VanHieu Nguyen and Trong Nguyen shared Nguyễn Khoa Phước‘s post.


Thứ Bảy, 03/24/2018
Từ những năm 2000 khi ngồi trên những chuyến xe về đêm từ Sài gòn về Phan rang tôi hay ngạc nhiên nghe bác tài và phụ xe thi thoảng lại nói lớn với hành khách “bọn ác, bọn ác…”, ý họ bảo là trước mặt có nhóm CSGT mọi người phải cẩn thận. Không rõ họ quen cách dùng tín hiệu ấy từ lúc nào, ai không tin cứ gặp tài xế hay phụ xế nhà xe Quốc Hùng ở Phan Rang. Nhà xe Quốc Hùng hồi ấy rất thân thuộc với dân Phan Rang vì dùng xe 16 chỗ đưa đón khách tận nhà, cả ở Phan Rang lẫn Sài gòn giá cả rất hợp lý.
Từ ngạc nhiên đến suy tư về cách mà người dân thường gọi các chiến sỹ Công an nhân dân như vậy: “Bọn ác”, mãi đến giờ gần 20 chục năm trôi qua mới có dịp tâm sự tản mạn cùng các bạn. Lẽ ra một người hành nghề Luật sư và hay viết báo như tôi phải hiểu rõ hơn họ, những người dân bình thường, về bọn ác đã hoành hành trên quê hương đất nước mình như thế nào.
Tôi từng chứng kiến bọn chúng dùng còng treo ngược một tay cô gái mới 20 tuổi lên thành cửa sổ trong đồn Công an, mỗi thằng Công an đều có hứng thú đánh và doạ nạt cô bé ấy. Chúng dùng roi đánh vào người, dùng tay chân đấm đá cô ấy bầm tím khắp người. Cô ta bị vu là lấy trộm dây chuyền vàng của bạn cùng phòng trọ. Cô ta sợ quá cứ khai nhận là đã mang vàng ấy đi đánh bạc ở chỗ này chỗ nọ, chúng còng tay chở xe đến những chỗ ấy nhưng không có chỗ nào cụ thể, rồi cô lại khai đã đưa cho chú ruột giữ, nhưng khi tìm người chú ấy hoá ra đã về quê từ cả tháng trước ngày mất trộm. Khi tôi và gia đình đến thì mọi hướng xác minh lời khai đều sai. Chỉ có một sự thật rõ ràng nhất là cô gái ngây thơ yếu ớt cả đời chưa biết làm hại ai đã bị ngờ oan và bị đánh quá dã man hoảng loạn nên cứ khai bừa khai bậy. Khi bọn ác cho về thì cả thân người bầm tím. Đơn từ khiếu nại gửi kèm ảnh chụp cả thân người bầm tím khắp nơi nhưng mãi mãi về sau không ai trả lời. Gia đình đưa con về quê miền Bắc dưỡng bệnh mất nhiều tháng sau mới đỡ cơn hoảng loạn ngơ ngẩn của cô gái.
Đấy là những năm 2003-2004 khi Internet và mạng xã hội chưa phổ biến mạnh như bây giờ. Thử tìm kiếm những cụm từ: “chết trong đồn công an”, “công an đánh dân” “Công an giết dân” sẽ ra hàng triệu kết quả đính kèm video clip và hình ảnh xem vài tháng chưa hết. Rất nhiều cái chết do tra tấn đánh đập dã man, thậm chí bị cắt cổ như anh Nguyễn Hữu Tấn chỉ vì lá cờ vàng ba sọc đỏ mà bị truy bắt… sau này gia đình phải kêu oan tận Quốc hội Mỹ và đến giờ hầu như mọi sự như bị trôi vào quên lãng.
Bọn ác cướp nhà cướp đất thì nhiều vô kể và dân chúng đứng lên chống đối bất chấp tù tội cũng nhiều vô kể suốt từ Bắc chí Nam. Đất đai là nguồn sinh sống là “quê hương nhỏ trong quê hương lớn” mà bị cướp đi dưới lý lẽ thu hồi đất lại cho nhà nước, thu hồi lại cho “sở hữu toàn dân”, với giá đền bù rẻ mạt nhưng lại giao luôn cho một sở hữu tư nhân khác có nhiều tiền của hơn để đầu tư dự án. Đành rằng dự án to đẹp hơn nhưng sở hữu tư nhân vẫn thành sở hữu tư nhân, chỉ là một bên bị ép giá và cưỡng bức như bị cướp tài sản bằng vũ lực, bên nhận đất làm dự án thì thu lợi gấp nhiều lần và dĩ nhiên lại quả đậm cho “Bọn ác”. Nhiều nơi bọn cướp còn điều khiển cả quân đội kèm chó nghiệp vụ sẵn sàng cắn xé bắt bớ dân lành. Quân đội lẽ ra chỉ bảo vệ tổ quốc và nhân dân thì nay tham gia cùng với bọn ác đàn áp nhân dân.
Bọn ác CSGT thì hoành hành mạnh hơn trước nhiều, bọn chúng vẫn bảo kê cho xe quá tải, xe chạy vào giờ cấm, các nhà xe Container, xe tải thùng và xe hành khách đều quá rành các kiểu ăn của bọn ác, nhiều người còn tố cáo đám “chim lợn” làm tay sai cò mồi cho bọn ác bẫy người giao thông, dùng đám ấy đánh người nào dám quay video hay có sự chống đối. Cứ tìm kiếm video hay hình ảnh trên mạng thì ra hàng triệu bằng chứng về bọn CSGT ăn tiền, đánh dân, nhưng kết quả về đám ấy bị kỷ luật hay đi tù thì hiếm lắm.
Bọn ác ấy sống dai vì có bọn ác hơn, ma quỷ quyền phép hơn bảo kê ở trên cao nữa. Bọn ác nhỏ, bọn ác lính lác đi vơ vét tiền về cống nạp chia chác cho bọn ác lớn, bọn ác cao cấp, bọn ác ngồi ghế lãnh đạo được tô vẽ là có đạo đức sáng ngời, là người đi đầu phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ, là những người con ưu tú của Đảng… Bọn ác bề ngoài toàn nói lời hay ý đẹp một cách trơn tru kiểu lòng dân ý Đảng, theo kiểu đạo đức văn minh, nhưng bề trong bóng tối, dưới gầm bàn là những quyền lợi tiền tỷ, nhà cao cửa rộng, con cái đi học nước ngoài, xây nhà biệt phủ, tiền bạc phủ phê mà không phải đóng thuế cho ai cả, mà cũng chưa có cơ quan hành pháp tư pháp nào truy tầm được cụ thể nguồn gốc tiền của thứ của chìm của nổi ấy từ đâu mà có…
Tất nhiên là đừng vơ đũa cả nắm vì dân gian có câu “Thằng này là Đảng viên nhưng vẫn còn tốt lắm…”, thật ra bây giờ trong bọn ác cao cấp ấy thì người ít ác cũng là hiếm lắm. Không tin bạn cứ hỏi dân thường, hỏi người hàng xóm của mình cho dễ thôi, rằng những cán bộ có chức quyền các cấp, các ngành từ công an, Hải quan, thuế vụ, tài nguyên môi trường, y tế cho đến văn hoá thông tin, giáo dục … có tham nhũng hay không? Tại sao họ có nhiều tiền thế, nhà đất to đẹp, tiền nhiều, con cái cho đi du học nước nọ nước kia, tài sản đâu ra?
Bà phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan vẫn được báo chí nêu tên vì câu nói “Tôi càng đi càng thấy buồn, ăn của dân không từ một cái gì”, vâng, tâm trạng của tôi cũng không khác gì bà Doan khi kể ra những chuyện mắt thấy tai nghe hàng mấy chục năm trời nay…
Cái chức quan nhỏ xíu dễ bị coi khinh như tổ trưởng dân phố mà vẫn có cửa ăn tiền bạn có tin không?
Có những cách ăn tiền bạn khó mà tưởng tượng ra như việc Công an giám định tử thi vẫn ăn tiền trên xác người chết. Nhà có người chết thuộc trường hợp phải giám định tử thi, nếu không chi tiền thì nó cứ để đấy mặc kệ sự sốt ruột của người thân. Đoạn trường ai có qua cầu mới hay, mới thấu hiểu cái bọn ác nó chực chờ vơ vét tiền dân khắp mọi ngõ ngách, mọi ban ngành, mọi tình huống. Cứ đụng chuyện phải đến cửa quan gặp bọn có chức có quyền, gặp bọn được Đảng giao phó trọng trách giải quyết công việc là y rằng nhìn mặt bọn ấy thôi đã thấy ác rồi. Bọn chúng tự xem mình như ông trời và xem dân mình chẳng ra gì, người tốt có nhưng hiếm lắm, gặp được cũng là phước rồi.
Bọn ác được giao cho việc quản lý thị trường và chất lượng hàng hoá nhưng hàng chất lượng kém, thực phẩm bẩn cứ nhan nhản với bề ngoài tươi đẹp dễ nhầm lẫn khiến dân mình bị nhiễm bệnh, bị ung thư với tỷ lệ gần cao nhất thế giới. Bạn có tin không, cứ Gu-gờ (Google Search) tìm kiếm là biết môi trường sống ở Việt nam nguy hiểm thế nào, từ không khí ô nhiễm, thực phẩm bẩn, trộm cướp, cho đến tai nạn giao thông đều quá cao so với thế giới.
