LỠ TÀU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã cao niên!”

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay kể chuyện về hai cặp đôi luống tuổi. Cựu Ước tường thuật cuộc truyền tin cho một người mẹ son sẻ; Tân Ước tường thuật cuộc truyền tin cho một người cha héo hắt. Thật thú vị – một đôi kịp tàu, đôi kia suýt ‘lỡ tàu!’.

Trong Thánh Kinh, không hiếm những bà mẹ chưa từng sinh con, nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa, được diễm phúc làm mẹ; thường là một bé trai mang một sứ mạng đặc biệt. “Đừng nói điều đó là không thể nếu còn có một lối – Thiên Chúa!” – Richelle Goodrich. Câu chuyện chào đời của Samson là một ví dụ. Vợ chồng Manôác đã mau mắn tin lời sứ thần, “Bà sẽ sinh một con trai và đặt tên là Samson”. Họ tin – nên họ kịp tàu!

Với Zacharia, câu chuyện ly kỳ hơn. Ông dâng hương trong Đền Thờ, cơ hội ngàn năm một thuở. Đó là khoảnh khắc đặc quyền trong một không gian linh thánh; hơn nữa, một Tổng lãnh thiên thần hiện ra với ông. Thế nhưng, trớ trêu thay, ông không tin! Tin Mừng xác nhận, “Hai ông bà là người công chính, không ai chê trách được điều gì”; vậy mà, sự công chính ấy không đủ giúp ông có niềm tin vào đúng thời điểm quyết định. Thiếu chút nữa, ông ‘lỡ tàu!’. “Nghi ngờ là dấu hỏi; đức tin là dấu chấm than!” – Criss Jami.

Zacharia nghĩ tuổi tác mình không còn phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa; ông đánh giá thấp quyền năng của Ngài. Nhưng Thiên Chúa không bị giới hạn; chính con người mới giới hạn quyền năng vô hạn của Ngài. “Kế hoạch của Thiên Chúa vẫn sẽ được thực hiện theo thời gian của Ngài!” – A.W. Tozer. Trước một người thiếu niềm tin, kế hoạch của Thiên Chúa sẽ ra sao? Không sao cả! Ngài vẫn tiếp tục chương trình của Ngài. Và điều Ngài cần lúc này là con người lặng yên, đừng động đạc! “Này đây ông sẽ bị câm cho đến ngày các điều ấy xảy ra!”.

Thời gian thinh lặng ấy không phải là trừng phạt, nhưng là một quãng thai nghén, đợi ngày Thiên Chúa ra tay hầu mỗi người có thể cất lên “Miệng chứa chan lời tán tụng Chúa, suốt ngày chẳng ngớt tôn vinh Ngài!” – Thánh Vịnh đáp ca. Tiếng Chúa thường rất khẽ. Chúa chỉ cần con người không bướng bỉnh, không nổi loạn, biết lặng yên và mềm mỏng. Đến ngày con trẻ chào đời, Zacharia vâng lời sứ thần, đặt tên cho con là Gioan. Và ông đã kịp tàu.

Anh Chị em,

“Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy?”. Câu hỏi của Zacharia thường cũng là câu hỏi của mỗi người chúng ta. Bạn và tôi yếu đuối, chúng ta thiếu đức tin; không có một đức tin trọn vẹn như Maria, như Giuse hay các thánh. Nhưng khi khiêm tốn nhìn nhận điều đó, chúng ta đang ở một vị trí thuận lợi để Thiên Chúa hành động. “Đức tin là bước đi những bước đầu tiên dù bạn chưa thấy hết cầu thang!” – Martin Luther King Jr. Hãy để Ngài toàn quyền! Trước sau gì, Thiên Chúa – Đấng xót thương từ ái một niềm – không muốn ai phải lỡ tàu, nhất là chuyến tàu cuối.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, trước nghi nan, khủng hoảng, cho con biết lặng yên chờ đợi Chúa. Đừng để con bướng bỉnh, vùng vằng mà lỡ mất ngày giờ của Chúa… khi phải đợi con lên tàu!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

*****************************************

Lời Chúa Ngày 19/12, Thứ Sáu Tuần III Mùa Vọng

Gio-an Tẩy Giả sinh ra theo lời sứ thần Gáp-ri-en báo.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 1,5-25

5 Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a ; vợ ông tên là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. 6 Hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. 7 Nhưng họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi, và cả hai đều đã cao niên.

8 Vậy một ngày kia ông Da-ca-ri-a đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông. 9 Theo tục lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. 10 Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài.

11 Bấy giờ một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. 12 Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và phát sợ. 13 Nhưng sứ thần bảo ông : “Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin : bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. 14 Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan vì con trẻ chào đời. 15 Vì em sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Em sẽ không uống rượu và thức có men. Em sẽ được đầy Thánh Thần ngay khi còn trong lòng mẹ. 16 Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. 17 Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để đưa tâm hồn cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.” 18 Ông Da-ca-ri-a thưa với sứ thần : “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy ? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã cao niên.” 19 Sứ thần đáp : “Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. 20 Này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.” 21 Dân chúng đợi ông Da-ca-ri-a, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. 22 Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và họ biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm.

23 Khi thời gian phục vụ đã mãn, ông trở về nhà. 24 Ít lâu sau, bà Ê-li-sa-bét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. 25 Bà tự nhủ : “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.”


 

BỆNH KHOE CỦA NGƯỜI VIỆT…

Trong năm bậc nhu cầu tâm lý của con người, nhu cầu tự thể hiện mình được các nhà tâm lý học xếp ở vị trí cao nhất. Cái sự khoe chính là biểu hiện của nhu cầu tự thể hiện. Nó chỉ diễn ra khi mình có cái gì đó mà xung quanh không ai có.

Những năm cuối của thế kỷ trước, chiếc xe máy dream Thái là niềm mơ ước của nhiều người. Trong lúc tôi còn chưa có chiếc xe đạp tử tế mà đi thì ông anh họ đã bán đất, vay mượn tứ tung để rước về “con dream” giá 6 cây vàng. Tính theo giá vàng hiện nay, chiếc xe của anh tương đương 210 triệu đồng. Nhưng mua xe rồi, anh vẫn còng lưng đi xe đạp vì sợ xe máy xây xước, mau cũ. Hàng ngày, anh dựng xe trước cửa, tối lại dắt vào dựng ở phòng khách như một thứ đồ trang trí.

Những năm sau, thiên hạ lại chứng kiến người ta khoe điện thoại di động. Dù trong cuộc họp hay ngoài đường ngoài chợ, hễ nghe tiếng nhạc hiệu thật to thì thể nào chủ nhân của nó cũng sẽ oang oang đàm thoại, để ai cũng phải quay lại nhìn và biết rằng, anh ta đang sở hữu một món hàng đắt giá. Bây giờ nghĩ lại những trò lố ấy, thấy buồn cười không chịu được.

Giờ người ta khoe kiểu khác, đặc biệt là cái sự khoe của giới Showbiz Việt. Những diễn viên, người mẫu, ca sĩ cùng các hot girl lên báo không phải để khoe album mới, vai diễn thành công, giải thưởng danh giá mà là để khoe biệt thự triệu đô, khoe xe khủng, những bộ đồ hoặc trang sức “có một không hai”. Cao hơn nữa là khoe phi thuyền, máy bay riêng, biệt thự ở Mỹ, ở Úc… Nhưng trước khi có những thứ đó để khoe, nhiều chàng, nàng trong giới Showbiz Việt phải khoe thân trước đã. Có cô hoa hậu nọ xuất hiện trên các trang mạng với bộ áo dài trong suốt mà không mặc nội y. Họ tự hào với các danh hiệu “nữ hoàng nội y”, “vòng một khủng”. Thậm chí một số người (cả nam lẫn nữ) lại toàn khoe… “của quý”.

