NỖI ĐAU KHÔNG CÒN GÌ ĐỂ MẤT… – BS Xuân Sơn Võ

Việt Luận – Viet’s Herald

BS Xuân Sơn Võ

“… Đặt mình vào vị trí người dân ở đây, có lẽ sẽ cảm thấy đau lắm, khi phải chịu mất mát, mà không phải do mình ẩu, cũng không phải do Trời phạt mình. Mất chỉ vì thằng khác ẩu. Mà nó không ẩu để gây hậu quả cho nó, cho cha mẹ nó, cho vợ con nó. Nó ẩu mà nó gây hậu quả cho bà con mình, cho bản thân mình, và gia đình mình… Nó lời một đồng, nó làm người ta mất hết tài sản. Nó ăn một miếng, còn người ta thì mất mạng…”

Một trong các thắc mắc mà mấy anh em chúng tôi cứ hỏi nhau hoài, là làm sao có thể tính được thiệt hại vật chất trong vụ lũ lụt vừa qua ở những nơi chúng tôi đến, tại Khánh Hòa, tại Phú Yên?

Mất sạch. Có lẽ đó là khái niệm chung nhất của bà con ở những vùng lũ lụt nặng. Nhưng mất sạch theo quan niệm chung, là mất những cái “động sản”, còn những thứ thuộc về “bất động sản” thì đâu có mất đi đâu. Nhưng không. Truyền thông đưa tin, nơi có 7 cái trang trại nuôi heo bò gà vịt đã bị biến thành một dòng sông. Ngay cả bất động sản cũng bị lũ cuốn trôi luôn.

Mất sạch ở đây cần được hiểu rằng, có gì mất nấy. Có ít mất ít, có nhiều mất nhiều. Có càng nhiều mất lại càng nhiều. Sau lũ, ai cũng trắng tay, ai cũng bắt đầu lại với hai bàn tay trắng… bệch. Cứu trợ bao nhiêu cho đủ, đền bù bao nhiêu cho đủ. Tiền tỉ mang ra đó, cũng chỉ như muối bỏ biển, chẳng thấm tháp vào đâu. Cái gì cũng phải mua lại, từ cây kim, sợi chỉ, đến xong nồi, chén dĩa, đũa muổng…

Anh Toàn, chủ một cơ sở bida thuộc hàng top đầu ở Tuy Hòa, Phú Yên với 20 cái bàn bida phải bỏ đi, phải thay mới hoàn toàn. Đi trên đường Võ Nguyên Giáp ở Nha Trang, bạt ngàn xe hơi chờ sửa sau khi bị ngập. Ngay trong thành phố Nha Trang, cứ chỗ nào thấy xe hơi xếp hàng dài, lớp trong lớp ngoài, là y như rằng ở đó có cái garage, xe xếp hàng đó để chờ đến lượt vô sửa. Đi trên cao tốc, ngoài các chuyến xe cứu trợ có gắn bandrole, thì nhiều thứ nhì là những chuyến xe cứu hộ, kéo những chiếc xe bị lũ đi từng đoàn, từng đoàn… theo hướng ngược lại.

Nhiều tỉnh đã phải điều xe rác đến Khánh Hòa, Phú Yên để giúp dọn rác. Dân ở đây làm gì mà lắm rác vậy? Không, đó là của cải, là tài sản, là mồ hôi, là nước mắt… của bao nhiêu người dân, bị lũ lụt biến thành rác. Chứng kiến một chỗ người ta đốt rác, trong đó lỏng chỏng tủ lạnh, TV… Không chỉ có cảm giác xót ruột. Của cải, tài sản không phải của mình, nhưng sống mũi cứ cay cay, lái xe nhìn đường cứ nhòe đi.

Đặt mình vào vị trí người dân ở đây, có lẽ sẽ cảm thấy đau lắm, khi phải chịu mất mát, mà không phải do mình ẩu, cũng không phải do Trời phạt mình. Mất chỉ vì thằng khác ẩu. Mà nó không ẩu để gây hậu quả cho nó, cho cha mẹ nó, cho vợ con nó. Nó ẩu mà nó gây hậu quả cho bà con mình, cho bản thân mình, và gia đình mình… Nó lời một đồng, nó làm người ta mất hết tài sản. Nó ăn một miếng, còn người ta thì mất mạng.

Đau hơn nữa, là biết vậy, mà vẫn cứ phải cắn răng chịu mất, cứ phải chống mắt nhìn nó ăn, nhìn nó kiếm tiền, nhìn bà con mình bỏ mạng, nhìn của cải, đồ đạc mất sạch, nhìn hai bàn tay trắng bệch…

BS Xuân Sơn Võ


 

Vụ chính quyền Trump trục xuất bà Melissa Trần phơi bày bi kịch của người Việt nhập cư (BBC)

 BBCVietnamese

Cảnh sát di trú đang thực hiện một chiến dịch truy quét nhập cư bất hợp pháp vào đầu năm 2025 tại Chicago (trái); bà Melissa Tran (phải)

Sau hàng chục năm sống tại Mỹ với tấm thẻ xanh, bà Melissa Trần đã bị trục xuất về Việt Nam ngày 17/11/2025.

Hành trình bay 48 giờ được mô tả là “đầy đau khổ”.

Bà Melissa Trần, tên thật là Trần Thị Mộng Tuyền, đã bị cùm tay và chân trong suốt chuyến bay dài 48 tiếng, qua nhiều chặng dừng, từ Mỹ về Việt Nam.

Trong tin nhắn gửi luật sư, bà Melissa Trần nói rằng bà cảm thấy “bị đối xử tồi tệ còn hơn một con vật”.

Hiện bà đang ở với một người anh họ tại Việt Nam, để lại gia đình gồm chồng và bốn con ở Maryland, Mỹ.

Luật sư của bà Melissa Trần nói với BBC News Tiếng Việt rằng vụ trục xuất là “một bi kịch”, trong khi cộng đồng ở Mỹ vẫn đang nỗ lực để đưa bà trở về Mỹ.

“Bà Melissa Trần nhận được sự ủng hộ to lớn từ cộng đồng địa phương.”

“Tất cả những người quen biết bà ấy đều đã bày tỏ rằng họ sẽ làm những gì có thể để hỗ trợ bà ấy.”

“Cần thấy rằng đây là một sai lầm nghiêm trọng về mặt tư pháp và chúng ta cần tìm cách đưa bà ấy trở về,” luật sư Jennie Pasquarella nói với BBC News Tiếng Việt, và nhấn mạnh rằng việc này hiện đang phụ thuộc rất lớn vào các chính trị gia Mỹ.

Về khả năng bà Melissa quay lại nước Mỹ, bà Pasquarella nói “khó” nhưng “vẫn có thể”.

Bà Jennie Pasquarella cũng chỉ trích cách thức mà chính quyền Mỹ đối xử với những người bị giam giữ hoặc bị trục xuất, như cùm tay chân họ, là đi ngược lại hiến pháp và và các chuẩn mực quốc tế, có thể cấu thành hành động “tra tấn”.

“Luật pháp Mỹ quy định chính phủ không được phép giam giữ người nhập cư chỉ nhằm mục đích trục xuất, theo cách có tính chất trừng phạt như thể họ đang bị xử lý vì một tội hình sự,” bà Jennie Pasquarella lý giải.

Bà cho rằng đây là một chiến dịch nhằm khiến người nhập cư khiếp sợ và tự nguyện rời đi.

Phóng viên BBC từng tới thăm một trung tâm trục xuất ở New York và chứng kiến cảnh những người di cư bị “đối xử như thú vật”, khiến nhiều người sang chấn tâm lý.

Luật sư Jennie Pasquarella và bà Melissa Trần

Bà Melissa Trần từ Việt Nam đến Mỹ vào năm 1993, khi mới 11 tuổi, với tư cách là người tị nạn.

Sau đó bà trở thành thường trú nhân hợp pháp.

Năm 2001, bà bị kết tội trộm cắp.

Trong thời gian 2003-2004, tòa di trú ra lệnh trục xuất bà, nhưng Việt Nam từ chối nhận lại, nên bà vẫn được ở Mỹ và đi trình báo đều đặn với Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan Hoa Kỳ (ICE) suốt hơn 20 năm.

Bà khai rằng khi còn trẻ, bạn trai cũ của bà trộm tiền của một chủ lao động, nhưng bà nhận tội, hoàn trả số tiền đánh cắp và ngồi tù sáu tháng, theo luật sư.

Thời điểm đó, bà không biết rằng thỏa thuận nhận tội trong vụ án này có thể dẫn đến việc bà bị trục xuất.

Điều này có nghĩa, về mặt luật pháp, bà Melissa Trần sau khi lãnh án tù đã nằm trong danh sách có thể bị trục xuất.

Điều đáng nói là trong nhiều năm, Việt Nam không nhận những người tị nạn rời khỏi đất nước trước năm 1995.

Do đó, bà Trần trong suốt những năm qua vẫn sinh sống bình thường tại Mỹ và chỉ phải đi trình diện viên chức di trú theo quy định – điều mà bà vẫn tuân thủ.

Đây là một thủ tục đăng ký thông thường mà bà đã thực hiện trong hàng chục năm qua: trình giấy tờ tùy thân, sau đó quan chức ICE cấp cho bà một ngày hẹn tiếp theo để ra trình diện.

Nhưng mọi chuyện đã thay đổi trong nhiệm kỳ thứ hai của chính quyền Trump.

Chính phủ Việt Nam gần đây đã chấp thuận những trường hợp bị Mỹ trục xuất và là những người rời Việt Nam trước mốc 1995.

Hồi tháng 2/2025, chính phủ Việt Nam đã cam kết hỗ trợ việc hồi hương của hàng chục công dân bị giam giữ tại Hoa Kỳ và nhanh chóng xử lý các yêu cầu trục xuất mới sau khi chính quyền ông Trump đe dọa áp thuế thương mại và trừng phạt thị thực.

Tháng 10/2025, bà Melissa Trần bị bắt giam khi ra trình diện ICE, sau đó bị giam năm ngày ở Baltimore, Maryland “mà không có lời giải thích”.

Sau đó, bà Melissa Trần được cho về nhà nhưng rồi bị bắt lại vào lần trình diện kế tiếp hồi tháng 11/2025, bị tạm giam, sau đó bị đưa lên máy bay đến Louisiana, rồi lên máy bay về Việt Nam, mà “không có bất kỳ thông báo nào”.

Một trong những giải pháp được xem là mang lại nhiều hi vọng nhất hiện nay là xin ân xá cho bà Melissa Trần từ thống đốc sắp nhậm chức của bang Virginia – nơi bà Trần bị kết tội trộm cắp.

Tuy nhiên, quy trình xin ân xá này rất khó khăn và sẽ kéo dài, theo luật sư.

Trong khi đó, Bộ An ninh Nội địa Mỹ đã trả lời về vụ việc của bà Trần:

“ICE đã bắt giữ Trần Thị Mộng Tuyền, một người nhập cư bất hợp pháp từ Việt Nam, với tiền án bao gồm làm giả, trộm cắp, gian lận và viết séc gian lận. Một thẩm phán di trú đã ban hành lệnh trục xuất cuối cùng cho bà vào năm 2004. Bà ấy có hơn 20 năm để rời khỏi Hoa Kỳ và được hưởng đầy đủ quy trình tố tụng hợp pháp,” Trợ lý Bộ trưởng An ninh Nội địa Tricia McLaughlin viết trong phản hồi với kênh truyền thông WJZ Investigates. “Thông điệp của Tổng thống Trump và Bộ trưởng Noem rất rõ ràng: người nhập cư bất hợp pháp phạm tội không được chào đón tại Hoa Kỳ.”

Thượng nghị sĩ Dân chủ Chris Van Hollen của Maryland đã lên án vụ trục xuất bà Trần, theo CBS News, và nói rằng đây là một câu chuyện “quá bi thảm”, “không đáng để xảy ra”, và rằng văn phòng của ông sẽ nỗ lực đưa bà quay về Mỹ.

Hàng trăm người Mỹ gốc Việt đã bị trục xuất, hàng ngàn người nằm trong nguy cơ cao

Nhiều người Việt đã rời đất nước để sang Mỹ tị nạn sau 30/4/1975

Trong vài tháng qua, đã có hàng trăm người gốc Việt bị Mỹ trục xuất về Việt Nam, đặc biệt trong các tháng Sáu và Bảy, theo luật sư.

Chính phủ Mỹ và Việt Nam không công bố chính thức các con số này.

Ước tính hiện có khoảng 16.000 người từ Đông Nam Á – gồm Việt Nam, Campuchia và Lào – có lệnh trục xuất của chính phủ Mỹ, nhưng chưa bị trục xuất.

Những người này hiện đều có nguy cơ bị giam giữ và trục xuất ngay lập tức, trong khi chính phủ Mỹ đang cố gắng yêu cầu các quốc gia quê hương của họ cấp giấy tờ hồi hương.