Bọn ác ấy ăn lương từ tiền thuế của nhân dân, được mặc sắc phục mang chỉ dấu quyền lực phô trương rằng dân thuận ý thông qua Pháp luật cho chúng cầm quyền (mặc dù mọi cuộc bầu cử đều giả dối và được dàn xếp). Bọn ác ấy vẫn họp chi bộ đều đặn làm công tác phê và tự phê trong nội bộ Đảng nhưng chỉ là dòm chừng nhau và dặn dò nhau mọi ăn uống hối lộ phải kín đáo đừng để lộ liễu cho dân chúng và báo chí chộp được. Bọn ác vẫn làm công việc liệt kê tài sản với nhau trong phạm vi nội bộ cơ quan, nhưng chủ yếu là tạo vỏ bọc và hợp thức hoá những tài sản công khai, còn mớ tài sản dàn xếp cho con cho cháu nắm giữ hộ thì đem cả hệ thống cơ quan điều tra cả nước truy tìm hàng thế kỷ chưa chắc đã tìm ra đầy đủ những tài sản vì ăn cắp của công vì tham nhũng mà có.
Bọn ác hoành hành với hệ thống bảo bọc thông suốt từ Trung ương đến địa phương và đảm bảo cho những kẻ ăn theo ủng hộ địa chia chác những quyền lợi trong công cuộc cai trị.
Bọn ác vì bảo vệ hệ thống băng nhóm làm ăn chia chác nhiều thứ quyền lợi nên sẵn sàng bắt bớ đàn áp bất cứ ai có tinh thần chống đối tố cáo chúng cho công luận. Bao năm qua, những người dám nói lên sự thật một cách ôn hoà, chỉ là bất đồng chính kiến, họ luôn bị theo dõi bị đe doạ và bị bắt tù hàng chục năm với những vu cáo ghê gớm như “lật đổ chính quyền nhân dân” như “tuyên truyền chống nhà nước” … năm nào bọc ác cũng đều đặn bắt người để duy trì sự đe doạ, duy trì sự sợ hãi.
Vâng, chính quyền nào chủ thuyết nào cũng có mục tiêu cho dân chúng khoẻ mạnh, giàu có, vui sướng và đất nước văn minh cường thịnh … dù là chế độ Cộng sản hay Cộng hoà, nhưng phải thấy rõ là bây giờ “Bọn ác” ngày càng ác hơn, ngày càng đông hơn chứ không giảm kể từ cái đêm ấy khi tôi mơ ngủ giựt mình nghe bác tài nhà xe Quốc Hùng Phan Rang nói giựt giọng “Bọn ác, bọn ác…”
© Tuệ Tâm
Trên đời này, những thứ quý giá nhất đều là miễn phí
Trên cuộc đời này, nhiều người hay than thở rằng cuộc đời thật bất công, rằng “Ông trời không có mắt” nhưng bạn có biết rằng, nếu ông trời “không có mắt”, không yêu thương nhân loại, thì nhân loại đã chết từ lâu rồi không? Ông đã ban rất nhiều thứ miễn phí cho con người, chỉ có điều bạn coi đã coi nó là hiển nhiên và không nhận ra mà thôi.
Ánh sáng mặt trời là miễn phí
Trên thế gian này, không sinh vật nào có thể sống sót nếu thiếu ánh mặt trời. Thế nhưng có ai từng phải trả một đồng nào cho thứ ánh sáng kỳ diệu đó chưa?
Không khí là miễn phí
Một người chỉ cần là đang sống trên Trái đất này, có ai mà có thể không hít thở mà có thể sống được? Thế nhưng từ xưa đến nay, đã có ai từng phải trả tiền cho thứ không thể thiếu này chưa?
Tình yêu là miễn phí
Đoạn tình cảm sâu đậm cùng nhau vượt sóng gió đó, cuộc tình hoạn nạn có nhau đó, sự hòa hợp của hai tâm hồn cùng đồng điệu đó, chính là sự đồng cảm sâu sắc nhất và là chỗ dựa vững chắc nhất trong cuộc đời chúng ta. Tất cả những điều này, đều là miễn phí hết và là thứ mà có tiền bạc cũng không thể mua được.
Tình thân là miễn phí
Mỗi người chúng ta đều trần trụi khi đến với thế gian này và đều nhận được sự che chở vô bờ bến của cha mẹ, một thứ tình thương không mong báo đáp in sâu trong máu thịt. Nhưng không có người cha mẹ nào nói với con mình rằng: “Con cho mẹ tiền mẹ mới thương con”.
Tình yêu thương này của cha mẹ, sẽ không giảm giá trị vì bạn đã trưởng thành, càng không mờ nhạt vì họ đã già đi, chỉ cần cha mẹ còn sống ở trên đời này, bạn vẫn nhận được tình yêu thương này trước sau như một.
Tình bạn là miễn phí
Người âm thầm ở bên cạnh bạn khi bạn cô đơn, người giơ cánh tay ra đỡ bạn khi bạn ngã, người cho bạn dựa vào vai an ủi bạn khi bạn đau lòng, người luôn sẵn sàng xuất hiện mỗi khi bạn cần giúp đỡ, thế nhưng người đó có bao giờ đổi những thứ đã cho đi thành tiền mặt, sau đó kêu bạn trả không?
Mục tiêu là miễn phí
Bất luận là hoàng tử ăn sung mặc sướng, hay là người lang thang ăn mặc rách rưới, bạn đều có thể đặt ra mục tiêu riêng cho cuộc đời mình.. Mục tiêu này có thể là vĩ đại, cũng có thể là bình thường, vừa có thể là huy hoàng và cũng có thể là giản dị, chỉ cần bạn cảm thấy bằng lòng với nó là đủ rồi.
Tín ngưỡng là miễn phí
Mỗi một cơ thể máu thịt đều nên có một tín ngưỡng chính xác và kiên định để dựa vào. Đó là nơi nương dựa tốt nhất của linh hồn, là ngọn đèn soi sáng giúp chúng ta vượt qua được mọi khó khăn, trắc trở trên đường đời.
Còn có gió xuân, thì còn có mưa phùn, còn có ánh trăng trong vắt, thì còn có các vì sao lấp lánh trên trời…
Vậy nên bạn đừng có than thở với ông Trời nữa, ông Trời không những rất công bằng mà lại còn rất hào phóng. Từ lâu ngài đã đem mọi thứ quý giá nhất, ban tặng miễn phí cho mỗi người rồi, chỉ có điều là bạn có nhận ra hay không mà thôi.
Theo ĐKN
Châu Yến
Điều kỳ lạ của chúng ta!
Sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ, con gái của một vị giảng thuyết nổi tiếng được mời trả lời phỏng vấn trên truyền hình và người hướng dẫn chương trình đã hỏi cô ta như sau:
“Tại sao Thiên Chúa lại có thể để xảy ra một thảm họa khủng khiếp như vậy?”
Câu trả lời của thiếu nữ này thật là thâm thúy: “Tôi nghĩ là Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, ít nhất là Ngài cũng buồn bằng chúng ta. Từ bao năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài đi ra khỏi trường học, khỏi chính phủ và khỏi đời sống của chúng ta. Ngài là người ‘quân tử’ nên đã lẳng lặng rút lui.
Làm sao chúng ta có thể mong Chúa ban ơn lành và che chở chúng ta khi chúng ta đã khẩn thiết xin Ngài để mặc chúng ta một mình ?
Về những biến cố mới xảy ra như tấn công khủng bố, bắn giết trong trường học, chiến tranh …, tôi nghĩ rằng mọi sự đã bắt đầu với Madeleine Murray O’Hare, khi bà ấy than phiền là không nên đọc kinh trong trường học nữa. Và chúng ta đã đồng ý!
Rồi lại một người khác lại có ý kiến là chúng ta không nên đọc Kinh Thánh nơi trường học, cũng chính quyển Kinh Thánh trong đó dạy chúng ta: ‘Chớ giết người, chớ trộm cắp, yêu thương tha nhân như chính bản thân mình, v.v…’, và chúng ta cũng đã đồng ý!
Sau đó bác sĩ Benjamin Spock lại nói là chúng ta không được đánh con cái mình khi chúng làm gì xấu, vì chúng ta có thể làm sai lệch nhân cách bé nhỏ của chúng và làm cho chúng không biết tự quý trọng bản thân mình nữa. Thế rồi con trai của chính vị bác sĩ ấy khốn thay đã tự tử. Người ta bảo rằng một chuyên viên chắc chắn phải biết mình nói gì, còn ông ấy nói với chúng ta điều mà chính thực tế gia đình ông ấy thất bại , và chúng ta cũng đồng ý luôn !!!
Bây giờ chúng ta lại tự hỏi là tại sao con chúng ta không có lương tâm, tại sao chúng không phân biệt được thiện ác, và tại sao chúng ta có thể nhẫn tâm giết chết một thai nhi, một người thân hay chính mình.
Có thế sau khi suy nghĩ chín chắn, chúng ta đi đến kết luận: chúng ta gieo nhân nào thì sẽ gặt quả ấy.
Điều Kì Lạ… là con người có thể vứt bỏ Chúa một cách dễ dàng rồi sau đó lại tự hỏi tại sao thế giới biến thành địa ngục.
Điều Kì Lạ… là chúng ta lại có thể tin những gì báo chí nói mà lại nghi ngờ những gì Kinh Thánh nói.
Điều Kì Lạ… là chúng ta gửi cho nhau những chuyện vui cười qua email và chúng được truyền đi tiếp như lửa rơm, nhưng khi gửi những thông điệp về Thiên Chúa thì chúng ta lại đắn đo suy nghĩ trước khi gửi đi tiếp.
Điều Kì Lạ… là khi bạn gửi đi thông điệp này, có thể bạn không gửi đi cho nhiều người lắm trong danh sách của bạn, vì bạn không biết họ có tin Chúa không hoặc họ sẽ nghĩ gì về bạn.
Điều Kì Lạ… là chúng ta lại hay lo sợ người đời nghĩ sao về chúng ta, hơn là những gì Thiên Chúa nghĩ về chúng ta.
Hãy chia sẻ thông điệp này, nếu bạn nghĩ nó đáng được gửi đi. Nếu không, bạn cứ vứt nó đi, cũng chẳng ai biết đâu!