Rồi người ta khoe chồng, khoe bồ giàu và gắn mác ngoại. Một thời gian dài, báo chí tốn bao nhiêu giấy mực bởi anh chàng người mẫu mới tập tễnh vào làng giải trí Việt đã cặp kè một bà triệu phú còn lớn tuổi hơn cả mẹ mình rồi mang đi khoe khắp nơi. Và anh ta đã đạt mục đích trở nên nổi tiếng, dù không phải bằng các hoạt động nghề nghiệp. Nhưng không chỉ giới showbiz, hầu hết người Việt mắc bệnh khoe. Nhiều buổi họp lớp thực chất là dịp gặp nhau để khoe. Ai có gì khoe nấy, chủ yếu là tài sản, sự thành đạt của bản thân hay con cái đều học tại một trường danh tiếng nào đó “ở bển”! 

Vậy ở các nước Mỹ, Pháp, Úc… những người nổi tiếng có khoe không? Chắc chắn là có. Nhưng họ khoe gì? Theo dõi báo chí thì thấy họ khoe những hầm rượu mấy trăm năm, khoe những cuốn sách quý họ đọc được trong thư viện, khoe những chuyến đi và những vùng đất họ từng khám phá, về những con người ở xứ sở tít mù nào đó mà họ đã đến khám chữa bệnh, dạy học hay cứu trợ…

Chợt nhớ câu chuyện đọc được trên báo, nói về chuyến thăm Sa Pa của một tỷ phú Mỹ thế hệ 8x. Người ta cứ tưởng tỷ phú cùng bạn gái sẽ xuất hiện với siêu xe, hàng hiệu và vung tiền như nước nên rất ngỡ ngàng khi thấy tỷ phú đi dép lê, còn bạn gái mặc đồ rất bình thường. Và nhiều người đã thất vọng.

Cũng là khoe, nhưng người Việt mình khác thiên hạ quá!

From: Tu-Phung


 

NGHÈO CHO MÌNH CON MẮT KHÁC VỀ TIỀN-Lm. Anmai, CSsR

Người Giồng Trôm

Có lẽ chẳng ai muốn sinh ra trong nghèo khó, nhưng chính cái nghèo lại là một người thầy khắc nghiệt và chân thật nhất, dạy cho ta những bài học mà không trường lớp nào có thể giảng giải tường tận được, đặc biệt là bài học về đồng tiền. Khi ta lớn lên giữa những thiếu thốn, khi đôi mắt trẻ thơ sớm phải chứng kiến cảnh cha mẹ cúi người cả ngày trên cánh đồng cháy nắng hay bên gánh hàng rong trĩu nặng chỉ để đổi lấy một bữa cơm chiều, tự nhiên ta sẽ hiểu rằng tiền không bao giờ là chuyện nói chơi. Tiền bạc, đối với người nghèo, chưa bao giờ là những con số vô tri nằm trên giấy hay trong tài khoản ngân hàng, mà nó là hiện thân của mồ hôi, của nước mắt, của sức khỏe mòn mỏi và đôi khi là cả sự hy sinh lòng tự trọng. Cái nghèo cho mình một con mắt khác về tiền, một cái nhìn không nhuốm màu toan tính tham lam nhưng lại trĩu nặng nỗi trân trọng và xót xa.

Tôi nhớ những ngày tháng cũ, khi cái nghèo còn đeo bám gia đình như một chiếc bóng dài lê thê không dứt. Trong ký ức ấy, hình ảnh ám ảnh nhất không phải là ngôi nhà dột nát hay mâm cơm đạm bạc, mà là tấm lưng của cha và đôi bàn tay của mẹ. Cha tôi, người đàn ông vạm vỡ nhưng lầm lũi, dường như cả cuộc đời chỉ biết cúi mặt xuống đất. Ông cúi xuống để cày xới, cúi xuống để gieo hạt, và cúi xuống để gặt hái những hy vọng mong manh từ đất đai cằn cỗi. Có những ngày nắng như đổ lửa, hơi nóng bốc lên từ mặt ruộng làm mờ cả mắt người, cha vẫn ở đó, lưng áo ướt đẫm, khuôn mặt sạm đen vì nắng gió. Mẹ tôi, người phụ nữ tần tảo, cũng dành cả đời để chắt chiu từng đồng xu lẻ. Tôi từng thấy mẹ ngồi đếm lại những tờ tiền lẻ nhàu nhĩ, vuốt thẳng chúng ra, xếp ngay ngắn rồi lại thở dài cất vào trong chiếc túi vải sờn rách. Cái thở dài ấy nặng nề hơn bất cứ lời than vãn nào. Nhìn cha mẹ cúi người cả ngày chỉ để đủ một bữa, đứa trẻ trong tôi bỗng chốc già đi trước tuổi. Tôi hiểu rằng, để có được tờ tiền đưa cho tôi đóng học phí, hay mua một chiếc áo mới, cha mẹ đã phải bán đi từng chút sức lực của chính mình. Tiền lúc ấy không còn là phương tiện trao đổi, nó là máu thịt.

Khi người ta chưa từng nếm trải cái nghèo, người ta dễ dàng nhìn đồng tiền bằng con mắt hời hợt. Người ta có thể vung tay quá trán cho những cuộc vui, có thể lãng phí thức ăn, có thể mua sắm những thứ vô bổ chỉ để thỏa mãn cơn thèm muốn nhất thời. Nhưng với những ai đã từng thấy cha mẹ phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, đồng tiền mang một sức nặng ngàn cân. Cầm đồng tiền trên tay, tôi không dám tiêu xài hoang phí, bởi tôi nhìn thấy trong đó là những giọt mồ hôi mặn chát của cha rơi xuống luống cày, là đôi bàn tay nứt nẻ rớm máu của mẹ vào những ngày đông giá rét. Sự chi tiêu dè sẻn không phải vì bần tiện hay keo kiệt, mà là vì xót. Xót cho công sức của người thân, xót cho những nhọc nhằn mà cha mẹ phải gánh chịu. Cái nghèo dạy cho ta biết sợ. Sợ cái cảm giác bất lực khi túng thiếu, sợ ánh mắt lo âu của mẹ khi hũ gạo đã vơi, sợ tiếng thở dài của cha trong đêm khuya thanh vắng. Nỗi sợ ấy biến thành ý thức trách nhiệm. Ta không dám lười biếng, không dám buông thả, bởi ta biết cái giá của sự lười biếng chính là sự đói khổ của những người ta yêu thương.

Con mắt nhìn về tiền của người nghèo cũng không nhuốm màu kiêu hãnh hay ngạo mạn. Nếu người giàu có thể dùng tiền để khẳng định vị thế, để mua lấy sự nể trọng, thì người nghèo dùng tiền chỉ để duy trì sự sống và bảo vệ phẩm giá tối thiểu của con người. Tôi đã thấy cha tôi, một người đàn ông đầy lòng tự trọng, phải cúi đầu vay mượn người khác khi trong nhà có người ốm đau. Cái cúi đầu ấy đau đớn hơn ngàn vết roi quất vào da thịt. Tiền lúc ấy trở thành một vị quan tòa phán xét, tước đi sự ngẩng cao đầu của một con người lương thiện. Từ đó, tôi học được rằng, kiếm tiền không phải để khoe khoang, mà là để không bao giờ phải rơi vào cảnh ngộ phải đánh đổi danh dự lấy sự tồn tại. Đồng tiền chân chính phải là đồng tiền sạch, được làm ra từ chính sức lao động lương thiện, dù ít ỏi nhưng đáng quý. Người nghèo hiểu rõ hơn ai hết rằng, đồng tiền bất chính có thể đến nhanh, nhưng nó sẽ cuốn trôi đi bình an và hạnh phúc. Chỉ có đồng tiền thấm đẫm mồ hôi mới mang lại giấc ngủ ngon, dù là trên chiếc chiếu manh rách nát.