Trong trường hợp các quốc gia này không đồng ý, thì chính phủ Hoa Kỳ sẽ cố gắng trục xuất họ sang một nước thứ ba, luật sư cho hay.

“Đây là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với những trường hợp này, bởi vì việc trục xuất sang nước thứ ba sẽ đưa họ đến những nơi mà họ không có bất kỳ mối liên hệ nào.

“Thường là trong những điều kiện vô cùng khắc nghiệt, bao gồm cả việc một số người bị bỏ tù ngay khi họ đặt chân tới nơi.

“Và mọi thứ đều được thực hiện trong bí mật. Chính phủ không hề thông báo trước cho họ rằng họ đang bị đưa tới một nước thứ ba. Họ [chính quyền] cũng không cho họ bất kỳ cơ hội nào để phản đối quyết định trục xuất đó,” luật sư Jennie Pasquarella nói.

Tháng 7/2205, Bộ An ninh Nội địa Mỹ đã nối lại các chuyến bay trục xuất người nhập cư bằng việc đưa năm người từ Việt Nam, Lào, Jamaica, Cuba và Yemen đến Eswatini, một quốc gia nhỏ bé ở miền nam châu Phi.

Một công dân gốc Việt khác bị Mỹ trục xuất sang Nam Sudan hồi tháng 5/2025.

Chấn thương từ Chiến tranh Việt Nam

Nhưng người Việt chạy khỏi Sài Gòn sau năm 1975 để tới Mỹ tị nạn chịu nhiều vết thương tâm lý chồng chất, theo luật sư Jennie Pasquarella

Theo bà Jennie Pasquarella, điều quan trọng là cần phải nhìn thấy toàn bộ bức tranh của việc trục xuất này.

Đó là bức tranh về một cộng đồng người Việt phải di cư sang Mỹ sau khi “chính phủ Mỹ đã can thiệp vào đất nước của họ” thời Chiến tranh Việt Nam.

Những người này chịu các chấn thương tâm lý chồng chất, theo luật sư.

Họ cũng chính là lớp người rời Việt Nam trước năm 1995 mà nay chính phủ Việt Nam mới tiếp nhận họ (trong trường hợp bị Mỹ trục xuất).

Chiến tranh Việt Nam kết thúc đã dẫn đến cuộc khủng hoảng người tị nạn ở Đông Dương. Khoảng 1,5 triệu người Việt đã phải rời bỏ đất nước do cuộc chiến này. Một phần rất lớn trong số đó định cư tại Mỹ.

Người nhập cư Việt Nam và con cái của họ chào đời tại Hoa Kỳ tạo nên một trong những cộng đồng người di cư lớn nhất tại Hoa Kỳ, với 2,3 triệu người.

Khi đến Mỹ, những người vừa trải qua cú sốc chiến tranh và lìa xa quê hương lại trải qua một cú sốc khác do thiếu hụt các nguồn lực hỗ trợ dành cho cộng đồng người tị nạn.

Theo luật sư, nhiều người nhập cư mà bà từng tiếp xúc đã trải qua những khủng hoảng về sức khỏe tâm thần. Đây cũng chính là lý do khiến họ hoặc con cái họ phạm tội thời thanh thiếu niên.

Do Việt Nam không tiếp nhận họ, những người này tiếp tục ở lại Mỹ và đã xây dựng một cuộc sống ổn định, khiến bà Jennie Pasquarella cho rằng “rất đau lòng” khi họ bị trục xuất.

“Phần lớn những người hiện nay bị đưa vào diện trục xuất đều trên 40 tuổi. Họ có sự nghiệp, họ đã học hành ở đây, họ có con, có cháu.

“Họ không biết gì về Việt Nam, và vì thế mức độ tổn hại giờ đây nghiêm trọng hơn rất nhiều so với việc họ bị trục xuất cách đây 20–30 năm,” luật sư nói.

Luật nhập cư ‘lỗi thời’

Bà Monica Moreta Galarza bị quật ngã xuống đất khi chồng bà bị bắt bên ngoài tòa án di trú ở thành phố New York

Luật nhập cư được cập nhật lần cuối vào năm 1996 và những thay đổi khiến luật này trở nên hà khắc hơn rất nhiều và làm tăng hậu quả cũng như hình phạt cho những trường hợp như bà Melissa, theo luật sư Jennie Pasquarella.

Nhiều thay đổi cần phải được chỉnh sửa. Nhưng bà Jennie Pasquarella tin này điều này sẽ không xảy ra với một Quốc hội hiện tại mà bà đánh giá là không hiệu quả.

Vụ việc của bà Melissa Trần phản ánh rõ luật nhập cư của Hoa Kỳ lạc hậu đến mức nào, theo luật sư.

“Luật này không tính đến thực tế rằng một người có thể mắc sai lầm từ rất nhiều năm trước, nhưng họ đã chứng minh được họ đã thay đổi hoàn toàn, họ đóng góp cho cộng đồng và xã hội. Và họ không nên bị trừng phạt vì sai lầm đó suốt phần đời còn lại.”

“Nhưng bi kịch là luật không nhìn thấy con người đã thay đổi và đã làm mọi điều mà xã hội mong đợi họ làm. Về cơ bản, luật nói rằng: vâng, anh có thể bị trừng phạt suốt đời, chúng tôi không quan tâm. Bà Melissa là một ví dụ điển hình cho điều đó.”

“Có thể ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực mà chúng ta đang chứng kiến ​​bởi chính phủ liên bang, nhưng tại thời điểm này, chúng ta đang sống trong một cuộc khủng hoảng và rất khó để kiềm chế chính phủ này và buộc họ phải chịu trách nhiệm,” bà Jennie Pasquarella nói.

Với những người hiện đang trong diện bị trục xuất nhưng vẫn còn ở Mỹ, bà Jennie Pasquarell cho rằng họ nên kiếm tư vấn pháp lý trước khi bị ICE bắt giam.

“Hãy quay lại tòa án nơi họ bị kết án và xem liệu có cơ hội nào để bản án có thể được hủy bỏ hoặc sửa đổi hay không,” bà nói.

Bởi một khi đã bị ICE bắt giam, thì họ sẽ không có thời gian để thực hiện các thủ tục pháp lý để cứu mình.

Và tệ hơn nữa là khi bị trục xuất về Việt Nam, thì cơ hội để quay lại Mỹ của họ là rất mong manh, bà Jennie Pasquarell cho hay.


 

Bão tố, lũ lụt – Một thách thức về sinh thái và môi trường mà còn là một thách thức chiến lược sống còn của Hà Nội

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

09/12/2025

Tôi còn nhớ khi chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ vào tháng 12-1946 thì tôi có mặt ở Hà Nội và chứng kiến chỉ trong một đêm sau một tiếng nổ kinh hoàng và nhà đèn tắt phụt và ngày hôm sau, bộ đội chủ lực của Võ Nguyên Giáp đã rút lui ra khỏi Hà Đông và chỉ còn lại dân quân du kích ở lại cầm chân Pháp và làm vật hy sinh chết dần, chết mòn..

Người Pháp đã mau chóng ổn định an ninh Hà nội dần trở lại nếp sinh hoạt bình thường cho đến năm 1954 với Hiệp định Genève chia đôi hai bên ở Vĩ Tuyến 17..

Trong suốt gần 10 năm trời ở Hà Nội, tôi không hề thấy cảnh tượng Hà Nội chìm trong biển nước như hiện nay..Nay  cứ một trận mưa thì Hà Nội biến thành một hồ nước nhân tạo. Xe cộ chết máy la liệt trông đến thảm thương.

Vì Hà Nội xưa có những hồ chứa nước như Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, hồ Trúc Bạch một sự điều hòa đúng mực..

Vào miền Nam, tôi ở Đà Nẵng một năm mới chuyển vào Sài Gon. Lên Đại học, học ở Viện Đại Học Đà Lat. Ra trường, đổi về Nhatrang trong 6 năm. Mùa hè ra Huế sống hơn 2 tháng, coi thi ở Quảng Ngãi, Quảng Trị..

Nhắc đến đây, tôi xin đặc biệt nhớ lại những kỷ niệm khó quên ở Phan Thiết, tôi không còn nhớ năm nào? Nơi mà nay cũng chìm đắm trong lũ lụt.

Chỉ biết rằng,  trước đây, tôi được điều động ra Phan thiết với vai trò phó hội đồng thi. Trương Ân, hiệu trưởng Quy Nhơn -một người bạn cũ Đà lạt làm chủ tịch. Hai chúng tôi đến ở nhà  một người bạn học cũ, anh Tùng được điều đi nơi khác..

Một lần, một nữ giáo viên vốn bố mẹ làm chủ vựa nước mắm mời đến nhà ăn. Cô Ung Thị Bạch Tuyết. Ôi thì sơn hào hải vị, cái gì ngon nhất, hai chúng tôi đều được hưởng. Cũng bữa tiệc đó, có một nữ giáo viên

đem lòng “ mê” tôi. Số tôi đúng là số “con rệp”, đi đâu gieo rắc họa đến đấy. Em nữ giáo viên tên N. có ngỏ lời bằng cách tặng tôi bài hát rất ư “ thôn nữ quê” : “hãy trả lời em đi anh” với băng casette.

Về nhà, Trương An cho vào máy, rồi hát rống lên: Hãy trả lời em di anh..Tôi nghe mà lòng lạnh tanh.  Trong khi Trương Ân nói: Này toa, em này nó mê toa rồi đố. Tôi lặng thinh.

Khi hai chúng tôi quay về, tại phi trường Phan Thiết, cả một bày nữ giáo viên ra tiễn đưa, trong đó có N. , nước mắt lưng tròng.. Sau này N. trở thành nhà

văn nữ khá nổi tiếng. Quà mang về là thứ nước mắm nhĩ thứ hảo hạng, cộng với mực phơi hai nắng trên nóc các thuyền đánh cá, ăn mới ngon và mới ngọt làm sao.

Ôi, cả một thời yên bình và hạnh phúc cho một con dân miền Nam.

Nhắc lại như một hồi ức khó quên!!!

Trong những năm tháng ấy, tôi chưa hề chứng kiến những trận bão như số 11, 12, 13 và những trận lụt khủng khiếp, nước ngập sâu đến mái nhà, dân chúng phải leo lên mái nhà. Lũ lụt trong khoảnh khắc phá tan cầu đường, thiệt hại chẳng những tài sản, nhất là đến sinh mạng con người.

Được biết, một gia đình nuôi đến 4000 con vịt, sau cơn lũ, chỉ còn khoảng 900 con. Người khác, ở Quảng Bình, có khoảng 100 gốc sầu riêng, sau lũ còn lại vài gốc.

Chưa kể, hàng trăm người bị lũ cuốn trôi mà nhiều người sau này không tìm được xác..

Nghĩ đến đây, bất giác như buồn nôn…

Tôi chỉ hỏi mà không có câu trả lời cho mình và cho đồng bào bị nạn..

Dân chúng trong khắp các tỉnh thành lập các đoàn cứu trợ để kịp thời để đền bù các thiệt hại về nhà cửa và nhất là người chết oan..

Lấy gì và bằng cách nào đền bù cho những oan hồn chết oan mà vốn mạng người là vô giá!!

Tôi theo dõi các bản tin mỗi ngày và  tôi nhận ra hai điều:

  • Dân chúng chỉ thấy đây là “tai trời” mà không một lời oán thán nhà cầm quyền.
  • Một cơn lụt lội khủng khiếp như thế, nhưng tôi không hề thấy cấp lãnh đạo cấp tỉnh bên cạnh người dân. Nói chi đến thủ tướng Phạm Minh Chính hay ông Tô Lâm? Người ta chỉ có cơ hội nhìn thấy các ông trong những chuyến công du liên tiếp, bên cạnh các mệnh phụ phu nhân ăn mặc  sang trọng.
  • Hình như thể họ thuộc một tầng lớp lãnh đạo chỉ biết cai trị hơn là người của dân chúng.

Tuy nhiên, nhà nước cộng sản Hà Nội đã không hề tiết lộ nạn phá rừng, xẻ núi, lấp ao hồ, lấp dòng sông để xây xa lộ, xây đường cao tốc và xây dinh thự.

Đất nước hình như chỗ nào cũng bị “xi măng hóa” hay “ nhựa hóa” đến độ mưa lũ xuống không có tầng đất xốp để hấp thụ nước nên gây nạn ngập lụt.

Mà đáng nhẽ, nó cần “một thành phố bông gòn” để có thể hấp thụ nước, tránh lũ lụt.

Nạn phá rừng tùy tiện lấy gỗ đã tạo ra nạn sạt lở, vì không có cây rừng ngăn chặn.

Nghĩ đến đây, tôi nghĩ đến trường hợp hãng Cimexcol, Minh Hải với Dương Văn Ba, toa rập với các quan chức đã cho người sang Lào khai thác gỗ, tạo ra dòng chảy sạt lở mà chúng gọi là “Chương trình phát tiển Lào”.

