Chủ tịch nước thực hiện nghi lễ phóng sinh cầu quốc thái, dân an

 

Báo cáo công tác…. xây dựng đảng…. cho các tiền nhân luôn (!?) chội ôi !!
——————-
Trước ban thờ Điện Kính Thiên, Chủ tịch nước Trần Đại Quang tiến hành các nghi lễ thành kính dâng hương và tưởng nhớ các bậc tiên đế, các bậc hiền tài và các thế hệ cha ông đã đổ bao nhiêu xương máu để gìn giữ, bảo vệ non sông nước Việt ..!!

Báo cáo với các bậc tiền nhân những thành tựu nổi bật, toàn diện của đất nước trong năm qua, nhất là về phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và công tác xây dựng Đảng…(!?)

Sau khi làm lễ dâng hương, tại thềm Rồng – Điện Kính Thiên, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã thực hiện nghi lễ thả chim phóng sinh dịp đầu xuân, cầu mong quốc thái, dân an, đất nước vững bước trên con đường hội nhập và phát triển; dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh..!!??

Tại thềm Rồng – Điện Kính Thiên, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã thực hiện nghi lễ thả chim phóng sinh dịp đầu xuân, cầu mong quốc thái, dân an.
SOHA.VN

Đất nước lắm thánh thần và tôn giáo, nhưng lại thiếu niềm tin

 

Đất nước lắm thánh thần và tôn giáo, nhưng lại thiếu niềm tin

Người Hà Nội đứng, ngồi trong gió lạnh dự lễ dâng sao giải hạn. Ảnh: VNE

Tôn giáo duy nhất cần thiết để cứu vớt nhân loại là tình yêu thương. Phép màu hảo diệu nhất là bao dung và làm điều tốt cho người khác. Thánh thần chỉ tồn tại và ngự trị ở trong chính họ khi con người ta luôn có thiện tâm hiện diện trong tâm hồn”.

Đây chính là điều nguy hiểm nhất cho một xã hội, cho công cuộc xây dựng quốc gia. Các cụ nhà ta từ xa xưa đã nói, một lần bất tín, vạn lần bất tin, vậy nhưng dường như là người dân chúng ta vẫn chưa học thuộc và thấm nhuần cái tư tưởng này vào trong đầu thì phải.

Chúng ta đến nay trên đất nước có khoảng hơn chục loại tôn giáo chính thống, hoặc nhóm tín ngưỡng đủ kiểu cả, đấy là tôi còn chưa tính đến các loại mê tín tâm linh quái gở và mù quáng khác đang hoành hành và tàn phá xã hội. Hầu hết con người trong đất nước ta cứ mê mải dựa dẫm vào thánh thần trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Thế nhưng khi tôi vừa hỏi người ta là làm thế nào để xã hội tốt lên, hay làm ăn kinh doanh thì cần cái gì trước tiên, thì đa phần lại im lặng hoặc là trả lời không ra sao cả. Kể cả là những người được cho là đã có chút vốn liếng hay thị tiếng làm ăn trong xã hội. Cái quan trọng nhất là niềm tin với nhau dựa trên sự trung thực và tôn trọng luật pháp, chứ không phải là trước khi ký hợp đồng, giao dịch thì cứ cúng bái hay thắp hương, cầu trời, khấn phật cho làm ăn phát đạt hoặc đề cao quan hệ với quan quyền như một sự đảm bảo chính yếu, còn trong khi thực hiện hợp đồng thì cứ dè chừng nhau, sợ người ta ăn quỵt, bội tín. Và còn có tình trạng làm giả hồ sơ, giấy tờ rồi nhờ vả người này người kia bảo lãnh, để cốt là làm gì trong cái việc ấy. Tôi cho là chẳng có gì khác là để tạo dựng niềm tin cho đối phương, nhưng mà chính mình thì lại với tâm lý nghi ngờ là suy nghĩ người ta cũng lo sợ và có khả năng bội tín như mình không.

Vậy nên, thiếu cái đó thì làm ăn làm thế nào được với nhau. Mà như thế thì quốc gia cũng làm sao mà trông cậy vào được những con người thiếu niềm tin mà làm ăn còn có tư tưởng manh mún, chụp giật, chỉ nghĩ được cái lợi trước mắt rồi nếu không làm được thì còn quở trách, lý do này nọ mà đổ lỗi cho cái này cái kia, cốt để trốn tránh trách nhiệm.

Thế thì đi ra ngoài làm ăn, hợp tác với quốc tế, nếu có thì chỉ được một lần là họ không dám làm ăn thêm lần nào nữa. Tôi nói không sai là vậy.

Mà như vậy thì thần thánh hay tôn giáo nào có ích gì cho con người và dân tộc. Mà nếu cứ bám vịn vào thần thánh và tôn giáo kiểu đó thì tôi cho là còn làm con người ta mụ mị và u mê thêm đi chứ chẳng đem lại lợi lộc gì cho cuộc sống và sự văn minh cả.

Tôi chưa thấy quốc gia nào mà đa sắc về tôn giáo và các tín ngưỡng tâm linh như ở xứ ta, tôi cho là nhiều vô tội vạ, khiến tôi không thể nào hiểu hết hay nắm bắt cặn kẽ được. Nhưng điểm qua hiện tại chúng ta có đạo Phật là có lượng phật tử đông đảo hơn cả, tiếp đến là Công Giáo, Tin Lành, Đại Thừa, Tiểu Thừa, và Hồi Giáo,…

Tôi thì cho rằng, người ta đang lợi dụng thần thánh và sự mê tín của dân chúng mà phần lớn nhận thức về khoa học còn hạn chế nhưng lại dành nhiều niềm tin vào truyền thuyết và kiểu tư duy bám vịn vào thánh thần để giải quyết các khúc mắc bị bế tắc trong tinh thần mà hiện thực đời sống cũng như sự hạn chế về hiểu biết, học thuật khiến họ không có câu trả lời thỏa đáng hay tìm ra phương cách giải quyết. Đâm ra cứ thế mà họ tin vào thần thánh như là một phép màu cho mình.

Mà khi thiếu niềm tin vào con người, mà đặc biệt luật pháp không phải là chỗ dựa cho việc giải quyết các vấn đề trong cuộc sống thì tôn giáo và thần thánh lại càng được đà để phát huy trong đời sống dân chúng.

Đi đâu tôi cũng thấy người ta nói những lời giáo huấn, đạo lý, những câu chuyện về lương tâm, phẩm giá và nhân cách, nhưng mà thực là đảo điên hết mức và bậy bạ quá sức tưởng tượng. Cứ nhìn thẳng vào đời sống mà xem, tại sao mà lễ hội văn hóa hay trong các buổi hội họp, sinh hoạt, tưởng niệm mà người ta cứ thản nhiên cướp bóc, giành giật và giẫm đạp lên nhau để cướp lộc? Trong đời thường thì sao, người ta vô tư bán thực phẩm bẩn, làm ăn gian dối và sẵn sàng ám hại nhau, pháp luật thì không sử dụng, từ trong kinh doanh đến quan hệ gia đình, làng xóm. Đối đãi với nhau thì qua quýt, khéo léo, giả tạo, dễ dàng chê bai nhau, phán xét nhau, phạm lỗi lầm hay chuyện xích mích nhỏ cũng khó bỏ qua hay tha thứ cho nhau, hơn thua bằng được, ganh ghét đố kỵ,…Vậy thì thần thánh với cả những lời hay ý đẹp được rao giảng nào có ích gì cho những con người và xã hội như thế.