Cái nghèo còn cho ta thấy một khía cạnh khác của tiền: đó là sự sẻ chia. Nghịch lý thay, đôi khi chính những người nghèo nhất lại là những người hào phóng nhất. Bởi họ hiểu cái cảm giác của sự thiếu thốn, họ thấm thía nỗi đau của cái đói, cái rét. Khi nhìn thấy cha mẹ tuy vất vả nhưng vẫn sẵn sàng san sẻ bát cơm cho người hàng xóm cơ nhỡ, hay cho đi mớ rau, con cá dù nhà mình cũng chẳng dư dả gì, tôi nhận ra giá trị của đồng tiền không nằm ở con số in trên đó, mà nằm ở cách ta sử dụng nó. Tiền có thể mua được thức ăn, nhưng không mua được bữa cơm gia đình ấm cúng; tiền có thể mua được thuốc men, nhưng không mua được sự quan tâm chăm sóc. Người nghèo, dù thiếu tiền, nhưng không bao giờ để mình nghèo tình thương. Chính trong sự khốn khó, tình người lại tỏa sáng rực rỡ nhất, như bông hoa sen vươn lên từ bùn lầy, ngát hương thơm ngát. Bài học ấy theo tôi suốt cả cuộc đời, nhắc nhở tôi rằng dù sau này có khá giả đến đâu, cũng đừng bao giờ để đồng tiền làm mờ mắt, làm chai sạn trái tim, làm ta quên đi cái gốc rễ yêu thương của con người.

Nhìn sâu hơn vào khía cạnh tâm linh, cái nghèo và cái nhìn về tiền bạc còn là một hành trình đức tin đầy thử thách nhưng cũng đầy ân sủng. Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong nhung lụa, Người chọn máng cỏ hang lừa, chọn cuộc đời của một người thợ mộc lam lũ. Phải chăng, Người muốn thánh hóa sự nghèo khó và lao động? Khi nhìn cha mẹ cúi người làm việc, tôi thấp thoáng thấy hình ảnh của Đấng Tạo Hóa đang tiếp tục công trình sáng tạo qua đôi tay con người. Lao động không phải là hình phạt, mà là sự cộng tác với Thiên Chúa. Tiền bạc kiếm được từ lao động chân chính, vì thế, cũng mang một giá trị thiêng liêng. Nó là phương tiện để ta nuôi sống bản thân, phục vụ gia đình và bác ái với tha nhân. Cái nghèo dạy ta biết trông cậy vào Chúa. Khi túi tiền rỗng tuếch, khi mọi cánh cửa dường như đóng lại, ta mới học được cách quỳ gối cầu nguyện với một lòng tin thác tuyệt đối. Ta nhận ra rằng, tiền bạc là vật ngoại thân, nay còn mai mất, chỉ có tình yêu của Thiên Chúa và tình nghĩa giữa người với người mới là vĩnh cửu. Sự “nghèo khó trong tâm hồn” mà Tin Mừng nhắc tới, có lẽ cũng bắt đầu từ việc ta biết trân trọng những gì mình đang có, biết ơn từng tấm bánh, từng manh áo, và không để lòng tham lam tiền bạc chiếm ngự tâm hồn.

Sống trong một xã hội mà đồng tiền dường như đang chi phối mọi thang bậc giá trị, việc giữ cho mình một “con mắt khác” về tiền là điều không dễ dàng. Cám dỗ của vật chất luôn rình rập, mời gọi ta đánh đổi lương tâm để lấy sự giàu sang chóng vánh. Nhưng mỗi khi lòng tôi dao động, hình ảnh cha mẹ ngày xưa lại hiện về rõ mồn một. Tôi thấy lại giọt mồ hôi rơi trên trán cha, thấy lại vết chai sần trên tay mẹ, thấy lại mâm cơm đạm bạc mà chan chứa tiếng cười. Những hình ảnh ấy như một chiếc neo giữ con thuyền đời tôi không bị trôi dạt vào dòng xoáy của thực dụng và vô cảm. Tôi hiểu rằng, sự giàu có đích thực không được đo bằng số dư tài khoản, mà bằng sự bình an trong tâm hồn, bằng khả năng yêu thương và sẻ chia. Một người có thể nghèo tiền bạc, nhưng nếu họ biết sống ngẩng cao đầu, biết lao động chân chính và biết yêu thương, họ vẫn là những người giàu có nhất thế gian.

Đồng tiền, tự bản thân nó không xấu cũng không tốt, nó chỉ là tấm gương phản chiếu tâm tính của người sở hữu nó. Với người tham lam, tiền là ông chủ hà khắc sai khiến họ làm điều ác. Với người biết trân trọng giá trị lao động, tiền là người đầy tớ đắc lực giúp họ xây dựng cuộc sống và lan tỏa yêu thương. Cái nghèo đã cho tôi một đặc ân, đó là khả năng nhìn thấu bản chất của đồng tiền qua lăng kính của sự hy sinh. Tôi biết ơn những ngày tháng gian khó ấy, biết ơn sự hy sinh thầm lặng của cha mẹ. Chính nhờ những ngày “cúi người” của cha mẹ, mà tôi hôm nay mới có thể “đứng thẳng” làm người. Và bài học lớn nhất mà tôi mang theo trong hành trang cuộc đời mình, không phải là cách làm sao để kiếm thật nhiều tiền, mà là làm sao để sử dụng đồng tiền cho xứng đáng với những giọt mồ hôi nước mắt đã đổ xuống. Để mỗi khi cầm đồng tiền trên tay, tôi không chỉ thấy giá trị vật chất của nó, mà còn thấy cả một trời yêu thương, một đời hy sinh, và một lời nhắc nhở thiêng liêng về phẩm giá con người.

Cuộc sống hiện đại hối hả, con người lao vào cuộc đua kiếm tiền như những con thiêu thân. Đôi khi ta quên mất lý do thực sự ta cần tiền là gì. Ta làm việc bán sống bán chết để mua những ngôi nhà to hơn nhưng lại ít về nhà hơn; ta mua những chiếc giường đắt tiền hơn nhưng lại có ít giấc ngủ ngon hơn; ta mua những gói bảo hiểm cao cấp hơn nhưng lại ít quan tâm đến sức khỏe thực sự của cha mẹ già đang mòn mỏi ở quê nhà. Cái nghèo ngày xưa, dù khắc nghiệt, nhưng lại giữ cho gia đình một sự gắn kết bền chặt mà tiền bạc không thể mua được. Bữa cơm rau mắm ngày xưa tuy đạm bạc nhưng luôn đông đủ các thành viên, tiếng cười nói rộn ràng. Còn bây giờ, mâm cao cỗ đầy nhưng đôi khi lại thiếu vắng bóng người, hoặc nếu có đủ thì ai nấy cũng cắm cúi vào chiếc điện thoại, toan tính những chuyện làm ăn xa xôi. Phải chăng chúng ta đã “giàu” lên về vật chất nhưng lại đang “nghèo” đi về tình cảm? Phải chăng ta đã để đồng tiền làm chủ thay vì làm phương tiện? Nhớ về cái nghèo, về cha mẹ cúi người lam lũ, là cách để ta giật mình tỉnh thức, để sắp xếp lại thang giá trị của đời mình, để biết đâu là điểm dừng, đâu là hạnh phúc đích thực.

Mỗi lần dâng Thánh Lễ, khi nâng chén rượu và tấm bánh lên, tôi thường thầm thì cầu nguyện cho những người lao động nghèo khó, cho những bậc cha mẹ đang ngày đêm vất vả mưu sinh. Tôi xin Chúa thánh hóa những giọt mồ hôi của họ, biến những hy sinh thầm lặng ấy thành nguồn ân sủng nuôi dưỡng tâm hồn con cái họ. Và tôi cũng cầu xin cho chính mình, và cho tất cả chúng ta, những người có may mắn thoát khỏi cảnh nghèo, không bao giờ được phép quên đi quá khứ. Đừng bao giờ nhìn người nghèo bằng ánh mắt khinh miệt, bởi đằng sau manh áo rách ấy có thể là một tâm hồn vĩ đại hơn ta tưởng. Đừng bao giờ phung phí thức ăn, bởi đó là tội lỗi đối với những người đang đói khổ. Và quan trọng nhất, đừng bao giờ coi tiền bạc là mục đích tối thượng của cuộc đời. Hãy nhớ rằng, khi ta lìa bỏ thế gian này, ta không mang theo được một đồng xu nào cả, thứ duy nhất ta mang theo được là tình yêu ta đã trao đi và những việc lành ta đã làm.

