Mơ khách đường xa, khách đường xa,

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 2 mùa Chay năm B 25/02/2018

Tin Mừng (Mc 9: 2-10)

 Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su. Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Êlia.” Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi.

Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì.

 &      &     &

“Mơ khách đường xa, khách đường xa,”

“Áo em trắng quá, nhìn không ra…”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

– Mai Tá lược dịch.

 Khách đường xa, ra đi hôm ấy, có là khách lữ hành bàng quan vẫn cứ nhìn mà không thấy? Có thấy chăng Thầy Chí Ái đang hiển thị cùng ngôn sứ Êlya và Môsê chốn xa vắng, ở trình thuật?

Trình thuật, thánh Máccô, nay ghi về tình tự Chúa tỏ hiện ở chốn vắng xa, người không thấy. Thấy sao được, việc hiển thị thần thánh Chúa giãi bày tâm tư Ngài bước vào chốn cao siêu tỏ hiện, ở núi thánh. Nơi đó, có Chúa biến hình tỏ hiện cùng các Thánh. Nơi đó, còn có tiếng sấm từ trời cao gửi đến với dân con một thông điệp nghe rất rõ, chứng tỏ Ngài là Con Một của Chúa Cha. 

Hiển thị, không còn như hang đá lạnh buồn ngày Chúa Giáng hạ. Nhưng, là Phục Sinh quang vinh và ngày Ngài thẳng tiến về trời, thật hoành tráng. Quang vinh và hoành tráng, là chứng tích biểu tỏ sứ điệp vượt quá chuyện hằng ngày mà dân con đà chứng kiến, nhưng không hiểu. Sứ điệp hiển thị, vượt tầm hiểu biết của dân con mọi thời, tựa như Môsê từng thay đổi diện mạo khi diện kiến Giavê Thiên Chúa. Diện mạo Chúa hiển thị trên núi sáng rực như mặt trời. Áo Ngài rạng ngời tợ nắng thuỷ tinh, trinh khiết.

Tin Mừng nay cho thấy: đồ đệ Chúa tỏ ra kinh khiếp đến độ chẳng biết ứng xử ra sao cho thích hợp. Là thánh nhân, nhưng các ngài lại bắt đầu nói năng vụng về, đòi dựng ba lều lớn để Đấng Thánh Hiền trú ngụ nơi đó nhiều ngày. Chắc chắn một điều, là: đề nghị của đồ đệ hôm ấy là chuyện thường tình xảy đến mỗi khi con người mất quân bình cảnh giác, giống hệt người phàm ở ngoài đời.     

Cảm nghiệm về hiển thị, là chuyện xảy đến với dân gian mọi ngày ở đời thường, nhiều dẫn chứng. Từ những ấu bướm biến thành bướm sâu sầu buồn đời ngắn ngủi, cho đến cảnh người người ngạc nhiên hơn khi việc biến đổi/hiển thị xảy đến khi con trẻ được hạ sinh biến hình thành người mới, lúc chào đời. 

Về biến đổi/hiển thị, thánh Augustin cho rằng đó là nhiệm tích lớn lao hơn cả sự sống lại. Bởi, khi vào với thế giới qua tư cách của người mới trẻ trung vẫn cao cả hơn là về với sự sống, sau khi chết. Mỗi ngày và mọi ngày, người người vẫn trực diện nhiều biến đổi/hiển thị ngay trong đời. Hiển thị trong ta, là biến đổi sự sống rất tư riêng của chính mình. Là, dấu ấn rất giản đơn nhưng sâu đậm. Ngay bản vị con người cũng biến đổi/hiển thị hằng ngày về thân xác. Biến và đổi, vẫn là hình ảnh thay đổi về bản vị, thôi.

Rất nhiều lần, Đức Giêsu cũng có thời khắc yêu thương/nhận thức rất mực. Đó là thời khắc lúc Ngài tăng trưởng nơi bản thể rất người mà Ngài mặc lấy. Một trong những thời khắc dễ nhận thấy nơi Ngài là đặc ân/đặc quyền mà đồ đệ vui hưởng, tức sự hiện diện của Ngài ở vào thời khắc có một không hai ấy. Hiện diện, để nhận ra cuộc biến hình/đổi dạng ít khi thấy.  

Biến đổi/hiển thị dễ nhận thấy nhất là thời khắc Chúa thả bộ để đi vào với con đường thường tình mà loài người ít nghiệm sinh. Thả bộ chầm chậm là tư thế Chúa học hỏi nơi con người về một sự thể qua thử thách, sai sót xảy đến mỗi ngày. Hầu như mỗi ngày Ngài đều nhận ra điều mới mẻ của cuộc sống. Mới mẻ, nơi bản vị của Ngài. Mới mẻ, về người đời và đời người mà Ngài chấp nhận đưa vào với thiên tính. Đức Giêsu là con người thật có đủ mọi tình cảm bẩy thứ, rất bén nhạy.

Là Đức Chúa biến đổi thành người thường rất hiển thị, Ngài có được những thời khắc rất tinh tế về cả thương yêu, lo lắng, hãi sợ cũng như an vui, kinh ngạc, thích thú đến kích ngất. Mỗi lần tình tự của Người Con Chúa xuất hiện, Chúa đều thấy sự đổi đời ở bên trong. Mỗi ngày, Ngài đều khởi đầu một đổi mới/biến hình để trở thành bản vị biểu hiện cả nhân cách lẫn thiên tính, hợp ý Cha.

Thật ra, Đức Giêsu không là thần sứ linh thiêng gồm thiên binh/âm tướng chốn thiên đường. Mà, Ngài sống như một tiên tri cao cả thời Cựu Ước vẫn thể hiện nơi mình Ngài trong nhận thức đích thực về sự sống. Nhận thức ấy, Chính Chúa Cha đã tặng ban cho riêng Ngài. Nhưng, Ngài lại không giống như ngôn sứ/tiên tri có bản vị tựa như thế. Nơi Ngài, là sự thanh sạch ở nội tâm, chẳng mang nơi tâm địa cái gọi là “hội chứng xấu”. Ngài thích nghi trọn vẹn với thực tại loài người. Thực tại ấy, nằm gọn nơi niềm vui của bản vị “người”.

Ở đồng hoang chóp núi hôm ấy, Ngài biết rằng: Ngài hoàn toàn được Cha chấp nhận và trọn vẹn yêu thương như “người” thật cũng rất “người”. Với Chúa Cha, Ngài không là kẻ lạ đến từ hành tinh khác. Và Cha cũng chẳng tỏ ra xa lạ, đối với Ngài. Nói nôm na, thì bảo: đối với Cha, Ngài không là “bạn lâu lắm mới gặp”. Và, Chúa Cha cũng chẳng là “bạn lâu năm xa cách” nay trở lại với Ngài.

Quan hệ giữa Ngài với Cha và giữa Cha với Ngài, không là tương quan khi còn/lúc mất, khi trầm/lúc bổng. Nhưng là sự thật thể hiện nơi nhận thức giữa Ngài và Cha. Đức Giêsu nhận rõ Cha và muốn trở nên như Chúa. Chúa biết rõ Đức Giêsu và muốn trở nên như Ngài. Đây, đích thực là đổi thay/biến hình đang diễn tiến. Và, là diễn tiến hai chiều, rất thuận tiện. Bởi, Đức Giêsu đang mang trong mình đầy Thiên tính như Chúa và Chúa đang trở thành người thực như Đức Giêsu. Gọi đó là biến hình/hiển thị, hoặc nhập thể làm người, đều rất đúng. Điều rất đúng, nay biểu hiện/hiển thị nơi tiếng phát tự đám mây cho đồ đệ nghe thấy, vào buổi ấy: “Ngài là Con Chí Ái Ta, các ngươi hãy nghe lời Ngài.” (Mc 9: 9)

Ngay khi ấy, đồ đệ Thày chưa nắm bắt được ý nghĩa của câu nói. Nhưng cuối cùng, sau một thời gian dài theo chân Ngài, đồ đệ Chúa mới nhớ lại và nhận ra được điều ấy có nghĩa gì. Và một lần nữa, Đức Giêsu lại đã nhắc nhở dân con đồ đệ đừng loan truyền thông tin hoặc bàn luận gì về việc ấy cho đến ngày Ngài Phục Sinh, quang vinh. Và cuối cùng, các thánh cũng nhận ra được điều ấy.

Nhận ra điều ấy, cũng phải mất nhiều ngày dài trong Chay tịnh. Có khi còn lâu hơn. Kịp đến khi các ngài tin vào Lời Đức Giêsu và Lời của Cha, các thánh mới cảm nhận được kinh nghiệm quý báu này. Kinh nghiệm, là cảm được một nghiệm sinh quý giá mà chính Đức Giêsu và Cha Ngài đã chấp nhận và yêu thương các thánh cách trọn vẹn. Yêu thương và tận hưởng tư thế đồng hành với các ngài. Khi ấy, các thánh mới hiểu ra và yêu thương Đức Giêsu và Chúa của Ngài theo cách khác nhau, rất riêng biệt. Và các ngài cũng nhận ra được cuộc sống của các ngài sở dĩ đạt kết quả tức là đã biến hình/đổi dạng, rất hiển thị.

Và cuối cùng, các thánh cũng nhận ra rằng các ngài có thể làm như thế cho nhau, và cho mọi người. Mỗi khi các ngài hoàn toàn chấp nhận lẫn nhau, và/hoặc yêu thương bất cứ ai trong cộng đoàn Nước Trời của mình, thì động lực xúc tác lại sẽ bắt đầu hệt như thế. Chính đó là lúc, mối quan hệ giữa các ngài và mọi người cũng biến hình/đổi dạng, giống như Chúa. Và như thế, các ngài đã trở nên người anh, người chị có biến đổi, thành người mới.

Xem thế thì, Chúa nhật Biến Hình hôm nay chỉ là biểu hiện bất chợt thấy trước về Phục sinh quang vinh. Một thứ thư giãn buông lỏng sợ rằng Mùa Chay trở nên quá nặng nề với nhiều người. Đó là sứ điệp. Và, cũng là sứ vụ. Sứ điệp rằng, vì Đức Giêsu, nên dân con mọi người đều phải đổi thay. Sứ vụ là: nếu ta tin tưởng vào Đức Giêsu, ta là người có thể biến hình/đổi dạng thành người khác. Chỉ cần thật tình chấp nhận. Thật sự yêu thương. Và, quyết chí vui hưởng sự hiện diện của nhau, cách thực tình.

Vậy thì, mùa Chay này cũng nên tự hỏi lòng mình xem mình sẽ làm gì cho người khác. Có nên làm cho người khác biến hình/đổi dạng thành người mới không? Và, cũng nên tạo sự đổi mới cho chính mình, như một hiển thị, rất công minh, định hình, trong sáng.

Trong cảm nhận sự cần thiết biến hình/đổi dạng chính mình, cũng nên về với lời thơ mà ngâm lên:       

 “Mơ khách đường xa, khách đường xa,

Áo em trắng quá nhìn không ra…

Ở đây sương khói mờ    nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

(Hàn Mặc Tử – Đây Thôn Vỹ Dạ)

Áo em nay biến hình/đổi dạng thành mầu trắng đến độ anh nhìn không ra. Bởi, có nhìn vào cuộc đời mà đôi ta sống ở cõi trời đầy sương khói đến độ “mờ nhân ảnh” này, chỉ “tình ai có đậm đà”, mới là người tình nay biến đổi. Có biến và có đổi, suốt hành trình cuộc đời, mới là người thật được Chúa đồng hành, đỡ nâng, chấp nhận. Chấp nhận trong yêu thương, rất giùm giúp.  

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn

  – Mai Tá lược dịch.

 Vuisongtrendoi gởi

Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 2 Mùa Chay năm B 25-02-2018

 “Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa”

“Một chiều xuân em đã hẹn hò

Như ươm tình trong cánh hoa mơ,

Khơi hương theo làn gió

Em bảo rằng em viết thành thơ.”

(Châu kỳ – Đón Xuân Này Nhớ Xuân Xưa)

(Mc 1: 12-15)

 Trần Ngọc Mười Hai

Cứ đón cứ đưa, rồi lại nhung nhớ những xuân xưa, thật cũng khó. Khó hơn cả, là làm sao đưa tình tự này vào đúng với ngày vui của mọi người, không phải Xuân. Khó hơn nữa, lại là khúc nhạc rất “Marie sến” năm xưa nhưng nay vẫn ăn khách nên đã lọt vào tầm tay người viết chuyện Đạo đời, cũng rất “phiếm”.  Thôi thì, có khó thế nào đi nữa tưởng cũng đạt. Bởi, mọi người như bạn  và tôi đây, đôi khi lại cũng thích đôi ba câu nhạc xưa ấy đến bây giờ.

Sở dĩ, bần đạo bầy tôi đây bảo rằng: “đó là yêu cầu thời thượng “rất bây giờ”, là bởi nghe đâu có nhiều vị đang làm cái chuyện gọi-là: trở về với giòng nhạc “Sến” cũng thấy lạ. Thôi thì, trước khi đi vào vấn-đề bàn bạc chuyện thần-học với học về thần, lại mời bạn và tôi, ta nghe câu hát tiếp, để xem sao. Câu rằng: 

“Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa.

Hẹn gặp nhau khi pháo giao thừa.

Em đứng chờ tôi dưới song thưa.

Tôi đi qua đầu ngõ.

Hỏi nhau thầm Xuân đã về chưa.

Xuân đến xuân đi, xuân về gieo thương nhớ.

Xuân qua để tôi chờ.

Xuân đến xuân đi, xuân về mơn lá hoa,

Xuân qua rung đường tơ.

 Bước sông hồ như đắm như mơ.

Trở về đây khi gió sang mùa.

Mong ước tìm cô gái Xuân xưa, cho vơi bao niềm nhớ.”

(Châu Kỳ – bđd)

Thôi thì, có nhớ xuân này hay xuân xưa, cũng chỉ là “niềm nhung nhớ” về chuyện gì đó, như chuyện rất “nhà Đạo” chẳng hạn, tưởng cũng nên coi đó như nguồn hứng thú để bạn và tôi, ta liên-tưởng đến những chuyện xa xôi, vời vợi, những thử và thách thời chay/kiêng qua bài suy-niệm rất thần-học như sau:

Trình thuật thánh Máccô được trích vào ngày đầu Mùa Chay, có đôi giòng chảy viết về thử thách với khuyến dụ khiến Đức Giêsu đi vào sự thinh-lặng những 40 ngày/đêm. 40 đây, là con số biểu tượng chỉ thời gian cũng rất dài. Dài ngày. Dài tháng. Như cuộc sống của Chúa, vẫn thấy có khuyến dụ kéo dài ngày cho đến lúc Ngài giáp mặt sự thật trên đồi Calvariô. Thử thách cùng khuyến dụ, đã đưa Chúa đi vào chốn choá ngợp ở đời thường để rồi dẫn dụ Ngài gia nhập chính Mình Ngài vào ngợp choáng ấy. 

Quả là thế! Chúa choáng ngợp với khuyến dụ trở thành Đấng Mêsia, mà mọi người trông đợi. Choáng đến ngợp, khi Ngài buộc phải đặt mình trước cảnh tình quyết đối đầu, hầu có quyết định cho đúng. Choáng và ngợp, trước quyết định hành động sao cho hợp ý Chúa Cha. Choáng rồi ngợp, trước chọn lựa những 3 cách thế để thể hiện vai trò được Cha giao phó. Cách đầu, là quyết tham gia vào chốn quyền bính ngõ hầu có thể kình chống người La Mã, cũng khá khó. Cách thứ hai, là hoà nhập với người đương thời, để rồi sẽ thống trị mọi người ở chốn dân gian, trần thế.        

Chọn cách này, Ngài sẽ có thể giải quyết chuyện đói nghèo do vua quan/lãnh chúa người La Mã từng tạo ra. Thử thách và khuyến dụ như thế, là lòng ham muốn tự giải quyết hết mọi việc ở thế giới, nhất thứ là chuyện kinh-bang-tế-thế, hầu tạo nên cuộc sống rất tốt lành cho mọi người.

