S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Hơi Thở Kiều Bào

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Hơi Thở Kiều Bào

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

 

 

 

 

 

 

 

Tổ quốc lắng nghe hơi thở của bà con kiều bào…

Nguyễn Xuân Phúc

Đảng tắt thở thì cuộc đời mới thở.

Nguyễn Chí Thiện

Cambodia có nhiều nơi mà tên gọi bắt đầu bằng từ ngữ kampong: Kampong Thon, Kampong Speu, Kampong Cham, Kampong Chhnan… Tôi xem bản đồ thì thấy là những địa danh này đều nằm ở ven sông, rồi hỏi ra mới biết rằng kampong(trong ngôn ngữ Khmer) có nghĩa là bến bãi. Cũng tựa như người Việt gọi Bến Thành hay Bến Ngự vì cả hai ngôi chợ này đều nằm cạnh bờ sông.

Tôi ghé Kampong Chhnan nhiều lần nhưng mãi đến hôm rồi mới biết là nơi đây có một xóm nhỏ tên thuần Việt là Bến Ván. Cũng như tất cả những bờ bến khác, Bến Ván nằm sát mé sông (sông Tonlê Sap) cách Phnom Penh chừng 70 KM về hướng Bắc. Cứ đi theo quốc lộ 5 – đến ngay cột cây số 66 – sẽ thấy bên phải có ngã rẽ vào một hương lộ nhỏ, vắng tanh.

Xe tiếp tục chạy tung bụi đỏ mịt mù khiến tôi có cảm tưởng là mình sẽ đi vào một … cõi hư vô nào đó nhưng chả bao lâu thì chợt thấy lờ mờ phía trước là một đám đông. Hoá ra là một cái chợ lộ thiên. Có lẽ vì không mấy khi có một chiếc xe bốn bánh lạc lõng tới đây nên lòng đường bị bạn hàng lấm chiếm đến hơn phân nửa. Phải bóp còi inh ỏi không ngừng mới vượt qua thêm được một đoạn đường chỉ chừng hai hay ba trăm mét.

Sau chợ đến chùa, nếu có thể gọi một gian nhà sàn với vài ba tượng phật là một ngôi chùa – chùa Bến Ván. Kề cạnh là một gian khác (nhỏ nhắn hơn) tứ bề cũng trống huơ trống huếch. Bên trong có kê mấy cái bàn thô ráp, hơi dài, được giới thiệu là trường học – trường Bến Ván.

 

 

 

 

 

 

Chùa & Trường Bến Ván. Ảnh chụp năm 2018

Thầy trụ trì tuy chưa bước vào ngưỡng cửa tứ tuần nhưng tóc đã lốm đốm bạc rồi. Cử chỉ và ngôn từ của ông đều vô cùng điềm đạm:

  • Sư đệ mất gần mười năm nhưng mới thực hiện được có bi nhiêu đó thôi à.
  • Bộ Phật tử không cúng dường gì hết trơn, hết trọi sao?

Nhà sư chỉ tay xuống mấy chụp túp lều lụp xụp, bồng bềnh dưới mé sông, với ít nhiều ái ngại:

  • Đồng bào mình ở đây nghèo lắm, và đều là dân chài hết nên kêu gọi họ đóng góp chả khác nào khuyến khích sát sanh nên sư đệ sợ mang tội.  
  • Còn Hội Việt Kiều có giúp đỡ gì mình không sư?

Tôi hỏi theo thói quen nghề nghiệp chớ cũng đã đoán trước được câu trả lời:

  • “Không dám giúp đỡ” đâu. Họ không sách nhiễu là mừng muốn chết rồi. May nhờ mấy ông xã ấp người Miên họ thương và bênh vực dữ lắm lắm nên bây giờ mới được yên như vậy đó, chớ mấy năm trước hội cứ cho người tới kiếm chuyện rầy rà hoài hà!

Tôi niệm thầm (“Nam Mô A Di Đà Phật”) thay cho một tiếng thở dài, cố nén:

  • Thiệt ra thì ở đâu có hội này là chỗ đó phải có chuyện thôi, sư ơi.

Tôi nói hết sức nhỏ nhẹ, và cũng rất thực lòng, như một lời an ủi gửi đến một vị tu sĩ trẻ đang bơ vơ hoằng pháp giữa quê người đất khách. Dù chỉ loanh quanh ở Biển Hồ vài ba năm nay thôi nhưng thái độ, cũng như cung cách làm việc của nhân viên Đại Sứ Quán Việt Nam (và Hội Việt Kiều) ở cái Xứ Chùa Tháp này thì tôi … rành lắm. Tôi “đụng chuyện” với họ hoài mà.

Lẽ ra tui cũng không thèm nói đâu nhưng mới rồi nghe ông Nguyễn Xuân Phúc lên giọng giả nhân/giả ngãi (“Tổ quốc lắng nghe hơi thở của bà con kiều bào, đặc biệt lắng nghe những nguyện vọng, những ý kiến đóng góp quý báu của bà con dành cho đất nước …) nên cũng xin có đôi lời xin thưa cùng “tổ quốc” cho nó tỏ tường.

Là thành viên của một hội thiện nguyện (Hiệp Hội Vì Dân – Vidan Foundation) tôi được cử đến làm việc ở trường làng Kandal – cũng thuộc Kampong Chhnan, cách Bến Ván cỡ 70 cây số về hướng Bắc – do Hội Đồng Hương Perth Tây Úc (cùng với sự bảo trợ của 2VNR Radio) khởi công xây cất từ năm 2010.

Khi tới nơi, vào cuối năm 2014, tôi mới biết rằng ngôi trường khang trang này không có nước cũng không có điện luôn. Loay hoay mãi mới bắt được nước, câu được điện, để có thể xử dụng được nhà vệ sinh, và gắn đèn với quạt cho ba lớp học. Trước khi rời khỏi đây, tôi cũng xin được Hiệp Hội cho phép gửi lại một số tiền tráng xi măng nền trường, vốn bằng đất nện, để biến nó thành sân chơi cho học sinh (vào mùa nước cạn) và hẹn sẽ quay lại trước Hè.

Về chưa được nửa đường, mới tới sân bay Taoyuan (Đài Loan) đã nghe có chuyện phiền hà̃: Hội Việt Kiều cho người tới điều tra coi nguồn tiền ở đâu ra mà bắt nước, kéo điện, lắp đèn, lắp quạt tùm lum thứ vậy? Có biết tên tuổi, lý lịch của người tài trợ không? Họ còn đòi kiểm soát sách giáo khoa, sợ dậy sai đường lối chính sách, dù trường làng Kandal chỉ dậy tới lớp ba thôi!