( Xin tóm lược  trở lại năm 1985, cách mạng Lào chiến thắng. Để kỷ niệm chiến thắng này, quân đội cách mạng Lào đã lập ra” công ty phát triển rừng núi Lào là Borisat Phattana Khet  Phoudoi, gọi tắt là BKKP. Công ty được đặt dưới chỉ đạo của đại tướng Khăm Tây Xiphandoong- thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc Phòng Lào.

Công ty lại liên doanh với một công ty mới thành lập tại TP Hồ Chí Minh và tỉnh Minh Hải, gọi là Cimexcol liên doanh..( Trích Đời của Hồ Ngọc Nhuận, trang 307). 

  • Về phía người dân

Dân chúng thì vô trách nhiệm. Rác cứ đem đến lỗ ống cống mà đổ gây nghẹt ống cống và nước lũ không trôi được..Lấy trường hợp Kênh Nhiêu Lộc cứ phải vét đi vét lại vì dân chúng coi con kênh như chỗ xả rác .

Đường Cỏ Ngư ở Hà Nội được ví như con đường tình Duy Tân ở Sài gòn. Nhưng hai bên đường mọc đầy quán ăn chen lấn cả lề đường làm con đường bị ô nhiễm trầm trọng..

Hiện nay, không ai còn biết, bao nhiêu ao hồ ở Hà Nội đã bị vùi lấp làm nhà ở?

Mảnh đất nào cũng bị cời xấy lên bằng xi măng làm nhà ở hoặc bằng nhựa đường làm các xa lộ, các cao tốc.

Hà Nội chỉ nhìn thấy cái lợi nhất thời mà không  có một cái nhìn về tương lai của một đất nước.

Mưa xuống không có lớp đất xốp, bãi cỏ để thẩm thẩu nước mưa gây nạn lụt gây ra sức tác hại về môi sinh, môi trường đến không thể nào tính hết thiệt thại bằng tiền.

Cả nước như chìm vào biển nước, dân chúng không biết kêu cứu vào ai. Hà Nội chỉ đưa ra những giải pháp vá víu cục bộ, nhất thời.

Năm nay lụt thì có thể năm sau cũng tiếp tục lụt lội ở một mức độ kinh kihủng hơn.

Có một cái gì bảo đảm là tương lai sẽ hết ngập lụt?

 Sự sửa chửa những sai lầm về môi sinh, môi trường đòi hỏi những tốn phí gấp hai, gấp ba lần hơn trước?

Đó là cái giá mà chúng ta phải trả cho sự sai lầm ngu ngốc của mình..

Nay vẫn ưu tiên tiếp tục xây dựng những đền đài, cung điện như đài” tưởng niệm những nạn nhân đại dịch Cô Vít”?

Chúng ta chỉ biết lên tiếng cảnh báo, còn trách nhiệm là ở quan chức lãnh đạo Hà Nội!!!!

Ước gì Hà Nội học được bài học của Thủ tướng Lý Quang Diệu mà vứt mẩu thuốc lá xuống đường cũng bị phạt nặng.

Đó là một nếp sống văn minh và văn hóa cao mà người dân biết tự trọng tuân thủ.

Viết những dòng này, chúng tôi mong mỏi một đất nước “ độc tài dân chủ vì người dân” như nhiều xã hội Đông nam Á như Nhật, Đại Hàn, Singapore  thay vì một “ đất nước độc tài mà quyền lợi của đảng trên hết” như Việt nam, Triều Tiên.

Phần Hai: Sự lựa chọn ưu tiên chiến lược dưới sự trình bày của giáo sư Khương Hữu Lộc.

Phần bài viết này chủ yếu dựa trên sự trình bày khoa học, khách quan về mọi mặt giúp có một cái nhìn sáng tỏ và khách quan về sự chọn lựa sống còn cho Việt Nam.

Chúng ta không thể không ưu tiên giải quyết vân đề lũ lụt.

Thứ nhất, không thể nào không giải quyết sự an toàn giao thông nếu không giải quyết hạ tầng cơ sở với nạn ngập lụt trên khắp các tỉnh thành từ Nam ra Bắc.

Sự ưu tiên giải quyệ’t nạn lũ lụt này đòi hỏi một chi phí từ 70 chục tỉ đồng tiền Mỹ đến 100 tỉ đồng.

Không có sự chi phí ưu tiên thì xe điện đi ngang qua các vùng lũ lụt không có sự an toàn của những vùng địa lý thiên nhiên với những hồ chứa nước.

Chưa nói đến các tảng băng ở bắc cực nay tan nhanh tạo ra một dòng chảy như thác lũ đổ ra biển, làm cho mực nước biển tăng lên!! ảnh hưởng trục tiếp đến địa lý thiên nhiên khu vực.

Bên Mỹ, các xa lộ đều có hệ thống Master Plan- một hệ thống ao, bờ để giúp thoát nước..

Nhưng mặt khác, để đất nước phát triển không thể không nghĩ tới một dòng xe điện cao tốc với tốc độ trung bình 350 kilo/mét giờ. Từ ga xe lửa Ngọc Hồi đến ga Thủ Thiêm, đi qua 22 trạm chỉ mất 5 tiếng thay vì 33 tiếng của xe lửa đã lỗi thời của thời Pháp để lại.

Tuy nhiên, sẽ có sự cạnh tranh với việc xử dụng phương tiện máy bay. Chi phí vé máy bay thường tốn kém hơn, mặc dầu chỉ mất hai giờ 10’ bay từ Hà Nội vào Sài Gon.

Tuy nhiên, chúng ta đừng quên là hành khách phải có mặt ở phi trường một tiếng đồng hồ trước cho việc check in cũng như thủ tục đợi lấy hành lý.

Thời tiết xấu cũng ảnh hưởng tới các chuyến bay với thời gian chờ đợi tại các phi trường không phải là điều dễ chịu..

  • Các công ty góp phần xây dựng đường cao tốc Bắc-Nam.

Hiện nay được biết có 6 công ty. Trong đó có hai công ty của người VN là Vin Speed và Taco. Trong đó việc góp vốn của công ty là 20 %, 80% còn lại vay vốn nhà nước không tiền lời, trả dần trong 30 năm.

Vin Speed là của ông Phạm Nhật Vượng- một người dám nghĩ và dám làm. Và làm là có thể lỗ. Và vì vậy khó có kết quả tài chánh hay thương mại, nhưng vẫn phải đứng ra đấu thầu.

Trễ một năm, tiền vốn dự chi có thể tăng không trù liệu trước được. Giả dụ  đầu tư 65 tỉ đô la, cho rằng tiền lời hàng năm là 5% vẫn lợi thế hơn làm đường cao tốc.

Việt Nam phải lựa chọn các nhà đầu tư như Nhật, Pháp và cả Trung Quốc. Nhờ đó có sự kiểm soát lẫn nhau, tránh việc cài đặt các thiết bị do thám có hại cho an ninh quốc gia.

Đồng thời về mặt quyền lợi pháp lý, phải có sự bảo đảm quyền lợi bảo trì vốn là điều kiện tối ưu.

Và trong một thời gian nhất định, phải bàn giao việc chuyển giao công nghệ toàn bộ cho Việt Nam.

Nước Mỹ ưu tiên phát triển kỹ nghệ xe hơi. Trong khi nước Pháp ưu tiên phát triển kỹ nghệ xe điện cao tốc. Vì thế với kinh nghiệm nhiều năm, chúng ta nên mời Pháp tham gia chương trình kỹ nghệ đường sắt cao tốc cũng như mời cả Nhật bản.

Về mặt thương mại, mỗi một nhà ga là một điểm hội tụ tất cả những lợi ích thương mại như giao thông, vận tải, nhà băng, khu vực buôn bán làm ăn, các khu chung cư, các khu thương mại,  khu du lịch, các nhà hàng ăn như một thành phố đô thị mới phát triển và bền vững.

Lợi ích kinh tế không phải là nhỏ.

Trong trường hợp khi có nhu cầu quân sự, việc chuyển quân, các nhu cầu quân sự như súng ống, đạn dược, xe cộ chỉ mất vài tiếng đồng hồ, tránh tình trạng bị động, không thích ứng kịp..

Trước những lợi ích về nhiều mặt như thế, việc khai thác đường xe lửa cao tốc Bác- Nam là điều chẳng đặng đừng, không làm không được.

Và càng trì trệ, vốn sẽ đội lên không theo kịp..


 

Chấp Nhận Cuộc Đời – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Làm sao vui vẻ chấp nhận cuộc đời nếu gặp: 

1-Sự bất như ý: 

Nhìn lại quãng đời đã qua của chúng ta, chắc chắn mỗi người trong chúng ta, đa số đều gặp những hoàn cảnh bất như ý:

* Làm nghề nghiệp mà mình không thích, không phải sở trường. Tốt nghiệp ngành này lại đi làm ngành nghề khác. Riêng tôi tốt nghiệp đại học luật khoa, không làm luật sư mà làm nghề dạy học. Rồi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, lại đi tù cộng sản. Năm 1983 ở tù về, không được dạy học, phải làm nhiều nghề để sống: dạy kèm tư gia, giặt bao nylon, bán bia và nước ngọt. Qua Mỹ, làm chỗ sang băng nhạc, tiệm grocery, bán bảo hiểm.

* Nhiều người thất nghiệp, mất nhà, mất xe, không có tiền bạc, sống cơ cực, khổ sở.

* Nhiều người gặp gia đình đỗ vỡ, chia ly tan tác ngoài ý muốn, con cái thất học, nheo nhóc.

*Nhiều khi con cái không làm theo ý mình hoặc hư hỏng, không chịu học hành theo băng đảng, hút sách.

Nếu gặp sự bất như ý mà chúng ta không thể giải quyết được vì nó vượt ngoài tầm tay, sự hiểu biết, khả năng của chúng ta thì ta phải làm sao?

Chỉ có cách duy nhất là chịu đựng, không than van, và liên tục cầu nguyện. Cho nên nhà thờ, đoàn thể, các nhóm cầu nguyện rất cần thiết để chúng ta chia sẻ những khó khăn, những lo âu, chán nản mà chúng ta thường gặp trong cuộc sống. Chẳng những cầu nguyện mà còn cần phải ca ngợi Chúa về những hoàn cảnh bất như ý mà ta đã gặp phải. (1)

Đời sống tâm linh rất quan trọng. Chúng ta thường xuyên đến nhà thờ, cầu nguyện với Thiên Chúa toàn năng, chắc chắn khi Chúa đóng cửa này sẽ mở cửa khác cho chúng ta. “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gỏ thì cửa sẽ mở cho.” (Mt 7, 7-12) 

2- Bịnh hoạn, Tật nguyền 

Nhà Phật có nói: Sinh Lão Bịnh Tử. Ai trong chúng ta cũng phải đi qua con đường này. Không thoát được. 

Bịnh tật là tất yếu phải xảy ra. Khi lớn tuổi, sức khoẻ suy yếu, sinh ra bịnh tật… tiểu đường, cao máu, cao mở, đau nhức… chưa kể có người bị các chứng bịnh nan y như ung thư, đau thận, đau gan, đau phổi, đau tim, mổ tim… Không phải chỉ có những người già cả mới bịnh hoạn, có khi còn trẻ cũng đã vướng nhiều bịnh nan y rồi. Vậy làm sao được bình an khi gặp trường hợp không may xảy ra như bịnh hoạn?

 Rất khó chấp nhận hoàn cảnh đau khổ, bịnh tật. Để được an ủi, để có thể chịu đựng những đau đớn về thể xác và về tinh thần, có thể học hỏi niềm tin, niềm cậy trông của thánh Gióp, niềm tin vào Chúa để chịu đựng khổ sở, khó khăn, chịu nhục hình như các thánh tử đạo Việt Nam. Học tập gương Thánh Giu se, gương Đức Mẹ, nhất là gương Chúa Giê su chịu đựng khổ hình, đau đớn nơi thập giá. Nhờ đó chúng ta có thể chịu đựng được những đau khổ, khó khăn của chính mình. (1) 

3- Đau khổ, cô đơn. 

Sự cô đơn, sống một mình, chịu đựng hoàn cảnh trống vắng, đơn độc.

Đến lúc nào đó, một trong hai vợ chồng phải ra đi sớm. Người còn lại phải chịu đựng sự cô đơn, mất mát vô cùng lớn lao không có gì bù đấp được. Vì gặp cảnh cô đơn chúng ta mới đến với Chúa, chúng ta cần Chúa nhiều hơn nữa. Xem cô đơn là một điều kỳ diệu! 

Làm sao khám phá niềm vui trong đau khổ? 

Trong đau khổ làm sao có niềm vui? Tìm thấy “thú đau thương” chăng?

Thánh Phaolô biểu lộ ước muốn của mình là biết “thông phần những đau khổ của Đức Kitô, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người.”