 Và thử thách cùng khuyến dụ cuối, vẫn cứ như thánh hội, là: nhắm mắt làm ngơ chẳng cần biết sự thể ở đời sẽ ra sao. Ra sao thì ra, vẫn cứ lặng thinh đi vào chốn linh thiêng thần thánh những là ê a kinh kệ để rồi sẽ lại giao hết cho Cha nhờ giải quyết. Đó là 3 thử và thách rất khuyến dụ thấy rõ ở trình thuật được thánh Mátthêu ghi chép.

 Thử và thách cùng khuyến dụ dễ thấy nhất là những thử và thách cùng dụ dỗ về quyền bính. Là, cung cách mà người La Mã khi xưa sử dụng để hòng thống trị kẻ dưới trướng. Người La Mã xưa, vẫn muốn tạo khó dễ để bổ lên đầu kẻ dưới trướng. Bổ như thế, sẽ khiến họ lại trông mong có được đấng cứu tinh nào đó khả dĩ đem họ ra khỏi mọi thứ bất ưng, vẫn kéo dài. Có lẽ, giới thống trị La Mã khi ấy đã bất lực trong sử dụng quyền thế cách sai sót, để rồi người người ở dưới vẫn phải ngóng trông đấng bậc nào khác đầy uy lực đến thay thế.

 Với thử thách cùng khuyến dụ này, Giêsu Đức Chúa không những chỉ trích cung cách mà vua quan cùng lãnh chúa người La Mã sử dụng quyền bính tối cao để cai trị; Ngài cũng còn đả phá cả quyền uy/thế lực là những thứ mà Ngài chẳng bao giờ muốn tạo lấy cho Ngài. Chúa chọn cuộc sống thấp hèn không mang nặng quyền uy vật chất để Ngài có thể hoà mình với người thấp bé, chẳng khi nào có được quyền uy thế lực cũng rất mực, chốn trần gian.

 Thử thách/khuyến dụ thứ hai tỏ cho Chúa, là lòng ham muốn giải quyết tệ trạng đói nghèo của thế gian. Rõ ràng vào thời Chúa sống, trạng huống này từng xảy đến. Hầu như 95% người dân Galilê vẫn sống dưới mức độ những khó cùng nghèo. Tức: họ không đủ cơm ăn áo mặc hằng ngày mà còn thiếu cả đức tính tự tin vào bản lãnh cũng như tư cách của chính họ. Thêm vào đó, là: tình trạng đau yếu, chết yểu vẫn cứ diễn ra khó lòng mà giải quyết.

 Những khó khăn này, đều do vua quan lãnh chúa trần gian như Hêrôđê tạo nên bằng vào chương trình xây dựng các đền đài bề thế, khiến dân con ở dưới đã nghèo lại còn gặp nhiều uẩn khúc. Nhằm thực hiện những mưu đồ như thế, vua quan ở đời lại đã phải bổ thêm thuế má đánh trên đầu dân con thiên hạ. Thử và thách cũng như khuyến dụ đây, là tìm cho ra đấng bậc vị vọng nào khả dĩ có thể dấy lên một cuộc cách mạng để chống nạn nhũng lạm quyền thế, cùng uy tín. Chính đó là lý do để người người trông chờ Đấng Thiên Sai mau đến mà cứu vớt họ.

 Thử và thách thức cuối, là: gạt sang một bên những chuyện thực tế ở đời để rồi chỉ nghĩ chuyện siêu thăng phụng thờ và tế tự. Rồi tự nghĩ: bằng vào quyền sinh sát mình tự phát, sẽ có thể buộc Chúa phải dính dự vào với suy nghĩ cùng quyết định của riêng mình hầu giải quyết cho dân con của Ngài. Thử thách và khuyến dụ ở đây, hôm nay, còn là sử dụng chốn kinh kệ/phụng thờ mà cầu Chúa ra tay giải quyết hết mọi khó khăn đang diễn ra. Người Do thái thời trước, từng sống với những thử và thách giống như thế.

 Thử và thách, là khuyến dụ mình chỉ sống đời thiêng liêng/linh đạo, hơn sống cho ý định của Chúa Cha. Đức Giêsu đã nhận ra chính những thử thách và khuyến dụ như thế, là chúa tể để có thể dám tự mình gạt qua một bên ý định rất thực của Chúa. Thế nên, Ngài mới không chọn đường lối kinh kệ/sùng Đạo như đám Pharisêu từng thêm vào luật tế tự. Trái lại, Ngài đích thực tuân theo ý định của Cha, chứ không phải ý tư riêng của Ngài.

 Hội thánh hôm nay cũng đang sống cùng một cảnh tình rất tương tợ. Cảnh tình, có thử và có thách thức cùng những khuyến dụ, hệt như thế. Cảnh tình, là cảnh của đấng bậc chỉ biết sống ở trên cao, những muốn người của Giáo hội phải biết ganh đua với thế trần. Ganh và đua, hầu đoạt lại quyền uy thế lực từng để mất trong chính trường, ngoài xã hội, là nơi chốn mang nhiều ảnh hưởng lên dân chúng. Thông thường thì, người người thấy Hội thánh cứ ganh đua với cơ quan từ thiện ở nhiều nơi. Vẫn muốn người đời nể trọng mình vì mình cũng từng ban phát ân huệ, tài chánh và bổng lộc cho nhiều người.

 Thường thấy hơn, rõ ràng hôm nay người người đều thấy thánh hội mình chỉ lo chuyện linh thiêng chốn tháp ngà nhiều mây tầng vần vũ. Lo rồi, còn bắt Chúa đồng thuận mà tuân theo qui định do thánh hội mình đề ra. Hội thánh hôm nay cũng gặp cùng một thử thách cũng như khuyến dụ bằng nhiều cách, giống hệt như Đức Giêsu vào thời trước. Tức, cũng nghĩ rằng Chúa Thánh Thần uỷ thác cho mình làm mọi chuyện theo ý của nhóm hội phe đảng cầm quyền, chứ không là ý định của Cha. Bởi, ý của Cha luôn là ý kiến và quyết định mời thánh hội theo đường khổ ải, trầm lắng chứ không sống đời ồn ào, những là phô trương lực lượng. 

 Chúng ta cũng thế. Ngày nay, ta vẫn muốn trở thành dân con đặc biệt được Chúa tuyển chọn. Tức: những người có khả năng chỉnh sửa mọi thứ, cả những thứ mình không có thẩm quyền cùng chức năng,  trọng trách. Nói tóm lại, những nghĩ mình có khả năng giải quyết hết mọi chuyện trong huyện/ngoài đời dù nhiều lúc không được Cha uỷ thác. Dù, nhiều khi chính mình cũng không rành rẽ, bằng người đời.

 Nhiều lúc, Hội thánh những muốn lôi kéo Chúa vào với lập trường rất riêng tư của một nhóm người chưa thành thánh, vẫn muốn dân con Đạo mình luôn ở bên trên. Trên mọi cơ chế, hoặc tôn giáo khác. Trên mọi sự. Hơn mọi người. Chính vì lý do này, mà một số người trong Đạo ngoài làng, nay bớt tin vào thánh hội của Chúa, dù vẫn tin vào tình thương của Ngài đối với mọi Đạo. Mọi người.

 Nhiều lúc, Hội thánh cũng đối xử với con dân trong Đạo như khách lạ người dưng, cùng lắm chỉ như kẻ đứng ngoài dự khán, không hơn không kém. Thế nên, mới bỏ giờ ra mà thêm thắt cho diện mạo Đạo mình thêm phần hấp dẫn. Chính vì thế, nên người người mới không thấy được ý nghĩa của cuộc sống đích thực, trong Đạo. Không còn mong đợi Hội thánh giúp mình sống xứng hợp với Lời của Chúa. Lời, làm sống dậy như Chúa từng khuyên dạy.

 Nhiều vị trong thánh hội của ta, vẫn sống cuộc đời phụng tự, cũng rất thật. Nhưng, quá đặt nặng hình thức rất lễ nghi, chỉ muốn điệu võ dương oai, nên đôi lúc hiểu sai ý nghĩa niềm tin rất thực. Nói tóm lại, dân con Hội thánh nay có lúc đặt quá nặng phần hình thức với diễn trình, cốt để khuyến dụ nhiều người vào Đạo, và theo Đạo. Phải chăng, đó cũng là thử và thách rất khuyến dụ, thời hôm nay.

 Nếu quả có thế, cũng nên nguyện cầu cho thánh hội mình có lại cơ hội lướt thắng chính mình, mà hồi hướng trở về với con đường chính mạch do Đức Giêsu vạch ra. Hội thánh nói ở đây vẫn là mỗi người và mọi người trong thánh hội Công giáo rất La Mã, chứ không chỉ là cơ chế mạnh mẽ, rất Vaticăng.”

 Nguyện cầu cho Hội thánh của Chúa, là nguyện và cầu trong tâm tưởng có những lời ghi chép một dặn dò khi xưa rằng:

“Sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xatan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.

 Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1: 12-15)

Thử thách và nguyện cầu thật liên-tu bất-tận, để rồi có được những tâm-trạng chịu được tất cả. Chịu đựng, để cùng chung một tâm-trạng như Đức Giêsu từng chịu vào hồi ấy, cũng không ít. Thử thách và nguyện cầu, để rồi sẽ bất chấp mọi sự mà cùng vui với người vui, khổ với người khổ, trong mọi sự.

Nguyện cầu thật lâu và thật nhiều, rồi cứ theo cơn trầm-thống, trỗi dậy mà ngẩng đầu lên rồi cũng sẽ vui vẻ với mỗi người và mọi người, qua truyện buồn/vui đầy kể lể gọi là “Câu chuyện của cha xứ vùng Angevin giúp chúng ta tập trung vào điều thiết yếu” như sau:

Có ai chưa bao giờ bực mình vì ca đoàn hát sai, vì linh mục giảng quá dài, vì người bên cạnh dám nghe điện thoại cầm tay không? Cám dỗ quá lớn đối với một số người, họ tức tối và bỏ nhà thờ ra đi không trở lại! Linh mục Matthieu Lefrançois, cha xứ họ đạo Thánh Antôn ở Angers tìm được một bài trên Facebook của “Giáo hội Công giáo Guinea” để kêu gọi chúng ta chỉ tập trung nhìn Chúa Kitô.

 “Một thanh niên trẻ đến gặp một linh mục và nói:

– Thưa cha, con không đi nhà thờ nữa!

Linh mục hỏi:

– Vậy à, con có thể cho cha biết lý do không?

Người thanh niên trả lời:

– Lạy Chúa tôi, ở đây con thấy cô này nói xấu cô kia; anh đọc Sách Thánh đọc dở; ca đoàn vừa chia rẽ vừa hát sai; người đi xem lễ chỉ chăm chăm nhìn điện thoại, đó là không nói đến ngoài nhà thờ họ là những người ích kỷ, cao ngạo…

Linh mục nói với anh:

– Con có lý. Nhưng trước khi dứt khoát rời nhà thờ, con có thể làm cho cha việc này: con rót một ly nước đầy, rồi đi quanh nhà thờ ba vòng mà không làm đổ một giọt. Sau đó, con có thể bỏ nhà thờ.

Người thanh niên tự nhủ: quá dễ!

Và anh đi ba vòng như cha xứ dặn. Đi xong, anh về nói với cha:

– Rồi, con đi xong rồi.

Linh mục hỏi:

Khi con đi, con có thấy cô này nói xấu cô kia không?

Người thanh niên trả lời:

– Thưa cha không.

Con có thấy người này người kia thờ ơ với nhau không?

Người thanh niên:

– Thưa cha không.

Con có thấy người này người kia chúi mũi vào điện thoại không?

Người thiên nhiên:

– Không, con không thấy.

– Con có biết vì sao con không thấy không: Vì con tập trung để ly nước không bị đổ. Con biết… cuộc đời cũng vậy. Khi tâm hồn chúng ta tập trung vào Chúa Kitô, thì chúng ta không có thì giờ để nhìn các sai lầm của người khác. Ai ra khỏi nhà thờ vì các kitô hữu đạo đức giả thì chắc chắn họ cũng không vào nhà thờ vì Chúa Giêsu”.

 Nghe kể thế rồi, thiết tưởng bạn và tôi, sẽ không còn lý do gì để phàn nàn hoặc than-phiền về cuộc đời người lắm thứ chuyện lỉnh-kỉnh chẳng ra làm sao, nhưng vẫn chấp-nhận, để còn sống những ngày cuối cuộc đời mình, cũng vui tươi, san-sẻ với mọi người.

Nhận-định thế rồi, nay xin đi vào kết-đoạn của mục “phiếm-luận” dài giòng, chẳng ra làm sao. Nhưng vẫn mong bạn bè chấp-nhận cái sự thể “chẳng ra làm sao” ấy cho an-bình cuộc đời, của riêng tôi.

 Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ xin bạn bè

Những chuyện lẩm cẩm

Đến độ thế.

Vuisongtrendoi gởi

Lịch sử VN đã 13 lần đại thắng giặc Tàu xâm lược.

Phan Thị Hồng is with Hoang Le Thanh and Đào Nguyên.

Lịch sử VN đã 13 lần đại thắng giặc Tàu xâm lược.

Trong mấy ngàn năm qua, đặc biệt từ khi tộc Hoa du mục hiếu chiến thành hình ở phương Bắc, từ năm 1046(trước tây lịch), người Tộc Việt chuyên trồng lúa nước, hiếu hòa, ở phương Nam, luôn bị giặc Hoa cướp bóc, xâm lăng.

Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quân Phương Bắc.

Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !

LẦN THỨ 1: (1218 TTL = Trước Tây lịch) –

ĐỨC PHÙ ĐỔNG ĐẠI THẮNG GIẶC ÂN.

Theo sách vở Trung Hoa, năm 1218 trước tây lịch, Ân Cao Tôn đã đánh Quỷ Phương, vùng Đồng Đình. Ân Cao Tôn đóng quân tại đất Kinh, phía tả ngạn sông Dương Tử. Sau 3 năm, Ân Cao Tôn ‘không thắng’. [Nhà Ân còn được gọi là Nhà Hậu Thương]. 
Theo Truyền kỳ Phù Đổng của Việt Lạc, Ân Cao Tôn đã xâm lấn nước ta ba năm và đã bị đánh bại.

* Như thế, theo Truyền kỳ Phù Đổng, cách đây 3200 năm, dân Việt Lạc đã là một quốc gia vững mạnh. Nước nầy đã có tổ chức chặt chẽ, có vua quan, có làng xã, có cúng tế, có lúa gạo, có vải áo, có lũy tre… đã đúc được ngựa sắt, roi sắt, đã có tinh thần dân tộc cao độ… và, theo sách vở Trung Hoa, đã chiến thắng giặc Ân vào thời kỳ hùng mạnh nhất của chúng.

[Vào thời kỳ nầy, tộc Hoa chưa thành hình. Phải hơn 100 năm sau, bộ lạc Chu mới gom góp các bộ lạc du mục khác ở vùng Thiểm Tây, và thành lập Nhà Chu. Từ đó, tộc Hoa mới thành hình và phát triển].*1

LẦN THỨ 2: (214 TTL) – ĐẠI THẮNG GIẶC TẦN

Năm 214 ttl, Tần Thủy Hoàng, vị vua đầu tiên của Trung Hoa, sai tướng Đồ Thư kéo 50 vạn quân xâm lăng vùng đất Việt Lạc. Nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. Đây là đoàn quân tinh nhuệ vừa giúp Tần Thủy Hoàng đánh chiếm sáu nước và thành lập nước Trung Hoa. 
Nhưng mấy năm sau, Đồ Thư đã bị quân Việt đánh bại, quân giặc chết quá nửa, Đồ Thư bị giết.*2

Theo cách hành quân của Trung Hoa, mỗi người lính đem theo một phu phục dịch. Số người vận chuyển lương thực cũng không được kể là lính. Vì vậy, số người Trung Hoa xâm nhập có thể nhiều gấp 3 lần con số quân lính được kể tới, dầu là con số trung thực.

LẦN THỨ 3: (181 TTL) – ĐẠI THẮNG GIẶC TÂY HÁN

Năm 181 TTL, triều Hán sai Long Lân hầu Chu Táo kéo quân sang xâm phạm Lĩnh Nam, đánh Nam Việt. Theo sách vở Trung Hoa, quân Hán không chịu được thủy thổ phương Nam, nhiều người phải bịnh tật, bởi vậy phải thua chạy về bắc.