Rồi trong đời thường, người ta bảo làm sao để được an yên, thanh thản trong tâm hồn, thế là họ trích dẫn ngay lời của Phật dạy ra (vốn họ chỉ hiểu được một phần giá trị của những lời răn dạy đó) mà cho rằng nên buông bỏ, không tham lam, biết diệt dục vọng, tránh tâm tà, không làm điều ác, và cần xa rời thị phi thì tâm hồn mới trở nên tĩnh tại được. Nghe đến đây thôi là tôi đã thấy được những kiểu giáo huấn này thực làm con người ta trở nên lệch lạc và vô cảm. Đức Phật đi hành hương khắp nơi và suốt đời để truyền thụ phật pháp cốt làm cho con người tốt đẹp hơn lên trong tâm hồn, nhưng Phật cũng dạy con người ta phải có cả Dũng và Trí, tức là trí tuệ và lòng dũng cảm. Thế thì lòng dũng cảm được thể hiện ở đâu và lúc nào, thì người ta lại cứ lờ nó đi, thật là tai hại. Dũng và Trí, chính là lúc đối đầu với cái ác, cái xấu xa hoành hành trong xã hội, có dẹp bỏ được những điều gây ra đau khổ và bất công trong xã hội thì ta mới có thể yên lòng và thanh thản được chứ. Chứ đâu phải chỉ biết chấp nhận những thứ tồi tệ diễn ra trước mắt mà mình thì không hành động gì cả, rồi tự vấn đó là buông bỏ và mình là một người tốt, thậm chí đã giác ngộ. Thật bậy bạ hết mức với những nhận thức và giáo huấn như thế. Tôi cho rằng, đa phần chưa giác ngộ và lĩnh hội được cốt lõi những chân giá trị của đạo Phật mà khiến cho con người trở nên nhầm lẫn hoặc cố tình sử dụng nó để phục vụ mưu cầu cá nhân, ru ngủ thiên hạ nhằm mục đích tư lợi hoặc phục vụ làm công cụ cho chính quyền để dân chúng xa lánh chuyện chính trị và xã tắc.

Chúng ta cũng thử nhìn vào các sinh hoạt tín ngưỡng và tôn giáo hiện nay để xem. Người ta đến cầu khấn thánh phật chỉ đơn giản là để được xoa dịu tâm can, đến trấn an tâm hồn mình, hoặc để gột rửa những tội lỗi mà họ phạm phải trong đời thường hay chứng kiến tội ác người khác gây ra mà lẳng lặng bỏ đi. Người ta ra ngoài xã hội gì mà đầu độc nhau bằng cách buôn gian bán lận, đồ giả, quỵt nợ, phản bội và lật lọng chỉ vì ít lợi lộc, thương mại thì lắm mưu mẹo, khôn lỏi, thế nên xã hội cứ đảo điên và hỗn loạn như một mớ bòng bong, mà cốt chỉ do con người không trung thực và thiếu niềm tin tạo ra.

Thế thì thiếu niềm tin còn tìm đến thánh thần để làm gì?

Muốn dự phòng rủi ro thiệt hại, hoặc muốn kiện tụng đòi quyền lợi thì phải tìm luật sư và đến tòa án; muốn chữa bệnh thì phải tìm đến bệnh viện và có bác sỹ giỏi; muốn học tốt phải tìm thày có trình độ và trường lớp đàng hoàng; muốn con cái khôn ngoan thì phải khích lệ và chỉ dẫn chúng; muốn làm ăn lớn và lâu dài thì phải giữ chữ tín; muốn có kỷ cương thì pháp luật phải nghiêm; muốn quốc gia thịnh vượng thì nền chính trị phải dân chủ (tức không được độc quyền) và minh bạch; muốn tâm hồn thanh thản thì luôn phải trung thực, làm điều tốt đẹp và kể cả mang lại điều tốt đẹp đến cho người khác; muốn sống an toàn và lành mạnh thì phải có môi trường trong sạch; muốn có thành phẩm thì phải lao động.

(…)

Trích: MỘT NGƯỜI QUỐC DÂN

Một bài báo đã tự bịa ra một trường hợp nam sinh tạm dừng du học tại Anh để nhập ngũ.

Thế kỷ 21 đã qua gần 2 thập kỷ…. Một bài báo đã tự bịa ra một trường hợp nam sinh tạm dừng du học tại Anh để nhập ngũ. Một tờ báo mạng nổi tiếng nhất nhì ở VN như VietNamnet mà bịa ra một câu chuyện để đi lừa bịp thiên hạ thì cho thấy chế độ này quá thối nát lắm và bệnh hoạn lắm rồi, lừa người dân thiếu hiểu biết bằng mọi cách. Không có trường nào ở Anh tên là London School of Commercial cả.

1 Du học sinh tại Anh ngừng học, về nước tham gia nghĩa vụ quân sự…???

Xem thêm: Đại biểu QH Nguyễn Bá Thuyên: “Nếu nghĩa vụ quân sự là vinh quang, sao con cán bộ không muốn nhận?.”
http://giaoduc.net.vn/gdvn-post158480.gd

Một bài báo đã tự bịa ra một trường hợp nam sinh tạm dừng du học tại Anh để nhập ngũ. Một tờ báo mạng nổi tiếng nhất nhì ở VN như VietNa…
NEWVIETNAMTK21.BLOGSPOT.COM

Căn nguyên thói hư tật xấu của người Việt

Ky Nguyen
Căn nguyên thói hư tật xấu của người Việt đã có từ trước qua nhận định của các bậc trí thức. Xin nêu vài nét điển hình: 

– Không lo xa, dễ thoả mãn 
– Ăn xổi ở thì, chưa lo làm đã lo phá 
– Dùng nhiều thủ thuật gian lận 
– Ăn xén bòn rút của công 
– Thói vô trách nhiệm
– Thói cơ hội chủ nghĩa, thủ lợi về mình
– Không có can đảm nhận sự sai lầm
– Thiếu tinh thần cầu tiến
– Tham lam ích kỷ cạnh tranh nhỏ nhặt
– Không tôn trọng chuẩn mực đạo lý nhân bản
– Giả dối, lừa lọc, kiêu ngạo, háo danh
– Ý thức quốc gia thức tỉnh quá chậm
– Làm ra vẻ yêu nước để mưu lợi riêng
– Vì lợi nhuận bất chấp sự tàn ác
– Dân trí thấp kém

Những thiên tài không bằng cấp

 Những thiên tài không bằng cấp

Họ là những nhà khoa học, nhà văn, nhà chính trị lỗi lạc trong lịch sử nhân loại. Dù không có điều kiện để theo học bất cứ chương trình đào tạo chính quy nào, nhưng bằng niềm đam mê, sự ham học, và ý chí nỗ lực không mệt mỏi của bản thân, họ đã vươn lên và toả sáng như những vì tinh tú trên bầu trời lịch sử của nhân loại… 

(hãy đọc kỹ bài này để càng thêm “tâm phục, khẩu phục” những thiên tài đảng ta trong 70 năm qua đã không hề tốt nghiệp một trường nào dù là bậc tiểu học, họ quả thật “xứng đáng” là thiên TAI  của dân tộc VN)

Huyền thoại “thiên tài không bằng cấp”

  1. Frederick Douglass

Một trong những tấm gương tự học nổi tiếng trong lịch sử là Frederick Douglass. Ông sinh năm 1818 trong một gia đình nô lệ ở Maryland. Khi còn là một đứa trẻ ông đã tự mày mò học chữ khi gia đình ông đang sống ở Baltimore, kể từ đó ông luôn tự tìm cơ hội trau dồi thêm kiến thức bằng cách đọc thật nhiều.

Vào năm 20 tuổi, ông thoát khỏi chế độ nô lệ và định cư ở Massachusetts. Tại đây ông vẫn tiếp tục con đường tự học, tự đào tạo và sau đó ông trở thành một trong những nhà văn, một người theo chủ nghĩa bãi nô có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất trong lịch sử nước Mỹ.

  1. Ando Tada

Ando Tada là một kiến trúc sư nổi tiếng người Nhật dù ông chưa hề qua một trường lớp đào tạo về kiến trúc nào. Ông đã từng kiếm sống bằng nghề tài xế, làm một võ sĩ quyền Anh, và là một thợ mộc trước khi tự học để trở thành một kiến trúc sư. Ông đã từng một mình thực hiện một chuyến đi từ Đông sang Tây để tự quan sát và học hỏi về nghệ thuật kiến trúc bằng cách đến thăm những công trình nổi bật trên thế giới. Năm 1969, ông thành lập hãng kiến trúc Ando Tadao.