Qua năm 2015 – 2016, tôi được cử đi làm việc với mấy trường học có dậy tiếng Việt ở Neak Loeung (tên Việt là Hố Lương) một thành phố nhỏ giáp biên Miên/Việt, cách thủ đô Nam Vang 65 KM về hướng Đông Nam.

Thì cũng gọi là trường vì quen miệng chứ thực ra thì đây là những lớp học tuyềnh toàng, tạm bợ. Tuy học phí mỗi ngày chỉ là 500 riels tiền Miên (cỡ 12 xu U.S.D) nhưng số học sinh hiện diện vẫn rất thất thường vì còn tùy thuộc vào khả năng (chạy ăn từng bữa) của cả gia đình.

Trường Hố Lương. Ảnh chụp năm 2016

Với khả năng tài chính (rất giới hạn) của Hiệp Hội, chúng tôi chỉ có thể thực hiện được những trợ giúp vô cùng nhỏ nhặt: tặng sách bút chỗ này, thêm bàn ghế chỗ kia, cơi nới chỗ nọ cho thêm rộng, và mọi trường đều được tài trợ để cả thầy lẫn trò yên tâm hơn … trên con đường học vấn!

Chỉ vậy thôi nhưng khi chúng tôi trở lại lần thứ hai là có chuyện liền. Đang ngồi ăn trưa tại nhà của một người dân địa phương thì mấy cái xe Honda đã lạng tới lạng lui trước cửa, với mấy khuôn mặt rất cô hồn cùng ánh mắt vô cùng soi mói.

  • Đám công an bên Hồng Ngự đó. Sao mà họ biết tin lẹ qúa, vậy Trời!

Chủ nhà nói như than. Ngay sau đó thì điện thoại kêu. Không rõ nội dung cuộc điện đàm ra sao, chỉ nghe khổ chủ cuống quýt vâng dạ liên hồi. Xong, ông nhỏ giọng phân trần:

  • Nhân quyền không biết ở tận đâu, chớ chính quyền thì gần lắm. Dù nằm ở bên kia biên giới nhưng đồn công an Hồng Ngự chỉ cách nhà tui có vài chục cây số thôi hà!Ngay lúc đó, tôi thực tình không tin rằng đám công an VN có thể lộng hành đến như vậy trên lãnh thổ của một nước láng giềng có chủ quyền. Chả qua vì dân Việt ở Cambodia hiền lành quá nên bị họ bắt nạt thôi. Nhưng đến giờ thì tôi biết rằng mình lầm lớn, và lầm lắm.
  • Ngày 17 tháng 2 năm 2018 vừa qua, nữ biên tập viên Zeitmagazin cho hay rằng mật vụ Việt Nam có thể sẽ vươn tay tới những người bất đồng chính kiến tại Đức. Hai hôm sau, tờ báo này cho biết thêm: “Ngay tại nước Đức người Việt Nam cũng không nên nói và viết lên sự thật – bằng không họ sẽ bị hăm dọa và tấn công.”

Giữa thủ đô Đức Quốc mà đám đàn em của Đại Sứ Côn Đồ Đoàn Xuân Hưng còn dám hăm he cho nhà báo Bùi Thanh Hiếu và Lê Trung Khoa “ăn tiết canh ngan” thì xá chi cái mạng (nhỏ xíu xiu) của một ông kiều bào vô danh, đang sống lây lất ngay sát cạnh ranh giới Việt/Miên.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Kiều bào Cambodia. Ảnh chụp năm 2017

Hung hãn như vậy đó nhưng khi “Campuchia tước quyền công dân 70.000 người gốc Việt” thì tất cả im re. Bản tin của Đại Sứ Quán Việt Nam tại Cambodia  còn không hề có được một dòng chữ nào về sự kiện vô đạo lý và pháp lý này. Trong lúc thiên hạ vô cùng hoang mang thì người phát ngôn của bộ ngoại giao ta, bà Lê Thị Thu Hằng, “phát ra” một câu thúi hoắc –  y như tiếng rắm: 

Việt Nam và Campuchia có quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống tốt đẹp. Cộng đồng người Campuchia gốc Việt sinh sống ở Campuchia đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Campuchia cũng như vun đắp quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước. Trên tinh thần đó, Việt Nam mong muốn Campuchia tiếp tục tạo điều kiện pháp lý thuận lợi và có biện pháp phù hợp để đảm bảo các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người Campuchia gốc Việt.

Sau bà Hằng lại đến ông Phúc: “Tổ quốc lắng nghe hơi thở của bà con kiều bào…”  Tôi lậy cả ông lẫn bà, đám dân trôi sông lạc chợ ở Cambodia đã khổ lắm rồi, cho họ xin hai chữ bình an đi!

Việt Nam bị xếp hạng thấp về thượng tôn pháp luật

RFA
2018-03-02
 
 
 

Ảnh chụp màn hình báo cáo về Việt Nam của WorldJustice

Ảnh chụp màn hình báo cáo về Việt Nam của WorldJustice

 Courtesy Worldjusticeproject.org
 

Dự án Công lý Thế giới (World Justice Project) vừa công bố “Chỉ Số Thượng Tôn Pháp Luật” của thế giới năm 2017-2018 qua đó cho thấy Việt Nam tụt 7 hạng so với năm 2016, xếp hạng 74 trên 113 quốc giá được đánh giá.

Cụ thể theo báo cáo Việt Nam chỉ đạt điểm số 0,5; xếp hạng 74. So với Trung Quốc, Việt Nam cao hơn 1 hạng (75). Trong khu vực Đông Á- Thái Bình Dương, Việt Nam  xếp thứ 11/15, và ở vị trí 10/30 nước có mức thu nhập trung bình thấp.

Các nước khác trong khu vực Đông Nam Á có thứ hạng trên thế giới lần lượt là Singapore 13, Malaysia 53, Indonesia 63, Thái Lan 71, Philippines 88, Myanmar 100, Cambodia 112…

Dự án Công lý Thế giới thực hiện bản báo cáo dựa trên hơn 100.000 khảo sát đối với người dân và chuyên gia tại 113 quốc gia và vùng lãnh thổ về các quy định của pháp luật được thực thi như thế nào trong từng tình huống cụ thể, hàng ngày.

Điểm số dành cho mỗi quốc gia được dựa trên 44 yếu tố trong 8 nhóm gồm: kiểm soát quyền lực chính phủ, không có tham nhũng, chính phủ minh bạch, các quyền căn bản, trật tự và an ninh, khả năng chấp pháp, công bằng dân sự và luật hình sự.