Sau đó, triều Hán xét việc Nam chinh không lợi, nên không đánh nữa (!).*3

LẦN THỨ 4: (40 DL) – TRƯNG NỮ VƯƠNG ĐẠI THẮNG GIẶC ĐÔNG HÁN & TÁI CHIẾM TOÀN THỂ VÙNG ĐẤT LẠC VIỆT

Năm 30 dl, Hán Quang Vũ áp đặt chế độ trực trị trên vùng đất Việt Lạc. Do đó, toàn dân Việt vùng lên kháng chiến, và bầu Đức Trưng Trắc là Thủ Lãnh. Sau 10 năm, Dân ta đã đánh đuổi toàn bộ quân Tàu ra khỏi vùng đất Việt Lạc, chiếm lại 65 thành.

Thời gian qua, sách sử Trung Hoa đã giảm thiểu vùng đất và sức mạnh của dân Việt thời đó. Ngày nay, đã có đủ chứng cứ xác định vị trí, tình hình và vùng đất bao la của việc quân dân Việt đánh chiếm lại 65 thành, và đánh bại đại quân hùng hậu của hoàng đế Quang Vũ nhà Hán.

Thời đó, vùng đất Việt Lạc nay là Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến của Trung Hoa, xuống tới Hải Vân… Và Hán Quang Vũ đã phải vận dụng toàn thể binh lực của ‘thiên triều’.

Đức Trưng Nữ Vương đáng được tôn hiệu ĐAI ĐẾ ĐỒNG ĐÌNH LĨNH NAM.*4

LẦN THỨ 5: (541 DL) – NAM VIỆT ĐẾ LÝ BÔN ĐẠI THẮNG GIẶC LƯƠNG

Năm 541 dl Đức Nam Việt Đế, húy là Lý Bôn, đánh đuổi quân trú đóng Trung Hoa, giành độc lập. Năm 544 xưng là Nam Việt Đế, niên hiệu Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Lập ra Nhà Tiền Lý.

Đây là lần đầu tiên sách sử Trung Hoa ghi lại quốc hiệu và niên hiệu của dân ta. Nhà Tiền Lý kéo dài 61 năm, từ 541 tới 602 dl.*5

LẦN THỨ 6: (938 DL) – NGÔ NAM ĐẾ NGÔ QUYỀN ĐẠI THẮNG GIẶC NAM HÁN

Từ năm 906 dl, Đức Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự trị khỏi tay người Trung Hoa. Truyền được 3 đời.

Năm 938, vua Trung Hoa Nam Hán sai thái tử là Hoằng Tháo kéo quân xâm lấn. Với trận cọc gỗ bọc sắt trên sông Bạch Đằng, Đức Ngô Nam Đế, huý là Ngô Quyền, đã đại thắng quân Hán, giết chết thái tử Hoằng Tháo. Hoàng đế Nam Hán là Lưu Cung cũng kéo quân tiếp ứng theo đường bộ. Nghe tin, ông khóc và rút về.*6

LẦN THỨ 7: (981) – LÊ ĐẠI HÀNH ĐẠI THẮNG GIẶC TỐNG (LẦN1)
Năm 981 dl, vua Tống sai tướng Hầu nhân Bảo kéo quân xâm lấn, theo hai đường bộ và thủy. Vì vua nước ta là Đinh Tuệ mới 8 tuổi, nên quân sĩ tôn tướng Lê Hoàn lên ngôi, tức là Đức Lê Đại Hành. Với một trận Chi Lăng, quân ta phá tan đoàn quân Tàu, giết Hầu nhân Bảo. Đoàn quân giặc theo đường biển vội vàng rút lui.*7

LẦN THỨ 8: (1076) – LÝ NHÂN TÔN, DANH TƯỚNG LÝ THƯỜNG KIỆT ĐẠI THẮNG GIẶC TỐNG (LẦN 2)

Năm 1072 dl, vua Lý nhân Tôn lên ngôi. Vì vua mới 7 tuổi, nên việc quân đều ở trong tay danh tướng Lý Thường Kiệt.

Năm 1075, Lý thường Kiệt và Tôn Đản kéo 10 vạn quân tái chiếm vùng châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, [vốn thuộc vùng đất Việt Lạc], nay thuộc Quảng Đông, Quảng Tây.

Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì và Triệu Tiết kéo hơn 30 vạn quân sang xâm lấn Nước ta. Nhưng chúng bị đánh tan ở sông Như Nguyệt. Giặc Tàu kéo tới hơn 30 vạn, chỉ còn 2 vạn 8 trở về !*8

LẦN THỨ 9: (1258) – TRẦN THÁI TÔN ĐẠI THẮNG GIẶC MÔNG CỔ (LẦN 1)

Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý, ở vùng Vân Nam. Mông Cổ đương thời là đế quốc to lớn và hùng mạnh nhất thế giới, chìếm đóng từ Á sang Âu.

Năm 1257, từ Vân Nam, tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqatai) đem 3 vạn quân Mông Cổ và hơn 1 vạn quân Đại Lý tấn công Đại Việt, chiếm Thăng Long, đốt phá và giết mọi người trong thành. [Ngột Lương Hợp Thai là công thần thứ 3 của Nhà Nguyên, từng tham gia các trận đánh chiếm nước Kim, nước Đức, Ba Lan, Bagdad, và diệt nước Đại Lý].

Vua Trần thái Tôn lo sợ, hỏi ý kiến Trần Thủ Độ. Trần thủ Độ khẳng khái : “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo !”.

Chỉ mấy ngày sau, vua Trần thái Tôn dẫn quân phản công, đánh thắng quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu. Trên đường rút lui, quân Mông Cổ còn bị quân ta chận đánh tan tành ở vùng Qui Hóa.*9

LẦN THỨ 10: (1284) – TRẦN NHÂN TÔN, DANH TƯỚNG HƯNG ĐẠO VƯƠNG ĐẠI THẮNG GIẶC MÔNG NGUYÊN (LẦN 2)

Năm 1271 Hốt Tất Liệt (Khubilai) trở thành Đại Hãn của đế quốc Mông Cổ, đổi quốc hiệu thành Nguyên. Năm 1279, quân Nguyên chiếm trọn đất Trung Hoa. Đế quốc Mông Cổ bao trùm 40 quốc gia từ Á sang Âu.

Năm 1284, Hốt Tất Liệt sai con là Thoát Hoan (Toghan), cùng với các danh tướng Toa Đô (Suodu), Ô Mã Nhi, kéo 50 vạn quân xâm lăng Đại Việt. Quân Nguyên còn có thủy binh từ Chiêm Thành đánh lên. Khi đó, toàn thể quân Đại Việt chỉ có 20 vạn.

Trước tình hình nguy biến, nhiều người muốn hàng hoặc tìm kế hoãn binh. Nhưng các tướng Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư cương quyết xin đem quân trấn giữ.

Vua Trần Nhân Tôn liền triệu tập các bô lão trong dân tại điện Diên Hồng để hỏi ý kiến. Toàn thể đồng thanh xin Đánh.

Trước thế giặc quá mạnh, quân ta phải rút về Vạn Kiếp. Ở phía Nam, quân Nguyên từ Chiêm Thành cũng đã chiếm Nghệ An. 
Vua Nhân Tôn lại lo sợ, ‘muốn hàng để cứu muôn dân’. Nhưng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đáp : “Bệ Hạ nói câu ấy thật là lời nhân đức. Nhưng Quê hương Dân tộc thì sao ? Nếu Bệ Hạ muốn hàng, xin chém đầu tôi trước đã !”

Thoát Hoan dùng đại bác bắn phá, và vào được Thăng Long. Triều đình ta chạy về Thanh Hóa. 
Khi đó tướng Trần Bình Trọng bị bắt. Thoát Hoan dụ hàng và hỏi : “Có muốn làm Vương không ?” Trần Bình Trọng quát to :

“Ta thà làm quỷ Nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc !”

Tháng 5 năm 1285, tướng Trần Nhật Duật phá được quân Toa Đô ở cửa Hàm Tử.

Sau đó, tướng Trần Quang Khải đưa quân đi thuyền từ Thanh Hóa ra đánh tan quân Nguyên ở bến Chương Dương, rồi dùng phục binh chiếm lại Thăng Long. 
Đức Hưng Đạo Vương thì đem quân đánh ở Tây Kết, và giết được Toa Đô. Quân ta bắt được 3 vạn quân Nguyên và vô số chiến thuyền, khí giới.

Hưng Đạo Vương lại sai phục kích chận mọi đường quân Nguyên có thể rút lui, và tự mình dẫn đại quân lên Bắc Giang đánh Thoát Hoan. Quân Nguyên thua chạy, tới bến Vạn Kiếp bị phục kích, chết quá nửa. Thoát Hoan trốn thoát về Tàu.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, in năm 1697 dl, quân Nguyên kéo qua 50 vạn và sáu tháng sau, chỉ còn 5 vạn rút về.*10

LẦN THỨ 11: (1287) – TRẦN NHÂN TÔN, DANH TƯỚNG HƯNG ĐẠO ĐẠI THẮNG GIẶC MÔNG NGUYÊN (LẦN 3)

Cuối tháng 12 năm 1287, Thoát Hoan lại theo hai đường thủy bộ, kéo thêm 50 vạn quân xâm lấn, với hơn 800 chiến thuyền, cùng với đoàn tàu 100 chiếc chở lương thực. [Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư]. Phía Đại Việt có khoảng từ 20 tới 30 vạn quân.

Quân Nguyên chiếm được Thăng Long, nhưng sợ bị cắt đường liên lạc, nên tập trung ở Vạn Kiếp. Bộ chỉ huy của Đại Việt rút về vùng Đồ Sơn, Hải Phòng.

Tướng Trần Khánh Dư đưa quân phục ở bến Vân Đồn và phá tan đoàn thuyền lương.

Tháng 3 năm 1288, cạn lương, Thoát Hoan sai Ô mã Nhi mở đường theo sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương lại dùng kế đóng cọc bịt sắt xuống sông Bạch Đằng (như Đức Ngô Quyền năm 938 dl).

Với trận Bạch Đằng, quân ta tiêu diệt hoàn toàn thủy quân của giặc Nguyên. Nghe tin thủy quân tan vỡ, Thoát Hoan kéo chạy về qua vùng Bắc Giang và Lạng Sơn, và cũng bị quân Đại Việt chận đánh tan tành.*11

LẦN THỨ 12: (1428) LÊ THÁI TỔ ĐẠI THẮNG GIẶC MINH

Năm 1406, giặc Minh kéo quân xâm lấn nước ta. Nhà Hồ thua. Giặc Minh, với Trương Phụ, bắt đầu chính sách đồng hóa dân ta với dân Tàu…

Năm 1418, nông dân Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hóa, tự xưng là Bình Định Vương, gởi hịch kể tội giặc Minh và nêu rõ mục đích đánh đuổi quân giặc cướp nước.

Năm 1426, sau 8 năm gian khổ, với nhiều lần nguy cấp, Bình Định Vương thắng trận Tụy Động, và bao vây thành Đông Quan, Thăng Long.

Cuối năm 1427, giặc Minh lại đưa thêm 2 đạo quân sang đánh Đại Việt. Đạo quân do Liễu Thăng cầm đầu với hơn 10 vạn lính, 2 vạn ngựa. Đạo quân do Mộc Thạnh dẫn 5 vạn lính và 1 vạn ngựa. Nhưng tại Chi Lăng, quân ta giết Liễu Thăng, phá tan toàn bộ quân tiếp viện của giặc, bắt sống hơn 3 vạn quân Tàu. Mộc Thạnh nghe tin, bỏ chạy. Quân Nam theo đánh, giết hơn 1 vạn giặc Minh.

Nghe tin, Vương Thông đang chiếm đóng Đông Quan [Thăng Long], viết thư cầu hòa, và xin cho chúng rút quân về Tàu. Số tù binh, hàng binh và vợ con được thả về Tàu lên hơn 10 vạn người.*12

LẦN THỨ 13: (1789) – QUANG TRUNG HOÀNG ĐẾ ĐẠI THẮNG GIẶC MÃN THANH.

Năm 1788, Tôn Sĩ Nghị kéo 20 vạn quân Nhà Thanh, chia làm 3 đạo, tiến đánh Đại Việt, chiếm đóng Thăng Long.

Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đang ở Huế, được tin, tính chuyện tiến đánh. Quan quân xin Ngài lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung. Đức Quang Trung kéo quân ra tới Nghệ An, nghỉ 10 ngày để mộ thêm lính. Tất cả được 10 vạn quân và 100 con voi.

Đức Quang Trung cho ăn Tết sớm, đêm 30 sẽ kéo quân đi, và hẹn ngày mùng 7 Tết sẽ ăn Tết lại tại Thăng Long. Trận đánh thần tốc đã phá hết các đồn giặc, đến nỗi chúng không kịp báo tin cho nhau. Chỉ trong mấy ngày, quân ta đánh chiếm từ Giản Thuỷ, tới Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi…

Sáng mùng 5 Tết, quân ta vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc giáp, lên ngựa tháo chạy. Giặc Tàu chạy theo, chết đuối chật sông Hồng. Các đạo quân giặc ở phía Bắc cũng tất tả rút chạy. Tất cả đều chỉ trong 5 ngày.*13

TỔNG KẾT SƠ KHỞI

Như vậy, chỉ kể những lần Trung Hoa xua đại quân xâm lấn Nước Nam, dầu sách vở Trung Hoa đã giấu bớt quân số vì bị thất trận, tổng số các đoàn quân xâm lăng Trung Hoa đã có hơn 40 danh tướng, hằng ngàn đại tướng, và hơn 450 vạn quân sĩ. [Theo con số thông thường, tức là hơn 4.500.000 giặc]. Đang khi đó, kể cả dân số, tài nguyên, quân sĩ, phương tiện chiến đấu… dân ta không bao giờ tương xứng với quân Trung Hoa xâm lược. 
Nhưng bất cứ lần nào, Đại Việt cũng đại thắng

1. TRUNG HOA: TÊN KHỔNG LỒ CHIẾN BẠI

Điểm đáng chú ý là trong 900 năm vừa qua, trong khi Việt Nam đánh bại mọi cuộc xâm lăng của Trung Hoa, thì chính Trung Hoa lại bị Kim, Mông, Mãn,Âu, chiếm đóng và thống trị.

Đáng chú ý hơn nữa, tuy tình hình thay đổi tùy thời, nhưng trong tất cả những lần xâm chiếm Trung Hoa đó, từ Kim, đến Mông, Mãn… lần nào thực lực xâm lấn, kể cả dân số, lãnh thổ, sản lượng, kỹ thuật, chiến cụ, quân đội… cũng đều không bằng một phần mười của Trung Hoa đương thời. 
Nhưng Trung Hoa đã luôn là kẻ chiến bại.

Ngoài ra, những nhóm người man di và ít oi đó, lại thống trị Trung Hoa vĩ đại tổng cộng hơn 500 năm.

Kim 108 năm (1126-1234 dl),

Mông 134 năm (1234-1368 dl),

Mãn 267 năm (1644-1911 dl), 
trong đó có 72 năm chung với Âu (1839-1911 dl).

Trong suốt hơn 5 thế kỷ đó, kể cả hiện nay, người dân Trung Hoa buông xuôi, khuất phục, còn giới nho sĩ Trung Hoa lại chỉ biết phủ phục tuân lịnh ‘vị Thiên tử’ ngoại xâm để thẳng tay hành hạ và đàn áp người dân.

Thực vậy, Trung Hoa luôn là tên khổng lồ chiến bại.

Nguyên nhân chính là ách thống trị của bọn ‘thiên tử, thiên triều’ tham tàn bạo ngược, đã biến người dân Trung Hoa thành những tên nô lệ đói ăn truyền kiếp.

Trong suốt 3000 năm qua, hơn 99% người dân Trung Hoa chì là những tên nô lệ đói khát, tự ti, khiếp nhược, không lý tưởng, không nhân phẩm, chỉ biết tham lợi bất chấp thủ đoạn.

2. ƯU THẾ CỦA CHÚNG TA

Hơn nữa, trong tất cả mọi cuộc chiến chống Phương Bắc, Tổ Tiên chúng ta đã chỉ tự sức chiến đấu đơn độc một mình. Các Ngài đã không có bất cứ một yểm trợ nào do bất cứ từ đâu tới.

