Trong thế chiến vừa rồi, bà mẹ của một người lính nhảy dù Mỹ nhận được một bức thư của con hay rằng trong lúc bị thương và đói khát, đã được một người đàn bà ở Avranches cứu giúp, giấu không cho tụi Đức bắt. Chẳng may ít tháng sau chính người lính đó tử trận trong khi tấn công Ardennes. Nhưng bà mẹ anh ta vẫn tiếp tục thực hiện một ước nguyện không thể nào quên được. Bà dành dụm tiền trong hai năm để vượt Đại Tây Dương, lại thành phố ghi trong bức thư của con trai. Phải dò hỏi lâu bà mới kiếm được người đàn bà đã cho con trai bà trú ngụ – vợ một tá điền nghèo – và rụt rè đưa biếu người đó một gói nhỏ. Trong gói có một chiếc đồng hồ vàng, mà con trai bà được thưởng khi đâu một bằng cấp tốt nghiệp; chàng chỉ có mỗi vật đó là đáng giá.
Cử chỉ biết ơn của người mẹ đó làm cho toàn dân miền Normandie rất đỗi cảm động. Ở Arvanches và khắp cả vùng chung quanh ai cũng nhắc tới, gần như một truyền kỳ.
1
Lòng biết ơn là nghệ thuật nhận ơn huệ một cách vui vẻ, nhã nhặn, tỏ rằng mình cảm động trước mọi dấu hiệu nhân từ của người khác, dù lớn dù nhỏ. Phần đông chúng ta đều biết tỏ nỗi vui mừng khi được ai vui vẻ tiếp đãi, hoặc tặng một món quà, cho hưởng một cái lợi rõ rệt nào đó.
Không gì làm phật ý người ta bằng lối cám ơn ngoài miệng. Ông bạn gì của tôi, James Barrie mà các vở hát và các tác phẩm tỏ rằng đã hiểu rõ tâm lý thanh niên, thường kể câu chuyện này:
– Một buổi chiều nọ, một ông bạn tôi gốc gác ở Ecosse và tôi đương bàn bạc về công việc làm ăn. Đứa con gái ông chín tuổi, bước vô để dâng ông những chiếc bánh kẹp em mới làm xong vì biết ông thích thứ bánh đó. Ông bực mình vì câu chuyện bị ngắt, làm bộ nhấm nháp một chút, vội vàng khen em một lời nho nhỏ nhưng vẻ mặt vẫn nhăn nhó, rồi tiếp tục ngay câu chuyện bỏ dở. Em đó lúng túng, rất rầu rĩ, lặng lẽ bước ra. Vài tuần lễ sau má em hỏi em tại sao không làm bánh nữa. Em òa lên khóc, la lờn: “Không khi nào con làm bánh kẹp nữa” Em tuyệt vọng.
Ông Barrie nói tiếp:
– Và từ đó, em tuyệt nhiên không làm bánh nữa.
2
Thật là một điều phấn khởi khi ta nghĩ rằng lòng biết ơn có khi không phải chỉ là một tình cảm thoảng qua đâu mà có thể như một nguồn nước suốt đời không cạn Một người chồng nhớ hoài một lần nào đó vợ đã tận tình hy sinh cho mình, một người vợ nhớ hoài một món quà chồng tặng mình, nhờ vậy sự hòa hợp trong gia đình sẽ tăng lên vô cùng. Nhà tự nhiên học W. Hudson kể câu chuyện dưới đây:- Một buổi tối nọ, tôi dắt một ông bạn thân về nhà, gặp bữa, mời ông ăn. Ăn xong ông ta bảo “Anh thật có phước, chị nhà yếu đuối, phải săn sóc các cháu mà còn nấu cho anh được những món ngon như vậy.” Lời khen đó đã mở mắt tôi ra: nhờ ông bạn đó mà tôi mới thấy sự can đảm hằng ngày của nhà tôi mà trước kia tôi cứ cho là tự nhiên, và từ đó tôi tỏ lòng mang ơn nhà tôi.
Thái độ nhã nhặn khi nhận ơn đó, phải được biểu lộ trong cả những tiểu tiết, những việc lặt vặt. Người đưa thư, người giao sữa, người hớt tóc, chị hầu bàn ở khách sạn, người khiển thang máy (1), đều là những người giúp việc cho ta quanh năm. Ta biết cảm ơn họ thì những giao tế đó không có tính cách máy móc nữa mà có đượm thêm cái tình người, nhờ đó mà những công việc đơn điệu hằng ngày đỡ buồn tẻ, hóa dễ chịu hơn. Mấy năm trước, có lần tới Cannes, tôi ở chung một khách sạn với huân tước Grey, một chính khách Anh. Tôi nhận thấy ông cảm ơn người giữ cửa mỗi khi người này mở cửa cho ông. Một hôm tôi đánh bạo hỏi ông tại sao ông lại mất công như vậy. Ông ngó thẳng vào mặt tôi đáp: Tại chú ấy đã mất công giúp tôi.
Một bệnh nhân của tôi, bán vé ô tô buýt ở Londres, một hôm tâm sự với tôi rằng:
– Có nhiều lúc tôi ngán công việc của tôi quá. Thiên hạ kêu nài, làm tôi chịu không nổi, họ không bao giờ đem theo tiền lẻ cả. Nhưng có một bà sáng nào chiều nào cũng nhã nhặn cảm ơn khi tôi phát vé cho bà. Tôi cứ tưởng tượng rằng bà thay mặt tất cả các hành khách mà cảm ơn tôi, có vậy tinh thần tôi mới phấn khởi lên được.
Có khi phải cho tiền thưởng ; những lúc đó chúng ta nên nhớ rằng một nụ cười, một lời không sáo còn quý hơn món tiền thưởng nữa.
3
Một ông bạn thân của thi hào Paul Valéry có thói quen ăn bữa trưa ở một quán nọ tai Paris ; ông ta làm thinh khi người hầu bàn dọn ăn cho. Không khen chê gì cả và lần nào cũng thưởng một số tiền hậu hĩ. Valéry một hôm lại cùng ăn với ông và khi đi, mỉm cười cảm ơn người hầu bàn, khen rằng nhờ cách tiếp đãi niềm nở, khéo léo mà bữa ăn ngon hơn nhiều. Người hầu bàn đó nhớ hoài Valéry và cứ thỉnh thoảng lại hỏi thăm ông.
Ông giám đốc một nhà xuất bản nọ thường khen tài năng của cô thư ký Một hôm, nhà văn Arnold Bennett lại thăm ông ta, nói với cô thư ký:
– Ông chủ của cô khen cô là một thư ký tuyệt luân.
Cô ta đáp:
– Đâu phải là bí quyết của tôi, chính là bí quyết của ông chủ tôi đấy chứ.
Mỗi lần cô làm xong một việc gì dù là nhỏ nhặt tới đâu đi nữa, ông giám đốc cũng không quên cảm ơn cô. Nhờ được khuyến khích như vậy, cô tận tụy làm cho đến nơi đến chốn.
Không có gì làm cho đời sống – của chúng ta và của người khác – vui tươi rực rỡ hơn là lòng biết ơn.
4
Tôi biết một y sĩ cho một số bệnh nhân thần kinh suy nhược cái toa nầy: “đa tạ”. Khi một bệnh nhân tới nhờ ông chẩn mạch, có vẻ thất vọng, chán đời, óc chỉ nghĩ tới những đau khổ của mình thôi, mà cơ thể không có triệu chứng gì đau nặng cả thì ông ta khuyên:
– Liên tiếp sáu tuần lễ, hễ có ai giúp ông một việc gì thì ông nói: “đa tạ”, và để tỏ rằng trong thâm tâm thực tình ông mang ơn người đó thì ông nên vừa nói vừa mỉm cười nhé.
Có vài bệnh nhân bảo:
– Nhưng thưa bác sĩ, có ai giúp tôi được việc nào bao giờ đâu.
Vị y sĩ già đó, nhắc lại câu này trong Thánh kinh:
– Cứ tìm đi thì sẽ thấy.
Sáu tuần lễ sau, đa số bệnh nhân đó trở lại, thay đổi hẳn, không oán trách người khác nữa, tin rằng thiên hạ sao mà tự nhiên hóa ra tốt hơn, nhân từ hơn.
Có vài người không tỏ lời cảm ơn vì ngại quấy rầy người ta. Một bệnh nhân của tôi hết bệnh, rời dưỡng đường rồi, vài tuần sau trở lại để cảm ơn nữ y tá đã săn sóc cho mình.
Ông ta bảo:
– Tôi không dám tới sớm vì tôi nghĩ rằng có nhiều người lại cảm ơn cô quá, làm rầy cô.
Nữ y tá đó đáp:
– Trái lại. Ông lại thăm tôi, tôi mừng lắm chứ. Rất ít người hiểu rằng chúng tôi cần được khuyến khích, và những lời bệnh nhân khuyến khích chúng tôi làm cho chúng tôi phấn khởi nhiều lắm.
5
Vậy chúng ta đừng bao giờ nên ngại tỏ lời mang ơn người khácVì chúng ta đừng quên rằng nụ cười, lời cảm ơn,những hành động biểu lộ lòng mang ơn của ta giúp cho người chung quanh ta có một thái độ lạc quan về đời sống.
A. J. Cronin
(Trong Ý CAO TÌNH ĐẸP do NGUYỄN HIẾN LÊ tuyển dịch)
______________
(1) Người phương Tây bữa trưa thường ăn ở tiệm, tối mới về nhà
Có hai điều xin thưa trước. Một là hai chữ cộng sản đã dịch sai cả trăm năm nay vẫn chưa đính chính. Đúng ra phải dịch là cộng đồng chủ nghĩa. Hai là tôi gọi Bản Tuyên ngôn Cộng sản (Cộng đồng) mà hai ông Mác và Ăng ghen đã công bố năm 1848 là Kinh Thánh của các đảng cộng sản (cộng đồng).
Nói không thuộc Kinh Thánh của mình, là bởi trong bản Tuyên ngôn ấy, mà tất tật các đảng “cộng sản” đều coi như bộ cương lĩnh gốc của mình, có những điều xem ra trái khoáy với hiện thực. Ví dụ trong bản tuyên ngôn ấy hai nhà sáng lập chủ nghĩa cộng đồng từng có dự báo và lên án cái gọi là chủ nghĩa “cộng sản” phong kiến. Thế mà những người “cộng sản” theo khuynh hướng đệ tam lại dựng lên cái mô hình Xô viết rất gần với chủ nghĩa phong kiến, dù đã đặt một cái tên khác, chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Quan niệm đất đai chẳng khác gì quan niệm phong kiến: “Phổ thiên chi hạ mạc phi vương thổ”. Nghĩa là đất ở dưới gầm trời đâu cũng là đất của nhà vua! Hoặc như ban lãnh đạo trước sau đều thành vua tập thể. Hoặc như Chương IV của bản tuyên ngôn ấy có ghi rõ: “Thái độ của những người ‘cộng sản’ đối với các đảng đối lập”. Xem ra những người lãnh đạo Đảng “cộng sản” Việt Nam hoặc không thuộc Kinh Thánh của mình, hoặc là đã vất bỏ kinh thánh, coi Mác chỉ như cái bung xung danh nghĩa, chứ thật sự thì đã không còn giữ cái gốc gác của mình nữa rồi.
