KHI NGƯỜI THẦY QUỲ GỐI…

 
Ho Quang Vinh and 2 others shared Nguyễn Tuân‘s post.
Image may contain: plant and flower

Nguyễn Tuân

 

KHI NGƯỜI THẦY QUỲ GỐI…

Bạn hy vọng gì và làm gì trong một xã hội mà giá trị đạo lý đã hoàn toàn bị đảo ngược?

Hai ngàn năm, “cây cầu kiều” chính thức bị đánh sập! Phụ huynh không còn yêu lấy Thầy nữa… Mà với họ, những nhà giáo dục, những bậc thầy mô phạm bây giờ chỉ còn là những người làm thuê! Họ trả tiền để những người Thầy phải cung phụng con họ như những ông hoàng bà chúa! Họ dùng quyền lực đồng tiền để biến con cái thành một pháo đài bất khả xâm phạm!

Một cái thước đánh vào tay hay một lần quỳ trên bục giảng – điều rất đỗi bình thường trong giáo dưỡng đã trở thành “tội ác ghê gớm” của năm 2018…

Trong trường hợp cô giáo Nhung, tôi mong Cô và gia đình sẽ chọn nghề khác để mưu sinh, hoặc ít nhất, là rời bỏ ngôi trường mà Ban Giám Hiệu đã không đủ dũng cảm để bảo vệ Cô. Có lẽ, Ban Giám Hiệu đã sợ “mất” vài học sinh nên họ dễ dàng chấp nhận “vứt đi” sự tự tôn của những người Thầy! 

————————————-

Bắt người Thầy quỳ gối! Đó là sự bạo hành man rợ chỉ có thể gặp ở một xã hội đi ngược chiều văn minh!

Chưa bao giờ chúng ta phải chứng kiến những Người Thầy giáo, Người Thầy thuốc lại dễ dàng bị tát, bị quỳ, bị chém như thế! Và họ hoàn toàn cô độc

Nên nhớ! Giáo dục và Y tế là nền tảng An Sinh căn bản nhất của một xã hội, một đất nước! Sẽ ra sao khi người Thầy giáo vừa đứng trên bục giảng vừa run sợ? Người Thầy thuốc vừa chữa bệnh cứu người vừa lo lắng, bất an? Hậu quả to lớn từ việc những người Thầy quỳ gối, không ai khác, chính chúng ta, chính con cháu chúng ta sẽ phải gánh chịu!

Khi người Thầy quỳ gối, cả dân tộc sẽ không thể ngóc đầu!

“NÌNH ÔNG”XỨ MÍT THỜI NAY

              “NÌNH ÔNG”XỨ MÍT THỜI NAY

                                            Quốc Trần

        

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Mấy  bạn Úc đi Việt Nam CS về kể đủ thứ chuyện.

Mình hỏi một đứa:“Mày đi Việt Nam, cái gì làm cho mày ngạc nhiên nhất?”

Nó trả lời không hề đắn đo: “Quán nhậu!”

Mình hỏi: “Tại sao mày ngạc nhiên chuyện quán nhậu?”

Nó nói: “Tao đi gần hết thế giới, chưa thấy có quốc gia nào nhiều quán nhậu như ở Việt Nam CS. Tao đi từ Hà Nội vô tới Sài Gòn, dừng lại ở Huế, Hội An, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, không có thành phố nào mà không tràn ngập quán nhậu. Ở Ireland, nơi tao sinh ra và ở Úc, quê hương thứ hai của tao, mỗi thị trấn chỉ có một cái pub và dăm ba cái clubs, có thị trấn không có club. Đó là Úc và Ireland được xếp loại là dân uống rượu có tầm cỡ thế giới. Ở Việt Nam CS thì pub và club khắp nơi !.”

Mình hỏi: “Mày nghĩ quán nhậu ở Việt Nam CS nhiều như vậy là không tốt?”

Nó đáp: “Tất nhiên! một xã hội mà thanh niên và thiếu nữ không biết đi đâu, không biết làm gì khác ngoài việc đi vào quán nhậu bất kể giờ nào, thì đó là biểu hiện của sự bế tắc ở cấp độ từng cá nhân, và nếu có vô số những đám đông với những cá nhân như vậy, đó là sự bế tắc của cả xã hội. Họ tìm đến với cồn để tạm quên những vấn đề trước mắt !.”

Mình hỏi thêm: “Vậy thì mấy cái chỉ số đo lường hạnh phúc các quốc gia là sai?”

Nó nói: “Đúng và sai !. Đúng ở chỗ, dân Việt Nam tỏ vẻ hạnh phúc khi họ ngồi trước ly bia, mà tạm quên những thử thách trước mắt, nhưng sai ở chỗ, họ vẫn phải đối diện với những thử thách sáng hôm sau !!!.”

——————-

Mình tự hỏi, tại sao một thằng Úc thòi lòi có thể thấy và có thể nhận xét về xã hội Việt Nam CS ở mức độ bản chất như vậy?

Hoàng Ngọc Diêu

Chị Lucie gởi

Cô giáo quỳ xuống, tôn nghiêm sụp đổ

Cô giáo quỳ xuống, tôn nghiêm sụp đổ

LĐO | 06/03/2018

Khi đôi chân cô giáo Nhung quỳ xuống trong sự quay lưng của hiệu trưởng nhà trường cũng là lúc bức thành trì “Tôn sư trọng đạo” đã bị xô ngã, ít ra là ở Trường Tiểu học Bình Chánh.

Huỳnh Phi Long shared a link.
 
 
Khi đôi chân cô giáo Nhung quỳ xuống trong sự quay lưng của hiệu trưởng nhà trường cũng là lúc bức thành trì “Tôn sư trọng đạo” đã bị xô ngã, ít ra là ở Trường Tiểu học Bình Chánh.
 
LAODONG.VN|BY BÁO LAO ĐỘNG
 

Tường thuật của John McCain về việc tra tấn của Việt Cộng (14-5-1973)

Xin phép được cầu nguyện Ơn Trên: Đức Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria, Đức Phật, các Đấng Tối Cao linh thiêng quan phòng ban phước lành ban sức mạnh cho Thượng Nghị Sĩ John McCain, một Vị Đại Ân Nhân của hàng trăm ngàn quân nhân và gia đình VNCH tỵ nạn chính trị trên đất Mỹ, được vượt qua bạo bệnh và phục hồi sức khỏe. Xin cảm tạ các Ngài. Amen.

*Dear Heavenly Father, please heal Mr. John McCain’s body and soul. May his pain cease, may his strength increase, may his illness be released. Please lay your healing hand on his body and remove every cancer cell so that he may be healed! May blessings, love, and joy surround him. Thank You, God! In Jesus’ name, Amen*

☆☆☆ 
****TNS John McCain là một người bạn trung thành của VN.****
****Tường thuật của John McCain về việc tra tấn của Việt Cộng (14-5-1973)****

Mặc dù bị cộng sản Bắc Việt tra tấn tàn bạo hơn 5 năm rưỡi trong nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội từ gần cuối 1967-1973, nhưng ông John McCain không hận thù. Ông và John Kerry đã là những người có công đầu trong việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và nhà cầm quyền Hà Nội 1995.

Người VN tị nạn CS ở Mỹ mang ơn ông. Hàng trăm ngàn quân nhân VNCH và gia đình được đưa đến Mỹ là nhờ nhiều đời tổng thống Mỹ, các tướng lãnh, các TNS, dân biểu Mỹ, và đặc biệt nhất là ông John McCain vận động để xúc tiến chương trình H.O. giúp quân nhân công chức VNCH được rời khỏi VN 1990-1998. Tu chính án John McCain là để giúp cho con cái của VNCH trên 21 tuổi đã có gia đình được định cư ở Mỹ sau thời gian H.O. nói trên.

Ông cũng là người đấu tranh mạnh mẻ cho nền dân chủ và tự do ở Việt Nam. Nhiều tù nhân chính trị VN đã được ông can thiệp ra khỏi tù sớm, và nhiều người khác được định cư tại Mỹ.

Ngày nay, người VN còn sống ở trong nước đỡ bị công sản đàn áp hơn trước đó là nhờ Mỹ quan hệ với VN dùng chính sách “cây gậy và cử cà rốt” để làm cho cộng sản bớt man rợ và văn minh hơn khi đối xử với dân chúng, và thúc đẩy nhà cầm quyền VN phải thay đổi đường lối. Đó cũng là nhờ công lớn của John McCain và các bạn bè của ông trong quốc hội Mỹ.

Theo đài SBTN.TV, ông John McCain đã vận động đem nhạc sĩ Việt Khang đến Mỹ ngày 8-2-2018. Từ giữa năm 2017 đến nay, ông bị ung thư, ông có bướu ở não nên phải điều trị chemotherapy. Ông bị ung thư da ở mặt đã hơn 20 năm rồi. Và ung thư da đã di căn tới não. Hiện nay, ông vẫn là thượng nghị sĩ.”

Trần Hoàng 
https://www.voatiengviet.com/a/thuong-nghi-si-…/3951605.html
☆☆☆
***Tường thuật của John McCain về việc tra tấn của Việt Cộng (14-5-1973)****

Đó là ngày 26-10-1967, tôi chuẩn bị cho chuyến oanh tạc miền Bắc Việt Nam lần thứ 23 của tôi từ sáng sớm – đó là trận đánh đầu tiên vào thủ đô của địch, Hà Nội.

Mục tiêu của chúng tôi là nhà máy nhiệt điện ở gần một cái hồ nhỏ giữa thành phố. Trên độ cao khoảng 9000 feet (2700 mét), khi chúng tôi chuyển hướng vào phía trong thành phố để tới mục tiêu thì đèn báo động lóe sáng và tín hiệu báo có ra đa địch bắt đầu vang lên lớn đến nỗi tôi phải tắt nó đi.