Cái nghèo cho ta con mắt khác về tiền – một con mắt biết rưng rưng, biết trân trọng và biết yêu thương. Đó là một món quà vô giá mà có lẽ chỉ những ai đã từng đi qua giông bão của sự thiếu thốn mới có thể thấu hiểu trọn vẹn. Xin cho chúng ta luôn giữ được cái nhìn trong sáng ấy, để giữa dòng đời vạn biến, ta vẫn giữ được trái tim ấm nóng của một con người, biết sống xứng đáng với những hy sinh của tiền nhân, và biết dùng những gì mình có để làm đẹp cho đời, làm sáng danh Chúa. Bởi suy cho cùng, tiền chỉ là phương tiện để ta đi qua cuộc đời này, còn đích đến cuối cùng vẫn là Tình Yêu và Sự Sống đời đời. Nhìn cha mẹ cúi người, tôi học được cách ngẩng đầu sống đúng nghĩa, và tôi hiểu: Tiền không bao giờ là chuyện nói chơi, vì nó chứa đựng cả cuộc đời của những người tôi yêu thương nhất.

Lm. Anmai, CSsR


 

Thẩm phán Frank Caprio vừa qua đời ngày 20/08/2025.

 Nghệ Lâm Hồng

“Trái tim dưới áo quan tòa” vừa qua đời

– by Vũ Thế Thành

Ảnh: quan tòa F. Caprio trong phiên xử người cựu chiến binh.

Sáng nay đọc báo Mỹ mới biết tin, thẩm phán Frank Caprio vừa qua đời hôm qua, ngày 20/08/2025.

Hồi SG bị lockdown vì đại dịch, tôi thường xem show truyền hình “Caught in Providence” của Caprio, chiếu lại qua Youtube cho đỡ buồn.

Frank Caprio là chánh án tòa án thành phố Providence (Mỹ). Các show truyền hình về diễn biến những phiên tòa mà ông chủ tọa, thường là vụ án nhỏ như vi phạm luật giao thông. Phiên tòa vừa trang nghiêm, vừa vui vẻ, chẳng có gì là căng thẳng giữa thẩm phán, bị cáo và những người tham dự, nhưng đầy chất nhân bản trong đó.

Tôi nhớ mang máng có show thế này: Một bà mẹ vi phạm luật giao thông, xuất hiện ở tòa cùng với đứa con gái nhỏ. Quan tòa Caprio đọc nội dung vi phạm, bị cáo vui vẻ nhận tội. Quan tòa gọi đứa bé lên đứng cạnh ông, rồi hỏi. Mẹ có bị lỗi không? Có – Mẹ bị phạt bằng này tiền, có đúng không? Đúng – Giảm một phần tiền phạt cho mẹ nhé? Đứa bé cười toét miệng. Quan tòa lại hỏi, cháu sẽ dùng tiền giảm phạt đó làm gì? Nói mẹ mua kẹo mời mọi người trong tòa ăn. Cả tòa cười rộ lên vì câu trả lời của đứa trẻ.

Nhưng ấn tượng nhất với tôi  là phiên tòa xử một ông cụ 96 tuổi, bị phạt do chạy quá tốc độ gần khu vực trường học. Ông buồn rầu nhận lỗi. Tòa hỏi, vì sao? Tôi chở đứa con trai (60 hay 70 tuổi?)  đi cấp cứu. Đây là lần đầu tiên tôi vi phạm luật giao thông – Quan tòa quay sang hỏi về nhân thân của ông cụ, với những câu hỏi ngắn – Tôi là cựu chiến binh tham dự thế chiến II, được nhiều huân chương… Xuất ngũ làm công nhân cho đến khi về hưu, và chăm sóc đứa con tật nguyền. Vợ ông mất lâu rồi, không ai phụ giúp ông cả. Không khí trong tòa lặng đi khi ông cụ chậm rãi trả lời từng câu hỏi của thẩm phán, về cuộc đời cụ.

Quan tòa phán, mọi người trong tòa này đều mắc nợ cụ., rồi tuyên miễn phạt cho ông cụ. Thẩm phán Frank Caprio sau đó đã phát biểu một câu nói để đời “ Tôi không đeo huy hiệu dưới áo choàng thẩm phán. Tôi mang theo trái tim.”

Nghĩ lại mấy vụ gần đây trong nước, thầy hiệu trưởng tham nhũng 10 triệu ở Cà Mau, hay vụ án mấy con gà lôi.. Ngao ngán!

Cầm cân nảy mực, nếu luật pháp chỉ là công bằng không thôi thì chưa đủ, mà còn phải công minh. Nền tư pháp trong nước dường như nhân danh “công minh” để lạm dụng công bằng. Quan tòa đã đeo dao găm dưới áo choàng thẩm phán.

Cách đây hơn một năm, tôi có đọc bài báo phỏng vấn quan tòa Caprio, lúc này ông đã nghỉ hưu, và ngưng show “Caught in Providence” lâu rồi. Trông ông gầy hẳn vì đang chống chọi với bệnh ung thư tuyến tụy, nhưng nụ cười vẫn hiền hậu, toát ra vẻ nhân ái.

Sáng nay đọc NY Post mới biết tin Frank Caprio, vị quan tòa đã dấu trái tim dưới lớp áo choàng thẩm phán, vừa mãn phần hôm qua (20/08/25), ở tuổi 88. Judge Frank Caprio, R.I.P

Vũ Thế Thành


 

 Vì sao trong tranh luận, người ta thường tấn công cá nhân thay vì tập trung vào nội dung,

Đoàn Thị Thùy Dương

 Vì sao trong tranh luận, người ta thường tấn công cá nhân thay vì tập trung vào nội dung, và hiện tượng này đặc biệt phổ biến ở những xã hội có nhà nước tập trung quyền lực?

Trong một xã hội lý tưởng, tranh luận là công cụ để tìm kiếm sự thật, làm rõ vấn đề và thúc đẩy tiến bộ. Tuy nhiên, trong thực tế, đặc biệt ở những nơi quyền lực nhà nước được tập trung cao độ, tranh luận thường nhanh chóng trượt khỏi nội dung cốt lõi và chuyển sang tấn công cá nhân. Hiện tượng này không phải ngẫu nhiên, mà là kết quả của nhiều yếu tố mang tính cấu trúc chính trị, tâm lý xã hội và văn hóa quyền lực.

Trước hết, tấn công cá nhân là hậu quả trực tiếp của việc thiếu không gian an toàn phê bình – chất vấn. Trong các xã hội tập trung quyền lực, quyền lực chính trị thường gắn chặt với “chân lý chính thống”. Khi một quan điểm được nhà nước hoặc hệ tư tưởng cầm quyền bảo trợ, việc phân tích, phê bình nội dung không còn là tranh luận học thuật, mà bị xem như hành vi thách thức quyền lực. Trong bối cảnh đó, người tranh luận không còn mục tiêu tìm đúng – sai, mà là bảo vệ vị thế an toàn của bản thân. Tấn công cá nhân trở thành cách đánh lạc hướng: thay vì trả lời lập luận, họ phá hủy uy tín người nói, biến vấn đề trí tuệ thành vấn đề đạo đức hay chính trị cá nhân.