Nhưng nếu bạn cắt đứt chuỗi suy nghĩ này, thì đừng bao giờ than phiền về tình trạng tồi tệ của thế giới chúng ta đang sống.
Nguồn: Dòng Đồng Công Hoa Kì
Nếu bạn thấy bài viết này bổ ích chính mình và người khác, hãy chia sẻ cho nhiều người khác nữa nhé! Nguyện xin Chúa chúc lành cho bạn và gia đình!
From vuisongtrendoi

Một trong những thiếu sót lớn trong lĩnh vực Việt Nam Học của khoảng một thế hệ qua là không có một ghi chép đầy đủ hoặc thực sự uy tín về hiện tượng lịch sử Đổi Mới (Renovation trong tiếng Anh).
Dù đây là định hướng chính sách tháo khoán nhờ đảng-nhà nước khởi xướng ở Đại hội Đảng 6 hay tinh thần cải tổ chung trong cả nước cuối thập niên 1980, thì Đổi mới rõ ràng lực đẩy quan trọng trong đời sống trí thức, văn hóa, chính trị, kinh tế Việt Nam trong hơn 30 năm qua.
Tuy nhiên, các học giả nước ngoài quan tâm chủ đề này có xu hướng chỉ tập trung hạn hẹp vào một số góc cạnh Đổi Mới mà lại không xem xét toàn bộ hiện tượng.
Khi các sinh viên hỏi tôi tư liệu về Đổi Mới, tôi thường giới thiệu tác phẩm của Adam Fforde về kinh tế, Carlyle Thayer chính trị, Tường Vũ ý thức hệ, Ben Kerkvliet nông nghiệp, Hy Văn Lương văn hóa làng xã, Pam McElwee chính trị môi trường, Nguyễn Võ Thu Hương quan hệ giới, John Schafer văn học…
Nhưng thật khó tìm ra một bài báo, sách, hay một học giả nào cung cấp tổng quan về Đổi Mới – bao gồm lịch sử về nguồn gốc của nó, diễn trình thay đổi theo thời gian, và ảnh hưởng khác nhau lên các lĩnh vực đời sống người Việt.
Một trong những thành tựu của sách Bên Thắng Cuộc (tác giả Huy Đức) là đem lại ghi chép tốt nhất, ở bất kỳ ngôn ngữ nào, về lịch sử và tầm quan trọng của Đổi Mới. Cuốn sách xem xét kỹ lưỡng cuộc khủng hoảng trong nước đã thúc đẩy đòi hỏi xã hội muốn có những cải tổ sâu rộng trong thập niên sau kết thúc Chiến tranh Đông dương lần hai.
Sách kể lại quá trình tiến hành cải tổ theo kiểu “tiến một bước, lùi hai bước”. Sách cũng mô tả các lý do cắt bỏ đột ngột nghị trình cải cách, đặc biệt về văn hóa và chính trị.
Tóm lại, Bên Thắng Cuộc cho chúng ta cái nhìn toàn cảnh về Đổi mới – giúp khám phá và giải thích những thành công và thất bại của nó.
Bên Thắng Cuộc xác định nguồn gốc Đổi mới là trong khủng hoảng tự tạo ra khiến Việt Nam khó khăn trong giai đoạn hậu chiến 1975-1986. Khủng hoảng này gồm bảy thành tố chủ chốt, được Huy Đức viết trong bảy chương:

Một trong những điều phi thường về Bên Thắng Cuộc là sự thẳng thắn đáng ngạc nhiên trong các phần này của sách, nhất là khi ta biết sách là của một nhà báo sống trong nước. Huy Đức mô tả các viên chức cộng sản nói dối thản nhiên và liên tục về thời hạn cải tạo. Ông mô tả các thành viên gia đình được khuyến khích khai báo về người thân. Ông liệt kê điều kiện khổ sở trong các trại, và sự đối xử tệ bạc với gia đình người bị giữ. Ông mô tả làn sóng chống tư sản, chống người Hoa là chiến dịch tham lam của ăn cướp, bóp nặn, cưỡng ép ra đi.
Phần viết về cuộc xâm phạm Campuchia nhấn mạnh sự trớ trêu trong quan hệ lịch sử gần gũi giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Pol Pot. Mô tả về làn sóng ra đi sau 1975 bộc lộ vai trò của giới an ninh địa phương thoái hóa khi họ tạo điều kiện và kiếm lời từ đợt chạy trốn. Ông cũng không ngần ngại mô tả việc “Bắc hóa” tai hại trong kinh tế miền Nam, là một chiến dịch xuất phát từ kiêu ngạo, ngu dốt và bám vào ý thức hệ.
Huy Đức trách Lê Duẩn về việc “Bắc hóa” nhưng ông cũng ngụ ý về vai trò Hồ Chí Minh khi đặt cạnh nhau phần nói về chính sách (chương 8) với đoạn về “Con đường của Bác”.
Trong “Con đường của Bác”, Huy Đức mô tả Hồ Chí Minh ủng hộ tập thể hóa kinh tế miền Bắc giai đoạn 1950 – trong đó có cuộc Cải cách Ruộng đất 1953-56 tai tiếng, tấn công tư sản miền Bắc là tiền đề cho tấn công tư sản miền Nam sau 1975.
Ở đây, Huy Đức vượt khỏi cách giải thích ngày càng phổ biến về chính trị cộng sản Việt Nam giai đoạn 1950, 60 xem Lê Duẩn quá khích khác Hồ Chí Minh trung dung (một cách nghĩ được phim tài liệu mới đây của Ken Burns áp dụng).
Huy Đức không phải là cây bút đầu tiên trong nước nhắc đến những phần tiêu cực này trong lịch sử hậu chiến Việt Nam. Nhưng đáng kinh ngạc là cách ông từ bỏ bút pháp quen thuộc của giới cầm bút trong nước (dùng uyển ngữ, nói tránh nói giảm).
Điểm tôi muốn nhấn mạnh ở đây là ghi chép của Huy Đức về khủng hoảng hậu chiến thật quan trọng không chỉ vì sự bộc trực, không úp mở mà còn vì cách nó giúp giải thích sự xuất hiện của chính sách Đổi mới giữa thập niên 1980.

Giống như phần mô tả về khủng hoảng dẫn tới Đổi mới, phần viết về quá trình cải cách của Huy Đức cũng bao gồm nhiều yếu tố phức tạp.
Khủng hoảng 1975-1986 cung cấp bối cảnh rộng lớn cho Đổi mới được mô tả trong sách, ngoài ra, Huy Đức cũng chỉ rõ những yếu tố khác tác động việc áp dụng nghị trình cải cách. Một trong đó là môi trường toàn cầu mới có lợi bất ngờ cho cải cách ở Việt Nam. Môi trường này bao gồm giới lãnh đạo đổi mới ở Trung Quốc và Liên Xô, Bức tường Berlin sụp đổ, các đồng minh xã hội chủ nghĩa ngừng viện trợ, các tổ chức đa phương và phi chính phủ sẵn sàng giúp đỡ, và môi trường ngoại giao thay đổi trong Asean, EU và Mỹ.
Một yếu tố nữa là lịch sử lâu dài từ trước của cải cách kinh tế, hoạt động kinh doanh trong dân, đã đem lại truyền thống để từ đó Đổi mới phát triển.
Huy Đức mô tả các thử nghiệm quan trọng của Kim Ngọc với chủ trương “khoán hộ” ở Vĩnh Phú thập niên 1960, việc phá rào ở Long An của Bùi Văn Giao, Bí thư Tỉnh ủy Long An Nguyễn Văn Chính những năm 1970. Ở chương 16, ông kể thêm về sự nghiệp các doanh nhân thành đạt như Bạch Thái Bưởi giai đoạn thực dân, sự bền gan của thương nhân tơ lụa Trịnh Văn Bô trong Chiến tranh Đông dương lần một và những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Những ví dụ này báo trước sự lớn dậy tự phát của doanh nghiệp nhỏ thành công ở miền Nam trước thời Đổi mới, như vá ép áo mưa rách, bơm mực ruột bút bi, tái chế dép nhựa cũ, nấu xà bông. Số liệu ở đây cân đối thú vị với phần về bối cảnh toàn cầu để chứng tỏ năng lượng đổi mới cũng được dựng xây từ nền tảng trong nước trước đó. Nó cũng gợi ý rằng phát triển kinh tế thị trường giai đoạn 1980 có cả việc học lại tư duy đã lãng quên chứ không phải là phát triển những thói quen này từ điểm số không.
Theo Huy Đức, một yếu tố nữa định hình và khuyến khích cải tổ là việc giới trí thức Việt Nam tiếp xúc với các phiên bản quá khích của xã hội cộng sản châu Á từ giữa tới cuối 1970.
Ví dụ, ông cho rằng sau khi Nguyên Ngọc quan sát Campuchia thời hậu Khmer Đỏ bị tàn phá, ông đã đặt câu hỏi căn bản về tính chất của các hệ thống cộng sản: “Tại sao chỉ có các quốc gia cộng sản mới có cách mạng văn hóa và những cánh đồng chết?”
Hay cái nhìn tiêu cực về chủ nghĩa cộng sản của nhà báo đổi mới Kim Hạnh là do sau khi dự “Liên hoan Thanh niên, Sinh viên” tại Bình Nhưỡng trở về năm 1989, bà thấy Bắc Hàn “như một thứ trại tập trung có quy mô toàn quốc”.
Huy Đức cũng viết những người miền Bắc chứng kiến sự phồn thịnh vật chất của các đô thị miền Nam sau 1975 đã đặt câu hỏi về tuyên truyền nhà nước xoay quanh đời sống miền Nam. Sự say mê của người Bắc về tủ lạnh, xe máy khiến họ quan tâm đến cách làm của kinh tế tư bản miền Nam. Sự tiếp xúc với miền Nam đã “đánh thức nhu cầu văn hóa của người dân miền Bắc”.

