ĐÓN NHẬN SỰ SỐNG

ĐÓN NHẬN SỰ SỐNG

Elisabeth Nguyễn

Không ai trong loài người chúng ta có thể làm nên sự sống. Chúng ta lãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa, từ ngày Người tạo thành trời đất, muôn vật, con người từ hư vơ.

Sự sống của chúng ta, nó đi từ sâu thẳm thời gian qua thân xác, trái tim và tinh thần của hàng tỉ tỉ triệu triệu con người. Sự sống đó đã chuyển lần lần chuyển xuống ông bà, cha mẹ rồi tới chúng ta.

Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang ba năm bú mớm, mẹ đã cưu mang con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy (2Mcb 7, 27b – 28). 

Để có sự hiện diện của ta, cần có hai người là cha mẹ. Để có sự hiện diện của cha và mẹ cần có 4 người. Sự hiện diện của 4 người, cần có sự hiện diện của 16 người. Cứ thế ta nhân lên thì phải công nhận là trải qua bao nhiêu sự truyền thừa đời sống của những con người, trải qua bao nhiêu thế hệ mới có sự hiện diện của ta. 

Sự sống chúng ta đã lãnh nhận từ quá khứ và còn lãnh nhận trong hiện tại. Ngày hôm nay, một phần là từ tất cả nhân loại, những con người bằng cách này hay cách khác đã nuôi hoặc đang nuôi chúng ta từ các quôc  gia trên thế giới, những tinh hoa truyền thừa từ các tôn giáo, những công trình nghiên cứu khoa học, y học, văn hóa, văn chương v.v… từ những bậc cai trị đất nước, các bậc tu hành, các nhà giáo dục, những người làm ra cơm bánh, của cải, những nông dân, nông nghiệp, một phần khác là từ vũ trụ, không khí, mặt trời, nước uống, biển cả, đồi núi, sông hồ  v.v…và nhất là khoa tin học trong khoảng hai, ba chục năm gần đây tiến thật nhanh chóng, chính  nhờ Thiên Chúa ban cho những người đó có bộ óc thông minh và ý chí cần cù sáng tạo , đã cho chúng ta những phương tiện như internet mà chúng ta đang xử dụng.v.v… Tất cả những thứ này chúng ta nhận lãnh cách nhưng không, ngay từ khi ta chỉ là một em bé chào đời cho đến khi ta rời khỏi thế giới này. Đây thật là một Hồng Ân lớn lao Thiên Chúa ban cho loài người.

Ngay cả một phần nhỏ của sự sống chúng ta cũng không thể tự có được.  Con người trong chúng ta không ai được lựa chọn sinh ra và chết đi theo ý mình. Ta không được lựa chọn làm đàn ông hay đàn bà, với ngoại hình đẹp xấu, cao lùn, tính cách, tài năng, tánh tình, thông minh hay ngu độn, giàu có hay nghèo hèn, da trắng hay vàng, đen v.v…  

Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ như thế nào. Không phải mẹ ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng không phải mẹ săp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đang Tạo Hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người và đã sáng tạo muôn loài. Chính Người do Lòng Thương Xót, cũng sẽ trả lại cho các con Thần Khí và sự sống bởi các con trọng luật lệ của Người hơn bản thân mình (Mcb 7, 22-23)

Nhưng chúng ta ai cũng đến thế gian này với cả một hồng ân trong mắt Chúa, chúng ta có một giá trị cao trọng trước mặt Chúa, Ngài cho chúng ta sự tự do để chúng ta có cơ hội duy nhất là được làm chính mình. Chúng ta muốn tự xây nên mình, có cơ hội sống như mình muốn, làm điều mình tin tưởng, sáng tạo điều mình mơ ước hay theo đuổi điều mình khao khát ước ao thì ta hãy đón nhận sự sống một cách tự do và ý thức do lương tâm mách bảo.

Trước mặt con, Người đả đặt lửa với nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con là cửa sinh cửa tử, ai thích gì sẽ được cái đó (Hc16, 16-17).

Trong chương trình của Thiên Chúa thì mỗi người dù nhỏ bé hèn mọn, bệnh tật hay bất hạnh đến đâu cũng có một chỗ đứng trên thế gian này. Sự sống tự nó đã là một mầu nhiệm. Vậy ta hãy chuẩn bị cho sự sống của cá nhân mình cho xứng đáng làm một con người đích thực, chân thực và hữu ích cho thế giới này với vốn liếng của mỗi người là năm chiếc bánh và hai con cá mà Thiên Chúa đã ban cho.

Phúc thay kẻ nghiền ngẫm khôn ngoan, và biết dùng trí khôn mà suy luận (Hc14,20).

Chúng ta là Kitô hữu, chúng ta cần phải sống xứng đáng là con người mang hình ảnh Chúa và hãnh diện được tham dự lao tác với Ngài trong công trình Cứu Độ Loài Người

Hãy tạ ơn Thiên Chúa, Đang tạo dựng muôn vật. Ghi ơn Ngài về Ân Sủng và Tình Thương của Ngài ban cho toàn thể nhân loại.

Hãy biết ơn tổ tiên, cha mẹ, đấng sinh thành, nuôi nấng, dạy dỗ ta nên người.

Hãy biết ơn tôn giáo ban cho ta một kho tàng tinh thần siêu nhiên để ta sống dồi dào hạnh phúc.

Hãy biết ơn tổ quốc, những anh hùng có công giữ nước, dựng nước để ta có một quê hương giàu đẹp.

Hãy biết ơn người giúp đỡ ta khi ta hoạn nạn, khi ta đói khát (tinh thần lẫn vật chất).

Hãy biết ơn người cứu ta khi ta gặp nguy hiểm, đã nuôi dưỡng và cưu mang gia đình ta, giúp ta một lối thoát, vực ta lên khi ta tuyệt vọng.

Hãy biết ơn hàng xóm láng giềng những người sống xung quanh ta, những người giàu có, kẻ nghèo nàn v.v…

Hẫy biết ơn những người đã nói không với yêu cầu của mình, đã phản bội bất tín với mình v.v…

Tạ ơn Thiên Chúa, vinh danh Ngài về tất cả hồng ân Ngài ban cho cá nhân con và cho gia đình con, cho cả nhân loại trên thế gian này. Amen.

Elisabeth Nguyễn

(2.2018)

Cải cách cơ cấu là gì và tại sao nó lại quan trọng?

 

Cải cách cơ cấu là gì và tại sao nó lại quan trọng?

Nguồn: “What structural reform is and why it is important?”, The Economist, 09/12/2014

Biên dịch: Lê Thị Hồng Loan | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Chính phủ các nước có thể làm gì để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế? Hầu hết các nhà kinh tế tin rằng các chính phủ cần giúp thị trường hoạt động hiệu quả: cưỡng chế thực hiện hợp đồng, giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán, cung cấp điện cho các công ty, hay các hoạt động tương tự. Ngân hàng Thế giới có bảng xếp hạng hàng năm về mức độ hiệu quả của các chính phủ: các bảng xếp hạng mới nhất được công bố vào tháng Mười. Ở nhiều quốc gia, chính phủ khiến cho việc kinh doanh trở nên khó khăn: chẳng hạn, ở Madagascar, một doanh nghiệp có thể phải chờ hơn một năm mới được cấp điện. Tạp chí The Economist thường khuyến nghị “cải cách cơ cấu” (structural reform) như là một phương thuốc chữa các căn bệnh kinh tế. Nhưng chính xác thì “cải cách cơ cấu” nghĩa là gì?

Ở nghĩa đơn giản nhất, cải cách cơ cấu chỉ những thay đổi đối với cách thức hoạt động của chính phủ. Sẽ rất hữu ích khi nhìn vào một ví dụ cực đoan, chẳng hạn như Ukraine, để hiểu được điều này. Nền kinh tế của Ukraine đang trong tình trạng hỗn độn: đây là một trong những quốc gia tham nhũng nhất trên thế giới. Nhưng nước này đang cố gắng cải thiện tình hình. Ví dụ, trong những tháng gần đây, chính phủ đã buộc các bộ trưởng công khai các lợi ích tài chính của họ. Điều đó sẽ ngăn các chính trị gia tham nhũng trao các hợp đồng béo bở của chính phủ cho các công ty nơi họ có cổ phần. Thay vào đó là niềm hy vọng rằng các hợp đồng sẽ được trao cho công ty hiệu quả nhất, qua đó giúp cải thiện chất lượng dịch vụ công và cắt giảm chi phí. Chính phủ cũng đã loại bỏ những lỗ hổng bất thường trong các quy định về mua sắm, vốn cũng là một nguyên nhân gây tham nhũng lớn. Cho đến gần đây vẫn tồn tại một đạo luật ngăn cản công chúng giám sát các nhà cung cấp thức ăn cho các con thú trong các đoàn xiếc quốc doanh. Trong khi đó, giá khí đốt cho người tiêu dùng – hiện đang được trợ giá rất nhiều – sẽ được tăng lên trong vài năm tới để tiết kiệm tiền cho chính phủ.

Nhưng hầu hết các cải cách cơ cấu đều sâu xa hơn. Lấy Italia làm ví dụ. Matteo Renzi, thủ tướng Ý, đã hứa hẹn rất nhiều thay đổi. Thị trường lao động đã trở nên linh hoạt hơn một chút: các công ty có thể thuê tới 20% lực lượng lao động của họ theo các hợp đồng có thời hạn cố định tối đa ba năm. Và giá năng lượng đã giảm: chính phủ đang giúp hạ giá điện cho các công ty vừa và nhỏ trong một nỗ lực giúp họ trở nên cạnh tranh hơn. Pháp cần phải làm điều tương tự. Ví dụ, vào thời điểm hiện tại việc bán aspirin – một loại thuốc khá vô hại – trong phần lớn các siêu thị ở Pháp vẫn là việc làm bất hợp pháp. Chính phủ Pháp đang lên kế hoạch để đơn giản hóa luật lao động, thông qua việc nới lỏng các quy tắc điều chỉnh đối với các “hội đồng công nhân” (các tổ chức đại diện cho người lao động) trong các công ty. Pháp cũng muốn buộc những người đang xin trợ cấp thất nghiệp phải đi tìm việc “một cách chủ động hơn”. Quốc gia này cho rằng các điều kiện đang quá lỏng lẻo vào thời điểm hiện tại.

Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là những cải cách cơ cấu quan trọng như thế nào, đặc biệt khi một nền kinh tế đang gặp khó khăn. Việc chống tham nhũng ở Ukraine là rất đáng hoan nghênh, nhưng một chương trình đầu tư cũng sẽ giúp ích cho nền kinh tế của đất nước này. Việc tăng giá khí đốt quá nhanh sẽ gây hại nhiều hơn là lợi, tác động tiêu cực đến thu nhập của người tiêu dùng nhiều hơn nữa. Ở Italia, các nhà đầu tư có thể lo sợ về gánh nặng nợ khổng lồ – và có thể là không bền vững – không kém những lo lắng về thị trường lao động cứng nhắc của quốc gia này. Và phần lớn khu vực đồng euro đang kêu gọi nới lỏng định lượng, theo đó ngân hàng trung ương sẽ phải mua vào trái phiếu chính phủ. Các cải cách cơ cấu là cần thiết để đảm bảo tăng trưởng về lâu dài. Nhưng trong ngắn hạn các chính phủ cũng cần phải có hành động quyết liệt hơn.

“Ngôi mộ Tổng thống Mỹ nhỏ hơn ngôi mộ người nghèo ở làng tôi”

Đài Á Châu Tự Do

Hôm trước, tôi có đến thăm nghĩa trang Arlington thì tôi thấy ở đấy nó hay như thế này: ngôi mộ của một vị tổng thống rất nổi tiếng Kenedy, người có câu nói nổi tiếng là “Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho bạn mà hãy hỏi bạn đã làm gì cho tổ quốc”, thì thật ra nhỏ hơn ngôi mộ của người nghèo ở làng tôi.

Người ta không coi cái câu chuyện làm nên một ngôi mộ lớn để ghi nhận, nhưng mà người ta thực hành tiết kiệm đối với ngay cả người lãnh đạo rất là cao.

Link vượt tường lửa: http://bit.ly/2E9dRAZ

Nguyễn Quang Thạch, người thành lập chương trình “sách hóa nông thôn” ở Việt Nam, chia sẻ về chuyến đi Mỹ lần đầu tiên của anh để nhận giải thưởng…
RFA.ORG

Thiên Chúa là Tình Yêu!

Thiên Chúa là Tình Yêu!

Lạy Chúa Giêsu!
  Trong mỗi người Chúng Con có một loại người mang những Chứng Bệnh “Bất Trị” Như:
  Háo Danh…Thiếu Tư Cách…Vô Giáo Dục…Phe Đảng…Nịnh Bợ 3 Xu…Tâng Bốc Hạ Cấp…Phát Ngôn Hồ Đồ…Tiểu Nhân Háo Thắng…

   Xin “Bệnh Viện của Chúa” chữa lành những cho những “Vết Thương Bất Trị”, 

Xin Cho Chúng Con luôn biết Sẵn Sàng, vì không biết Ngày Giờ Chúa đến.

1.Tôi đến bệnh viện của Chúa để kiểm tra sức khỏe và phát hiện rằng mình đang bị bệnh.

  1. Khi đo huyết áp cho tôi, Chúa cho biết tôi thiếu LÒNG NHÂN ÁI. Và khi lấy nhiệt độ, Nhiệt kế nhảy vọt đến 40 độ ÍCH KỶ
  2. Điện tâm đồ cho biết Trái tim thiếu những rung động YÊU THƯƠNG, Một số mạch máu bị tắc nghẽn Vì lớp cholesterone GHEN GHÉT.
  3. Tới khoa chỉnh hình, Tôi khám phá mình đi lại khó khăn Tôi không thể tiến lại ôm người anh em Vì lòng KIÊU HÃNH cản ngăn, Cánh tay của tôi bại xuội.
  1. Chứng CẬN THỊ, mắt tôi không thể nhìn xa hơn cái vẻ bên ngoài của người khác
  2. Quen những tiếng ồn ào thường ngày Tai tôi bị ĐIẾC ĐẶC, Không còn nhạy bén với những tiếng thì thầm yêu thương. 
  1. Con xin cảm ơn Ngài, Vị Lương y nhân hậu! Chúa đã chữa trị cho con miễn phí hoàn toàn vì lòng thương xót.

8. Con cam kết khi xuất viện Sẽ tiếp tục dùng toa thuốc của Chúa, cách trung thành và đều đặn.

  1. Nhờ những dược liệu tự nhiên Chúa hướng dẫn cho con Trong sách thuốc “TIN MỪNG” của Chúa.
  2. Mối buổi sáng, khi thức dậy Con sẽ dùng ngay chén trà TẠ ƠN. Trước khi làm việc, Con sẽ uống một muỗng canh NỤ CƯỜI THÂN ÁI!
  3. Và mỗi giờ, con sẽ uống thêm viên NHẪN NẠI Với ly nước NHÂN BẢN. Và lạy Chúa, khi về lại nhà Con sẽ chích mũi thuốc TÌNH THƯƠNG trợ lực.

12.Trước khi đi ngủ Con sẽ uống 2 viên LƯƠNG TÂM BÌNH AN. Vị Thầy thuốc của con ơi, Con tin rằng sẽ dứt bệnh… 

  1. Con xin hứa sẽ dùng toa thuốc này cách đều đặn.
  1. Để khi về với Chúa, con sẽ hiện diện với một tinh thần khỏe mạnh và bình an

  Sưu tầm

 Kitty ThiênKim & Kim Bằng Nguyễn gởi

Thành phố ngợp, ngày nao chiều gió dậy,

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 6 Thường Niên năm B 11/02/2018

 

Tin Mừng (Mc 1: 40-45)

 

Khi ấy, có người mắc bệnh phong đến gặp Đức Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Đức Giêsu chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch!” Lập tức, bệnh phong biến khỏi anh, và anh được sạch. Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế; và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” Nhưng vừa đi khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền và loan tin ấy khắp nơi, đến nỗi Đúc Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.

&  &  &

 

“Thành phố ngợp, ngày nao chiều gió dậy,”

“Gương mặt ấy, lời yêu thuở ấy.”

(dẫn từ thơ Xuân Quỳnh)

– Mai Tá lược dịch

Thành phố với lời thơ yêu thương “chiều gió dậy” là gương mặt của tình yêu vẫn thấy ở trình thuật thánh Máccô. Trình thuật thánh Máccô, có lời thơ yêu trải dàn khắp dân gian, không ở nơi hoang sơ dân dã cạnh đất miền Galilê, nhưng còn ở văn bản đời thường, như bản văn viết mà tác giả Megan McKenna để ra nhiều chương/đoạn phản ánh tư tưởng của bậc hiển thánh rất Máccô.

Một trong các bản văn mà tác giả này ghi rõ lời yêu thương giống hệt Tin Mừng Máccô như sau:

“Rất nhiều lần, có người mải tìm cho ra ý nghĩa của đời mình. Ông và bầu bạn muốn sống theo cung cách có dáng vẻ tự do, ân sủng ngõ hầu tôn trọng mọi người. Bầu bạn vẫn cố thuyết phục ông bền đỗ trong cuộc kiếm tìm ấy. Và, họ định cùng nhau tìm đến Bậc Thày nhân hiền để vấn kế và xin Thày nhận họ làm đồ đệ, để theo Ngài.

“Ông có dịp đi ngang thôn làng có nhiều người ở. Và cùng đám đông quần chúng ở lại lắng nghe lời Thày. Ít lâu sau, đồ đệ lại cũng ra đi trình diện với mọi người để xin khai tâm, theo chân Thày. Tập tục thời bấy giờ cho thấy Bậc Thày đưa ra nhiều câu vấn ý cốt nghe lời đáp hầu có quyết định xem các ứng viên theo Thày có đạt ý nguyện thành dân con đeo đuổi đời rong ruổi cùng Thày đi thuyết giáo, không.

“Đương nhiên, đồ đệ nào mà chẳng muốn được Thày chấp nhận tham gia đoàn người giảng rao, nên mới nói: “Trình Thày, bọn con đây muốn theo chân Thày học hỏi cung cách sống và làm việc cho đúng cách.” Bậc Thày nhìn họ, rồi bảo: “Sao anh em biết rõ lòng mình muốn theo Tôi?” Sao anh em hiểu được điều mình ước muốn?”

“Đồ đệ thay nhau đáp: “Chính lời Thày đã khích lệ chúng con. Và, đó là điều bọn con tin tưởng, nay muốn nó thành hiện thực.” Bậc Thày lặng thinh trong giây lát như muốn tập trung nguyện cầu chỉ một lúc, rồi hỏi: “Có thật anh em vẫn quyết như thế không? Hay, còn ý định nào khác khi đồng hành, cùng với Tôi?” Họ đáp: “Đó là điều chắc chắn.” Trong phút chốc, Bậc Thày thoạt nhìn họ với vẻ ái ngại, đoạn bảo: “Thôi được, anh em cứ theo Tôi. Nhưng, nếu anh em có để mất tất cả những gì mình nắm vững thì sao? Và, một khi nhận ra điều này, anh em có còn tiếp tục nữa hay không?” Bọn họ đáp: “Dứt khoát vẫn như vậy! Dù mọi chuyện ra tồi tệ thế nào đi nữa, chúng con không đổi ý.” Vàhọ được đón vào đoàn nhóm đồ đệ theo chân Thày chỉ giáo.

Nhưng về sau, có lúc họ thấy rất chán ngán, buồn nản và bất ưng như mọi người, tức những người cũng đưa ra cùng một câu hỏi để che giấu và phủ nhận mọi sự xảy đến với họ. Nỗi bất ưng cứ thế tăng dần và lan nhanh, đôi lúc thấm nhập mọi người trong nhóm. Và, khi họ không còn biết nguyên do của nỗi niềm ấy nữa, thì chính là lúc họ coi đó như một đau xót khiến họ phải bộc lộ ra ngoài. Bộc lộ, đến độ niềm đau thương đã trở thành sắc màu sống sượng đến rỉ máu.

Họ lại nhất quyết bỏ tất cả ở đằng sau, chỉ vì sự kiện ấy và tiếp tục lại kiếm tìm. Lại, mải miết kiếm tìm, giống như trước. Dù sao, họ cũng chỉ làm có mỗi việc là những kiếm và tìm, suốt một đời. Trong tìm kiếm, họ tin mình sẽ đạt cùng đích, như Bậc Thày hằng bày tỏ, với họ. Tuy lời Thày trở thành điệp khúc miên trường khi lời Thày phát biểu đã ra như câu thần chú, to/nhỏ vẫn không ngừng. Vẫn dấy lên niềm hy vọng cùng hãi sợ, ở nơi họ. Và, họ nhớ lại lời Thày trước kia từng hỏi: “Có thật, là anh em đã mất hết mọi thứ, không? Có thật, anh em muốn đến với Tôi chỉ để học hỏi lối sống cho đúng cách, không? Có thật như thế không?