Thứ hai, tranh luận nội dung đòi hỏi năng lực lý luận, trong khi tấn công cá nhân chỉ cần quyền lực hoặc cảm xúc. Phê bình một lập luận cần kiến thức, tư duy logic và khả năng chấp nhận khả năng mình sai. Ngược lại, tấn công cá nhân không cần chứng minh điều gì về nội dung, mà chỉ cần gán nhãn: “thiếu đạo đức”, “động cơ xấu”, “không đủ tư cách”. Trong xã hội tập trung quyền lực, nơi giáo dục thường ưu tiên sự tuân phục hơn là tư duy phản biện, kỹ năng tranh luận lý tính không được nuôi dưỡng. Khi thiếu công cụ để phản biện nội dung, con người tự nhiên chọn con đường dễ hơn: công kích người nói.

Thứ ba, quyền lực tập trung tạo ra tâm lý “đứng về phía mạnh” thay vì “đứng về phía đúng”. Khi quyền lực không bị kiểm soát, đúng – sai không còn được xác định bằng lý lẽ mà bằng vị trí quyền lực. Do đó, trong tranh luận, việc chứng minh đối phương “không thuộc phe đúng” quan trọng hơn việc chứng minh lập luận của họ sai. Tấn công cá nhân lúc này mang chức năng chính trị: loại đối phương ra khỏi cuộc chơi bằng cách gắn họ với hình ảnh “kẻ thù”, “phản động”, “thiếu trung thành” hay “động cơ đen tối”.

Thứ tư, nỗi sợ hãi làm méo mó hành vi tranh luận. Ở những xã hội quyền lực tập trung, tranh luận không chỉ là hành vi trí tuệ mà còn tiềm ẩn rủi ro xã hội, nghề nghiệp, thậm chí pháp lý. Trong bối cảnh sợ hãi, con người ít khi dám đối thoại công bằng. Thay vào đó, họ chọn cách thể hiện sự trung thành bằng cách công kích cá nhân người đưa ra ý kiến trái chiều. Tấn công cá nhân vì thế không chỉ là phản ứng cảm xúc, mà còn là chiến lược tự bảo vệ.

Cuối cùng, khi quyền lực không bị chất vấn, sự thật trở nên thứ yếu. Tranh luận nội dung chỉ có ý nghĩa khi mọi bên đều thừa nhận rằng sự thật tồn tại độc lập với quyền lực. Nhưng trong hệ thống quyền lực tập trung, “sự thật” thường được định nghĩa sẵn. Khi kết luận đã có trước, tranh luận nội dung trở nên vô nghĩa; việc còn lại chỉ là xác định ai “được phép nói” và ai “không được phép nói”. Tấn công cá nhân, vì vậy, trở thành công cụ duy trì trật tự quyền lực hơn là công cụ tìm kiếm chân lý.

Tóm lại, hiện tượng tranh luận chuyển hướng sang tấn công cá nhân không đơn giản là vấn đề đạo đức cá nhân hay văn hóa ứng xử, mà phản ánh sâu sắc cấu trúc quyền lực của xã hội. Ở nơi quyền lực càng tập trung, tranh luận càng ít xoay quanh lý lẽ và càng nhiều xoay quanh con người. Khi lý trí không còn được bảo vệ, công kích cá nhân trở thành ngôn ngữ thay thế cho lập luận. Và đó là dấu hiệu rõ ràng cho thấy xã hội ấy không sợ sai, mà sợ bị chất vấn.


 

400 năm ngày giỗ Thuỷ tổ Quốc ngữ Việt Nam

My Lan Pham

Francisco de Pina (1585 – 15/12/1625)

Cách đây tròn bốn thế kỷ, ngày 15 tháng 12 năm 1625, tại vùng biển Đà Nẵng, linh mục Dòng Tên Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha, đã vĩnh viễn ra đi trong một tai nạn chìm tàu khi ông lao mình cứu giúp những hành khách gặp nạn. Cái chết của ông lặng lẽ, nhưng di sản mà ông để lại thì bền bỉ và sâu xa, gắn liền với lịch sử hình thành chữ Quốc ngữ Việt Nam.

Francisco de Pina được xem là người châu Âu đầu tiên nói tiếng Việt một cách trôi chảy, không chỉ để giao tiếp mà còn để giảng dạy, truyền đạo và nghiên cứu ngôn ngữ. Trong bối cảnh đầu thế kỷ XVII, khi người Việt chưa có một hệ thống chữ viết ghi âm tiếng nói phổ thông bằng mẫu tự dễ học, cha Pina đã sớm nhận ra nhu cầu cấp thiết ấy. Từ đó, ông trở thành người tiên phong đặt nền móng cho việc ghi âm tiếng Việt bằng ký tự La-tinh.

Năm 1619, khi mới 34 tuổi, cha Pina đã biên soạn bản từ vựng tiếng Việt đầu tiên (nay đã thất lạc). Đến khoảng 1622–1623, ông báo cáo với Toà Thánh rằng mình đã hoàn thành một cuốn sách về luật chính tả và ngữ âm tiếng Việt ,điều cho thấy ông không chỉ học tiếng Việt, mà còn tiếp cận ngôn ngữ này bằng tư duy khoa học, có hệ thống. Đây chính là viên đá nền đầu tiên cho tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ sau này.

Năm 1624, khi linh mục Alexandre de Rhodes đến Thanh Chiêm (Quảng Nam), ông đã tận mắt chứng kiến cha Pina giảng Kinh Thánh hoàn toàn bằng tiếng Việt. Đối với các giáo sĩ châu Âu đương thời, đây là một hiện tượng chưa từng có: một người phương Tây không cần thông ngôn, giảng đạo bằng chính ngôn ngữ bản địa với sự uyển chuyển và chính xác hiếm thấy. Alexandre de Rhodes sau này nhiều lần thừa nhận rằng cha Pina là người thầy đầu tiên và quan trọng nhất của ông về tiếng Việt.

Đáng tiếc thay, khi công trình ngôn ngữ còn dang dở, cha Francisco de Pina đã qua đời quá sớm. Phần lớn các bản thảo của ông không còn lưu lại, nhưng tinh thần khoa học, phương pháp ghi âm và tư duy ngữ âm học mà ông khởi xướng đã được các thế hệ giáo sĩ kế tiếp tiếp thu, phát triển và hoàn thiện. Vì vậy, trong lịch sử chữ Quốc ngữ, Francisco de Pina xứng đáng được nhìn nhận là thuỷ tổ ,người đặt nền móng đầu tiên, trước khi chữ Quốc ngữ đạt đến hình thức hoàn chỉnh hơn vào giữa thế kỷ XVII.

Ngày nay, chữ Quốc ngữ đã trở thành linh hồn của văn hoá Việt hiện đại, là phương tiện giúp người Việt tiếp cận tri thức, xây dựng văn học, báo chí và bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới. Nhìn lại hành trình ấy, không thể không dành sự ngưỡng mộ đối với tài năng ngôn ngữ, và lòng biết ơn sâu sắc đối với Francisco de Pina ,người đã âm thầm gieo hạt giống đầu tiên cho một cuộc chuyển mình lớn lao của tiếng Việt.

400 năm sau ngày ông mất, tưởng nhớ Francisco de Pina không chỉ là một hành động tri ân lịch sử, mà còn là dịp để chúng ta nhận ra rằng: ngôn ngữ không chỉ là công cụ giao tiếp, mà là chiếc cầu nối giữa các nền văn hoá, giữa quá khứ và tương lai.

 


 

Tĩnh tâm ở Giáo Triều Roma với Đức Thánh Cha

Giảng Thuyết: Linh mục dòng OFM , Roberto Paosolini.

Roberto Pasolini O.FM Cap. ( Milan , ngày 5 tháng 11 năm 1971) là một nhà thần học người Ý và là tu sĩ dòng Phan xi cô của Giáo hội Công giáo , Giảng thuyết viên cho Phủ Giáo hoàng .