03/03/1952: Tối cao Pháp viện ra phán quyết về giáo viên cộng sản

03/03/1952: Tối cao Pháp viện ra phán quyết về giáo viên cộng sản

Nguồn: Supreme Court rules on communist teachersHistory.com

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Vào ngày này năm 1952, trong một cuộc bỏ phiếu với tỉ lệ 6-3, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã quyết định duy trì một luật của bang New York cấm các giáo viên cộng sản giảng dạy ở các trường công lập. Xuất hiện trong thời kỳ “Nỗi sợ Cộng sản” bao trùm khắp đất nước, quyết định của Tối cao Pháp viện là bằng chứng bổ sung cho thấy nhiều người Mỹ đang quan ngại về hoạt động lật đổ của Cộng sản có thể sẽ xảy ra ở nước họ.

Đạo luật của bang New York – được gọi là Luật Feinberg (Feinberg Law) – cấm bất kỳ ai kêu gọi lật đổ chính phủ trở thành giáo viên, đạo luật đặc biệt nhắm vào phe cộng sản. Một số tiểu bang khác cũng thông qua các biện pháp tương tự. Tại New York, một nhóm giáo viên và phụ huynh đã phản đối đạo luật này, và cuối cùng vụ việc được đưa lên Tối cao Pháp viện.

Tờ New York Times tuyên bố quyết định của đa số đã ủng hộ Luật Feinberg, ủng hộ niềm tin rằng “nhà nước có quyền hiến định để bảo vệ những tâm hồn non nớt của trẻ em trong các trường công lập khỏi tuyên truyền lật đổ, dù là kín đáo hay lộ liễu, được phổ biến bởi chính những người ‘mà các em noi theo để nhận sự hướng dẫn, uy quyền và lãnh đạo.’”

Ý kiến bất đồng quan điểm của các thẩm phán William O. Douglas, Hugo Black và Felix Frankfurter đã cáo buộc rằng đạo luật của bang New York đã “biến hệ thống trường học thành một dự án gián điệp.” Ở New York, Liên đoàn Giáo viên tuyên bố sẽ tiếp tục phản đối Luật Feinberg. Đã có tám giáo viên bị sa thải theo quy định của đạo luật và nhiều người khác phải đối mặt với các phiên điều trần.

Quyết định của Tối cao Pháp viện là một thước đo cho tình hình của cả nước. Trong những năm trước vụ việc, cựu quan chức Bộ Ngoại giao Alger Hiss đã bị kết án về tội khai man liên quan đến lời khai về mối liên hệ của ông với Đảng Cộng sản; Julius và Ethel Rosenberg đã bị luận tội và kết án tử hình vì đã chuyển giao bí mật nguyên tử cho Liên Xô; và Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy đã có một sự nghiệp lẫy lừng nhờ việc săn lùng thành viên cộng sản trong chính phủ.

Đến năm 1952, nhiều người Mỹ đã bị thuyết phục rằng rất nhiều đặc vụ cộng sản và những người ủng hộ họ đang hoạt động tích cực tại Mỹ và lực lượng của họ đã thâm nhập vào mọi khía cạnh của đời sống nước Mỹ. Luật Feinberg tiếp tục có hiệu lực cho đến khi một quyết định của Tối cao Pháp viện năm 1967 tuyên bố hầu hết các điều khoản của nó là vi hiến.

Niềm tin

 
 
Image may contain: 3 people, people smiling, text
Đinh Văn HảiFollow

 

Niềm tin.

***
Vì sao dân không còn tin vào cách xử lý của “chính quyền”?
1. Khi thảm họa môi trường xẩy ra thì “chính quyền” đã làm gì?
A/ Tìm mọi cách che dấu thủ phạm gây ra thảm họa môi trường.
B/ Tổ chức các hoạt động tuyên truyền mị dân để che đậy hiểm họa sức khỏe cho dân chúng.
C/ Tổ chức ngăn chặn, đàn áp hoạt động biểu tình phản đối môi trường ô nhiễm.
C/ Lừa bịp thương nhân mua trữ cá nhiễm độc, làm nhiều doanh nghiệp nghề cá phá sản.
2. 42 năm độc quyền mà vẫn chưa chuẩn hóa hoạt động giao tiếp với người dân. Thích mời là mời, thích triệu tập là triệu tập. Thích thì bắt bớ giam cầm, bức cung, nhục hình, tra tấn vô tội vạ.
3. Quyền biểu tình, quyền tự do ngôn luận, tự do tiếp cận thông tin, lập hội lập nhóm của người dân bị xâm hại.
4. Sản xuất quá nhiều chủ trương, chính sách, văn bản luật và dưới luật để “chính quyền” tự do hành xử kiểu luật rừng.
5. Dùng quyền lực chính trị để bảo kê cho hoạt động đặc quyền kinh doanh. Đặc biệt là mọi cty, tổng cty, tập đoàn kinh tế nhà nước đều thua lỗ và bắt dân gánh chịu hàng núi nợ công.
6. Tự đặt ra hơn 432 loại thuế, phí, phụ phí, phụ thu nhằm vắt kiệt sức dân.
7. Tước đoạt quyền tư hữu tư liệu sản xuất, đất đai bởi tự đặt ra luật một cách phi lý.
8. Chế độ tuyển nhân viên quan chức theo chủ trương nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ, còn thì mặc kệ. Tuyển dụng con cháu quan chức dốt nát kế thừa quyền lực kiểu hôn nhân cận huyết loạn luân.
9. Luật chỉ để xử ép dân chứ không xử quan chức đảng viên khi họ phạm tội.
10. Hành xử bội ước với Hiến pháp, luật pháp quốc gia và các công ước đã ký kết với quốc tế.
Vậy thì dân nào còn đặt niềm tin và cách hành xử của “chính quyền”?

Ước muốn cuối cùng.

To Truong shared Ron Dinh‘s post.
 
 
Image may contain: 2 people

Ron Dinh

 

Ước muốn cuối cùng.

Một tử tù đang chờ thi hành án, anh cầu xin một điều ước cuối cùng là một cây bút chì và một tờ giấy. Sau khi viết cho một vài phút, anh nhờ nhân viên bảo vệ nhà tù gửi giúp bức thư này cho người mẹ ruột của mình.

Trong thư anh viết …

Mẹ, nếu có công lý trong thế giới này, con và mẹ nên bị kết án từ hình cùng nhau. Mẹ cũng có tội cũng như con vì những gì con đã làm.