Công trình nhà lô ở Sumiyoshi (Azuma House), hoàn thành năm 1972 là công trình đầu tiên bộc lộ những đặc điểm kiến trúc của ông. Năm 1995, Ando được nhận giải thưởng Pritzker và 100.000 đô la Mỹ. Ông đã tặng số tiền đó cho những trẻ em mồ côi trong cuộc động đất Hanshin.

  1. Janes Goodall

Tiến sĩ Janes Goodall, một trong những nhà hoạt động bảo vệ môi trường nổi tiếng thế giới, đồng thời là sứ giả hoà bình của Liên hiệp quốc, là một nhà nghiên cứu nổi tiếng người Anh trong lĩnh vực bảo vệ động vật hoang dã. Năm 1960, khi ngoài 20 tuổi, bà đã đến Kenya, châu Phi để nghiên cứu về tập tính và đời sống của loài tinh tinh. Bà đã có 40 năm sống và làm việc ở châu Phi và những nghiên cứu của bà được nhiều người đánh giá là “đã ảnh hưởng đến toàn thế giới nói chung và thế giới động vật nói riêng”. Điều thú vị về bà là phần lớn những công trình nghiên cứu khoa học quan trọng của bà được thực hiện khi bà chưa qua một trường lớp đào tạo nào.

TS Janes Goodall đã được trao tặng nhiều danh hiệu cao quý và giải thưởng về bảo tồn động vật hoang dã; Đại sứ hoà bình của Liên hợp quốc năm 2002; Huy chương Benjamin Franklin vì sự nghiệp khoa học năm 2003. Bà còn được biết đến với tên gọi “người phụ nữ của tinh tinh”.

  1. Michael Faraday

Michael Faraday là một nhà Hóa Học và Vật Lý người Anh đã có công đóng góp cho lĩnh vực Điện từ học và Điện hóa. Là con thứ ba trong một gia đình nghèo có bốn người con, cậu bé Faraday chỉ có được những kiến thức cơ bản nhất từ nhà trường, nhưng bù lại cậu là một đứa trẻ ham học và đã nổ lực tự học không mệt mỏi.

Năm 14 tuổi Faraday học việc ở một cửa hiệu sách, và trong suốt 7 năm học việc, ông đã đọc được rất nhiều sách, trong đó có sách của Isaac Watts, quyển mở mang trí tuệ, ông say mê tiến hành các nguyên lý và quan điểm trong quyển sách. Từ đó ông đã biểu lộ niềm đam mê khoa học, nhất là trong lĩnh vực điện năng.

Mặc dù Faraday được đào tạo ở trường rất ít và biết ít về toán cao cấp, nhưng ông là một trong những nhà khoa học có uy tín trong lịch sử khoa học. Ông là vị giáo sư hóa học đầu tiên và lỗi lạc nhất của Viện Hoàng Gia Anh Quốc, và đã giữ vị trí này trong suốt cuộc đời.

  1. Hai anh em nhà Wright

Hai anh em nhà Wright, Orville  Wilbur Wright, là những người đầu tiên thử nghiệm thành công làm cho máy bay bay được. Chuyến bay đấu tiên trong lịch sử nhân loại được thực hiện vào ngày 17/12/1903 tại đồi Kill Devil, Kitty Hawk, bang Bắc Carolina, Mỹ. Mỗi anh em thực hiện hai chuyến bay vào ngày hôm đó. Lần bay đầu tiên, do Orville thực hiện kéo dài 12 giây và bay được khoảng 36.5mét (120 ft).

Lần bay cuối cùng, do Wilbur thực hiện kéo dài 59 giây và đi được 296 mét. Chiếc máy bay lúc đó được gọi là Flyer I. Nó có sải cánh khoảng 12 mét và nặng khoảng hơn 300kg, với động cơ xăng 12 mã lực. Hiện nay nó đang được đặt tại Viện bảo tàng Hàng không và Không gian Quốc gia Hoa Kỳ tại Washington, D. C..

Điều đặc biệt là cả hai người đều chưa từng học qua trường đào tạo kỹ sư hay nhận được bất cứ bằng cấp chuyên môn nào. Thành công của họ đến từ niềm đam mê khoa học kỹ thuật cộng với nỗ lực tìm tòi học hỏi không ngừng. Thiên tài của hai anh em nhà Wright đã biến giấc mơ từ ngàn xưa của loài người thành sự thật.

  1. Srinivasa Ramanujan

Srinivasa Ramanujan là nhà toán học huyền thoại người Ấn Độ, nổi tiếng là người dù không được đào tạo bài bản về toán học lý thuyết nhưng đã có nhiều đóng góp quan trọng cho nhiều ngành toán học như giải tích, lý thuyết số, dãy vô hạn. Ông sinh ra và lớn lên tại Erode, Tamil Nadu, Ấn Độ và làm quen với toán học từ năm lên 10 tuổi.

Ông bộc lộ năng khiếu đặc biệt về toán khi được tặng một quyển sách lượng giác cao cấp của S L Loney. Năm 13 tuổi ông đã thành thục quyển sách này và bắt đầu tìm cách tự phát minh ra các định lý toán học. Năm 17 tuổi ông tự nghiên cứu về số Bernoulli và hằng số Euler-Mascheroni.

Trong quãng đời ngắn ngủi của mình (1887-1920), Ramanujan đã độc lập công bố gần 3..900 kết quả nghiên cứu phần lớn thuộc lĩnh vực phương trình và đồng nhất thức, mà ngày nay hầu hết đã được công nhận là chính xác. Tạp chí Ramanujan ra đời để công bố các nghiên cứu toán học có ảnh hưởng từ các công trình của ông.

  1. Mark Twain

Mark Twain, một tên tuổi lớn trong nền văn học Mỹ, tên thật là Samuel Langhorne Clemens. Gia cảnh của ông khá chật vật và túng thiếu; năm 12 tuổi, sau khi cha qua đời vì căn bệnh viêm phổi, Mark Twain phải kiếm sống bằng nghề sắp chữ. Có thời gian ông phải bỏ học, theo nghề lái tàu để kiếm sống.

Sau đó, ông tiếp tục tự học ở các thư viện công cộng tại những thành phố mà ông sinh sống và bắt đầu dấn thân vào công việc của một nhà báo. Những cuộc hành trình lênh đênh trên miền sông nước trước đó đã trở thành cảm hứng thôi thúc ông viết nên những kiệt tác như Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer, Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn, Cuộc sống trên sông Mississippi…

  1. Steven Paul Jobs

Steven Paul Jobs là một tỷ phú, là ông trùm kinh doanh và sáng chế người Mỹ. Ông là đồng sáng lập viên, chủ tịch, và cựu tổng giám đốc điều hành của hãng máy tính Apple; ông cũng từng là tổng giám đốc điều hành của xưởng phim hoạt hình Pixar (hãng sở hữu nhiều giải oscar cho phim hoạt hình hay nhất như Đi tìm Nemo, Gia đình siêu nhân, Chú chuột đầu bếp, WALL-E, Up và Câu chuyện đồ chơi 3; sau đó ông trở thành thành viên trong ban giám đốc của công ty Walt Disney sau khi Disney mua lại Pixar.

Jobs sinh ra tại thành phố San Francisco, bang California, là con nuôi của Paul và Clara Jobs. Ông theo học trường trung học Cupertino và Homestead tại thành phố Cupertino, bang California. Năm 1972, Jobs tốt nghiệp trung học và đăng kí vào học tại cao đẳng Reed College ở Portland, bang Oregon, nhưng bị đuổi chỉ sau 1 học kỳ.

Mặc dù vậy ông vẫn tiếp tục dự thính các lớp học tại Reed, trong đó có một lớp học viết chữ đẹp. Trong thời gian “học ké” đó, ông phải ngủ dưới sàn nhà của những người bạn, đổi lon nước ngọt để lấy tiền ăn và nhận các suất ăn miễn phí mỗi tuần tại đền Hare Krishna. Sau này Jobs bày tỏ rằng: “Nếu tôi chưa từng tham dự những khoá học lẻ đó tại trường, Mac sẽ không bao giờ có có nhiều kiểu chữ hay phông chữ cách nhau tỉ lệ cân xứng như vậy”.