Thánh nhân đã nghe Chúa phán với mình: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.”

“Thầy ở trong Cha, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.”

Hàng ngày luôn luôn thức tỉnh, học tập, cố gắng thực hành yêu thương và tha thứ. “Yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ đã ngược đãi anh em.” (Mt 5, 44) Nói thì dễ, nhưng làm rất khó. Với sức con người bình thường chúng ta không làm được, nhưng với ơn Chúa chúng ta có thể làm được.

 4- Sự chết: 

Dầu là dân thường hay vua chúa, quan quyền, đến lúc nào đó cũng phải ra đi. Sự chết là tất yếu của đời sống của con người. Ai ai cũng trúng số “độc đắc” một lần, đó là sự chết. Nhưng vẫn có rất nhiều người, nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ chết? 

Để cảm nghiệm về cái chết, ta nên thường xuyên đi đọc kinh nhà quàn, tham dự các thánh lễ an táng, tiễn đưa những người bạn bè, người thân quen, đã ra đi, để cảm nghiệm: “rồi chính mình cũng sẽ chết” cũng sẽ nằm im lặng, bất động trong quan tài giống như thế. 

Khi nhắm mắt rồi, cát bụi lại trở về với cát bụi hư vô: 

*Khi đôi mắt nhắm nghiền và đôi tay lạnh ngắt

Quả tim không chuyển nổi máu tươi hồng

Thì danh vọng phải trả về cho sắc sắc

Thì bạc tiền đành hoãn lại chốn không không…

Những ân ái, hận thù và mưu chước

Những thăng trầm vinh nhục cũng luôn trôi. (2) 

*Đời sống con nguời mong manh, mỏng dòn:

“Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục,

Mạnh giỏi chăng là được tám mươi,

Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,

cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi.” (Thánh Vịnh 90,10)

 *“Con đừng sợ án chết.

Hãy nhớ rằng: có những kẻ đã đi trước con,

Và sẽ có những người theo sau.

Đó là điều Đức Chúa quyết định cho hết mọi người phàm

Tại sao cưỡng lại điều Đấng Tối Cao đã muốn?” (Sách huấn ca 41, 3-4)

Đối với người kitô hữu:

 Người chết là người đã vĩnh viễn hoàn tất đời mình. Là người Kitô hữu, chúng ta phải biết đón nhận sự hoàn tất đó với một tâm hồn bình an cao cả, vì mc khải Kitô giáo đã cho biết rằng cái chết như cánh cổng to lớn mở vào thánh điện an vui vĩnh hằng. Như thánh Phaolô đã xác định: vào ngày cuối cùng, cái hư hoại trong ta sẽ trở nên bất hoại, cái khả tử sẽ nên bất tử (x. 1Cor 15, 53)” (LM Thái Nguyên, bài “Suy gẫm về sự chết”, nguồn simonhoadalat.com). 

Đức Giê-su khi biết mình sẽ phải chết, đã nhắc đến cuộc ra đi vượt qua của Ngài để các môn đệ yên tâm và không hoảng sợ trước sự chết.Lòng anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em” (Ga 14, 1-2). 

Trong thư Rô-ma, thánh Phao-lô đã khẳng định: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài” (Rm 6, 8).”

Với niềm tin tưởng vào Đức Kitô, niềm an ủi lớn lao là chết không phải là yên nghỉ mà là tiếp tục sống. Vì cái chết chính là ngưỡng cửa đi vào đời sống vĩnh cửu. Với người Ki-tô hữu, “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Thánh Phanxicô Assisi).

 Quả thật, với một cái nhìn đầy lạc quan và hy vọng, một niềm tin về đời sống vĩnh cửu, có sự sống lại đời sau nên trong giờ phút lâm chung thi sĩ Tagore đã thốt lên: “Bởi yêu cuộc đời nên tôi cũng yêu cả sự chết”. (3)

Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận cũng nói: “Sự chết cũng là một bổn phận cuối cùng mà con làm cách sẵn sàng và đầy yêu mến”. (Sách Đường Hy Vọng và Dẫn Giải) 

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tháng 08 năm 2021 

(1) Sách Quyền Năng của Tâm Hồn biết ca ngợi LM Nguyễn Đức Mầu

(2) Trong bài Cảm Nghĩ tuổi già:

xem thêm: Đời Người Luôn Có: 2 Thứ Không Thể Sợ

(3) Trong bài “Kitô Hữu và Sự Chết” của Aug Trần Cao Khải


 

“Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5, 44)

Lời Kinh Đêm

 Lạy Chúa của con!

Trong cuộc sống không tránh khỏi việc có những người hợp với mình, yêu thương mình, nhưng cũng có những người ganh ghét mình, hoặc không đủ quý mến để có thể cảm thông cho mình. Và ngược lại, có những người con rất dễ làm việc chung, có thể ở cạnh 24/24 mà vẫn vui vẻ, vì có thể hiểu và chia sẻ với nhau. Nhưng cũng có nhiều người, thật khó để hòa hợp, thật khó để vị tha, thật khó để yêu thương họ!

Mặc dù hôm nay con chọn câu lời Chúa này, nhưng con lại cầu nguyện cho chính con. Yêu người yêu mình thì rất dễ rồi, nhưng yêu người ghét mình, và cầu nguyện cho những người ngược đãi mình quả là rất khó khăn với con.

Xin Chúa là Cha yêu thương ban sức cho con, để con có thể học từ Chúa cách yêu thương người khác như tình yêu vô điều kiện của Người đối với con người chúng con. Xin Chúa ban ơn cho con, để con có thể yêu thương bao dung người con không thích, mỗi ngày dù chỉ là mỗi chút.

Amen.

*T.A

#lờikinhđêm #loikinhdem #lkd – loikinhdem.org 


 

YÊU KẺ THÙ… KHÓ QUÁ KHÔNG? – Pio Ngô Phúc Hậu

Linh Mục Mi Trầm

Pio Ngô Phúc Hậu

Câu chuyện về Lm Piô Ngô Phúc Hậu

Một linh mục cao niên vùng truyền giáo, được mời đi xức dầu bệnh nhân. Khi về, ngài lẳng lặng đi vào phòng riêng, đóng cửa và gục đầu xuống trên bàn viết. Buồn quá! Buồn tê tái! Buồn đến chết được! Cả đời mới có một lần buồn như thế!…

Nhiều năm sau cha già mới kể lại chuyện buồn hôm ấy…

– Nguyễn – Trần là hai dòng họ nổi tiếng của giáo xứ P.H., đông nhân danh nhất, giàu nhất, có nhiều người làm công chức nhất, công chức bên đạo cũng như bên đời, có nhiều người đi tu nhất, dâng cúng tiền bạc nhiều nhất cho nhà thờ và các cơ sở tôn giáo.

– Hai dòng họ ganh đua nhau từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn. Họ Trần dâng cúng cho nhà thờ một trăm triệu đồng, thì họ Nguyễn sẽ dâng cúng một trăm mốt. Họ Nguyễn có mười người học đại học, thì họ Trần phải cố gắng có mười một. Bên họ Trần có mười người đi tu thì bên họ Nguyễn sẽ có mười một người…

– Một lần kia có cuộc tranh chấp về đất đai. Không bên nào chịu thua. Ban đầu thì cãi nhau to tiếng. Sau đó là chửi nhau thô tục. Cuối cùng là đánh nhau dữ dội. Cả hai bên đều có người u đầu, phù mỏ. Ông trưởng tộc họ Nguyễn bị trọng thương năm thở thoi thóp, rên hư hư…

Cha xứ được mời đi xức dầu bệnh nhân. Cha xứ và nạn nhân nhìn nhau bằng ánh mắt thương cảm. Trước khi xá giải và xức dầu, cha xứ mở lời :

– Xin ông giục lòng ăn năn tội, xin Chúa tha thứ mọi tội, nhất là tội đánh nhau. Vậy ông có sẵn sang tha thứ cho người đánh ông không?

– Thưa cha không. Đây là mối thù truyền kiếp con không thể tha được.

Cha xứ moi trong túi kẻ liệt ra một cây Thánh giá giơ cao lên và rỉ rả khuyên lơn.

– Ông xem Chúa bị đóng đinh đau đớn vô cùng, oan khiên vô cùng. Vậy mà Chúa vẫn cứ một niềm: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.

– Chúa khác, con khác. Chúa tha thứ kệ Chúa. Còn con thì chết cũng không tha.

Khuyên nhủ không được, nói ngọt không được, cha xứ đổi giọng, giọng cứng cỏi, giọng chua chát:

– Nếu ông không tha thứ cho người ta thì Chúa cũng không tha thứ cho ông đâu. Ông phải xuống Hỏa Ngục đấy.

– Xuống thì xuống. Còn tha thứ thì không bao giờ.

Hù dọa không xong, cha xứ chuyển sang chiến thuật năn nỉ:

– Xin ông nhìn xem Chúa bị đóng đinh và xin Chúa ban cho ông ơn quảng đại, bao dung, tha thứ…

– Thôi, thôi, đã nói là thôi…!

Ông trưởng tộc họ Nguyễn không thèm nhìn ảnh Chúa thọ nạn. Ông quay mặt nhìn vào bức tường. Cha xứ thất vọng ôm mặt khóc thầm. Bỗng có tiếng gào lên: “Bố đi mất rồi…”.

Cha xứ lủi thủi ra về. Không Bí tích Hòa Giải, không Bí tích Xức Dầu, không trao Mình Chúa. Sau lưng cha xứ chỉ còn tiếng khóc hậm hực, tiếng khóc oán thù. Chập trùng. Chập trùng.

Một kỷ niệm buồn, buồn tê tái, buồn chưa từng có trong đời mục vụ của một linh mục.

Nghe cha già kể chuyện, mình thấy xót xa trong tim, mình thấy tê tái trên làn da. Buồn quá!

Buồn vô cùng! Buồn lâu lắm rồi mới hồi tỉnh để đặt vấn đề.

– Tại sao một Kitô hữu, một người đạo dòng, một người đang đứng bên bờ vực thẳm của sự chết, mà lại chống đối luật bác ái của Chúa một cách quyết liệt và cực đoan đến như thế?

– Phải chăng “yêu kẻ thù và chúc lành cho kẻ thù” là điều không thể thực hiện được đối với thân phận con người?

– Phải chăng luật bác ái Kitô giáo thay vì nâng con người lên hàng thần thánh, thì lại ném nó xuống làm thân phận con thú?

Hình ảnh ông trưởng tộc họ Nguyễn tắt thở ngay sau khi từ chối nhìn Đức Giêsu thứ tha làm lương tâm mình bứt rứt khôn nguôi. Mình liên tưởng đến những kỷ niệm chồng chất trên đường truyền giáo.

۩ Mình mở một lớp Giáo lý dự tòng. Học viên ngồi đầy phòng lớp. Mình thấy phấn khởi quá chừng. Hôm ấy mình nói về bác ái Kitô giáo. Mình nhắc lại nguyên văn giáo huấn của Đức Giêsu: “Nếu không cầu nguyện và chúc lành cho kẻ thù, thì không xứng đáng làm con của Đấng đã cho mặt trời mọc lên soi sáng cho cả người lành lẫn người dữ…”. Mình đang cao hứng khai triển bài Tin Mừng, thì bỗng cụt hứng.

Một người đàn bà đứng lên dõng dạc phát biểu: “Đạo này khó quá à, tôi theo không được đâu. Tôi có một đứa con dâu, nó hỗn lắm, tôi không thể tha thứ được. Tôi đã ghi băng đàng hoàng dặn con cháu tôi không được coi nó như con cái trong gia đình”. Vừa dứt lời, bà ngoe ngoảy ra về và… không bao giờ trở lại lớp học nữa. Buồn ơi là buồn!

۩ Hôm ấy mình đang rảo bước trên đường phố, thì bỗng phải dừng lại để chứng kiến một chuyện buồn. Một thằng cu tí bên hàng xóm chạy về. Khóc hu hu. Khóc hậm hực. Mẹ nó đằng đằng sát khí.

– Tại sao mày khóc?

– Thằng Tèo nó đánh con.

– Nó đánh mày thì mày đánh nó. Tại sao mày ngu mà khóc?

Người đàn bà đằng đằng sát khí ấy là một Kitô hữu trong họ đạo của mình. Bà dạy con mình trả thù, ngược lại với giáo huấn của Đức Giêsu. Buồn ơi là buồn!

Chuyện buồn này gọi nhớ về một chuyện xa xưa.

۩ Thằng cu tí đang chập chững tập đi. Nó vấp phải cái ghế, lăn đùng ra, khóc òa lên. Mẹ nó lấy roi mây quất lên cái ghế vô tri, vừa quất vừa dạy đời: “cái ghế này làm cho con tao ngã. Tao đánh mày. Tao đánh mày. Chừa nhá”. Được mẹ trả thù giùm, thằng cu tí thôi khóc, sung sướng quá chừng. Người mẹ cũng sung sướng, vừa sung sướng vừa hãnh diện về tài dỗ trẻ em của mình. Bà không ngờ rằng chính bà đang đào tạo đứa con để nó không thể tha thứ như Chúa muốn. Từ bà mẹ này mình nhớ đến một bà mẹ khác.