Với tôi, một phần bất ngờ khi đọc Huy Đức kể về sự trổi dậy của cải cách là vai trò của sinh viên đại học. Trong chương về Đa nguyên, ông kể lại lịch sử hoạt động sinh viên mà ít người biết trong thập niên 1980, khá giống với phong trào sinh viên chống độc đoán lúc đó ở Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Cuối cùng, cách Huy Đức giải thích về sự xuất hiện của Đổi mới tỏ ra chú ý khác lạ về các vai trò phức tạp của nhóm chóp bu trong Đảng. Điều này trái ngược với hầu hết ghi chép về Đổi mới ở phương Tây. Do thiếu dữ liệu về nguồn gốc gia đình, lịch sử nghề nghiệp, tính cách, xu hướng chính trị, triết lý, kết nối xã hội của các thành viên Bộ chính trị, các nghiên cứu cũ thường đặt các lãnh đạo cộng sản vào các nhóm thô sơ mang tính chất cố định, nhị nguyên.
Họ mô tả quan hệ chính trị ở Việt Nam cộng sản là cuộc đấu tranh nhị nguyên giữa các đại biểu của phe “bắc và nam”, “quốc gia, quốc tế”, “thân Trung, thân Liên Xô”, “ủng hộ cải cách, chống cải cách”. Sự trái ngược của Bên Thắng Cuộc thật kinh ngạc.
Cuốn sách mô tả thật chi tiết về tính cách, tiểu sử nhiều lãnh đạo cộng sản như Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng, Phan Văn Khải, Nguyễn Phú Trọng.
Một chương 15 hấp dẫn chỉ nói về các cuộc đấu tranh liên quan đời tư, sự nghiệp và chính trị của Võ Nguyên Giáp.
Chương 14 thì so sánh hệ thống về sự nghiệp, gia đình, phong thái của Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt. Chương 18 lại tìm hiểu quan hệ và cạnh tranh giữa Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt. Dữ liệu tiểu sử tập thể này cung cấp một phần quan trọng giúp ta hiểu về tiến trình cải tổ vì tính cách và quan hệ đóng vai trò lớn trong hệ thống chính trị khép kín.

Anh hùng rõ rệt trong Bên Thắng Cuộc là nhà cải cách Võ Văn Kiệt, nhưng người ủng hộ bất ngờ Đổi mới lại là Trường Chinh. Ông thay đổi suy nghĩ từ một nhà bảo thủ Marxist-Leninist thành người ủng hộ đổi mới vững chắc là chủ đề chương 10.
Dù đã 80, nhân vật linh động này thành thật nghiên cứu các vấn đề miền Nam và rồi ủng hộ, đề xuất giải pháp đổi mới. Nghiên cứu trước đây xem cải tổ bắt đầu khi Trường Chinh qua đời và Nguyễn Văn Linh lên làm lãnh đạo đảng năm 1986, nhưng Huy Đức ghi nhận đóng góp quyết định của Trường Chinh cho cải tổ.
Mặt khác, một số học giả phương Tây từng xem Nguyễn Văn Linh là thủ lĩnh đổi mới, nhưng ông này, trong sách Huy Đức, là nhân vật dao động và rốt cuộc thành người bảo thủ, đã bỏ lỡ cơ hội thúc đổi mới tiến lên sau tiến bộ ban đầu. Xu hướng hiện nay của Việt Nam – kinh tế thị trường gắn với hệ thống độc đảng không nhân nhượng, lạc hậu – đã củng cố từ thời Nguyễn Văn Linh.
Hạn chế của đổi mới được xem xét trong các chương 12, 13 đánh giá số phận phức tạp của cải cách về tự do trí thức và thúc đẩy dân chủ. Sau khi mô tả sự cởi trói báo chí ngắn ngủi của Nguyễn Văn Linh cuối 1980, chương 12 kể nhiều về sự đàn áp phong trào Nhân văn Giai phẩm thập niên 1950.
Sự bịt miệng phong trào này dường như tương tự câu chuyện Huy Đức kể về việc Nguyên Ngọc mất chức lãnh đạo tạp chí Văn Nghệ cuối thập niên 1980.

Chương 13 bắt đầu với câu chuyện tích cực về giới thiệu bầu cử dân chủ trong trường đại học, nhưng giọng văn tối dần khi Đảng đối diện sự xuất hiện của Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan, và sau đó là sự biến mất đột ngột của chính thể cộng sản Đông Âu. Sau khi ghi lại phản ứng lúng túng, lạc lõng của ban lãnh đạo trước tiến trình dân chủ hóa ở Đông Âu, chương này mô tả thăng trầm của những người cổ vũ dân chủ như chính khách Trần Xuân Bách, nhà báo Bùi Tín, và tướng quân đội Trần Độ.
Trong các chương sau đó, những người cải cách rơi vào thế thủ, dính vào bê bối, mâu thuẫn nội bộ, không thể thúc đẩy nghị trình bên ngoài kinh tế. Đánh giá thấp của Huy Đức dành cho những lãnh đạo sau này như Lê Khả Phiêu và Nguyễn Tấn Dũng mang lại không khí bi quan trong các chương cuối. Sau hứa hẹn của cuối thập niên 1980, cải cách tại Việt Nam đã kẹt trong sa lầy của chính trị độc đoán trong nhà nước độc đảng.
Kiến thức từ bên trong ít người sánh bằng của Huy Đức về chính trị cấp cao cho phép ông mô tả các cuộc phiêu lưu cải tổ thời hậu chiến. Cuốn sách nổi trội nhờ chi tiết và sự sâu sắc hơn mọi ghi chép đã có.
Thật đáng tiếc các nhà xuất bản ngoại quốc lại thấy sách quá dài, quá chi tiết nên không muốn cho dịch. Nhưng tôi tin rằng một khi được ra mắt bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp, Bên Thắng Cuộc sẽ thay đổi căn bản cách những nhà quan sát Việt Nam ở Tây phương suy nghĩ về giai đoạn quan trọng này trong lịch sử hiện đại của Việt Nam.
Đây là bài phát biểu trong buổi thảo luận về sách Bên Thắng Cuộc hôm 24/3, tại Hội thảo hàng năm của Hội nghiên cứu châu Á (Association for Asian Studies) ở Washington DC, Mỹ. Đây là hội thảo học thuật lớn nhất về châu Á ở Bắc Mỹ, với hơn 400 nhóm thảo luận các chủ đề, hơn 3.000 người dự.

VINH, Việt Nam (NV) – Lại có thêm một cô giáo bị phụ huynh học sinh không những bắt quỳ mà còn đánh tàn nhẫn trước mặt nhiều người vì bị nghi ngờ làm bầm chân học trò.
Đây là chuyện xảy ra tại một trường mầm non Việt – Lào thuộc phường Trung Đô, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Theo tờ Pháp Luật Thành Phố, hiện cô giáo PTH, 25 tuổi, đang được điều trị và theo dõi sức khỏe tại Trung Tâm Chăm Sóc Sức Khỏe Sinh Sản tỉnh Nghệ An vì cô đang mang bầu.
Cô giáo PTH, là một sinh viên thực tập tại trường mẫu giáo kể trên, đang được giám định thương tích để có thể xem xét khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với phụ huynh học trò tên K. là bà Phan Thị Nghĩa, cư dân phường Trung Đô, thành phố Vinh.
Theo các bản tin tường thuật lại vụ việc trên tờ Pháp Luật liên tiếp mấy ngày qua, bà Phan Thị Nghĩa thấy gót chân con mình (5 tuổi) có vết bầm, ngày 22 Tháng Ba, bà đưa con đến trường và “yêu cầu giáo viên làm rõ vết bầm trên chân con” rồi xông tới đánh cô H. Không những vậy, bà Nghĩa còn bắt cô giáo H quỳ xuống xin lỗi con trai 5 tuổi của bà.
Theo tờ Pháp Luật kể lại, bà Nghĩa thừa nhận có đánh cô H và có bắt cô H quỳ nhưng… “quỳ không lâu.” Còn cô H cả quyết: “Tôi không đánh học sinh K. Nếu công an xác minh được việc tôi đánh học sinh thì tôi chịu tội trước pháp luật.”
Tờ báo dẫn lời cô H: “Trước mặt phụ huynh và các cháu học sinh, mẹ của học sinh K bắt em quỳ xuống thì em thấy xấu hổ với mọi người bởi em đang thực tập nghề giáo viên. Em không làm gì mà chị phụ huynh bắt em quỳ như vậy là sai. Em mong muốn cơ quan chức năng làm rõ, đưa lại công bằng cho em.”
Cô H kể lại: “Khoảng 7-8 giờ ngày 22 Tháng Ba, em cho các học sinh trong lớp uống sữa thì có chị phụ huynh bồng con là cháu K vào lớp. Chị phụ huynh hỏi gì cháu K em không nghe rõ nhưng thấy cháu K nhìn em. Sau khi chị ấy thả cháu K xuống lớp thì hỏi em là ‘có phải em đánh con chị thâm ri (thế này) không?’ Em trả lời em không đánh. Chị ấy nói em đánh em đừng có cãi rồi lao vào đánh em, đấm vào bụng, vào lưng em. Mặc dù em có nói em đang mang bầu nhưng chị ấy vẫn không dừng. Lát sau có mấy phụ huynh tới can ngăn nhưng không được. Thế rồi chị ấy nói nếu em quỳ xin lỗi con chị thì chị sẽ tha cho em. Vì đứa con trong bụng, em đã quỳ xuống.”