Lập trường chính thống của ban lãnh đao của dảng cộng sản Việt Nam trước sau vẫn coi ai nói đa đảng đều là phản động, suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, là chống đảng, chống nhà nước. Thế mà trong cái Tuyên ngôn ấy, chương IV, sau khi dẫn chứng về sự hợp tác giữa những người cộng sản với những đảng đối lập khác ở Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Ba Lan… đã có một kết luận:
“Sau hết, những người ‘cộng sản’ ở mọi nơi đều phấn đấu cho sự đoàn kết và liên hợp của các đảng dân chủ ở tất cả các nước”.
Như thế, Tuyên ngôn “cộng sản” đâu có bài xích đa nguyên, đa đảng! Trái lại nó còn nhấn mạnh đến thái độ phấn đấu cho sự đoàn kết và liên hợp giữa cộng sản và dân chủ. Chỉ từ khi phong trào cộng sản chuyển sang lập trường đệ tam thì các đảng dân tộc dân chủ mới bị coi là kẻ thù của cộng sản, thậm chí những khuynh hướng khác trong đảng cũng bị đàn áp.
Rõ ràng cương quyết giữ độc đảng, không đoàn kết, không liên hợp, thậm chí thủ tiêu những đảng đối lập đâu có phải là lập trường Mác- xít, nó chính là phản bội lại chủ nghĩa Mác. Trong khi lên giọng nào là chủ nghĩa Mác là kim chỉ nam, là chủ đạo… nhưng hành động trong hiện thực lại khác, làm sao giữ được tính chính danh, chính thống, mà không khiến cho xã hội nghi ngờ là mình đã đánh mất mình, lại đang đi theo tà thuyết?
Khi đứng lên làm cuộc Khởi nghĩa Tháng Tám, nhân dân Việt Nam đã chọn cho mình thể chế chính trị dân chủ cộng hòa, đa nguyên đa đảng.
Đừng để đánh mất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Tháng Tám. Mà cũng đừng trở thành kẻ phản bội khi vứt bỏ thánh kinh của mình.
Bài này tôi viết đã lâu, được đăng ở một vài trang mạng, nay nhân có hội thảo kỷ niệm 170 năm Tuyên Ngôn Cộng sản do Ban Tuyên giáo tổ chức, tôi chép lại bài cũ, viết thêm đôi điều làm rõ ý của mình, mong góp vào cái nhận thức đúng đắn của xã hội.
Bản Tuyên ngôn ấy ra đời ngót gần hai thế kỷ, chắc chắn là có nhiều lạc hậu cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Việc coi nó còn nguyên giá trị cả về lý luận, cả về thực tiễn, hoặc nó đang soi đường chỉ lối “đúng đắn” cho đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta của lãnh đạo Ban tuyên giáo và những người gọi là nhà tư tưởng cộng sản hay Mác Lê nin… là quyền của họ.
Cá nhân tôi cho rằng nó chỉ có giá trị “xã hội học lịch sử”, với ý nghĩa nó là một tác phẩm được Mác và Ăng ghen viết ra đã 170 năm nay. Hàng triệu người đã đọc nó và tưởng rằng đang thực hiện lý tưởng của nó thì trên thực tế đã làm cho cả trăm triệu sinh mạng bị giết chết, đã đẩy nhân loại đi vào một khúc quanh lịch sử bi thảm, làm cho nhiều dân tộc biến dạng, băng hoại thảm thương…rồi chính mình phải từ bỏ.
Bây giờ thì cái Đệ tam quốc tế đã bị giải thể, rồi cả Liên xô và hệ thống phe XHCN Đông Âu cũng tan rã. Cái gọi là chủ nghĩa Mác- Lê nin cũng đã phá sản cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Ngay cả Trung Hoa, từ 1960 thế kỷ trước họ chính thức vứt Lê Nin, đến 1970 họ thảo luận với nhau “Nên kiên trì chủ nghĩa Mác nào” và họ kết luận, chỉ lấy cái phép biện chứng của Mác coi thực tế là thước đo. Rồi họ đề xướng lý thuyết “mèo trắng mèo đen”, lại đề “Ba đại diện”, “Xã hội hài hòa”, nay thì đưa tư tưởng Tập Cận Bình thành quốc sách!
Về lý tưởng, Tuyên ngôn ấy nêu ra 4 mô hình chủ nghĩa xã hội, một là CNXH phong kiến kiểu Đức, hai là CNXH không tưởng, ba là CNXH tư sản. Điều trớ trêu là những tính chất phong kiến và không tưởng lại đầy rẫy trong các nhà nước XHCN! Trong thực tiễn cái mô hình nhà nước xô viết là “siêu phong kiến”. (Xem Chế độ phong kiến ở Liên Xô- Anatoly Tille, năm 1992 xuất bản với tên: Luật pháp của sự phi lý- Luật pháp phong kiến xã hội chủ nghĩa. Năm 2003, xuất bản ỏ Mỹ có tên: Cuộc cách mạng tội ác vĩ đại ở nước Nga- Mafia nắm quyền.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều trí thức ở nước ta nhận xét rằng, trong xã hôi VN hiện nay đầy rẫy những thiết chế kiểu phong kiến rất lỗi thời. Ông Nguyễn Văn An cựu ủy viên Bộ chính trị cũng từng nói Bộ Chính trị là vua tập thể. Có người bình luận vui là trong “chế độ làm chủ tập thể” tất sinh ra vua tập thể!
Tác giả bài này, trong nhiều cuộc hội thảo do những ban ngành TW tổ chức từng trình bày nhận xét, những thiết chế phong kiến đầy rẫy ở chế độ ta có lý do tồn tại vì một thời gian dài nền kinh tế đã vận hành với những phương thức mang bản chất phong kiến, một là đổi chác, hai là cống nạp, ba là tước đoạt (những cuộc cải tạo nông nghiệp, cải tạo công thương, đổi tiền, duy trì kéo dài kinh tế phi thị trường rồi gắn thêm cái đuôi XHCN…Thực chất cái gọi là kinh tế nhà nước là chủ đạo ở VN mang dấu ấn kinh tế phong kiến triều đình rất rõ, chúng hoạt động theo mệnh lệnh chính trị và bất chấp lời lỗ như trước đây theo chỉ dụ của nhà vua!).
Trong một bài viết cũng nhân kỷ niệm Tuyên ngôn CS đăng trên tờ Quan hệ Quốc tế (tên cũ) tôi có nhận xét chỉ duy cái CNXH tư sản trong mô hình “Xã hội –Dân chủ” ở châu Âu là đã có những thành công. Khi đăng, ban biên tập đề nghị sửa thành hai chữ thành công nhất định). Như thế là những mô hình CNXH mà tuyên ngôn phê phán thì trước sau các đảng cộng sản ở các nước XHCN đều tích cực thực hiện. Các hình thức XHCN hiện thực mà các đảng cộng sản thực hiện, đều rất đậm đà chất phong kiến, không tưởng, kể cả chất tiểu tư sản phiêu lưu, ngoại trừ mô hình chủ nghĩa xã hội tư sản đã có ich lớn trong phục hưng châu Âu sau thế chiến thứ hai.
Về cái XHCN mà Mác và Ăng ghen mong ước bấy giờ chỉ thấy mấy tư tưởng định hướng:
– Một là tư tưởng “Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu.
– Hai là “giai cấp vô sản từng nước phải xóa bỏ giai cấp tư sản và tự mình trở thành dân tộc. (Sau thấy nói thế võ đoán nên đổi thành giai cấp của dân tộc).
– “Đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tương kế thừa của quá khứ”.
– “Dùng sự thống trị chính trị của mình từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản…”
– “Những biện pháp sau đây sẽ được áp dụng phổ biến”: tước đoạt sở hữu ruộng đất, áp dụng thuế lũy tiến cao, tịch thu tài sản…, tập trung tín dụng, giao thông vận tải vào nhà nước, …kế hoạch chung, tổ chức các đạo quân công nghiệp, đặc biệt cho nông nghiệp, xóa bỏ đối lập thành thị và nông thôn…
Tóm lại là những chỉ thị rất sơ sài cảm tính, không hề có luận chứng vững vàng. Mà thực tế đã bác bỏ, đã chứng tỏ sự sai lầm hồ đồ của chúng.
Tuy nhiên ít ra trong Tuyên ngôn cũng có ba tư duy, khá hợp lý, không kể ý kiến đoàn kết, hợp tác với các đảng dân tộc dân chủ kể trên, một là “phát triển tự do cá nhân là tiền đề phát triển tự do của xã hội”, hai là “giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả trẻ em”, ba là ”giai cấp tư sản không thể tồn tại nếu không luôn luôn cách mạng hóa công cụ sản xuất, do đó cách mạng hóa những quan hệ sản xuất, nghĩa là cách mạng hóa toàn bộ những quan hệ xã hội”, thì đều bị các đảng cộng sản vứt vào sọt rác. Vì cho đó là quan điểm tư sản!
Nhưng điều đáng nói hơn cả là chừng ba mươi năm sau khi công bố tuyên ngôn, cả hai ông đều cho rằng, không có một lý tưởng cộng sản nào cả, đó là những ý nghĩ “trẻ con” lúc còn trẻ và đã vứt bỏ, lúc cuối đời! (Xem bài tựa của F. Ang ghen viết cho cuốn Những cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp của K. Marx).
Như thế thì nhân loại kỳ cục thật, cái mà người ta đã vứt bỏ, lại ôm lấy vào mình, coi như của quý. Sự kỳ cục đó đã khiến cho cả trăm triệu người phải chết oan uổng, nhiều dân tộc bị băng hoại, trong đó có Việt Nam chúng ta. Còn Nghị viện Châu Âu thì đã ra nghị quyết lên án những nước theo cái Tuyên ngôn ấy mà làm cộng sản. Nghị quyết ấy có số 1481 của Hội Đồng Nghị viện Châu Âu, viết “…Những chế độ độc tài toàn trị cộng sản gồm khối Liên xô, Đông Âu trong thế kỷ XX và một số chế độ cộng sản hiện vẫn còn nắm quyền ở 4 nước trên thế giới, đều là những quốc gia vi phạm nhân quyền…, vi phạm quyền tự do tư tưởng, xúc phạm lương tâm con người, cấm tự do báo chí vàtự do chính trị;độc tôn, độc quyền, độc đảng…Không thể dùng quan điểm quyền lợi quốc gia mà lấp liếm, biện hộ sự lên án của nhân loại. Quốc hội chung Châu Âu cực lực lên án tất cả mọi vi phạm quyền con người trong các chế độ cộng sản, coi nó như tội ác chống nhân loại”!