۩ Bà đang bồng con, thì ông nội đến chơi. Ông nội đón cháu từ tay bà mẹ. Ông cưng cháu, nựng cháu. Nựng theo kiểu đấng nam nhi đội đá vá trời xanh. Ông hôn cháu như bão táp. Ông chà cái cằm râu lởm chởm của mình lên mặt mũi nõn nà của thằng cháu mới lên hai tuổi. Thằng cháu khóc òa lên. Ông nội cười khằng khặc. Bà mẹ lấy tay đánh nhẹ lên vai ông nội, vừa đánh vừa la : “Mẹ đánh ông nội này!… Nín đi con”. Thằng bé được mẹ trả thù giùm, nín ngay. Bà mẹ cười hả hê.

Bà mẹ ấy ơi, bà đã vô tình gieo hạt giống hận thù vào tâm não của em bé. Hạt giống ấy nảy nở và lớn lên bao trùm hết cuộc đời của nó. Thế là nó không thể tha thứ theo yêu cầu của Đức Giêsu. Đáng tiếc vô cùng!

Sau khi ôn lại những kỷ niệm buồn rải rắc đó đây, mình ngẫm nghĩ và ngộ ra rằng “yêu kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ thù, chúc lành cho kẻ thù, để xứng đáng làm con của Cha trên trời” là một giáo lý cao siêu nhưng không vượt tầm với của con người. Loài người có thực hiện được giáo huấn ấy hay không là do những nguyên nhân rất cụ thể.

– Nếu bà mẹ nào cũng lấy roi trừng phạt cái ghế vì nó làm cho con của bà vấp ngã ; nếu bà mẹ nào cũng giả vờ đánh ông nội, để cho con mình nín khóc…, luật “yêu kẻ thù” sẽ mãi mãi ở ngoài tầm với của loài người.

– Nếu có những bà mẹ khuyến khích, năn nỉ con cái tha thứ và cầu nguyện cho những người ghét mình, nói xấu mình… thì giáo huấn “yêu kẻ thù” bắt đầu thăng hoa. Nếu tối nào cha mẹ cũng dạy con xin lỗi nhau trước khi đi ngủ, thì giáo huấn “yêu kẻ thù” đang là hiện thực.

– Thánh Phaolô yêu cầu tín hữu: “Giận ai thì giận nhưng khi mặt trời lặn xuống thì hãy quên hết đi”. Đó là tập luyện tha thứ, y như võ sĩ: tập luyện cơ bắp. Thời gian yêu kẻ thù như một tập quán sẽ chẳng còn xa bao nhiêu nữa.

– Trong thực tế, đã có biết bao nhiêu người sẵn sàng yêu kẻ thù, thứ tha cho người làm khổ mình một cách bất công. Cụ thể là Thánh Stêphanô. Kẻ thù ném đá vào ngài như mưa. Vậy mà ngài vẫn một niềm tha thứ, yêu thương như Đức Giêsu trên khổ giá: “Lạy Chúa, xin Chúa tha cho họ”. Tuyệt vời! Trên tuyệt vời!

“Yêu kẻ thù” là đỉnh điểm chót vót của bác ái Kitô giáo. Khó lắm, nhưng không khó quá. Để vươn tới đỉnh điểm ấy, thì giáo dục và luyện tập là phương tiện cần thiết. Nhưng có bao nhiêu người đang tập luyện yêu thương và tha thứ ?

Pio Ngô Phúc Hậu


 

CẢNH NGƯỜI DÂN BỊ NGẬP LỤT TẠI HÀM THẮNG, LÂM ĐỒNG (BÌNH THUẬN cũ)

Truyền Thông Thái Hà 

Sáng 5/12/2025, hàng trăm nhà dân tại phường Hàm Thắng (Lâm Đồng) đã chìm trong biển nước do sự kết hợp của mưa lớn, triều cường và việc hồ thủy lợi Sông Quao xả lũ. Khu vực này đã bị ngập nặng trong hai ngày liên tiếp.

Mặc dù trời đã hửng nắng, nước lũ vẫn rút rất chậm, khiến nhiều nhà ven sông Cái và nhà ở phường Hàm Thắng vẫn bị ngập gần lút mái và cửa nhà bị xô đổ. Do có kinh nghiệm từ trận lũ trước, người dân đã di dời từ sớm, nhưng nhiều người vẫn ở lại khu trọ để bảo vệ tài sản. Người dân phải dùng xuồng máy để di chuyển và nhiều gia đình ở khu dân cư Bến Lội phải nhận cơm trưa từ thiện do không thể nấu ăn.

Thiệt hại trên toàn tỉnh Lâm Đồng rất nghiêm trọng, ghi nhận một người tử vong. Toàn tỉnh có gần 3.300 nhà bị ngập; hơn 3.300 ha nông nghiệp và hơn 4.000 gia súc, gia cầm bị mất. Lũ lụt cũng gây ra hơn 16 điểm sạt lở và hư hỏng 4 cầu cống. Giao thông bị chia cắt nặng nề khi hơn 300 m Quốc lộ 1 qua cầu Bến Lội ngập gần một mét, và nhiều tuyến đèo quan trọng như Mimosa, Prenn, D’ran, Gia Bắc đều bị ngập lụt.

https://vnexpress.net/khu-dan-cu-o-lam-dong-chim-trong…

https://vnexpress.net/nguoi-dan-phan-thiet-chua-bao-gio…

Sáng 5/12, mặc dù trời nắng song nước rút chậm, hàng trăm căn nhà của phường Hàm Thắng vẫn chìm trong biển nước. Ảnh: Phước Tuấn

 Xấu hổ và vô cùng xấu hổ

Việt Nam Thời Báo

 

Cầu Long Biên khánh thành năm 1902 sau khi khởi công xây dựng 1898, mất 4 năm. Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn khởi công 1877 và khánh thành năm 1880, mất 3 năm. Tuổi đời của Cầu Long Biên là 120 năm. Tuổi đời của Nhà Thờ Đức bà là 142 năm.

Hai công trình điển hình này do Thực dân Pháp “cướp nước” ta để lại như là dấu tích của một thời thực dân. Giờ đã đến lúc phải sửa chữa cho những thứ tồn tại hàng thế kỷ như vậy.

Nhưng… Cầu Long Biên muốn sửa chữa nhưng trình độ Công nghệ của ta, tạm gọi vậy cho có vẻ khoa học, rất kém. Nên đang muốn nhờ chính phủ Pháp cho tiền để sửa chữa và… cử người Pháp sang làm cho gọn.

Nhà thờ Đức Bà cũng chẳng khác gì. Sửa chữa từ 2017 khi Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn là người Quản trị Công trình này cam kết với Ủy Ban Nhân dân TP.HCM là họ sẽ hoàn thành năm 2019 vì đã có tiền để làm. Đến cuối 2018 thì họ xin thêm đến 2023 vì “nó phức tạp quá”.

Đang mừng khấp khởi là đến 2023 sẽ gỡ hàng rào bao quanh. Không!

Chiều ngày 04/08/2022 giới chức có thẩm quyền công bố là họ mới xin đến 2027, tức là 5 năm nữa mới hoàn thành sửa chữa và vẫn còn thòng thêm câu là “trong tình hình diễn biến thuận lợi, nếu có những phát sinh mới sẽ được bổ sung để xin gia hạn tiếp giấy phép sửa chữa”. Tức là chưa chắc 2027 là thời hạn cuối cùng mà sẽ là dài dài. Việc còn đến 5 năm nữa mà vẫn không hoạch định được việc mình làm cho thấy gì.

Điều đáng nói là tất cả các chuyên gia phục hồi sửa chữa này đều là từ Pháp và Ý sang từ 2017, tức là người Việt vẫn không thể làm được cái việc mà người Pháp 142 năm trước đã làm.

Từ cầu Long Biên đến Nhà Thờ Đức Bà đều chung một kết quả thấy được: người nước ta không biết và không làm chủ được những thứ tri thức và kỹ năng đã có từ hàng thế kỷ trước.

Vậy chúng ta bước vào kỷ nguyên 4.0 bằng cái gì? Bằng việc không học Số học và nhảy luôn vào Đại số hay sao. Bằng việc không học Tiểu học mà thi thẳng lên Tiến sĩ hay sao.

Đất nước có 26.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ, tức là 10 Sư đoàn thạc sĩ mà đến lúc sửa cầu Thăng Long do Liên Xô làm từ 1985 vẫn không làm nổi.

Công nghệ của Pháp hơn 140 năm trước vẫn không hiểu gì chưa nói tới chuyện để làm. Vậy đất nước ta, dân tộc ta đứng ở đâu trong kho tàng tri thức của Nhân loại.

Rất xấu hổ!

Vô cùng xấu hổ!

Và bất lực!

Hung Phan


 

Đời là bể khổ, thái độ của chúng ta trước đau khổ – Phùng Văn Phụng

Phùng Văn Phụng

1)Có ai trong chúng ta nói rằng suốt đời không có đau khổ? 

Nhà Phật nói đến Khổ đế (là một trong tứ diệu đế): Sự thật về đau khổ có ba thứ làm chúng ta đau khổ là:Tuổi già, bịnh tật và cái chết. Ngay cả khi không già, không bịnh tật và chưa chết, con người vẫn đau khổ vì khi ta có những ham muốn và thèm khát nhưng ta không đạt được ước nguyện đó. Ngay cả khi thoả mãn những nhu cầu đó rồi sau đó ta vẫn chán nản, không hài lòng nên dẫn đến đau khổ (1) 

Dầu nghèo nàn hay giàu có, dầu sang trọng hay hèn kém đều đã trải nghiệm đau khổ. 

Nếu nghèo không có tiền đi bác sĩ mua thuốc trị bịnh. Khổ vì không có tiền để trả tiền điện, nước, tiền chợ, tiền sinh hoạt tối thiểu cho các nhu cầu căn bản để sống còn, để tồn tại. Khổ vì nợ nần chồng chất không biết bao giờ trả được. 

Người có tiền cũng khổ; hoặc bị mất tiền vì bị lường gạt, bị đánh cắp, hoặc con cái hư hỏng không chịu học hành theo băng nhóm hút sì ke, ma túy, phá làng, phá xóm v.v…

Có người đau khổ vì bị người yêu bất ngờ chia tay.  

Khổ thể xác vì không đủ cơm ăn, áo mặc, cực nhọc cả ngày, đổ mồ hôi để kiếm miếng ăn. 

Khổ vì chẳng may gặp gặp bịnh nan y như ung thư, stroke, heart attack rồi bị tê liệt nằm một chỗ không chữa trị được.   

Hoặc con người bị bịnh đui mù, què quặt do bẩm sinh hay do biến chứng từ các bịnh khác.

 Khổ tinh thần vì mất người thân yêu do tai nạn xe cộ hay tai nạn dưới nước như tắm biển, câu cá bị nước cuốn, hay bị lật thuyền. 

Con người còn bị đau khổ vì mất chức, mất quyền, mất tiền bạc v.v… 

Con người còn chịu đau khổ vì bị mất danh dự do bị vu cáo, vì vô tình hay cố ý bị đặt chuyện, dựng chuyện để nói xấu, hạ uy tín, hạ nhục làm cho chúng ta đau khổ. 

 2)Đau khổ không chừa một ai. Còn sống là còn đau khổ. 

*Cảm nghiệm đau khổ, cay đắng, đau đớn khi tôi mất đi đứa con trai đang sống chung trong nhà chỉ mới 48 tuổi. Cháu đóng góp mọi thứ sinh hoạt trong gia đình. Ra đi vì tai nạn khi hai con còn nhỏ 16 và 11 tuổi. Con trai tôi chịu sống chung mặc dầu đủ điều kiện ra ở riêng. Ở chung nhà để đóng góp mọi chi phí sinh hoạt trong nhà như điện nước, thuế má…

Khi vắng bóng con trai, bầu khí trong nhà vô cùng trống vắng, vẫn còn cảm giác con tôi đi đâu đó, sẽ trở về?

*Sau tháng 04 năm 1975, đang có đời sống tự do thoải mái với vợ và các con. Bị cộng sản lường gạt, kêu gọi “trình diện học tập cải tạo”, đi trình diện, bị tù gần 8 năm trong các trại tù trong rừng núi âm u, sơn lam, chướng khí ở miền Bắc như Lào Cai, Vĩnh Phú… bị bỏ đói triền miên. Ăn bo bo không xay, ăn khoai mì (ngoài bắc gọi là sắn) cứng ngắt, ăn bắp, ăn khoai trừ cơm. Mỗi bữa cơm được phát vài khúc khoai mì đắng nghét, hoặc vài trái bắp cứng ngắt với tô canh rau muống chỉ lỏng bỏng nước và vài cọng rau. 