Tôi đã nhìn thấy khói và bụi bốc lên từ mặt đất như những đám mây khổng lồ khi hỏa tiễn đất đối không bắn vào chúng tôi. Chúng tôi càng tới gần mục tiêu, hệ thống phòng không càng ác liệt hơn. Tôi nhận ra mục tiêu ở cạnh một cái hồ nhỏ và tôi nhào ngay xuống đó vừa lúc tín hiệu báo động ngưng kêu để báo cho tôi biết là hỏa tiễn địch đang lao vào tôi.

Tôi biết là phải cho máy bay lăn vòng ra phía ngoài và dùng thao tác tránh né – bay “luồn lách” theo cách nói của các phi công – nhưng chính đó là lúc tôi sắp sửa thả bom, và nếu tôi bay luồn lách thì tôi sẽ không bao giờ có thời gian, và chắc chắn là cũng không có cả can đảm để bay trở lại mục tiêu, một khi tôi thoát được quả hỏa tiễn đó. Như vậy là từ độ cao 1000 mét, tôi thả quả bom, rồi tôi kéo cần lái trở lại để bắt đầu cho máy bay vọt thẳng lên một độ cao an toàn hơn.

Trong giây phút chớp nhoáng, trước khi máy bay bắt đầu phản ứng thì quả hỏa tiễn đã thổi tung mất cánh máy bay bên phải. Tôi biết là máy bay của mình đã bị hỏa tiễn bắn trúng. Chiếc máy bay A-4 của tôi đang bay với tốc độ khoảng 900 cây số/giờ, đã lao nhanh xuống mặt đất theo vòng xoáy trôn ốc. Khi bị trúng hỏa tiễn, tôi đã phản ứng một cách máy móc là với lấy và kéo cái cần bật của ghế ngồi. Tôi bị đập vào máy bay làm gãy cánh tay trái, ba chỗ của cánh tay phải, đầu gối phải và ngất đi. Những người chứng kiến nói rằng cái dù của tôi chỉ vừa mở là tôi rớt ngay xuống chỗ nước nông của hồ Trúc Bạch.

Ðồ trang bị trên người nặng khoảng 25 ki-lô, tôi chìm xuống đáy hồ, và chạm đất bằng cái chân còn lành của tôi. Tôi không hề cảm thấy đau khi chạm đáy hồ, và tôi không hiểu tại sao tôi không thể dùng cánh tay để kéo cái chốt áo cứu đắm của tôi. Tôi lại bị chìm xuống đáy hồ một lần nữa. Khi chạm đáy hồ lần thứ hai, tôi đã cố gắng để bơm phồng cái áo cứu đắm của tôi bằng cách dùng răng để kéo cái chốt của nó ra. Sau đó tôi lại bị bất tỉnh một lần nữa. Lần thứ hai bị chìm thì tôi được kéo lên bờ bằng những cái sào tre. Một đám đông khoảng vài trăm người Việt Nam bu quanh tôi, lột trần tôi ra, khạc nhổ vào mặt tôi, đá và đánh tôi.

Sau khi quần áo và đồ trang bị của tôi bị lột ra hết, tôi thấy đau nhói ở đầu gối bên phải. Tôi nhìn xuống thì thấy cái bàn chân phải của tôi nằm ngay cạnh đầu gối bên trái của tôi ở một góc 90 độ. Tôi bật kêu lên: “Trời ơi! Cái chân của tôi!”. Một người nào đó đã dùng báng súng phang mạnh vào tôi làm xương vai của tôi bị gẫy ra. Một người khác thì dùng lưỡi lê đâm vào mắt cá chân và háng của tôi. Một người đàn bà, có thể là nữ y tá, đã cố gắng thuyết phục đám đông không nên hành hạ tôi thêm nữa. Sau đó bà ấy dùng các thanh nẹp tre để kẹp chân và cánh tay phải của tôi. Tôi cảm thấy đôi chút nhẹ nhõm khi chiếc xe tải của quân đội tới chỗ tôi bị bắt.

Mấy người lính đặt tôi vào cái cáng, mang lên xe tải và lái đi vài khu phố tới một nhà tù được xây cất theo kiểu Pháp, đó là Hỏa Lò mà tù binh chúng tôi gọi là khách sạn Hilton Hà Nội. Khi cánh cửa sắt đồ sộ được đóng lại vang lên tiếng loảng xoảng phía sau tôi, tôi chưa bao giờ cảm thấy khiếp sợ ghê gớm như vậy. Hôm đó là ngày 26 tháng 10, năm 1967. Lúc đó tôi 31 tuổi, và là thiếu tá Hải Quân Hoa Kỳ khi máy bay của tôi bị bắn rớt. Suốt hai thế kỷ, thanh niên trong dòng họ tôi được dạy dỗ để ra chiến trường với tư cách là sỹ quan trong quân lực Hoa Kỳ.
.
Tôi là con và cháu của các sỹ quan Hải Quân, và cha của tôi tin tưởng rằng mỗi khi gặp nghịch cảnh, tôi phải noi theo những tấm gương mà cha tôi đã nêu lên. Mấy người lính dẫn tôi vào trong một xà lim trống, đặt cái cáng tôi đang nằm trong đó xuống sàn và phủ cái chăn lên mình tôi. Trong vài ngày sau, tôi sống trong tình trạng lúc tỉnh, lúc mê. Những người hỏi cung gọi tôi là tội phạm chiến tranh, và khai thác tin tức quân sự. Họ đánh đập tôi liên hồi, và tôi bắt đầu cảm thấy đau khủng khiếp ở những chỗ chân tay bị gãy. Tôi bất tỉnh sau vài cú đánh.

Tôi nghĩ, nếu mình có thể chịu đựng được, họ sẽ mủi lòng và đưa tôi đi bệnh viện. Nhưng tới ngày thứ tư, tôi nhận biết tình trạng của tôi đã trở nên nghiêm trọng hơn. Tôi bị sốt nóng và thời gian bất tỉnh trở nên lâu hơn. Tôi nằm trong cái vũng của những thứ do tôi nôn mửa cùng với những thứ do cơ thể tôi bài tiết ra, và đầu gối tôi đã bắt đầu sưng tấy lên khủng khiếp và bị biến màu đi. Nhân viên y tế gọi Zorba tới bắt mạch cho tôi. Tôi hỏi rằng: “Các ông sắp đưa tôi đi bệnh viện có phải không? Ông ta trả lời: “Không, quá trễ rồi”. Nỗi kinh hoàng về cái chết ập tới bất thần. Người Việt Nam luôn luôn từ chối điều trị cho những người bị thương trầm trọng.

Thật là hạnh phúc, tôi lại rơi vào cơn mê. Một lúc sau tôi tỉnh lại khi viên trưởng trại, một tên chó đẻ hèn hạ tên là Bug (Bắc) xô vào xà lim của tôi với vẻ hốt hoảng, lớn tiếng rằng: “Cha của anh là một đô đốc có uy tín lớn, bây giờ chúng tôi đưa anh đi bệnh viện”. “Xin Trời ban phước cho cha tôi”. Thật không thể hiểu được nếu không nhìn thấy họ đã sung sướng biết bao khi bắt được con trai của một đô đốc và tôi hiểu rằng chính cái địa vị của cha tôi đã trực tiếp liên can đến sự sống còn của tôi. Tôi được chuyển đến một bệnh viện ở trung tâm thành phố Hà Nội.

Tới hai ngày sau đó, tôi thấy mình nằm trong một căn phòng bẩn thỉu, muỗi “nhiều như trấu” và chuột nữa. Mỗi khi trời mưa, bùn và nước đọng thành vũng trong sàn nhà. Không có ai lưu tâm đến việc giúp tôi rửa những cáu ghét nhầy nhụa trên thân thể tôi. Tôi đã bắt đầu phục hồi được trí não, và những người thẩm vấn đã tới bệnh viện để tiếp tục làm việc. Sự đánh đập cũng giới hạn trong thời gian ngắn bởi vì tôi đã thốt ra những tiếng kêu thét rợn tóc gáy khi tôi bị đánh và những người thẩm vấn tôi tỏ ra lo ngại rằng nhân viên của bệnh viện có thể phản đối họ. Cuối cùng thì tôi cho họ biết tên chiến hạm của tôi và số hiệu của hạm đội. Khi bị hỏi về những mục tiêu dự trù trong tương lai, tôi kể tên những thành phố đã từng bị oanh tạc. 
.

Ðầu tháng 12, họ giải phẫu chân phải của tôi, cắt hết các dây chằng ở một bên đầu gối, chỗ đó không bao giờ có thể hồi phục hoàn toàn được. Tới cuối tháng 12, họ quyết định cho tôi xuất viện. Tôi bị sốt cao độ, tiêu chảy và mất khoảng 25 ký lô, chỉ còn nặng 45 ký lô thôi. Ngực tôi vẫn còn bó bột và chân đau nhừ tử. Tôi bị bịt mắt, đặt trong thùng xe tải và đưa tới một nhà tù gọi là Ðồn Ðiền (The Plantation). Thật là một niềm khuây khỏa lớn lao cho tôi, vì được giam chung xà lim với 2 người tù khác là hai thiếu tá không quân “Bud” Day và Norris Overly.

Có một điều không thể nghi ngờ được là chính Bud và Norris đã cứu mạng sống của tôi. Sau đó hai người này đã nói ra cái ấn tượng đầu tiên của họ khi gặp tôi là thấy tôi sinh lực kiệt quệ, mắt lồi ra, đờ đẫn vì sốt, đó là một người đứng trước ngưỡng cửa của tử thần. Hai bạn đó nghĩ rằng người Việt Nam đợi cho tôi chết và giao tôi cho hai bạn đó săn sóc tôi để họ khỏi bị lên án nếu tôi chết. Bud đã bị thương nặng khi nhảy dù khẩn cấp ra khỏi máy bay. Sau khi bị bắt, anh ấy đã trốn thoát gần tới một phi trường dã chiến của Mỹ thì bị bắt lại. Bọn người bắt anh ấy đã dùng vòng thòng lọng bằng dây thừng để cuốn quanh vai của anh ấy rồi xiết thật chặt cho tới khi hai bả vai của anh ấy hầu như sắp chạm vào nhau, rồi trói hai cánh tay của anh ấy lại và treo anh lên xà nhà của nơi tra tấn làm hai vai của anh ấy bị xé rời nhau ra.