Gần đây đọc Nam Hoa Kinh của Trang tử, thấy có câu chuyện sau: Vua Hoàn công ngồi đọc sách, Luân Biển kẻ làm thợ đẽo bánh xe tiến lên, dám hỏi: Cái mà nhà vua đang đọc là lời gì vậy. Đáp, là lời của thánh nhân. Thưa, thánh nhân còn chăng? Đã chết rồi. Thế thì cái mà nhà vua đọc chỉ là cặn bã của người xưa mà thôi. Quả nhân đọc sách, kẻ đẽo bánh xe sao được bàn càn. Nói thông thì được, không thông thì chết. Luân Biển thưa, tôi lấy việc của tôi mà xét, đẽo bánh xe chậm thì ngọt, mà không bền, mau thì chối mà không vào. Không chậm, không mau, hiểu nó ở tay, ứng vào lòng, miệng không nói ra được. Tôi không thể đem để bảo cho con, con tôi cũng không thể học. Cho nên đã bảy mươi mà già đời vẫn làm nghề đẽo bánh xe. Người xưa và cái không thể học của họ đều đã chết cả rồi. Vậy thì cái nhà vua đọc chỉ là cặn bã của người xưa mà thôi.
Tôi bàn thêm: học lấy cặn bả mà làm nên được trí tuệ, xưa nay chưa từng nghe nói!
Bàn tới lịch sử của Cuộc chiến Việt Nam và kinh nghiệm bang giao với Mỹ, cần nhớ lại và mở một dấu ngoặc về “bài học” cũ của Việt Nam Cộng Hòa.
Bản quyền hình ảnh GETTY IMAGESSự kiện Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson tới thăm Việt Nam đầu tháng 3/2018 được quốc tế chú ý
Viết về hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson cập cảng Tiên Sa ở Đà Nẵng, báo Lao Động thuật lại việc ông Timothy Liston, Phó Tổng Lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn lên thăm tàu và bế một cậu bé để cùng vỗ tay với những người bạn nhỏ.
Họ cùng hoà ca bài “Trái đất này là của chúng mình”. Câu hát “màu da nào cũng quý cũng yêu” như chính thông điệp của cuộc gặp gỡ.
Tờ báo dẫn lời ông Liston về nỗ lực xây dựng niềm tin giữa hai nước khi ông nói: “Không chỉ có con tàu, chúng tôi đến để xây dựng lòng tin.”
Nghe câu này, chắc nhiều người có thể phản hồi và đặt câu hỏi “nhưng liệu Việt Nam có tin được Mỹ hay không?”
Đây cũng là câu hỏi của chính Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đặt ra cho Mỹ vào tháng Ba, 1975 (xem cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy, chương 9).
Chỉ có quyền lợi là vĩnh viễn
Như chúng tôi đã có dịp bình luận: câu trả lời là “tin được nếu” niềm tin ấy được xây dựng trên căn bản chắc chắn và bền vững là Quyền lợi chung của cả hai nước.
Tôi thật ấn tượng về câu nói của ông Henry John Palmerston, cựu Thủ tướng Anh nói tại Quốc Hội nước này ngày 1 tháng 3 năm 1848:
“Nước Anh không có đồng minh vĩnh cửu, và chúng ta cũng chẳng có kẻ thù vĩnh viễn. Quyền lợi của chúng ta mới là vĩnh viễn và vĩnh cửu.”
Trong những thập niên 1950-60, vì quyền lợi của Mỹ đòi hỏi phải ngăn chặn Trung Quốc tràn xuống Biển Đông nên Mỹ nhảy vào Việt Nam.
Đến năm 1972 Nixon-Kissinger hòa hoãn được với TQ vì Kissinger nói với Mao và Chu khi bay qua Bắc Kinh là Mỹ sẵn sàng ký thỏa hiệp để ra đi khỏi Việt Nam và nếu sau khi chúng tôi đã ra đi vài năm mà Cộng sản tiến tới chiếm trọn Miền Nam Việt Nam thì Mỹ cũng không trở lại nữa.
Tin rằng Mỹ sẽ không trở lại nên TQ biến thành bạn và hành động ra vẻ như không còn đe dọa Mỹ ở Biển Đông nữa, để còn được hưởng những ân huệ lớn lao của Mỹ.
Khi Trung Quốc trở thành bạn rồi thì Mỹ không còn lý do gì để đổ xương máu tiếp tục ở Miền Nam Việt Nam, cho nên đã bỏ Miền Nam không thương tiếc.
Một trong những bài học rút ra từ cuộc chiến là như thế này: Mỹ nhảy vào Việt Nam không phải là để “bảo vệ tự do của nhân dân Miền Nam” như Washington luôn luôn tuyên bố (và nhân dân Miền Nam luôn luôn tin tưởng) mà là để bảo vệ Quyền lợi của chính Mỹ.
Trên boong tàu USS Carl Vinson
Cho nên sau khi ông Nixon bắt tay được với ông Mao thì quyền lợi của Mỹ không còn đòi hỏi phải có một “tiền đồn” để chống Trung Quốc ở Biển Đông nữa: mở cửa Bắc Kinh đóng cửa Sài Gòn đơn giản là như vậy.
Hai ông Nixon-Kissinger đã hùng hồn biện hộ cho Trung Quốc khi Kissinger soạn bài cho Tổng thống Nixon trả lời Quốc Hội Hoa Kỳ rằng:
“Trung quốc và Hoa Kỳ chia sẻ nhiều quyền lợi song hành và có thể cùng nhau hành động để làm cho đời sống của nhân dân hai nước thêm phong phú.”
Nhưng lịch sử đã diễn ra ngược lại: sau 40 năm ru ngủ được Mỹ, hứa hẹn sẽ tuân hành các quy tắc của luật kinh tế thị trường để Mỹ chấp thuận cho TQ vào WTO (Tổ Chức Thương Mại Toàn Cầu) giúp sản xuất và bán thật nhiều hàng qua Mỹ và thị trường thế giới, TQ đã làm giàu quá nhanh, trở thành cường quốc kinh tế số hai.
Vì Trung Quốc cạnh tranh bất chính với Mỹ, không tuân thủ các quy luật thị trường cho nên bây giờ nhiều người Mỹ tiếc rẻ đã cho Trung Quốc vào WTO, giúp nước này mạnh đủ để ra mặt chống Mỹ.
Nixon-Kissinger đã sai lầm mà cho rằng quyền lợi của Mỹ đi đối với quyền lợi của TQ vì nước này đã thành bạn đồng phường của Mỹ (Kissinger quá siêu trong việc thuyết phục Nixon về điểm này).
Hoa Kỳ đang hối tiếc?
Bây giờ Mỹ rất hối tiêc về sự sai lầm ấy. Và Kissinger phải chịu trách nhiệm rất lớn cho sự sai lầm này cùng những thiệt hại to lớn của nước Mỹ về địa chính trị và chiến lược toàn cầu.
Bản quyền hình ảnh US NAVYGiao lưu hải quân Mỹ – Việt nhân sự kiện các tàu chiến Hoa Kỳ tới Đà Nẵng đầu tháng 3/2018
Mỹ bừng tỉnh nhưng đã quá muộn! Dù sao “better late than never:” (thà rằng muộn còn hơn là không bao giờ), Mỹ phải gấp rút xoay trục về Biển Đông.
Và khi muốn quay về Biển Đông thì Mỹ rất cần Việt Nam vì đây là “địa điểm chiến lược quan trọng nhất” như Bộ Ngoại Giao đã phân tích ngay từ năm 1950 (xem ‘Khi Đồng Minh Nhảy Vào,’ chương 3).
Một điều chắc chắn: đó là từ nay, sẽ không bao giờ Trung Quốc bỏ tham vọng đẩy Mỹ ra khỏi Biển Đông, rồi ra khỏi Tây Thái Bình Dương, rồi khỏi các đại dương khác.
Cho nên vì quyền lợi an ninh lãnh thổ của chính mình, Mỹ sẽ không bao giờ phạm phải lầm lỗi lần thứ hai là tháo chạy khỏi Biển Đông nữa.
Tại sao Trung Quốc sẽ không bao giờ ngừng đẩy Mỹ ra khỏi Biển Đông để rút về tới bờ California?
Lý do là vì Bắc Kinh đã đặt ra một mục tiêu chiến lược bí mật và quan trọng nhất: đó là tới năm 2049 khi kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, nước này sẽ thay thế Mỹ để trở thành cường quốc số một trên thế giới.
Tác giả nổi tiếng về Trung Quốc, ông Michael Pillsbury đã ra cuốn sách ‘The Hundred Year Marathon’ (Cuộc chạy đua 100 năm – xuất bản năm 2015) làm thức tỉnh các nhà chiến lược Mỹ.
Pillsbury là một chuyên gia về Trung Quốc đã từng làm việc với tất cả các tổng thống Hoa Kỳ kể từ thời Nixon, và như ông viết, “tôi đã có thể có nhiều thông tin của các cơ sở tình báo và quân sự của Trung Quốc hơn bất kỳ người phương Tây nào khác”.
Ông viết:
“Từ hàng thập kỷ nay, chính phủ Hoa Kỳ đã quá hào phóng, trao thật nhiều thông tin, công nghệ, bí quyết quân sự, thông tin tình báo và những lời cố vấn về các khía cạnh chuyên môn cho người Trung Quốc. Thật vậy, rất nhiều điều đã được cung cấp và cung cấp quá lâu. . . không thể có kế toán đầy đủ được về việc này! Và những gì chúng ta đã không đưa cho người Trung Quốc, thì họ đã ăn cắp.”
Bản quyền hình ảnh US NAVYGS Nguyễn Tiến Hưng: “Mỹ sẽ phải luôn luôn việc tập trung vào chiến lược ‘chặn lại tham vọng của Trung Quốc.”
Tất cả chỉ để phục vụ cho tham vọng trở thành siêu cường số một để thay thế cho Mỹ khi Trung Quốc kỷ niệm 100 năm ngày ông Mao Trạch Đông tiến vào Bắc Kinh.
Chỉ còn 31 năm nữa là tới năm 2049 cho nên từ nay Mỹ sẽ phải luôn luôn việc tập trung vào chiến lược ‘chặn lại tham vọng của TQ.’ Vì vậy mới có kế hoạch điều động tới 60% của hải lực Mỹ về Thái Bình Dương vào năm 2020.