Đó cũng là câu hỏi được thánh Máccô đưa ra hôm nay. Ở trình thuật này. Đó còn là tên gọi của chương trình nay được bảo: bỏ tất cả để rồi tìm chẳng được gì. Bởi, khi viết trình thuật này, tác giả Máccô luôn nhấn mạnh đến cụm từ “mọi sự” và “hư vô.” Chứ không phải, “tất cả” và “chẳng gì cả”. Có nghĩa là, tất cả mọi sự rồi ra sẽ hư luống. 

Nhà thơ nữ Kathy Galloway, xuất xứ từ đất miền Iona, Tô Cách Lan, cũng viết lên cùng giòng chảy rỉ máu rất Máccô như sau:

“Chớ trở về khung trời nhỏ của riêng ai

Ở đất miền êm ả chốn hình hài.

Ngày rời bão tố kiếm hồn nơi sân vắng,

Cùng người thân an nghỉ chốn bồng lai.

Nơi sân vắng hồn thiêng thân yêu ấy,

Diễm lệ hơn ngự uyển vườn người năng lui tới,

Ngập những cỏ dại, lại nghèo hèn đầy chiến chinh,

Cứ đòi người chăm bới chốn nhà mình.

Kiếm tìm hồn quý phái lại hiếm quý

Thấy đời mình mở ngỏ ở chân trời.

Với khóc than, doạ dẫm rồi đau đớn,

Để người tìm lại thấy những kêu ca.

Hãy lưu lại cùng người yêu nay ít thấy,

Thuở yên bình trả giá vẫn nhiều hơn,

Bởi con trẻ thân thương không đùa giỡn

vẫn khóc ròng nhiều tiếng người vẫn mất.

Đừng hãm giam một chân trời riêng tư ấy

Của chốn miền nóng cháy ở nhiều nơi

Chẳng nơi nào có thể vực cuộc sống,

Có ánh mắt em nhìn cuộn giá băng.”

 Trình thuật hôm nay, thánh Máccô còn diễn tả tâm tình gặp gỡ giữa Chúa với người phung cùi. Đọc truyện, người người thật chẳng biết bệnh nhân phung cùi đã nghĩ gì? Làm gì? Xử thế ra sao khi gặp Chúa? Và, ai ai cũng nghĩ đó là cuộc hội ngộ rất thực tiễn. Hội ngộ, nay là thực tại xảy đến với người trong cuộc chưa từng thấy, nhưng vẫn đến. Và, một khi sự thực xảy đến rồi, cũng đừng sợ. Hãy cứ hiên ngang đến mà sờ chạm vào thực tại. Bởi nếu không, chính thực tại căn bệnh cũng sẽ sờ chạm ngay thân xác hoặc thân phận của ta thôi. 

     Đọc trình thuật, người người sẽ tự hỏi: dù bệnh phong nay “thoát xác” khỏi con nguời mình, thì bệnh nhân kia chắc vẫn thấy khó lòng mà sống tiếp những ngày sau đó. Khó nhất, là khi anh nhận ra bệnh vẫn còn đeo đuổi anh, bằng hình ảnh/hoặc ý nghĩ nơi anh, như trước kia.

Đọc trình thuật, hẳn có người lại sẽ hỏi: giả như bệnh nhân kia biết thân xác mình nay đã sạch, hỏi rằng cuộc sống của họ sẽ ra sao? Dù, từ nay anh ta không là “cùi hủi” như trước, nhưng vẫn sợ. Sợ, bị tẩy trừ khỏi cộng đoàn mình chung sống. Sợ, nếp sống do cộng đoàn định đoạt vẫn không yên. Sợ hơn nữa, khi người của Chúa chưa học được cung cách của Bậc Thày Nhân Hiền, là chẳng bao giờ tẩy trừ hoặc tống khứ ai ra khỏi “Nước” của Ngài. Trái lại, Ngài vẫn luôn tiếp nhận mọi người, dù lành lặn hay bệnh hoạn, vẫn đỡ nâng. Và hỏi rằng: dân con Nước Trời ở trần thế có làm được như thế không?

Cảm nhận thực trạng rất khó này, cũng nên ngâm lên lời thơ xưa được trích dẫn, mới hôm nào:

            “Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu,

            Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì.

            Hư vô bóng khói trên đầu hạnh;

            Cành biếc run run chân ý nhi.”

            (Xuân Diệu – Thu)

“Chân ý nhi”, phải chăng là thực trạng của người bệnh, nay cảm nhận? “Trên đầu hạnh”, có là “hư vô bóng khói” vẫn cứ tin. Tin Chúa, là Ngài chẳng tẩy trừ hoặc tống khứ bất cứ ai. Tin rằng, người nào đó có tật/có bệnh, vẫn vô tư/hiền lành/mẫn cán, đáng được ơn.                                  

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn 

 Mai Tá lược dịch.

Con gái nói không là có

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 6 thường niên năm B 11-02-2018 

“Con gái nói không là có”
Con gái nói một là hai
Con gái nói hai là một
Con gái nói ghét là thương
Con gái nói thương là ghét đó
Con gái nói giận là giận yêu
Con gái còn yêu là còn giận.”

(Ngọc Lễ – Con Gái)

(1Timôtê 2: 9-13)

 Trần Ngọc Mười Hai

Thời buổi này mà còn phân-biệt trai/gái hoặc bàn chuyện đổi giới, phải chăng là chuyện thừa, thật hết ý? Vâng. Rất đúng. Chính vì hết cả ý-tưởng lẫn đề-tài luận-phiếm lăng-nhăng cho “qua ngày đoạn tháng”, nên bần đạo bầy tôi đây mới phải thế.

Thế nhưng. Trước khi đi vào chuyện lăng-nhăng không hết ý, xin cứ là mời bạn và tôi, ta nghe câu hát tiếp hơi buồn một chút, rồi bàn tiếp. Nghe và bàn, là lắng tai và để ý đến câu ca/điệu nhạc lỉnh-kỉnh như sau:

 “Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Con gái nói nhớ là quên.
Con gái nói quên là nhớ.
Con gái nói buồn là vui.
Con gái nói vui là buồn.
Con gái nói không biết ghen.
Là ghen như điên đấy nhé.
Con gái nói không biết yêu.
Là yêu đến quên đường về.

Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Hãy nhìn vào đôi mắt em đây.
Hãy nhìn vào tận trái tim này.
Hãy nhìn vào đôi mắt thơ ngây.
Anh sẽ hiểu được trái tim em.

Trời có lúc nắng lúc mưa.
Trời có lúc mưa lúc nắng.
Con gái có lúc hiền như nai.
Con gái có khi như bà chằng.
Trời vẫn cứ nắng cứ mưa.
Con gái lúc mưa lúc nắng.
Con gái thế đấy bạn ơi.
Mà sao con trai các anh theo dài dài.
(Ngọc Lễ – bđd)

Quả là thế. Sống đời đi đạo, mà lại mang trong mình những chuyện không đáng ta quan-tâm/bàn-bạc chút nào, nhưng vẫn phải nói và viết trên giấy, là bởi vì không còn gì để nói cho hết ý. Thế nên, hôm nay bần đạo lại xin mời bạn và tôi, ta đảo mắt nhìn vào bài “phiếm” trên mạng vi-tính có đầu đề “hơi bị” dài, như sau:

“10 dấu hiệu cho thấy bạn được Đức Phật che chở nhờ tu thân tích đức, luyện từ kiếp trước:

 Người có phúc nhờ tu thân tích đức từ nhiều kiếp sẽ luôn được như ý trong mọi chuyện ở cuộc sống, nếu gặp 10 dấu hiệu dưới đây, bạn quả thật rất may hơn nhiều người.

Những dấu hiệu ấy như sau:

  1. Gặp lúc khó khăn luôn thấy có lối thoát

Mọi người sẽ gặp không ít khó khan/trở ngại trong cuộc sống, và nếu tìm được lối thoát một cách nhanh chóng như xuất hiện tình huống thuật lợi bất ngờ hoặc có người kịp đến hỗ trợ, thì người đó chắc chắn có phúc nhờ tu thân tích đức từ kiếp trước.

2. Đem lại điều may mắn cho người khác

Nếu có người được hưởng ít/nhiều cơ may từ bạn, thì điều đó chứng tỏ bạn là người rất có phúc. Ví dụ như khi đi chợ thấy hàng quán nọ ế ẩm, mà bạn vừa sà vào có ý định mua thứ gì đó thì nhiều khách hang khác cũng ùa tới, như vậy là bạn đã mang đôi chút phúc/lộc của mình cho người chủ hưởng. Ai đang kém may lại được giao du với bạn và thay đổi vận-mệnh của mình, thì chắc hẳn người đó được hưởng phúc/lộc do từ bạn truyền sang.

3.Luôn được tai qua nạn khỏi

Nhiều lúc nhẽ ra bạn phải gánh chịu một vận hạn nặng nề nào đó nhưng không hiểu vì sao những người khác đều bị vận, còn bạn thì không. Ví dụ như trong vụ tai nạn tập thể nọ, nhiều người bị thương hoặc mất mạng, nhưng bạn lại không hề hấn gì, dù đi cùng một chuyến xe. Hay có dịch tễ/bệnh tật lây lan gần như ai cũng mắc phải, mà bạn lại không sao cả, tức là: bạn đang hưởng nhiều phúc đức nên được bảo hộ.

4. Bạn có nhiều bạn bè quý mến

Người có phúc cũng là người có nhiều bạn bè đối xử  tốt với họ. Không phải ai cũng có được diễm phúc đó. Khi bạn gặp khó khăn sẽ gặp không ít người sẵn sàng ra tay vực đỡ bạn dậy, đó là do bởi phúc đức của mình đem đến chứ không là ngẫu nhiên đâu.

 5.Làm việc gì cũng thành-đạt

Bạn kinh doanh, làm việc tại công sở hay làm bất cứ điều gì, đều tốt đẹp hơn nhiều người khác. Ví dụ mình sinh sống trong cùng một dãy phố kinh doanh cùng một mặt hàng, mà bạn lại luôn đắt khách hơn người khác trong khi cả dãy ế ẩm, thì hàng hoá do bạn kinh-doanh cứ bán chạy đều đều. Đơn giản là vì họ không có phúc/đức tích-tụ từ kiếp trước như mình. 