Nguồn tin thuật lời một bác sĩ ở Trung Tâm Chăm Sóc Sức Khỏe Sinh Sản tỉnh Nghệ An cho biết cô H được đưa đến cấp cứu trong tình trạng đang mang thai tuần thứ 13, đe dọa sảy thai.
Chuyện xảy ra tại thành phố Vinh trong khi dư luận còn đang ngỡ ngàng trước việc một ông phụ huynh đã cùng với một số người, ngày 28 Tháng Hai, 2018 tới trường tiểu học Bình Chánh xã Nhựt Chánh, huyện Bến Lức, Long An, bắt cô giáo tên N quỳ 40 phút để phạt cô về tội đã bắt một số học sinh trong đó có con ông phải quỳ gối trong lớp.
Báo chí tại Việt Nam những ngày gần đây thấy đăng tải nhiều tin tức các vụ giáo chức bị cha mẹ học sinh tới tận trường hành hung.
Theo tờ Đất Việt, ngày 12 Tháng Ba, 2018, bà Vũ Thị Ánh Tuyết lao tới tát vào mặt cô giáo Nhẫm vì trước đó, cô giáo đã không cho bà đón con về sớm. Chuyện xảy ra tại trường mầm non Hoa Hồng, thị trấn Đắk Mil, huyện Đắk Mil, Đắk Nông.
Cũng tại tỉnh Nghệ An, ngày 14 Tháng Ba, 2018, thầy giáo Đặng Minh Thủy “tát cảnh cáo” một học sinh nghịch, đốt giấy ở trong giờ học. Sau đó, “người nhà” của học sinh đã tới trường đánh thầy Thủy gãy sống mũi phải vào bệnh viện cấp cứu. (TN)
Một số trang tin lớn của Việt Nam tối 26/3 tường thuật rằng báo Le Monde đã đăng một bài viết dài của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong thời gian ông đi thăm nước Pháp. Không lâu sau, nhiều người sử dụng mạng xã hội chỉ ra rằng bài viết được in trên trang quảng cáo của tờ báo rất có uy tín của Pháp, với chi phí có thể lên đến hơn 4 tỉ đồng.
Dưới hàng tít “Triển vọng tốt đẹp của quan hệ Việt – Pháp”, bài viết hơn 2.400 từ của người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh là trong suốt 45 năm qua, “Pháp luôn là đối tác hàng đầu của Việt Nam”, và nhận định rằng trong giai đoạn hiện nay hai nước “có nhiều điều kiện thuận lợi để tăng cường quan hệ”.

Theo quan điểm của ông Trọng, việc tăng cường quan hệ hợp tác Việt-Pháp nay trở thành “một yêu cầu khách quan và cần thiết vì lợi ích của cả hai nước”.
Nhà lãnh đạo đảng – người có thực quyền cao nhất trong hệ thống chính trị Việt Nam – kêu gọi hai nước “cần tạo động lực mới làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác chiến lược Việt-Pháp”. Ông nêu ra một loạt các việc cần làm gồm tăng cường sự tin cậy chính trị; mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, quốc phòng, an ninh; thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học-công nghệ, năng lượng, y tế, văn hoá, giáo dục, du lịch, tư pháp, và bảo vệ môi trường, bên cạnh một số lĩnh vực khác.
Vài giờ sau khi bài viết của ông Trọng xuất hiện trên tờ Le Monde xuất bản chiều ngày 26/3 nhưng đề ngày 27/3, trang mạng Diễn Đàn có giấy phép ở Pháp tung ra thông tin cho thấy bài viết đã được in trên trang quảng cáo, nằm giữa trang 10 và 12.
Theo biểu giá của báo, số tiền để đăng một bài dài trên cả một trang như vậy lên đến khoảng 151.000 Euro, tương đương hơn 4 tỉ 200 triệu đồng.
Từ Paris, nhà báo Bùi Tín xác nhận thông tin này với VOA:
“Đúng như thế. Đăng ở trang quảng cáo. Không những là cái điều này nó lạ thường mà còn đáng chê trách. Đây là một việc làm đáng xấu hổ. Báo Le Monde mà trọng thị thì phải đăng trên trang chính chứ, sao lại đăng trên trang quảng cáo? Có thể nói là một việc làm tôi có thể nói là kỳ quặc và ô nhục nữa”.
VOA không thể kết nối liên lạc với quan chức phụ trách truyền thông của Đảng Cộng sản Việt Nam để hỏi ý kiến của họ về vấn đề này.
Ngoài bàn luận về việc đảng chi một số tiền lớn để đăng bài của ông tổng bí thư, người dùng mạng xã hội cũng bình phẩm về thực tế là báo chí Pháp dường như không đưa tin về chuyến thăm của ông Trọng tại nước họ.
Ông Bùi Tín, người cũng thường bình luận về chính trị Việt Nam và thời sự quốc tế, nói về vấn đề này:
“Chuyến đi của ông Trọng ý, suốt 3 ngày hôm nay trên TV Pháp không có một giây phút nào có hình ảnh của ông ấy cả”.
Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng bắt đầu thăm chính thức Cộng hòa Pháp từ ngày 25 đến ngày 27/3. Một thông báo của điện Elysee nói Tổng thống Pháp Emmanuel Macron dự kiến ăn trưa với ông Trọng và sẽ ra một tuyên bố chung với ông vào ngày 27/3.
Trước khi ông Trọng đến Paris, Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) có trụ sở tại Pháp hôm 24/3 kêu gọi chính phủ Pháp lên tiếng với vị tổng bí thư đảng cộng sản về việc Việt Nam trấn áp các nhà báo và blogger độc lập.
KHÁT TÌNH
(Thứ Sáu Tuần Thánh)
BỬU HUYẾT GIÊSU TƯƠI MÀU CỨU ĐỘ
OAN KHIÊN THẾ GIỚI HÓA SẮC TINH TUYỀN
Có nhiều dạng khát – bao gồm cả nghĩa đen và nghĩa bóng, nhưng có lẽ mạnh mẽ và ray rứt nhất là dạng “khát tình”. Thật vậy, chính Chúa Giêsu cũng đã phải thốt lên trong những giây phút cuối cùng: “TÔI KHÁT!” (Ga 19:28) – khát cả thể lý lẫn tinh thần.
Tam Nhật Vượt Qua là“đỉnh cao” của Mùa Chay, còn gọi là Tam Nhật Thánh(Triduum). Trong đó,ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là Ngày Đại Tang, là đỉnh cao của Ơn Cứu Độ, đặc biệt là Giờ Thứ Chín (tức 15 giờ), giờ của Lòng Chúa Thương Xót.
Khoảnh khắc hấp hối là “phút cuối” của một con người, là lúc lắng đọng và xúc động nhất đời người – dù người đó đáng yêu hay đáng ghét. Càng xúc động hơn khi thấy người hấp hối chịu đau nhức quằn quại từng cơn, có những người toát mồ hôi hột nhưng âm thầm chịu đựng, có những người phải la hét dữ dội.Phút cuối là khoảnh khắc ngắn ngủi, chỉ trong tích tắc, nhưng lại nặng nề trôi… Và phút cuối là lúc người ta bịn rịn nhất, cũng là lúc nói thật nhất của một con người.
Đối với Chúa Giêsu, Ngài có 2 bản tính: Thần tính và nhân tính. Và theo nhân tính, Ngài nên giống chúng ta mọi sự – trừ tội lỗi. Tất nhiên Ngài cũng rất đau đớn và rời rã vì kiệt sức do đòn roi, phải tự vác Thập giá lên đồi, té lên té xuống nhiều lần, chịu đói khát, bị những gai nhọn đâm thấu đầu, bị đinh ghim chặt chân tay và lưỡi đòng đâm thâu tim. Rất đau đớn, không thể tưởng tượng nổi, đến nỗi thân xác Ngài chảy ra đến giọt Máu và giọt Nước cuối cùng. Thật thê thảm!
CHIÊN CON HIỀN LÀNH
Chiên con là “cừu nhỏ” –chỉ 1 năm trở xuống, còn cừu là “chiên lớn” (hơn 1 năm trở lên). Chiên con không chỉ nhỏ bé, ngây thơ, mà còn hiền lành. Khi nói về Chiên Thiên Chúa,Đức Chúa đã mô tả: “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng. Cũng như bao kẻ đã sửng sốt khi thấy tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa” (Is 52:13-14 – Bài ca thứ tư về Người Tôi Trung). Mặc dù vậy, mọi người vẫn phải sửng sốt khi thế cờ đảo ngược hoàn toàn.Chính Người-Tôi-Trung đó làm cho “muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng” (Is 52:15).Người-Tôi-Trung đó là Đức Kitô, cũng chính là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ,“như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng mở miệng kêu ca” (Is 53:6; Cv 8:32).
Ngày nay, chúng ta đã được biết về “hành trình đau khổ” của Chúa Giêsu, nhưng có lẽ khó mà cảm nhận hết mức đau khổ trong cuộc khổ nạn tang thương của Ngài, thậm chí có thể nghe nhiều năm đã quen tai nên cảm thấy… bình thường, và cũng cho đó là “chuyện nhỏ”.Có thể có người đặt vấn đề: “Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin được?”(Is 53:1). Đúng là khó tin thật, thế nhưng đó lại là sự thật minh nhiên, không thể chối cãi!
Từ ngàn xưa, ngôn sứ Isaia mô tả: “Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn. Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53:2-3). Tuy nhiên, “chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta lại tưởng Ngài bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề” (Is 53:4). Thật là nghịch lý quá, có lẽ vì chúng ta ảo tưởng quá chăng?