Mẹ hãy nhớ lại đi, khi con ăn cắp chiếc xe đạp của thằng bé gần nhà. Mẹ đã giúp con giấu chiếc xe đạp đó đi để bố không nhìn thấy nó. 

Mẹ có nhớ lần con lấy trộm tiền từ ví của người hàng xóm không? Mẹ đã đi siêu thị mua sắm cùng với con.

Mẹ có nhớ ai đã bênh vực con khi con cãi lại bố đến nỗi bố phải bỏ đi không? Bố chỉ muốn sửa dạy con vì con đã gian lận trong bài thi và cuối cũng là con phải bị đuổi học.

Mẹ ơi, lúc đó con chỉ là một đứa trẻ, không lâu sau con đã trở thành một thiếu niên hư nghịch và bây giờ con đang là một tử tù chờ thi hành án.
Mẹ ơi, lúc đó con chỉ là một đứa trẻ con cần được bao biện, nhưng cái thực sự con cần là được sửa trị.

Nhưng thôi, con tha thứ cho mẹ! Con chỉ muốn viết thư này để nó có thể đến được nhiều người khác đang làm cha làm mẹ, với hi vọng rằng, họ có thể nhận ra điều tạo nên người tốt kẻ xấu trên thế giới này là sự giáo dục.

Cảm ơn mẹ đã cho con cuộc sống và cũng đã giúp con đánh mất nó.

Đứa con tử tù của mẹ.

“Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới.” (Nelson Mandela)

Xã hội làm ‘nô lệ’ cho thánh thần và dấu hiệu ‘mạt vận’ của văn hoá

Xã hội làm ‘nô lệ’ cho thánh thần và dấu hiệu ‘mạt vận’ của văn hoá


Một xã hội khói hương

Nói ra thì bảo báng bổ, nhưng cứ thử nhìn mà xem, tháng Giêng năm nào, người ta cũng thấy rõ ràng nhất, đầy đủ nhất cái sự mê tín đến khủng khiếp của người Việt.

Một xã hội “khói hương”, với hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn người chen chân mang vác thủ lợn, gà luộc, vàng mã, đủ thứ lễ lạt cồng kềnh và cầu kỳ khắp các chùa chiền, miếu, phủ; từ nơi xa xôi hẻo lánh đến thị thành nhộn nhịp; từ đầu tuần tới cuối tuần, dai dẳng hết cả tháng Giêng, tháng Hai, có nơi còn vắt sang tháng Ba. 

Đâu đâu cũng thấy những người là người, nghi ngút khói hương, sì sụp khấn vái, cầu ước.

Xa xôi gì đâu, mới cách đây mấy ngày, dư luận khiếp đảm chứng kiến một cuộc hỗn chiến dã man bằng nắm đấm, gây gộc, hung hăng và máu để cướp cho bằng được quả “phết”, tại Phú Thọ. Vì tương truyền, có quả ấy trong nhà, cả năm sẽ may mắn, ăn nên làm ra, rồi cả …đẻ con trai. 

Tối hôm sau, hàng chục nghìn người xếp hàng dài cả cây số, tràn khắp các con đường, ngay trục giao thông trung tâm của Thủ đô, vái vọng xa tít tắp vào ngôi chùa Phúc Khánh vì đặt niềm tin vào sự linh thiêng của nơi này.

  Biển người chen chân đi lễ đầu năm ở chùa Phúc Khánh.

Biển người chen chân đi lễ đầu năm ở chùa Phúc Khánh.

 
 

Mùi của khói hương là mùi của bình an, của tĩnh tại, của thời khắc thiêng liêng, của ước vọng tốt đẹp và hướng thiện. Thứ mùi ấy, nhất định không thể tồn tại giữa xô bồ và toan tính.

Cũng đêm đó, ở đền Trần Nam Định, hơn vạn người chen lấn, giẫm đạp, nhảy bổ lên cả lư đồng, bàn thờ để cướp bằng được một chút lộc mang về nhà. Lộc ấy, dù được cướp theo cách báng bổ nhất, cũng được nâng niu như thứ bùa hộ mệnh cho lòng tin mãnh liệt vào đường công danh, thăng quan tiến chức.

Rồi các phủ, các đền, chùa, miếu mạo…cứ sau Tết là tấp nập người ra kẻ vào, khổ sở chen lấn, sớ cầu xin nào cũng dài dằng dặc ti tỉ ước mong.

Thôi thì, cầu mong những điều may mắn, tốt đẹp, an vui trong ngày đầu xuân năm mới vốn là truyền thống tốt đẹp của người Việt bao đời. Những địa danh tâm linh ấy, cũng được dựng lên từ ý nghĩa văn hóa và lịch sử đầy nhân văn của cha ông. 

Nhưng thử hỏi, bao nhiêu người trong số các khách thập phương xa gần kia, mang cái tâm hướng thiện và cầu bình an thực sự đến với những nơi linh thiêng. Hay nhiều hơn thế, những kẻ đang hùng hổ cướp lộc và len lén mua khói bán nhang, mua thần bán thánh đến cầu khấn những điều biểu lộ sự tham lam vô độ của lòng người.

  Nhảy bổ lên cả lư đồng, bàn thờ để cướp bằng được một chút lộc mang về nhà tại đền Trần (Ảnh: Zing)

Nhảy bổ lên cả lư đồng, bàn thờ để cướp bằng được một chút lộc mang về nhà tại đền Trần (Ảnh: Zing)

Mùi của khói hương là mùi của bình an, của tĩnh tại, của thời khắc thiêng liêng, của ước vọng tốt đẹp và hướng thiện. Thứ mùi ấy, nhất định không thể tồn tại giữa xô bồ và toan tính. 

Từ bao giờ, niềm tin của con người được “gá” vào thánh thần chứ không phải giữa con người với con người, giữa con người với ngay chính xã hội mà chúng ta đang sống, đang tồn tại hiển nhiên như vậy?

Cả một xã hội khấn vái, ước ao, một xã hội biến mình thành nô lệ của hương khói và thánh thần.

MƯỜI BỐN

Thanh Tran shared Kim Le‘s post.

 

Image may contain: one or more people, crowd and outdoor

Kim Le

MƯỜI BỐN

Bạn bảo: phải đến sớm nhận chỗ chứ đúng giờ thì đông kín không len nổi.

Chùa Phúc Khánh. Đêm 14. Mỗi suất 200 000 đ. Tổng thu 28 tỉ đồng. 14 vạn suất.