Nhưng bất cứ lần nào, Việt Nam cũng đại thắng Trung Hoa ! Tất cả 13 lần, đều đại thắng.

Về phần chúng ta, hiện nay, chúng ta lại đang được yểm trợ từ khắp nơi. Trước hiểm họa Trung Hoa bành trướng, xâm lăng, trộm cướp, gian manh, phá hoại các nền kinh tế, lũng đoạn các thể chế… mọi người, mọi dân nước trên toàn thế giới, đều sẵn sàng tiếp tay chúng ta triệt hạ mối họa chung là Giặc Trung Hoa. Bạn hữu chúng ta lại nhiều ưu thế hơn Giặc Tàu.

Với bất cứ giá nào, ở bất cứ phương diện nào, các cường quốc hiện đại không thể nhường Trung Hoa cưỡng đoạt vị thế hùng mạnh nhất thế giới, nhất là khi toàn thể binh lực Trung Hoa cũng không bằng một phần nhỏ các hạm đội đối nghịch…

Hơn nữa, toàn thể dân Việt hiện nay, ở khắp làng xóm hang cùng ngõ hẻm, đều nôn nức vùng lên chiến đấu Đánh Giặc Tàu. Tinh thần dân tộc và đoàn kết chưa từng bộc lộ rõ ràng và mạnh mẽ như hiện nay.

Mọi người đều sẵn sàng. 

Cũng phải kể thêm mấy triệu người Việt trên thế giới cũng đang sẵn sàng đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực, và nhất là trí lực, chuyên môn, kiến thức, kỹ thuật, kinh nghiệm, và ảnh hưởng… ở mọi lãnh vực ngoại giao, chính trị, kinh tế, tài chính, quân sự, xã hội…

Tất cả đều được huy động tối đa để Đánh Giặc Tàu !

CHÚNG TA CŨNG SẼ ĐẠI THẮNG GIẶC TÀU LẦN THỨ 14.

Ảnh: Cọc Bạch Đằng giang

Image may contain: outdoor
 

ÎLE DE LUMIÈRE. Phim, NICOLAS JALLOT thực hiện. 64 minutes

 
Nguyễn Công Lý and Thư Hiên Vũ shared Từ Thức‘s post.
Image may contain: ocean, sky, cloud, outdoor, water and nature

Từ Thức

ÎLE DE LUMIÈRE.

Phim, NICOLAS JALLOT thực hiện. 64 minutes

Dưới đây là toàn bộ cuốn phim Île de Lumière nói về chiếc tàu ‘’ Đảo Ánh Sáng ‘’ của Pháp đã cứu hàng chục ngàn thuyền nhân VN .

Phim dài 64 phút, do Nicolas JALLOT thực hiện, vừa trình chiếu trên đài truyền hình quốc gia Pháp France 2 .

Cuốn phim thuật lại cuộc vận động đóng tàu Ile de Lumière được dân Pháp ủng hộ nhiệt liệt. Chỉ trong 15 ngày, bác sĩ Bernard Kouchner đã nhận được đủ ngân khoản từ khắp nơi gởi về, đủ nhân viên tình nguyện để mang chiếc tàu từ Nouméa ( Nuvelle Calédonie ) tới đảo Poulo Bidong, Mã Lai Á , làm một nhà thương nổi, sau đó trở thành một tàu cứu cấp người vượt biển lâm nạn.

Chưa bao giờ nước Pháp có một chương trình nhân đạo được toàn dân ủng hộ nhiệt thành như vậy. Các trí thức, nghệ sĩ, ký giả nổi danh thuộc mọi khuynh hướng chính tri đứng tên trong Uỷ ban ”Một con tàu cho VN”. Hai triết gia hàng đầu của Pháp, Raymond Aron, phe hữu, Jean Paul Sartre, phe tả, tạm ngưng cuộc bút chiến gay gắt từ 30 năm đã bắt tay nhau, vào điện Elysée, yêu cầu tổng thống Valéry Giscard d’Estaing đón tiếp thuyền nhân. 

Trong năm đầu, nước Pháp đã đón nhận gần 130.000 thuyền nhân. Số người Việt, Miên, Lào được Pháp được đón nhận những năm sau đã lên tói 300.000 .
Trong nhiều tháng trời, cả nước Pháp theo dõi tàu Ile de Lumière, xúc động với những tai hoạ của người vưọt biển. 

Báo chí cho đó là thảm kịch bi thảm nhất trong lịch sử cận đại. Những lời tường thuật của những người bất chấp cái chết, đói khát, bệnh tật, hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, tàn sát, vượt biển tìm tự do là một mũi thuốc ngừa vĩnh viễn cho cả một thế hệ vẫn còn mơ tưởng ‘’ xã hội chủ nghĩa ‘’ kiểu Cộng Sản

Hàng triệu người đã vượt biển tư do, trên một phần ba đã bỏ mạng trên biển cả. Các nhân chứng trong phim cho hay khi phong trào vượt biển lên cao, các nước láng giềng đã đóng cửa, không cho thuyền nhân cập bến. Những chiếc thuyền mỏng manh chở đầy người, cả đàn bà trẻ em lênh đênh ngoài khơi. Nhiều người đã vứt con dại lên tàu vì không đủ tiền mua chỗ cho cả gia đình. 

Chỉ còn một hòn đảo duy nhất nhận nhận thuyền nhân là đảo Poulo Bidong, ( Pulau Bidong ) cách Mã Lai 3 giờ đưòng tàu. Trong vài tháng, dân số đảo từ 3000 lên tới 30.000 người sống, hay chết, chồng chất lên nhau, và trở thành địa ngục trần gian, hay, theo Bernard Kouchner, ” capitale de l’horreur ” ( kinh đô của sự ghê rợn )
Nicolas Jallot đã tìm gặp những nhân chứng, từ bác sĩ Bernard Kouchner, thuyền truởng François Herbelin và bà Herbelin, một thuyền nhân VN cũng như một số thuyền nhân đã được Ile de Lumière cứu thoát. 

Những người Pháp tham dự chương trình nói suốt đời sẽ không bao giờ quên được một ‘’ đại hội huynh đệ ‘’ như vậy. Bác sĩ Eric Cheysson nói sau đó, họ không thể trở lại đời sống bình thường. Eric Cheysson tiếp tục các chương trình nhân đạo, hiện nay là chủ tịch ” La Chaine de l’Espoir ”( Sợi giây Hy Vọng )

Cựu thuyền nhân Lý Văn Lưu, ngày nay là một bác sĩ chuyên khoa nói ông đã sống trong địa ngục, hàng tuần nhịn đói, phải uống nưóc tiểu trên thuyền trước khi sống trên đảo Poulo Bidong, phải nằm trên phân người, trên nước tiểu, phải chờ 8 giờ để được hai chai nước.

Khi tới Pháp, được ăn một bữa cơm ngn nhất trong đời. Bác sĩ Lưu nói : được cấp 100 quan ( francs ) tiền túi, tôi không bao giờ dám tiêu tờ giấy bạc tưong trưng cho tình hữu nghị 

Cuốn phim chiếu lại những cuộc tranh luận sôi nổi trong giới trí thức về thực trạng của chiến tranh VN. Người tố cáo sự bạo tàn của Cộng Sản dữ dội nhất là triết gia André Gluckmann, một cựu ” maoiste ” ( đệ tử của Mao ) nổi tiếng. Tàu Ile de Lumière và boat people đã đánh dấu một sự thay đổi lớn trong xã hội Pháp, trong tư duy của trí thức 

Giới trí thức, như bà Fanfan Gluckmann nói trong phim, vỡ mộng ”thế giới đại đồng ”, dân chúng thấy thiên đường CS là địa ngục. 

Đảng Cộng Sản Pháp, trước đó là một trong hai chính đảng lớn nhất của Pháp, trở thành một đảng bỏ túi, ngày nay chỉ còn dưới 2% số phiếu bầu. 
Ile de France cho tới nay vẫn là mối hãnh diện của dận tộc Pháp, vì đã nói lên khía cạnh nhân bản của nước Pháp

https://www.france.tv/…/412981-infrarouge-l-ile-de-lumiere-…

  •  
    Nguyễn Công Lý shared Từ Thức‘s post.  

    Xin tạ ơn nước Pháp và người dân pháp !
    Chúng tôi những thuyền nhân tỵ nạn cs như được tái sinh nhờ lòng nhân đạo của người dân nước Pháp nói riêng và thế giới nói chung.

    Điều này chứng tỏ rằng thế giới đã không chấp nhận, xa lánh, đã loại bỏ CNCS từ lâu. Chỉ còn một đám vô thần cuồng cộng mới ôm chặt nó chỉ vì ích lợi cho bè đảng của chúng.

NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI CỘNG SẢN CHÂU Á

Trần Bang shared Võ Hồng Ly‘s post.

Những trò đánh lén, đánh hội đồng, những mẹo vặt, những trò gây khó trong thăm hỏi xã giao, kỳ thị, ghen ghét quá khứ… chỉ là biểu hiện của mặc cảm thấp kém, tự ty, nhân cách chưa trưởng thành của người CS.

 
Image may contain: 4 people, people standing and suit
Image may contain: sky and outdoor

Võ Hồng Ly added 2 new photos.Follow

21.02.2018

Bài viết của FB Bong Lau : NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI CỘNG SẢN CHÂU Á

Hai ngày qua tin tức lan tràn về mật vụ Trung Cộng làm khó dễ phái đoàn của TT Trump khi viếng thăm Tử Cấm Thành vào tháng 10 năm rồi. Mặc dù Chủ Tịch Tập Cận Bình đã đón tiếp Donald Trump rất trọng thể từ trước đến nay.

Tóm tắt câu chuyện như sau : Sau khi TT Trump bước vào khu vực Tử Cấm Thành lập tức mật vụ Trung Cộng chận đoàn tùy tùng của Tổng Thống Mỹ lại. Trong đoàn tùy tùng có một sỹ quan tùy viên xách theo một va li màu đen gọi là “trái banh nguyên tử” (nuclear-football) bên trong có chứa mật mã và các thủ tục kích hoạt một cuộc phản công bằng võ khí nguyên tử.

Vị sĩ quan này phải luôn luôn hiện diện cạnh Tổng Thống Hoa Kỳ để cuộc phản công nguyên tử phải chớp nhoáng tính từng giây từng phút trước khi hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử của đối phương bay đến chạm nổ trên nước Mỹ.

Mật vụ Tàu chận đoàn tùy tùng lại không cho theo chưn TT Trump. Nhưng không may cho mấy chú Trung Cộng, người cầm đầu đoàn là John F. Kelly, Chánh Văn Phòng Bạch Cung, cựu Tướng 4 sao của binh chủng TQLC.

John F. Kelly ra lịnh “Chúng ta hãy tiến vào”. Nhưng một mật vụ Tàu xông đến chụp lấy vai ông Đại Tướng TQLC. Ông này đẩy chú Tàu ra. Lập tức một mật vụ Hoa Kỳ chận và vô hiệu hóa ngay chú Tàu này (tackle).

Về sau chính quyền Hoa Lục đã chính thức xin lỗi Hoa Kỳ về sự xô xát đáng tiếc ấy chỉ vì sự “hiểu lầm” (misunderstanding).

Đây không phải là sự hiểu lầm mà là sự cố tình làm khó dễ để thử thách nước Mỹ. Tổng Thống Hoa Kỳ khi đi công du ở các quốc gia trên thế giới thì các cơ quan an ninh Hoa Kỳ phải phối hợp với cơ quan an ninh sở tại để bảo vệ quốc khách và tạo cuộc viếng thăm trôi chảy thành công.

Mật vụ Tàu biết rất rõ cái va li đựng mật mã và thủ tục kích hoạt chiến tranh nguyên tử không thể xa rời Tổng Thống Hoa Kỳ. Nhưng họ vẫn cố tình làm khó dễ. Như họ đã không chịu cung cấp cầu thang cho chiếc máy bay Air Force One chở TT Obama làm vị Tổng Thống Mỹ hòa nhã lịch sự này phải chui ra cửa đít máy bay.

Đối với văn hóa của người Tàu chơi trò tiểu nhân làm nhục vị nguyên thủ của một cường quốc là chứng tỏ được sức mạnh và uy thế của mình. Nhưng đối với văn hóa Tây phương đây là hành động trẻ thơ có nhiều mặc cảm và bất an.

Muốn biết được văn hóa dị biệt của người Tàu và Âu Mỹ thì hãy tìm hiểu nền giáo dục cho tầng lớp thiếu nhi của 2 xã hội Đông – Tây này.

Xã hội Trung Hoa đã quen với các câu chuyện kiếm hiệp với các thủ thuật đánh lén, phóng ám khí, đầu độc và uýnh hội đồng. Sau khi đối thủ chết thì tiếp theo sau là những cuộc trả thù tàn bạo lẫn nhau không bao giờ chấm dứt. Văn hóa Á Đông không có nhiều bao dung tha thứ.

Trẻ em xã hội Âu Mỹ thì bị tiêm nhiễm loại văn hóa đấu kiếm hay đọ súng tay đôi (duel). Hai đối thủ cùng bước rồi quay đầu trực diện bắn vào nhau vì danh dự của mình. Văn hóa Âu Mỹ là sự minh bạch và thẳng thắng. Người Mỹ không thích đánh lén và đánh hội đồng.

Khi tôi đi thăm Hà Nội gần cổ thành Thăng Long thấy có trưng bày chiếc máy bay trực thăng Chinook của VNCH. Sau đuôi máy bay lá cờ vàng 3 sọc đỏ có 2 gạch chéo lên. Sự trẻ thơ này đã làm tôi mỉm cười. Những người bạn Mỹ khi coi hình này cũng ngạc nhiên và mỉm cười.

Trả thù những cái không còn hiện hữu nữa không nói lên sức mạnh mà chỉ phô trương sự mặc cảm, nhỏ nhoi, và bất an của mình. Tương tự trường hợp làm khó dễ không cho cái va li nguyên tử đi tháp tùng Tổng Thống Hoa Kỳ hay bắt TT Obama chui ra cửa hậu máy bay.

Những đòn phép này chỉ nói lên nhân cách thiếu trưởng thành của người Cộng Sản Á châu.

CUỘC “BẮT CÓC” ĐẦU NĂM.

Hoa Kim Ngo is with Sương Quỳnh and 5 others.

CUỘC “BẮT CÓC” ĐẦU NĂM.

Hạ Đình Nguyên.

Bắc cóc là một từ phổ biến ở Việt Nam.

Nó không chỉ dành riêng cho giới giang hồ khốn khổ.

Nó có tổ chức và hành sự công khai, lại có tiếng vang tầm quốc tế. Nó đang là một biện pháp chính thức và hữu hiệu trong cách cai trị của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chuyện bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Đức là một điển hình lớn, nó đem lại tiếng tăm cho người cầm đầu đất nước, dù có gây nên cái nhìn kém văn minh và thiệt hại đến mấy trong bang giao quốc tế cũng không quan trọng, miễn là được việc của mình. Đó là cách nghĩ của người cầm đầu, thể hiện cái gọi là “bản lĩnh”.

Chuyện bắt cóc trong nước đối với công dân đã trở nên chuyện bình thường. Bắt cóc trẻ em, bắt cóc con gái, để tống tiền, hoặc để bán sang Trung Quốc, để buôn nội tạng…là cách của bọn giang hồ. Chúng hành sự lén lút, và bị nhân dân lên án, theo chuẩn mực đạo lý bình thường, có khi bị pháp luật trừng trị. Còn cách bắt cóc ngang nhiên, công khai, hợp với luật pháp xã hội chủ nghĩa, là một cách bắt cóc “có lý tưởng”…Ít ra, những người đang hành sự nghĩ thế. Họ đang bảo vệ chế độ. Nếu bạo lực đã tạo nên chế độ, thì bảo vệ chế độ cũng phải bằng bạo lực, cũng là hợp lý.

Sáng mồng một Tết, tôi thong thả mặc quần áo tươm tất, ăn vội bửa sáng, nhấp chút cà phê, chuẩn bị đi đến điểm hẹn – quán “cà phê Cộng”, gần tượng đài Trần Hưng Đạo. Dự định sẽ thắp hương ở đấy, để tưởng nhớ đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh, vì mai là ngày Trung quốc khởi đầu cuộc tấn công Việt Nam, với 60 vạn quân ào sang chém giết, tàn sát, đốt phá 6 tỉnh miền Bắc…Đứa cháu gái vội mách với tôi, có 3 an ninh và 3 chiếc gắn máy chắn ngang phía trước cổng nhà mình. Tôi nhìn ra, thấy đúng như vậy.