  1. Bạn có được người vợ hay người chồng thật lý tưởng

Người có phúc là nhờ tu thân/tích đức sẽ gặp được ý trung nhân hết lòng với mình. Nếu không vì có phúc đức tích-tụ từ kiếp trước, thì chắc chắn cô ấy hay anh ấy sẽ không hết lòng yêu thương/chung thủy với bạn như vậy đâu. Hãy lết long cảm ơn Bề Trên vì mình đã tu thân/tích đức từ kiếp trước để ngày nay được may mắn hơn nhiều người.

 

  1. Con cái bạn ngoan ngoãn, giỏi giang

Người có phúc chắc chắn sẽ sanh hạ được những đứa con ngoan ngoãn/giỏi giang, có hiếu với cha mẹ. Không phải ai cũng có được cái phúc này đâu, thế nên bạn hãy trân trọng.

 

  1. Bạn có ngoại hình đẹp đẽ

Người có phúc thường được Ơn Trên ban cho ngoại hình đẹp đẽ và cân đối. Không phải ai cũng có cái may được sinh ra với khuôn mặt khả ái và thân hình quyến rũ. Hãy cám ơn Bề Trên đã dành cho mình ưu-đãi ấy.

 

  1. Bạn ít khi đau ốm

Người có phúc chắc chắn sẽ sống thọ và có sức khỏe tốt hơn người bình thường. Những bệnh vặt như ho hen, cảm cúm hay ốm đau không bao giờ chạm tới bạn được, đơn giản vì phúc dày đức cao đã giúp bạn có được điều này.

 

  1. Bạn là người tin vào nhân quả

Đây là điểm quan trọng đối với người có phúc đức quả báo nhãn tiền. Người tin vào nhân quả sẽ sống lương thiện và hành xử đúng với đạo Trời. Họ làm thế sẽ càng tích thêm phúc đức cho bản thân nhiều hơn. 

Nếu có những dấu hiệu này, bạn chắc chắn là người có phúc, con cái, cha mẹ hay bạn bè của bạn nhờ đó được hưởng may mắn. Nhưng để phúc đó được bền, bạn càng phải sống tốt, sống lương thiện, chân thật và khoan dung hơn. Cứ tin vào phúc đức tự tại, bạn sẽ không chịu thiệt bao giờ hết.”(trích dẫn đôi điều từ quan niệm của ai đó ở trên mạng).

Gọi là 10 dấu hiệu về ơn Trời/Phật, chứ thật ra có cả trăm, cả ngàn thứ đáng để ta lưu-tâm lưu/chú ý, hơn. Lưu tâm/chú ý, là cốt cho mọi người nhìn lại đời mình, mới thấy sự thật trên đời khá phức-tạp, tức những điều mà nhiều người vẫn bị cuộc sống thực-tế lôi-cuốn, nên không nhìn nhận.

Bởi thế nên, nghệ sĩ mình vẫn gợi ý những điều trên bằng lời ca/câu hát, tiếp ngay sau:

“Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Hãy nhìn vào đôi mắt em đây.
Hãy nhìn vào tận trái tim này.
Hãy nhìn vào đôi mắt thơ ngây.
Anh sẽ hiểu được trái tim em.”

(Ngọc Lễ – bđd)

Hôm nay, nhà Đạo mình cũng thế. Cũng “hiểu được trái tim em” qua sự việc tưởng chừng như trôi biến cách êm đềm từ lâu, nếu không ai thắc mắc/hỏi han chỉ một tư tưởng nhỏ, sau đây:

“Thưa Cha,

Con cứ thắc mắc hỏi rằng: tại sao những chuyện như nguyên-tắc đổi phái-tính con người ở đời, lại làm nhiều người bận-tâm nên đã trở-thành vấn-đề không nhỏ cho giới sinh-viên đại-học hoặc cao-đẳng, thời gian gần đây. Vậy xin cha cho biết ý-kiến để con yên tâm, không còn thắc-mắc nữa. Thành thật cảm ơn cha.”

 Thật ra, con cháu các đấng bậc vị vọng ngày nay chẳng mấy bận tâm cho lắm chuyện trời ơi đất hỡi như thế. Có khi, đây chỉ là đề-tài để đấng bậc ngồi buồn đặt ra rồi giải-mã cho đầy trang giấy, cũng nên. Thôi thì, nay xin mời bạn và tôi ta thử lắng tai nghe xem đấng bậc nhà mình giải mã thế nào về chuyện này. Nào, xin mời các bạn lắng nghe nhé:

“Có nhiều tài-liệu đáng tin cậy được lập ra để nghiên-cứu về vấn-đề giới-tính hầu giúp mọi người biết sự thật như câu chuyện xảy ra ở Yogyakarta, nước Inđônêxia năm 2007 gọi là Nguyên tắc Gogyakarta. Đó là một chuỗi gồm 29 nguyên-tắc có ghi chi-tiết như một thứ kim chỉ-nam cốt áp-đặt các hệ-luỵ phái-tính, tức: bàn về tự-do chọn giống, định-hướng hoặc khoanh tròn phái-tính con người.

 Vấn-đề đặt ra là hỏi rằng: Ai là người đưa ra các nguyên-tắc này?

Theo Bà Gabriele Kuby tác-giả cuốn “The Global Sexual Revolution” (tạm dịch là: Cách mạng Phái-tính Toàn-cầu) thì việc này do nhóm người gọi là “Chuyên-gia tên tuổi về nhân-quyền”, tức nhóm chức-sắc tuy không có thẩm-quyền hoặc chức-năng công-khai nào hết, nhưng những vị này thuộc nhóm chủ-trương ủng-hộ phong-trào hợp-pháp-hoá tình-trạng của người Đồng Tính Luyến Ái. Nhằm trao ban cho những người như thế một thứ thẩm-quyền ngoài mặt, các “chuyên gia” nói trên đã ra trước toà Liên Hiệp Quốc ở Geneva trình làng cho mọi người biết mà cảm-thông.

 Các nguyên-tắc nói ở đây, là “dụng-cụ tân-tạo tặng trao cho các nhà hoạt-động ủng-hộ chủ trương này, là tập cẩm-nang dầy 200 trang gồm các chỉ-dẫn để phiên-dịch nguyên-tắc nói trên ra thành hành-động chính-trị.

 Ý-tưởng chủ-chốt trong tài-liệu này, là bày ra việc “định-hướng phái-tính” và “nhận-dạng giống”.         Nơi lời tựa sách dẫn ở trên, “Định-hướng phái-tính” được hiểu là việc qui về “khả-năng của mỗi người trong việc lôi cuốn về cảm-xúc, ưa chuộng phái-tính với người nào đó hoặc có tương-quan dục-tình với ai khác, tức các cá-thể có phái-tính khác nhau hoặc cùng giống hoặc mang nhiều giới-tính khác-biệt.   

 Tác-giả Gabriele Kuby cho biết, định-nghĩa này không loại-trừ bất cứ hành-động dục-tình nào tuy khác nhau, kể cả chuyện ấu-dâm, loạn-luân, đa-thê, đa-phu, đa-dục (tức ăn nằm với nhiều người) và cả lề thói dâm-dục với thú vật, nữa.

 “Nhận-dạng giống” cũng qui về cảm-nghiệm phái-tính riêng tự bên trong con người mình và khác nhau tuỳ tứng người vẫn có thể hoặc không thể xứng-hợp với tính/phái định-vị từ bẩm sinh, trong đó có cảm-xúc riêng về thể-xác (tức: tính chuyện đổi giống nếu được tự-do, hoặc nếu y-khoa, phẫu-thuật hoặc phương-tiện nào khác giải quyết giùm) và các biểu-lộ nào khác về phái-tính, cả chuyện ăn mặc, nói năng và phong-cách bên ngoài nữa.”

 Chuyện thứ hai, là tuyên bố: không ai được quyền coi thường/phản bác việc định-hướng phái-tính hoặc nhận-dạng giống/phái dù có thấy vui thích chuyện ấy không, do bởi quyền-hạn của mình bị ảnh-hưởng.” Đây là điều đáng mọi người để tâm, lưu ý. Mọi quyền-hạn của con người đều có thể bị ảnh-hưởng như chuyện đụng chạm quyền tự-do ăn nói và tự-do tư-tưởng, bởi lẽ các quyền này lệ thuộc vào quyền định-hướng phái-tính và nhận dạng giống.

 Nhiều ví dụ giúp ta coi đây là chuyện kỳ-thị, chẳng hạn như: khi dạy dỗ hoặc nuôi-dưỡng con trẻ ta quyết cho chúng tin rằng: mục-tiêu của tình-dục là tạo tình yêu giữa người nam và nữ; và người nữ được định-hình công-tác ngay từ đầu là: sinh con đẻ cái, để nhân loại được phát-triển.

 Các ngành khoa-học từ sinh-ly-học, y-khoa, tâm-lý cho đến xã-hội-học đều dạy rằng giữa nam-nhân và nữ-giới vẫn có nhiều khác biệt, rất đặc-thù, đến độ mỗi và tất cả các tế-bào trong cơ-thể con người đều mang giống đực hoặc giống cái. Nguyên tắc Yogyakarta lập ra khiến việc định-dạng phái-tính tuỳ-thuộc cảm xúc, tức luôn bất ổn tận bên trong và có thể thay đổi bất cứ lúc nào.

 Lời tựa mở đầu các nguyên-tắc nói trên, còn cho biết: khác biệt không chuyển-đổi giữa nam-nhân và nữ-phụ đặt nền-tảng trên “thiên-kiến và vai-trò rập-khuôn nam/nữ vốn là thứ nguyên-tắc dễ có khuynh-hướng bị xoá bỏ sau này.

 Mỗi thứ trong 29 nguyên-tắc nói trên được trưng-dẫn bằng một tuyên-bố cũng rất chung chung lại kéo theo đòi hỏi mọi quốc-gia phải thực-thi, trong đó có việc buộc mọi quốc-gia phải ra luật hẳn hòi ấn-định phái-tính của người thực-thi công-việc vốn phản-ảnh một định-dạng phái-tính do mình tự nhận. Mọi quốc gia cũng buộc phải tôn trọng và đồng-thuận bằng luật pháp việc nhận-dạng phái-tính tự chọn của mỗi người. 

Các nguyên-tắc trên, đòi mọi nước phải có biện-pháp độc-đoán khả dĩ thay-đổi cả hiến-pháp, lề-luật, thể-chế xã-hội, hệ-thống giáo-dục và động-thái căn-bản của công dân mình hầu áp-đặt và thúc-ép một cách hợp-pháp việc chấp-nhận đặc-quyền được phép tỏ-bày việc đồng tính luyến ái và/hoặc dạng-thức cũng như hành-động nào khác không hẳn phải là khác phái.