14 vạn suất cầu xin. Chầu chực mới được xin. Bỏ tiền mua suất được xin. Nghe một tên sư quốc doanh ban phát bố thí cho chút hy vọng về một tương-lai-bấp-bênh-có-thể-vì-lòng-thành-phủ-phục-mà-có-thể-có-bớt-chút-nào-đen-tối.

14 vạn người len nhau, để được quyền xin cái không có.

14 vạn. Cho một tối.

Tối nay sẽ 15 vạn hoặc hơn.

Tối 18 lại 18 vạn nữa.

Đến hẹn lại lên, lại nườm nượp rủ nhau cúi lưng đi xin giả dối.

Tôi, chăm chỉ cần cù, đã đi nhiều lần mười bốn tháng, qua nhiều lần mười bốn nghìn cây, mới gặp được, khắp mười bốn phương trời, mười bốn người bạn tâm đắc, mười bốn lứa tuồi, mười bốn con đường yêu quê hương, thương đồng loại.

Họ, 14 vạn, hình như cũng đi tìm gì đó. Có thấy không? Hay chỉ mong mãi được bình yên làm nô lệ? Nhưng khổ, cầu thế chứ cầu nữa cũng đâu có bình an rào rào từ trên trời rơi xuống! Nếu có thì đã chả kỷ lục thế giới về ung thư, về thức ăn độc hại, về ô nhiễm, về tệ nạn, về thất nghiệp, về xuất khẩu lao động, xuất khẩu mại dâm, xuất khẩu cô dâu tuyệt vọng.

Nhìn những đám đông tuyệt vọng này, nhất loạt hướng về tên sư quốc doanh Thích Thanh Quyết, hay một kẻ khác, như hắn, ma giáo kinh doanh nỗi sợ, tôi luôn ao ước có ngày nào, cùng bạn bè mười bốn phương trời, nắn được những dòng suối mười bốn vạn đó, chảy về miền yêu thương, ước vọng, miền thực sự có ánh sáng, nơi ta TẠO RA tương lai thay vì cầu xin ảo giả.

Mười bốn, mười rằm hay mười tám, tôi chúc cho mỗi người trong 14 vạn này đọc nhiều hơn chút, nghe, nhìn nhiều hơn chút, gặp gỡ thêm người tốt để tự cởi bớt dây trói u mê.

Vầng trăng trên cao, chứng cho lòng tôi mong nhé!

20180301

NẮNG

“KHÔNG CÓ LÝ DO GÌ CHÚNG TA CỨ NGHÈO MÃI”

Thanh Tran shared Amy Truc Tran‘s post.
 
Image may contain: 1 person, text
Amy Truc TranFollow

 

“KHÔNG CÓ LÝ DO GÌ CHÚNG TA CỨ NGHÈO MÃI”. Ông Trần Văn – nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội đã phát biểu như thế. Thấy hơi ngạc nhiên vì ông dùng từ “chúng ta”. Tại vì công tâm mà nói thì chỉ có dân nghèo, chứ quan chức như ông thì giàu sụ. 90 triệu dân, từ người trẻ cho đến người già, từ đàn bà cho đến trẻ em, ai nấy phải è cổ ra nuôi cả 1 lũ quan tham ăn tàn phá hại ko từ thứ gì, thử hỏi làm sao mà dân ko nghèo???

http://m.dantri.com.vn/…/khong-co-ly-do-gi-chung-ta-cu-nghe…

THƯ GỬI CHO NGƯỜI VỪA NẰM XUỐNG: NHẠC SĨ NGUYỄN VĂN ĐÔNG

Nghe tin anh vừa mất, đột nhiên, em như người tụt rơi xuống hố sâu, hụt hẫng, lao đao, hai tay quờ quạng như muốn níu kéo lấy một điểm tựa nào đó không có thật, và khi không nắm được chỗ nào cả thì hoảng hốt, sợ hãi vô cùng. Mắt em như mờ hẳn đi, không nhìn thấy gì dù màn ảnh của chiếc máy computer dựng ngay trước mặt.

Có thật anh đã ra đi rồi không? Sao lại không gọi em một tiếng nào? Mấy năm nay, tuy em bị cắt liên lạc với anh, nhưng em vẫn theo dõi tin anh qua những người quen, và có một lần, đọc một bài báo của ai đó phỏng vấn anh, em rất mừng vì thấy anh vẫn khỏe. Tết vừa rồi, em lại liều gửi điện thư chúc Tết anh chị dù biết rằng có thể như những lần trước, thư của em lại lọt vào trong thùng rác, hoặc bị lấy mất bởi những chuyên viên rình rập trên mạng. Chuyện này chắc chắn xẩy ra, vì cách đây mấy năm, sau khi các thư em gửi cho anh đều bị trả lại, em liều gọi điện thoại đến anh, để thăm hỏi vài câu ngắn ngủi, thì cũng chỉ được nghe anh nói vắn tắt vài lời: “Anh xin lỗi em, từ nay không liên lạc được với em nữa. Anh bị công an đe dọa: “cấm liên lạc với tên nhà văn phản động kia, kẻo sẽ bị cắt điện thoại”. Em thông cảm cho anh nhé.” Rồi anh cúp máy! Thế thôi! Từ đó đến nay, em không còn nhận điện thư của anh nữa. Em buồn lắm! Không được chuyện trò với anh như trước, em cảm giác chơi vơi cùng tận, vì trong tâm hồn của em, vẫn tràn đầy nhiều kỷ niệm với anh, với người Thầy đáng kính. Em vẫn nhớ ngày em đi Mỹ theo diện H.O.1, anh lập cập chống gậy, nhờ người quen chở anh đi xe gắn máy, đến tận phi trường tiễn em. Khi em bước vào trong hàng rào ngăn cách, anh còn đứng đó và giơ bàn tay gầy ốm vẫy mãi cho đến khi em phải quay lưng đi vào phòng cách ly. Thế là lần cuối cùng gặp anh đấy.