Tiểu sử

Đang khi là một kỹ sư máy tính trẻ,  tham gia điều hành lĩnh vực máy tính, cũng như hoạt động chính trị, anh Roberto chợt khám phá ra rằng các hệ tư tưởng không làm cho con người tự do hơn. Tự do duy nhất chỉ có thể đến từ Chúa vì “tự do thực sự là giải thoát bản thân khỏi cảm giác tội lỗi, bởi vì sự cứu chuộc của Chúa Kitô đã khôi phục lại mối liên hệ tốt đẹp với Chúa”. Rồi ơn gọi của Chúa đến …

Cha Roberto khấn trọn đời trong Dòng Phanxicô của các anh em Capuchin vào ngày 7 tháng 9 năm 2002 và được thụ phong linh mục vào ngày 23 tháng 9 năm 2006. Sau khi lấy bằng tiến sĩ thần học Kinh Thánh tại Đại học Giáo hoàng Gregorian ở Rome, Ngài là giáo sư ngôn ngữ Kinh Thánh và Kinh thánh tại Studio Teologico Laurentianum Interprovincial của dòng Phan xi cô khó khăn,  Capuchin ở Milan và Venice.

Cha Roberto PasoliniNgày 20 tháng 12 năm 2024, Cha Roberto Pasolini, giảng thuyết cho Giáo hoàng, đã kêu gọi các nhà lãnh đạo Giáo hội hãy trân trọng phẩm chất “khiêm nhường” trong dịp tĩnh tâm Giáng sinh, kêu gọi các tín hữu noi gương Chúa Kitô và phản đối nhu cầu phải cảm thấy “quan trọng trong mắt người khác”. | Nguồn: Ảnh do Festival Bíblico cung cấp

“Nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì:

Luật sư Nguyễn Văn Đài và FANS 

Nguyễn Minh Cần,  Nguyên phó chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội viết:

“Nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì:

1/ Cuộc đấu tranh giành độc lập của dân ta đã theo con đường khác, rất có thể là theo con đường của cụ Phan Châu Trinh, và dân tộc chúng ta sẽ sớm giành được độc lập mà không phải đổ máu, giống như nhiều nước khác trong vùng Đông Nam Á, Nam Á;

2/ Chúng ta tránh được nạn ám hại các người đứng đầu các đảng phái yêu nước – phần đông họ là những thành phần ưu tú của dân tộc – bằng những ban ám sát của ĐCS;

3/ Tránh được cuộc cải cách ruộng đất đẵm máu, tàn bạo, làm trên 100 nghìn người chết oan uổng và làm đảo lộn đạo lý truyền thống của dân tộc, mà có một cuộc cải cách ruộng đất ôn hòa, hợp tình, hợp lý để tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế;

4/ Tránh được những cuộc cải tạo công thương nghiệp và cưỡng bức hợp tác hóa nông nghiệp làm suy sập nền kinh tế của đất nước và triệt tiêu các lực lượng năng động nhất trong nền kinh tế;

5/ Tránh được những trận đàn áp văn nghệ sĩ, trí thức làm cho văn hóa, văn học nghệ thuật nước ta tụt hậu hàng nhiều thập niên, trái lại, nền văn hóa, văn học nghệ thuật nước nhà được tự do chắc chắn đã nảy sinh được nhiều thành tựu rực rỡ;

6/ Dân tộc ta tránh được cuộc chiến tranh Bắc Nam kéo dài hàng chục năm trời làm gần một chục triệu người dân và binh sĩ của cả hai phía phải bỏ mạng, tránh được sự chia rẽ nặng nề của dân tộc đến nay vẫn còn khó khăn hòa giải hòa hợp;

7/ Tránh được hệ thống những trại tù mang danh “trại cải tạo” để đày đọa hàng trăm nghìn con người yêu nước, những trí thức có tinh thần tự do và dân chủ và tránh được cái chết oan uổng của hàng vạn con người;

8/ Tránh được cái “công hàm 14.9.1958 của Phạm Văn Đồng”, không có chuyện dâng đất, dâng biển dễ dàng cho Trung Quốc như vừa qua, không có chuyện bauxit Tây Nguyên, cho thuê rừng đầu nguồn, đưa hàng chục nghìn lao động Trung Quốc vào các vùng xung yếu của nước ta, và đặc biệt là không có nguy cơ mất nước như ngày nay ….

Nói tóm lại, nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì ngày nay đất nước Việt Nam từ lâu rồi đã được tự do, dân chủ và độc lập thật sự, đã đạt được mức tiến bộ về mọi mặt không kém gì các nước tiên tiến trong vùng, như Nam Hàn, Đài Loan.”

Fbk.  Nguyễn Doãn Đôn

Ảnh nguồn mạng


 

Thư Gửi Cho Chính Mình Khi Về Già

Con à, khi con già đi…

Đừng cố dạy ai điều gì. Dù con có đúng, hãy nhớ lại, ngày xưa chính con cũng khó chịu thế nào khi người lớn tuổi luôn cho rằng họ biết hết.

Đừng ép buộc ai, cũng đừng cố bảo vệ hết thảy những người thân khỏi mọi nỗi khổ của cuộc đời. Chỉ cần yêu họ thôi là đủ. 

Đừng suốt ngày than phiền về bệnh tật, về hàng xóm, về chính quyền hay về lương hưu. Đừng biến mình thành một bà cụ cáu kỉnh. 

Đừng mong chờ con cái phải biết ơn. Hãy nhớ: không có con cái nào vô ơn cả – chỉ có những bậc cha mẹ dại khờ, đặt quá nhiều kỳ vọng vào lòng biết ơn. 

Đừng bao giờ nói những câu khó nghe như:

“Ngày xưa mẹ bằng tuổi con thì…”,

“Cả tuổi thanh xuân mẹ đã hy sinh cho con…”,

“Mẹ lớn tuổi hơn nên mẹ biết nhiều hơn…”.

Những lời ấy chẳng giúp gì, chỉ khiến người nghe thêm nặng lòng.

Nếu có cháu, hãy để chúng gọi con bằng bất cứ cái tên nào chúng thích. Điều quan trọng không phải là cách gọi, mà là tình cảm chúng dành cho con. 

Đừng lãng phí tiền vào những liệu pháp “cải lão hoàn đồng”. Vô ích thôi. Hãy dành số tiền ấy cho một chuyến đi, một trải nghiệm vui, một kỷ niệm đẹp.

Đừng soi gương trong bóng tối để tự lừa dối mình. Hãy nhìn thẳng vào tuổi tác, và cố gắng giữ cho mình nét thanh lịch, sang trọng. Không cần trẻ lại, chỉ cần đẹp trong sự chín muồi. 

Hãy chăm sóc chồng con, ngay cả khi ông ấy đã trở thành một ông già gầy yếu, khó tính. Đừng quên rằng, đã có lúc ông ấy trẻ trung, mạnh mẽ, vui tươi… Và có thể chính lúc này, ông ấy mới thật sự cần con nhất.

Đừng cố chạy theo thời đại: con không cần phải rành công nghệ mới, không cần ép mình theo dõi mọi tin tức, không cần học thêm mọi thứ chỉ để “không tụt hậu”. Hãy làm những gì khiến con vui, thế là đủ.

Đừng tự trách mình vì những gì đã qua – trong đời con hay trong đời con cái. Con đã làm hết sức rồi.

Và trên hết, hãy giữ phẩm giá của mình, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Cho đến giây phút cuối cùng.

Cuối cùng, xin nhớ: nếu con còn sống, nghĩa là vẫn có ai đó cần đến con. 

Tác giả vô danh – nhưng như viết cho tất cả chúng ta.

From: TU-PHUNG


 

Quyền lực và tiền bạc có đem lại hạnh phúc? – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

 Say mê quyền lực cũng như say mê tiền bạc đó là điều thường thấy của con người khi còn sống ở trần thế này. Quyền lực và tiền bạc thường dính liền nhau. Có quyền thì dễ kiếm tiền. Có tiền thì dễ kiếm quyền. Tiền và quyền dính quyện vào nhau.