Tình trạng như thế kéo dài trong nhiều giờ đồng hồ. Bud không bao giờ chấp nhận sự điều tra khai thác của người Việt Nam về những tin tức quân sự. Thà Bud để cho bọn đó đập gẫy cánh tay phải của anh lần thứ hai, đó là cánh tay vốn dĩ đã bị gẫy, và chúng còn dọa đập gẫy nốt cánh tay kia, chứ anh không hề cho chúng một mẩu tin nào. Vì những thương tích của Bud nên anh không thể giúp gì trong việc săn sóc thân thể của tôi. Norris là người có bản chất hòa nhã, nhẫn nhục, đã làm vệ sinh thân thể cho tôi, đút cho tôi ăn và giúp tôi đổ bô phân và nước tiểu.

Nhờ có hai người bạn này, tôi đã bắt đầu hồi phục. Tôi đã sớm tự đứng dậy và có thể dùng đôi nạng để đi lại trong cái xà lim đó.

Tháng 4 năm 1968, Bud bị chuyển đi nhà tù khác. Norris thì được trả tự do dưới cái gọi là “ân xá” và tôi còn bị giam riêng trong hai năm nữa. Mặc dầu tôi còn phải dùng đôi nạng để đi lại khập khiễng trong xà lim của tôi, hình dạng tôi vẫn còn thê thảm lắm, tôi không thể nhặt lên hoặc cầm bất cứ một cái gì. Bệnh kiết lỵ đã làm tôi khổ sở. Thức ăn và nước uống bị thải ra ngay tức khắc, và dạ dày bị đau quặn đã làm tôi rất khó ngủ. Cô độc là một vấn đề hãi hùng, nó đã đè bẹp tinh thần và làm suy yếu sức kháng cự của con người một cách có hiệu quả hơn bất cứ một hình thức hành hạ nào khác. Không có ai để tham vấn, con người bắt đầu nghi ngờ sự phán xét và can đảm của mình. Vài tuần lễ đầu tiên là gay go nhất.

Tuyệt vọng ập đến ngay tức khắc, và đó là một kẻ thù ghê gớm, tôi đã phải dựng lại trong trí nhớ những cuốn sách, những bộ phim mà tôi đã thưởng thức. Tôi đã thử viết sách và kịch bản về chính mình, trình diễn những chuỗi sự kiện trong cô đơn của xà lim. Tôi phải thận trọng ngăn ngừa trí tưởng tượng đã trở nên mãnh liệt đến nỗi thường xuyên đưa đẩy tôi tới một nơi trong tâm trí mà từ đó tôi không thể trở lại được nữa. Xà lim của tôi đối diện với phòng thẩm vấn ở bên kia sân. Giường nằm là một tấm ván, và một cái bóng đèn treo lủng lẳng trên sợi dây điện từ trần nhà thòng xuống. Bóng đèn thắp sáng suốt ngày đêm.

Cộng thêm với những khổ sở của chúng tôi là cái mái nhà lợp tôn đã làm tăng cái nóng của mùa hè lên khoảng 5 độ hoặc hơn thế.

Giữa tháng 6 năm 1968, viên trưởng trại gọi tôi tới gặp hắn, có bày ra bánh bích quy, thuốc lá và hỏi tôi có muốn về với gia đình không. Tôi muốn nói là có: Tôi bị mỏi mệt, bệnh hoạn và sợ hãi. Nhưng cái quy tắc hành xử đã rõ ràng: “Những tù nhân Mỹ không thể chấp nhận tha có điều kiện, ân xá hoặc đặc ân”. Tôi nói là để tôi suy nghĩ về vấn đề đó. Tôi hiểu việc phóng thích tôi sẽ ảnh hưởng như thế nào tới cha tôi và các bạn đồng tù, và sau đó tôi được biết cái mà người Việt Nam hy vọng sẽ dành được. Ngày 4 tháng 7 cha tôi được thăng lên chức Tư Lệnh Thái Bình Dương.

Phía Việt Nam định chào mừng cha tôi bằng một ấn tượng tuyên truyền gây chú ý là trả tự do cho con trai của ông và coi đó như một hành động “thiện chí”. Hai tháng trôi qua, không có gì xảy ra. Và những đợt hành hạ lại bắt đầu. Tôi bị lôi vào trong căn phòng trống và giam ở đó 4 ngày. Từng đợt, bọn lính gác trở lại đánh đập tôi. Một tên giữ tôi cho những tên khác đánh đập túi bụi. Tôi bị gãy mấy xương sườn và hai cái răng. Suy nhược vì bị đánh đập và kiết lỵ, chân phải của tôi lại trở nên vô dụng, do đó tôi không thể đứng được. Tới đêm thứ ba thì tôi nằm trên máu, phân và nước tiểu của mình, vì mệt mỏi và đau đớn, tôi không thể chuyển động được.

Ba tên lính gác đỡ cho tôi đứng dậy rồi chúng đánh tôi cực kỳ khủng khiếp. Chúng để tôi nằm trên sàn nhà rên rỉ vì cực kỳ đau đớn ở cánh tay lại mới bị gãy ra. Tuyệt vọng vì đau đớn không thuyên giảm và tra tấn thì tàn bạo hơn. Tôi cố tự sát. Sau vài lần không thành công, tôi tìm cách để đứng dậy. Lật úp cái bô đựng phân và nước tiểu, tôi đứng lên đó, níu vào tường bằng cánh tay còn lành, tôi luồn cái áo của tôi qua cái cửa chớp và buộc thành vòng tròn. Khi tôi đang lồng cái vòng ấy vào cổ, tên lính gác nhìn thấy cái áo của tôi luồn qua cửa sồ, kéo tôi xuống và đánh tôi. Sau đó tôi lại làm lần thứ hai, một cố gắng tự sát nhẹ nhàng hơn. Vào ngày thứ tư, tơi đành chịu thua.
.

Tôi đã ký vào bản tự thú rằng: “Tôi là một tên tội phạm độc hại, và tôi đã thực hiện những công việc của một phi công”. Mấy tên lính gác bắt tôi cho thâu lời thú tội này vào trong băng ghi âm. Tôi từ chối, và bị đánh đập cho tới khi tôi đồng ý. Ðó là hai tuần lễ kinh khủng nhất trong đời tôi. Tôi rùng mình, như thể sự nhục nhã của tôi là một cơn sốt, và sẽ không còn ai nhìn tới tôi nữa, ngoại trừ trong sự thương hại hoặc khinh bỉ. Người Việt Nam dường như không bao giờ bận tâm tới việc làm thương tổn tới chúng tôi, nhưng họ luôn luôn thận trọng không để chúng tôi bị chết. Chúng tôi tin chắc rằng một số tù binh đã bị tra tấn tới chết và hầu hết là bị đối xử dã man.

Có một người, Dick Stratton, có những vết sẹo lớn bị nhiễm độc trên hai cánh tay vì bị tra tấn bằng dây thừng. Hai móng ngón tay cái bị xé rách toạc ra, và anh ấy bị châm bỏng bằng thuốc lá. Tuy nhiên, người Việt Nam đánh giá chúng tôi như những con bài để mặc cả trong vấn đề thương lượng hòa bình, và thường thì họ không có ý định giết chúng tôi khi họ tra tấn để buộc chúng tôi phải hợp tác với họ. Tới cuối năm 1969, những sự đánh đập thường lệ được ngừng lại, thỉnh thoảng chúng tôi nhận được những khẩu phần ăn thêm. Hoàn cảnh của chúng tôi không còn thảm khốc như những năm trước đó nữa. Tôi được trả tự do và trở về Mỹ khi chiến tranh kết thúc, tính tới tháng 3 năm 1973, tôi đã bị cầm tù trong 5 năm rưỡi.

Chúng tôi được dạy phải có niềm tin nơi Thượng Ðế, nơi tổ quốc, và tin nhau. Hầu hết chúng tôi đã sống như vậy. Nhưng điều cuối cùng của những niềm tin này – niềm tin vào nhau – là vũ khí phòng vệ tối hậu của chúng ta, là những thành lũy mà kẻ thù của chúng ta không thể vượt qua được. Ðó là niềm tin tôi đã ấp ủ từ trong Học Viện Hải Quân. Ðó là niềm tin của cha tôi, ông tôi. Trong nhà tù, tôi là một người dơ dáy, què quặt, suy nhược, tất cả những gì tôi còn giữ lại trong phẩm hạnh của tôi là niềm tin của cha-ông tôi. Như vậy là đủ.

“Niềm Tin của Tổ Tiên Dòng Họ Tôi”.

Tác giả: JOHN McCAIN
NHL chuyển ngữ

+Đã đăng trên báo U.S. News & World Report lần đầu ngày 14-5-1973.

+Khi ra tranh cử Tổng thống 2008, bài này được tái đăng lại trên báo US News &World Report ngày 28-1-2008.
https://www.usnews.com/…/john-mccain-prisoner-of-war-a-firs…

********

Tàu sân bay Mỹ vào Vịnh Đà Nẵng

Van Pham

Tàu sân bay Mỹ vào Vịnh Đà Nẵng

Đây là lần đầu tiên một tàu sân bay Mỹ đến VN kể từ khi kết thúc chiến tranh VN, đánh dấu mối quan hệ chiến lược giữa hai nước từng là kẻ thù, vào thời điểm ảnh hưởng khu vực của TQ đang gia tăng, theo Reuters.

Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson có thể được nhìn thấy vào sáng thứ Hai 5/3 tại vùng biển ngoài khơi Vịnh Đà Nẵng, nơi tàu sân bay có lượng giãn nước 103.000 tấn và hai tàu khác của Hoa Kỳ bắt đầu chuyến thăm năm ngày.

