo và khiêm hạ.

Người ta biện hộ cho việc có hoa, có di ảnh, có nến sáng chói lọi vì “đó là phong tục”, là “để tỏ lòng hiếu thảo”, là “cho trang trọng”. Nhưng phong tục nào cũng có thể đổi thay nếu chân lý nói lên điều gì đó đẹp hơn, sâu sắc hơn, đúng hơn với tinh thần Tin Mừng.

Chúng ta không phủ nhận nét đẹp văn hóa của từng vùng miền. Nhưng có những điều giản dị đến mức ta phải dừng lại để tự hỏi: có thật cần thiết không khi phải tổ chức một đám tang quá hoành tráng cho một người đã chọn sống cả đời đơn sơ?

Sự đơn sơ nơi Đức Thánh Cha Phanxicô không chỉ là phong cách – mà là chứng tá.

Là một tiếng nói mạnh mẽ giữa thời đại chuộng hình thức.

Là một cái tát nhẹ vào não trạng khoác áo đạo đức mà quên mất căn cốt Tin Mừng.

Là một bài học sống động cho tất cả chúng ta – những người đang sống trong thế giới quá nhiều ồn ào, quá nhiều “bề ngoài”.

Ngài từng nói: “Giáo Hội phải nghèo và vì người nghèo.”

Và rồi chính Ngài đã làm nghèo chính mình để Tin Mừng được sáng lên.

Không cần lời ca ngợi ồn ào.

Không cần những thước phim lộng lẫy.

Chỉ cần một cỗ quan tài mộc, nằm lặng lẽ như một lời tuyên xưng:

Tôi đã sống cho Chúa.

Tôi đã sống cho con người.

Giờ đây tôi về với Ngài, trong sự nhẹ nhàng của người hành hương.

Có những người thích lễ tang rộn ràng, nhiều người đưa tiễn, nhiều vòng hoa, nhiều nến, nhiều ảnh.

Nhưng cũng có những người chọn cho mình cái chết thầm lặng – bởi cuộc đời họ đã quá đủ tiếng nói bằng hành động.

Không cần thêm gì nữa.

Sự lặng thinh ấy – mới chính là âm vang mạnh mẽ nhất.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã dạy chúng ta một bài học bằng chính cái chết của mình:

Sự vĩ đại không cần tô vẽ.

Sự thánh thiện không cần chứng minh.

Và lòng tin – không cần phô trương.

Giáo Hội, cũng như từng người tín hữu, được mời gọi nhìn lại:

Chúng ta có đang sống quá nhiều cho hình thức?

Chúng ta có đang đánh đổi bản chất Tin Mừng để lấy sự hoành tráng bề ngoài?

Và rồi, đến khi lìa đời, ta sẽ để lại gì? Một di ảnh to? Một vòng hoa đắt tiền? Hay một trái tim từng sống thật, yêu thật, và chết đi trong bình an vì đã sống đúng?

Đơn sơ không có nghĩa là sơ sài.

Mà là chọn sống có chiều sâu – để đến cuối cùng, không còn gì để tiếc nuối.

Bởi vì, sống đẹp nhất không phải là được người ta nhớ lâu, mà là sống trọn vẹn từng phút giây theo cách mình tin là đúng.

Tạm biệt Đức Thánh Cha Phanxicô – vị Giáo hoàng của sự thật, của lòng thương xót, và của tinh thần nghèo khó Tin Mừng.

Cảm ơn Ngài, vì đã sống và chết như một người môn đệ đích thực.

Và xin cho tất cả chúng con – những người đang sống – biết học lấy sự đơn sơ ấy, để cuối cùng cũng được ra đi bình an như Ngài, trong bàn tay Thiên Chúa.

Lm. Anmai, CSsR


 

Tiểu sử Đức Thánh Cha Phanxicô (1936-2025)

-Dưới đây là tiểu sử chi tiết của Đức Giáo hoàng Phanxicô – vị Giáo hoàng thứ 266 của Giáo hội Công giáo Rôma, người vừa qua đời ngày 21/4/2025. Bản tiểu sử này bao gồm các chặng đường chính trong cuộc đời, ơn gọi, hoạt động mục vụ, những cải cách lớn cũng như tầm ảnh hưởng toàn cầu của ngài.

* THỜI NIÊN THIẾU VÀ GIA ĐÌNH

Tên khai sinh: Jorge Mario Bergoglio

Sinh ngày: 17 tháng 12 năm 1936

Nơi sinh: Buenos Aires, Argentina

Cha: Mario José Bergoglio (nhân viên đường sắt, người Ý)

Mẹ: Regina María Sívori (nội trợ, người Argentina gốc Ý)

Là con cả trong một gia đình có 5 người con.

Ngay từ nhỏ, Jorge đã nổi bật bởi sự thông minh, tính kỷ luật và lòng đạo đức sâu sắc. Tuy mắc bệnh nặng thời niên thiếu (viêm phổi nặng dẫn đến phải cắt bỏ một phần phổi), Ngài vẫn kiên cường vượt qua và tiếp tục học tập.

* HỌC VẤN VÀ ƠN GỌI

Tốt nghiệp kỹ thuật viên hóa học tại Trường Kỹ thuật Công nghiệp.

Năm 1958, ở tuổi 21, Ngài gia nhập Dòng Tên (Jesuit).