Ngôn sứ Isaia đưa ra bảng đối chiếu và liệt kê rõ ràng: “Chính Ngài đã bị đâm VÌ chúng ta phạm tội, Ngài bị nghiền nát VÌ chúng ta lỗi lầm,Ngài đã chịu sửa trị ĐỂ chúng ta được bình an, Ngài đã phải mang thương tích ĐỂ chúng ta được chữa lành” (Is 53:5). Bốn “cặp đối” rất tuyệt vời, chứng tỏ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chắc chắn trí óc loài người chúng ta không thể tưởng tượng nổi có một Con Người lạ lùng như vậy. Nếu cuộc đời có ai gần giống như vậy thì ắt chúng ta cho là “dại dột”, là “ngu xuẩn”, là “điên khùng”, là “mất trí”, là “tâm thần”.Thiên Chúa thấy “tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả”,nhưng Đức Chúa đã đổ tội lỗi của tất cả chúng ta lên đầu Người-Tôi-Trung kia. Người Ấy bị lũ-người-ghen-tị “ngược đãimà vẫn cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người Ấy chẳng hề mở miệng” (Is 53:6). Người Ấy còn“bị ức hiếp, bị buộc tội, rồi bị thủ tiêu” (Is 53:8a). Thậm chí“Người Ấy còn bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh”, và“vì tội lỗi của dân, Người Ấy bị đánh phạt” (Is 53:8b). Người Ấy bị hàm oan chỉ vì chúng ta quá khốn nạn!
Và cuối cùng, Người Ấy đã “bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa” (Is 53:9). Nhưng đó là Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, để nhờ Người Ấy màÝ Chúa được nên trọn. Thiên Chúa xác định: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11). Đức Giêsu đã “hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53:12). Trong “núi tội” đó có nhiều tội của mỗi chúng ta!
Qua miệng lưỡi của Thánh Vịnh gia, Người Ấy đã nói lời cuối của Con Người hấp hối: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín”(Tv 31:2 & 6). Người Ấy tâm sự với Chúa về cuộc đời mình: “Con đã nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa. Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ, con hoá thành đồ hư vất bỏ” (Tv 31:12-13). Là con người thì ai cũng cảm thấy cô đơn tột cùng khi ai cũng khinh ghét và bỏ rơi mình nên nói vậy thôi, nhưng vẫn tin tưởng vào Chúa, cho nên mới dám thân thưa: “Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở trong tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con” (Tv 31:15-16).
Dù cho thế nào thì Người Ấy vẫn chấp nhận mọi thiệt thòi, vui chịu chứ không cam chịu, và thành tâm cầu khấn: “Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ” (Tv 31:17), đồng thời mạnh dạn chia sẻ với những người khác như một lời khuyên: “Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 31:25). Người Ấy đã nêu gương sáng cho chúng ta, vì chúng ta cũng phải nên giống Người Ấy: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15:18).
Lời minh định của Thánh Phaolô rất rạch ròi:“Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa”(Dt 4:14). Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin, và giải thích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, chúng ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Trong tất cả các ân sủng, Lòng Chúa Thương Xót là hồng ân cao cả và kỳ lạ vô cùng! Chính Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đau khổ tột cùng nên Ngài rất thương xót chúng ta, những con người còn phải đối mặt với đủ loại “khổ não trần ai” của kiếp này.
Lúc còn sinh thời của kiếp phàm nhân, Đức Giêsu cũng đã từng lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời vì có lòng tôn kính. Vâng phục không là điều dễ, vì phàm nhân chúng ta đầy tự ái và kiêu sa, ngay cả Con Thiên Chúa cũng đã “phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:7). Thật không hề đơn giản chút nào khi phải miệt mài chịu đau khổ như vậy!
Tuy nhiên, chính lúc đó lại là lúc bản thân đạt tới mức thập toàn để rồi“Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9). Trước khi vinh quang và được coi là công trạng thì luôn phải trải qua chặng đường gian khổ. Đức Kitô cũng đã trải qua “chặng đàng Thánh Giá” và cái chết mới tới sự phục sinh vinh quang. Chúng ta không thể không “nhâm nhi chén đắng” để trải nghiệm đau khổ. Không có hạnh phúc nào không có đau khổ, thiếu vắng hy sinh. Chắc chắn không thể cứ tà tà mà được tận hưởng.
Thánh Gregorio Khandzta (759-861, người thành lập nhiều cộng đoàn tu trì tại Tao-Klarjeti, thuộc Tây Nam Georgia) đã tha thiết cầu nguyện:“Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã BỊ CÁM DỖ và CHỊU ĐAU KHỔ. Ngài là Đấng quyền năng đã đến để CỨU GIÚP những người đang bị xiềng xích bởi ma qủy, vì Ngài luôn nâng đỡ những kẻ đi theo Ngài. Lạy Chúa, xin GÌN GIỮ những kẻ tin vào Danh Thánh Ngài trong cánh tay Ngài. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, mà ban niềm hoan lạc bất diệt”.
CHIÊN CON BỊ GIẾT
Trình thuật Phúc Âm hôm nay là tấn bi kịch, là bộ phim dài sầu thảm, Giáo Hội gọi là Bài Thương Khó, thuật lại đầy đủ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Bi kịch thảm thiết như vậy mà lại gọi là Phúc Âm, là Tin Mừng, quả thật là điều kỳ diệu!
Chúng ta thường nói: “Dòi trong xương dòi ra”. Một trong 12 môn đệ “ruột” là Giuđa đã dùng nụ hôn để “chỉ điểm” mà bán rẻ Thầy mình với giá quá bèo. Người ta lục soát, tìm cách gài bẫy và đi bắt Chúa Giêsu như một tên côn đồ. Họ ghen tị và sợ Ngài tiếm ngôi, giành quyền lực, lấy mất “ghế”, thế nên họ làm mọi cách để hạ nhục Ngài đủ kiểu. Hàng ngày Ngài thường tụ họp với các môn đệ công khai mà họ không bắt, thế mà họ lại cấu kết với đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu để đi tìm bắt Ngài trong đêm tối, dùng vũ khí để đối với một người tay không và thân cô thế cô – vì các môn đệ bỏ trốn hết. Thật là tồi và hèn hạ!
Ngài hỏi: “Các anh tìm ai?”,thì họ đáp: “Tìm Giêsu Nadarét”. Ngài vừa nói“chính tôi đây”, thì họ lùi lại và ngã xuống đất. Ngoạn mục thật! Có lẽ lúc này Giuđa đắc chí nhất, vì có thể ông cũng rất tin rằng Thầy mình “ngon” lắm, quyền phép đầy mình, chúng chẳng làm gì được, mà ông lại có tiền tiêu xài. Thế nhưng Ngài không dùng thần quyền của Ngài vào chuyện không cần thiết. Đó là “cách lạ” của Ngài!
Ngài lại hỏi họ muốn tìm ai. Họ vẫn cương quyết là tìm Giêsu Nadarét, họ không hề thấy tởn chút nào. Lì thật! Đức Giêsu thản nhiên xác nhận: “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi” (Ga 18:8). Ngài không muốn bất kỳ ai phải liên lụy vì Ngài. Nhưng điều đó ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai” (Ga 18:9).Tính nóng hơn Trương Phi, ông Simôn Phêrô bèn tuốt gươm ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế mà “chơi” một phát đứt tai phải của Man-khô. Một đường gươm tuyệt hảo y như xiếc! Thấy vậy, Đức Giêsu bảo ông Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18:11).Nghe vậy chưa chắc ai hiểu ý Ngài nói.
Cơn tức giận dâng cao, nỗi hận thù đầy ắp, họliền bắt trói Ngài lại, rồi điệu Ngài đến ông Kha-nan – nhạc phụ ông Cai-pha. Năm đó ông Cai-pha làm thượng tế. Chính ông này đã nói với người Do Thái một đề nghị tồi tệ:“Nên để một người chết thay cho dân thì hơn” (Ga 18:14).Nghe chừng nhân đạo nhưng lại vô cùng thâm độc.Lúc đó có ông Simôn Phêrô và người môn đệ khác (tức Gioan) đi theo Đức Giêsu. Gioan quen biết vị thượng tế nên được vào sân trong của tư dinh của thượng tế. Còn ông Phêrô phải đứng ở phía ngoài, gần cổng. Gioan ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. Gioan cũng “oai” thật, quen biết có khác!
Thế nhưng vấn đề là người tớ gái giữ cổng nhận ra ông Phêrô “thuộc nhóm của Chúa Giêsu” nên ông chối ngay: “Không phải đâu!”. Và ông chối phắt bất kỳ ai nhận ra ông, tổng cộng 3 lần trước khi gà gáy.Với bản tính nhân loại nên ông rất sợ, sợ đến nỗi phát run ngay cả với mấy phụ nữ chân yếu tay mềm. Thật tội nghiệp! Ông Phêrô nóng tính, thẳng như ruột ngựa, nhưng cũng rất yếu đuối. Đó là “biểu tượng” của chúng ta ngày nay. Buồn thế đấy!
Tuy Chúa Giêsu bị bắt, bị trói, bị đánh đập, bị tra xét, bị hành hạ,… nhưng Ngài vẫn thản nhiên và không nói chi cả, không tự biện minh cho mình là đúng, cũng chẳng một lời kêu oan hoặc oán trách. Chiên Con hiền lành lắm!
Mãi tới lúc bị tra hỏi về các môn đệ và giáo huấn – nghĩa là liên quan người khác,Ngàimới trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do Thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì” (Ga 18:19-21). Ngài vừa dứt lời thì một tên trong nhóm thuộc hạ vả vào mặt Ngài: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?”(Ga 18:22). Hỗn láo và ngang ngược thật! Ngày nay người ta cũng hống hách kiểu như vậy khi đối xử với đồng loại. Mặc dù bị xử tệ, Ngài vẫn thản nhiên lý luận: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”(Ga 18:23). Cách đối đáp và lý luận của Chúa Giêsu tuyệt vời quá. Và tất nhiên họ phải câm họng thôi!