Sự xuất hiện của USS Carl Vinson đánh dấu sự hiện diện quân sự quy mô nhất của Hoa Kỳ ở Việt Nam từ năm 1975 – nhưng cũng minh hoạ cho mối quan hệ phức tạp và tiến triển của Hà Nội với Bắc Kinh đối với khu vực tranh chấp trên Biển Đông.

Việt Nam đã nỗ lực hàng tháng trời để làm dịu bớt mối lo ngại của người láng giềng Trung Quốc đối với chuyến thăm của tàu USS Carl Vinson và triển vọng hợp tác an ninh tăng cường giữa Hà Nội và Washington.

Các tàu sân bay Hoa Kỳ thường xuyên qua lại trên Biển Đông trong một đợt triển khai hải quân tăng cường, và hiện nằm trong sự theo dõi của các tàu hải quân Trung Quốc, giới chức hải quân khu vực cho hay.

Việc Trung Quốc nhanh chóng xây dựng trong quần đảo Trường Sa khiến Việt Nam và chính phủ các nước trong khu vực lo ngại khi nước này tìm cách thực thi tuyên bố chủ quyền đối với phần lớn các khu vực đường thủy đang tranh chấp, nơi hàng trăm nghìn tỷ đô la thương mại đi qua mỗi năm.

Mặc dù không có tàu sân bay Mỹ nào đến Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc nhưng các tàu chiến nhỏ khác của Hoa Kỳ đã tiến hành các chuyến thăm cấp cao khi mối quan hệ được cải thiện trong những năm gần đây.

Các chuyến thăm nói trên bao gồm chuyến thăm 2016 của tàu ngầm USS Frank Cable và tàu khu trục USS John S. McCain tới vịnh Cam Ranh, một khu hậu cần quan trọng trong chiến tranh Việt Nam.

Một ban nhạc hải quân Hoa Kỳ sẽ trình diễn hòa nhạc tại Đà Nẵng trong chuyến viếng thăm của tàu Vinson, và thuỷ thủ từ tàu sân bay dự kiến sẽ tới thăm một trung tâm điều trị cho những người bị phơi nhiễm chất độc da cam trong chiến tranh.

Tàu sân bay hạt nhân USS Carl Vinson sẽ neo đậu tại thành phố cảng Đà Nẵng, nơi quân đội Mỹ đổ bộ đầu tiên trong chiến tranh Việt Nam, khiến nơi đây trở thành một địa điểm mang tính biểu tượng cao.

Cuộc viếng thăm này nhằm minh chứng cho mối quan hệ quân sự ngày càng tăng của Việt Nam và Hoa Kỳ.

‘Thông điệp tới Trung Quốc’

Nhưng các nhà phân tích cho rằng việc này chắc chắn sẽ gửi một thông điệp tới Trung Quốc khi nước này tiếp tục bành trướng tại khu vực tranh chấp trên biển Đông.

Phóng viên BBC Jonathan Head hiện đang có mặt tại Đà Nẵng, cho biết mặc dù hợp tác quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã tiến triển nhưng vẫn còn hạn chế, và Việt Nam cần kiểm soát chặt chẽ thông điệp của chuyến thăm này.

Trung Quốc hiện là một siêu cường trong khu vực và là đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam.

Vì vậy, lãnh đạo cộng sản Việt Nam đang rất thận trọng để tránh bất kỳ động thái nào có thể gây bất lợi cho mối quan hệ với người láng giềng khổng lồ của mình, phóng viên Jonathan

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông, bao gồm các rạn san hô và hòn đảo mà một số quốc gia khác cũng tuyên bố chủ quyền. Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Hoa Kỳ luôn tuyên bố không can thiệp vào các tranh chấp trên Biển Đông, nhưng Hải quân Hoa Kỳ đã liên tục có các hoạt động “tự do hàng hải” tại các vùng biển đang tranh chấp, một thách thức rõ ràng đối với các tham vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc.

Tàu USS Carl Vinson đã thực hiện nhiều chuyến đi đến khu vực rộng lớn hơn trong hàng thập niên qua.

Đà Nẵng là căn cứ quân sự chính của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Việc hàng không mẫu hạm Mỹ, có thể mang tới 90 máy bay, cập cảng Đà Nẵng, sẽ đại diện cho sự hiện diện quân sự quy mô nhất của Mỹ tại Việt Nam kể từ khi kết thúc chiến tranh và sau khi Việt Nam thống nhất năm 1975.

Chiến tranh Việt Nam – cái mà Việt Nam gọi là cuộc chiến tranh chống Mỹ – kéo dài và đẫm máu. Chính phủ Việt Nam ước tính hàng triệu người, cả dân thường và lính Cộng sản, đều bị giết. Chỉ hơn 58.000 lính Mỹ chết hoặc mất tích trong cuộc chiến.

 
Hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ Carl Vinson đang thực hiện chuyến thăm lịch sử tại VN kể từ khi kết thúc cuộc chiến tranh VN.
 
BBC.COM
 

Ông ‘Lá Bối’ một đời bị ‘sách… ám?’

 

Ông ‘Lá Bối’ một đời bị ‘sách… ám?’

Du Tử Lê/Người Việt

Thầy Từ Mẫn. (Hình: dutule.com)

Nhớ lại những ngày đầu, khi quyết định sẽ in bộ tiểu thuyết nổi tiếng thế giới “Chiến Tranh và Hòa Bình” của Lev Tolstoy, thầy Từ Mẫn kể, đại ý: Khi hay tin Lá Bối sẽ in “Chiến Tranh và Hòa Bình,” bản dịch của học giả Nguyễn Hiến Lê, nhà văn Trần Phong Giao (5), đã nói với ông Từ Mẫn rằng: “Ngay cả khi có tiền tôi cũng sẽ không in ‘Chiến Tranh và Hòa Bình’…”

Thầy Từ Mẫn nói, nhà văn Trần Phong Giao đâu biết, khi tiếp nhận nhà Lá Bối từ tay thầy Thanh Tuệ thì đó là lúc tình hình tài chánh của Lá Bối đang rơi vào vòng xoáy khó khăn nhất. Nhưng vì: “Chính tôi cũng muốn được đọc bộ tiểu thuyết này bằng tiếng Việt, nên tôi đã phải nhờ tới sự tiếp tay, vay mượn (không có lời) của một số học trò thầy Nhất Hạnh, những người đã ra trường và thành đạt…,” thầy Từ Mẫn tâm sự.

Trả lời câu hỏi duyên-khởi của việc dịch giả Nguyễn Hiến Lê (6) nhận dịch bộ tiểu thuyết và sự nhận lời in của nhà Lá Bối, người kế tục sự nghiệp xuất bản sách của nhà Lá Bối cho biết: Ông tình cờ đọc được một bài viết của dịch giả Nguyễn Hiến Lê trên một tờ nguyệt san xuất bản ở Sài Gòn mà bây giờ ông không nhớ tên, kể rằng, vị dịch giả từng ngỏ ý với hai nhà xuất bản lớn nhất miền Nam thời đó là nhà sách Khai Trí và nhà xuất bản Sống Mới về việc ông sẽ dịch bộ “Chiến Tranh Và Hòa Bình” của Tolstoy nếu họ nhận in… Tiếc thay cả Khai Trí lẫn Sống Mới đều im lặng.

Thầy Từ Mẫn nhấn mạnh, ông nghĩ nhà Khai Trí của ông Nguyễn Hùng Trương (7) dù muốn cũng không thể nhận in vì số bản thảo ông ấy đã mua, ối đọng trong kho quá nhiều, không biết tới năm nào mới có thể in cho hết. Nhưng nhà Sống Mới thì ông không hiểu lý do. Chỉ biết, chính vì hai nhà xuất bản lớn kể trên từ chối, mà ông có cơ hội nhận in bộ truyện dịch giá trị này.

Tưởng cũng nên nói thêm rằng, ông “Lá Bối” không hề quen biết dịch giả Nguyễn Hiến Lê trước đó. Và, ông cũng không muốn nhờ ai giới thiệu. Nên, một buổi sáng, ông tự tìm tới nhà riêng của dịch giả, ở đường Kỳ Đồng. Người bạn đời của dịch giả ra mở cửa hỏi ông là ai? Cần gặp ông Lê cho việc gì? Ông “Lá Bối” nói, mang ít sách tặng ông Lê và nói chuyện về việc dịch bộ truyện “Chiến Tranh và Hòa Bình.” Bà mời ông trở lại vào buổi sáng hôm sau.

Đúng hẹn, ông trở lại. Lần này, ông được dịch giả Nguyễn Hiến Lê tiếp đón trong tinh thần tương kính giữa nhà xuất bản và dịch giả…

Dù ông Nguyễn Hiến Lê, nói rõ, để hoàn tất việc chuyển ngữ, ông cần ít nhất một năm rưỡi. Tuy nhiên, thực tế, vẫn theo lời của thầy Từ Mẫn thì, chỉ sau một năm thôi, ông đã nhận được bản dịch bộ truyện “Chiến Tranh và Hòa Bình” của dịch giả Nguyễn Hiến Lê.

Có trong tay toàn bộ bản dịch “Chiến Tranh và Hòa Bình,” với ông “Lá Bối” đã là một hạnh phúc. Ông còn cảm thấy hạnh phúc hơn nữa, khi biết dịch giả tuy dịch theo bản Pháp Ngữ, nhưng có những đoạn cần kiểm chứng thì ông ấy dùng bản Anh Ngữ, để so sánh. Điều này cho thấy dịch giả rất trân trọng với tác phẩm vĩ đại “Chiến Tranh và Hòa Bình” của Lev Tolstoy.

Phần thưởng lớn, bất ngờ mà ông “Lá Bối” nhận được là chỉ một thời gian sau, “Chiến Tranh và Hòa Bình” đã được tái bản…

Sư kiện này như một thứ thuốc bồi giúp nhà Lá Bối tự tin, hăng hái với những tác phẩm lớn hoặc khó “nuốt” như bộ “Sử Ký Tư Mã Thiên” mà Lá Bối chọn để xuất bản sau đó.