Anh kính mến,

Ngày hôm nay, trong cơn gió lạnh của California, bao nhiêu kỷ niệm tràn về đầy ắp. Em nhớ lại thời gian khi còn trong tù, anh chỉ dẫn cho em từng nốt nhạc vọng cổ, và vì lúc đó anh bệnh nặng quá, nên sự cố gắng dậy bảo của anh làm anh ứa máu, em đã sợ hãi mà ngăn anh lại: “Thôi! Thôi! Anh nghỉ đi! Đừng nói nữa! Máu chẩy ra miệng anh kìa!” Anh lắc đầu, lấy vạt áo tay chùi máu miệng, và nói: “Không ngừng được! Anh phải dậy em bây giờ! Anh không biết lúc nào anh chết, nên phải truyền hết kinh nghiệm cho em, kẻo mai mốt anh chết, thì không có người tiếp tục!” Và cứ thế, bất chấp sức khỏe càng ngày càng sa sút, máu cứ chẩy ra ngoài miệng, anh đã dậy cho em từng câu nhạc Vọng cổ, từng cách viết kịch bản cho một vở tuồng cải lương, cổ nhạc. Vì các đốt ngón tay anh đã bị chất vôi phù lên, cứng ngắc, không sử dụng được, anh đã ngồi xổm trên chiếu, kẹp chiếc bút chì vào giữa ngón chân cái và ngón kế tiểp để vẽ lên các nốt nhạc to bằng quả trứng gà, cũng như các tiết tấu và kết cấu từng câu nhạc, thật công phu vô cùng. Em biết là viết như vậy, anh đau lắm và vất vả lắm, nhưng anh vẫn kiên trì truyền hết kinh nghiệm cho thằng em kém cỏi này và cũng vì biết nỗ lực của người Thầy như anh thật là hiếm có trên đời, nên em đã cố gắng làm vui lòng anh bằng cách sáng tác các bài ca Vọng cổ, cũng như các bài tân nhạc rồi hát cho anh nghe, để thấy anh mỉm cười, mãn nguyện là em mừng. Dĩ nhiên, khả năng của em không đủ để theo kịp sự dậy dỗ của anh, khiến có vài lần anh nhăn mặt, mắng: “Em cứ có cái tật phăng-tê-di! Không chịu theo khuôn phép gì cả! Hòa âm gì kỳ cục thế! Viết lại!” Để sau khi em sửa lại rồi, anh vẫn lắc đầu, thở dài: “Thôi! Cái tật ẩu không bỏ được!” rồi anh lại gật đầu, cười mỉm: “Thế mà lại hay! Mỗi người sáng tác đều có những cái riêng của mình, không ai giống ai.”

Em vẫn nhớ, ngoài những lúc học sáng tác, hòa âm, anh kể cho em nghe những chuyện tình thời trai trẻ của anh, độc đáo và hấp dẫn vô cùng. Ngày anh còn ở trường Thiếu Sinh Quân, tự viết nhạc cho anh em hát, ngày anh đeo lon Trung Úy, rồi Đại Úy.. và những lần anh làm trưởng ban nhạc đi trình diễn bên Pháp… bao nhiêu cô theo, trong đó có một mối tình thật ác liệt của một cô ca sĩ, kịch sĩ nổi tiếng…Rồi đến ngày anh cưới vợ, cô kia đánh ghen ra sao…ảnh hưởng đến quân vụ của anh như thế nào.. Và để trả thù, cô kia đã thuê một nhà văn cũng rất nổi tiếng viết lại chuyện tình của anh đăng báo, hầu làm chậm bước thăng tiến trong đời binh nghiệp của anh.. và cách anh giải quyết mọi chuyện như một giấc mơ.. vừa sáng trí vừa lãng mạn. Em ngồi nghe anh kể chuyện mà mắt cứ mở to, ngưỡng mộ quá chừng.

Rồi em được trả tự do trước anh. Vì không thể quên những tháng ngày được anh chỉ bảo, em vẫn đi thăm anh ở.. các bệnh viện! Bệnh anh càng ngày càng nặng, nên cai tù đành chấp nhận chuyển anh ra bệnh viện ngoài để chữa trị, nhưng họ đổi nơi chữa trị hoài vì ngại rằng nếu để lâu một chỗ, có thể có sơ hở và anh trốn được. Mãi đến năm 1985, anh mới được về nhà. Nhờ đó, mà anh có cơ hội tìm thầy, tìm thuốc để tự trị bệnh mình và đến khi em đi Mỹ vào năm 1990, thì anh đã có thể chống gậy đi lại được, không như ngày ở trong tù, anh chỉ có thể nằm trên một miếng ván nhỏ có gắn bánh xe do anh  em cùng tù làm cho anh, để anh lấy tay đẩy miếng ván trôi đi, y như một người bị què cụt sắp chết. Nhìn hình ảnh đó, anh em đều sa lệ. Còn đâu người hùng năm xưa? Còn đâu hình dáng người nhạc sĩ với cây đàn và những bản nhạc tuyệt vời, hát mãi không chán?

Sau khi đến Mỹ một vài năm, thấy một Trung tâm băng nhạc hồi đó thỉnh thoảng làm các cuốn băng đặc biệt với từng tác giả, em đã liên lạc với trung tâm và gợi ý là nên làm một cuốn băng đặc biêt về anh. Người chủ trung tâm rất mừng vì ông cũng từng là người hâm mộ nhạc Nguyễn Văn Đông, nên ngay sau khi biết được địa chỉ của anh, ông ta đã về Saigon ngay, tiếp xúc với anh và chuẩn bị một chương trình Nhạc Nguyễn Văn Đông với các ca sĩ từng là học trò của anh. Thoạt đầu, anh cũng đồng ý đi Mỹ và anh đã gửi cho em nguyên một tập nhạc của anh sáng tác để tùy nghi trung tâm lựa chọn. Chương trình tiến triển tốt đẹp. Trung Tâm băng nhạc đã làm Visa cho anh sang Mỹ. Nhưng đột nhiên, anh gọi điện thoại cho em và nói rằng anh không đi nữa. Anh nói:  “Anh biết là sau khi về lại Việt Nam thì thế nào anh cũng bị kiểm điểm bởi những thằng nhóc con. Mà anh lớn tuổi rồi, anh không muốn bị gọi lên đồn công an, để trả lời cuộc thẩm vấn bởi mấy tên con nít, không biết gì về âm nhạc cả! Mấy ca sĩ cải lương, tân nhạc gì sang Mỹ về cũng phải gặp công an, “dạ, dạ thưa anh, thưa chị.” Anh không thể làm được chuyện đó, em thông cảm cho anh. Anh cám ơn em đã lo lắng chu tất cho anh, nhưng anh không thể, em ạ!” Vì anh là người có Tư Cách và Nhân Cách lớn, không giống như nhiều người khác nên anh nhất định hy sinh một cơ hội rạng danh mình cũng như tạo được một kỷ niệm lớn, để lại cho hậu thế những thông tin về một người nhạc sĩ lớn, một trong những Bậc Thầy về Âm Nhạc của Việt Nam, người đã được tặng bằng Tiến Sĩ Âm Nhạc tại Pháp.