Tất cả 14 Tổng thống Mỹ kể từ Harry Truman tới Donald Trump đều muốn duy trì vai trò lãnh đạo số một của nước Mỹ trên thế giới này – một vai trò phát xuất từ sau Thế Chiến 2, nhưng 13 ông trước chỉ nói úp úp mở mở.
Tới thời ông Trump – một con người bộc trực , bị coi là đồng bóng – thì ông thẳng thừng đưa ra chính sách “America First” – không chỉ có nghĩa là dành mọi ưu tiên kinh tế, thương mại, nhập cư để phục vụ quyền lợi vật chất của người Mỹ mà nó còn có một ý nghĩa chiến lược sâu xa: ông Trump muốn vãn hồi vai trò lãnh đạo của Mỹ vốn đã phai mờ đi trong thập niên vừa qua.
Lập trường này làm cho tất cả các đồng minh đều nhìn vào Trump với con mắt nghi ngờ.
Nhưng Washington đồn rằng Trung Quốc rất e ngại tính “đồng bóng” ấy của Tổng thống Trump, nhất là vì họ biết rằng về hải lực thì Trung Quốc còn thua Mỹ quá xa về mọi mặt: từ chiến hạm, tầu ngầm, hàng không mẫu hạm tới kinh nghiệm hải chiến, không chiến nên không có đòn bẩy răn đe là bao nhiêu đối với Mỹ.
Khi ông Trump ân cần tiếp đón ông Tập Cận Bình ở Florida ngay từ đầu nhiệm kỳ, và ông Tập nghênh tiếp ông Trump hết sức linh đình ở Bắc Kinh, ngược hẳn với việc đón tiếp cựu Tổng thống Barack Obama đầu tháng 11/2017, dư luận cho rằng Mỹ và Trung Quốc sẽ tiến lại gần nhau hơn nữa.
Nhưng chỉ bốn tháng sau chuyến đi, dư luận đã giật mình khi nghe tin ông Trump thông báo sẽ đánh thuế thép 25% và nhôm 10% – chủ yếu nhắm vào Trung Quốc vì nước này đã xuyên qua nhiều nước để lợi dụng những kẽ hở của WTO, APEC, NAFTA gián tiếp nhập thép, nhôm vào Mỹ – việc mà ông Trump gọi là “trans-shipment” (thực ra là re-export).
Đằng sau lệnh tăng thuế chính là ông Peter Navarro, một ngôi sao đang sáng lên ở Tòa Bạch Ốc. Navarro nổi tiếng về lập trường chống Bắc Kinh. Cuốn sách của ông “Death By China” (Chết bởi tay Trung Quốc) đã giúp vào việc đánh thức nước Mỹ và được ông Trump đặc biệt chú ý. Navarro cáo buộc Trung Quốc đã “biến thành kẻ sát nhân hiệu quả nhất trên hành hành tinh này.” (nguyên văn: “turning into the planet’s most efficient assassin”).
Navarro đang thuyết phục Trump áp dụng thêm những biện pháp chế tài đối với vi phạm của Trung Quốc về quyền sở hữu trí tuệ. Rồi tới hai biện pháp khác: ngăn chặn Bắc Kinh ép buộc các công ty Mỹ phải chuyển giao công nghệ cho các đối tác, và ngăn chặn các công ty quốc doanh Trung Quốc (doanh nghiệp nhà nước) mua lại các công ty của Hoa Kỳ.
Bản quyền hình ảnh AFP/GETTY IMAGESHàng không mẫu hạm Liêu Ninh của Trung Quốc trong một lần đến Hong Kong
Vậy ta có thể kết luận rằng ít nhất trong Thế kỷ 21 quyền lợi của Mỹ ở Biển Đông đi song hành và trực tiếp với quyền lợi của Việt Nam.
Việt Nam là địa điểm chiến lược quan trọng nhất ở Biển Đông, nhưng đồng thời, cái vị thế ấy luôn đặt nước này vào cái thế gọng kìm giữa các cường quốc.
Hơn nữa Việt Nam lại nằm sát cạnh Trung Quốc nên áp lực của Trung Quốc rất là mạnh mẽ. Vì vậy có lẽ Việt Nam không còn một con đường nào khác ngoài chiến lược cân bằng (“đu dây”) giữa hai cường quốc để sống còn.
Tuy nhiên vì áp lực của Trung Quốc càng ngày càng gia tăng nhanh – một cách nguy hiểm – cho nên chính cái chiến lược cân bằng lại là lý do thúc đẩy Việt Nam nên gần Mỹ hơn để lấy lại và duy trì thế cân bằng.
Những lý do để tin được Hoa Kỳ
Vì vậy, có khả năng là quan hệ Việt – Mỹ sẽ sớm tiến tới “đối tác chiến lược toàn diện” – trở thành quan hệ thứ tư sau ba quan hệ Việt – Nga, Việt – Trung và Việt -Ấn.
Nếu như vậy thì Việt Nam có cả ba cường quốc: Nga, Ấn và Mỹ để đối đầu với Trung Quốc.
Sự lo ngại còn lại của Việt Nam là: Việt Nam Cộng Hòa từng là đồng minh thân thiết như vậy mà còn bị bỏ rơi thì nước Việt Nam hiện nay làm sao có quan hệ tốt bằng được? Nếu Việt Nam nghiêng về Mỹ thì có chắc chắn không, hay Mỹ Trung lại bắt tay nhau thì Việt Nam lại bị bỏ rơi?
Đây là câu hỏi thật chính đáng, nhưng phân tích lịch sử cho kỹ và nhìn vào bối cảnh ngày nay thì thấy Việt Nam không cần phải e ngại. Đó là vì ba lý do:
Thứ nhất, vấn đề bỏ rơi không đặt ra vì hai hoàn cảnh lịch sử khác hẳn nhau: trước đây, vì vấn đề kinh tế khó khăn (cảnh nghèo sau 10 năm Chiến tranh Đông Dương 1945-1955) VNCH phải lệ thuộc vào Mỹ hầu như hoàn toàn cả về quân sự lẫn kinh tế (xem KDMTC, Chương 19).
Trong thực tế, VNCH trở thành “client state” (quốc gia lệ thuộc) và Mỹ thành “patron state” (quốc gia bảo trợ). VN ngày nay đã hoàn toàn tự lập, còn xuất siêu sang Mỹ tới trên $38 tỷ (2017). Về quân sự thì VN cũng đã có một lực lượng đáng kể và sẵn sàng bỏ tiền ra mua khí giới, kể cả của Mỹ.
Trong dịp TT Trump thăm viếng Hà Nội, VN đã đặt $10 tỷ mua hàng của Mỹ (hy vọng cán cân thương mại Mỹ – Việt năm 2018 sẽ giảm xuống còn – $30 tỷ).
Thứ hai, chắc chắn rằng Mỹ sẽ không bao giờ yêu cầu VN cho đóng quân hay duy trì căn cứ quân sự lâu dài. Vì vậy Mỹ sẽ không phải đổ máu và tốn kém tiền bạc như trong ‘Vietnam War’ cho nên dân chúng Mỹ không chống đối, ngược lại còn ủng hộ việc Mỹ nối tay với Việt Nam để chống Trung Quốc;
Thứ ba, như đề cập trên đây, ngày trước Mỹ xây tiền đồn chống Trung Quốc ở Miền Nam vì Trung Quốc đe dọa quyền lợi an ninh của mình ở Biển Đông.
Vì vậy, khi hòa hoãn được với Trung Quốc thì Mỹ sai lầm mà tưởng rằng hiểm họa Trung Quốc đã chấm dứt cho nên rút khỏi Miền Nam và ra khỏi Biển Đông. Bây giờ thì Mỹ hối tiếc vì nhận thức rằng: trong Thế kỷ 21, Trung Quốc còn đe dọa Mỹ gấp mấy lần như đã đe dọa trong Thế Kỷ 20.
Bản quyền hình ảnh LINH PHAM/AFP/GETTY IMAGESPhó Đô đốc Phillip G. Sawyer, Tư lệnh Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ, chào đón các quan chức Việt Nam sau khi hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson cập cảng Đà Nẵng hôm 5/3/2018.
Việc Tổng thống Trump vừa chỉ định Giám đốc CIA Mike Pompeo thay thế Ngoại trưởng Rex Tillerson – theo Jim Cramer từ CNCB bình luận là để gửi một thông điệp gây sửng sốt cho Trung Quốc: “Các ông là kẻ thù của chúng tôi.” Pompeo cho rằng Trung Quốc là kẻ thù cả về tinh thần lẫn vật chất.
Khi Việt-Mỹ đi tới đối tác chiến lược toàn diện, Việt Nam sẽ có nhiều lợi ích vì “toàn diện” bao gồm cả an ninh cả kinh tế. Về an ninh quốc phòng, khi có hàng không mẫu hạm Mỹ ra vào Đà Nẵng và chiến hạm, tàu ngầm Mỹ ra vào Cam Ranh, tất nhiên Trung Quốc sẽ phải cân nhắc cho thật kỹ khi muốn gây hấn với Việt Nam – thí dụ như khi Trung Quốc tính toán để gây thảm hại ở Trường Sa lần thứ hai?
Dĩ nhiên là về mặt chính sách, Việt Nam cũng phải để cho hàng không mẫu hạm của mọi quốc gia ra vào Đà Nẵng tự do như Mỹ, nhưng trong thực tế, Trung Quốc chỉ có một con tàu cũ Liêu Ninh – mua lại của Ukraine – thì ra vào để làm gì?
Về kinh tế, thì thị trường Mỹ – hiện đã là thị trường để Việt Nam xuất cảng nhiều nhất – sẽ mở rộng ra thêm nữa cho Việt Nam với những lợi ích về đầu tư, kỹ thuật, thông tin, và ưu đãi về thuế nhập cảng, như thép, nhôm – miễn là không phải xuất xứ từ Trung Quốc.
Dĩ nhiên là Mỹ cũng sẽ yêu cầu Việt Nam nhập thêm hàng Mỹ giúp cho cán cân thương mại bớt chênh lệch.
Từ Thế Chiến 2, chưa có nước nào trên thế giới này từ Đức, Pháp, Anh, Ý tới Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan, Singapore, Thái Lan giàu mạnh lên được mà không nhờ thị trường Mỹ.
Mặt khác, qua cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1979 và việc TQ gây thảm sát trên đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa năm 1988, cùng với việc Chủ tịch Mao – người đã cáo buộc “Chủ nghĩa đế quốc Mỹ là kẻ thù hung ác nhất của nhân loại” đã ôm thật chặt Nixon năm 1972, Việt Nam cũng đã thấy rõ ràng rằng Trung Quốc chẳng có bạn vĩnh cửu, và cũng chẳng có thù vĩnh viễn. Quyền lợi của Trung Quốc mới là vĩnh viễn và vĩnh cửu.