 Khi con người đam mê quyền lực và say mê tiền bạc còn ghê gớm hơn người say rượu hay say thuốc, nếu say mê quá đáng bất chấp đạo lý, lẽ phải, thiếu lòng yêu thương, thường nhận lãnh hậu quả khôn lường được.

 Thí dụ vì say mê quyền lực và tiền bạc như trường hợp sau: 

1)Hậu thương vụ AVG: Bắt giam 2 cựu Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn

2 cựu Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn 

Theo báo Thanh niên, ngày 23.2, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố bị can; lệnh bắt bị can để tạm giam; lệnh khám xét đối với ông Nguyễn Bắc Son, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông và ông Trương Minh Tuấn, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, cùng về tội danh vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 3 điều 220 bộ luật hình sự năm 2015.

Theo BBC, ngày 10/7/2018, Bộ Công an đã khởi tố vụ án liên quan đến thương vụ Mobifone mua AVG, làm thất thoát khoảng 8000 tỷ đồng ngân sách nhà nước.

 Trường hợp nhà giàu cũng khóc, cũng khổ: 

2)Chủ cà phê Trung nguyên: 

Theo báo Zing. Việt Nam, khối tài sản của ông chủ cà phê Trung Nguyên theo như luật sư của ông Vũ cũng đưa ra 13 bất động sản chung có giá trị 725 tỷ đồng.

Về các tài sản khác được xác minh tại ngân hàng (tháng 10/2018) vào khoảng 2.102 tỷ đồng, gồm tiền mặt, ngoại tệ, vàng. 

Vì vụ ly hôn với vợ là bà Lê Hoàng Diệp Thảo, Chủ tịch tập đoàn Trung Nguyên Đặng Lê Nguyên Vũ than thở, đau đớn nói rằng “Tiền nhiều đề làm gì?”

 Ông Vua Cafe Trung Nguyên: Tiền Nhiều Để Làm Gì?

https://www.youtube.com/watch?v=jr5AgBvAaz0 

* * * Có câu chuyện, một ông trùm người Trung Quốc qua đời, để lại cho vợ 1,9 tỉ đô trong ngân hàng. Bà vợ ông sau đó đã lấy người lái xe của chính ông. Người lái xe nói: Tôi đã nghĩ tôi phải làm việc cho ông chủ mình. Nhưng giờ đây tôi mới nhận ra rằng cả đời ông chủ làm việc cho tôi. 

* * *

Điều quan trọng là sống lâu hơn là có nhiều của cải. Vì vậy chúng ta phải cố gắng để sống khỏe mạnh.

Với một chiếc điện thoại xịn thì 70% công năng của nó chúng ta không dùng đến

Với một chiếc xe đắt tiền thì 70% tốc độ và các đồ phụ kiện là không cần thiết

Với 1 căn biệt thự thì đến 70% không gian là chúng ta không dùng đến 70% quần áo trong tủ của bạn không được mặc tới

Cả cuộc đời làm việc thì đến 70% số tiền kiếm được là dành cho người khác tiêu

Vì vậy chúng ta phải bảo vệ và tận dụng hết khả năng 30% còn lại của chính mình bằng cách:

– Đi kiểm tra sức khỏe thường xuyên, cho dù không ốm đau

– Uống nhiều nước, ngay cả khi không khát

– Học cách buông bỏ, ngay cả khi đối diện với những vấn đề nghiêm trọng

– Học cách thỏa hiệp, ngay cả khi bạn là người đúng

– Học cách khiêm tốn, ngay cả khi bạn giàu có và có quyền lực

– Học cách bằng lòng, ngay cả khi bạn không giàu

– Tập luyện thể thao, ngay cả khi bạn bận rộn

– Dành thời gian cho những người bạn yêu mến 

Cuộc sống này rất ngắn ngủi, vì vậy hãy vui vẻ sống, tìm cách sống có ý nghĩa nhất, hạnh phúc nhất, trọn vẹn nhất nếu có thể!

(từ Do Tan Hung) 

* * * Theo báo tin nóng 24h/Việt Nam, ngày 30/06/2019,

 Bình Phước: Bắt giữ nghi phạm sát hại mẹ ruột vì mâu thuẫn tiền bạc

Vì tiền bạc mà con đã giết mẹ ruột: ông Châu văn Hưng, 37 tuổi, đã giết mẹ ruột là bà Trần Thị Mộng Hoa, 53 tuổi. 

Bài báo viết: “Tại cơ quan điều tra, bước đầu Hưng khai nhận, khoảng 20 giờ 30 phút tối 29/6, sau khi hát karaoke tại nhà ông Vũ Văn Giáp (cách nhà khoảng 100 mét) thì Hưng cùng mẹ mình là bà Trần Thị Mộng Hoa trở về nhà trước, ông Văn (bố Hưng) ở lại hát tiếp”.

“Khi về đến nhà, giữa Hưng và mẹ là bà Hoa xảy ra cự cãi do mâu thuẫn về tiền bạc. Trong lúc tức giận, Hưng đã dùng kéo đâm nhiều nhát vào cổ và người bà Hoa”. 

CÓ THỂ và KHÔNG THỂ (Trầm Thiên Thu)

 Cuộc sống có nhiều mối liên kết giữa vật chất và tinh thần, có loại CÓ THỂ và có loại KHÔNG THỂ. Có lẽ thứ “rắc rối” nhất là vật chất, tiền bạc, bởi vì “cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10). Người ta nói rằng “Tiền là Tiên, là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân”…

 Theo Việt ngữ, Tiền là Tiên bị đè bởi cái đà “dấu huyền” nên thành Tiền. Bất cứ mối quan hệ nào “dính líu” tới nó đều gặp “phiền phức” lắm. Về mối liên quan với tiền bạc, một thi sĩ người Na Uy (quên tên rồi) có nhận định thú vị thế này:

Tiền có thể mua được thực phẩm nhưng không thể mua được sự ngon miệng.

Tiền có thể mua được thuốc tốt nhưng không thể mua được sức khỏe.

Tiền có thể mua được kiến thức nhưng không thể mua được sự khôn ngoan.

Tiền có thể mua được sự lộng lẫy nhưng không thể mua được vẻ đẹp.

Tiền có thể mua được trò cười nhưng không thể mua được niềm hoan hỉ.

Tiền có thể mua được người quen nhưng không thể mua được bạn tri kỷ.

Tiền có thể mua được người hầu nhưng không thể mua được sự trung thành.

Tiền có thể mua được sự nhàn rỗi nhưng không thể mua được sự bình an.

 Theo cách lý luận đó, chúng ta có thể lý luận thêm nhiều điều khác trong cuộc sống. Chẳng hạn vài điều này:

 Tiền có thể mua được trang phục đẹp nhưng thể không mua được nhân cách.

Tiền có thể mua được ngôi nhà nhưng không thể mua được tổ ấm.

Tiền có thể mua được đám cưới nhưng không thể mua được hạnh phúc.

Tiền có thể mua được đám giỗ nhưng không thể mua được lòng hiếu thảo.

Tiền có thể mua được chiếc giường êm nhưng không thể mua được giấc ngủ ngon.

Tiền có thể mua được bằng cấp nhưng không thể mua được sự giáo dục.

Tiền có thể mua được chức tước nhưng không thể mua được uy tín.

Tiền có thể mua được tiệc mừng nhưng không thể mua được lý tưởng.

Tiền có thể mua được tác phẩm nhưng không thể mua được tài năng.

Tiền có thể mua được bảo hiểm nhưng không thể mua được sự an toàn.

Tiền có thể mua được tặng vật từ thiện nhưng không thể mua được lòng nhân đạo.

Tiền có thể mua được hoa, nến, nhang, đèn… nhưng không thể mua được lòng thành kính.

Tiền có thể mua được nhân chứng nhưng không thể mua được phép lạ.

Tiền có thể mua được nhà thờ nhưng không thể mua được đức tin.