Dịch giả của bộ “Sử Ký Tư Mã Thiên” vẫn là học giả Nguyễn Hiến Lê. Dịch giả biết rằng, trước ông, nhà văn Nhượng Tống thời tiền chiến đã làm công việc chuyển ngữ. Nhưng khác hơn dịch giả Nhượng Tống, dịch giả Nguyễn Hiến Lê sẽ dịch những chương, đoạn trong bộ “Sử Ký” mà ông Nhượng Tống loại bỏ và, ngược lại, ông cũng sẽ lược bỏ một vài chương, đoạn mà nhà văn Nhượng Tống đã chọn dịch. Nói cách khác, tổng quát thì phần lớn nội dung tác phẩm được hai dịch giả chọn để chuyển ngữ, giống nhau, chỉ có một đôi chỗ khác nhau mà thôi, ông “Lá Bối” nhấn mạnh.

Trả lời câu hỏi trong suốt thời gian điều hành nhà Lá Bối, với khoảng trên, dưới 150 đầu sách đủ loại, đa phần kén người đọc, có cuốn sách nào khi in ra bị lỗ không? Thì ông Từ Mẫn cho biết, hầu như cuốn nào cũng có lời. Kể cả những cuốn bán không hết. Và, dù là loại sách gì thì số lượng mỗi cuốn ngay lần in thứ nhất, ở Lá Bối, căn bản vẫn là năm ngàn (5,000) ấn bản.

Về tác quyền dành cho các tác giả (trừ Thượng Tọa Nhất Hạnh không lấy) thì, theo ấn định của chính thầy Nhất Hạnh: Tác quyền được tính theo nguyên tắc 10% trên giá bán, trên số in; không phân biệt tên tác giả.

Thầy Từ Mẫn nói thêm:

“Tuy có lời, nhưng không bao giờ Lá Bối có dư tiền, vì tất cả tiền lời có được đều được đắp đỗi cho việc in những tác phẩm kế tiếp…”

Ông cũng bày tỏ lòng biết ơn độc giả, những người có lòng tin cậy, cho Lá Bối vay tiền làm sách, không lấy lời… Luôn cả những người tiếp tay một cách cụ thể về phương diện đại diện phát hành, mà không nhận một đồng thù lao, như trường hợp nhà thơ Thành Tôn…

Ông Thành Tôn đã nhận đại diện cho nhà Lá Bối nhiều năm ở miền Trung. Đó là nơi có số lượng tiêu thụ sách cao nhất tính chung cả miền Nam, như thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam.

Nhà thơ Thành Tôn nói, ông cộng tác với tạp chí “Giữ Thơm Quê Mẹ” của Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh, tự những số đầu tiên của tờ báo này. Nên khi nhận được đề nghị của thầy Thanh Tuệ, nhờ tiếp tay với Lá Bối, ông đã nhận lời…

Hoặc những độc giả trung thành như ông Lê Phú Giáp thời còn là sinh viên, hiện cư ngụ tại quận hạt Orange County, cho biết, ngay tự những ngày đầu của Lá Bối, ông đã luôn tìm tới địa chỉ gốc của nhà xuất bản, để được bớt tới 40% mỗi đầu sách, dù mua bao nhiêu cuốn…

Trước tấm lòng quên mình, ăn ở, sống chết với sách, có người đã không ngần ngại nói rằng: “Nếu có người một đời bị quỷ… ám thì, cũng có người một đời bị sách… ám. Trong số những người này, có thầy Từ Mẫn…” (Du Tử Lê)

Chú thích:

(5) Theo trang mạng Wikipedia thì nhà văn Trần Phong Giao (1932-2005) tên thật Trần Đình Tĩnh, sinh tại Nam Định, bút hiệu Trần Phong, Thư Trung, Mõ Làng Văn. Ngoài tư cách nhà văn, ông còn là một dịch giả uy tín ở miền Nam. Năm 1954, di cư vào Nam, từ 1960 tới 1963, ông làm thư ký tòa soạn báo Tin Sách do Trung Tâm Văn Bút Việt Nam chủ trương. Thời gian này, ông cũng bắt đầu dịch một số tác phẩm văn chương, triết học của các nhà văn nổi tiếng thế giới, như Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Paul Gallico,… Cuối năm 1963, ông làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn. Năm 1971, thôi tạp chí Văn, ông lập nhà xuất bản và tạp chí Giao Điểm, rồi Chính Văn; nhưng không thành công… Cuối cùng ông trở lại công việc dịch sách và làm quản thủ thư viện Đại Học Cửu Long cho tới ngày 30 Tháng Tư, 1975. Ông mất tại Sài Gòn ngày 13 Tháng Tư, 2005, hưởng thọ 73 tuổi.

(6) Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) là một nhà văn, dịch giả độc lập, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, tính tới ngày từ trần. Năm 1934, ông tốt nghiệp trường Cao Đẳng Công Chánh Hà Nội, được bổ làm việc tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Năm 1952, ông bỏ nghề công chánh, về Sài Gòn mở nhà xuất bản, dịch sách, sáng tác và viết báo. Những năm trước cũng như sau 1975, Nguyễn Hiến Lê là một cây bút được tiếng làm việc miệt mài nghiêm túc và là một nhân cách lớn. Ông mất ngày 22 Tháng Mười Hai, 1984, tại bệnh viện An Bình, Chợ Lớn, Sài Gòn, hưởng thọ 72 tuổi.

(7) Ông Nguyễn Văn Trương (bút hiệu Nguyễn Hùng Trương) nhưng mọi người vẫn quen gọi là ông Khai Trí, sinh năm 1926 tại Thủ Đức. Thuở nhỏ, ông thường nhịn ăn sáng, dùng 2 đồng xu mẹ cho để mua báo đọc… Nhờ cố gắng làm việc không mệt mỏi, tiết kiệm từng đồng nên đến năm 1952 ông có đủ vốn để mở một hiệu sách nhỏ tại 62 đại lộ Bonard (nay là Lê Lợi), đặt tên là nhà sách Khai Trí (sau 1975 là nhà sách Sài Gòn). Đây là nhà sách đầu tiên ở Việt Nam bán hàng theo kiểu tự chọn, khách có thể đứng đọc tại chỗ hàng giờ rồi đi ra mà không bị ai làm phiền… Ông Khai Trí cũng đầu tư trong lãnh vực xuất bản tất cả các loại sách, nhiều nhất là tự điển… Cùng nhà văn Nhật Tiến, ông xuất bản tuần báo Thiếu Nhi và là soạn giả của nhiều đầu sách giá trị. Ông mất tại Sài Gòn ngày 11 Tháng Ba, 2005, thọ 80 tuổi. (Nguồn Diễn Đàn Sách Xưa – Wikipedia – Mở)

Sao gì cũng giải được, trừ sao vàng

Sao gì cũng giải được, trừ sao vàng

 
Kết thúc lễ dâng sao giải hạn, hàng ngàn người chen lấn, xô đẩy nhau để xin lộc. Ảnh: VnE

Phạm Thanh Nghiên (Danlambao) – Việc dâng sao giải hạn không nằm trong giáo lý nhà Phật. Nó được cho là bắt nguồn ở Trung Quốc từ nhiều năm nay, và du nhập vào Việt Nam. Tất nhiên, không riêng gì hình thức dị đoan này, nhiều tập tục, hủ tục khác trong đời sống sinh hoạt của người Việt đều bị ảnh hưởng, du nhập từ phương Bắc qua nhiều đời nay. Việc dâng sao giải hạn, thật không may đã bị vu khống hoặc lầm tưởng là đặc trưng của đạo Phật. Việc lầm tưởng và u mê đó (cũng thật không may) lại là cơ hội trục lợi, làm ăn, thậm chí làm giàu của nhiều nhà Chùa, nhiều ông sư quốc doanh. Sở dĩ phải chỉ đích danh “sư quốc doanh” vì những đối tượng này ngoài lợi dụng việc đi tu để thỏa mãn lối sống cá nhân tầm thường, còn chịu sự quản lý, sai khiến (đương nhiên cả sự nuông chiều) của chế độ, bóp méo về giáo lý và niềm tin tôn giáo. Thậm chí, nhiều ông sư trụ trì còn là những tay an ninh cao cấp. Đương nhiên, cần nói thêm cho rõ rằng, không phải vị sư nào cũng là “sư quốc doanh” theo nghĩa ở trên cho dù thuộc “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” tức là chịu sự quản lý chung của Nhà nước cộng sản.

Bài này không định phân tích về giáo lý nhà Phật vốn là một đề tài quá sức của người viết. Càng không đi sâu vào phân tích ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đối với tập tục của người Việt. Nó chỉ như một sự lướt qua khi nghĩ về tâm lý bệnh hoạn của đa số người Việt nhân chuyện dâng sao giải hạn đầu năm. Cớ sự cũng từ hình ảnh hàng vạn người chen lấn, xô đẩy nhau để được dâng sao giải hạn ở chùa Phúc Khánh, Hà Nội hôm mồng 8 tết (15/2/2018). 

Báo “lề đảng” đưa tin, có đến gần 1000 công an, cảnh sát cơ động, dân phòng, thanh tra giao thông được huy động để bảo vệ ba vòng xung quanh ngôi chùa này trong buổi lễ cầu an, dâng sao giải hạn. Chi tiết này hẳn là làm cho nhiều người dân, nhất là những người từng đi biểu tình ôn hòa bày tỏ lòng yêu nước, phản đối Trung cộng xâm lược, bảo vệ môi trường, đòi dân chủ nhân quyền và công bằng xã hội phải rớm nước mắt. 