Cách ứng xử của Việt Nam đang phản ánh sự thay đổi trong nhận thức như thế.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng Kế hoạch VNCH từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản các cuốn sách Khi Đồng minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh nhảy vào (2016).
Trẻ em H’Mông của cùng một gia đình ở phía bắc tỉnh Lai Châu, ngày 04 tháng 01 năm 2007. (Ảnh minh họa)
AFP
Việt Nam xếp thứ 95 trong tổng số 156 quốc gia và vùng lãnh thổ về mức độ hạnh phúc trong bảng xếp hạng theo phúc trình mà Liên Hiệp Quốc vừa cho công bố.
Theo phúc trình thì năm 2018, có 156 quốc gia được đánh giá dựa trên các yêu tố như GDP bình quân đầu người, hỗ trợ xã hội, tuổi thọ, sức khỏe, tự do xã hội và không tham nhũng.
Phần Lan đã tăng lên từ vị trí thứ năm vào năm ngoái để vượt qua Na Uy lên vị trí đầu bảng. 10 quốc gia đứng đầu danh sách báo cáo năm 2018 gồm Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch, IceLand, Thụy Sĩ, Hà Lan, Canada, New Zealand, Thụy Điển và Úc.
Hoa Kỳ đã rớt từ hạng 14 vào năm 2017 xuống vị trí thứ 18 trong bảng xếp hạng. Mặc dù thu nhập bình quân đầu người tăng lên tại Hoa Kỳ trong nửa thế kỷ qua. Vương quốc Anh xếp thứ 19 và các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất đứng vị trí 20.
Ông Jeffrey Sachs, thuộc đại học Columbia ở New York, đồng thời là cố vấn đặc biệt của Tổng thư ký LHQ, cho biết: “Các quốc gia hạnh phúc là những nước có sự cân bằng về sự thịnh vượng, vốn thông thường và vốn có thể đo lường được, tức là sự tin cậy trong xã hội cao, mức độ bất bình đẳng trong xã hội thấp, và khả năng của chính phủ”.
Theo Daily Mail, mới đây, một tài khoản Facebook có tên Christina Sardella ở Brazil đã đăng tải câu chuyện vô cùng cảm động về chú chó đứng chờ người chủ của mình trước cửa bệnh viện trong suốt nhiều tháng liền.
Chú chó màu vàng có dáng vẻ gầy gò xuất hiện ở Bệnh Viện Santa Casa de Novo Horizonte ở bang Sao Paolo từ cuối tháng 10 năm ngoái. Nó chạy đuổi theo chiếc xe cứu thương chở chủ nhân của mình tới đây trong cơn nguy kịch.
Chủ nhân của chú chó là một người đàn ông vô gia cư 59 tuổi. Ông bị đâm trọng thương trong một cuộc ẩu đả trên đường phố và không qua khỏi do vết thương quá nặng.
Chú chó đáng thương ngồi chờ người chủ quá cố trước cổng bệnh viện. (Nguồn: Facebook)
Suốt 2 tháng sau cái chết của người chủ, chú chó này vẫn tiếp tục đợi chờ trước bệnh viện. Các nhân viên của bệnh viện thường xuyên đem thức ăn và nước uống cho nó.
Những người đi qua bệnh viện đều cảm thấy vô cùng cảm động trước tình cảm đặc biệt của chú chó. Chú chó cũng được một trạm cứu hộ động vật gần đó mang về chăm sóc nhưng nó luôn tìm cách để quay trở lại bệnh viện.
Hãy ‘giải độc’ tâm hồn bằng cách học tha thứ và quên đi điều tiêu cực Liệu bạn đã bao giờ có một ngày vui vẻ thật sự chưa? Ngay cả lúc bạn rảnh rỗi nhất và không bị làm phiền? Câu hỏi tuy dễ nhưng thật khó trả lời chính xác!
Tôi đã hỏi những người bạn và nhận được câu trả lời là “Không”. Chưa có một ai dám khẳng định mình có một ngày vui trọn vẹn cả. Bởi lẽ, những nỗi lo, những cơn buồn bất chợt hay nỗi sợ hãi… dù ít hay nhiều cũng đã làm họ không thể vui vẻ được.
Có người đã bảo tôi thế này: “Tôi không biết thứ gì có thể giúp con người ta sống lâu, nhưng tôi biết có một thứ sẽ giết chúng ta nhanh chóng, đó là suy nghĩ tiêu cực”.
Ngẫm lại, tôi thấy câu nói ấy “thấm” đến nhường nào! Bởi thứ làm ta thất bại, đưa ta vào bế tắc hay thậm chí là đường cùng đều không nằm ở những yếu tố bên ngoài mà chính là bản thân ta, cụ thể hơn đó là những ý niệm, suy nghĩ, tư duy chủ quan của chúng ta.
Nói vui thế này, khi bạn yêu một người nhưng bị từ chối, nếu bạn có thể coi nhẹ thất bại đó, coi nó chỉ như bước khởi đầu, là “thuốc thử” để ta chỉnh sửa lại những thiếu sót của bản thân thì chắc chắn bạn sẽ có kinh nghiệm để lần sau thành công.
Tuy nhiên, nếu bạn là một người sống nặng về tình cảm, thích “gặm nhấm nỗi buồn”, nghĩ rằng như thế là hết, yêu đương mù quáng thì bạn sẽ dễ mù quáng trong hành động, gây nguy hại cho chính mình và ảnh hưởng người thân.
Liệu bạn đã bao giờ có một ngày vui vẻ thật sự chưa?
Chán nản, tuyệt vọng, đau khổ, lo lắng, sợ hãi, bảo thủ, nóng giận… tôi coi chúng là những suy nghĩ tiêu cực. Chúng luôn tìm cách len lỏi vào trong đời sống tinh thần ta từng giờ, từng phút, và khi những suy nghĩ ấy được dung dưỡng quá lâu, chúng sẽ trở thành thói quen, lâu ngày sẽ thành tư tưởng. Nếu ta không sớm nhận ra và tìm cách thoát khỏi chúng, ta sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn, một cái mê cung do chính ta vô thức tạo dựng.
Các nhà khoa học đã chứng minh, tư duy, suy nghĩ của con người là một dạng tồn tại vật chất. Tức là khi ta nghĩ tưởng một điều gì đó, chúng sẽ phản ánh lên đại não chúng ta dưới dạng hình ảnh. Nói cách khác, chúng như là một tấm gương phản chiếu tư tưởng, ý nghĩ của chúng ta vậy.
Nôm na là khi ta nghĩ một điều gì đó vui, ta sẽ thấy vui, nhưng khi ta nhìn sự việc một cách tiêu cực, ta sẽ thấy chung quanh ta toàn là “xám xịt”. Vì vậy, ta cần phải xả bỏ hết những suy nghĩ tiêu cực, giữ tâm thái hòa ái với mọi người, đừng oán giận hay ghét bỏ ai cả… chỉ có thế ta mới có thể sống một cách an nhiên, tự tại.
Giữ tâm thái hòa ái với mọi người, đừng oán giận hay ghét bỏ ai cả… chỉ có thế ta mới có thể sống một cách an nhiên, tự tại. (Ảnh minh họa: The Epoch Times). Sự tiêu cực trong suy nghĩ cũng như một đứa trẻ vậy. Vì trẻ em thường hiếu động, thích giỡn, làm nũng với chúng ta khi ta quá an nhàn, “vô công rồi nghề” và khi ta quá quan tâm, nuông chiều chúng. Đó cũng là lúc những suy nghĩ tiêu cực bám lấy ta chặt nhất! Vậy làm sao để đuổi chúng đi?
Giống như trẻ con, sự tiêu cực cũng có tính đeo bám rất dai dẳng, càng nghĩ về nó, càng nghĩ nặng cách thoát khỏi nó thì chúng càng “dính” lấy ta. Hãy mặc kệ nó và làm bản thân ta trở nên bận rộn. Đăng xuất khỏi facebook, twitter… tắt hết trò chơi điện tử. Thay vào đó, hãy đọc một cuốn sách, lên xe và đi khám phá những vùng đất xung quanh hay viết lách hoặc vùi đầu vào công việc. Niềm vui trong sự bận rộn là liều thuốc trị khỏi bệnh tiêu cực và cân bằng lại bản thân một cách nhanh nhất.
Chúng ta đôi khi quá coi trọng những lợi ích thiết thân, câu nệ quá vào lời nói, sống nặng vào tình cảm, sợ mất lòng người khác mà không nhận ra mình đã phạm lỗi với bản thân rất nhiều. Chính suy nghĩ nặng nề vào những điều đấy đã khiến bản thân ta mệt mỏi từng ngày, không lúc nào được ngủ yên. Những thứ khác mất rồi có thể kiếm lại được, nhưng đánh mất bản thân thì sẽ rất khỏ kiếm lại. Vì thế, hãy yêu bản thân. Và hãy học cách tha thứ.
Đôi lúc, có người làm tổn thương bạn sâu sắc tới mức bạn cảm thấy mệt mỏi, đau khổ và khó bỏ qua. Bạn hãy tưởng tượng ra cảnh thế này: Nếu bạn không tha thứ cho người ta, lúc nào bạn cũng nghĩ đến chuyện đó, dằn vặt về chuyện đó, thì liệu rằng, người ta có giống bạn không, người ta có sống trong dằn vặt như bạn hay không?
Ví như, người yêu của bạn lại quay sang yêu người bạn thân nhất của bạn, và bạn tuyên bố: “Em sẽ không bao giờ tha thứ cho anh!”. Vậy, ai sẽ là người phải sống trong dằn vặt, khổ sở? Chắc chắn, người đó là bạn thôi, vì rằng, cặp tình nhân đang say bên nhau kia sẽ chẳng để ý đến tâm thái của bạn đâu.
Khi bạn oán trách họ, bạn là người chịu đau khổ, bất an. Mặc dù bạn có thể tự nhủ rằng “mình đúng”, nhưng “đúng” đâu có nghĩa là bạn sẽ hạnh phúc. Tha thứ cho người khác thực ra không có nghĩa là bạn sẽ đồng ý với những việc họ làm. Để tha thứ cho người khác, bạn sẽ có được lợi ích bao chính bản thân mình, và như vậy, bạn tha thứ vì chính bản thân bạn. Khi bạn tha thứ, bạn sẽ thấy dễ chịu hơn.
Dẫu biết rằng, tha thứ cho người khác là một việc không dễ dàng, nhưng hãy làm điều này vì bản thân bạn, bởi nếu làm được, bạn sẽ hạnh phúc hơn.