 Các quốc gia từng can-dự trào-lưu Yogyakarta trước nhất gồm có: Đức quốc, Đan Mạch, Hoà Lan, Na-Uy, Thuỵ-Điển, Thuỵ Sỹ, Cộng hoà Czech, Argentina, Brazil và Uruguay. Quả là, ta đang đi vào một thế-giới mới rất quả-cảm.” (Lm John Flader, Concerns aplenty for all in gender theory, The Catholic Weekly Question Time, 28/01/2018, tr. 19)

Thế đấy, là nỗi khổ của những người vẫn cứ lo-toan những chuyện to lớn ở trên trời hoặc không đâu vào đâu. Còn đây, là lập-trường của bậc thánh hiền ở trong Đạo, từng lên tiếng cả những chuyện có liên quan đến phái-tính, rất nữ/nam ở kinh thánh:

“Tôi muốn đàn bà phải ăn mặc đoan trang,

đồ trang điểm phải kín đáo, giản dị:

không cần kiểu tóc cầu kỳ, vàng bạc, ngọc trai

hay quần áo đắt tiền,

mà là việc lành, phúc đức;

như thế mới thích hợp với các phụ nữ xưng mình có lòng đạo.

Khi nghe lời dạy dỗ,

đàn bà phải thinh lặng và hết lòng phục tùng.

Tôi không cho phép đàn bà giảng dạy,

hay thống trị đàn ông,

trái lại họ phải thinh lặng,

vì Ađam được tạo dựng trước,

rồi mới đến Evà.”

(1Timôtê 2: 9-13)

Xem thế thì, với bậc thánh hiền, đàn bà hay đàn ông đều có chỗ đứng nhất-định trong hệ-cấp quyền-hành hay quyền-lợi trong Đạo. Là người đi Đạo, ta không chỉ chấp thuận tuân theo chỉ-thị hoặc lề-luật được ban-bố từ trên; mà còn phải vui vẻ làm thế, nói chi chuyện đổi giống.

Tựu-trung thì, từ lâu, mọi người vẫn để tâm/lo toan nhiều thứ chuyện, cả việc nguyện-cầu, như truyện kể bên dưới từng minh-chứng:

“Cầu nguyện không giải quyết được những vấn đề khó khăn, những nổi khổ của chúng ta như lời Đức Đạt Lai Lạt Ma từng bảo rằng:

-Tôi là Phật Tử và hàng ngày tôi vẫn đọc kinh cầu nguyện. Nhưng tôi không tin vào sự cầu nguyện sẽ đem lại một xã hội, một thế giới an bình.

 Vì chúng ta đã cầu nguyện và cầu nguyện hàng ngàn năm qua nhưng những lời cầu nguyện của chúng ta [cho một thế giới an bình] chưa bao giờ được đáp ứng cho nên bây giờ chúng ta phải thực tế.

Tôi thường hay nói với mọi người là – Nếu quý vị có cơ may gặp được Chúa Jesus hay Đức Phật thì hãy cầu xin các Ngài đem bình an đến cho thế gian này.

Chắc chắn các Ngài sẽ hỏi rằng – Ai là người đã gây ra bao cảnh bạo loan và bạo lực?

Nếu các Ngài gây ra sự bạo lực thì chúng ta khẩn khoản cầu xin các Ngài là xác đáng. Nhưng đằng này chính chúng ta đã gây ra tình trạng bạo lực.

 Do đó, dĩ nhiên Chúa Jesus hay Đức Phật sẽ phán rằng – chính các con đã gây ra bao cảnh bạo lực thì các con phải có trách nhiệm tự giải quyết lấy.”(trích lập-trường của Đức Đạt Lai Lạt Ma, trong một phỏng-vấn, vào hôm trước).

Thế nghĩa là, ngay đến lời nguyện-cầu ở đâu đây như xưa giờ ta từng quyết, mà Đức Ngài Lạt Ma cũng cho là không cần thiết, nếu như… Vậy thì, trên đời này còn gì để tin tưởng đây? Thật cũng khó để có câu trả lời cho gẫy gọn. Chi bằng, như mọi lần, ta dùng truyện kể nhè nhẹ dù đó là chuyện “Người Sàigòn, tui thế đó” để minh-hoạ cuộc sống trong đó có rất nhiều câu trả lời khá là “khả thì”, như sau:

“Lần đầu tiên lên Sài Gòn là để đi thi đại học, tôi và một thằng bạn thi chung trường nên đi chung với nhau. Ở thì không lo vì đã có nhà người quen ở bên kia cầu chữ Y.

Chỉ lo cái chuyện ăn uống giữa hai buổi thi. Ngay sau khi thi xong môn đầu tiên, hai đứa kéo nhau ra quán cạnh trường kêu hai dĩa cơm sườn. Cầm cái muỗng, cái nĩa để ăn cơm dĩa mà cứ lọng cọng. Ăn hết dĩa cơm, uống cạn mấy ly trà đá tự múc ở trong cái xô để ở góc quán, mà bụng vẫn trống không.

Từ nhỏ đến lớn sống ở dưới quê khi nào đi đâu xa thì cơm đùm, cơm bới mang đi theo chứ có khi nào ăn cơm tiệm để mà biết kêu cơm thêm. Kêu thêm dĩa nữa thì không dám, vì sợ không đủ tiền ăn cho ngày mai, ngày kia… Ngó quanh ngó quất, thấy bàn nào cũng để một nải chuối, mọi người ăn xong cứ thuận tay bẻ, người một trái, người hai trái. Thế là hai đứa sáng mắt, chuối này chắc người ta cũng cho không như trà đá. Vậy là, chỉ một loáng nguyên cả nải chuối để trên bàn chỉ còn đống vỏ. Khi tính tiền, thấy phụ quán cứ đếm đi đếm lại mấy cái vỏ chuối để trên bàn rồi nhìn chằm chằm, thỉnh thoảng lại liếc qua bà chủ quán đang đứng gần đó cười mím chi thì đâm lo. Không biết tiền mang theo có đủ để trả không.

 Nhìn hai đứa gom từng đồng bạc để bỏ lên bàn, bỗng nhiên chủ quán bước lại. Thôi, tính hai dĩa cơm thôi. Phần chuối chắc là không biết có tính tiền nên lỡ ăn, chị không tính. Ngày mai ăn có thiếu thì cứ kêu cơm thêm mà ăn, để bụng đói không làm bài được đâu. Chỉ có nải chuối, cho thấy tính cách người Sài Gòn.

 Cuộc sống không thẳng tắp. Bon chen lên Sài Gòn không phải lúc nào cũng dễ kiếm tiền. Cũng trong những năm thập niên 1980, có lần, tôi thử sức mình với nghề đạp xích lô. Mượn chiếc xe của ông chú vào buổi sáng, lúc ấy chú cho xe ở nhà để ngủ sau một đêm chạy mối chở hàng. Lần đầu tiên chạy xích lô chỉ có chạy xe không từ bên này sang bên kia cầu chữ Y đã muốn hụt hơi. Thế nhưng vẫn rán vì trong túi không còn tiền. Chạy lòng vòng Sài Gòn cả tiếng đồng hồ, ngang qua rạp Quốc Thanh (đường Nguyễn Trãi), thấy một đôi nam nữ đi ra, tay ngoắt, miệng kêu: “Xích lô!” Luồn tay kéo thắng ngừng xe lại hỏi: 

-Anh chị đi đâu?

–Cho ra bến xe Miền Tây. Nhiêu?

Dân miền Đông mới lên Sài Gòn tập tành chạy xe kiếm sống, biết bến xe Miền Tây đâu mà cho giá. Thôi đành chơi trò may rủi: 

-Dạ, em mới chạy xe chưa rành đường, anh chị chỉ đường em chở. Tới đó cho nhiêu thì cho.

 Tưởng không biết đường thì người ta không đi, ai dè cả hai thản nhiên leo lên. Người con trai nói: 

-Mười lăm đồng mọi khi vẫn đi. Cứ chạy đi tui chỉ đường.

 Sức trẻ, thế mà vẫn không chịu nổi đường xa, đạp xe chở hai người từ rạp Quốc Thanh đến chân cầu Phú Lâm thì đuối, liệu sức không thể nào qua khỏi dốc cầu đành tính chước bỏ của chạy lấy người. Xuống giọng: 

-Em mới chạy xe, đi xa không nổi. Anh chị thông cảm đi xe khác giùm.

Ai ngờ người con trai ngoái đầu lại: 

-Tui biết ông đuối từ hồi nãy rồi. Thôi leo lên đằng trước ngồi với bà xã tui. Đưa xe đây tui đạp cho. Tui cũng từng đạp xích lô mà!

 Thế là, vừa được khách chở, lại vừa được lấy tiền. Không phải 15 đồng mà tới 20 đồng. Chắc cũng chỉ có người Sài Gòn mới khoáng đạt như vậy!

 Người Sài Gòn tốt bụng, chia sẻ không từ những chuyện cá biệt, người nơi khác vào Sài Gòn hỏi đường thật dễ chịu. Già trẻ, lớn bé, gặp ai hỏi người ta cũng chỉ dẫn tận tình. Có nhiều người còn bỏ cả công việc để dẫn kẻ lạc đường đi đến đúng địa chỉ cần tìm. Có những địa chỉ nhiều người hỏi quá, thế là người Sài Gòn nghĩ cách viết hoặc bỏ tiền ra đặt làm một cái bảng đặt bên lề đường, gắn vào gốc cây. Đôi khi, kèm theo một câu đùa, câu trách rất Sài Gòn ở cái bảng này khiến ai đọc cũng phì cười. Như cái bảng viết trên nắp thùng mốp trên đường Sư Vạn Hạnh mới đây: Bà con nào đi photo thì qua bưu điện bên đường. Hỏi hoài mệt quá”.

 Đi xe ôm, taxi, gặp đúng dân Sài Gòn thì mười người hết chín không lo bị chặt chém, vẽ vời. Đôi khi, kêu giá là vậy, nhưng khách không có tiền lẻ hoặc hết tiền người ta còn bớt, thậm chí cho thiếu mà không cần biết khách ở đâu, có trả hay không. Với người Sài Gòn, đó là chuyện nhỏ.

Ở Sài Gòn, cho tới bây giờ vẫn còn nhiều nhà để một bình nước suối trước nhà, kèm thêm một cái ly, một cái bảng nước uống miễn phí.

 Và bình nước này không bao giờ cạn, như lòng tốt của người Sài Gòn. Sẽ có nhiều người bảo cái ly nhiều người uống, bẩn chết đi được, nhưng không biết họ có cách nào hay hơn? (mua ly giấy, uống xong vứt…. mời các người ấy về Sài Gòn mua ly giấy cho khách thập phương dùng).