Trong tù tất cả anh em đều sụt cân, ốm nhom, ốm nhách như những bộ xương cách trí biết đi. Những năm 1978, 1979 cứ vài ngày anh em tù chúng tôi đã ra đi vì kiệt sức.

Đây là cảm nghiệm đau khổ lâu dài nhất. 

 * Cuộc đời của thánh Gióp cũng là bài học suy ngẫm về cuộc đời mà nhiều người hay than thở “đời là bể khổ”. 

Ông Gíóp là người kính sợ Thiên Chúa. Bảy người con trai và ba người con gái đều chết hết và tài sản của ông cũng bị cướp hết, nhà cửa không còn. 

Bấy giờ ông Gióp trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: 

“Thân trần truồng sinh ra từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. ĐỨC CHÚA đã ban cho, ĐỨC CHÚA lại lấy đi: Xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA (Gióp 1-20,21) 

3)Tại sao Thiên Chúa là Đấng tốt lành và nhân từ vô cùng lại để chúng ta phải chịu đau khổ? 

Lm Paul O’Sullivan đã viết như sau: 

*Nguyên nhân rất đơn giản chỉ vì đau khổ là một hồng ân trọng đại (trang 113) (1)

Khó khăn lớn nhất về đau khổ là chúng ta không biết cách chịu đau khổ.

(trang 115) (2)

Những đau khổ hằng ngày của chúng ta, đau khổ nhỏ nhất cũng như đau khổ lớn nhất, nếu như chịu được cho nên, sẽ đem lại cho chúng ta triều thiên tử đạo.

-Nếu chúng ta không chịu đau khổ cho nên thì chúng ta sẽ bị mất hết các ân sủng và phần thưởng vô giá mà đau khổ lẽ ra đã đem đến cho chúng ta. 

Chúng ta hãy ghi nhớ những điều này về vấn đề đau khổ: 

*Mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta được thông phần vào cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu Kitô, vì thế đau khổ đem lại một công phúc khôn lường.

*Nếu chúng ta biết chấp nhận một cách nhẫn nại vì lòng mến Chúa, đau khổ sẽ mất hết nọc độc và sự cay đắng của nó.

*Nếu chúng ta cầu xin, nhất định Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta dư đủ sức mạnh để chấp nhận đau khổ Người gởi đến cho chúng ta.

*Những đau khổ sẽ cứu chúng ta khỏi những cực hình ghê rợn trong luyện ngục.

*Đau khổ, nếu chịu cho nên, sẽ làm cho chúng ta trở nên những vị thánh.(3) 

(1) (2) (3) Trích Sách “Con đường nên thánh dễ dàng” của Lm Paul O’Sullivan, O.P 

 Phùng Văn Phụng 

(1)               Tứ diệu đế là gì?

(2)               https://hoasenphat.com/kien-thuc-phat-giao/y-nghia-bon-chan-ly-cua-tu-dieu-de.html 

Ngày 25-10-2021


 

Hậu quả của một cơn giận – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tức giận là gì?

Theo Medicinenet, tức giận hay giận dữ (anger có nguồn gốc từ ngôn ngữ cổ Bắc Âu) là một phản ứng cảm xúc liên quan đến việc tâm lý con người khi đang bị đe dọa.

Tức giận cũng là do đặt cái tôi của mình quá lớn, do kiêu ngạo (tội tổ tông Adam và Eve muốn bằng trời hay con người muốn làm tháp Babel để lên tận trời cao). Do tự cao, tự đại coi khinh người khác học thức kém, nghèo hơn, nhân cách thua mình v.v…cho nên khi mình bị xúc phạm hay không vừa ý người nào hay bất cứ chuyện gì, thì nổi “khùng” lên mắng chửi, to tiếng, nặng lời, hăm dọa, đánh đập, bắn giết…

Khi giận quá, con người mất khôn, không còn kiểm soát được chính mình nữa và có những hành động ghê gớm, điên rồ, không thể tưởng tượng được như…

Chuyện 1:

Cãi nhau, chồng lao xe hơi chở vợ con xuống sông Hoài, 3 người chết

January 25, 2019

Cãi vã nhau, người chồng tức giận lái xe hơi đang chở vợ và hai con lao thẳng xuống sông Hoài ở thành phố Hội An, khiến 3 người chết. Trong xe hơi lúc này có bốn người gồm hai vợ chồng và hai đứa con. Hai vợ chồng cùng con trai tử vong, riêng bé gái (14 tuổi) biết bơi nên khi xe lao xuống sông đã nhanh chóng thoát ra ngoài, bơi vào bờ kêu cứu.

Hiện trường trục vớt chiếc xe hơi và thi thể các nạn nhân. (Hình: Tuổi Trẻ)

Chuyện 2:

Cãi nhau vì chiếc điếu cày, em đâm chết anh trong ngày cúng cha

13/09/2019

TTO – Người anh muốn mang điếu cày lên chùa trong lễ cúng bố 49 ngày để mọi người cùng hút, người em không đồng ý, hai anh em xảy ra xô xát. Hậu quả là người anh bị em trai đâm chết.

Hiện trường nơi xảy ra vụ việc – Ảnh: KHÁNH LINH

Chiều 13-9 (2019), lãnh đạo Công an tỉnh Thái Bình xác nhận thông tin trên, đồng thời cho biết Cơ quan CSĐT công an tỉnh đang cùng các đơn vị nghiệp vụ, Công an huyện Kiến Xương khẩn trương điều tra làm rõ nguyên nhân.

Theo thông tin ban đầu, vào sáng 13-9, gia đình người thân ông Nghiêm Văn Th. (trú ngụ địa chỉ trên, đã mất) tổ chức làm lễ cúng tuần 49 ngày cho ông Th.

Trong lúc chuẩn bị lên chùa làm lễ, giữa hai anh em ruột Nghiêm Văn Thắng (29 tuổi) và Nghiêm Văn Thành (20 tuổi) xảy ra xích mích dẫn đến xô xát.

Trong lúc nóng giận, anh Thắng đánh Thành gãy răng cửa. Bị đánh đau, Thành vớ con dao trong bếp truy đuổi anh trai.

Anh Thắng bỏ chạy, nhưng đến khu vực ngã tư gần chợ Bặt (thuộc địa phận xóm 6, xã Quang Bình) thì bị Thành đuổi kịp. Thành đã dùng dao đâm nhiều nhát khiến anh Thắng gục ngay tại chỗ.

Người dân sau đó đưa nạn nhân đi cấp cứu nhưng anh Thắng đã tử vong. Đến gần 15 giờ cùng ngày, thi thể nạn nhân được đưa về gia đình để lo hậu sự.

Nghi phạm Thành đã bị cơ quan công an bắt giữ ngay sau đó.

Chuyện 3:

Bị rầy la chuyện ăn nhậu, con trai cứa cổ mẹ già 72 tuổi

13/11/2019

Tho Em về nhà gặp mẹ ruột là bà Phạm Thị Thiểu (72 tuổi). Bà Thiểu la mắng Tho Em không lo làm ăn, phụ giúp gia đình mà tối ngày lo ăn nhậu.

Giữa hai mẹ con xảy ra cự cãi, Tho Em bỏ đi ra ngoài đường. Đi được một đoạn, Tho Em bực tức nên quay lại nhà, đi thẳng vào bếp cầm lấy con dao rồi cứa cổ mẹ ruột khiến bà Thiểu tử vong tại chỗ.

Sự Chế Ngự Cơn Giận Dữ Của Bạn

Cơn giận dữ hay sự thù hận, khi đã gây ra, có thể có những kết quả tai hại khôn lường.

Theo Tờ Thông-báo, trong một năm, 80 phần trăm những nạn nhân bị giết trong một tiểu bang, thường bị giết bởi những thành viên trong gia đình hay những người bạn thân thiết. Hầu hết những sự tấn công tai họa này là kết quả của những cuộc cãi nhau hằng ngày, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.

Hay là, như Bác sĩ Cecil Osborne giải thích trong cuốn sách của ông, cơn giận bị đè nén dần dần hiện ra trong “dạng của vài căn bệnh thần kinh: những ung nhọt, bệnh suyễn, chứng viêm khớp, chứng viêm ruột kết, chứng viêm da, những sự phiền não về tim hay bất cứ một tỷ lệ của cái khác.”

Làm sao giải quyết được cơn giận.

Cần sáu bước như sau:

1-Thật thà thú nhận sự giận dữ của mình.

2- Chấp nhận có sự giận dữ

3- Quyết định giải quyết nó

4- Diễn đạt cảm giác giận dữ của bạn nột cách sáng tạo trong tình yêu thương

5- Kiểm soát nó nếu bạn đang cảm thấy sợ hay đe dọa

6- Khi bạn đã chia xẻ cơn giận của bạn rồi tiếp theo là hãy tha thứ…

Kết: Tóm lại, sự giận dữ tạo ra những hậu quả không lường trước được mà báo chí hằng ngày vẫn thường xuyên nêu lên những trường hợp giết chóc nhau vô lý cũng vì không đè nén được sự giận dữ.

Sức người không làm được nhưng nhờ ơn Chúa, cầu nguyện với Chúa thì ta có thể làm được.

Đức Đạt Lai Lạt Ma nói:

“Hạnh phúc không phải là một vấn đề của số phận. Đó là vấn đề lựa chọn.”

Ông nói:

Hãy thận trọng với suy nghĩ của bạn bởi vì suy nghĩ sẽ trở thành lời nói.

Hãy thận trọng với lời nói của bạn bởi vì lời nói sẽ trở thành hành vi.

Hãy thận trọng với hành vi của bạn bởi vì hành vi sẽ trở thành thói quen

Hãy thận trọng với thói quen của bạn bởi vì thói quen sẽ tạo thành tính cách.

Hãy thận trọng với tính cách của bạn bởi vì nó sẽ tạo thành vận mệnh

và vận mệnh của bạn sẽ chính là cuộc sống của bạn.

Đức Đạt Đai Lạt Ma, trong bài:

(Đối thoại giữa Đạt Lai Lạt Ma và Leonardo Boff)

Suy nghĩ về bài dưới đây để tâm tư, tình cảm của chúng ta lắng đọng lại, không còn hơn thua, tranh chấp, nhất là tranh chấp giữa vợ chồng, cha con, mẹ con, anh em bà con lẫn nhau.

MỘT NGÀY, MỘT NĂM VÀ MỘT ĐỜI NGƯỜI

Một ngày rất ngắn, ngắn đến mức chưa nắm được cái sáng sớm thì đã tới hoàng hôn.

Một năm thật ngắn, ngắn đến mức chưa kịp thưởng thức sắc màu đầu xuân thì đã tới sương thu.

Một cuộc đời rất ngắn, ngắn tới mức chưa kịp hưởng thụ những năm tháng đẹp thì người đã già rồi.

Luôn luôn đến quá nhanh mà hiểu ra thì quá muộn, cho nên chúng ta phải học cách trân trọng, trân trọng tình thân, tình bạn, tình đồng nghiệp, tình yêu, tình vợ chồng, tình phụ mẫu, tình đồng loại …

Vì một khi đã lướt qua, thì khó có thể gặp lại.

Sau 20 tuổi, thì đất khách và quê nhà giống nhau vì đi đến đâu cũng có thể thích ứng.

Sau 30 tuổi, thì ban ngày và ban đêm giống nhau vì mấy ngày mất ngủ cũng không sao.

Sau 40 tuổi, thì trình độ học vấn cao thấp giống nhau, học vấn thấp có khi kiếm tiền nhiều hơn.

Sau 50 tuổi, thì đẹp và xấu giống nhau vì lúc này có đẹp đến mấy cũng xuất hiện nếp nhăn và tàn nhang.

Sau 60 tuổi, thì làm quan lớn và quan bé giống nhau vì nghỉ hưu rồi cấp bậc giống nhau.

Sau 70 tuổi, thì nhà to và nhà nhỏ giống nhau vì xương khớp thoái hóa không thể đi được hết những không gian muốn đi.

Sau 80 tuổi, thì tiền nhiều và tiền ít giống nhau vì có tiêu cũng chẳng tiêu được bao nhiêu tiền.

Sau 90 tuổi, thì nam và nữ giống nhau vì không thể làm nổi chuyện ấy nữa.

Sau 100 tuổi, thì nằm và đứng giống nhau vì đứng dậy cũng chẳng biết làm gì.

Cuộc đời của bạn và tôi là như vậy, không khác nhau nhiều…

Nhìn ra, hiểu được, cuộc đời là như thế…

Trân trọng những thứ đã có và đang có…

(Sưu tầm trên net)

Vậy mà tại sao con người còn thù hằn, giận dai, giận suốt đời, đến nỗi trước khi chết còn dặn thân nhân: “cấm không cho đương sự đến thăm tôi, tôi sẽ làm cho nứt hòm đó”.