  1. A braham Lincoln

Là vị Tổng thống thứ 16 trong lịch sử Hoa Kỳ. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, cha mẹ ông là những nông dân mù chữ. Ông không có điều kiện đi học chính thức. Thời gian theo học thực sự của ông có lẽ chỉ kéo dài 18 tháng do các giáo viên không chuyên nghiệp dạy. Kiến thức của ông chủ yếu có được từ việc tự học qua việc đọc mọi cuốn sách có thể mượn được, từ Kinh Thánh, đến các sách tiếu sử, và sách văn chương.

Ông thông thạo Kinh thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, lịch sử Anh và lịch sử Mỹ, ngoài ra ông còn học được phong cách trình bày giản dị trước thính giả. Ông dành nhiều thời gian đọc sách đến nỗi những người hàng xóm cho rằng ông cố tình làm vậy để khỏi phải làm những công việc chân tay nặng nhọc.

Lincoln nổi tiếng nhất với vai trò gìn giữ Hợp chủng quốc và chấm dứt chế độ nô lệ tại Hoa Kỳ với bản Tuyên ngôn Giải phóng và Sửa đổi thứ mười ba của Hiến pháp Hoa Kỳ về việc bác bỏ̉ chế độ nô lệ.

  1. Henry Ford

Nếu con bạn luôn tìm cách đối phó với việc học mà thay vào đó là ngồi lỳ lau chùi chiếc xe máy thì đừng vội buồn. Biết đâu bé sẽ có thể trở thành Henry Ford của Việt Nam.

Henry Ford ngày nhỏ cũng lười học và say mê sửa chữa đồ cũ, hỏng. Máy móc có sức quyến rũ với ông một cách kỳ dị. Năm ông mười hai tuổi, ông đã bắt chước chế tạo được một máy nhỏ chạy bằng hơi nước. Năm hai mươi tám tuổi, khi là một công nhân điện ông quyết tâm theo đuổi chinh phục phát minh máy nổ của người Đức.

Thành công đã tới với người kiên trì bền bỉ, 5 năm sau chiếc xe hơi đầu tiên của thế giới chào đời. Tuy nó cao lồng cồng, không mui, không thắng và chạy dật lùi được, tốc độ tối đa 30 km/giờ.

Vài năm sau ông thành lập Công ty xe hơi Detroit rồi Công ty xe hơi Cadillac. Tuy không được học hành bài bản nhưng Henrry có đầu óc lãnh đạo tuyệt vời. Bên cạnh việc những mẫu xe hơi liên tục được cải tiến nâng cao chất lượng và mẫu mã với nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng, Henrry có chiến lược phát triển hoàn hảo.

Năm 1906 ông sản xuất được 8.400 chiếc xe; bốn năm sau, con số đó tăng lên 34.000; một năm sau nữa, nó tăng lên 78.000; và tới năm 1927 thì mỗi ngày ông sản xuất được 7.000 chiếc xe, tính ra cứ 7 giây đồng hồ, có một chiếc xe hơi ở trong xưởng ông từ từ chạy ra để được gửi đi khắp thế giới.

  1. Soichiro Honda

Năm 1980, Soichiro Honda đã được tạp chí uy tín “People” vinh danh là “người đặc biệt nhất của năm”, còn thế hệ nay coi ông như một “huyền thoại Henry Ford của Nhật Bản”.

Từ tuổi thơ khốn khó đến địa vị Chủ tịch tập đoàn Honda hùng mạnh, chuyện nghề, chuyện đời của Soichiro Honda đã trở thành huyền thoại “thiên tài không bằng cấp”.

Khi mới 2 tuổi, cậu bé Soichiro đã bị thu hút và thích mày mò chiếc cối xay gió. Lớn thêm chút nữa, cậu tự “chế tạo” chiếc máy bay đồ chơi bằng tre có gắn “động cơ” làm bằng dây cao su. Cậu suốt ngày lấm lem mặt mũi do hay giúp đỡ cha mình trong xưởng đến mức bạn bè đặt cho cậu biệt danh “chú chồn nhọ mũi”.

Chú chồn nhọ mũi” không ham thích học hành, chỉ quan tâm đến những môn kỹ thuật và bảng điểm của cậu dở tệ. Năm 15 tuổi, Soichiro Honda bỏ học để lên Tokyo học nghề tại xưởng cơ khí ôtô Shokai, thắp lửa niềm đam mê cùng tốc độ mãi cho tới sau này.

Bốn năm sau, Honda đã mở xưởng sản xuất của riêng mình. Chỉ sau một thời gian ngắn, xưởng sản xuất “doanh nghiệp một thành viên” cho ra đời xe đạp gắn động cơ. Ngay lập tức, Sản phẩm len lỏi khắp các ngõ ngách ở Nhật Bản.

Từ đây, Honda Technical Research Institute của ông đã thành công và không ngừng phát triển. Đến năm 1948, Công ty Honda Motor Co. Ltd được thành lập và trở thành một tập đoàn số 1 thế giới về sản xuất xe máy, top 10 sản xuất ô tô.

  1. Bill Gates

Tại khuôn viên trường Harvard mang tên “Harvard Crimson” có một tấm biển ghi“Bill Gates là người bỏ học thành công nhất của Harvard”, trong khi phần còn lại của thế giới vẫn gọi ông là “người đàn ông giàu nhất thế giới” trong hơn một thập kỷ qua. Bây giờ, mặc dù không giữ vị trí dẫn đầu, ông vẫn còn trong danh sách những người giàu có của thế giới…

Gates nhập học tại Harvard vào mùa thu năm 1973. Hai năm sau, ông ta đã bỏ học để thành lập công ty Microsoft với người bạn Paul Allen. Sau khi thành danh, Bill Gate mới quay trở lại trường để tiếp tục sự nghiệp học hành… Và trong năm 2007, cuối cùng ông cũng nhận được học vị Tiến sĩ danh dự từ trường cũ của mình.

Khi được mời phát biểu tại buổi lễ phát bằng tốt nghiệp cho sinh viên Havard, Bill Gates nói: “Tôi là một ví dụ xấu. Đó là lý do tại sao tôi được mời tới đây để nói chuyện tốt nghiệp của bạn.. Nếu gặp tôi trước khi nhập học, có thể số lượng sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp có mặt ở đây sẽ ít hơn nhiều.”

  1. Frank Lloyd Wright

Theo kiến trúc sư nổi tiếng nhất của Mỹ, Wright đã dành nhiều thời gian hơn vào việc thiết kế các trường cao đẳng, đại học hơn là tham dự các lớp học trong đó. Sau khi dành một năm học tại Đại học Wisconsin-Madison, ông bỏ học để đến Chicago và trở thành một người học việc của Louis Sullivan, “cha đẻ của chủ nghĩa hiện đại”.

Trong sự nghiệp thiết kế và sáng tạo không ngừng nghỉ của mình, Wright đã tạo ra hơn 500 công trình kiến trúc kỳ vĩ, nổi tiếng nhất trong số đó là Fallingwater và New York City của Solomon R. Guggenheim Museum.

  1. Buckminster Fuller

Bị trục xuất khỏi Harvard hai lần, kiến trúc sư đồng thời là nhà phát minh vĩ đại người Mỹ Buckminster Fuller đã phải trải qua rất nhiều thăng trầm, biến cố. Một số ý tưởng kinh doanh ban đầu thất bại và trải qua nỗi đau đớn của việc mất đi cô con gái đầu lòng, ông tưởng chừng như không thể gượng dậy.

Tuy nhiên, ở tuổi 32, cuộc sống của Fuller bắt đầu thay đổi. Những ý tưởng sáng tạo của ông như các thiết bị ghép năng động áp dụng cho nhà ở và cả xe ôtô nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình từ công chúng. Đặc biệt là kết cấu xây vòm hình tượng của ông đã đưa tên tuổi của ông lên tầm cao mới và được quốc tế công nhận.