 Có người đã phát hiện, khi bạn chạy xe trên đường phố Sài Gòn, nếu có ai đó chạy theo nhắc bạn gạt cái chân chống, hay nhét lại cái ví sâu vào túi quần thì đích thị đó là người Sài Gòn!.

Bi giờ còn vậy nữa không? Cũng còn, nhưng mà nếu bạn không gặp người như vậy ở Sài Gòn là vì những người mà bạn gặp đó không phải là người SàiGòn!

 Tui hỏi anh cyclo:

-Đạp từ rạp Rex về cầu Chông (nhà tui) giá bao nhiêu?

Anh nói:

-20 ngàn.

Tui nói “30 ngàn thì tui mới đi”. Anh cyclo lập lại “20 ngàn”. Tui cũng nói như cũ. Anh cyclo tưởng tui là thằng khùng và nói:

-Thôi lên xe đi.

Đến nhà, tui đưa anh 30 ngàn và cám ơn. Năm 1978 khi ra tù tại ga xe lửa đường Lê Lai, một anh cyclo đến hỏi tui “Về đâu ?” nhưng khi nhìn thấy bộ đồ tù tui mặc nên anh nói câu mà tui nhớ đời:

-Lên đi thằng ông nội, tui chở về…Không có tính tiền đâu. Làm sao tui quên được câu nói đó. Người Sài Gòn là như vậy bạn ơi!” (trích truyện kể nhận được từ điện thư vi-tính, rất không lâu).

Rất nhiều bạn bè đọc bài phiếm do bầy tôi viết, lại cứ hỏi: “Sao bạn trích-dẫn truyện kể chẳng ăn-nhập gì đề tài đặt ra vậy?” Bần đạo bầy tôi nghe hỏi chỉ biết trả lời quanh-quất rằng: “Đó là chuyện phiếm đấy bạn ạ”.

 Hôm nay ngồi viết những going chữ này, lại đã thấy những lời đối đáp ở trên rất giống như chuyện thần-học hoặc học về thần-tính của các đấng, cũng tương-tự. Tương-tự là ở chỗ xem qua tưởng chừng như rất phiếm, nhưng xem lại mới thấy cuộc đời này mọi chuyện chung qui cũng chỉ là phiếm và luận hoặc luận cho lắm cũng chỉ là luận-phiếm/phiếm-luận mà thôi.

Bà con ta cứ nghe lại câu quả quyết ấy rồi suy cho kỹ, sẽ thấy không phải là chuyện mơ hồ lầm tưởng đâu. Để chấm dứt câu chuyện khá phiếm này, nay mời bạn và tôi ta nghe lại câu hát trên, để thấy rằng đời người vẫn có những chuyện như lời ca/câu hát những bảo rằng:

“Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Hãy nhìn vào đôi mắt em đây.
Hãy nhìn vào tận trái tim này.
Hãy nhìn vào đôi mắt thơ ngây.
Anh sẽ hiểu được trái tim em.”

(Ngọc Lễ – bđd)

Hỏi rằng: có nên sử-dụng câu hát trên làm lời kết cho bài phiếm đường dài ở đời người, được không cơ chứ? Hoặc, có nên về với vườn hồng tìm đến lời vàng của bậc thánh hiền từng có để lại những nguyên-tắc cho cuộc sống đúng nghĩa khi các ngài bảo:

“Thật vậy,

vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Ngài đã chết,

thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài,

nhờ được sống lại như Ngài đã sống lại.

Chúng ta biết rằng:

con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô,

như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt,

để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa.

Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi.

Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô,

chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài:

đó là niềm tin của chúng ta.”

(Rm 6: 5-8)

Tin hay không vào “Người Con Gái Nói” trong bài hát được trích dẫn, hoặc hiểu được nguyên-tắc của niềm tin vào Đức Chúa Phục Sinh do bậc thánh-hiền từng đặt, vẫn là chọn lựa của mỗi người và mọi người trong đời, rất hôm nay.  

Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc chỉ muốn hát

Những lời như trên

Khi bàn nhiều chuyện

“tréo cẳng ngỗng”

ở trong đời.

Việt Nam không có trường đại học nào lọt vào top 350 trường đại học hàng đầu Châu Á

 
 
Image may contain: text

Phạm Lê Vương CácFollow

 

Hãy nhớ rằng, để vực dậy một quốc gia dân tộc chỉ có thể khởi thủy từ trong các trường đại học mà ra.

Việt Nam không có trường đại học nào lọt vào top 350 trường đại học hàng đầu Châu Á, là thông tin đáng để chúng ta lo âu nhiều hơn là sung sướng cho việc giành vị trí á quân giải bóng đá U23 Châu Á vừa qua.

Đừng chạy theo những thứ chiến thắng viễn vông mà lãng quên đi thực tế rằng chúng ta đang là một quốc gia thất bại. Sự thất bại của quốc gia cũng bởi một phần nguyên do từ nền giáo dục đại học mà ở đó không hề tồn tại tính tự trị và tinh thần tự do học thuật.

TỔNG THỐNG ABRAHAM LINCOLN

 
 
Image may contain: 1 person
Đinh Văn HảiFollow

 

TỔNG THỐNG ABRAHAM LINCOLN

Cuộc nội chiến nam bắc Mỹ 1861 – 1865 vừa kết thúc . Bắc Mỹ đã chiến thắng và chế độ nô lệ ở nam Mỹ đã được xóa bỏ . Công việc sau chiến tranh thật bề bộn , cửa văn phòng tổng thống luôn bỏ ngỏ để bất kỳ ai cũng có thể gặp tổng thống bất kỳ lúc nào .
Tổng thống Abraham Lincoln đang đứng , hai tay chống mép bàn , đầu cúi xuống tấm bản đồ trải rộng
– Báo cáo ngài tổng thống – Lincoln ngẩng lên , trước mặt ông là tổng tư lệnh quân đội
– Có việc gì – Lincoln hỏi rất từ tốn
– Thưa ngài còn hơn 500 ngàn tù binh định giải quyết ra sao ạ
– Tù binh nào – lincoln sẵng dọng
– Những lính miền nam bị ta bắt ạ – viên tổng tư lệnh lúng túng . Lincoln ngồi xuống ghế , chậm rãi
– Tôi nhắc lại , đây là những công dân của nước Mỹ thống nhất , không có tù binh , tôi đã ra lệnh cho các anh phải cấp lương thực , nông cụ cho họ về quê sản xuất rồi kia mà . Các anh làm ngay đi.
– Báo cáo , rõ ! Viên tư lệnh quay người đi ra
– À này – viên tư lệnh vừa tới cửa quay lại – nhớ là phát súng và năm cơ số đạn cho mỗi đầu người – Lincoln ra lệnh
– Cái này… – viên tư lệnh lưỡng lự…
– Họ phải có vũ khí chống thú giữ , bảo vệ mùa màng chứ
– Rõ – viên tư lệnh đưa tay lên vành mũ rồi quay ra.
Lincoln đã có mấy động thái quan trọng
1 – Trợ cấp tử sỹ tính theo đầu người đã hy sinh cho cả hai bên
2 – Xây một tượng đài hoành tráng với dòng chữ “Đời đời nhớ ơn những người đã ngã xuống cho sự thống nhất nước Mỹ”
3 – Các nghĩa trang của hai bên tự xây dựng và tự chăm sóc , được chính phủ quan tâm như nhau . Sau này tại thủ đô Washington chính phủ Mỹ đã xây dựng nghĩa trang Arlington để tập kết các tử sỹ của cả hai bên nam bắc Mỹ , từ chiến sỹ đến các vị tướng .
Sau khi tổng thống Abraham Lincoln qua đời thì ý tưởng của ông đã được các đời tổng thống sau này thực hiện triệt để.
Tôi cứ hình dung , sau những động thái của tổng thống Lincoln thì các bà mẹ của hai miền sẽ ôm chầm lấy nhau mà khóc và họ không nghĩ rằng đã có một cuộc chiến tranh . Nước Mỹ phát triển nhanh là phải .
Ông là một tổng thống vĩ đại , có tư tưởng vĩ đại , ông đã khuyến khích người dân Mỹ góp ý cho chính phủ với câu nói nổi tiếng
“Tự do ngôn luận là chìa khóa của sự phát triển”
Tôi đã ghi lại lịch sử nước Mỹ với câu chuyện về tổng thống Abraham Lincoln .
Lời bàn xin giành cho người đọc.
Cám ơn các bạn đã đọc bài viết.

Theo Phuong Nguyen Van

Người Việt trong nước vẫn còn mơ hồ về cái tên Hồ Chí Minh

 Tạ Phong Tần‘s post.
 
Image may contain: 2 people, beard

Tạ Phong Tần is with Tạ Phong Tần.

 

Người Việt trong nước vẫn còn mơ hồ về cái tên Hồ Chí Minh, tại sao lại là HCM chớ ko phải là Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành hay Nguyễn Sinh Cung. Hôm nay tôi giải thích luôn:

1) – Người Việt hay người Tàu giống nhau ở chổ cho dù có 100 cái tên, 1.000 cái tên khác thì khi trở thành lãnh đạo quốc gia ai cũng dùng tên thật, ko ai lấy bí danh, biệt hiệu trong vai trò đại diện quốc gia cả. Ví dụ: Cụ Phan Bội Châu, tên khai sinh là Phan Văn San, khi đi hoạt động có lấy nhiều tên khác như: Phan Sào Nam, Hài Thu, Thị Hán, Độc Kinh Tử, Việt Điểu, Hàn Mãn Tử, v.v. và cụ Phan đều có giải thích ý nghĩa từng cái tên. Cụ thể: Tên Sào Nam và Việt Điểu lấy ý từ câu “Hồ mã tê Bắc phong/ Việt điểu sào Nam chi” (nghĩa là “Ngựa Hồ hí gió Bắc/ Chim Việt đậu cành Nam) hàm ý cụ là đi đâu, ở đâu, làm gì cũng hướng về nước Nam. HCM là kẻ giỏi chữ Hán (như đảng cs nói, và Lý Thụy-HCM đã tự thể hiện bằng thư gởi bà Tăng Tuyết Minh) lẽ nào ko hiểu câu “Danh bất chính, ngôn bất thuận, sự bất thành”, nhưng khá khen cho lão không quên cái tổ quốc Tàu + của lão. Cho nên, HCM chính là tên thật của lão í;

2)- Đảng cs luôn luôn nói HCM tức là Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Cung, nhưng cả HCM lẫn đảng cs chưa bao giờ (nhấn mạnh 3 chữ “chưa bao giờ”) giải thích tại sao Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Cung) lại lấy tên là HCM và HCM có ý nghĩa là gì. Điều này cũng cho thấy HCM là họ tên thật của thằng cha chệt nào đó chẳng liên quan gì đến họ Nguyễn ở Nghệ An;

3)- Người Tàu có phong tục gọi bằng họ đối với người được kính trọng, ko được gọi bằng tên vì như vậy là bất kính. Ví dụ: Trương Tam thì gọi là bác Trương, Lý Tứ thì gọi bác Lý. Người Việt thì ngược lại, gọi tên chớ không  gọi họ. Trong trường hợp đã ví dụ trên, người Việt sẽ gọi là bác Tam, bác Tứ chớ ko bao giờ gọi bác Trương, bác Lý. Danh xưng “bác Hồ” tức là gọi theo phong tục Tàu, chỉ người Tàu mới dùng cách xưng hô này. Vì vậy, HCM là người Tàu mới cố giữ phong tục Tàu khi đang sống tại VN.