Sao không khiêm nhường, cảm thông, yêu thương và tha thứ cho nhau vì trong Kinh lạy Cha có dạy: “xin Cha tha nợ cho chúng con cũng như chúng con tha kẻ có nợ chúng con” để lòng thanh thản, tràn ngập yêu thương, để đón nhận tình yêu thương của Cha trên trời, sau khi lìa khỏi cõi đời tạm bợ này.

Phải vậy không?

Phùng Văn Phụng

11/2019

 Gió chướng đã đổi chiều – Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

06/12/2025

 Reviendrez-vous un jour, ô frères exilés(Một ngày nào đó, các anh sẽ trở về, ôi những đứa con lưu lạc)

  Cách đây đúng 50 năm-đúng nửa thế kỷ- trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge thuộc hạm đội thứ 7 đang đậu ngoài khơi bờ biển Việt Nam VN vào lúc miền Nam đang hấp hối.

Trên phòng chỉ huy của viên đô đốc Hạm đội thứ bảy, người ta thấy tề tựu đông đủ các ký giả nhà báo Mỹ đã từng có mặt trên các chiến trường VN như Stanley Karnov, tác giả cuốn Viêt Nam, a history. Frank Sneppp với các cuốn: Decent Interval và An Insinder Account of Saigon. David Halberstam với The best and the Brightest.. và Neil Sheehan, John Kenneth Galbraith..vv.

Tất cả bọn ký giả này, trừ Stanley Karnov và trum mật vụ Frank Snepp  đều là bọn ký giả thuộc thành phần phản chiến, luôn tìm cách bêu xấu và phát biểu tiêu cực về miền Nam. Bọn họ gián tiếp là nguyên cớ đưa đến sự suy sụp miền Nam vào ngày 30 tháng tư, 1975, toa rập với tên H. Kissinger.

Tôi gọi sau này là: Người Mỹ thua Mỹ ngay tại Mỹ.

Đặc biệt, phụ tá Trùm mật vụ Frank Snepp đã từ Đài Loan đến đây được vài giờ để đón tiếp một nhân vật quan trọng: Đại sứ Martin. Ông đại sứ là người Mỹ cuối cùng rời VN mà trên tay chỉ ẵm theo một gói: Đó là lá cờ Mỹ. Ngay khi vừa đặt chân lên bong tàu vào lúc 2 giờ 47, giờ Sài Gòn, ông nhận được một điện tín của H.Kissinger với nội dung như sau:

« Với lời khen ngợi nồng nhiệt vì ông đã chu toàn toàn trách nhiệm. Nước Mỹ đến như thế nào thì lúc ra đi cũng như thế!!!”

Nhìn từ trên bong tàu, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền nhấp nhô như lá tre trôi trên biển. Đó là những thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy Cộng Sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này?

Chẳng ai trong số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó có thể tiên đoán đuợc điều gì. Chỉ biết bỏ chạy đã. Chữ bỏ của chạy lấy người diễn tả đúng trong hoàn cảnh như thế này. Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc quan nhất.

Và đã có hơn 100.000 ngàn người trong số 250.000 ngàn người như thế đã được vớt đi định cư.từ các chiến hạm của hạm đội 7. Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng đến tức tưởi. Số phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả như những lá tre?

Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ đợi họ.

Bằng mọi giá họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại, nhiều người không mường tượng nổi, họ đã có thể làm một điều như vậy.

Nhưng cái “sô” vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng tư và đầu tháng năm của người Mỹ cũng nói lên được cái gì:

 Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành tráng, ngay cả việc trốn chạy.

Đó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy trốn làn gió chướng từ trong đất liền đã thổi giạt họ ra biển..

Nhìn cảnh tượng đó, Stanley Karnov quay sang David Haberstam vừa cười vừa nói: Công việc đang xảy ra trước mắt chúng ta đây, ngày hôm nay như những chứng nhân lịch sử vào những giờ phút cuối cùng của miền Nam chắc hẳn có công của ông đấy.

Haberstam trả lời:

Tôi chỉ là một ký giá làm việc cho quyền lợi nước Mỹ trên mảnh đất nghèo nàn và khốn khổ này. Mỗi người Mỹ đến đây mang theo mình một trách nhiệm, một sứ mệnh.

  Chẳng hạn sứ mệnh của E. Lansdale và tôi- mặc dầu khác nhau- Nhưng tất cả, chúng ta đều làm vì nước Mỹ!!

 – Chắc là ông hãnh diện lắm.

– Đương nhiên, vì thế mà tôi có mặt ở đây trong giời phút này. Thôi, mời ông nhìn xem cảnh tượng dưới kia xem.

Ông cứ tưởng tượng, trong số 100 ngàn người dưới kia, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên, Cái hình ảnh ngưới lếch thếch, lang thang với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn

Nếu tôi là họa sĩ, tôi chỉ vẽ lên cái cảnh này đũ diễn tả cái hiện trạng người Việt bỏ chạy. Và nếu cần nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những người bỏ chạy thì có thể tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai cả

Bài hát vui Que sera sera của Doris Day trở thành câu hỏi cho mỗi người Việt bỏ nước ra đi.

Những điều nhận xét của ký giả Haberstam sau này chỉ đúng có một nữa phần đầu của câu chuyện.

Trong lúc đó, một sĩ quan đang trình với viên đô đốc chỉ huy chiến hạm 7 là có một vị tướng lãnh trẻ VN(NCK) vừa đáp trực thăng của ông xuống bong tàu muốn được gặp.

Vị đô đốc ra lệnh một cách tắt gỏng là: Ông nói với ông ta là tức khắc cởi bộ quân phục cũng như lon của ông ra và không được tuyên bố gì..

Đây là nước nước Mỹ trên biển chứ không phải là VNCH nữa.

 Nhiều người sau này cho biết là viên tướng VN sau đó đã nhục nhã khóc, quỳ xuống, ngữa mặt lên trời và hét to lên:

« Ta thề với trời đất là ta sẽ trở về.”

Sau này được biết là ông đã giữ đúng lời thề, ông đã về..

Nhưng vấn đề là về để làm gì và về như thế nào? Đó là chuyện khác.

Và cứ như thế, không phải chỉ có đêm 29 tháng tư, mà tiếp câu chuyện đêm nay còn được tiếp diễn dài dài.

Các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng theo nhịp độ của những chính sách của Hà Nội như “đi vùng kinh tế mới”. “học tập cải tạo”, “đánh tư sản, mại bản”, và cuối cùng “đi bán chính thức” nhằm vào giới Hoa Kiều. Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số người trốn ra đi khỏi nước.

Tổng cộng đã có gần hai triệu người trốn đi như thế.

Đấy là còn chưa kể những nguời để lại xác trên biển cả. Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng ai có thì giờ tìm hiểu làm gì. Người chết thì đã chết. Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng nguây ngoa, người Việt đến được các xứ tự do mọi người đều quyết tâm cất cật lực để lo sinh kế, miếng ăn trước đã.

Tất cả những chính sách vừa kể trên là nhằm đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Mỹ Ngụy. Nước nhà đã độc lập, nay bỏ nước ra đi thì không phản động thì còn là cái gì?

Nhưng chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra ra nước ngoài sinh sống.

Và cuối cùng để giữ thể diện, vừa loại bỏ được những thành phần ” rác rưởi” muốn vứt, vừa kiếm được tiền hoặc để trao đổi trong thương thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình “ra đi trong vòng trật tự”(orderly Departure Program).

Thảm cảnh thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ đi nhiều.

Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier noir du Communisme)(1) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu:

Những con bò sữa thuyền nhân”.

Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về?
(1) Cuốn sách Le livre noir du Communisme, Hắc thư về chủ nghĩa cộng sản, do nhà Robert Laffont xuất bản, Paris, năm 1997, 846 trang do Stephane Courtois cầm đầu với 11 tác giả.

Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại tiền bạc, nhà cửa ruộng vườn. Họ đã vắt được bao nhiêu sữa ở những con bò đó:

Vắt lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về.

 Nói chi đâu xa, tôi có căn nhà kiểu biệt thự ở số 224B Nguyễn Hùynh Đức, quận Phú Nhuận. Căn nhà đó lúc mua là 5 triệu 300 ngàn trước 75. Tính theo trị giá vàng thời đó là khoảng 80 chục cây. Ra đi hợp pháp, có giấy tờ hẳn hoi, đi bằng cửa chính ra Tân Sơn Nhứt.
Kể cũng lạ, tên đường phố ở Sài Gòn thường đổi cả, chỉ có phi trường Tân Sơn Nhứt là vẫn để nguyên, phải chăng bởi vì tên đó chẳng gợi nhớ lên một ấn tượng gì? Lúc ra đi, cái được coi như giấy thông hành là mảnh giấy mà nội dung như sau: Căn nhà 224B Nguyễn Huỳnh Đức do nhà nước quản lý. Quản lý là giữ giùm? hay giữ luôn?

Việc ra đi theo diện người Hoa, bán chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản nằm trong tay Bộ nội vụ. Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm “nhổ sạch lông” những bọn người lưu vong này.

Kẻ dỗi hơi ngồi tính nhẩm chuyện nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25 tấn vàng. Tôi không tin vào con số, đúng sai khó đoán vì không biết tính toán. Nhưng ấn tượng trong đầu tôi là nhiều lắm, nhiều lắm lắm. Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ.

Vẫn là chuyện vắt đi. Vắt lại mới là quan trọng.

Trách chi những nhà báo Mỹ ở trên. Chính người Việt đã quên cái thảm cảnh liều chết ra đi với bất cứ giá nào,

 Nay họ đã quay trở về mà không thấy tủi hổ và khongo biết ngượng.

Và để gọi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nuớc, bọn tay sai. Cho mãi đến 1990 cũng còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian. Nói chung họ coi đó là thành phần rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải loại, muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài. Nghĩa là có sự phân biệt đối xử giữa người trong nước và ngoài nước.

Sau này chữ được dùng hơn cả là Việt Kiều.

Rồi cứ như thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước cũng như kiều hối đã bắt buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn, thế bắn. Không ai có thể từ chối được những món quà, không phải 10 đô la trong ngày lễ Noel mà là 3 tỉ đô la. 3 tỉ đô la! Không phải chỉ 3 tỉ đô mà nay nhiều lần hơn 10 tỉ-15 tỉ, chiếm tỉ trọng một phần ba ngân sách nhà nước.

Nhờ đó tình nghĩa hàn gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình thường chỉ được coi như kẻ thù.

Gió đã đổi chiều nên ngôn ngữ cũng đã đổi theo. Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi trường Tân Sơn Nhứt đến Nội bài chạy thẳng vào Bắc bộ Phủ.

Thật là trớ trêu đến nực cười ra đi trốn chui, trốn nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân..

Những thành phần rác rưởi ta vừa nói ở trên, những con bò sữa đã vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà người ta có thể chế biến thành những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh. Đã chẳng ai ngờ điều đó đã xảy ra. Rác rưởi cứ thể đổi hình đổi dạng mà tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.

Những anh thuyền chài có thể ra đi vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ oe oé mà nếu không có cuộc đổi đời này cùng lắm chỉ bán cá chợ Trần Quốc Toản.

Kể gì đến những hiện tượng nhỏ nhoi đó.

Đã có rất nhiều thay đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người Việt di tản, nhất là nơi người trẻ. Họ không còn là cô nữ sinh cười e lệ, hỏi không dám mở lời mà nay là những chuyên viên hàng đầu của xã hội Mỹ. Có những người trong bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ. Có người trong bọn họ cùng với bạn đầu tư nửa tỷ đô la tại nơi mà trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ..Củ Chi với những địa đạo, nơi tự hào về cuộc chiến thần thánh trong tương lai trở thành biểu tượng “thung lũng của ngành tin học.”

Đã chẳng ai từ hai phía, người trong nước cũng như người nước ngoài nhìn thấy được điều đó ngay từ đầu.

Chuyện kể ra như một giấc mơ hay như câu chuyện thần thoại.

Và cái kim chỉ đường cho người Việt tương lai là hãy nhìn vào giới trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc về họ, đời sống thuộc về họ, cộng đồng VN là họ.

Không phải do một thiểu số những người lớn tuổi như tôi. Những người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà quên phần cuối.

Những người không biết kể chuyện và những câu chuyện kể càng ngày càng nhạt phèo như nước ốc.Thời của họ đã hết. Ngay cả Thời của Thánh thần hay Thiên đường mù cũng bị bỏ quên lãng.

Những người còn bám víu vào quá khứ có thể được coi là những người không thức thời. Nhưng nếu không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ?

Họ chỉ còn là những loài củi mục trong đám cây rừng đang xanh lá. Củi mục thì làm gì? Đốt làm củi cũng không xong.

Nhưng chắc hẳn nhiều người không

nghĩ như thế. Bỏ vấn đề chính tri, lịch sử xã hội qua

một bên thì vẫn còn lại vấn đề nhân cách, vấn đề đạo lý con người. Củi mục thì cũng vẫn là củi.