  1. Mark Zuckerberg

Bỏ học ở Harvard, Mark Zuckerberg phát triển Facebook trong ký túc xá trường mình. Bây giờ Facebook đã trở thành một trong những trang web phổ biến nhất trên thế giới mạng xã hội. Theo sự bùng phát của Facebook, Zuckerberg đã bỏ học để di chuyển địa điểm công ty của anh đến California..

Mark Zuckerberg đã chứng minh rằng quyết định của anh là sáng suốt. Theo Forbes, Zuckerberg là tỷ phú trẻ nhất thế giới, với trị giá tài sản năm 2010 là 4 tỷ USD. Tuy nhiên, mới đây Ông chủ Facebook nhận bằng tốt nghiệp Harvard sau 12 năm bỏ học.

Thầy Phó Tế Nguyễn Định gởi

CÁM ƠN BS Lê Nhàn

CÁM ƠN BS Lê Nhàn 

đã trả lời CHÂN THẬT, càng đọc, càng thắm thía 

BS Lê Nhàn

“Tính không trả lời câu hỏi này vì không có thời gian, bởi tuần này đổi thời khóa biểu nên suốt từ 7g tối qua đến 12g trưa nay tôi làm việc liên tục. Về nhà ngủ được một giấc rồi lại phải đi làm, đến giờ mới vừa ăn cơm xong.

Nhưng thôi, trả lời cho thỏa lòng người hỏi.

Nếu như có người hỏi là “Tại sao Nhàn Lê sinh ra lớn lên, học hành ở miền Bắc nhưng bây giờ lại nói người Bắc chúng tôi làm hỏng hết, rồi lại thích miền Nam, lại thích luôn cái chế độ miền Nam trước 1975 nữa… Nhàn Lê đã ăn cháo, đá bát”… nói chung là phụ bạc nơi nuôi mình khôn lớn.

– Vậy Nhàn Lê trả lời sao ?

Thưa các anh chị!

Thưa các bạn và các em!

Chính vì tôi đã nhìn quá rõ, tôi hiểu quá thấu nên tôi biết nó hỏng, và tôi nói ra sự thật là nó hỏng.

  1. Tại sao tôi làm bác sĩ?

Mẹ tôi nói “Con ạ, bây giờ đi bệnh viện mà không có tiền thì họ không chữa cho mình đâu”.

Tôi đã nói “Mẹ cố gắng mẹ nhé, lớn lên con sẽ làm bác sĩ, con chữa bệnh cho mẹ khi ấy mẹ sẽ không phải mất tiền nữa, còn bây giờ mẹ phải tìm moi cách để giữ lấy mạng sống của mình”.

Vì lời hứa của đứa trẻ 8 tuổi khi ấy đã thôi thúc tôi vượt qua rất nhiều khó khăn mà không thể kể hết của một đứa con nhà nghèo, đến ăn còn không đủ no, ăn 2 bữa cơm độn khoai cho no đã là quá sức của cha mẹ nó, bữa sáng là một điều xa xỉ.

Tôi hỏi ngược lại, nếu một xã hội tốt đẹp thì một đứa bé 8 tuổi nó có phải nghĩ tới vấn đề nhức nhối đó không? Hay nó được lớn lên với một tuổi thơ trong sáng, êm đềm và mơ mộng?

Cha mẹ tôi đã phải bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để có được hạt gạo mà nuôi chị em tôi trong khốn khó, vậy TÔI PHẢI BIẾT ƠN AI?

– Vì đất nước phải bước vào thời kỳ quá độ để đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội, cho nên đảng và chính phủ đã tập trung xây dựng nên những con người mới XHCN.

Ở nông thôn, ông bà cha mẹ chúng tôi bị ép buộc vào hợp tác xã, nhưng hậu quả của nó như thế nào thì ai cũng thấy rõ, một ngày lao động (một công) được tính bằng 800 g thóc, toàn dân đói rã họng nhưng không ai được đi ngược lại chủ trương của đảng và nhà nước.

Không ai được trồng thêm củ sắn, củ khoai để cứu đói cho đàn con đang tuổi ăn, tuổi lớn của mình.

Chị em chúng tôi phải đi vớt bèo dưới cái lạnh cắt da, cắt thịt để nuôi lợn, con lợn ấy lớn lên phải bán nghĩa vụ cho hợp tác xã, nhìn họ cướp đi công sức của mình mà nước mắt lưng tròng, chúng tôi thèm nhỏ dãi miếng thịt nhưng không có ăn, đến tết thì hợp tác mới chia cho được mấy lạng… Để hậu quả kéo dài cho tới tận bây giờ cứ có mùi nhang là tôi lại thèm ăn thịt luộc (bởi hồi đó Tết thắp nhang cúng ông bà thì mới có thịt ăn một bữa liếm mép).

Ai đã nuôi tôi khôn lớn? Cha mẹ tôi hay đảng và chính phủ?

Ai đã cướp con lợn, ai đã cướp miếng thịt của chị em chúng tôi để giờ đây nói tôi đái bát?

Dưới cái lạnh cắt da cắt thịt của mùa đông, chúng tôi sống hoang dã như những đứa trẻ mà Giáo Sư Ngô Bảo Châu đã nhìn thấy và mô tả. Có ai cho tôi manh áo ấm không? Chúng tôi đi chân trần trên băng giá, có ai cho tôi đôi dép không hay chỉ biết đến cướp đi thành quả lao động của chúng tôi?

Và nếu hồi đó không có cái chủ trương vào hợp tác xã chết tiệt ấy thì chiều cao của tôi có lẽ hơn bây giờ ít nhất là 5 cm, khi đi ra quốc tế tôi có thể nhìn ngang chứ không phải như bây giờ là phải ngước lên và tự hỏi rằng “cao như thế có mát hơn không”.

Thời ấy muốn thịt con gà cũng phải giấu giếm đừng để nó kêu, bởi ăn thịt là có tội, mình nuôi nó lớn nhưng không được phép ăn mà phải bán cho nhà nước … để làm gì?

“Mỗi người làm việc bằng hai để cho cán bộ mua đài mua xe.

Mỗi người làm việc bằng ba để cho cán bộ xây nhà xây sân”

Như vậy phải hỏi tôi có hận hay không chứ? Tại sao tôi phải biết ơn, ơn ai? Ơn cái đứa chết tiệt nào nó đẻ ra cái chính sách vận hành ngu xuẩn và dốt nát thể? Để một thế hệ người Việt thấp còi và đần độn vì thiếu dinh dưỡng?

Ai nuôi tôi lớn kiểu điên rồ như thế để bắt tôi phải biết ơn?

  1. Tại sao tôi yêu miền Nam?

Khi tôi nửa ăn, nửa nhịn để cố gắng lê lết cho hết 6 năm đại học, có những hôm đi phụ mổ bị té xỉu … nói lời hay ý đẹp là kiệt sức, nhưng thực ra là ĐÓI ĂN.

Tôi đói ăn suốt 6 năm đại học, chất dinh dưỡng nào để cho tuổi này cạnh tranh tầm vóc với thế giới? Có ai cho tôi xu nào để tôi ăn cho đỡ đói không hay chính mẹ tôi, đến cái bánh cũng không dám ăn mà phải để dành tiền cho tôi, cho dù chỉ là 500 đồng?

Và sau khi ra trường, tôi long đong lận đận đến 3 năm, cầm tấm bằng mà bao nhiêu lần bật khóc.

Bố tôi đã nói:

“Con ạ, mình không có chức, không có quyền cũng không có tiền nên xin việc khó lắm, có lẽ bố mẹ đã bất lực, con hãy tự tìm đường đi cho mình. Xã hội này không có chỗ nào công bằng để đấu sức bằng trí tuệ của mình đâu con.

Tất cả đều được đo đếm bằng tiền cho dù tiền đó là tiền tham nhũng, cho dù tiền đó là tiền hối lộ. Cho dù đó là tiền tham ô mồ hôi và nước mắt của người dân để họ đút vào túi riêng, cái túi tham vô độ làm cho cuộc sống của người dân trở nên khốn cùng.

Cha mẹ nuôi 6 năm ăn học đã kiệt sức lắm rồi con”.