Tiền có thể mua được đài tưởng niệm nhưng không thể mua được phúc trường sinh.

 Chính Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó” (Mt 6:19-21; Lc 12:33-34).

 Chúa Giêsu mạnh mẽ xác định: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6:24; Lc 16:13).

 Phùng Văn Phụng 

Tháng 07/2019

Nỗi buồn của hận thù còn lớn hơn “nỗi buồn chiến tranh”- Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

11/12/2025  

Gần đây, tại Việt Nam, cuốn Nỗi buồn chiến tranh được vinh danh trong một giải thưởng văn học. Một cử chỉ cần thiết, vì cuốn tiểu thuyết này là tiếng nói hiếm hoi dám đi thẳng vào vết thương chiến tranh bằng sự trung thực của một con người đã kinh qua chiến tranh đó.

Thế nhưng ngay lập tức, nhiều kẻ giáo điều phản đối quyết liệt, tâm trí họ vẫn còn bị trói buộc bởi những tư duy cũ, lỗi thời. Chiến tranh đã kết thúc nửa thế kỷ, mà trong lòng họ, cuộc chiến và hận thù vẫn còn nguyên vẹn.

Chính phản ứng ấy làm tôi nhớ đến một câu chuyện khác, xa xưa hơn một nghìn năm, nhưng lại soi chiếu vào hiện tại Việt Nam một cách kỳ lạ. Một câu chuyện về hận thù, trả thù, và sự phi lý mà con người có thể đạt đến khi họ không chịu buông bỏ quá khứ.

Đó là câu chuyện về Giáo hoàng Formose.

Câu chuyện tưởng như hoang tưởng này là một màn hài kịch đen, một cảnh tượng phi lý chỉ có thể bước ra từ tiểu thuyết trào lộng. Nhưng đó là sự thật. Và nó nói lên một điều rất sâu sắc, rất đáng sợ về cơ chế của hận thù chính trị.

Formose đã chết được chín tháng khi kẻ thù của ông, người kế nhiệm ông, Giáo hoàng Étienne VI, quyết định đưa ông ra xét xử. Người ta đào xác Formose lên, mặc lại phẩm phục giáo hoàng, đặt ông ngồi trên ngai rồi mở một phiên tòa thật. Ở đó họ buộc tội ông, họ gào thét vào một thân xác bất động, họ chặt những ngón tay đã từng ban phúc rồi ném xác ông xuống sông.

Trong truyền thống Công giáo, khi ban phúc, linh mục hay giáo hoàng giơ ba ngón tay, ngón cái, trỏ và giữa, tượng trưng cho Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì vậy, khi kẻ thù của Formose chặt ba ngón tay này, đó không chỉ là sự xúc phạm thân xác mà còn là cách tước bỏ biểu tượng thiêng liêng, phủ nhận mọi phép lành và mọi thẩm quyền tôn giáo ông từng mang.

Một người chết. Một thi thể lạnh ngắt. Vậy mà hận thù vẫn đòi phải sỉ nhục, phải trả thù cho bằng được như thể ông vẫn còn sống.

Không có minh họa nào rõ hơn cho sự thật này: hận thù không tự dừng lại. Nó tự nuôi mình. Nó lớn lên. Nó đòi hỏi nhiều hơn. Nếu kẻ thù còn sống, ta muốn đánh bại. Nếu hắn gục ngã, ta muốn đạp nát. Nếu hắn chết rồi, ta vẫn muốn trả thù ngay cả trên xác chết.

Đó là cơ chế. Và cơ chế ấy, tôi đã tận mắt chứng kiến trong cuộc chiến tàn khốc nhất mà tôi từng sống qua, cuộc chiến đã xé nát Việt Nam, đất nước của tôi, và làm rạn vỡ linh hồn dân tộc cho đến tận hôm nay.

VIỆT NAM, NGƯỜI CHẾT CŨNG KHÔNG YÊN. NGƯỜI SỐNG LẠI CÀNG KHÔNG.

Hận thù ở Việt Nam không chờ đến cái chết mới bùng lên. Bên thắng cuộc không quên. Bên thua cuộc cũng không quên. Và hầu như mỗi người đều mở một phiên tòa trong tâm trí mình, xét lại, buộc tội, cáo trạng, lật đi lật lại những ký ức tưởng đã chôn sâu.

Trầm trọng hơn cả La Mã thế kỷ IX, hận thù ở Việt Nam đã sống lâu hơn chiến tranh, lâu hơn con người, lâu hơn cả một thế hệ. Chiến tranh kết thúc khi tôi tròn đôi mươi. Năm mươi năm sau nó vẫn còn sờ sờ ra đó, mặc dù tôi và nhiều người bạn đã chủ trương hòa giải ngay khi chiến tranh vừa kết thúc. Và lạ lùng thay, những người chủ trương hòa giải lại bị đánh phá bởi cả hai phía, bên thắng cuộc cũng như bên thua cuộc, thậm chí còn đang bị tù đầy.

Nhưng đây là điều người Việt cần nghe.

Sau phiên tòa xử xác chết đó, Giáo hoàng Étienne VI, kẻ đứng ra xét xử một người đã chết, bị lật đổ, bị tống giam và cuối cùng bị siết cổ chết trong ngục. Thành Rome, chán ngấy cảnh trả thù vô nghĩa, đã quay lưng lại với những kẻ gieo hận. Người ta vớt xác Formose lên, chôn cất lại và phục hồi danh dự cho ông.

Cuối cùng, hận thù đã thua. Vì đến một lúc nào đó, người ta nói: đủ rồi.

Và Việt Nam thì sao?

Nửa thế kỷ nay, chúng ta tiếp tục sống lại cuộc chiến ấy, mỗi người trong một chiến tuyến ký ức của riêng mình.

Hận thù nuôi dưỡng hận thù nhưng chẳng xây nổi điều gì.Nó không trả lại công lý cho người đã khuất. Nó cũng không chữa lành được người đang sống.

Không dân tộc nào có thể bước tới tương lai trong khi cứ kéo lê một xác chết phía sau.

Chúng ta cũng vậy.

Người La Mã, nổi tiếng vì những cuộc tranh chấp không hồi kết, cuối cùng cũng tỉnh táo. Họ nhận ra rằng càng kéo dài sự trả thù càng làm ô uế chính mình.

Chúng ta đang đến đúng điểm đó ?

Đã đến lúc Việt Nam ngừng bới lại những oán hờn cũ, thôi dựng lại những phiên tòa ký ức để xét xử nhau mãi, hướng về những người đang sống, về những đứa trẻ chưa từng chọn cuộc chiến này, và nói: quá đủ rồi.

Không ai từ bên ngoài có thể mang hòa giải đến cho chúng ta. Chỉ chính chúng ta mới làm được điều đó.

Câu chuyện về Formose từ hơn một nghìn năm trước dạy ta một điều giản dị mà sâu sắc: hận thù chẳng mang lại gì, và cuối cùng nó sẽ quay lại nuốt chửng chính những kẻ nuôi dưỡng nó.

Vậy hãy học lấy bài học ấy. Cứ ôm hận mãi thì chết cả nút.

Cũng là một kiểu ngu. Mà cái ngu kéo dài nửa thế kỷ thì người ta gọi thẳng là NGU LÂU.

Ngoài hiên mưa vẫn rơi.

“Buồn dâng lên đôi môi…

Buồn đau hoen ướt mi ai rồi…”

Cái buồn đi trong đêm khuya ấy, cái buồn rơi theo đêm mưa ấy — tôi sợ rằng nó sẽ còn theo người Việt chúng ta rất lâu nữa.

Tôi bi quan, vì tôi tin nỗi buồn này, nỗi buồn của hận thù, sẽ còn dài hơn cả cuộc đời tôi.

Và có lẽ, nó sẽ theo tôi sang tận thế giới bên kia, nếu chúng ta không dừng lại ngay từ bây giờ.

Paris 07/12/2025