Sống là phải biết cho đi. Hãy cho đi những muộn phiền, u uất để nhận lại niềm vui! Để thân tâm an bình, hãy ngừng nghĩ tiêu cực!
Trong những ngày qua, Giáo hội Việt Nam thương tiếc và cầu nguyện cho Đức cố Tổng Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc, vừa được Chúa gọi về tại Rôma vào lúc 22 giờ 15 phút ngày 6.3.2018 giờ Rôma,tức 4 giờ 15 phút sáng ngày 7.3.2018 giờ Việt Nam.Con cái tín hữu của ngài tại Tổng giáo phận Sài Gòn ai cũng bàng hoàng xúc động, không thể tin được đây là sự thật, vì mới ngày hôm qua,các giáo dân Việt Nam đã thấy trên mạng toàn cầu hình ảnh vị Cha Chung của giáo phận chào thăm Đức Thánh Cha Phanxiô.
Người viết sáng hôm 7.3.2018 nhận được email tin buồn từ một cha thân quen đã giật mình, kiểm chứng chỗ này chỗ kia xem có phải là tin thật, hay ai đó đang cố tình đưa ra để câu view trên facebook.
Tổng Giáo phận Sài Gòn,mọi thành phần dân Chúa đều thương tiếc, cầu nguyện cho người cha chung khả kính.Các nhà thờ treo băng rôn, đổ chuông, treo cờ rũ và trong các thánh lễ đều cầu nguyện linh hồn Đức Tổng Giám mục Phaolô.
Tuy là trong nỗi buồn thương nhớ trong sự mất mát, nhưng chúng ta được mời gọi sống đức tin vào Chúa Kitô ngay trong nỗi mất mát chia ly.
Vị Cha Chung hiền từ của Tổng giáo phận,ngài là con người của Niềm vui. Có lẽ không ai mà không nhớ đến những lời nhắn nhủ đầy phấn khích và giọng cười thoải mái của Đức Tổng Phaolô. Đi đến đâu và gặp gỡ ai những lời Đức Tổng Giám mục Phaolô nói đều là tiếng gọi thúc giục vui lên. Dù có gặp các linh mục của mình hay gặp các cấp lãnh đạo chính quyền,Đức Tổng chỉ nói đến niềm vui. Niềm vui được gặp gỡ Chúa, gặp gỡ các linh mục của mình,gặp gỡ anh chị em giáo dân,niềm vui gặp gỡ các em thiếu nhi trong các thánh lễ ban bí tích Thêm sức. Đức Tổng thường nói với các em thiếu nhi: “ Chúng con có vui không, chúng con không có gì phải sợ, cha chỉ hỏi chúng con một chút thôi”.
Dường như cuộc sống khổ đau nhiều quá, đâu đâu cũng thấy bệnh tật, nghèo đói túng thiếu, thấy cảnh cạnh tranh hơn thua,người ta trọng người giàu,khinh thường những người nghèo, tranh giành nhau mà sống.Ở ngay tại thành phố Sài Gòn tấp nập,xô bồ, chắc chắn Đức Tổng thấy được con cái của mình lo toan cật lực nhiều hơn là những giây phút vui cười hạnh phúc.
Thật vậy,khẩu hiệu Giám mục của Đức Tổng Phaolô là “Chúa là Nguồn vui của con”.Đức Tổng kín múc niềm vui của Thiên Chúa, chia sẻ với đoàn chiên từ vùng đất cò bay thẳng cánh ở Mỹ Tho, rồi lên phố thị Sài Gòn tấp nập.
Vâng,đúng là Thiên Chúa lo liệu mọi sự, mỗi thời Thiên Chúa lại gởi đến cho dân những vị Chủ Chăn tốt lành nhân từ, biết chăm lo cho chiên, thấy được tình cảnh của dân Chúa.
Đức Hồng y Gioan Baotixia Phạm Minh Mẫn,vị chủ chăn của Giáo phận Sài Gòn trước đây dẫn dắt dạy bảo đoàn chiên giáo phận bằng chia khóa Tình yêu thương, “Như Thầy yêu thương”, như khẩu hiệu của Giám mục của Đức Hồng y. Đi đến đâu Đức Hồng y cũng nói về yêu thương, mọi người phải yêu thương nhau và làm chứng cho Chúa về tình yêu thương.
Chỉ có nhãn giới đức tin chúng ta mới nhận ra,tất cả mọi sự là hồng ân của Chúa, tạ ơn Chúa gọi Đức Tổng ra khỏi thế gian, kết thúc hành trình trần gian, dù có làm cho nhiều người trong chúng ta cảm thấy ngỡ ngàng xúc động.
Cứ nhứ thế,dường như đến thời Đức Tổng Giám mục Phaolô chủ đề của các bài giảng, huấn từ hay các cuộc trao đổi lại xoay quanh chủ đề niềm vui.
“ Anh em hãy vui luôn trong Chúa.Tôi nhắc lại một lần nữa. anh em hãy vui lên”(Ph 4,4-5). Thánh Phaolô, quan thày của Đức Tổng đã luôn nhắc nhở các tín hữu như thế. Và Đức Tổng của chúng ta bây giờ ở trên trời lại chỉ nói những lời đó cho chúng ta.
Một vài linh mục trong Giáo phận Sài Gòn nhiều khi thất vọng về những lời phát biểu quá ngắn gọn của Đức Tổng. Trong những buổi sinh hoạt như thường huấn, họp mặt tất niên, thay vì có những lời đúc kết thành quả gọi là có nhìn nhận vấn đề, nhưng Đức Tổng Phaolô lại phát biểu súc tích về niềm vui, Đức Tổng chỉ nói lên niềm vui sự phấn khởi gặp gỡ các linh mục.
Đức Tổng Phaolô nhìn tất cả bằng niềm vui của Chúa,niềm vui của Tin Mừng cho nên những vấn đề của giáo phận được giải quyết nhanh chóng, và có cả bất ngờ nữa,Đức Tổng không thể chấp nhận những khúc mắc tồn tại lâu dài.
Một khác,với trái tim Mục Tử,Đức Tổng Phaolô nhìn mọi chuyện có vẻ “ thoáng” hơn, vượt trên những câu nệ hình thức, đi sâu vào nội tâm.Điều này các linh mục trong Giáo phận đều có thể dẫn chứng vài câu chuyện cho người viết.
Ngày nay, nhiều bạn trẻ chúng ta tìm kiếm niềm vui ở bàn nhậu, trong những cuộc tình chóng vánh,những cuộc tình vụng trộm ngoài hôn nhân,các bạn trẻ không thích sự phấn đấu ngại vượt khó,sự lãng mạn trữ tình,thậm chí chỉ lợi dung nhau ngay trong tình yêu. “Yêu em anh được nhà cao cửa rộng, có xế hộp đi Vũng Tàu nghĩ mát cuối tuần,vì nhà em mặt phố,bố em làm to, em thuộc diện COCC(con ông cháu cha)”.
Đó là những niềm vui khi chiếm hữu vật chất,niềm vui không triển nở từ tình yêu chân thành, hay niềm vui được gặp gỡ nhau,cảm thấy chúng mình cần nhau.
Các bạn cứ thử hỏi những bạn trẻ tham gia các sinh hoạt hội đoàn giáo xứ,các anh chị Huynh Trưởng Giáo Lý Viên. Họ chia sẻ với chúng ta: “Niềm vui là mỗi tuần được gặp gỡ các em thiếu nhi,được chia sẻ hiểu biết về Chúa cho các em.Đó là niềm vui thật sự.”
Anh bạn mình kể chuyện: Có một ông cha bị xem là” hâm hâm”.Trong một đám tang của bà cố nọ,có một linh mục đến cầu nguyện.Thay vì nói lời chia buồn phần ưu như mọi người trước tang gia đang khóc sướt mướt.Vị linh mục mạnh mẽ nói những lời đại khái như sau : Xin chúc mừng bà cố và gia đình. Hôm nay bà cố đã được Chúa đưa về thiên quốc. Anh chị em đừng buồn rầu. Thế là vị linh mục đứng trong hoàn cảnh đó mời mọi người vỗ những tràng pháo tay rộn rã. Có người trong tang gia “vừa khóc vừa cười” vì hành động và lời nói lạ lung của vị linh mục đó. Sau đó, cha dâng vài kinh cầu nguyện cho bà cố. Anh bạn kể chuyện xem như vị linh mục này “từ trên trời rơi xuống”.Riêng tôi, tôi biết cha đang chia sẻ niềm vui Tin Mừng,cha đã có một bài giảng hay cho tang gia. Người chết đi đã về với Chúa, xin chúc mừng và tạ ơn Chúa, không gì phải khóc lóc. Thương nhớ người thân vẫn thương nhớ, nhưng cầu nguyện nhiều hơn.
Bây giờ ở trên trời, Đức Tổng Phaolô cũng mong ước chúng ta có niềm vui như thế.Vì khi còn sống ở tại thế, Đức Tổng không bao giờ thấy mệt mỏi,có lẽ dù có mệt mỏi nhưng khi gặp thấy con cái mình, Đức Tổng vẫn luôn vui cười, và sẵng sàng đi đến đâu vì lợi ích phần rỗi của anh chị em mình.
Các linh mục phải có niềm vui khi gặp gỡ anh chị em giáo dân, ít là với các em thiếu nhi,các bạn trẻ mà ngài găp gỡ. Đó là cách thế các linh mục rao truyền niềm vui Tin Mừng cho họ.Người sứ giả hay tông đồ của Chúa không phải là những người cau có, gương mặt lúc nào cũng khó đăm đăm, hay như người ta nói “gương mặt như tủ lạnh”. Vì Thiên Chúa là Nguồn vui, nếu chúng ta không có niềm vui nơi mình, làm sao chúng ta có thể làm lây lan niềm vui cho người khác.
Xin Chúa sớm đưa Đức Tổng Giám mục Phaolô về quê trời. Và xin Đức Tổng nhớ đến chúng con và cầu nguyện cho chúng con luôn là những tông đồ của Niềm vui.
Xuất thân từ một vùng thôn quê, tại Bạc Liêu- miền Nam Việt Nam, cậu học sinh năm nào, người từng vượt biên năm 1979 để chạy trốn chủ nghĩa cộng sản man rợ, giờ đây, đã có thể hãnh diện tự tin ngồi đối thoại, thuyết trình cùng những nhà khoa học Mỹ về các đề án cải tiến kỹ thuật cho việc thám hiểm mặt trăng của Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA).