Sau đó, ông Kha-nan cho giải Ngài đến thượng tế Cai-pha, Ngài vẫn bị trói. Lúc đó trời vừa sáng. Họ không vào dinh vì sợ bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Họ chỉ lo giữ bề ngoài mà không chú trọng bề trong. Đó là một dạng động thái giả hình. Tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi xem họ tố cáo Chúa Giêsu về tội gì, nhưng họ đáp: “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan”(Ga 18:30). Họ cố chấp và cố tình không thèm nhận những hành động tốt của Chúa Giêsu. Trước áp lực của dân, ông Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Đức Giêsu không trả lời đúng hay sai, mà bình thản nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36). Ui da, thế mà lão Philatô vẫn không hiểu ất giáp chi cả, mà còn hỏi:“Vậy ông là vua sao?”. Đức Giêsu ôn tồn: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích là làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Ông Philatô tỏ ra ngớ ngẩn nên hỏi: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38). Đúng là “dốt đặc cán mai” mà!
Vào dịp lễ Vượt Qua và theo tục lệ Do Thái, người ta thường ân xá cho một tội nhân. Ông Philatô hỏi họ muốn tha Chúa Giêsu hay không, họ liền la to:“Đừng tha nó, nhưng xin tha Baraba!” (Ga 18:40).Baraba là một tên cướp khét tiếng, vậy mà họ còn thương và quý hơn là Chúa Giêsu – dù chính Philatô hai lần xác định là Chúa Giêsu “không có tội gì” (Lc 23:4 và 22).
Và rồi Philatô truyền đem Ngài đi mà đánh đòn. Họ chụp lên đầu Ngài một vòng gai và khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi mỉa mai: “Kính chào Vua dân Do Thái!”, và vả vào mặt Ngài.Như vậy, nhân vị của Ngài bị khinh miệt, nhân phẩm của Ngài bị chà đạp, và nhân quyền của Ngài cũng bị tước đoạt. Ông Philatô dẫn Chúa Giêsu ra ngoài để đám đông thấy Ngài không còn hình tượng một con người mà thương. Nhưng vừa thấy Ngài, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Ga 19:6). Một lần nữa, ông Philatô lại khiếp nhược nên bảo họ: “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy” (Ga 19:6).Một người nắm quyền trong tay và biết rõ bị cáo không có tội mà vẫn không dám tha, thì quả là bất tài, vô dụng, ích kỷ, chỉ lo giữ “cái ghế” của mình, chỉ muốn lợi cho mình mà chà đạp người khác.Đó là một dạng bóc lột, không tôn trọng công lý. Vậy người đó có đáng được tôn trọng? Người nắm quyền lực mà không đề cao nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, không lấy dân làm gốc, làm sao quốc thái dân an?
Dù ai nói gì thì nói, Chúa Giêsu vẫn im lặng. Ngài biết rằng có nói cũng vô ích, chỉ như nước đổ lá môn, không bằng nói với đầu gối. Sau khi tòa tuyên án, bị cáo nào cũng có quyền kháng cáo, nhưng “bị cáo” Giêsu lại không có quyền tối thiểu đó. Bất nhân quá! Nhân quyền của Ngài hoàn toàn bị tước đoạt.Nhưng Ngài nói thẳng với ông Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (Ga 19:11). Nghe vậy, ông Philatô cũng thấy “nổi gai óc” nên tìm cách tha Ngài, nhưng ông vẫn không dám quyết định theo quyền hạn của mình vì áp lực dân chúng. Cách xử sự hèn nhát của Philatô cũng chính là động thái hèn hạ của chúng ta ngày nay đối với tha nhân.
Cuối cùng, ông Philatô đành cho thi hành án tử đối với Chúa Giêsu. Họ bắt Ngài tự vác Thập giá lên đồi Gôn-gô-tha, nghĩa là Cái Sọ – cũng gọi là Đồi Sọ, Can-vê, nơi xử tử các tội nhân. Đồng án tử với Ngài có hai người khác nữa, hai người hai bên Chúa Giêsu. Tấm bảng ghi “Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái” treo phía trên đầu Ngài, được viết bằng 3 ngôn ngữ: Hípri, La Tinh và Hy Lạp. Các thượng tế không đồng ý gọi Chúa Giêsu là “Vua dân Do Thái”, nhưng ông Philatô nói: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22). Tấm bảng đó nhằm mỉa mai nhưng chính nó lại là lời xác nhận công khai rằng “Chúa Giêsu là Vua dân Do Thái”. Lão Philatô chỉ lăm le với người dưới quyền chứ không dám “nói mạnh” với đám đông nổi loạn, dù họ chỉ là đám dân đen. Hèn!
Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, họ chia chác quần áo của Ngài. Họ muốn chế nhạo Ngài chứ có gì đáng giá đâu! Lúc đó, Chúa Giêsu bắt đầu kiệt sức. Ngài trối Đức Mẹ cho Gioan và trao Gioan cho Đức Mẹ.Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Mất máu nhiều nên Ngài nói: “Tôi khát!”(Ga 19:28).Nhưng người ta lại nỡ lấy miếng bọt biển thấm giấm chua mà cho Ngài giải khát. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Tetelestai! Mọi sự đã hoàn tất!” (Ga 19:30). Rồi Ngài gục đầu xuống và dâng trao Thần Khí. Tang thương bao trùm, đất trời rung động!
Sự kiện bi thương hôm nay là “nghi lễ của mọi nghi lễ”, là “hiến lễ của mọi hiến lễ”, là “thánh lễ của mọi thánh lễ”. Vì thế Giáo Hội không cử hành thánh lễ hôm nay mà chỉ có phụng vụ Lời Chúa, tôn kính Thánh giá và rước lễ.
Thiên Tình Giêsu là “tình cho không biếu không”,nhưng chúng ta thường có khuynh hướng “tội nghiệp” Chúa Giêsu hơn là tội nghiệp chính mình. Thật vậy, khi Chúa Giêsu thấy có nhiều phụ nữ, vừa đấm ngực vừa than khóc, trong đám đông đi xem Ngài lên đồi chịu xử tử,chính Ngài đã quay lại và nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28). Chính chúng ta mới là những kẻ đáng phải khóc thương!
Và có một điểm khác mà chúng ta cần lưu ý là “tính a dua”, như người ta thường nói: “Người ta làm sao thì tôi làm vậy, người ta làm bậy thì tôi… làm theo”.Kiểu này rất nguy hiểm, vì đó là lối sống quá tiêu cực, không có lập trường, mạnh đâu âu đó. Cần chấn chỉnh và cần can đảm là chính mình, đặc biệt là phải biết khát và nhận ra cơn khát của người khác để cố gắng giúp họ thỏa cơn khát!
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chính con là kẻ khốn nạn mà vẫn tưởng mình tốt lành hơn người khác, con đã hèn nhát khi a dua và đồng lõa với cái ác mà cứ tưởng mình chân chính hơn người khác. Hôm nay, con chân thành nhận lỗi, xin lỗi Ngài và xin lỗi mọi người. Xin Ngài thương xót con mà đại lượng ban cho con được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ của Con Yêu Dấu của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Mạng Lưới Cầu Ngyện
From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ & Mai gởi
THÂM TÌNH
(Thứ Năm Tuần Thánh)
THÁNH THỂ THẦN LƯƠNG TRAO BAN NGUỒN SỐNG
NHÂN GIAN TỘI LỖI ĐÓN NHẬN PHÚC VINH
Thánh Phanxicô Assisi nói: “Cần đốt lên LỬA YÊU THƯƠNG, bởi vì có yêu thương thì tự nhiên sẽ đối đãi tốt với mọi người, luôn nói những lời yêu thương, và tâm hồn sẽ tự nhiên thu hoạch được rất nhiều kết quả”. Còn “Đoá Hồng Nhỏ” Teresa Lisieux, một chuyên gia tình yêu, cho biết: “Mặc dù tôi chỉ là người nhỏ nhất không chuyên làm những việc khác, nhưng chuyên làm việc yêu mến Thiên Chúa và hy sinh bản thân mình”.
Không thể tưởng tượng nổi nếu thế gian này vắng bóng tình yêu thương. Ai cũng muốnn yêu và được yêu, dù biết rằng “yêu là chết trong lòng một ít”. Yêu là khổ, không yêu thì lỗ, thôi thì thà chịu khổ hơn chịu lỗ. Rất lô-gích. Và người ta có cách gọi đó là “thú đau thương”. Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Sau những ngày tháng hoang đàng, Thánh Giám mục Tiến sĩ Augustinô đã hối tiếc và thốt lên:“Con yêu Chúa quá muộn màng”, và rồi ngài cho biết: “Mức độ yêu Chúa là yêu vô hạn”. Một mức độ kỳ lạ: mức-độ-không-giới-hạn. Thật thú vị!
Từ cổ chí kim, chắc hẳn chưa có một định nghĩa nào về tình yêu được coi là trọn vẹn nhất và có thể khiến người ta thỏa mãn. Chữ Yêu rất đơn giản mà cũng rất nhiêu khê. Chỉ có một tình yêu đích thực nhưng được nhìn với nhiều lăng kính, mỗi người yêu mỗi cách và mức độ cũng rất khác nhau.Nói chung, yêu là CHO nhiều hơn NHẬN, yêu đến quên mình, đó mới là Tình Yêu chân chính. Việt Nam có chuyện tình Đồi Thông Hai Mộ và chuyện tình Lan và Điệp, còn Tây phương có chuyện tình Romeo và Juliet. Những chuyện tình thật lãng mạn và đẹp, mà cũng đầy chất bi thương, thế nhưng vẫn có sự vị kỷ trong tình yêu đó!
DẤU CHỈ
Dù tốt hay xấu, sự gì cũng đều có dấu chỉ – dấu hiệu, triệu chứng, điềm báo,… Bề ngoài khả dĩ thể hiện bề trong, và bề trong khả dĩ biểu lộ ra bề ngoài. Lửa và khói có loan lẫn nhau.