Cũng lực lượng công quyền này đã có mặt trên đường phố, nhưng không phải là để bảo vệ mà là để đàn áp, để đánh đập và bắt người. Những con người còn biết xót thương cho thân phận của đồng bào mình, biết trăn trở với vận mệnh của đất nước mình. Nhiều người ước rằng, giá như đám đông hàng ngàn người đang chen lấn, xô đẩy đi dâng sao giải hạn kia là một cuộc biểu tình đòi dân quyền, dân sinh. Và lực lượng công an, bộ đội thay vì đàn áp, bắt bớ thì bảo vệ những công dân bày tỏ lòng yêu nước, bày tỏ trách nhiệm với dân tộc. Thay vì bảo vệ cho những trò dị đoan mê tín, trục lợi bất chính thì cần ngăn chặn và dẹp bỏ. Song nếu như thế, thì xã hội này đâu còn là xã hội cộng sản. Sự trói buộc, mất quyền tự do đưa dẫn người ta đến thói u mê, tăm tối. Thay vì tin vào Chúa, tin vào Phật, người ta tin vào ma quỷ và những trò tà mị. Chỉ có một chính quyền bất xứng mới muốn người dân sa đà vào những điều như thế để dễ bề cai trị.

Viết đến đây tôi bỗng nhớ đến câu chuyện về người bạn của bố tôi. Ông là một người hiền lành, tốt bụng. Nhưng mấy năm nay ông hay đi cúng bái và dâng sao giải hạn cho người ta. Cúng nhưng không lấy tiền của ai, thậm chí gia chủ mời cơm ông cũng từ chối. Chỉ xin một cốc nước lọc, uống lấy giọng để khấn. “Mình được ăn lộc Thánh thì phải giúp người, tích đức cháu ạ”. Ông hay nói với tôi như thế mỗi lần chú cháu gặp nhau. Tôi quý ông nhưng không đồng tình với những việc ông làm. Ông có một người con trai lớn thuộc diện có chức quyền ở thành phố. Anh này hay đi cúng bái, lễ lạt và “có khả năng đặc biệt về tâm linh” theo như lời ông kể với tôi. Ông phải đi cúng giúp người một phần là nhờ tác động của con trai mình. Ông không bao giờ chửi chế độ, cũng không khen. Năm ngoái tôi về giỗ mẹ, gặp ông thì được biết anh con trai đã bị chuyển công tác, không còn giữ chức vụ cũ nữa. Nghe đâu là liên quan đến chuyện đấu đá nội bộ gì đó. Căn nhà mà vợ chồng ông đang ở cũng bị rơi vào diện giải tỏa. “Chúng nó (chỉ bọn cầm quyền thành phố) gần như cướp trắng cháu ạ. Lấy đất với giá rẻ như bèo và không cho người dân chỗ tái định cư”, ông than thở với tôi như thế. Và mỉa mai:” Sao nào chú cũng giải được, từ Thái bạch, Kế đô đến La hầu chú chả ngán sao nào. Riêng có sao vàng thì chú chịu. Sao vàng cờ đỏ thì chẳng thịt mồi, chẳng giấy sớ bùa bả gì giải được, cháu ạ”. 

Đúng rồi, sao vàng cờ đỏ không phải là hạn, nó là đại họa, đại họa của dân tộc. Muốn giải sao này, không còn cách nào khác là phải bước qua sợ hãi, dũng cảm đấu tranh dẹp bỏ nó. Và để giải thể nó, không cần phải thịt mồi, rượu trắng, không cần ông thầy cúng nào mà chính mỗi người dân chúng ta đều có thể tự làm được bằng chính sức của mình, bằng lòng can đảm và ý thức trách nhiệm với dân tộc.

Đã đến lúc người dân Việt Nam phải nhận thức được rằng đại họa cộng sản là nguyên nhân sâu xa dẫn đến mọi tai họa khác trong đời sống xã hội. Đúng, ở đất nước nào cũng vậy, dù văn minh, giàu có như Mỹ và một số nước phương Tây khác, vẫn có người nghèo, vẫn có người chết vì bệnh tật, ung thư, tai nạn giao thông, giết người. Nhưng tử vong với số lượng kinh hoàng về các nguyên nhân trên như ở Việt Nam thì không còn là điều bình thường nữa. Tham nhũng, quản lý yếu kém, ô nhiễm môi trường, đạo đức suy đổi, tội ác hoành hành… là sản phẩm đặc trưng của chế độ độc tài. Và là căn nguyên dẫn đến các tai họa khác mà dân chúng phải gánh chịu. 

Đút lót thần thánh, mua chuộc chư Phật không phải là cách để được bình an. Càng không phải là vốn để dành sau này được lên thiên đàng. Sống tử tế, nhân ái, biết dấn thân cho lẽ phải thì không cần một thủ tục cầu xin, cúng bái gì cũng sẽ thấy bình an cho dù trong phải sống trong nghịch cảnh hay phải đối mặt với chông gai cuộc đời.

Đại họa lớn nhất của dân tộc là họa cộng sản mà không lo dẹp bỏ thì sao có thể hoá giải được các hạn khác mà con người đang phải gánh chịu.

Người dân Việt chúng ta, bao giờ mới hết u mê?

Phạm Thanh Nghiên

danlambaovn.blogspot.com

Người Mỹ lạc quan nhất kể từ năm 2000

 Ky Nguyen‘s post.

Ky Nguyen

Người Mỹ lạc quan nhất kể từ năm 2000, Tổng thống Trump nói ‘những điều vĩ đại đang diễn ra’

Niềm tin của người tiêu dùng Mỹ đang ở mức cao nhất trong nhiều năm, và điều đó đã được Tổng thống Donald Trump dùng để miêu tả rằng những thứ vĩ đại đang xảy ra dưới thời của ông.

Chỉ số niềm tin người tiêu dùng Mỹ do tổ chức nghiên cứu kinh doanh Conference Board tổng hợp đã tăng mạnh từ 124,3 điểm vào tháng 1/2018 lên 130,8 điểm trong tháng 2, mức cao nhất kể từ tháng 11/2000, trang tin USA Today đưa tin ngày 27/2.

Chỉ số này phản ánh đánh giá của người tiêu dùng về các điều kiện hiện tại và quan điểm của họ trong 6 tháng tới. Người tiêu dùng Mỹ đang cảm thấy tốt hơn về nền kinh tế hiện tại.
Trump

Các biện pháp cắt giảm thuế của Tổng thống Trump ngày càng được ủng hộ. (Ảnh: Steven Senne/AP)

Ngay sau khi số liệu này được công bố, Tổng thống Trump đã đăng tải trên mạng xã hội với bình luận rằng “những điều to lớn đang xảy ra!”

“Người tiêu dùng Mỹ đang lạc quan nhất kể từ năm 2000… Tỷ lệ thất nghiệp đã xuống mức thấp nhất trong 17 năm”, ông Trump đăng trên trang Facebook.

Theo USA Today, các biện pháp cắt giảm thuế của chính quyền Trump vào năm ngoái đang bắt đầu được phản ánh vào hầu bao của người tiêu dùng.

“Khi người dân ngấm dần chi tiết của gói cải cách thuế, các cuộc thăm dò dư luận ​​cho thấy các biện pháp cắt giảm thuế đang ngày càng được nhiều người ủng hộ hơn”, USA Today dẫn lời một báo cáo của công ty chứng khoán Amherst Pierpont Securities đánh giá.

Thị trường lao động cải thiện đang thúc đẩy niềm tin của người tiêu dùng. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ đã xuống mức 4,1%, thấp nhất trong 17 năm như Tổng thống Trump đã đề cập.

Theo Conference Board, “nhìn chung người tiêu dùng Mỹ vẫn rất tin tưởng rằng nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ nhanh trong những tháng tới”.

Các chuyên gia kinh tế thường theo dõi sát báo cáo của Conference Board vì chi tiêu của người tiêu dùng Mỹ chiếm khoảng 70% GDP của nước này.

Chỉ số niềm tin người tiêu dùng Mỹ hồi phục sau khi chạm đáy tại mức 25,3 điểm vào tháng 2/2009 khi nước Mỹ đang trong giai đoạn tồi tệ nhất của cuộc Đại Suy thoái.

Minh Tuệ

Bỏ ngay cái việc lãnh đạo mà lại xin rút kinh nghiệm.

Quoc Vo is with Haiviet Hoang.

TUOITRE.VN

  

Bỏ ngay cái việc lãnh đạo mà lại xin rút kinh nghiệm.

Đã là 1 lãnh đạo thì chỉ có đúng và sai và từ chức nếu sai chứ không có chuyện rút kinh nghiệm, vì cái sai của lãnh đạo sẽ làm lụn bại đất nước và dân tộc mà nếu đã sai thì còn ngồi đó làm gì mà không từ chức, vì hết cái sai này sẽ tiếp theo những cái sai khác.

Đó là chưa nói tới lòng tự trọng của một trí thức, nhất là ở bộ giáo dục, thì lại càng không thể tha thứ, và nếu là trí thức thì hãy che mặt mà từ chức.

VC không chỉ là những kẻ tham quyền cố vị, dốt nát những không chịu từ chức, mà còn thiếu cả phong cách của 1 trí thức.

TTO – Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ giao Thanh tra Bộ xác minh, làm rõ các trường hợp hồ sơ chưa đủ tiêu chuẩn hoặc có đơn thư khiếu nại, tố cáo và sớm công…
TUOITRE.VN
 

Thấy gì trong buổi lể tiếp đón tàu sân bay Carl Vinson hôm nay

Nguyễn Tấn ThànhFollow

Thấy gì trong buổi lể tiếp đón tàu sân bay Carl Vinson hôm nay

Thấy đoàn Mỹ ngoài Thuyền trưởng tàu Carl Vinson, đại sứ quán Mỹ Daniel Kritenbrink còn có hai người không bình thường:
– Đô đốc Scott Swift Tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương.
– Chuẩn đô đốc John Fuller Tư lệnh nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ.

Thấy đoàn Việt cao nhất chỉ ông Lâm Quang Minh giám đốc sở Ngoại vụ Đà Nẵng tiếp đoàn Mỹ.

Thấy vậy là chưa thấy, phải thấy:
– Mỹ không xem đây là chuyện một con tàu ghé thăm bình thường, hay như ghé Phi và các nước khác. Mà họ xem đây là chuyện Thái Bình Dương, chuyện quân sự.
– Việt không xem đây là chuyện quân sự mà xem là chuyện ngoại giao một tàu nước ngoài ghé Đà Nẵng.