Người ta nói, nhìn cây thì thấy rừng, nhưng nhìn củi mục thì thấy gì? Thà là như anh thuyền chài, thà là như chị bán cá nói tiếng Mỹ oe éo.

Thà là như thế.

Phải nhớ rằng cuộc ra đi bất hạnh đã trở thành đại hạnh cho chính mình, cho con cháu mình, cho cái nơi mình đi tới và cả cái nơi mà từ đó mình đã ra đi.

Hãy nhìn vào những con số để nhận ra câu chuyện thần thoại về người Việt di tản.

Năm 1987, có 8 ngàn người về thăm quê hương, đến năm 1993 thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm 2002 là 380 ngàn người. Con số tự nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ lẽ ra. Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một sốn tiền tươi là 2 tỷ 6 đôla trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm 2003, Việt Nam xuất khẩu được 20 tỉ đôla, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?

Có một điều, nhiều người vô tình quên là năm nay có 2 triệu lượt khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách tiêu 2000 đô la đầu người. Số tiền thu được sẽ là bao nhiêu? Trong số 300.000 người Việt về thăm quê hương, cứ cho là vừa tiêu sài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho một chuyến về thăm quê hương, cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế Việt Nam đã được kích cầu lên không nhỏ.

Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đầy hứa hẹn.

Đó là nền kinh tế sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói.

10 năm nữa, dự đoán số khách du lịch là 10 triệu người-năm như Thái Lan hiện nay, với các đường bay thẳng Sài Gòn-Mỹ, Sài Gòn-Âu Châu. Chuyện đã xảy ra và chắc sẽ xảy ra.

Lúc đó tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên hiện nay trên hầu hết 60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ kiểu.

Điều đáng nói hơn nữa là nay có một số Việt Kiều về nước kinh doanh đầu tư với 74 dự án được chấp nhận với số vốn 540 triệu đô la. Những Việt kiều như Nguyễn chánh Khê với phát minh chế tạo thành công than Nano áp dụng vào việc sản xuất mực không phải là hiếm.

Năm vừa qua, dự án khu khách sạn Vinpearl Resort- Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre, Nhatrang đã khánh thành vào cuối năm với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng.Phần lớn các số tiền đầu tư này tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.

Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc lời gọi Việt Kiều là những người con của đất nước. Những lời lẽ trân trọng mật ngọt đã hẳn là không thiếu. Gió chướng đã không còn nữa.

Gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa.

Trên tất cả các sách báo, trên các trang nhà, không còn có thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến chế độ miền Nam trước đây nữa.

Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa.

Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như “Tổ quốc Việt Nam, quê hương thân thiết luôn giang rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ.”

Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước”.

Luật quốc tịch điều hai thì viết rõ ràng thế này:” Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam “Người Việt nam ở nước ngoài là bộ phần không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.”

Nhà nước lại còn trích dẫn câu nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi xem ông nói lúc nào và bao giờ: “Tổ quốc và chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng. Đất nước hòa bình..” bác nói với kiều bào ở Thái lan về nước năm 1960.

Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy bay và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được. 29 năm sau, câu chuyện kể về thuyền nhân chỉ còn là dĩ vãng mà cả bên này bên kia đều đã quên hoặc cố tình quên.

Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà nước chính quyền hoan hỉ nhận những đồng tiền Đôla từ mọi nơi gửi về cũng như người Việt mang tiền về nước.

Mang tiền về thì được chứ đừng mang chữ về. Chữ hiểu theo nghĩa rất rộng là sách báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ thuật.

Từ khi có nhà nước Cộng Sản đến nay..Chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng.Nó nằm trong một hệ thống khép kín: Chủ nghĩa hay ý thức hệ – bạo lực khủng bố – và một chính quyền toàn trị. (ideology, terror and totalitarian government).

Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người ta thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm:

chẳng hạn anh có thể cờ bạc, chơi bời đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn vừa chơi đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu, lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu cơ đủ kiểu, công an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, cơ quan đủ kiểu, chính quyền địa phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp xử thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối cùng xã hội lọan đủ kiểu.

Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng đến chính trị.

Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những đủ kiểu đó. Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng đến chính trị.

Phải nhìn nhận rằng, sự suy đồi đạo đức xã hội ở VN đã đi quá xa đến mức nó xuống cấp, vượt xa những nước tư bản Phương Tây. Đến nỗi phải kêu lên một câu: Có nước nào như nước ấy không?

Phát triển kinh tế không đồng nhịp với cải tiến xã hội và đạo đức. Về Xã hội, chỉ nhìn giao thông đường phố Sài Gòn, Hà Nội là đủ hiểu. Về đạo đức, chỉ nhìn thực trạng học đường ở VN là đủ hiểu.

Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều bà con Việt Kiều tính về ở hẳn VN. Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già với xe hơi SUV.

Có những ông già lấy tiền xã hội của Mỹ về tậu nhà, tậu cửa, líu lưỡi khen ngọng và hãnh diện nói: mấy chục năm không sáng tác được, nay về ở VN nhờ đó mới hoàn thành được tác phẩm. Có ông Nhà văn ” tiến bộ” nay trở thành thứ ” Chim hót trong lồng”.

Tất cả đều thuộc loại người không biết ngượng.

 Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện ngầm xây dựng xong, khi đường hầm Hải Vân nối liền Nam Bắc nay đã hoàn tất, thành phố Sài Gòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra nó nữa.

Nay ở Sài Gòn, đã có những khu nhà “Làng Việt Kiều “. Người ta dự trù có 4 khu như thế, với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ, Canada.Người ta thấy những Việt Kiều lái những chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi ly rượu cocktail bên bờ sông Sài Gòn. Những căn nhà có những bãi cỏ xanh, mái nhà mầu cam kiểu California, những hồ bơi với những cây dừa với những hàng chữ tiếng Anh Welcome.

Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những nguời di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?

 Chẳng hạn, anh chàng Võ Q, kèm theo cái tên Larry, nay đã 65 tuổi, trước đây là một sĩ quan không quân, quân đội VNCH. Anh ta ta đã rời bỏ vùng Southern Califronia cách đây 2 năm cùng với vợ, còn có tên cúng cơm là Lynda để về ở đây. Anh ta khoe căn nhà với vẻ hãnh diện không cần giấu giếm với đồ dùng toàn bằng Inox, phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết trí theo kiểu Jacuzzi của Ý. Sàn nhà mầu hồng bóng lộn. Anh còn chỉ cho thấy và nói thêm: Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá hoa cương thứ thiệt đấy.

 Thiệt là quá rẻ, còn rẻ hơn ở Hoa Kỳ rất nhiều. “Thiệt là Việt Kiều”.

Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả bù cho lúc ra đi lếch thếch, lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có những kế hoạch xây cất nhà cho Việt Kiều với những dự án ” thành phố xanh” (Green city).

Cái điều oái ăm đến quái gở là khi ở Mỹ, người ta tìm cách đặt tên Little Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Định, bánh cuốn Đakao, Restaurant Hoài Hương để nhớ về;nay ở Việt Nam thì người ta lại muốn đặt tên cho những khu thương xá là ” tiểu Cali “, ” tiểu Fairfax ” để nhớ đến.

Và cứ như thế, sẽ có một số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc của họ bên cạnh những người Việt bản xứ.

 Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam, khi ở Việt Nam họ lại tiếc lối sống Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc trước mắt những người đồng loại của họ.

  Họ tưởng về quê thật, nhưng lại mang tâm trạng một thứ chủ nhân, cách biệt với dân bản xứ.Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực tức về một căn nhà hàng xóm đã vứt những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh ta, đã mở nhạc Karaoké tùy tiện ầm ĩ cả lên. Anh bực tức nói:

– Như thế không phải lối sống Mỹ, không biết tôn trọng luật pháp.

Như thế là thiếu văn minh. Khi ở Mỹ thì anh muốn bảo tồn văn hoá Việt, không muốn trở thành Melting pot hay Sálát Mỹ. Anh bắt con đi học tiếng Việt. Về VN, đụng mở mồm là anh xổ tiếng Mỹ cho oai. Quả là về sống ở Việt Nam thì lại là câu chuyện khác.

Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải bực tức nhiều về những điều trái tai gai mắt: chẳng hạn một anh cán bộ phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại trước.

Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35 tuổi về Việt Nam làm việc cho một công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như không biết gì về Việt Nam, anh cũng không có ý ở hẳn VN.Nhưng anh cũng có một vài nỗi khổ vặt khác.

Nguyễn Anh sửng sờ khi làm một việc gì giúp người khác không nhận được một tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết. Anh cũng khó chịu khi mọi người chen lấn không xếp hàng khi trả tiền.Nhất là các cô thiếu nữ trông khả ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai.

Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy sống chen lấn chụp giựt. Nguyễn Anh có hơi buồn về con người Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết người mà mọi người dửng dưng. Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh lại không hiểu gì về người mình.

Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh không hiểu được là người Việt Nam “Xem thể thao” chứ không chơi thể thao.

Mấy triệu người thức đêm, bỏ công ăn việc làm, bỏ học để dán mắt vào đài truyền hình theo dõi một trận đá banh. Thật là vô lý vì hại sức khỏe. Chỉ có 22 cầu thủ thực sự chơi thể thao, còn cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể còn cá độ.Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành cờ bạc. Lại một điều nữa, Nguyễn Anh không hiểu được.

Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn chơi ngon, Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết chơi, vì ở đó có sân chơi nổi tiếng là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng.

Nhưng có người thấy như thế thì lấy làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì mà phải cất công như thể để chơi Golf. Chơi đâu chả được. Phí tiền nữa. Nguyễn Anh không đáp lại, vì anh có cái lý của anh. Đúng là anh thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng ngược lại, họ cũng thấy anh không giống ai.

Còn về thanh niên, thiếu nữ thì chửi thề không biết ngượng mồm, nhất là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra là địt. Sáng ra, chỉ hỏi giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng cho một câu.

 Nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ. Thời gian sẽ xoá nhoà tất cả vết tích cũ: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống Cộng giảm xuống và tình hoài hương lại trỗi dậy.

Những vị lãnh đạo trong nước thì nghĩ rằng: Nhân dân muốn quên hết mọi thứ.Những người này hiện ở đây vì đất này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền trách mắng họ. Chúng ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây chiến tranh lần nữa.

Tự nhiên bật ra một câu hỏi: Nhưng nhân dân là ai mới được cơ chứ?
Nhưng tôi cho rằng lịch sự trớ chêu có những bài học không bao giờ chúng ta học hết được.

Chiếc soái hạm Blue Ridge 37 năm trước trong vai trò chở binh lính Mỹ và người tỵ nạn VN ra khỏi miền Nam thì hiện nay đang đậu ở bãi Tân Sa, Hải Phòng!

Đố ai biết được ngày hôm nay vai trò của Blue Ridge đên VN với mục đích gì?

© Nguyễn Văn Lục


 

BÀI GIÁO KHOA CŨ

Xuyên Sơn

Bài học cũ, đơn giản nhưng dạy trẻ con biết hoài niệm, biết nghĩ về những gì đã có.

Đọc lại một trang giấy nhỏ, đã cũ, đã bị phế bỏ, mà nghĩ rằng người viết chẳng có chức phận hay quyền hành gì, nhưng họ hành động như một người Việt buộc phải cẩn trọng trách nhiệm với trăm năm sau.

Chỉ tự tâm niệm mà cẩn trọng.

Không cần phải có một tôn giáo hay lý tưởng vĩ đại nào, chỉ cần một tấm lòng học làm người, biết thương nhớ mẹ cha, đã là một công dân tử tế trên nước Việt.

“Con không cần phải khấn, vì hồn mẹ lúc nào cũng phảng phất bên con”.

Thật ra, câu văn chỉ là một lời an ủi. Nhưng cảm động đến có thể rơi bước mắt. Lời dạy còn âm thầm nhắc rằng khi hành động bất kỳ điều gì, đều có một lương tâm truyền đời dõi theo và nhắc nhở.

Nếu không có mẹ cha và người đi trước, thế hệ hôm nay dễ dàng trở thành hành động, suy nghĩ vô loài.

Chân thành với giáo dục không khó, nhưng cố gắng tạo dáng vẻ cho giống như giáo dục thì rất khó.

Nhiều năm cải cách, gắng gượng thay đổi sách giáo khoa cho thấy một tương lai dân tộc rất mơ hồ: một hệ thống vật vã, gượng gạo tạo ra cái mới – rất giả tạo – bởi mang quá nhiều mặc cảm với cái cũ đã hoàn chỉnh từ một thể chế khác.

Sẽ chẳng ngạc nhiên, khi hôm nay, mọi thứ giả dối đang lên ngôi:

Giả trí thức, giả văn bằng, giả học vị… và cuối cùng là giả làm một người yêu nước.

Nhạc sĩ Tuấn Khanh