Với những kỷ niệm như thế, làm sao mà em không khóc được khi nghe tin anh mất? Viết đến anh những giòng chữ này mà mắt em nhòa đi… Nhớ anh, nhớ người Thầy vĩ đại quá chừng.. mà không thể diễn tả hết những tình cảm em dành cho anh, nên càng viết càng luộm thuộm. Vậy, thôi, em xin gửi đến anh lời cầu nguyện cho hương hồn anh sớm tiêu diêu miền cực lạc, nơi không còn bệnh tật, không lo âu, không tù đầy, đau khổ, chỉ có hạnh phúc miên viễn. Còn lại chúng em, “lòng trần còn tơ vương khanh tướng, thì đường trần mưa bay gió cuốn, còn nhiều”… mênh mang.

Chu Tất Tiến, 26 tháng 2 năm 2018.

ƠN PHÚC VÀ BẤT HẠNH

        ƠN PHÚC VÀ BẤT HẠNH

 Elisabeth Nguyễn

 Trong cuộc sống của đời người giữa xã hội nhân trần, chúng ta thường thấy điều gì ảnh hưởng nhiều nhất trên con người. Hay nói cách khác, cái gì con người trần thế cảm thấy:

 thích thì người ta gán cho cái tên thật đẹp là Ơn Phúc hay là được thưởng.

Cái gì khiến con người ta sợ thì gọi là bất hạnh hay là bị phạt….

Là con cái Thiên Chúa, chúng ta có một đức tin tuyệt đối vào Ngài, chúng ta có nên nhìn sự việc bằng con mắt thế gian như vậy không?

ới mắt Thiên Chúa, sự gì làm ích lợi cho linh hồn, sự đó chính là Ơn Phước.

Con người sống ở thế gian này ai cũng

thích sống lâu (Trong cơn nguy biến con người thường bỏ của chạy lấy người),

thích khỏe mạnh (cuộc sống mà bịnh kéo dài trên giường bệnh thì còn gì thú vị),

thích danh vọng (có cuộc sống, có sức khỏe thì ham mê danh vọng),

thích tiền tài (khi con người thấy mình có chút được tâng bốc (danh dự), có sức khỏe thì ham muốn giàu có).

Con người sống trên thế gian rất

sợ Chết (luật Tạo Hóa của Chúa, có sinh thì có tử. Đức tin Kitô Giáo chết là về với Chúa, chết là điều kiện được hạnh phúc sống bên Ngài),

S bệnh tật (Đành rằng bệnh sẽ làm mình đau, khó chịu, khổ sở v.v…nhưng đâu đáng sợ. Nếu khỏe mạnh mà tâm linh u tối thì là mối họa cho chính mình. Biết bao nhiêu người có tật từ bẩm sinh, mà họ lại có một đời sống tâm linh rất lành mạnh). 

s khinh chê (Nhiều người rất sợ bị khinh chê nghèo hèn ít học v.v… mà sinh ra kiêu ngạo nói dối, khoác lác v.v…).

s nghèo kh (Chúa Giêsu là người nghèo nhất thiên hạ. Ngài sinh ra trong hang bò lừa, cha làm nghề thợ mộc, sống hiền hòa trong gia đình bình thường đầy yêu thương và được dân làng quý trong về nhân đức, ở Bethlehem. Khiloan báo tin mừng, không có chỗ gối đầu).

Chúng ta là Kitô hữu mà lúc nào cũng có cái nhìn sợ chết , sợ bịnh, sợ bị khinh, sợ nghèo khó, thì đức tin của ta là đức tin chột.

Chúng ta phải hiểu rằng

ƠN KHÔNG PHẢI LÀ CÁI TA THÍCH.

ƠN LÀ SỰ HỮU ÍCH ĐƯA TA ĐẾN CUỘC SốNG TRUÒNG CỬU.    

tramtubensuoi gởi

Phúc trình lên án biện pháp tấn công có phối hợp đối với các quyền tự do căn bản tại Việt Nam

Phúc trình lên án biện pháp tấn công có phối hợp đối với các quyền tự do căn bản tại Việt Nam

2018-02-28
 
Anh Hoàng Đức Bình, giửa bên phải, và anh Nguyễn Nam Phong, giữa bên trái, tại tòa án tỉnh Nghệ An hôm 6/2/2018

Anh Hoàng Đức Bình, giửa bên phải, và anh Nguyễn Nam Phong, giữa bên trái, tại tòa án tỉnh Nghệ An hôm 6/2/2018

 AP
 

Một phúc trình về nhân quyền vừa được ‘Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người’ trụ sở tại Paris, Pháp công bố ngày 28 tháng 2 tiếp tục lên án biện pháp tấn công có phối hợp đối với các quyền tự do căn bản tại Việt Nam.

Phúc trình 36 trang mang tên ‘Không gian bị thu hẹp: Đánh giá tình hình nhân quyền tại Việt Nam giữa chu kỳ thứ hai của Cuộc Kiểm Điểm Định Kỳ Phổ Quát’ đúc kết một trong những đợt đàn áp tệ hại nhất trong những năm gần đây tại Việt Nam đối với giới bảo vệ nhân quyền, bloggers và các tín đồ tôn giáo.

Phúc trình nêu ra tình trạng leo thang bắt bớ, bỏ tù, kết án tùy tiện và  công an bạo hành người biểu tình ôn hòa, cư xử côn đồ nơi tạm giam, gia tăng án tử hình và tăng cường nền ‘pháp trị’- thông qua nền pháp lý hạn chế không gian hoạt động của các xã hội dân sự và hình sự hóa việc thực thi những quyền con người cơ bản.

Phúc trình được công bố vào thời điểm mà các vụ bắt bớ và biện pháp kết án nặng nề các nhà bất đồng chính kiến gia tăng với tốc độ được gọi là đáng sợ.

Thống kê nêu ra trong phúc trình cho thấy chỉ riêng từ ngày 23 tháng giêng năm 2018 cho đến nay ít nhất 16 nhà hoạt động xã hội dân sự độc lập bị các phiên xử có động cơ chính trị kết án tù tổng cộng đến 95 năm rưỡi.

Phúc trình nêu rõ tình trạng đàn áp nặng nề không chỉ là hệ quả của sự lạm dụng và tàn ác ở cấp địa phương, mà còn là do quyết sách cố ý từ các cấp cao hơn trong đảng cộng sản Việt Nam và nhà nước.