Nhắc lại lần thứ ba là đã có lúc tôi tính đến việc đi vận chuyển ma túy thuê để có tiền xin việc, nhưng may thay chợt nhớ tới câu của nhà Phật rằng “Phàm làm việc gì cũng phải nghĩ đến hậu quả của nó” và tôi đã giật mình tỉnh thức. Nếu không thì có lẽ thân xác này đã trở về với cát bụi hoặc giờ này tôi đang cải tạo với cái án chung thân  trong một nhà tù nào đó.

Có ai và có bao giờ rơi vào tình cảnh tuyệt vọng như thế không?

Chỉ vì không có tiền xin việc, cho nên tôi hỏi lại đứa nào ăn cháo, đứa nào đái vào bát?

Nếu không có mảnh đất Sài Gòn cho tôi lưu lạc thì giờ này có tôi đang ngồi gõ phím không?

Nếu không có con người Miền nam hiền hòa thì tôi có sống được?

Nếu họ lưu manh lừa lọc khi tôi mới chân ướt chân ráo đến đây thì cuộc đời tôi sẽ khốn nạn ra sao?

Vì sao họ lại hiền hòa như vậy?

Đó là vì cha ông của họ sống có nhân, có nghĩa và chính lớp người đi trước đã dạy con cháu họ như vậy, chứ không phải cái thứ lưu manh, lừa đảo.

Và tôi biết qua những người bạn thì Sài Gòn cũng không còn được như xưa nữa, vì sao?

Ai đã làm nó trở nên hoang tàn như thế? Ai đã làm cho nó mất tình người như thế?

“HÃY TRẢ LỜI TÔI ĐI. HÃY TRẢ LỜI TÔI ĐI!”

Lê Nhàn

From: Xuân Nguyễn gởi

Con người là động vật có tính tôn giáo (Tâm linh)!

 Trần Bang‘s post.
 
 
Image may contain: 3 people
Image may contain: 1 person
Trần Bang added 2 new photos.

 

Con người là động vật có tính tôn giáo (Tâm linh)!

Nhưng tại sao chương trình giáo dục phổ thông 12 năm không có một tiết nào dạy về Tôn giáo?

Dẫn đến nhiều người lớn tuổi cũng vẫn bị mù tôn giáo (mù Tâm linh ). Họ không phân biệt được thế nào là Tín ngưỡng chân chính, thế nào là mê tín dị đoan. 

Vì thiếu kiến thức về Tâm linh, Tôn giáo chân chính đã làm nhiều người dễ bị lừa bởi những kẻ buôn thần, bán thánh đội lốt tôn giáo, hoặc tìm mọi cách đút lót hối lộ thánh thần, nhất là vào dịp Lễ, Tết,…, hoặc đẩy họ đến thái độ cực đoan xúc phạm Tôn giáo Tín ngưỡng của người khác.

Trông người, ngẫm đến ta

 

Trông người, ngẫm đến ta

Học sinh bày tỏ quan điểm. Ảnh: internet

Vụ xả súng giết chết 17 người tại một trường học ở bang Florida đã khoét sâu nỗi bất an trong lòng người dân Mỹ, đặc biệt là các phụ huynh học sinh trên toàn nước Mỹ. Ngày 21.2.2018, phụ huynh học sinh và học sinh thuộc trường trung học Marjory Stoneman Douglas ở Parkland, bang Florida, đã có cuộc gặp gỡ với Tổng thống Mỹ Donald Trump để bày tỏ nỗi lo ngại về tình trạng an ninh tại các trường học. Người đứng đầu cường quốc số 1 thế giới ngồi yên lặng lắng nghe từng lời phát biểu của phụ huynh và sinh viên/học sinh trong cuộc gặp gỡ. Một trong những phương án mà chính quyền Mỹ đang nhắm tới là vũ trang cho các giáo chức Mỹ. Họ lý luận rằng nếu khoảng 20% những người có mặt tại mỗi trường học được vũ trang thì những sát thủ sẽ ít có cơ hội gây ra những cuộc thảm sát. Tuy nhiên chủ trương này đã không nhận được sự tán đồng của Liên đoàn Giáo chức Mỹ (AFT) với 1,7 triệu hội viên. Chủ tịch liên đoàn này là bà Randi Weingarten cho rằng vũ trang cho giáo chức không phải là một biện pháp phù hợp (BBC.co.uk).

Những cuộc gặp gỡ, nói chuyện thẳng thắn giữa người dân với nguyên thủ quốc gia trong sinh hoạt một nước dân chủ như Mỹ là điều không làm ai ngạc nhiên. Giữa ông Donald Trump với từng công dân Mỹ, vốn là những người bỏ phiếu bầu ông và đóng thuế nuôi bộ máy chính quyền do ông cầm đầu, có một mối quan hệ thẳng thắn và sòng phẳng, không ai mặc cảm với ai.

Song điều mang lại cho chúng ta nhiều cảm xúc hơn lại là những cuộc biểu tình do chính các em học sinh ở Florida và nhiều nơi trên đất Mỹ tổ chức để bày tỏ sự phản kháng trước bạo lực vũ khí. Các em tuần hành tại Washington D.C. với những biểu ngữ nêu rõ quan điểm, thể hiện sự phản kháng bằng cách nằm yên trong trật tự trên một bãi cỏ ngay trước Tòa Bạch Ốc. Hành động tự phát của các em nhận được sự tán đồng của các ban giám hiệu, biểu thị một ý thức công dân đúng đắn và một sự trưởng thành về mặt chính trị ngay khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường. Hành động đó sẽ không thể có được ở một nền giáo dục chủ trương nhốt chặt học sinh trong những chiếc rọ tư tưởng hẹp hòi và lạc hậu, biến họ thành “những con cừu của Panurge”, những con rối ngo ngoe dưới bàn tay điều khiển của người lớn, những người lớn chỉ biết nghĩ tới quyền lợi của bản thân, của phe nhóm, mưu toan biến tuổi trẻ thành công cụ của riêng mình.

Cung cách hành xử đúng mực, thẳng thắn của tuổi trẻ nước Mỹ là kết quả của một nền giáo dục khai phóng, lấy CON NGƯỜI làm lý tưởng phục vụ và chúng ta không ngạc nhiên chút nào khi biết rằng bây giờ và rất lâu về sau, nước Mỹ vẫn sẽ cung ứng cho nhân loại nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel nhất thế giới.

KINH NGUYỆN CỦA NHỮNG NGƯỜI CAO NIÊN

KINH NGUYỆN CỦA NHỮNG NGƯỜI CAO NIÊN

(được chuẩn ấn của TGM Montréal, 2.1983)

Lạy Chúa, đã hơn bảy mươi năm nay, Chúa ban cho con ân huệ được sống ở đời; và từ khi con sinh ra, Chúa đã không ngừng ban cho con tràn đầy ơn lành và tình yêu vô cùng của Chúa. Bao nhiêu năm nay, cùng chung số phận với mọi người, đời con trôi đi trong hân hoan xen lẫn phiền sầu, thành công xen lẫn thất bại, với bao bệnh hoạn và tang khó. Nhờ ơn Chúa phù hộ giữ gìn, con đã lướt thắng được các trở ngại và tiến lại gần Chúa. Ngày hôm nay, con cảm thấy được vô cùng an ủi, vì được Chúa ban cho có nhiều kinh nghiệm phong phú, và được Chúa chiếu cố đoái thương. Vì thế, linh hồn con không ngừng ca tụng tri ân Chúa.

          Tuy nhiên, hằng con gặp thấy quanh mình nhiều người cao niên mà Chúa đang thử thách nặng nề: Họ bị tê liệt, tàn tật, bất lực, và đôi khi không còn đủ sức cầu nguyện với Chúa; có những người mất hết mọi khả năng tinh thần, và trong một đời sống hư ảo vô thức, họ không còn thể tiếp xúc được với Chúa. Con nhìn ngắm họ và băn khoăn tự nhủ mình rằng: “Nếu tôi cũng bị như họ thì sao?”.