Và như vậy mới thấy chính Mỹ chủ động chuyện này, muốn cho T+ thấy không dể xâm lược Việt. Cho quân dân Việt thấy Mỹ luôn là người bạn, sẳn sàng bênh vực giúp đỡ.

Và như vậy mới thấy V+ dầu biết Mỹ giúp thế nhưng vẫn sợ T+, nên rón rén không dám tiếp chu đáo.

Bức thư Einstein gửi con gái tiết lộ về thứ năng lượng mạnh mẽ, kỳ lạ nhất thế giới

 Kimtrong Lam‘s post.
 
Image may contain: 1 person
Image may contain: 4 people, people smiling, people sitting, child and outdoor
Image may contain: 1 person, closeup
Image may contain: 2 people, people standing

Kimtrong Lam to Lương Văn Can 75.

Bức thư Einstein gửi con gái tiết lộ về thứ năng lượng mạnh mẽ, kỳ lạ nhất thế giới

Einstein, tác giả của công thức năng lượng huyền thoại: E=mc2, từng thừa nhận mình vẫn chưa thể hiểu nổi một thứ năng lượng khác thậm chí còn bí ẩn hơn. Trong bức thư gửi cô con gái yêu Lieserl, nhà bác học vĩ đại đã mô tả rất kỹ về nó.

Người ta nói, cái tên “Einstein” đồng nghĩa với từ “thiên tài”. Quả vậy, Albert Einstein và thuyết tương đối chính là một trong hai cột trụ của vật lý hiện đại. Thuyết tương đối rộng trở thành nền tảng cho rất nhiều nghiên cứu khoa học hiện đại.

Nhưng Einstein không chỉ là một cỗ máy tư duy đơn thuần. Hơn hết, ông là một con người đúng nghĩa, đầy xúc cảm và đức tin. Một nhà nghiên cứu đã viết về ông như thế này: “Ông hầu như không có bản chất phức tạp và sự trần tục… Luôn luôn ở trong ông là sự thuần khiết tuyệt vời lúc như đứa trẻ, lúc thì uyên thâm bướng bỉnh”.

Cả cuộc đời mình, Einstein đã xuất bản hàng trăm đầu sách, bài báo, nghiên cứu khoa học. Nhưng ông cũng không hề phủ nhận đức tin của mình với tín ngưỡng, tinh thần, về Chúa.

Bởi tin vào Chúa nên ông rất tin vào tình yêu, sự bao dung. Trong bức thư gửi cho cô con gái Lieserl của mình, Einstein khẳng định: “Tình yêu chính là chúa và chúa cũng chính là tình yêu”.

Trong suốt những năm tháng cuộc đời, ông đã gửi cho con mình 1400 bức thư. Hơn 20 năm sau khi Einstein qua đời, những dòng ấy đã được công bố rộng rãi. Dưới đây, xin được gửi tới quý độc giả một trong số những lá thư như vậy.

“Khi cha giới thiệu về thuyết tương đối, có rất ít người hiểu được cha. Cha hiểu thứ mà cha giới thiệu sẽ gây khó hiểu với thế giới hiện tại. Hãy lưu giữ bức thư này càng lâu càng tốt và chỉ đưa nó ra khi xã hội đủ phát triển để hiểu và chấp nhận những gì cha nói dưới đây. Đây là một trong những năng lượng mạnh mẽ nhất trên thế giới, mạnh tới nỗi mà khoa học chẳng thể chứng minh nổi.

Loại năng lượng này xuất hiện ở khắp mọi nơi, ảnh hưởng tới tất cả mọi người và thậm chí xuất hiện đằng sau những hiện tượng không thể lý giải nổi trên Trái Đất.

Năng lượng này chính là tình yêu. Khi các nhà khoa học nghiên cứu về vũ trụ, họ đã quên mất loại năng lượng không thể nhìn thấy này.

Tình yêu là ánh sáng, nó soi sáng những người cho đi và nhận về. Tình yêu là trọng lực, bởi vì nó khiến người ta xích lại gần nhau hơn.

Tình yêu là sức mạnh, bởi nó tổng hợp tất cả những thứ tốt nhất mà chúng ta có, cho phép con người không đắm chìm trong sự ích kỉ mù quáng. Tình yêu gợi mở mọi vấn đề.

Vì tình yêu mà chúng ta sống, rồi chết. Tình yêu chính là Chúa và Chúa cũng chính là tình yêu.

Năng lượng đặc biệt này giải thích tất cả mọi điều và gieo ý nghĩa vào cuộc sống. Chúng ta đã bỏ mặc nó quá lâu, có thể vì chúng ta sợ phải yêu thương bởi nó là năng lượng duy nhất trên đời con người không điều chỉnh được.

Để nhìn thấy được tình yêu, cha đã thay đổi một chút trong công thức của mình. Thay vì E=mc2, chúng ta chấp nhận rằng năng lượng để phục hồi thế giới có thể thu được qua chỉ số tình yêu nhân với tốc độ ánh sáng. Có thể thấy rằng chẳng có đáp số đúng vì tình yêu không có giới hạn.

Nếu chúng ta muốn giống loài của mình tồn tại, chúng ta phải hiểu ý nghĩa của cuộc sống. Nếu chúng ta muốn cứu Trái Đất cùng tất cả những sinh vật tồn tại trên đó, tình yêu là thứ duy nhất, đáp án chính xác nhất của vấn đề.

Có thể chúng ta chưa sẵn sàng để tạo ra những quả bom tình yêu và thả nó đi khắp thế giới hay một thiết bị đủ mạnh để có thể huỷ diệt sự hận thù, ích kỉ hay lòng tham đang tàn phá thế giới.

Thế nhưng, mỗi người đang mang trong mình một cỗ máy mạnh nhất thế gian, một cỗ máy tình yêu chỉ chờ để được sử dụng. Chúng ta học cách cho đi và nhận lại thứ năng lượng diệu kì này.

Lieserl thân mến, tình yêu sẽ vượt lên tất cả, nó có thể trung hoà mọi thứ vì tình yêu là tinh hoa của cuộc sống này.

Cha rất hối hận vì đã không thể mô tả hết những gì trong trái tim mình, thứ luôn yếu ớt đập trong suốt cuộc đời cha. Có lẽ đã quá muộn để xin lỗi, thế nhưng thời gian chỉ có tính tương đối, cha cần nói với con rằng cha yêu con và cám ơn con, cha đã tìm thấy câu trả lời chính xác nhất!

Cha, Albert Einstein”.

Chân dung Einstein. 
Tình yêu có thể hàn gắn thế giới

Trong một bài hát nổi tiếng của mình có tên “Heal the wolrd”, Michael Jackson đã hát lên những ca từ rất đẹp, rất nhân văn thế này: “Heal the world. Make it a better place. For you and for me. And the entire human race” (Tạm dịch: Hãy hàn gắn lại thế giới và biến nó trở thành nơi chốn tươi đẹp hơn cho bạn, cho tôi, cho toàn bộ nhân loại này).

Bản thân Einstein vốn là một nhà khoa học, tin theo những định luật vật lý hết sức thực tại nhưng cũng đã nhận ra tình yêu thương là một loại lực không thể lý giải. Ông có thể chứng minh những lý thuyết, định lý, những con số, công thức nhưng không thể nào giải nghĩa được tình yêu.

Vì thế ông đã viết: “Cha hiểu thứ mà cha giới thiệu sẽ gây khó hiểu với thế giới hiện tại. Hãy lưu giữ bức thư này càng lâu càng tốt và chỉ đưa nó ra khi xã hội đủ phát triển để hiểu và chấp nhận những gì cha nói dưới đây”.

Albert Einstein và vợ Elsa Lowenthal. 

Einstein đã gọi tình yêu là một loại “lực”, đồng nghĩa với việc ông coi nó như một dạng tồn tại vật chất. Và nếu điều đó là thật thì tất cả các quan niệm cũ của khoa học đều sẽ bị đảo ngược. Khoa học và các thuyết vô thần lâu nay vẫn quan niệm vật chất và tinh thần là hai yếu tố phân biệt rõ ràng, có tính chất trái ngược nhau và vật chất quyết định tinh thần, ý thức.

Tuy nhiên rất nhiều người đã nhận thấy rằng tinh thần thực sự có thể ảnh hưởng và chi phối mạnh mẽ đến vật chất. Trong mỗi sự vật, hiện tượng, tinh thần và vật chất là cùng tồn tại đồng thời.

Tình yêu thương, khi đạt đến một mức độ đủ lớn thực sự sẽ tạo thành một loại vật chất ước chế con người. Chính Einstein đã nhận rằng: “Để nhìn thấy được tình yêu, cha đã thay đổi một chút trong công thức của mình. Thay vì E=mc2, chúng ta chấp nhận rằng năng lượng để phục hồi thế giới có thể thu được qua chỉ số tình yêu nhân với tốc độ ánh sáng”.

Chúa Jesus từng răn dạy các con chiên của mình: “Nhưng các con hãy yêu kẻ thù mình, hãy làm ơn, và hãy cho mượn mà đừng mong trả lại”. Còn Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng luôn dạy phải hành thiên, tích đức, từ bi với tất cả chúng sinh.

Khổng Tử bàn rằng: “Nơi ở có những người nhân ái là tốt nhất. Nếu chọn ở nơi không có người nhân ái thì làm sao có thể nói đó là bậc trí giả?”. Còn Mặc Tử (một triết gia thời Chiến Quốc) thì chủ trương “kiêm ái” (nghĩa là yêu thương tất cả mọi người), đồng thời cực lực phản đối chiến tranh, bạo lực.

Xem thế đủ biết người xưa đều nhận thức được rằng:

Chỉ có yêu thương mới có thể hàn gắn thế giới, thấu hiểu lòng người. Chỉ có yêu thương mới khiến con người thực sự cập bến miền hạnh phúc.

Văn Nhược.