Theo nhận định thì Bộ Luật Hình Sự được sửa đổi của chính phủ Hà Nội, trái với những cam kết của Việt Nam đưa ra tại Cuộc Kiểm Điểm Định Kỳ Phổ Quát (UPR).

Khái niệm mơ hồ ‘đe dọa an ninh quốc gia’ vẫn là ‘xương sống’ của chính sách và thực hành của Việt Nam liên quan đến biện pháp đàn áp có tổ chức các tiếng nói bất đồng chính trị và tôn giáo.

Quan ngại cũng được nêu ra trong phúc trình về tình trạng gia tăng việc sử dụng bạo lực, thường do những thành phần côn đồ do chính quyền thuê, nhằm gây nên bầu không khí sợ hãi khiến cho giới hoạt động không còn tham gia vào các công việc chung, hoặc bảo vệ các quyền của bản thân họ hay của những người khác.

Phúc trình vừa công bố dành một phần nêu ra biện pháp tấn công có phối hợp vào quyền tự do Internet mà chính phủ Hà Nội tiến hành do hai ngành quân đội và công an đi đầu. Cụ thể là Cục An Ninh Mạng thuộc Bộ Công An, mang bí số A68 hay ‘Lực Lượng 47’ với hơn 10 ngàn người thuộc Bộ Quốc Phòng.

NHÂN CÁCH CỦA CỐ TT TRẦN VĂN HƯƠNG.

Son Ngo shared Hoang van Nguyen‘s post.
Đôi điều về cố TT Trần văn Hương
 
Image may contain: 1 person, suit
Hoang van Nguyen is with Tam Tong  Brisbane, QLD, Australia · 

 

NHÂN CÁCH CỦA CỐ TT TRẦN VĂN HƯƠNG.
….
Trong ngày 29 tháng 4, dù rất bận rộn trong việc di tản hàng chục ngàn người Mỹ và người tỵ nạn Vietnam. Đại sứ Martin cũng đã tìm cách đến gặp cụ Trần Văn Hương, cựu Tổng Thống VNCH tại phủ Phó Tổng thống trên đường Công Lý lần chót.

Theo GS Nguyễn ngọc An, bạn thâm giao của cụ Hương thì cuộc gặp gỡ nầy đã diễn ra như sau:

Cũng ngày đó 29 tháng 4 năm 1975, đại sứ Hoa Kỳ ông Martin đến tư dinh đường Công Lý với một tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp. Đại khái đại sứ nói:

« Thưa Tổng Thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhơn danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời Tổng Thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà Tổng thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị Tổng thống cho đến ngày TT trăm tuổi già »

Tổng thống Trần Văn Hương mĩm cười trả lời :

« Thưa Ngài đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn Ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết Cộng sản vào được Saigon, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia xẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại sứ đã đến viếng tôi »

Khi nghe câu « Les États-Unis ont aussi leur part de responsabilités (Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó), đại sứ Martin giựt mình nhìn trân trân ông Trần Văn Hương. Năm 1980, ông Hương thuật lại với tôi: Dứt câu chuyện, on se sépare sans même se serrer la main ». (GS Nguyễn Ngọc An. Cụ Trần Văn Hương, đăng trên Thời Luận không rõ ngày). Cựu đại úy Nguyễn Văn Nhựt sĩ quan tùy viên của phó Tổng thống Trần Văn Hương cho người viết biết vào những ngày tháng cuối cùng trong tháng 4 năm 1975, cụ Trần Văn Hương đã nói với anh em phục vụ tại phủ Phó Tổng thống rằng:

« Thấy các em còn trẻ tuổi mà phải chịu hy sinh gian khổ vì chiến tranh, qua rất thương, nhưng số phận của đất nước mình là như vậy, mình phải đánh cho tới cùng »

Sau khi bàn giao chức vụ TT cho Dương Văn Minh, tối 28 tháng tư, cụ Trần Văn Hương đã dọn ngay về tư gia ở trong hẻm đường Phan Thanh Giản. Tuy nhiên, sáng hôm sau, ngày 29 tháng tư, cụ phải trở lại dinh Phó Tổng thống ở đường Công Lý một lần cuối để tiếp kiến đại sứ Martin khi Martin đên từ giã cụ.

Trong một cuộc tiếp xúc với BS Nguyễn Lưu Viên, cựu Phó Thủ Tướng VNCH, tại Westminster vào cuối 2002, BS.Viên có cho người viết biết rằng vào sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, ông và bà Trần Văn Văn có đến thăm cụ Trần Văn Hương một lần cuối và cụ Hương đã nói với hai người rằng hai vị đại sứ Pháp và Hoa Kỳ có đến mời ông đi tị nạn, nhưng ông đã từ chối lời mời của họ.

Vào năm 1978, khi chính quyền CH-XHCNVN trả lại « Quyền công dân cho Dương Văn Minh, các anh em đang bị tù học tập cải tạo đều bị đi xem hình ảnh và phim chiếu lại cảnh cựu «Tổng thống » Dương Văn Minh đang hồ hỡi hân hoan đi bầu Quốc Hội « đảng cử dân bầu » của người Cộng sản.

Cụ Trần Văn Hương cũng được chính quyền đề nghị trả lại quyền công dân, nhưng cụ đã từ chối. Cựu Tổng thống VNCH Trần Văn Hương đã gởi bức thư sau đây đến cấp lãnh đạo chính quyền Cộng sản:

«… Hiện nay vẫn còn có mấy trăm ngàn nhơn viên chế độ cũ, cả văn lẫn võ, từ Phó Thủ tướng đến Tổng bộ trưởng,các tướng lãnh, quân nhân công chức các cấp, các chính trị gia, các vị lãnh đạo tôn giáo, đảng phái, đang bị tập trung cải tạo, rĩ tai thì ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy về. Tôi là người đứng đầu hàng lãnh đạo chánh phủ VNCH, xin lãnh hết trách nhiệm một mình. Tôi xin chánh phủ mới thả họ về hết, vì họ là những người chỉ biết thừa hành mạng lệnh cấp trên, họ không có tội gì cả. Tôi xin chánh phủ mới tha họ về sum họp với vợ con, còn lo làm ăn xây dựng đất nước. Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó, tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi »

Cụ Trần Văn Hương không hề nhận quyền công dân của Cộng sản và cho đến khi từ trần vào năm 1981, thì cụ vẫn còn là công dân của Việt Nam Cộng Hòa.

Theo: Trần Đông Phong
(Việt Nam Cộng Hòa – 10 ngày cuối cùng)

Copy từ:

https://www.facebook.com/caulacbonhabaotudo/posts/1702729956481787