          Vì thế, lạy Chúa, ngày hôm nay, trong lúc còn được hưởng đủ mọi khả năng cử động và suy tư, con xin dâng lên trước việc sẽ chấp nhận vâng theo Thánh Ý Chúa; và ngay từ bây giờ con muốn rằng, sau này bất cứ gặp phải một thử thách nào như thế, con cũng xin dâng cho Chúa để làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Và cũng ngay từ bây giờ, con xin Chúa ban ơn phù trợ cho những người lúc đó sẽ lấy trách nhiệm giúp đỡ con.

          Nếu một mai bệnh tình xâm phạm tới trí óc con, khiến con mất sự minh mẫn, thì ngay từ bây giờ, trước mặt Chúa đây, con xin hứa trước sẽ vâng chịu, và vâng chịu trong trạng thái yên lặng kính thờ. Nếu mai này con bị chìm đắm trong tình trạng hôn mê kéo dài, thì con mong rằng mỗi giờ phút còn lại của đời con sẽ đều là những thời gian liên tục chúc tụng tri ân Chúa, và chớ gì hơi thở sau hết của con cũng sẽ là một hơi thở của lòng mến yêu. Con ước ao cậy trông rằng, vào giờ đó, con sẽ được Đức Mẹ nắm tay dẫn dắt đến trình diện trước Thiên Nhan để ca tụng ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.

 

Kinh nguyện này được đọc trong thánh lễ tạ ơn của những người cao tuổi (trên 70) ngày chủ nhật 09.10.2016, tại nhà thờ Thánh Marcô, Montréal, Quebec, Canada.

Anh Hồ Công Hưng gởi

Đừng quên mảng tốt nơi mỗi người

CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY

Đừng quên mảng tốt nơi mỗi người

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

(Suy niệm Tin mừng Mác-cô 9, 2-10 trích đọc vào Chúa nhật II mùa chay)

Khi Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ biết Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn! (Mc 8,31).

Không lẽ cuộc đời của Thầy Giê-su lại kết thúc bi đát đến thế ư?

Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giê-su trong vương quốc vinh hiển của Ngài, lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói sao! Nếu Chúa Giê-su mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ như thế nào đây?

Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giê-su ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Ngài đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (Mc 8, 32) 

Củng cố tâm hồn ba môn đệ

Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Ngài đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su” (Mc 9, 2-4).

Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phê-rô thưa với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”

“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài” (Mc 9,5-7).

Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giê-su trong giờ phút vinh quang của Ngài trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gio-an vững bước theo Chúa Giê-su đến cùng trên đường khổ nạn.

Hai mảng sáng- tối của đời người

Đời người thường có hai mảng sáng – tối đan xen nhau: có lúc thịnh thì cũng có lúc suy, có khi thành công cũng có khi thất bại, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.

Cuộc đời Chúa Giê-su cũng có mảng sáng, mảng tối. Mảng sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao; mảng tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm… Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mảng đen tối, u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giê-su bộc lộ nhân tính yếu đuối của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới, đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mảng sáng của Ngài trên núi cao, không thấy cuộc phục sinh vinh hiển của Ngài, thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng và sẽ đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh? Lấy ai loan báo Tin mừng cứu độ?

Vì thế, Chúa Giê-su cho các ông thấy mảng sáng của Ngài trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của mình, tỏ cho họ thấy Ngài là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi suy sụp khi chứng kiến cuộc khổ nạn đau thương sắp đến của Ngài.

Đừng quên mảng tốt

Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền xinh đẹp của nó, người ta sẽ thất vọng về nó.

Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải vinh dự của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.

Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì người ta sẽ xem thường nó.

Đối với người chung quanh cũng thế. Cuộc đời mỗi người đều có mảng sáng và mảng tối. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mảng đen tối của một con người, mà quên đi mảng sáng tươi tốt đẹp trong đời họ; nếu chỉ nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ thất vọng về người đó.

Lạy Chúa Giê-su,

Nhờ chứng kiến cuộc hiển dung vinh hiển của Chúa trên núi cao, các môn đệ cảm thấy vững tâm hơn khi đối diện với cuộc khổ nạn đau thương của Chúa;

Nhờ nhìn ngắm vẻ đẹp của những đoá hoa hồng, người ta mới dễ dàng chấp nhận những gai nhọn đáng phàn nàn của nó;

Xin cho chúng con, trong tương quan với tha nhân, cũng biết nhìn vào mảng sáng, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những điều đen tối xấu xa nơi họ.

Nhờ đó, chúng con sẽ thấy những người chung quanh dễ thương hơn; tương quan của chúng con với mọi người sẽ được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng con với nhau sẽ hạnh phúc hơn.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Mơ khách đường xa, khách đường xa,

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 2 mùa Chay năm B 25/02/2018

Tin Mừng (Mc 9: 2-10)

 Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su. Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Êlia.” Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi.

Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì.

 &      &     &

“Mơ khách đường xa, khách đường xa,”

“Áo em trắng quá, nhìn không ra…”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

– Mai Tá lược dịch.

 Khách đường xa, ra đi hôm ấy, có là khách lữ hành bàng quan vẫn cứ nhìn mà không thấy? Có thấy chăng Thầy Chí Ái đang hiển thị cùng ngôn sứ Êlya và Môsê chốn xa vắng, ở trình thuật?

Trình thuật, thánh Máccô, nay ghi về tình tự Chúa tỏ hiện ở chốn vắng xa, người không thấy. Thấy sao được, việc hiển thị thần thánh Chúa giãi bày tâm tư Ngài bước vào chốn cao siêu tỏ hiện, ở núi thánh. Nơi đó, có Chúa biến hình tỏ hiện cùng các Thánh. Nơi đó, còn có tiếng sấm từ trời cao gửi đến với dân con một thông điệp nghe rất rõ, chứng tỏ Ngài là Con Một của Chúa Cha. 

Hiển thị, không còn như hang đá lạnh buồn ngày Chúa Giáng hạ. Nhưng, là Phục Sinh quang vinh và ngày Ngài thẳng tiến về trời, thật hoành tráng. Quang vinh và hoành tráng, là chứng tích biểu tỏ sứ điệp vượt quá chuyện hằng ngày mà dân con đà chứng kiến, nhưng không hiểu. Sứ điệp hiển thị, vượt tầm hiểu biết của dân con mọi thời, tựa như Môsê từng thay đổi diện mạo khi diện kiến Giavê Thiên Chúa. Diện mạo Chúa hiển thị trên núi sáng rực như mặt trời. Áo Ngài rạng ngời tợ nắng thuỷ tinh, trinh khiết.

Tin Mừng nay cho thấy: đồ đệ Chúa tỏ ra kinh khiếp đến độ chẳng biết ứng xử ra sao cho thích hợp. Là thánh nhân, nhưng các ngài lại bắt đầu nói năng vụng về, đòi dựng ba lều lớn để Đấng Thánh Hiền trú ngụ nơi đó nhiều ngày. Chắc chắn một điều, là: đề nghị của đồ đệ hôm ấy là chuyện thường tình xảy đến mỗi khi con người mất quân bình cảnh giác, giống hệt người phàm ở ngoài đời.     

Cảm nghiệm về hiển thị, là chuyện xảy đến với dân gian mọi ngày ở đời thường, nhiều dẫn chứng. Từ những ấu bướm biến thành bướm sâu sầu buồn đời ngắn ngủi, cho đến cảnh người người ngạc nhiên hơn khi việc biến đổi/hiển thị xảy đến khi con trẻ được hạ sinh biến hình thành người mới, lúc chào đời. 

Về biến đổi/hiển thị, thánh Augustin cho rằng đó là nhiệm tích lớn lao hơn cả sự sống lại. Bởi, khi vào với thế giới qua tư cách của người mới trẻ trung vẫn cao cả hơn là về với sự sống, sau khi chết. Mỗi ngày và mọi ngày, người người vẫn trực diện nhiều biến đổi/hiển thị ngay trong đời. Hiển thị trong ta, là biến đổi sự sống rất tư riêng của chính mình. Là, dấu ấn rất giản đơn nhưng sâu đậm. Ngay bản vị con người cũng biến đổi/hiển thị hằng ngày về thân xác. Biến và đổi, vẫn là hình ảnh thay đổi về bản vị, thôi.