Những gì còn lại

Những gì còn lại

RFA

Ảnh của tuankhanh

Trong đám tang của  Chris Kyle, tay bắn tỉa lừng danh nhất nước Mỹ, qua đời năm 2015 ở Texas, người ta nhìn thấy chiếc xe tang đi qua một đoạn đường dài hơn 300 cây số mà suốt hai bên đường, luôn có người dân đứng vẫy cờ hoặc nghiêm chào tiễn biệt.

Đó là một hình ảnh xúc động hiếm có về cái chết của một con người. Chris Kyle làngười lính SEAL được ca ngợi như một thiên thần hộ mạng vì đã cứu cả trăm đồng đội của mình trên chiến trường Trung Đông nhờ tài bắn tỉa. Anh giải ngũ, trở về nhà và sau đó chết như một người lính.

Rằm tháng Giêng Mậu Tuất, tức ngày 2/3/2018 tại Sài Gòn, đám tang của nhạc sĩ, đại tá Nguyễn Văn Đông cũng xuất hiện một cảnh tượng xúc động tương tự. Khi lễ di quan diễn ra, nhiều người đàn ông mặc thường phục, không ai bảo ai, đã bất ngờ đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh. Thấp thoáng trong những hàng khác, cũng có những cá nhân im lặng đưa tay chào, không cần hiệu lệnh. Hầu hết đó là những cựu thiếu sinh quân VNCH cùng trường với ông, và những người khác là cựu quân nhân đã chào tiễn biệt ngài đại tá Chánh Văn phòng của Tổng Tham mưu Phó quân lực Việt Nam Cộng Hòa về nơi an nghỉ cuối cùng.

Hàng người đứng chào theo kiểu nhà binh trước đám tang của nhạc sĩ – đại tá Nguyễn Văn Đông, đem lại niềm xúc động lạ thường, tương tự như hình ảnh tiễn xe tang của Chris Kyle. Nhưng có lẽ còn đặc biệt hơn với câu chuyện Việt Nam, khi mọi thứ về con người và hệ thống của chính quyền miền Nam bị săn lùng, giam giữ và hủy diệt nhiều năm, nhưng vẫn ẩn khuất đâu đó, rồi bất ngờ hiển lộ.

Nhưng ngoài âm nhạc, vẫn còn đôi chuyện về đại tá Nguyễn Văn Đông chưa được nói hết. Bài viết này là những gì còn lại, chưa kể, sau cuộc tiễn đưa đó.

Đọc tiểu sử cá nhân sau năm 1975, người ta chỉ biết ngắn gọn rằng nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đi trại tù của Nhà nước Bắc Việt trong 10 năm, và sau đó không đi Mỹ theo diện H.O (Humanitarian Operation). Đó là một chiến dịch nhân đạo do tổng thống Mỹ Ronald Reagan bật đèn xanh nhằm giải thoát hàng trăm ngàn quân nhân cựu quân nhân VNCH bị đưa đi tù, dưới danh nghĩa cải tạo (Special Release Reeducation Center Detainee Resettlement Program). Mọi thứ về đời của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, lâu nay vẫn được mô tả thoáng qua, y như cách mà báo chí Nhà nước đưa tin ông mất. Ấy vậy mà vài ngày sau đám tang, nhiều tờ báo vẫn còn bị khiển trách vì đã có thái độ trân trọng thái quá với một “sĩ quan ngụy”.

Năm 1975, ngay sau khi đại tá Nguyễn Văn Đông ra trình diện, dù được chính quyền quân quản tuyên bố là chỉ đi “học tập tư tưởng mới” trong vài tháng. Thế nhưng, sự thật sau đó là 10 năm dài tù đày ở trại Suối Máu, Biên Hòa. Cho đến sau năm 1980 thì đưa về Chí Hòa. Đại tá Nguyễn Văn Đông được trả về nhà vào năm 1985 để được chết ở nhà, theo chính sách khoan hồng của cách mạng. Bà Nguyệt Thu, vợ của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông kể rằng khi chia tay ông 10 năm trước, bà vẫn còn nhớ hình dáng một người đàn ông gầy nhưng khỏe mạnh, để rồi khi nhận lại ông, thì lúc đó gần như chỉ là một cái xác, chỉ còn thoi thóp.

Bà Nguyệt Thu, vợ của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông kể lại rằng gia đình lúc đó chỉ còn đợi ngày để chôn ông, vì do ông mang quá nhiều căn bệnh cũng như thuốc men lại quá đắt đỏ và khan hiếm vào thời đó.

Rồi nhiều năm sau, ông sống lại như một kỳ tích, khỏe mạnh. Hai người im lặng sống trong căn nhà nhỏ chỉ có đôi vợ chồng già, không con cái, không nhiều sinh hoạt với xã hội. Bà Nguyệt Thư nói rằng cho đến nhiều năm sau khi ông được thả về, bà vẫn còn khả năng sinh con nhưng ông không còn có thể. Vì vậy hai người đã chọn sống cô đơn cùng nhau đến ngày chung cuộc.

Lời của bà kể như tiếng chuông chùa xa xăm về một nỗi đau không lời. Về với ông được 2 năm, thì bà bị chia cắt với đại tá bởi 10 năm tù không hề tòa án, cũng như không hề có lời giải thích. Khi được trả về nhà, thì ông đã như một phế nhân.

Bà nói rằng không muốn sinh con vì ông quá yếu. Nhưng cũng có thể bà không muốn có một đứa con, bởi cuộc sống như ác mộng mà bà và ông trãi qua, nếu có đơm hoa kết trái thì chắc cũng không thể có được lúc tỏa hương.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông bị đưa đến trại Suối Máu ngay sau khi trình diện. Thực tế là trại này tên là trại Tân Hiệp, Biên Hòa, từng là nơi giam giữ các binh sĩ Bắc Việt chờ trao trả theo các thỏa ước. Tên Suối Máu là do các tù nhân sau năm 1975 gọi thành quen mặc dù bị quản giáo cấm. Bởi năm 1968, cuộc đột kích thất bại ở cứ điểm này, mà dân trong vùng mô tả máu dân thường và của hai bên Nam Bắc chảy như suối, từ đó mà thành tên.

Trại Suối Máu giam giữ khoảng 5000 người, chia làm năm trại theo ký hiệu K. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông ở K5.

Chỉ một năm ở trại này, do điều kiện giam giữ và ăn uống khắc nghiệt, không chỉ đại tá Nguyễn Văn Đông mang bệnh, mà rất nhiều người cũng đổ ra đủ thứ bệnh từ nội khoa đến ngoại khoa. Mà thuốc thì chủ yếu là một loại dược phẩm dân tộc được bào chế ở miền bắc có tên là Xuyên Tâm Liên. Bệnh gì cũng uống một loại ấy.

Nhà văn Hà Thúc Sinh, tác giả của tác phẩm Đại Học Máu, đã kể rằng nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông vì bị mang bệnh ghẻ nhầy nhụa kỳ lạ, khiến cả mảng lưng của ông lở loét. Đã vậy nhiều chứng bệnh khác như đau bao tử, thấp khớp, huyết áp… ập tới hành hạ ông liên tục nhiều năm. Vào lúc thập tử nhất sinh, anh em khiêng lên trạm xá được ít bữa thì y tá ở đó đuổi về. Lý do là ở bệnh xá không có thuốc điều trị, cũng như cho về thì khỏi mang trách nhiệm.

Nhà văn Hà Thúc Sinh viết rằng mấy người bạn của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông khiêng ông ra hố nước để tắm lại sau nhiều ngày nằm liệt, như một cách giúp duy nhất có thể. Nhưng do phải đi lao động nên mọi người chỉ kịp nhìn thấy ông Nguyễn Văn Đông nằm sấp trên mặt đất, chứ không còn đứng nổi, cố múc nước rồi nằm quơ quào cố tắm rửa một mình như vậy.

Nói về sáng tác trong giai đoạn đó, đại tá Nguyễn Văn Đông đã cố giữ lại cảm hứng của mình trong những năm đầu bị tù, vì nghĩ rằng cùng lắm 2-3 năm gì đó sẽ ra. Nhưng rồi dần dần mọi thứ thui chột theo sức khỏe và niềm hy vọng. Ngay lúc bệnh đã nặng, nhưng phát hiện tù nhân Đỗ Văn Phúc là em họ của ca sĩ Duy Khánh cũng bị tù chung trại, ông đã vui đến mức sáng tác lại. Cảm mến giọng hát của người này mà nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông viết riêng một bài hát để tặng, có tựa đề là “Sài Gòn trong trái tim tôi”. Tác phẩm này, giờ chắc đã tuyệt bút, chỉ còn được nhắc lại với đôi ba câu với những ai từng nghe qua như “Sài Gòn tiếc nuối không thôi, Hà Nội héo hắt răng môi, cho nhớ thương vời vợi. Ôi, Sài gòn trong trái tim tôi…”

Năm 1985, khi khiêng ông về nhà, bà Nguyệt Thu nói rằng không nghĩ ông sống qua được năm đó. Sự tuyệt vọng tràn ngập đến mức khi nhận được hồ sơ ghi danh đi chương trình H.O ngay trong nhóm đầu, ông đã từ chối vì muốn được chết trên quê hương mình. Bà cũng thuận theo ý ông. Ấy vậy mà với sự chăm sóc nhẫn nại và yêu thương của người vợ hiền, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã chậm chạp sống lại một lần nữa, cho đến ngày buộc phải chia tay trần thế.

Khác với cuộc đưa tiễn người lính Chris Kyle, buổi chia tay nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông không có nhiều người khóc. Chỉ có những cánh tay đưa lên, im lặng chào đưa tiễn ông. Động tác rất quen thuộc khiến những người xa lạ nhau như gần lại. Có điều gì đó dâng lên trong suy nghĩ, đầy xúc động. Quả là có những triều đại nguy nga lộng lẫy, nhưng mọi thứ đã không còn. Nhưng cũng có những chế độ đã mất nhưng con người và tinh thần quốc gia thì còn sống mãi.