Tôi phân vân chẳng nên đi, thì cánh cửa sực mở, 2 người bước xộc vào, mấy con chó kêu lên phẫn nộ, chặn họ lại. Họ đứng lại. Tôi bước ra. Họ cất tiếng chào năm mới. Tôi nhả nhặn nói, xin lỗi, tôi không tiếp các anh, mong là các anh trở ra cho. Họ quay ra, tôi đóng chốt cửa.

Lòng tôi không vui, tự hỏi, vì sao họ có thể bất chấp mọi thứ, và có quyền làm mọi thứ?

Họ chà đạp mọi giá trị truyền thống dưới chân mình. Chuyện nầy không còn là chuyện nhỏ của riêng ai, nó bao trùm cả đất nước nầy lâu nay. Suy nghĩ một lát, tôi quyết định phải đi, thử một chuyến du xuân với chế độ. Tôi trèo rào, đi quanh vài khu vườn thì ra tới lộ. Tôi đón xe ôm. Chú tài chở tôi phom phom trên đường nhựa, phố xá thong dong sạch đẹp, rồi tôi đến được điểm hẹn ở trung tâm thành phố. Một số bạn đã có mặt, họ đã đến đây từ mỗi hoàn cảnh khác nhau, đều giống như những chuyện đùa. Tôi hỏi một em phục vụ quán. Sao gọi là quán “Cộng”, nó nghĩa là gì? Trả lời, là cộng lại, cọng thêm, để ngày càng đông, chứ không phải là trừ, nó sẽ ngày càng ít. À ra thế, thật nôm na đơn giản, thế mà tôi bị ám ảnh chữ “Cộng”, chứ nó tuyệt nhiên không liên quan gì đến cnxh hay ông Tổng Trọng. Các bạn tôi, đều nhẹ nhàng, vui vẻ, cho rằng đây là một cuộc xuất hành đầu năm có ý nghĩa, thay vì đi viếng mộ người thân, đi thăm ông bà, đến chùa thắp hương, thì đi viếng tượng đức Trần Hưng Đạo, người anh hùng dân tộc, chống Tàu xâm lược 3 lần đều thắng lợi vẻ vang, và nhắc lại sự kiện lịch sử năm 1979 không thể nào quên. Hàn huyên xong, nhóm người bắt đầu đi bộ đến tượng đài – cách chừng vài chục mét – tôi nán lại một khoảng cách, và đi sau cùng, dìu một lão đồng chí 82 tuổi băng qua đường. Những chiếc gắn máy chở hai, mặt bít kín khẩu trang, chạy lòng vòng một cách bất thường ở ngã ba, bổng áp sát bên tôi, nhảy xuống, nhanh chóng áp hai bên, đẩy tôi lên xe, cùng tiếng nói nhỏ rót vào tai, nhưng có âm sắc của một thứ mệnh lệnh lạnh lùng chứa đựng sự bất lương: “chú lên xe! lên xe!”. Người ngồi sau ôm cứng tôi như một kẻ bạo dâm. Chiếc xe chở 3, kẹp tôi ở giữa, không mũ bảo biểm, phóng trên con phố đông người, vượt cả đèn đỏ khi con lộ chưa kịp bị bít kín bởi dòng người. Và một chiếc nữa đi kèm sát. Lòng tôi bình thản, không gợn lên một ý tưởng hận thù hay bạo động nào. Nhìn sang anh đi kèm, anh ta lùn, lưng dài và chân thì rất ngắn, mang dép không quai sau, (trường học cấm học trò đi dép lê kiểu nầy), cái bộ dạng ấy hẳn là không đắt đào mấy. Anh chàng cầm lái ở xe tôi, và người ngồi sau ôm tôi, tôi đều không rõ mặt và hình dạng. Tôi hỏi, các anh ở cấp Thành hay Quận. Họ im lặng. Nhìn sang dòng xe đang chảy êm trên con phố đầy hoa xuân, thấy một đấng nữ nhi lướt xe qua, tôi nói, ô, ăn mặt rất đẹp, nhất là đôi chân, nhỉ?. Im lặng. Tôi biết hai anh ta đang gồng mình mác-lê trong lòng khi đang thi hành nhiệm vụ bắt cóc thiêng liêng. Có tiếng điện thoại reo, người ngồi sau nghe máy, trả lời vội vã “đang bận ôm hàng, đang bận ôm hàng”. Tôi là hàng hóa của nhóm anh ta sáng hôm nay. Một nghề bán buôn thật đặc biệt. Tôi nghĩ thầm, tụi nó chở mình về trụ sở công an nào đó, hoặc là chở về nhà, về đâu thì cũng vậy! Ta thuộc về cái lứa tuổi ông Trọng, cái tuổi ăn rồi mà nói chưa ăn ấy, chẳng sao cả!. Ta cũng đã một thời tuổi trẻ trôi theo giòng nước. Khoảng 50 năm trước, một lần bị tóm theo kiểu nầy, nhưng không thể gọi là bắt cóc. Người bắt ta có mang sắc phục cảnh sát hẳn hoi, xe cộ đàng hoàng, hú còi inh ã, đâu có thế nầy!. Có tiếng qua lại gì đó trên điện thoại, thì xe hướng về ngã cầu Bình Triệu. Có lẽ là chở về nhà, ta khỏi tiền một cuốc xe ôm. Đến ngã ba HB, xe rẽ trái, chạy ngược chiều 20 mét, quẹo trái vào hẻm, dừng lại trước cổng nhà, họ thật rành đường! Xuống xe, tôi nói, anh lấy khẩu trang ra chứ, để thế là không lịch sự. Lịch sự ra phết, họ gỡ ngay khẩu trang ra, và “cười”. Cái cười khó biết giả thật. Tôi thấy họ đều trẻ. Họ còn “chúc Tết” tôi nữa! Tôi không ngại khi họ dùng bạo lực với tôi lúc nảy, nay bỗng dưng kinh hãi về nụ cười kia và lời chúc Tết nọ. Chỉ 30 phút trước, họ không khác những tay chuyên trấn lột, một loại người có thể giết người, bây giờ thì họ giống người tử tế, ra vẻ hiền lành, lương thiện có dư. Làm sao họ có thể chứa cả hai điều mâu thuẩn ấy trong một con người, trong một khuông mặt, trong cái cười ghê răng ấy? Cách nay khá lâu, có một tu sĩ Tin Lành nói với tôi, trong đời chỉ có một trong hai loại, hoặc là thiên thần, hoặc là quỹ dữ, không thể có hai trong một. Tôi thì không đồng tình với niềm tin trên. Nhưng tôi biết, có sự tròng trành điên đảo giữa lương thiện và bất lương qua mỗi khoảnh khắc của đời người. Cái bất lương có thể ẩn trốn nhất thời trong lớp vỏ lương thiện để hành sự. Tôi biết họ bị che lấp, họ lớn lên và trưởng thành, trọn vẹn là sản phẩm đặc biệt được nhồi nặn riêng của một thời kỳ cũng đặc biệt, gọi tên là thời kỳ xã hội chủ nghĩa. Họ là một binh chủng riêng, là mũi nhọn, là tia chớp, là một loại công cụ rất đáng tư hào. Họ có nhiệm vụ rất trá ngụy – mà họ cho là thiêng liêng – là bảo vệ chế độ, là trung thành với “ở trên”. Một chế độ bí hiểm và lòng trung thành cũng bí hiểm nốt. Ở “trên” là trên nào, là những ai, rất nhiều và vô hình vô dạng. Họ né tránh nói đến con người cụ thể, dù họ rất mơ hồ. Họ có cái riêng để tôn thờ, để trung thành, để nhân danh, để tồn tại, không cần thiên thần hay qủy dữ, lương thiện hay vô lương, có thể gọi đó là một thứ Thượng Đế bí hiểm của riêng mình: “Thượng Đế xã hội chủ nghĩa”. Giáo sư Đào Công Tiến trong một bài viết mới đây, gọi chủ nghĩa ấy đã chết rồi mà chưa chịu chôn. Họ cùng nhau phục chế và nhang khói như kẻ giữ đền đề ăn oản. Nghệ thuật ăn oản cao đến mức không còn nghệ thuật, như chuyện đá bóng, đội U 23 giành được cúp Á quân, thì chủ nghĩa xã hội xun xoe xuất hiện náo nhiệt để ăn oản, trơ trẻn chường mặt che lấp hàng cầu thủ, nhưng nếu đội bóng thua thì chúng cũng vắng bóng.

Chuyện bắt cóc đầu năm là một thắng lợi vẻ vang trên đường phố của những thiên thần xhcn. Họ không học theo cách nghĩ của quán “Cà phê Cộng”. Họ đang xây những “Cà phê Trừ”. Trừ càng nhiều càng tốt, để chỉ giữ vai trò độc tôn trơ trụi của mình.

Con gái tôi nghe tin chuyện tôi bị bắt cóc, nó gọi điện và cười ngất: “Ba ơi, buồn cười quá!” nó lại tiếp tục cười nứt nẽ. Hỏi, sao buồn cười ?. Nó bảo, nầy nhé, ba như đứa trẻ choi choi, trốn nhà đi chơi, bị người ta bắt đưa về nhà…, sao không buồn cười được! Tôi hỏi, chỉ buồn cười thôi sao?. Nó bảo, biết rồi, họ làm chuyện kỳ cục, quá kỳ cục!. Con gái tôi thuộc loại thiên thần thật, cực kỳ lương thiện, ngôn ngữ nó chỉ chừng ấy. Nó không quan tâm chuyện chính trị. Nó không biết Thượng đế xhcn, nó không rõ Tổng Trọng là ai, bí thư thành ủy của thành phố mà nó đang sống có tên là gì. Nhưng nó biết khái quát nhà nước qua hình ảnh thu gọn, rất biểu trưng, chỉ như một khái niệm, là cảnh Công an nằm ngồi canh gác suốt đêm ngày trước cổng nhà, và hôm nay có bổ sung thêm một chút kiến thức về chuyện bắt cóc “buồn cười quá” hôm qua. Nó chỉ quan tâm chuyện giá cả ngoài chợ đang lên cao, chuyện chăm sóc vệ sinh cho mấy cháu nhỏ, và nhất là đề phòng chuyện “mẹ mìn” bắt cóc con nít.

Nó đột ngột chấm dứt đường dây nóng với tôi trước khi cúp máy: Ba ơi, con đi thay… bím cho em bé đã. Tôi hiểu, như vậy là nó chấm dứt hoàn toàn câu chuyện về các thứ đang diễn ra. Lành thay cho một công dân! Và cũng bi đát thay cho một xã hội!

Hôm nay, mồng ba Tết, nhóm quạ đen đã biến mất, 3 chiếc gắn máy chắn ngang trước cửa không còn, bầu trời trở lại trong xanh. Họ nghĩ là họ đã hoàn thành nhiệm vụ “trên giao”, và bày tỏ đủ sự trung thành nham nhở với “giáo chủ” của mình.

Tôi nhớ câu thơ của Bùi Minh Quốc, từng viết: “Một thời khốn nạn đã lên ngôi”

Mồng 3 Tết Con Chó Vàng. Năm thứ 7, Triều Nguyễn Phú Trọng.
HĐN.(19/2/2018)

Ý đảng vẫn luôn ngược với lòng dân!

Song Chi
2018-02-19
 

Người dân tưởng niệm cuộc chiến biên giới Việt Trung ở tượng đài Lý Thái Tổ tại Hà Nội ngày 17/2/2018

Người dân tưởng niệm cuộc chiến biên giới Việt Trung ở tượng đài Lý Thái Tổ tại Hà Nội ngày 17/2/2018

 Courtesy FB Nguyễn Thuý Hạnh
 

Chỉ trong vòng một tuần, trước và sau Tết Âm lịch Mậu Tuất 2018, có đến mấy sự kiện lịch sử mà qua đó, thái độ của nhà nước cộng sản VN thêm một lần nữa, đã tự bộc lộ họ là ai, những quan niệm về bạn-thù, sự đánh giá về lịch sử của họ có minh bạch, tiến bộ, thay đổi chút nào sau bao nhiêu năm và họ có lý do gì để tiếp tục lãnh đạo đất nước này, dân tộc này.

Sự kiện lịch sử thứ nhất là 50 năm biến cố Tết Mậu Thân 1968 mà nhà nước này bao lâu nay vẫn trí trá gọi tên là “Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968”. Đã nửa thế kỷ trôi qua, bao nhiêu tư liệu, thông tin của thời đại internet đã chứng minh cuộc tổng tấn công đó thực sự là thành công hay thất bại về mặt quân sự, mục tiêu, cái giá phải trả trên sinh mạng con người lẫn các cơ sở vật chất là quá đắt ra sao. Nghiêm trọng hơn, biến cố Mậu Thân luôn luôn để lại một ký ức kinh hoàng của một trong những trang sử đẫm máu nhất, man rợ nhất về cuộc thảm sát hàng ngàn thường dân tại Huế của phe tấn công hay phe “nổi dậy”. Cho dù nhờ những oái ăm, trớ trêu của lịch sử, mà sự thất bại nặng nề về quân sự đó cuối cùng lại biến thành sự “chiến thắng” về mặt chính trị cho Miền Bắc, dẫn đến sự chuyển hướng của cuộc chiến tranh và sự rút lui của Mỹ, bỏ rơi đồng minh VNCH về sau này, nhưng rõ ràng, đó vẫn là một sự kiện đẫm máu, một sự tráo trở, lừa dối, không chính danh đứng về phía đảng cộng sản.

Lẽ ra sau 50 năm, một quãng thời gian đủ dài để nhìn nhận lại, đánh giá lại lịch sử, nếu đảng cộng sản vẫn chưa đủ dũng cảm để công khai, minh bạch những sai lầm, tội ác cùa mình và có một thái độ thành khẩn sám hối trước nhân dân, trước lịch sử thỉ cũng không nên nhắc lại nhiều biến cố này. Vinh quang gì khi người Việt giết người Việt? Đàng này, “non sông dễ đổi, bản tính/ bản chất khó dời”, đảng và nhà nước cộng sản lại ra sức tổ chức kỷ niệm sự kiện Mậu Thân một cách rình rang, lịnh cho báo chí truyền thông tiếp tục dối trá, bóp méo lịch sử, tiếp tục “tẩy não” các thế hệ trẻ như họ đã làm bao năm qua, khoét sâu thêm vết thương chưa lành của bao nạn nhân cùng gia đình họ. Hệ quả là những nhân chứng, những người có lương tri lại buộc lòng phải lên tiếng. Sự chia rẽ trong lòng dân tộc lại trỗi dậy và lời kêu gọi hòa giải hòa hợp lậu nay từ phía đảng cộng sản, thêm một lần nữa cho thấy chỉ là đầu môi chót lưỡi, không bao giờ có thể thực hiện được.

Việc ăn mừng sự kiện Mậu Thân chứng tỏ đảng cộng sản hoàn toàn không thay đổi từ nhận thức đến thái độ, hành động và hoàn toàn “thất nhân tâm” đối với đại đa số người dân Việt ở cả hai miền, trong và ngoài nước.

Sự kiện lịch sử tiếp theo là ngày 17.2, đúng mùng hai Tết, là ngày tưởng niệm 39 năm nổ ra cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung-17.2.1979-17.2.2018, tuy ngắn ngủi nhưng tàn khốc, với sự dã man từ phía binh lính Trung Cộng khi quyết chí giết hại càng nhiều càng tốt dân Việt Nam, bất kể già trẻ lớn bé, quyết chí đốt sạch, phá sạch các cơ sở vật chất, trường học, nhà máy…tại những nơi mà chúng tấn công. Cuộc chiến tranh tuy trện danh nghĩa là kết thúc sau 1 tháng khi Trung Cộng tuyên bố rút quân, nhưng trên thực tế những xung đột giữa hai bên vẫn tiếp tục kéo dài cho đến tận năm 1988.