Rất nhiều lần, Đức Giêsu cũng có thời khắc yêu thương/nhận thức rất mực. Đó là thời khắc lúc Ngài tăng trưởng nơi bản thể rất người mà Ngài mặc lấy. Một trong những thời khắc dễ nhận thấy nơi Ngài là đặc ân/đặc quyền mà đồ đệ vui hưởng, tức sự hiện diện của Ngài ở vào thời khắc có một không hai ấy. Hiện diện, để nhận ra cuộc biến hình/đổi dạng ít khi thấy.  

Biến đổi/hiển thị dễ nhận thấy nhất là thời khắc Chúa thả bộ để đi vào với con đường thường tình mà loài người ít nghiệm sinh. Thả bộ chầm chậm là tư thế Chúa học hỏi nơi con người về một sự thể qua thử thách, sai sót xảy đến mỗi ngày. Hầu như mỗi ngày Ngài đều nhận ra điều mới mẻ của cuộc sống. Mới mẻ, nơi bản vị của Ngài. Mới mẻ, về người đời và đời người mà Ngài chấp nhận đưa vào với thiên tính. Đức Giêsu là con người thật có đủ mọi tình cảm bẩy thứ, rất bén nhạy.

Là Đức Chúa biến đổi thành người thường rất hiển thị, Ngài có được những thời khắc rất tinh tế về cả thương yêu, lo lắng, hãi sợ cũng như an vui, kinh ngạc, thích thú đến kích ngất. Mỗi lần tình tự của Người Con Chúa xuất hiện, Chúa đều thấy sự đổi đời ở bên trong. Mỗi ngày, Ngài đều khởi đầu một đổi mới/biến hình để trở thành bản vị biểu hiện cả nhân cách lẫn thiên tính, hợp ý Cha.

Thật ra, Đức Giêsu không là thần sứ linh thiêng gồm thiên binh/âm tướng chốn thiên đường. Mà, Ngài sống như một tiên tri cao cả thời Cựu Ước vẫn thể hiện nơi mình Ngài trong nhận thức đích thực về sự sống. Nhận thức ấy, Chính Chúa Cha đã tặng ban cho riêng Ngài. Nhưng, Ngài lại không giống như ngôn sứ/tiên tri có bản vị tựa như thế. Nơi Ngài, là sự thanh sạch ở nội tâm, chẳng mang nơi tâm địa cái gọi là “hội chứng xấu”. Ngài thích nghi trọn vẹn với thực tại loài người. Thực tại ấy, nằm gọn nơi niềm vui của bản vị “người”.

Ở đồng hoang chóp núi hôm ấy, Ngài biết rằng: Ngài hoàn toàn được Cha chấp nhận và trọn vẹn yêu thương như “người” thật cũng rất “người”. Với Chúa Cha, Ngài không là kẻ lạ đến từ hành tinh khác. Và Cha cũng chẳng tỏ ra xa lạ, đối với Ngài. Nói nôm na, thì bảo: đối với Cha, Ngài không là “bạn lâu lắm mới gặp”. Và, Chúa Cha cũng chẳng là “bạn lâu năm xa cách” nay trở lại với Ngài.

Quan hệ giữa Ngài với Cha và giữa Cha với Ngài, không là tương quan khi còn/lúc mất, khi trầm/lúc bổng. Nhưng là sự thật thể hiện nơi nhận thức giữa Ngài và Cha. Đức Giêsu nhận rõ Cha và muốn trở nên như Chúa. Chúa biết rõ Đức Giêsu và muốn trở nên như Ngài. Đây, đích thực là đổi thay/biến hình đang diễn tiến. Và, là diễn tiến hai chiều, rất thuận tiện. Bởi, Đức Giêsu đang mang trong mình đầy Thiên tính như Chúa và Chúa đang trở thành người thực như Đức Giêsu. Gọi đó là biến hình/hiển thị, hoặc nhập thể làm người, đều rất đúng. Điều rất đúng, nay biểu hiện/hiển thị nơi tiếng phát tự đám mây cho đồ đệ nghe thấy, vào buổi ấy: “Ngài là Con Chí Ái Ta, các ngươi hãy nghe lời Ngài.” (Mc 9: 9)

Ngay khi ấy, đồ đệ Thày chưa nắm bắt được ý nghĩa của câu nói. Nhưng cuối cùng, sau một thời gian dài theo chân Ngài, đồ đệ Chúa mới nhớ lại và nhận ra được điều ấy có nghĩa gì. Và một lần nữa, Đức Giêsu lại đã nhắc nhở dân con đồ đệ đừng loan truyền thông tin hoặc bàn luận gì về việc ấy cho đến ngày Ngài Phục Sinh, quang vinh. Và cuối cùng, các thánh cũng nhận ra được điều ấy.

Nhận ra điều ấy, cũng phải mất nhiều ngày dài trong Chay tịnh. Có khi còn lâu hơn. Kịp đến khi các ngài tin vào Lời Đức Giêsu và Lời của Cha, các thánh mới cảm nhận được kinh nghiệm quý báu này. Kinh nghiệm, là cảm được một nghiệm sinh quý giá mà chính Đức Giêsu và Cha Ngài đã chấp nhận và yêu thương các thánh cách trọn vẹn. Yêu thương và tận hưởng tư thế đồng hành với các ngài. Khi ấy, các thánh mới hiểu ra và yêu thương Đức Giêsu và Chúa của Ngài theo cách khác nhau, rất riêng biệt. Và các ngài cũng nhận ra được cuộc sống của các ngài sở dĩ đạt kết quả tức là đã biến hình/đổi dạng, rất hiển thị.

Và cuối cùng, các thánh cũng nhận ra rằng các ngài có thể làm như thế cho nhau, và cho mọi người. Mỗi khi các ngài hoàn toàn chấp nhận lẫn nhau, và/hoặc yêu thương bất cứ ai trong cộng đoàn Nước Trời của mình, thì động lực xúc tác lại sẽ bắt đầu hệt như thế. Chính đó là lúc, mối quan hệ giữa các ngài và mọi người cũng biến hình/đổi dạng, giống như Chúa. Và như thế, các ngài đã trở nên người anh, người chị có biến đổi, thành người mới.

Xem thế thì, Chúa nhật Biến Hình hôm nay chỉ là biểu hiện bất chợt thấy trước về Phục sinh quang vinh. Một thứ thư giãn buông lỏng sợ rằng Mùa Chay trở nên quá nặng nề với nhiều người. Đó là sứ điệp. Và, cũng là sứ vụ. Sứ điệp rằng, vì Đức Giêsu, nên dân con mọi người đều phải đổi thay. Sứ vụ là: nếu ta tin tưởng vào Đức Giêsu, ta là người có thể biến hình/đổi dạng thành người khác. Chỉ cần thật tình chấp nhận. Thật sự yêu thương. Và, quyết chí vui hưởng sự hiện diện của nhau, cách thực tình.

Vậy thì, mùa Chay này cũng nên tự hỏi lòng mình xem mình sẽ làm gì cho người khác. Có nên làm cho người khác biến hình/đổi dạng thành người mới không? Và, cũng nên tạo sự đổi mới cho chính mình, như một hiển thị, rất công minh, định hình, trong sáng.

Trong cảm nhận sự cần thiết biến hình/đổi dạng chính mình, cũng nên về với lời thơ mà ngâm lên:       

 “Mơ khách đường xa, khách đường xa,

Áo em trắng quá nhìn không ra…

Ở đây sương khói mờ    nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

(Hàn Mặc Tử – Đây Thôn Vỹ Dạ)

Áo em nay biến hình/đổi dạng thành mầu trắng đến độ anh nhìn không ra. Bởi, có nhìn vào cuộc đời mà đôi ta sống ở cõi trời đầy sương khói đến độ “mờ nhân ảnh” này, chỉ “tình ai có đậm đà”, mới là người tình nay biến đổi. Có biến và có đổi, suốt hành trình cuộc đời, mới là người thật được Chúa đồng hành, đỡ nâng, chấp nhận. Chấp nhận trong yêu thương, rất giùm giúp.  

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn

  – Mai Tá lược dịch.

 Vuisongtrendoi gởi