4)- Hiện nay muốn xác định huyết thống quá dễ, lấy tóc của xác ướp trong Ba Đình giám định ADN với con cháu Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Nhuận là ra ngay. Nhưng csvn ko bao giờ dám làm điều này để thẳng thắn bác bỏ ý kiến cho rằng HCM không phải Nguyễn Ái Quốc, vì csvn thừa biết ý kiến đó đúng.

Ảnh: DanLamBao.

HỊCH TƯỚNG SĨ thế kỷ 21

 
 
 
Image may contain: one or more people, people standing, sky, cloud and outdoor

Lê Hồng Nhung to Lê Khôi – ĐẤU TRƯỜNG DÂN CHỦ (Nhóm Muôn Chiều)

 

HỊCH TƯỚNG SĨ thế kỷ 21. “ hãy đọc và đừng bỏ sót chữ nào”

Ta cùng các ngươi
Sinh ra phải thời bao cấp
Lớn lên gặp buổi thị trường.
Trông thấy:
Mỹ phóng Con thoi lên vũ trụ chín tầng
Nga lặn tàu ngầm xuống đại dương nghìn thước
Nhật đưa rô bốt na nô vào thám hiểm lòng người
Scôtlen dùng công nghệ gen chế ra cừu nhân tạo.
Thật khác nào:
Đem cổ tích mà biến thành hiện thực
Dùng đầu óc con người mà thay đổi thiên nhiên!
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa
Chỉ giận chưa thể đuổi kịp nước Nga, vượt qua nước Mỹ, mà vẫn chỉ hơn Lào, hao hao Băng la đét.
Dẫu cho trăm thân này phơi trên sao Hỏa, nghìn xác này bọc trong tàu ngầm nguyên tử, ta cũng cam lòng.
Các ngươi ở cùng ta,
Học vị đã cao, học hàm không thấp
Ăn thì chọn cá nước, chim trời
Mặc thì lựa May Mười, Việt Tiến
Chức nhỏ thì ta… quy hoạch
Lương ít thì có lộc nhiều.
Đi bộ A tít, Cam ry
Hàng không Elai, Xi pic.
Vào hội thảo thì cùng nhau tranh luận
Lúc tiệc tùng thì cùng nhau “dô dô”.
Lại còn đãi sỹ chiêu hiền
Giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ, cử nhân, ai cũng có phần, không nhiều thì ít.
Lại còn chính sách khuyến khoa
Doanh nghiệp, giáo viên, trí thức, nông dân nhận cúp, nhận bằng còn thêm tiền thưởng.
Thật là so với:
Thời Tam quốc bên Tàu, Lưu Bị đãi Khổng Minh,
Buổi hiện đại bên Nga, Pu tin dùng Mét vê đép,
Ta nào có kém gì?
Thế mà, nay các ngươi:
Nhìn khoa học chậm tiến mà không biết lo
Thấy công nghệ thụt lùi mà không biết thẹn
Giáo sư ư? Biết “Thần đèn” chuyển nhà mà chẳng chạnh lòng
Tiến sỹ a? Nghe “Hai lúa” chế tạo máy bay sao không tự ái?
Có người lấy nhậu nhẹt làm vui
Có kẻ lấy bạc cờ làm thích
Ham mát xa giống nghiện “u ét đê”
Ghét ngoại ngữ như chán phòng thí nghiệm
Chỉ lo kiếm dự án để mánh mánh mung mung
Không thích chọn đề tài mà nghiên nghiên cứu cứu
Ra nước ngoài toàn muốn đi chơi
Vào hội thảo chỉ lo ngủ gật
Bệnh háo danh lây tựa vi rút com pu tơ
Dịch thành tích nhiễm như cúm gà H5N1
Mua bằng giả để tiến sỹ, tiến sy
Đạo văn người mà giáo sư, giáo sãi.
Thử hỏi học hành như rứa, bằng cấp như rứa, thì mần răng hiểu được chuyện na niếc na nô?
Lại còn nhân cách đến vậy, đạo đức đến vậy, thì có ham gì bút bút nghiên nghiên.
Cho nên:
“Tạp chí hay” mà bán chẳng ai mua
“Công nghệ tốt” mà không người áp dụng.
Đề tài đóng gáy cứng, chữ vàng, mọt kêu trong tủ sắt
Mô hình xây tường gạch, biển xanh, chó ị giữa đồng hoang.
Hội nhập chi, mà ngoại ngữ khi điếc, khi câm?
Toàn cầu chi, mà kiến thức khi mờ, khi tỏ?
Hiện đại hóa ư? vẫn bám đít con trâu
Công nghiệp hóa ư? toàn bán thô khoáng sản
Biển bạc ở đâu, để Vi na shin nổi nổi chìm chìm?
Rừng vàng ở đâu, khi bô xít đen đen đỏ đỏ?
Thật là:
“Dân gần trăm triệu ai người lớn
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”!
Nay nước ta:
Đổi mới đã lâu, hội nhập đã sâu
Nội lực cũng nhiều, đầu tư cũng mạnh
Khu vực có hòa bình, nước ta càng ổn định
Nhân tâm giàu nhiệt huyết, pháp luật rộng hành lang
Thách thức không ít, nhưng cơ hội là vàng!
Chỉ e:
Bệnh háo danh không mua nổi trí khôn
Dịch thành tích chẳng làm nên thương hiệu.
Giỏi mánh mung không lừa nổi đối tác nước ngoài
Tài cờ bạc không địch nổi hắc cơ quốc tế.
Cặp chân dài mà nghiêng ngả giáo sư
Phong bì mỏng cũng đảo điên tiến sỹ.
Hỡi ôi,
Biển bạc rừng vàng, mà nghìn năm vẫn mang ách đói nghèo
Tài giỏi thông minh, mà vạn kiếp chưa thoát vòng lạc hậu.
Nay ta bảo thật các ngươi:
Nên lấy việc đặt mồi lửa dưới ngòi pháo làm nguy;
Nên lấy điều để nghìn cân treo sợi tóc làm sợ
Phải xem đói nghèo là nỗi nhục quốc gia
Phải lấy lạc hậu là nỗi đau thời đại
Mà lo học tập chuyên môn
Mà lo luyện rèn nhân cách
Xê mi na khách đến như mưa
Vào thư viện người đông như hội
Già mẫu mực phanh thây Gan ruột, Tôn Thất Tùng chắc cả trung đoàn
Trẻ xông pha mổ thịt Bổ đề, Ngô Bảo Châu cũng dăm đại đội
Được thế thì:
Kiếm giải “Phiu” cũng chẳng khó gì
Đoạt Nô ben không là chuyện lạ
Không chỉ các ngươi mở mặt mở mày, lên Lơ xút, xuống Rôn roi
Mà dân ta cũng hưng sản, hưng tâm, vào Vi la, ra Rì sọt.
Chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu
Mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng,
Chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí,
Mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm.
Chẳng những tên tuổi ta không hề mai một,
Mà thương hiệu các ngươi cũng sử sách lưu truyền.
Trí tuệ Việt Nam thành danh, thành tiếng
Đất nước Việt Nam hóa hổ, hóa rồng
Lúc bấy giờ các ngươi không muốn nhận huân chương, phỏng có được không?
Nay ta chọn lọc tinh hoa bốn biển năm châu hợp thành một tuyển, gọi là Chiến lược
Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này theo lời ta dạy bảo thì suốt đời là nhà khoa học chính danh.
Nhược bằng không tu thân tích trí, trái lời ta khuyên răn thì muôn kiếp là phường phàm phu tục tử.
Vì:
Lạc hậu, đói nghèo với ta là kẻ thù không đội trời chung
Mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn trừ hung, không lo rửa nhục
Chẳng khác nào quay mũi giáo mà đầu hàng, giơ tay không mà thua giặc.
Nếu vậy rồi đây khi nước Việt hóa hổ, hóa rồng, ta cùng các ngươi há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất này nữa?
Cho nên mới thảo hịch này
Xa gần nghiên cứu
Trên dưới đều theo!

Sưu Tầm. Hay quá.

Khi đã trở về cát bụi, vẫn cần phân biệt quan với dân?

 

Khi đã trở về cát bụi, vẫn cần phân biệt quan với dân?

Hồi thăm Israel, có lần đi ngang qua một vài nghĩa trang, thấy nhiều ngôi mộ được xếp các cục đá nhỏ vòng quanh hay trên bề mặt. Hỏi ra mới hay đó là tập tục khi đi viếng mộ người đã khuất của các bạn. Người Do Thái quan niệm khi qua đời, thân xác chúng ta cũng về lại cùng đất đá. Vì thế, thay vì mang hoa, họ mang đá đến để lên mộ người chết. Những ngôi mộ ở vùng đất này, vốn dĩ trông đã đơn sơ giữa nắng gió sa mạc, lại càng thêm giản dị bởi không có chút sắc màu nào của hoa lá.

Xem nghĩa trang ở nhiều nước phương Tây cũng thấy khác biệt hẳn so với nghĩa trang ở xứ mình. Cùng quan niệm thân xác sinh ra từ cát bụi và khi chết đi thì lại trở về với cát bụi, nên người phương Tây cũng không xem trọng việc mồ mả. Những ngôi mộ ở mấy xứ “giãy chết” đều chung một kiểu chỉ có tấm bia đơn giản trên mặt mộ phẳng phiu chứ không lô xô, phô trương đủ kiểu như ở ta. Vì thế, đi trong nghĩa trang mà có cảm giác như đi dạo trong công viên! Đặc biệt, nếu có phân chia thì thường thấy nghĩa trang được phân biệt theo tôn giáo, theo dòng tộc hoặc theo các địa hạt dân cư. Họ cũng có nghĩa trang quân đội, nghĩa trang dành cho các danh nhân, anh hùng dân tộc… nhưng chẳng thấy chỗ nào có nghĩa trang quốc gia dành riêng cho quan chức!