Thế nhưng, kể từ sau khi vội vàng xin “bình thường hóa quan hệ” giữa hai nước, đảng và nhà nước cộng sản hầu như không muốn nhắc đến cuộc chiến này. Trong nhiều năm báo chí truyền thông được lịnh “câm lặng”, sách giáo khoa bỏ trống những trang lịch sử bi hùng, những tấm bia, dấu tích cuộc chiến bị đục bỏ bớt chữ…Có một giai đoạn người dân chỉ cần lên tiếng “Hoàng Sa-Trường Sa là của VN” hay có những hành vi tưởng niệm cuộc chiến này và việc mất Hoàng Sa, Trường Sa là bị xách nhiễu đủ kiểu, và bị bắt vào tù. Mấy năm gần đây trước sự phẫn nộ của dư luận, báo chí đảng được phép có một số bài viết, sách giáo khoa có được chừng mươi dòng về cuộc chiến…

Nhưng nhà cầm quyền vẫn tìm mọi cách ngăn cấm sự biểu hiện lòng yêu nước của người dân. Chẳng hạn, những khu vực như phía trước tượng đài Lý Thái Tổ ở Hà Nội, nơi nhiều nhà hoạt động hay tổ chức tưởng niệm những sự kiện lịch sử này thì họ cho công nhân ra đục đá ầm ỹ hoặc cho người ra khiêu vũ để “chiếm chỗ”. Năm nay cũng vậy, họ lại cho một đám người ra dìu nhau khiêu vũ giữa ban ngày ban mặt!

Tất cả chỉ nhằm một mục đích ngăn chặn, bóp nghẹt lòng yêu nước, căm thù bọn giặc phương Bắc tàn ác, dã man của người Việt, và nhằm xóa mờ những ký ức về một giai đoạn lịch sử. Thật trái ngược với sự công khai, ầm ỹ ăn mừng năm nào cũng vậy đối với những gì liên quan đến cuộc chiến tranh chống Mỹ và VNCH. Và đó là chủ trương, chính sách xuyên suốt bao nhiêu năm nay không hề thay đổi của đảng cộng sản.

Đối với VNCH, cùng chung một giòng máu, chung một tổ tiên nguồn cội, chung một quê hương nhưng khác ý thức hệ, thì từ sau khi chiến thắng và cho tới tận bây giờ nhà cầm quyền vẫn luôn luôn đối xử vô cùng khắc nghiệt, nhỏ nhen. Từ cách đánh giá về chính quyền VNCH vẫn không thay đổi, nghĩa trang Biên Hòa của bao nhiêu binh lính MN vẫn bị bỏ hoang phế, những người thương phế binh VNCH với cuộc sống khổ cực lắt lay qua ngày nhưng nếu có các tổ chức thiện nguyện nào đó muốn tập họp gửi tặng họ chút quà để an ủi thì bị chính quyền địa phương ngăn trở, cấm đoán; bất cứ cái gì dính dáng tới chế độ VNCH từ một lá cờ hay bộ quân phục đều trở thành “điều cấm kỵ” mà người nào cầm, mang lá cờ ấy hay bộ quân phục ấy sẽ bị tống vào tủ như Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Viết Dũng tức “Dũng Phi Hổ” v.v…

Đối với Mỹ, mặc dù hai bên đã “bình thường hóa quan hệ” (năm 1995, mất hai mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc) nhưng mọi sự tiến triển đều rất chậm chạp, ù lì, khiến VN bỏ lỡ nhiều cơ hội trong việc thúc đẩy quan hệ giữa hai bên, vì quyền lợi của cả hai, nhất là của VN. Trong nhiều năm, đảng cộng sản tiếp tục chơi trò “đu dây” giữa Trung Quốc và Mỹ, cứ khi nào bị Bắc Kinh lấn lướt, thiệt hại quá thì VN lại quay sang ve vãn Hoa Kỳ, khi Bắc Kinh bớt hung hăng thì VN lại “nồng ấm” với họ, nhưng dù thế nào thì cũng vẫn không quên hàng năm tổ chức ăn mừng chiến thắng, lên án “giặc Mỹ”.

Chính sách “đu dây”, hai mặt đó của VN chỉ là trò khôn vặt, câu giờ và không có lợi gì cho dân tộc, cho đất nước, như chúng ta thấy. Không có một quốc gia nào thực sự tin tưởng vào một nhà cầm quyền không đáng tin như vậy. Và giờ đây, VN thực sự không có đồng minh trong khi Trung Cộng đã kịp trở nên hùng mạnh hơn rất nhiều về kinh tế lẫn quân sự và là mối đe dọa lớn nhất đối với chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải của VN, còn thế giới, từ Hoa Kỳ cho tới châu Âu thì chẳng còn quan tâm gì đến số phận của VN nữa!

Như đã nói, so với Mỹ và VNCH, chủ trương, chính sách của đảng cộng sản VN đối với Trung Cộng hoàn toàn khác. Dù bị Trung Cộng “dạy cho một bài học” về quận sự và vô số bài học về kinh tế, đảng cộng sản vẫn nhắm mắt quỵ lụy dựa vào Bắc Kinh hòng được yên thận và kéo dài tuổi thọ của chế độ. Các đời lãnh đạo cấp cao nhất của VN càng về sau càng trở nên hèn hạ, bạc nhược trước Bắc Kinh, và càng công khai rước voi về dày mả tổ, khi mở toang của rước giặc vào nhà trên mọi lĩnh vực, suốt từ Nam ra Bắc. Nhờ “công lao” của đảng cộng sản mà chưa bao giờ VN bị lún sâu đến thế trong mối quan hệ Việt-Trung bất xứng, đầy thiệt thòi và rủi ro này.

Sau hơn 40 năm, tin rằng đại đa số người VN không muốn khoét sâu thêm những vết thương của cuộc nội chiến, muốn lịch sử phải được viết lại một cách minh bạch, sự thật phải được trả lại để người Việt có thể học được những bài học đắt giá và tiến về phía trước. Đại đa số người dân Việt trong và ngoài nước muốn VN thay đổi theo xu hướng tự do dân chủ, bắt tay làm bạn, làm đồng minh với những cường quốc dân chủ, hùng mạnh trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…và hết sức thận trọng với Trung Quốc, từng bước tìm cách thoát ra khỏi sự kìm tỏa, chi phối, can thiệp quá sâu vào nội bộ chính trị cũng như lũng đoạn về kinh tế VN của Trung Cộng v.v..

Thì đảng và nhà nước cộng sản lại hoàn toàn làm ngược lại.

Ngay từ đầu, đảng cộng sản đã luôn luôn lựa chọn sai đường, sai đồng minh, nhầm lẫn bạn-thù, luôn luôn đặt quyền lợi của đảng lên trện hết, bất chấp lợi ích của đất nước, dân tộc.

Và cho đến tận bây giờ, ý đảng vẫn luôn luôn ngược với lòng dân.

Một đảng cầm quyền như vậy có lý do gì để vẫn tiếp tục là vật cản ngăn trở mọi sự thay đổi, phát triển theo chiều hướng tích cực, tốt đẹp hơn của VN?

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do

Đức Giêsu và sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa

Đức Giêsu và sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa

 (Bài 23)

  Tin Mừng Gioan

 Việc trình-bày Đức Giêsu theo ngôn-ngữ của khôn-ngoan còn đáng kể hơn lời gợi ý ở cuối sách Tân Ước, tức: Tin Mừng của ông Gioan.

Lời nói đầu ở Tin Mừng ông Gioan (có thể coi đây như có nguồn gốc rút từ các bài ca/vịnh tín-hữu thời đầu từng hát) và tác-giả Gioan lại đã áp-đặt vào đoạn đầu Tin Mừng do ông soạn.

Bài vịnh, được khởi đầu bằng những ý/lời mà mọi người đều đã gặp ở Thánh Kinh Do-thái-giáo (*44).

Như tôi có lần báo trước là sẽ thay thế tự-vựng Logos tiếng Hy-Lạp và tiếng Anh dịch thành “Word” và tiếng Việt là “Ngôi Lời” vỏn vẹn chỉ với chữ “Lời”, mà thôi.

“Lúc khởi đầu đã có Lời.
Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Lời là Thiên Chúa.
Lúc khởi đầu, Ngài vẫn hướng về Thiên Chúa.
Nhờ Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Ngài,
thì chẳng có gì được tạo thành.
Điều đã được tạo thành
nơi Ngài là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại…

Ngài ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Ngài mà có,
nhưng lại không nhận biết Ngài.

Lời đã trở nên người phàm
và cư-ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Ngài,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Ngài,
là Con Một đầy tràn ân-sủng và sự thật
.

(Ga 1: 1-4, 10, 14)

Điều quan trọng ở câu đầu Tin Mừng không phải để ta suy nghĩ về “Lời” hoặc “Logos” như để nói về Đức Giêsu, nếu hiểu Đức Giêsu đây là “Giêsu thành Nadarét”.

Đọc và hiểu đấy là “Đức Giêsu”, tức vô hình chung ta đã chịu ảnh-hưởng từ nền thần-học Kitô-giáo thời sau này, khi Giáo-hội nói về Ba Ngôi Đức Chúa qua cách sử-dụng các đại-danh-từ “giống đực” tiếng Hy-Lạp gốc và bản dịch tiếng Anh.

Nhưng, các đại-danh-từ giống đực được sử-dụng là bởi từ-vựng logos là danh-từ chung giống đực tiếng Hy Lạp, chứ không vì tự-vựng ấy qui về “Ngài” đây, là “Đức Giêsu”.

Ông Gioan không có ý nói: “Lúc khởi đầu đã có Đức Giêsu” như ta vẫn nghĩ rằng Đức Giêsu đã có đó vào buổi tạo-dựng trời đất. Đúng hơn, Lời ấy đã mặc xác phàm nơi Đức Giêsu  – nay được gọi là logos – có ở đó vào lúc tạo-dựng.

Chính logos này (chứ không phải Đức Giêsu) đã có đó với Thiên-Chúa và Thiên-Chúa (*46).   

Các học-giả lâu nay từng ghi nhận là có mối tương-quan gần-gũi giữa những điều do ông Gioan viết về “logos” và về Khôn ngoan Sophia trong truyền-thống Do-thái-giáo. Khôn ngoan Sophia từng có đó với Thiên-Chúa ngay từ buổi đầu đã năng-động thời tạo-dựng, và cũng có đó cả khi thế-giới gian-trần được tạo-thành nữa (*47).

Tính tương-đương có hoạt-động giữa logos và Khôn-ngoan Sophia cho thấy tính hợp-pháp thay thế Khôn ngoan Sophia bằng logos, “Khôn-ngoan” thay cho “Lời” ở phần mở đầu Tin Mừng Gioan. Thêm nữa, do bởi Sophia là danh-từ riêng giống cái ở tiếng Hy-Lạp, nên đại-danh-từ đây cũng trở-thành “giống cái”:

“Lúc khởi đầu đã có “Khôn ngoan”, và “Khôn-ngoan” ở nơi Thiên-Chúa, và Khôn-ngoan là Thiên-Chúa. Ngài đã có lúc khởi-nguyên nơi Thiên-Chúa. Mọi sự đã nhờ Ngài mà thành sự và không Ngài thì không gì thành sự.

Điều đã thành sự là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân-loại… Ngài có trong thế-gian và thế-gian đã nhờ Ngài mà được có

mà thế-gian đã không biết Ngài.”

Và rồi, đỉnh cao chót vót đã đạt được, khi Tin Mừng viết:

Và Khôn-ngoan đã thành xác-phàm và đã lưu-trú nơi chúng tôi.” (*49)

Đức Giêsu là sự việc Sophia thần thánh mặc lấy xác-phàm, Khôn-ngoan Sophia trở-thành xác-phàm.” (*50)

Bổ-sung các ảnh-hình Kitô-học   

Ta khám-phá ra vai-trò của Sophia coi như Khôn-ngoan trong truyền-thống Do-thái-giáo và cả trong Tân Ước, điều này mở ra một số sự việc.

Điều đó giúp ta thấy được sự cân-đối tuyệt đẹp giữa Đức Giêsu như Bậc Thày dạy Khôn-ngoan và ảnh-hình về Ngài trong phong-trào tín-hữu thời đầu như mối tương-quan mật-thiết với Khôn ngoan Sophia.

Bằng vào tư-cách của tiếng nói của Khôn-ngoan thay-thế,

Đức Giêsu cũng là tiếng giọng của Khôn ngoan Sophia nữa.

Điều này lại cũng giúp ta nhìn thoáng qua những gì có thể là môn Kitô-học sớm sủa nhất của tín-hữu thời tiên-khởi. (*51). Sử-dụng ngôn-ngữ của Khôn-ngoan Sophia để nói về Đức Giêsu sẽ đưa ta về lại với lớp vỏ bọc sớm-sủa nhất nơi truyền-thống đang khai-triển. Như ta đã thấy, điều này lại cũng trải rộng cùng khắp với truyền-thống. Theo Tin Mừng Nhất Lãm, cũng như lập-trường của ông Phaolô và Gioan cũng công-nhận rằng điều đã có đó nơi Đức Giêsu là Khôn ngoan Sophia của Thiên Chúa.

Quan-điểm này không chỉ là trọng-tâm ngôn-ngữ của Sophia trong việc hình-thành phong-trào đạo-giáo Đức Kitô thời sớm sủa nhất, nhưng còn là bổ-sung về phái-tính của các bộ môn Kitô-học nữa. Bởi, với Đạo Chúa thời đầu, thì Đức Giêsu là Người Con của Cha và là sự việc Sophia mặc lấy xác phàm làm người, là người con trẻ của Abba chí thân, và là con trẻ của Sophia. Hiểu biết như thế cũng giúp ta rất nhiều ở vào thời nhạy bén dâng cao để trở thành vấn-đề của ngôn-ngữ rất can-dự.

Lại nữa, điều này cũng nhấn mạnh sự việc có khả-năng diễn-đạt ngôn-từ Kitô-học nữa. Các hình-ảnh nhân rộng thành nhiều ấn-bản để nói về mối tương-quan giữa Đức Chúa với Thiên-Chúa (như logos, Sophia, Người Con, và các danh-hiệu khác phải làm cho rõ nghĩa để bảo rằng không một danh-hiệu nào được hiểu theo nghĩa đen triệt để hết. Chúng chỉ mang tính ẩn-dụ mà thôi.

Đây còn là điểm quan-trọng để hiểu được ngôn-ngữ Kitô-học đầy sủng-mộ do ảnh-hình bậc cha/chú tạo ra. Ngôn-từ Chúa Ba Ngôi và các công-thức kinh-kệ phụng-vụ nói về “Cha và Con” là dễ-dàng kiến-tạo nên cảm-giác nghĩ rằng đây là cung-cách do tín-hữu Đạo Chúa dứt khoát nói về Thiên-Chúa và Đức Giêsu, là như thế.

Thế nhưng, cũng là điều bổ-ích để nhận ra rằng ảnh-hình Cha và Con cũng phản-ánh sự thể về lề lối suy-tư về Ba Ngôi Đức Chúa có được định-hình trongvănhoá tộc-trưởng và tập-trung phụ-hệ. Nhằm giúp ta có thể tưởng-tượng điều này là lúc Ba Ngôi Đức Chúa trở-thành công-thức trong nền văn-hoá mẫu-hệ,Đức Giêsu vẫn được gọi là “người con”, nhưng ta đều đoan-chắc rằng mọi người nói về Ngài trước nhất như Người Con của Cha vậy (*52).

Thành thử, đây không là trường-hợp để ta nói lên rằng Đức Giêsu làNgười Con của Thiên-Chúa hiểu theo nghĩa đen, dù Ngài vẫn được nói đến theo nhiều cách khác nữa, như Khôn ngoan Sophia của Thiên Chúa. Thật ra thì, cả hai điều đó đều mang tính ẩn-dụ hết.

Mẫu số chung ở cả hai trường-hợp, đó là: cả hai cùng nói về Đức Giêsu như Đấng có tương-quan mật-thiết với Thiên-Chúa đậm đà và sâu-sắc đến độ Ngài còn được gọi là người con của Abba  và là người con của Khôn ngoan SophiaTa không hề biết và không thể hiểu làm sao mà kiểu nói này có thể bắt đầu nói ra được cả vào lúc Đức Giêsu còn sống, hoặc làm sao các hình-ảnh như thế lại hiện-diện trong tâm-thức của chính Ngài được.