Trịnh Hữu Phước lấy bằng đại học về kỹ sư công nghệ vũ trụ tại Đại học Missouri-Rolla vào năm 1985; bằng cao học năm 1987; bằng tiến sĩ về kỹ sư cơ khí tại Đại học Alabama vào năm 2004. Vợ chồng ông có 3 con gái. Ở tuổi 48, ông là người không ngừng nỗ lực để góp phần biến giấc mơ chinh phục không gian của con người trở thành sự thật. Sau khi rời Việt Nam vào năm 1979, thanh niên 16 tuổi gốc Bạc Liêu, đã trải qua nhiều khó khăn nơi xứ lạ nhưng vẫn quyết tâm theo đuổi chuyên ngành kỹ sư công nghệ vũ trụ tại Đại học Missouri-Rolla.
Thời điểm nhận bằng cao học cũng là lúc ông bắt đầu làm việc tại NASA với vai trò chuyên gia phân tích thành phần động cơ tên lửa đẩy. Kinh nghiệm tích lũy trong nhiều năm ở vị trí này đã cung cấp nền tảng vững chắc cho tiến sĩ Trịnh Hữu Phước có được vị trí chủ chốt tại NASA.
Kể từ lần thám hiểm mặt trăng cuối cùng vào năm 1972, gần đây, NASA mới bắt tay nghiên cứu chế tạo những thiết bị mới để phục vụ cho hành trình trở lại “thăm” chị Hằng. Trọng tâm của những nghiên cứu trên là phát triển các thế hệ robot mới có thể thay thế con người đổ bộ lên mặt trăng, kế đến là sao Hỏa và thậm chí cả tiểu hành tinh.
Với mục tiêu nhanh chóng quay lại mặt trăng và thực hiện những cuộc khảo sát chi tiết trên bề mặt thiên thể này, NASA đã chọn đề án phát triển RLL, và điều đáng lưu ý là một nhà khoa học gốc Việt, tiến sĩ Trịnh Hữu Phước, đã được chọn làm trưởng nhóm nghiên cứu và chế tạo 2 động cơ tên lửa đẩy nhằm hỗ trợ RLL đáp. Trong đó, một loại dùng nhiên liệu lỏng để điều khiển phi thuyền trong lúc bay và đáp xuống mặt trăng, một loại dùng nhiên liệu đặc để tạo phản lực làm giảm tốc độ của phi thuyền trước khi đáp.
Chương trình thử nghiệm 2 động cơ tên lửa đẩy do nhóm của tiến sĩ Trịnh Hữu Phước chế tạo đã thỏa mãn những mục tiêu đề ra ban đầu. Ban thẩm định đã đánh giá sự ổn định khoang đốt, hiệu quả và khả năng của động cơ đẩy cũng như việc nhiên liệu được đốt cháy đều đặn trong suốt thời gian dài khi hoạt động hết công suất. Bản thân tiến sĩ Phước tự nhận xét: “Những nghiên cứu trên cho thấy khả năng đốt cháy ổn định trong mọi hoàn cảnh của động cơ”. Thành công này sẽ cho phép dự án chế tạo robot đổ bộ được chuyển sang giai đoạn thiết kế phi thuyền sử dụng công nghệ động cơ đẩy tiên tiến.
Tiến sĩ Phước hiện là kỹ sư phi hành không gian, phụ trách phát triển động cơ hoả tiễn cho phi thuyền bay đi từ mặt trăng. Tiến sĩ Diệp là kỹ sư vật liệu cấu trúc, sáng chế và thử nghiệm vật liệu dùng cho động cơ hoả tiễn nhiên liệu đặc của phi thuyền con thoi. Cả hai vợ chồng đang làm việc cho Trung tâm Không gian NASA, chi nhánh Marshall ở thành phố Huntsville, tiểu bang Alabama.
Nhiều người đang lãng phí cuộc đời mà không mấy ai để tâm, vì tưởng chừng một chữ đó rất đỗi bình thường trong cuộc sống hiện thực, nhưng nó lại lấy đi không biết bao nhiêu thời gian quý báu trong đời sống chỉ vì chữ đợi.
Đợi – cả một cuộc đời, con người ta phải đợi quá nhiều: Đợi tương lai, đợi đến khi hết bận, đợi đến lần sau, đợi đến khi có thời gian, đợi đến khi có điều kiện, đợi đến khi có tiền…
Nhưng rồi về sau, đợi hoài đợi mãi, đợi đến khi chẳng còn duyên phận, đợi đến khi chẳng còn thanh xuân, đợi đến cuối cùng không còn sức khỏe, không còn cơ hội, không còn lựa chọn, những thứ nhận được chỉ là sự hối tiếc và hối hận.
Điển hình trong số này có lẽ là ông bà, bố mẹ chúng ta. Họ:
Đợi đến khi con biết đi mới yên tâm.
Đợi đến khi con đi học mới yên tâm.
Đợi đến khi con đỗ đại học mới yên tâm.
Đợi đến khi con tìm được công việc mới yên tâm.
Đợi đến khi con có người yêu mới yên tâm.
Đợi đến khi con kết hôn mới yên tâm.
Đợi đến khi con có cháu mới yên tâm.
Đợi đến khi cháu biết đi mới yên tâm.
Đợi đến khi cháu đi học mới yên tâm.
Đợi đến khi cháu đỗ đại học mới yên tâm.
Thời gian vội vã lao đi; Cơ hội nảy sinh rồi tan biến… Vậy mà bạn vẫn chờ đợi và không dám thử – Con chim có đôi cánh mà không dám bay lên.
Nhưng đáng tiếc là cuối cùng, họ có thể chẳng kịp hưởng thụ cuộc sống, tận hưởng cuộc đời đã ra đi!
Vì thế cho nên, chúng ta hãy dừng ngay việc lãng phí cuộc đời vào chữ “đợi”, đừng để nó có cơ hội tái hiện trong cuộc sống của chúng ta thêm nữa.
Trong cuộc đời mỗi con người, có 6 thứ không thể đợi
Sức khỏe không thể đợi, vì một khi sức khỏe sa sút, tất cả mọi thứ trên đời đều biến mất.
Bi ai lớn nhất đời người là dùng sinh mệnh để đổi lấy phiền não và lãng phí lớn nhất đời người là dùng tính mạng để giải quyết rắc rối do bản thân mình tạo ra!
Sức khỏe là vốn liếng cơ bản và quan trọng nhất của cuộc đời mỗi con người, chớ dại dột hay xem nhẹ mà đợi đến khi có bệnh đầy người mới hối không kịp.
Khi còn trẻ, con người ta có thể mang bán sức lấy tiền mà ít ai nhận thức rõ rằng, khi về già, có mang bao nhiêu tiền ra cũng khó có thể đổi được sức khỏe và mạng sống.
Hiếu kính không thể đợi, bởi bố mẹ đi rồi, chúng ta có muốn bày tỏ lòng hiếu thảo cũng chẳng còn cơ hội;
Cây muốn lặng nhưng gió chẳng đừng, không biết đã có bao nhiêu người con muốn chăm sóc bù đắp cho bố mẹ nhưng song thân không thể đợi được đến lúc đó.
Chúng ta khôn lớn thành người cũng là lúc cha mẹ già đi từng ngày, vì thế, kính hiếu với cha mẹ là việc phải đặt lên đầu, càng sớm càng tốt. Ơn dưỡng dục nặng tựa núi, nếu không thể báo đáp, cả đời người làm con sẽ phải sống trong hối tiếc.
Giáo dục không thể đợi, bởi vì từ khi còn là mầm cây đã ngả nghiêng, khi trưởng thành khó mà có thể chỉnh cho thẳng;
Nghèo khó không thể đợi, phải tìm cách “thoát nghèo” càng sớm càng tốt bởi vì thời gian lâu dần, bạn sẽ trở nên ì ạch, kém nhạy bén;
Tình bạn không thể đợi, bởi vì không có bạn, muốn thoát khỏi trạng thái cô đơn có lẽ chẳng hề dễ dàng.
Thanh xuân không thể đợi, bởi lẽ thời gian đã trôi qua rồi, có bỏ ra bao nhiêu tiền cũng chẳng mua lại được.
Một cuộc sống quá vội vã hối hả sẽ mang đến cho bạn nhiều thứ, trong đó là không ít những tiếc nuối. Thế nên, hãy tận dụng thời gian trước mắt thật tốt, đó mới là việc quan trọng nhất với mỗi người.
Trân trọng duyên phận, trân trọng thời gian chúng ta được ở bên nhau chính là cách mà chúng ta trân trọng sinh mệnh của bản thân.
Mùa Chay lại về, Mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng ta kiểm điểm cuộc đời mình và rà soát mọi ngõ ngách của linh hồn, và cố gắng chấn chỉnh để phần nào đền bù tội lỗi của chính mình.
Chúng ta đang sống trong “vùng chiến tranh” nghiêm trọng, và khó tìm thấy hòa bình trong khoảng đó. Điều mà nhiều người khó nhận ra, đó là cuộc chiến đấu xảy ra hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta ở ngay trong đầu chúng ta. Kinh Thánh cho biết:“Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc” (1 Cr 10:3-5).
Có những đồn lũy nào đó của ma quỷ vây hãm chúng ta hằng ngày mà chúng ta phải nhận biết. Cuộc chiến đang xảy ra trong tư tưởng của chúng ta và ma quỷ lợi dụng chính các nhược điểm đó để tấn công chúng ta. Hãy lưu ý 6 điểm dưới đây. Đừng coi ma quỷ là đồng minh, bởi vì nó xảo trá và quỷ quyệt, nó sẽ lừa dối bạn để bạn lọt vào tròng của chúng.
KHI BẠN BỊ TỔN THƯƠNG
Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn yếu đuối, cả thể lý lẫn tinh thần. Chúa Giêsu bị ma quỷ tấn công sau khi Ngài đã ăn chay suốt 40 ngày. Kinh Thánh cho biết:“Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4:2-3). Ma quỷ đã từng tấn công Chúa Giêsu vào một trong những lúc Ngài suy nhược nhất về thể lý. Có những người “chăm chút” sự yếu đuối của mình và giữ lấy nó. Nếu bạn là người như vậy, bạn sẽ không bao giờ tự do. Ma quỷ “bắt cóc” bạn và cầm giữ bạn.
KHI BẠN MỆT MỎI
Bạn có thường uể oải hoặc mệt mỏi? Thiếu nghị lực và thiếu sinh khí thường là hậu quả của một cuộc tấn công “mở rộng”. Thật vậy, các vấn đề này có thể xảy ra từ các vấn đề khác, kể cả việc mất ngủ và thiếu sức khỏe. Tuy nhiên, một trong các dấu hiệu quan trọng nhất mà bạn bị tấn công tinh thần là lúc bạn cảm thấy mệt mỏi, chính sự mệt mỏi khiến bạn chán nản và ngăn cản bạn làm những điều Thiên Chúa bảo bạn làm. Ngôn sứ Isaia cho biết: “Thanh niên thì mệt mỏi, nhọc nhằn, trai tráng cũng ngả nghiêng, lảo đảo” (Is 40:30), nhưng chờ đợi Chúa bồi bổ sức mạnh và thể hiện sự khôn ngoan để có thể chờ đợi, nghỉ ngơi và cậy nhờ vào Thiên Chúa chứ đừng ỷ vào sức mình.