Nghĩa trang trên đồi Olives ở Jerusalem, Israel (ảnh trên). Một góc nghĩa trang quốc gia mang tên “Ngôi nhà của Quân đội và Không lực Hoa Kỳ” tại Washington D.C (dưới, trái) và nghĩa trang cho các quan chức VN trị giá 1.400 tỷ.

Vì thế, đọc tin Nhà nước chuẩn bị chi 1.400 tỷ đồng để xây dựng nghĩa trang cho cán bộ cao cấp, ngẩn ngơ nghĩ đúng là nước mình tuy nghèo nhưng ngay cả chuyện “hậu sự” cũng phải khác với người ta! Mà kể cũng lạ, người cộng sản VN luôn nêu cao sự trung thành với chủ nghĩa Mác -Lênin và xây dựng hệ tư tưởng trên cơ sở học thuyết về duy vật biện chứng. Thế nhưng trên thực tế thì lại khác hẳn! Tình trạng quan chức chăm chỉ đi lễ chùa, xây đền thờ miếu mạo hoặc các khu “văn hoá tâm linh” ngày càng trở nên phổ biến. Chưa có thời kỳ nào mà “buôn thần bán thánh” phát triển rực rỡ như thời nay. Vì thế, cũng không có gì ngạc nhiên khi các “đầy tớ” phải lo đến cả chỗ an nghỉ cho mình ngay từ lúc còn đang sống!

Ừ thì có lý do là Mai Dịch đầy rồi nên phải cần một khu mới! Nhưng trong giai đoạn hiện nay, khi ngân sách thường xuyên rỗng ruột vì bội chi, khi nhân dân vẫn đang oằn mình dưới đủ loại thuế – phí mà chỉ có tăng chứ không có giảm, khi vẫn còn những hộ nghèo thiếu ăn, khi vẫn còn bao người bệnh bó tay chịu chết vì không đủ tiền mua thuốc, khi vẫn còn không ít trẻ em vùng sâu, vùng xa thiếu một ngôi trường đàng hoàng để học… lẽ nào người ta có thể thản nhiên rút từ ngân quỹ quốc gia một số tiền hàng ngàn tỷ đồng để lo chỗ nằm cho một nhóm nhỏ người (sẽ) chết? Lẽ nào ngay cả khi đã trở về cát bụi, vẫn cần phân biệt quan với dân? Lẽ nào với tầng lớp lãnh đạo ở xứ mình, “lộc bất tận hưởng” là phải đến cả lúc chết như vậy?

Ngày trước, thời nhân dân miền Bắc đói khổ trong chế độ tem phiếu và còn phải thắt lưng buộc bụng theo lời kêu gọi “vì miền Nam thân yêu”, lúc ấy đã có cái cửa hàng “Tôn Đản là chợ vua quan” ở Hà Nội. Đó là nơi chuyên cung cấp thực phẩm, hàng hoá tiêu dùng… dành riêng cho bộ máy lãnh đạo cao cấp được hưởng tiêu chuẩn đặc biệt. Giờ nghĩ lại, cứ tự hỏi không hiểu hồi đó có vị “đầy tớ” nào cảm thấy nghẹn lòng áy náy mỗi khi rời cửa hàng Tôn Đản với hàng đống “tiêu chuẩn” xa hoa, cách biệt rất nhiều so với chế độ phân phối cho dân thường?

Nay, “chợ vua quan” kiểu ấy không còn cần thiết phải duy trì nữa, nhưng dường như vẫn tiếp tục tồn tại quan niệm “ăn trên ngồi trốc”, khẳng định đặc quyền đặc lợi của bộ máy lãnh đạo đất nước mà việc xây dựng nghĩa trang riêng cho cán bộ cao cấp chỉ là một ví dụ. Điều này thật khác xa với những gì mà các bậc lãnh đạo tiền bối của ĐCSVN thường nói về đạo đức cách mạng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng viết: “Chúng ta phải hiểu rằng: các cơ quan của Chính phủ, từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.

Tôi nhớ đến lời hứa của mình cách đây hai năm với Bệnh viện Mường Khương (Lào Cai) vẫn chưa thực hiện được. Hồi đó, vào cuối tháng 1/2016, khi biết chúng tôi quyên góp gửi hàng “tiếp viện” cho đồng bào huyện Si Ma Cai do đợt rét hại đột ngột về giáp Tết, Phó Giám đốc Bệnh viện huyện Mường Khương đã chủ động liên lạc với tôi để xin tài trợ cho một dự án xã hội của các đoàn viên thanh niên ở Bệnh viện. Đó là kế hoạch xây dựng tủ thuốc miễn phí cho bệnh nhân người dân tộc, vì bà con thường xuyên không đủ khả năng mua thuốc điều trị mà cũng không có bảo hiểm. Tôi hứa với vị bác sĩ trẻ rằng sẽ cố gắng tìm cách giúp, nhưng đã hai năm trôi qua mà vẫn chưa thực hiện được việc này 😞.

Lại nhớ đến những lần thầy trò ở trường bày ra làm đủ thứ để quyên góp tiền xây nhà cho đồng bào vùng lũ trong chương trình hỗ trợ gia cư của CLB H4H (Habitat for Humanity). Hàng năm, các học sinh tham gia CLB chỉ dám đặt chỉ tiêu xây từ một đến hai căn nhà. Mỗi căn trị giá 40 triệu đồng. Như vậy, để xây 100 căn cần có 4 tỷ đồng: Một số tiền mà theo kế hoạch như hiện nay, có lẽ thầy trò phải mất từ nửa thế kỷ cho đến 100 năm mới quyên góp đủ! ☹️☹️☹️.

Một cái tết nữa lại sắp tới… Hôm qua tôi thấy trên sân trường những học sinh tiểu học bé xíu đang khệ nệ ôm những bao gạo, những thùng mì, những gói quần áo, sách vở… chất lên xe chuẩn bị mang “Tết Box” của cộng đồng chúng tôi đến cho những trẻ em nghèo như mọi năm… Luẩn quẩn trong đầu con số 1.400 tỷ đồng và câu hỏi miên man: Những học sinh đáng yêu đang được dạy để biết quan tâm và chia sẻ kia, các con sẽ nghĩ gì khi biết người lớn chúng ta có thể bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng (số tiền lớn đến độ đầu óc non nớt của các con chắc không thể hình dung nổi!) để xây tượng đài hoặc làm nghĩa trang – những thứ mà ai cũng biết là không dành để chăm lo cho người đang sống?

Người thông minh không phải là người trí tuệ

Người thông minh không phải là người trí tuệ

Người thông minh biết bản thân làm được gì, còn người trí tuệ biết bản thân không làm được điều gì.

 
Người thông minh không phải là người trí tuệ.

Người thông minh biết nắm bắt cơ hội, biết khi nào nên “ra tay”, còn người trí tuệ biết khi nào nên buông tay. Vì vậy, cầm lên được là thông minh, còn bỏ xuống được mới là trí tuệ..

Người thông minh thể hiện thế mạnh của mình ra ngoài, cũng chính là bộc lộ hết tài năng; còn người trí tuệ để người khác thể hiện thế mạnh của họ, âm thầm lặng lẽ làm.

Ví dụ trong một buổi tiệc, người thông minh bận nói, họ nói không ngừng, vì vậy họ giống như chiếc ấm trà; còn người trí tuệ bận nghe, chú ý lắng nghe người khác nói, thế nên họ là chiếc tách trà. Nước trong ấm rốt cuộc cũng phải rót vào tách mà thôi.

  1. Thông minh là một loại khả năng sinh tồn, còn trí tuệ lại là một dạng cảnh giới của sinh tồn

Trên thế giới không có nhiều người thông minh, trong số 10 người thì chỉ có 1-2 người, còn người có trí tuệ thì lại càng hiếm thấy, trong số 100 người có khi không có lấy người nào. Ngay cả Socrates được công nhận là người trí tuệ cũng tự thấy rằng nếu xét theo yêu cầu về trí tuệ thì bản thân ông cũng là người vô tri.

  1. Trong cuộc sống thực tế, những người không chịu thiệt thòi là người thông minh, còn người có thể chịu thiệt là người trí tuệ

Người thông minh luôn có thể bảo toàn lợi ích của mình khi làm việc với người khác. Ví dụ như trong làm ăn, họ luôn có thể thu về lợi nhuận – còn người trí tuệ tuyệt sẽ không theo đuổi việc thu lợi nhiều nhất trong kinh doanh, một số người thậm chí có phải bù tiền thì họ cũng làm, họ đặt lợi ích của người khác lên hàng đầu. Người trí tuệ đều biết rằng “không mất thì sẽ không được”.

  1. Người thông minh chú ý chi tiết, còn người trí tuệ chú trọng tổng thể

Người thông minh phiền não nhiều, thường xuyên mất ngủ, bởi vì họ nhạy cảm hơn người bình thường. Còn người trí tuệ có thể rời xa phiền muộn, đạt đến mức độ “không vui vì người, không buồn vì mình”, vì vậy người trí tuệ ăn ngon ngủ yên.
Vì vậy người thông minh thường qua đời sớm, còn người trí tuệ vô lo nên thường sẽ sống thọ.

Người thông minh khát vọng thay đổi người khác để người khác làm theo ý mình, còn người trí tuệ thường thuận theo tự nhiên.

Vì vậy, quan hệ giao tiếp của người thông minh sẽ dễ căng thẳng, nhưng với người trí tuệ thì lại hòa nhã hơn.

 

  1. Thông minh đa số là trời sinh, có được do di truyền, còn trí tuệ dựa nhiều vào luyện tập.

Thông minh có thể có được nhiều tri thức hơn, còn trí tuệ khiến người ta có văn hóa.

Vì vậy, một người càng có nhiều tri thức thì càng thông minh, còn người càng có nhiều văn hóa thì càng trí tuệ.

Thông minh dựa vào tai và mắt, người ta thường gọi là “tai thính mắt tinh”; còn trí tuệ phụ thuộc vào tâm hồn, tức “tuệ do tâm sinh”.

Thông minh có thể mang đến tiền tài và quyền lực, trí tuệ có thể mang đến niềm vui.               Vì thế, nếu cầu tài thì chỉ cần thông minh là đủ, còn nếu muốn thoát khỏi phiền muộn thì cần có trí tuệ.