Quả nhiên, thật là điều hợp lý để thấy được sự liên-kết giữa ngôn-từ này và những gì ta có thể giả-định về kinh-nghiệm Ngài từng trải. Tính mật-thiết của các ẩn-dụ lại cũng kiên-định trong việc nhìn nhận Đức Giêsu-trước-ngày-Phục-Sinhnhư một nhân-vật đầy tính linh-thiêng, thần-khí.

Là Đấng hiểu/biết rõ Thần Khí Chúa, Đức Giêsu có lẽ cũng đã suy-tưởng và/hoặc trải-nghiệm Thần Khí như Abba và Sophia.

Thế nhưng, thêm vào đó, vấn-đề là:

Ngài có nghĩ về chính mình Ngài như “người con” (theo nghĩa đặc biệt) của Đấng mà Ngài gọi là Abba không?

Đức Giêsu có nghĩ về chính mình Ngài như con trẻ hoặc như người đại-diện của Sophia thần thánh không?

Bằng vào bản-chất của các nguồn ta đạt được, bản thân tôi thấy cũng khó mà tưởng-tượng nổi để có thể phán-đoán về tính khả-thi lịch-sử ta đạt được trong vấn-đề đặc-biệt này (*53).

Cho dù ta không thể biết được là các ảnh-hỉnh này là một phần trong việc Đức Giêsu tự biết về Ngài, có điều thấy rõ rằng việc tượng-hình ra Đức Giêsu như “người Con của Chúa” và như “Khôn-ngoan của Thiên-Chúa” lại có trong giai tầng cổ xưa nhất thuộc truyền-thống phát-triển nên phong-trào tín-hữu thời đầu được.

Thành thử, hỏi rằng các hình-ảnh đây có cho ta biết bất cứ thứ gì về nhận-thức của Đức Giêsu, thì các hình-ảnh ấy sẽ giúp ta tiếp-cận với tầng/lớp sớm nhất của tiến-trình thành-hình môn Kitô ở cộng-đoàn để thiết-lập và suy-tư không?

Có điều đáng nể là, hình-tượng “người Con của Chúa” và “Sophia của Thiên-Chúa cả hai đều gặp thấy ở giai-đoạn mới sớm này.

Sự hiện-hữu của bộ môn Kitô-học bàn về “người con” và “Sophia của Thiên-Chúa” trong cao-trào mới sớm của tín-hữu Đức Kitô đã ảnh-hưởng lên ảnh-hình bình-dị của Đức Giêsu, Đấng mà ta từng gặp vào lúc trước.

Sự hiện-hữu của các hình-ảnh này lại đã đưa ta hướng về việc bổ sung phái-tính khi suy-tư về Đức Giêsu, là điều còn rất mới đôi với nhiều người.

Vượt ra ngoài những chuyện như thế, các ảnh-hình này lại cũng chuyển-đổi lối suy-tư Kitô-học ra khỏi khuôn-khổ văn-chương chữ nghĩa vẫn thường song hành với hình-tượng của người dân thường vốn có trong đầu. Việc nhân rộng ảnh-hình Kitô-học thời ban đầu như –“người con” và “khôn-ngoan” và các thứ khác–  lại đưa ta vào nhận-thức hiểu rằng đây chỉ mang tính ẩn-dụ mà thôi.  

Hiểu biết này đã lật đổ cảm-giác thông thường vẫn nghĩ rằng niềm tin của tín-hữu Đức Kitô                 

Lại cũng kéo theo niềm tin cho rằng Đức Giêsu thực sự là “người Con của Chúa” hiểu theo nghĩa đen. Đây là một lật đổ giúp ta cũng rất nhiều.

Việc hiểu cụm-từ “người Con của Chúa” hoàn toàn theo nghĩa đen lại đã khép chặt tầm hiểu biết của ta về Kitô-học bằng cách chỉ mở ra có một ảnh-hình ưu-tiên làm tiêu biểu, thôi. Thật ra, cũng khó mà tin như thế, một phần do bởi tính-chất không chắc-chắn khi ta khẳng-định rằng Đức Giêsu là người Con của Chúa, hiểu theo nghĩa đen.

Thế nhưng, khi “người Con của Chúa” khi được coi như một trong các ẩn-dụ, thì ẩn-dụ ấy cũng mở ra khả-năng hiểu biết một cách phong-phú hơn ý-nghĩa về Đức Giêsu như Đấng từng trải-nghiệm và diễn-tả vào thời tiên-khởi.

Vấn đề là, một khi ta không còn tin rằng Đức Giê-su thật sự là “người Con của Chúa” theo nghĩa đen, nhưng lại cảm-kích ý-nghĩa giàu có do có nhiều hình ảnh mang tính Kitô-học được nhân rộng.

Ngài là “người Con của Chúa”. Vâng đúng là như thế.

Nhưng, Ngài còn là Lời mặc lấy xác phàm đồng thời là Khôn-ngoan của Chúa.

Quả có thế, Đức Giêsu đích-thực là “người Con của Chúa”,

là logos của Thiên-Chúa

và là Khôn ngoan Sophia của Thiên-Chúa, nữa (*54).

                                                                                                (còn tiếp)

 

Gs Marcus J Borg biên-soạn

Mai Tá lược-dịch.    

Tamlinhvaodoi gởi        

ĐẦU NĂM TẠ ƠN VÀ KHÁM PHÁ

ĐẦU NĂM TẠ ƠN VÀ KHÁM PHÁ

 Đầu năm là mốc thời gian trọng đại.  Dịp này, con cái Chúa hướng lòng về Cha trên trời.  Một việc không thể thiếu là tạ ơn Cha.

Trong tâm tình tạ ơn thường có cảm nhận tình thương của Chúa.  Cảm nhận sẽ trở thành khám phá, khi linh hồn được đưa vào một cõi tình yêu mênh mông êm đềm, mà Chúa dành riêng cho họ.

  1. Bài học tạ ơn và khám phá

Khám phá riêng tư ấy không luôn xảy ra trong việc tạ ơn.  Khám phá đó là do Chúa ban.  Không phải bất cứ ai cũng được ơn riêng ấy.  Vậy những người được Chúa ban ơn đặc biệt đó là ai?  Chúng ta tìm được câu đáp ở lời sau đây của Chúa Giêsu: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần thúc đẩy, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: ‘Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn.  Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha’” (Lc 10,21).

 Như vậy, những người được Chúa ban ơn khám phá thấy tình xót thương Chúa chính là những kẻ bé mọn.  Để hiểu thế nào là kẻ bé mọn, mà Chúa Giêsu đề cao ở đây, trước hết chúng ta nên đọc lại đoạn Phúc Âm sau đây:

 “Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: ‘Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con’, Chúa Giêsu bảo các ông: ‘Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống.  Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp trên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em.  Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời’” (Lc 10,17-20).

 Đoạn Phúc Âm trên đây cho chúng ta thấy: Những kẻ bé mọn Chúa Giêsu muốn đề cao chính là nhóm Bảy Mươi Hai.  Họ đã được Chúa sai đi.  Họ đã đến với những người nghèo hèn, cùng khổ để tiếp cận, để cứu giúp, để loan báo Tin Mừng, để giúp sám hối, để xua đuổi quỷ dữ.  Họ làm những việc bác ái đó nhân danh Chúa Giêsu với nhận thức tự mình chẳng có gì.  Đang khi họ vui mừng vì những thành công đó, Chúa Giêsu đã cho họ khám phá thấy tình xót thương Chúa dành cho họ còn cao quý hơn nhiều, đó là tên họ được ghi trên trời.  Nói tóm lại, nhóm Bảy Mươi Hai được Chúa Giêsu gọi là những kẻ bé mọn, vì hai lý do:

Họ đã đến với những kẻ nghèo hèn, cùng khổ, để cứu giúp và chia sẻ.  Họ khiêm tốn trở thành bé mọn với bất cứ kẻ bé mọn nào.  Họ khiêm tốn nhận mình đã cho đi những gì mình đã nhận từ lòng xót thương Chúa.  Họ chỉ làm theo ý Chúa và nhân danh Chúa, Đấng đã sai họ đi.  Họ luôn bé mọn, nghèo khó.

 Chúa dạy họ không nên vui vì những thành công trước mắt, nhưng hãy vui vì phần thưởng cao quý Chúa dành riêng cho họ, đó là tên họ được ghi trên trời.  Nghĩa là họ được Chúa cứu độ, được Chúa thánh hoá, được Chúa tuyển chọn.  Khám phá đó sẽ cho họ thấy tình thương Chúa là vô biên, vô bờ, đem lại cho họ sự bình an và hạnh phúc đời đời, không gì sánh kịp.  Chúa Giêsu đã hớn hở vui mừng tạ ơn Đức Chúa Cha, vì những lạ lùng đã xảy ra cho những kẻ bé mọn.  “Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì… đã mạc khải những điều này cho những kẻ bé mọn” 

  1. Thực hiện bài học tạ ơn và khám phá

 Những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm trên đây, nên được coi là bài học quý giá cho chúng ta mọi ngày, nhất là những dịp tạ ơn Chúa.  Bài học đó có thể thực hiện bằng những việc sau đây:

 Chúng ta khiêm tốn nhận mình hèn mọn, yếu đuối, bé nhỏ.  Nếu ta có điều gì tốt, làm được việc gì lành, thì đều do Chúa ban ơn.  Chúng ta khiêm tốn cầu xin Chúa giúp chúng ta khám phá ra những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta.  Tôi được Chúa ban ơn trở về, tôi được Chúa cứu độ, tôi được Chúa kêu gọi, tôi được Chúa tha thứ, tôi được Chúa sai đi, tôi được Chúa ban ơn chia sẻ tình Chúa cho người khác, tôi được Chúa yêu thương đặc biệt.

 Chúng ta khiêm tốn vui mừng trong tình yêu của Chúa, theo gương Chúa và Đức Mẹ.  Chúa Giêsu “hớn hở vui mừng, ca ngợi Chúa Cha.”  Tình cảm đó cũng được thấy nơi Đức Mẹ Maria, khi Mẹ đi viếng thăm bà chị họ Isave.  Mẹ đã khám phá thấy tình Chúa xót thương Mẹ là hết sức lạ lùng, nên lòng Mẹ trào dâng lên những lời cảm tạ đầy hớn hở, vui mừng, ca ngợi Chúa: “Linh hồn tôi tung hô Chúa.”  Tình cảm vui mừng cảm tạ Chúa có hương sắc thiêng liêng siêu thoát, có sức nâng tâm hồn lên với Chúa.  Không một chút vẩn đục bởi bất cứ tư tưởng thế tục nào.  Chúng ta khiêm tốn để lòng mình nghỉ ngơi trong sự chiêm niệm ngắm nhìn Chúa, với hết lòng tin tưởng phó thác nơi Chúa.  Chúa là nguồn mọi sự tốt lành.  Chúa là cùng đích cuộc đời của ta.

  1.  Tỉnh thức trong tạ ơn và khám phá

Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy tỉnh thức mà cầu nguyện và tạ ơn” (Cl 4,2).  Lời khuyên trên đây của thánh Tông đồ nên được áp dụng thường xuyên trong tạ ơn và khám phá.

 Trước hết, cần tỉnh thức về phương diện khiêm tốn.  Khiêm tốn thực chất, khiêm tốn luôn luôn, khiêm tốn trong mọi sự.  Có thể nói, cái làm cho việc tạ ơn và khám phá đẹp lòng Chúa chính là sự khiêm tốn.  Đức Mẹ Maria suốt đời khiêm tốn, nên suốt đời Mẹ là lễ tạ ơn và khám phá tình xót thương của Chúa.

Khiêm tốn, nên luôn giữ tự do tâm hồn.  Tỉnh thức không để mình bị áp lực do bất cứ quyền lực nào của ma quỷ, thế gian và xác thịt.  Tâm hồn nhờ vậy sẽ rất nhẹ nhàng vâng phục thánh ý Chúa.  Thánh ý Chúa là muốn chúng ta sẵn sàng phục vụ.

 Vì thế, cũng cần tỉnh thức trong việc phục vụ.  Mỗi nơi ta ở, mỗi thời ta sống, đều có những dấu chỉ về thánh ý Chúa.  Ta sẽ nghe được tiếng gọi của Chúa trong các dấu chỉ đó, để phục vụ.  Không thể tạ ơn, nếu phục vụ sai thánh ý Chúa. 

Nhờ tỉnh thức, chúng ta sẽ khám phá thấy tình Chúa thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta sống trong muôn vàn đau khổ.  Trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, chúng ta cũng sẽ khám phá thấy Chúa ban cho chúng ta vẫn có khả năng phục vụ các linh hồn bằng nhiều cách hiệu nghiệm.

 Nếu không tỉnh thức, việc gọi là tạ ơn Chúa có thể sẽ trở thành dịp phô trương cái tôi, và việc gọi là khám phá tình yêu Chúa cũng dễ là dịp khoe khoang thành tích.  Tệ hại nhất là vô ơn và lạm dụng ơn Chúa cũng như danh  nghĩa Chúa.

 Cúi xin Mẹ Maria thương giúp chúng ta biết noi gương Mẹ mà tạ ơn Chúa và khám phá tình Chúa xót thương.

 ĐGM GB. Bùi Tuần

Langthangchieutim gởi

ĐỌC PHÁT NGÔN BIẾT TƯ CÁCH

V Phung Phung shared Nguyễn Vô‘s post.
 
Image may contain: one or more people, eyeglasses and text

Nguyễn Vô added a new photo to the album: ĐỌC PHÁT NGÔN BIẾT TƯ CÁCH.

ĐỌC PHÁT NGÔN BIẾT TƯ CÁCH

BÀI 019: NHÀ BÁO HỮU THỌ

Anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường đợi đến gần hết cuộc đời mới giãi bày và xin lỗi nhân dân Huế về vụ thảm sát năm Mậu Thân. Còn ông Nhà Báo Hữu Thọ cũng vội bộc bạch tâm sự cùng nhân dân ta! Thôi kệ muộn còn hơn không!  

Hội chứng ếch luộc, chúng ta đang bị “nấu chín” mà không hay biết!

Hi chng ếch luc, chúng ta đang b “nu chín” mà không hay biết!

Nếu thứ gì đó không gây chết người ngay khi tiếp xúc, chúng ta thường cho rằng nó không có gì đáng ngại. Chúng ta thiết lập liều lượng “an toàn” cho các chất độc khác nhau dù đó là trong thực phẩm, nước uống, các chất ô nhiễm môi trường hay trong cả vắc-xin nữa.

Rốt cuộc, nếu lượng chất độc không đủ để phá hủy sức khỏe chúng ta trong vài phút, thì có nghĩa là sẽ không có vấn đề gì, phải vậy không? Nếu bạn đồng ý với quan điểm này, thì bạn sẽ dễ dàng trở thành một nạn nhân nữa của “hội chứng ếch luộc”.

 

Hội chứng ếch luộc là gì?

Khá đơn giản, nó dựa trên giả thuyết rằng nếu một con ếch được quẳng vào nước sôi, nó sẽ cố nhảy ra ngay lập tức, nhưng nếu bạn cho nó vào nồi nước lạnh và đun nóng lên từ từ, nó sẽ không nhận ra sự nguy hiểm và sẽ bị nấu đến chết.

Một số người cảm thấy rằng điều này không đúng nếu nhìn từ góc độ khoa học. Tuy nhiên, đã có những thí nghiệm chứng minh rằng khái niệm này rất đáng lưu tâm và có cơ chế rất khó nhận ra:

“Goltz đã tăng nhiệt độ nước từ 17.5 °C đến 56 °C trong 10 phút, tương đương 3.8°C/phút, trong thí nghiệm của ông con ếch nhanh chóng cố gắng tìm cách để trốn thoát. Trong khi đó, Heinzmann đã làm nóng những con ếch từ 21 °C to 37.5 °C trong 90 phút, mỗi phút tăng lên 0,2°C. Một nguồn dữ liệu khác từ năm 1897 nói “trong một thí nghiệm nhiệt độ được tăng lên 0.002°C mỗi giây, và con ếch đã chết sau 2,5 giờ mà không có phản ứng gì.”