Học triết học và thần học tại Colegio Máximo de San José.

Được thụ phong linh mục ngày 13 tháng 12 năm 1969.

Ngài nổi tiếng là một nhà giáo dục nghiêm túc và sống khắc khổ. Từng giảng dạy văn học, tâm lý học, thần học và triết học.

* TRONG DÒNG TÊN

1973 – 1979: Bề trên tỉnh Dòng Tên tại Argentina (ở tuổi 36).

Sau đó, giữ các vai trò linh hướng và giám đốc chủng viện.

Dưới thời độc tài quân sự tại Argentina, cha Bergoglio được cho là đã can đảm bảo vệ các tu sĩ, người nghèo và người bị đàn áp — một thời kỳ nhạy cảm mà sau này được nhìn lại với nhiều tranh cãi và suy ngẫm.

* GIÁM MỤC VÀ HỒNG Y

1992: Được Đức Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giám mục phụ tá Buenos Aires.

1998: Trở thành Tổng Giám mục Buenos Aires.

2001: Được phong Hồng y.

Tại đây, Ngài nổi bật với lối sống giản dị: từ chối xe riêng, sống trong một căn hộ nhỏ, tự nấu ăn, đi làm bằng phương tiện công cộng. Ngài được người dân gọi thân thương là “Giám mục của người nghèo”.

* TRỞ THÀNH GIÁO HOÀNG

Ngày bầu chọn: 13/3/2013

Lúc ấy: 76 tuổi

Là Giáo hoàng đầu tiên đến từ Nam Mỹ, đầu tiên từ Dòng Tên, và đầu tiên lấy danh hiệu “Phanxicô” – theo gương Thánh Phanxicô Assisi, biểu tượng của hòa bình, nghèo khó và khiêm nhu.

* PHONG CÁCH GIÁO HOÀNG ĐỘC ĐÁO

Ở Nhà Thánh Marta thay vì Dinh Tông Tòa.

Mặc áo chùng trắng đơn sơ, không đeo thánh giá vàng.

Luôn gần gũi người nghèo, tù nhân, người di cư, người vô gia cư.

Ngài thúc đẩy Giáo hội “đi ra” – nghĩa là hướng về vùng ngoại vi, đến với người bị bỏ rơi, không ở trong “tháp ngà”.

* CÁC CẢI CÁCH QUAN TRỌNG

  1. Cải tổ Giáo triều Vatican

Thành lập Hội đồng Hồng y cố vấn (C9) để tư vấn cải cách.

Tái cấu trúc bộ máy Giáo triều theo hướng phục vụ hiệu quả và minh bạch.

  1. Minh bạch tài chính

Cải cách Viện Giáo vụ (Vatican Bank).

Thành lập bộ Kinh tế Vatican, đưa chuyên gia giáo dân vào quản lý.

  1. Đồng hành mục vụ thay vì phán xét

Hướng mục vụ dành cho người đồng tính, người ly dị tái hôn, phụ nữ…

Chống lại thái độ “luật lệ khắt khe”, cổ vũ lòng thương xót và đồng hành thiêng liêng.

* ẢNH HƯỞNG TOÀN CẦU

Kêu gọi bảo vệ môi trường (Thông điệp Laudato Si’, 2015).

Nhấn mạnh công lý xã hội, lên án nền kinh tế loại trừ.

Tăng cường đối thoại liên tôn, gặp gỡ cả giáo sĩ Hồi giáo, Do Thái giáo, Phật giáo.

Gặp Thượng phụ Kirill của Chính Thống giáo Nga (2016) – lần đầu sau 1000 năm.

Nỗ lực hiện đại hóa và làm mới hình ảnh Giáo hội trong thế giới thế tục hóa.

* NHỮNG NĂM CUỐI ĐỜI VÀ QUA ĐỜI

Những năm cuối, Ngài bị viêm phổi mạn tính, thoái hóa khớp gối, phải ngồi xe lăn.

Vẫn giữ nhịp làm việc cao: tiếp khách, dâng lễ, viết Tông huấn.

Nhập viện lần cuối vào tháng 3/2025 tại Bệnh viện Gemelli, Rôma.

Qua đời vào sáng 21 tháng 4 năm 2025 (Thứ Hai Phục Sinh), tại Nhà Thánh Marta, thọ 88 tuổi.

* DI SẢN THIÊNG LIÊNG

Biểu tượng của Giáo hội gần gũi, khiêm nhường, cải cách và lòng thương xót.

Truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên thế giới, kể cả ngoài Công giáo.

Được ca ngợi là “một vị thánh sống”, người thực thi Tin Mừng bằng hành động nhỏ bé mỗi ngày.

From: NguyenNThu

ĐƠN SƠ ĐẾN TẬN CÙNG. Không hương hoa. Không đèn nến

ĐẾN VỚI MẸ HẰNG CỨU GIÚP

Linh cữu Đức Thánh Cha Phanxicô lặng lẽ giữa đền thờ Thánh Phêrô – một cỗ quan tài gỗ trơn, mộc mạc, không một hoa văn.

Ngài đã chọn sống nghèo khó và khiêm hạ – và ra đi cũng như thế.

Mong sao các đám tang Công giáo cũng bày trí đơn sơ như thế này.

Tạm biệt Đức Thánh Cha Phanxicô, chứng nhân của Tin Mừng, người hành hương của hy vọng.