KHI BẠN BẮT ĐẦU MỘT HÀNH TRÌNH TÂM LINH MỚI
Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn bắt đầu một quyết tâm mới về tâm linh. Không có gì nó ghét hơn là bạn quyết định thiết lập mối quan hệ với Thiên Chúa và phát triển đức tin. Ngay sau khi Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ, Ngài khởi đầu sứ vụ công khai. Kinh Thánh cho biết: “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4:17). Nhận biết Chúa Giêsu sẽ bắt đầu sứ vụ, ma quỷ đã ráo riết tấn công Ngài, nhưng Ngài không thoái chí. Khi bạn bắt đầu bất cứ một hành trình tâm linh nào, ma quỷ sẽ tấn công để phá hoại và làm cho bạn chia trí khi cố gắng sống thân mật với Thiên Chúa và mở rộng sứ vụ của Đức Kitô. Đừng để ma quỷ chiến thắng bạn!
KHI BẠN BỐI RỐI
Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn thất vọng ê chề. Trong cuộc tấn công tinh thần, ma quỷ dùng nhiều mưu kế để đè nén tâm trí bạn và làm cho bạn cảm thấy thất vọng. Khi bạn ở trong vòng vây của nó, có thể bạn cảm thấy mình gặp nguy hiểm, lo lắng hoặc bối rối. Những lúc đó, cuộc đối thoại đơn giản với người khác (cha mẹ, vợ chồng, bạn bè,…) có thể chuyển thành xung đột, và ý tưởng đơn giản trong đầu của bạn có thể biến thành cảm xúc tiêu cực. Bạn cũng có thể cảm thấy không còn là mình như trước. Điều này không chỉ ở trong đầu của bạn. Trong những lúc như vậy, điều quan trọng là bạn phải cố gắng tập trung vào Thiên Chúa.
KHI BẠN ĐAU KHỔ
Ma quỷ sẽ tìm cách quyến rũ bạn mau chóng chữa trị khi bạn đau đớn và đau khổ. Nó muốn bạn tin nó có mọi cách thức, chứ không phải Thiên Chúa. Nếu bạn gặp rắc rối trong các mối quan hệ, nó sẽ cho bạn các lời lẽ và tư tưởng tồi tệ về người kia để làm cho mối quan hệ rạn vỡ nhiều hơn. Nếu bạn đang chiến đấu với bệnh tật, nó sẽ cố gắng làm cho bạn tin rằngThiên Chúa không hiện diện và chẳng quyết tâm những gì bạn đang chịu đựng. Nếu bạn tìm kiếm Thiên Chúa trong những lúc đó, ma quỷ sẽ làm cho bạn nghi ngờ rằng không biết Thiên Chúa thực sự có tốt lành hay không.
KHI BẠN MỘT MÌNH
Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn có một mình vì nó biết rằng bạn rất yếu đuối khi không có mặt người khác. Nó cũng cho rằng đó là lúc bạn dễ sa ngã nhất. Kinh Thánh cho biết: “Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4:1). Ma quỷ biết Chúa Giêsu ở một mình nên nó cám dỗ Ngài. Ma quỷ có thể phát hiện khi nào bạn cảm thấy cô đơn. Những lúc đó, nó muốn bạn tin rằng bạn hoàn toàn đơn độc. Thỉnh thoảng bạn cảm thấy như ma quỷ không bỏ mặc bạn một mình, rất cần phải nhớ rằng Thiên Chúa luôn ở bên bạn!
HÃY NHÌN LÊN THIÊN CHÚA
Nếu bạn là chi thể trong Nhiệm Thể của Đức Kitô, hãy chắc chắn rằng ma quỷ luôn cố gắng hủy hoại bạn. Khi mọi thứ không thể đổ lỗi cho ma quỷ, có nhiều điều chứng tỏ hậu quả công việc của nó và phải nhận biết khi nào ma quỷ hoạt động trong cuộc sống của bạn. Nếu bạn không cảnh giác, nó có thể hủy diệt bạn và tách rời chúng ta ra khỏi Chúa Cha. Không có gì để ma quỷ yêu thương, nhưng khi bạn được bảo vệ và được canh giữ, bạn có sức mạnh để đẩy lui mọi cuộc tấn công của ma quỷ.
Lesli White
Trầm Thiên Thu
chuyển ngữ từ Beliefnet.com
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chịu đau khổ và bị cám dỗ. Chúa là Đấng quyền năng đã đến để cứu giúp những người đang bị xiềng xích bởi ma qủy, vì Chúa luôn nâng đỡ những kẻ đi theo Ngài.
Lạy Chúa, xin gìn giữ những kẻ tin vào danh thánh Chúa trong cánh tay Ngài. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, mà ban niềm hoan lạc bất diệt. Amen!
Bất cứ ai đã đọc sách Xuất Hành trong Cựu Ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu truyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Mô-sê. Chúa liền cho rắn bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Mô-sê cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời.”
Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đít-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đít-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi.” Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.”
Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm.” Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Ba-ra-ba, vì Ba-ra-ba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?
Kể từ khi thập hình của người Rô ma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành Thánh giá, và bóng Thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của Thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.
Thánh giá không chỉ được dựng lên trên nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục Sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.
Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu Thế. Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.
4 Điều Cần Ghi Nhớ Để Vượt Qua Những Sóng Gió Trong Cuộc Đời
Trên những đoạn khúc khuỷu của đường đời, chúng ta thường dễ trượt ngã và oán trách số phận: “Sao đời lại bất công như thế?”. Nhưng người Ấn Độ khác hẳn lại luôn dùng kim chỉ nam là 4 quy tắc tâm linh đầy sâu sắc dưới đây để đi qua những cơn sóng của niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống.
1. Bất cứ người nào bạn gặp cũng đúng là người mà bạn cần gặp
Không ai ngẫu nhiên bước vào cuộc đời bạn mà không mang một ý nghĩa nào đó. Tất cả những người chúng ta gặp trên đường đời đều là những người “thầy” vô giá. Dù họ yêu thương bạn, bỏ rơi bạn, giúp đỡ bạn hay tranh đấu với bạn, tất cả chỉ để dạy bạn cách sống, cách yêu thương, cách bao dung và nhẫn nhường. Số phận luôn sắp đặt đúng người vào đúng thời điểm để tôi luyện ý chí và phẩm cách con người bạn, để bạn nhận ra đâu là giá trị cuộc sống và giá trị của bản thân mình. Vậy nếu bạn chỉ biết ơn những người trao cho bạn cơ hội mới, những người tặng bạn những khoảnh khắc ngọt ngào, và thù ghét những người để lại vết thương lòng trong bạn thì bạn mới chỉ hiểu một nửa thông điệp của tạo hóa.
2. Bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời bạn đều là những điều nên xảy ra
Không có điều gì chúng ta từng trải qua trong cuộc đời mình đáng ra không nên xảy ra cả, kể cả những điều nhỏ nhặt nhất. Trước mỗi một sai lầm hay vấp ngã, chúng ta đều than thở “Giá như mình không làm thế thì mọi chuyện đã khác”. Nhưng không, chẳng có cái giá nào hết bởi vì những gì nên xảy ra thì đều đã xảy ra.
Qua đó, chúng ta rút ra được bài học để hoàn thiện, phát triển bản thân hơn. Thay vì ngồi đó bực tức, bất lực, trách mình vì đã đánh đổ nước cam lên chiếc laptop ban sáng, bạn hãy bình tĩnh chấp nhận, lau chùi nó rồi nó đem chiếc máy tính đi sửa và rút kinh nghiệm lần sau không bao giờ để nước vào túi đựng laptop nữa, có phải là tốt đẹp hơn không? Khi bị kẹt cứng trên một tuyến đường đông đúc trong lúc đưa con đi học, bạn cũng sẽ không nghĩ rằng nếu đi nhanh hơn thì một chiếc xe tải lao như bay trên đường có thể cướp đi sinh mạng của mình và con mình?
Bởi vậy mới nói, đừng ngồi mà ước “giá như” bởi chẳng có gì xảy ra trong cuộc đời là không có nguyên do. Nhẹ nhàng chấp nhận mới có thể ung dung, tự tại. Không có gì chúng ta trải qua lại có thể khác đi và đừng tốn thời gian để hối tiếc về những chuyện đã qua.
3. Chuyện gì đến, ắt sẽ đến
Tất cả mọi chuyện trên đời đều xẩy đến vào đúng thời điểm nó xẩy ra, không sớm hơn hay muộn hơn. Chúng ta không thể đoán trước điều gì sắp xảy ra, cũng không thể ngăn chặn nó vì nó đã ở đó và sẽ xảy ra vào một thời điểm mình không ngờ tới. Việc lo sợ vào một ngày nào đó một chuyện tồi tệ ập đến sẽ khiến bạn quên đi những giây phút đáng quý của hiện tại. Dù là niềm vui hay nỗi buồn, hãy học cách can đảm đón nhận nó. Bạn không thể kiểm soát thế giới xung quanh bạn. Chuyện gì phải đến cũng sẽ đến và phải học cách bình thản đối diện với những chuyện có thể bất ngờ xảy ra. Đôi khi, chúng ta phải chờ đợi rất lâu và trải qua rất nhiều những “chuyện sẽ đến” để hiểu hết ý nghĩa của thời điểm. Thời điểm luôn là món quà mà Thượng Đế trao cho những ai biết nhẫn nại, kiên trì và quyết tâm.
4.Chuyện gì đã qua, hãy để cho nó qua
Quy tắc này rất đơn giản. Khi một điều gì đó đã kết thúc, thì có nghĩa là nó đã hoàn thành trách nhiệm giúp ta phát triển. Duyên phận của chúng ta với điều đó đã chấm dứt để nhường chỗ cho mối nhân duyên khác hội tụ.Đôi khi chia tay một người hay rời bỏ một công việc chưa chắc đã là điều không tốt, bởi vì biết đâu đó lại là cơ hội để mình tìm được một công việc mới tốt hơn hay một người khác tử tế hơn.
Đó là lý do chúng ta phải biết buông bỏ, để lại sau lưng những muộn phiền và quá khứ để dành sức tiếp tục cuộc hành trình của đời mình. Để có thể an nhiên, mỗi người nên biết tùy duyên và thuận theo tự nhiên mà sống.
Không phải ngẫu nhiên mà bạn đọc được bài viết này bởi vậy nếu cảm thấy đúng, đừng giữ cho riêng mình mà hãy chia sẻ! Hãy yêu thương bản thân, sống an nhiên và luôn hạnh phúc nhé!