Năm 1888 William Thompson Sedwikch đã giải thích sự mâu thuẫn giữa các kết quả thí nghiệm thu được là do tốc độ tăng nhiệt khác nhau trong các thử nghiệm này:

“Sự thật là nếu nhiệt độ được tăng lên một cách từ từ, thì một con ếch bình thường sẽ không có phản ứng nào; nhưng nếu nhiệt độ tăng lên nhanh hơn, nhưng vẫn đủ để được gọi là tăng lên một cách từ từ, thì không có gì đảm bảo là con ếch sẽ ngồi yên.”

Cho dù tính khoa học của hội chứng ếch luộc là như thế nào, thì câu chuyện này vẫn có tác dụng cảnh tỉnh về các vấn đề sức khỏe trong xã hội ngày nay.

Từ từ, nhưng chắc chắn, chúng ta bị đầu độc từ nhiều phương diện một cách liên tục mỗi ngày. Tuy nhiên, nó rất từ từ nên có ít người hiểu được mức độ nguy hiểm thực sự.

Chúng ta trở nên yên tâm với các liều lượng an toàn và tiêu chuẩn giới hạn mà các cơ quan chính phủ hay cơ quan chức năng cung cấp, và tin một cách sai lầm rằng chúng ta đang ở trong các giới hạn và như vậy sức khỏe của mình hoàn toàn không bị ảnh hưởng xấu gì.

>> Xã hội ta đang sống không cho phép ta được chọn “không biết”

Xin chào, chú ếch luộc!

Sự thật là hàng ngày chúng ta phải nạp vào cơ thể nhiều loại hóa chất từ thực phẩm, không khí, nước, các sản phẩm chăm sóc cơ thể, các đồ gia dụng, đồ nội thất, các công cụ, kết hợp với chế độ ăn nghèo nàn dinh dưỡng vì những thực phẩm “chết” do đã qua chế biến công nghiệp. Rốt cuộc, chúng ta đang tạo ra một cái chết từ từ cho những tế bào trong cơ thể mình. Điều này trực tiếp dẫn đến sự lão hóa sớm, bệnh tật các loại và các hình thức tổn thương khác trên cơ thể.

Một cơ thể với các chức năng khỏe mạnh có thể loại bỏ nhiều loại độc tố khác nhau nhưng chỉ trong điều kiện tối ưu và trong một môi trường hoàn hảo không bị ô nhiễm. (Olga_Danylenko/iStock)
Một cơ thể với các chức năng khỏe mạnh có thể loại bỏ nhiều loại độc tố khác nhau nhưng chỉ trong điều kiện tối ưu và trong một môi trường hoàn hảo không bị ô nhiễm. (Olga Danylenko/iStock)

Hầu hết mọi người gọi nó là “bệnh tuổi già”. Còn tôi gọi nó là“ngày càng bị nhiễm độc và suy dinh dưỡng”. Cách hiểu này có sự khác biệt rất lớn.

Xem xét thực tế sẽ thấy rằng, hầu hết mọi người cảm thấy mình già hơn khi ở ngưỡng tuổi từ giữa cho tới cuối những năm tuổi 30. Tức là bạn đã có mặt trên trái đất này khoảng 12.000 ngày, và tiếp xúc với vô số hóa chất độc hại từ nhiều nguồn, một số thì độc hại hơn những thứ khác (như các sản phẩm chứa thủy ngân và vắc-xin). Nhưng các bác sĩ hay các dược sĩ sẽ khiến bạn tin rằng một lượng phơi nhiễm “thấp”, và do đó nó “an toàn”, không việc gì phải lo lắng. Họ không quan tâm đến việc chúng được tích lũy trong cơ thể. Họ nói rằng cơ thể của bạn có thể đào thải chúng.

Đúng là một cơ thể với các chức năng khỏe mạnh có thể loại bỏ nhiều loại độc tố khác nhau NẾU ở trong điều kiện tối ưu và NẾU chúng ta sống trong một môi trường tương đối lành mạnh. Đáng buồn thay, ngày nay cả hai điều này đều là trường hợp QUÁ HIẾM HOI, và chức năng gan của bạn trở nên thực sự bị tổn thương.

>> Bạn có thể làm theo những người sống thọ nhất thế giới này không?

Rồi một ngày nào đó, bạn phát hiện mình bị bệnh

Ung thư, viêm khớp, dị ứng, suy nhược tuyến giáp, đau cơ do xơ hóa, IBS (hội chứng ruột kích thích) và hàng ngàn các thể loại bệnh khác nữa… Chúng như từ trên trời rơi xuống bạn vậy, hoặc dường như vậy. Bạn không hít phải sơn có nhiễm chì, không hút thuốc, không uống quá nhiều rượu bia cùng một lúc. Bạn đã không nhiễm độc tố nào quá ngưỡng an toàn, và đáng lý ra tất cả phải ổn chứ?

 

Nhưng, xin lỗi bạn, chính sự dối trá đã tàn phá sức khỏe của rất nhiều người

Thực tế là cơ thể bạn bị ngấm độc một cách từ từ qua thực phẩm, không khí, nước và các sản phẩm chăm sóc cơ thể, cùng với sự thiếu hụt dinh dưỡng do các thực phẩm nghèo nàn dinh dưỡng, chúng đang dần dần phá hủy cơ thể bạn. Lệ thuộc vào các đơn thuốc, các ca phẫu thuật và các quá trình điều trị y tế khác, bạn sẽ thấy mình phải chịu các vấn đề sức khỏe ở độ tuổi khá sớm, và bạn đang nhanh chóng tiến đến những năm dài của sự đau khổ và chất lượng cuộc sống giảm sút.

Bạn và những người trong gia đình xứng đáng có một cuộc sống tốt hơn, nhưng nó sẽ không xảy ra nếu bạn lờ đi cảnh báo này. Bạn sẽ kết thúc với các vấn đề về sức khỏe giống như người khác, và con cái bạn cũng vậy. Trong rất nhiều trường hợp, cha mẹ qua đời sớm bỏ lại con trẻ, và bạn không thể có cơ hội thứ hai với chúng.

Đó chắc chắn không phải là một gia sản mà bạn muốn để lại. Đừng lờ đi khi nhiệt độ trong nồi nước bị tăng lên, bởi khi đó bạn đang tiến một bước gần hơn đến bệnh tật và một cái chết không báo trước.

Sau Một Cuộc Chiến

Sau Một Cuộc Chiến

18/02/2018

Vi Anh

Tố Hữu, người làm thơ chuyên ca tụng CS mà CS Bắc Việt tôn là ‘thi bá’ có câu hận thù không đội trời chung với quân dân cán chính VNCH, là “Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”.

Hơn 42 năm chiến tranh chấm dứt, CS Bắc Việt chiếm cả hai miền, mà CS vẫn còn thù quân nhân Việt Nam Cộng hoà, người chết lẫn người sống. CSVN vẫn nhốt hương hồn tử sĩ quân nhân VNCH trong Nghĩa trang Quân đội Biên hoà với tường rào, trạm gác, cổng đóng, bỏ hoang tàn bên trong,  không cho thân nhân vào sửa sang mồ mả, không cho vào viếng thăm thắp nén nhang tưởng niệm. Nhơn dịp Tết là cơ hội người dân Việt theo phong tục đi tảo mộ, viếng mộ, xin phép nhắc lại một số thông tin nghị luận khả tín chứng tỏ CSVN cố ý làm cho Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà của Việt Nam Cộng hoà điêu tàn.

 Phóng sự của VOA ngày 20.01.2017: Thăm nghĩa trang Biên Hòa, bị công an hạch hỏi. Công an Việt Nam câu lưu một số nhà vận động nhân quyền trong 2 giờ khi họ đến thắp hương viếng mộ các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tại nghĩa trang Biên Hòa hôm 17/1 vừa qua. Ông Đức nói khách thắp hương tưởng niệm các chiến sĩ VNCH trong sự rình rập, giám sát của cả an ninh thường phục lẫn sắc phục. Sau khi viếng xong thì khách bị bao vây, ông Trương Minh Đức cho biết: “Rất là nhiều công an mật vụ, thường phục có, sắc phục có, trên 20 người, bao vây chúng tôi. Họ bế cổng lại, không cho chúng tôi ra. Họ bảo vào làm việc với họ. Họ giữ chúng tôi lại trong 2 tiếng đồng hồ. Rất nhiều lực lượng cơ động, thậm chí xe mô tô của cảnh sát giao thông cũng vào nghĩa trang thì chúng tôi cũng không biết họ làm cái trò gì nữa.”

 “Luật sư Lê Công Định, người có mặt trong nhóm viếng nghĩa trang chia sẻ trên Facebook: “Con đường dẫn đến Nghĩa trang Bình An được cố tình đặt tên là ’30 tháng 4′. Chắc ai cũng có thể hiểu rõ tâm ý và ngụ ý phía sau cách đặt tên như vậy. Đây có lẽ là nghĩa trang duy nhất mà ai đến viếng mộ phần bên trong đều phải khai rõ họ tên, số căn cước, địa chỉ cư trú trong một quyển sổ gọi là “Bảng ghi nhận thông tin vào khu vực Nghĩa trang nhân dân Bình An”.

“Theo Luật sư Định, khách đến viếng đều bị một lực lượng an ninh chìm đông đảo theo sát. Anh Định viết: “Chúng tôi đến viếng nghĩa trang binh sĩ VNCH vừa để tưởng niệm ngày Hoàng Sa bị Trung Cộng xâm chiếm, vừa hương khói ngày Tết cho người nằm xuống vì quốc gia. Cá nhân tôi muốn tự mình đánh giá xem nhà cầm quyền thực tâm hoà giải dân tộc thế nào và có đúng như họ tuyên truyền hay không?”

“Thái độ thù hằn dành cho chúng tôi và hành động giữ người trái luật của họ sáng nay đã gửi ra một thông điệp rõ ràng là không hoà giải gì cả. Điều này thật đáng tiếc và tôi vô cùng thất vọng trước chính sách hai mặt này của các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam”, luật sư Định viết.

Phóng sự VOA ngày 24.01.2016: “Đất nghĩa trang từ 125 mẫu nay chỉ còn 29 mẫu mà thôi. Có hai gia đình chiếm ngụ còn ở trong nghĩa trang mà chính quyền Bình Dương cũng chưa trục xuất họ ra được. Họ đập luôn tường ngay cổng ra vào và cất cả chuồng bò ngay trong nghĩa trang”… việc trùng tu “lâu nay được thực hiện mang tính cách cá nhân, rải rác, ‘đắp vá tạm thời’ trong khi càng ngày càng có nhiều ngôi mộ có nguy cơ mất dấu… Anh Phạm Văn Lộc, em ruột chuẩn úy Phạm Văn Sỹ tử trận ngày 3/4/1975, cho biết [VOA lấy làm câu tóm lượt] “Những phần mộ chưa trùng tu xuống cấp rất trầm trọng. Đa số trong đó bị mất bia mộ rất nhiều. Có những phần mộ nếu trùng tu không kịp sẽ bị mất dạng luôn.”

Phóng sự của RFA, ngày 7 tháng 8,năm 2015, Thanh Trúc, phóng viên RFA phỏng vấn: Thưa ông dân biểu Lowenthal, khi ghé thăm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, nay là nghĩa trang Bình An, ông có nhìn thấy tình trạng hoang tàn đổ nát nơi đó như trong những bức ảnh mà VAF đã chụp và đưa cho ông coi?

“DB Lowenthal: Đúng là rất khó để tìm thấy cái mình muốn thấy, nhưng cũng dễ dàng nhận ra là nơi đó chẳng có ai quan tâm, chẳng có ai chăm sóc. Tôi nghĩ nếu được trùng tu thì đây là một nơi đáng cho những người trở về đến viếng thăm và cho họ cái cảm giác được chào đón trở lại. Đáng tiếc chính phủ Việt Nam không muốn thực hiện nghĩa cử đó, không muốn chứng tỏ thiện chí cởi mở, thay đổi tư duy trong việc tôn trọng nhân quyền của người đã chết qua việc cho VAF quyền được trùng tu nghĩa trang này một cách chính thức…”. “Các viên chức chính phủ đều nói sẽ làm nhưng họ đã không giữ lời hứa…

Câu tóm lượt của phóng sự: “Theo tôi thì chính quyền địa phương Bình Dương không có thiện chí và không cho phép thực hiện một công việc vừa nhân đạo vừa có tính cách hàn gắn những vết thương chiến tranh còn tồn tại đến giờ. – DB Lowenthal.

Năm 2005 ký sự của một du khách Mỹ muốn viếng Nghĩa trang Quân Đội VNCH ở Biên Hoà mà không vào được. Sau đây là một đoạn nhật ký của Maggy Sterner trong Vietnam Dairy 4: Honoring the Dead  ngày 15/7/2005, sau khi ghé mà không được vào viếng để tôn vinh tử sĩ trong Nghĩa Trang Quân Đội Biên hòa. Người Mỹ này đi với con, sau khi quan sát từ ngoài có một câu hỏi: “Is this a prison for ghosts?” (đây phải chăng là trại giam những vong hồn [tử sĩ VNCH]?).

Câu hỏi đó là câu kết luận của đoạn nhựt ký của Ông như sau: “Cách một khoảng ngắn trên xa lộ đi về hướng bắc, chúng tôi gặp nghĩa trang quốc gia của quân đội Miền Nam VN, gọi là Nghĩa Trang Biên Hoà. Có một thời, đây là một nghĩa trang lớn nhứt của Nam VN. Bây giờ nó bị bao bọc bởi một tường rào cháy nám, bên trên là những vòng kẽm gai và nhiều tháp canh gác. Ngay đối với ngôi nhà mồ trên đồi, nơi người ta thường bắt đầu bày tỏ sự chào kính, cũng bị cấm. Sát bên cạnh nghĩa trang, chúng tôi thấy những tân binh của bộ đội mới của VN đang giặt đồ và trồng rau. Tại sao cần quá nhiều quân nhân ở một địa điểm như thế này? Tại sao nghĩa trang trông giống như một căn trại võ trang. Những bộ đội trẻ đóng tại căn cứ này – sanh sau Chiến tranh VN chấm dứt – không còn bị đe dọa bởi những người Miền Nam VN “phản động” hàng ngàn người đang nằm dưới đất ở đây. Những quân nhân của Miền Nam mà Đảng CSVN gọi là “bù nhìn” và không cho có mặt trong lịch sử hay viện bảo tàng. Qua kẽ hở của tường rào nám đen, chúng tôi thấy vài ngôi mộ bị cỏ dại cao che phủ. Một năm trước đây một đoạn  video từ VN đã đến được Mỹ cho thấy nhiều mộ bia bị hư hao. Nhiều phần của nghĩa trang bị cố ý phá hoại. Tại sao cho phép điều đó xảy ra? Tại sao làm những tường rào ra và tháp canh? Nhà cầm quyền sợ cái gì? Phải chăng đó là trại nhốt những vong hồn? [tử sĩ VNCH]”.

Ai cũng biết vong hồn đó dĩ nhiên là hương hồn của tử sĩ VNCH vì Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà là nghĩa trang quân đội lớn nhứt, danh dự nhứt của VNCH trước 30-4-75, ngày chấm dứt cuộc chiến tranh của CS Hà nội muốn thôn tính Miền Nam, vì tự do, dân chủ, quân dân cán chính VNCH phải  tự vệ chánh đáng chống lại CS Bắc Việt suốt gần 20 năm ròng rã.

Đó là lý do quân dân cán chính VNCH, người Việt Quốc gia, người Việt yêu tự do, dân chủ không thể sống được với CSVN đang thống trị đất nước VN trong gọng kềm CS, di tản ra ngoại quốc. Không ở được trong nước nhà với CS, người Việt mang hồn thiêng sông núi VN theo mình ra hải ngoại, giương cao biểu tượng là ngọn cờ quốc gia VN nền vàng ba sọc đỏ lên ở VN Hải Ngoai. Và sau đó kết hợp cùng nhau thành lập Nghĩa Trang Quân Cán Chính VN Cộng Hoà ở Nam California, tiểu bang người Việt định cư đông nhứt thế giới. Để thỉnh hương hồn anh linh tử sĩ VNCH về nơi an nghỉ xứng đáng để tưởng niệm. Và để đáp ứng nguyện vọng người còn sống, lúc sống từng chiến đấu bên nhau khi chết cùng nằm kề bên nhau. Người Việt hải ngoại đã đóng góp, mua đứt, trả dứt miếng đất 55 mẫu tây rồi, đang làm thủ tục xây cất./.(VA)