Trình thuật sách Xuất hành (Xh 12:1-8,11-14) cho biết chi tiết về cách mừng lễ: Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon trên đất Ai Cập:“Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. Hãy nói với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên. Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng”.
Luật cũ chú trọng cách sống tự nhiên của con người, và cách hành lễ cũng cụ thể hơn ngày nay, nhưng đó là cách thể hiện đức vâng lời – vâng lời Thiên Chúa nghĩa là yêu mến Ngài, giữ luật Ngài.
Cái gì cũng có nguyên tắc, và cách ăn cũng có luật riêng: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Cách ăn “lạ” nhất là“phải ăn vội vã”, vì đó là lễ Vượt Qua mừng Đức Chúa. Ngay đêm ấy Thiên Chúa rảo khắp đất Ai Cập, sát hại các con đầu lòng trong đất Ai Cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai Cập. Nghe vậy chúng ta cảm thấy Chúa “dữ tợn” quá. Nhưng không phải vậy, vì luật cũ là luật tự nhiên, những gì là “đầu tiên” thì phải được dành ưu tiên cho Thiên Chúa, gọi là “của lễ đầu mùa” – kể cả con đầu lòng. Ngày nay, một số dân tộc cũng vẫn có cách mừng thu hoạch mùa màng như lễ mừng lúa mới, lễ mừng thu hoạch, lễ mừng cơm mới,…
Dịp lễ Vượt Qua, chính “vết máu bôi trên nhà” là dấu chỉ về việc “giữ luật”,là dấu chỉ của tình yêu thương, và những người trong nhà đó sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Thiên Chúa giáng họa trên đất Ai Cập.Ngày hôm đó được chọn làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Và Ngài xác nhận rằng “đó là luật quy định cho đến muôn đời”. Luật đó là hồng ân Chúa ban. Ngài ban đủ thứ ân sủng để con người đủ sức “vượt qua” biển đời. Thiên Chúa YÊU THƯƠNG nhiều vàTRAO BAN nhiều, còn chúng ta ĐÓN NHẬN quá nhiều, thế nên cảm thấy ngại. Nhưng chính lúc biết ngại như vậy là tỏ lòng biết ơn, và tự đặt vấn đề:
Lấy chi đền đáp Chúa đây
Vì baoân huệ chính Ngài đã ban?
(Tv 116:12)
Mặc dù chúng ta thật lòng muốn đền ơn đáp nghĩa đối với Thiên Chúa nhưng lại chẳng có gì để tiến dâng, nếu có thì cũng chỉ là những thứ bất xứng mà thôi. Thân tro phận bụi quá đỗi mọn hèn,nhưng vì tin yêu mà cả dám thân thưa:
Con nâng chén hồng ân cứu độ
Mà xưng tụng danh Chúa mãi thôi
(Tv 116:13)
Trong thời quân chủ, thần dân không được phép ngước nhìn Long Nhan, ai nhìn sẽ bị tội “khi quân” và phải chết. Thần dân muốn tâu trình điều gì đều phải quay hướng khác và không được tâu trực tiếp,chỉ được tâu với cái “bệ rồng” Vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ”. Thế nhưng, đối với Thiên Chúa là Vua các vua và Chúa các chúa, thân sâu bọ chúng ta lại được diện kiến Tôn Nhan thì quả là vô cùng diễm phúc: “Trước Thánh Nhan thật là quý giá, cái chết của những ai hiếu nghĩa với Ngài” (Tv 116:15). Chúng ta chỉ là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, mà lại được diễm phúc như thế thì phải hết lòng ghi nhớ thâm ân:“Con sẽ dâng hiến lễ tạ ơn mà xưng tụng danh Chúa” (Tv 116:17),đồng thời phải luôn tự thề hứa: “Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn, trước toàn thể Dân Ngài” (Tv 116:18).
Chúng ta có làm vậy thì cũng là điều tất yếu mà thôi! Nhưng không thể yêu suông bằng lời nói, mà phải yêu bằng hành động cụ thể. Nói chưa đủ tin, làm mới thuyết phục.
CHỨNG TỎ
Hành động là thể hiện bằng việc làm, chia sẻ bằng cách nào đó. Thật vậy, Thánh Phaolô cho biết: “Điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em” (1 Cr 11:23).Rồi ngài kể lại việc Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”, và cuối bữa thì Chúa Giêsu nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”(1 Cr 11:24-25).
Thánh Phaolô giải thích: “Từ nay cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11:26), do đó mà chúng ta hằng ngày tuyên tín trong mỗi Thánh lễ: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”, hoặc “Lạy Chúa, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, chúng con loan truyền Chúa chịu chết cho tới khi Chúa đến”.
Không lâu trước dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết “giờ của Ngài” đã đến, giờ mà Ngài phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Với nhân tính, Ngài cũng cảm thấy lưu luyến người thân, những người mà Ngài yêu thương đến giọt Nước và giọt Máu cuối cùng.
Là Thiên Chúa, Ngài biết rõ Giuđa nghĩ gì, tính toán ra sao, và sắp làm gì. Nhưng Thánh Ý Chúa Cha nhiệm mầu.Chúa Giêsu bởi Thiên Chúa mà đến, và Ngài sắp trở về cùng Thiên Chúa.Do đó, trong một bữa ăn tối, bữa mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ, Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Ngài đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Chắc hẳn môn đệ nào cũng ngạc nhiên vô cùng khi thấy Sư Phụ có cách hành động “kỳ lạ nhất thế gian”.
Vì thế, khi Ngài đến chỗ Simôn Phêrô, ông liền thưa: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13:6).Theo lẽ thường, không hề có bề trên nào dám làm chuyện “ngược đời” và “động trời” như vậy. Nghe Phêrô nói, Đức Giêsu trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13:7).Ông Phêrô chưa thể hiểu nên lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” (Ga 13:8a). Đức Giêsu đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13:8b).Nghe Thầy nói “không được chung phần” thì ông Phêrô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa” (Ga 13:9).Nhưng Đức Giêsu bảo ông: “Ai đã tắm rồi thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!”(Ga 13:10). Ông Phêrô cụt hứng, như bị tạt ca nước lạnh. Rõ ràng Ý Chúa hoàn toàn khác ý loài người.Ngài rất thâm ý nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch”.
Sau khi rửa chân cho các môn đệ xong, Ngài mặc áo vào, về chỗ và thổ lộ tâm sự: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không?” (Ga 13:11). Hỏi vậy thôi, chứ Ngài biết tỏng là chẳng ai hiểu gì ráo trọi, bởi vì đệ tử nào cũng “mắt chữ O và miệng chữ A”, y như trời trồng hết thảy. Thế nên Ngài nói luôn:“Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13:13-15).
Thật vậy, Thầy mà còn rửa chân cho đệ tử thì chắc chắn đệ tử không thể không rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho đệ tử, để đệ tử cũng làm như Thầy đã làm cho đệ tử.Đó là Luật Yêu của Chúa. Luật nhẹ nhàng thế mà lại không dễ thực hiện, lời giản dị mà lại thâm thúy lắm. Và đó cũng là điều mỗi chúng ta phải suy nghĩ, bởi vì chính Chúa Tể muôn loài đã làm gương cho mọi người soi chung.
Xét theo Việt ngữ, chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y có hình “ngã ba”, nghĩa là có 3 hướng: Hướng lên Thiên Chúa, hướng tới tha nhân, và hướng về chính mình. Yêu Chúa hết linh hồn và hết trí khôn, yêu người như chính mình, còn yêu mình ít thôi – không được yêu mình thái quá, vì sẽ biến thành“tự ái”(tự yêu mình thái quá)mà hóa thành vị kỷ (ích kỷ). Yêu có những hệ lụy quan yếu. Yêu là điều luôn có mối liên kết quan trọng: Cần Thiết ⇾Thiết Tha ⇾Tha Thứ. Đó là chu-trình-yêu-thương kỳ diệu vô cùng!
Và rồi phát sinh một hệ lụy khác: YÊU thì phải KÍNH (yêu kính), KÍNH thì phải NỂ (kính nể), NỂ thì phải TRỌNG (nể trọng), TRỌNG thì phải VỌNG (trọng vọng – vọng là mong), MONG thì thấy NHỚ (mong nhớ), NHỚ nghĩa là THƯƠNG (nhớ thương), tức là YÊU rồi đấy. Đó là vòng-tròn-tình-yêu bắt đầu và kết thúc bằng động từ YÊU. Chúa nhớ chúng ta và chúng ta cũng phải nhớ Chúa, mà NHỚ Ngài thì PHẢI THỰC THI Thánh Ý Ngài. Hoàn toàn hợp lý!
Tương tự, khi nói về gia đình, chúng ta áp dụng từ ngữ “hiếu đễ”. HIẾU thì phải ĐỄ (nhường), NHƯỜNG thì phải NHỊN. Nhờ đó mà gia đình luôn “trong ấm, ngoài êm”, tạo nên “tổ ấm” đích thực, đó làhạnh phúc gia đình.Đối với các mối quan hệ xã hội hoặc cộng đoàn cũng vậy. Nói chung, tất cả tóm gọn trong một chữ YÊU.Biết thương yêu cũng chính là biết thương xót theo ý muốn của Thầy Chí Thánh Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin thánh hóa và biến đổi trái tim chúng con nên giống Thánh Tâm Ngài, để càng ngày trái tim của chúng con càng chứa nhiều “máu yêu” hơn, nhờ đó chúng con biết thể hiện cách yêu Ngài qua việc yêu tha nhân, đồng thời cũng can đảm sống và hành động “ngược đời” như Ngài, hôm nay và mãi mãi. Xin làm cho chúng con xứng đáng và vui mừng đón nhận Nguồn Sống từ Thánh Thể Ngài, và xin Thánh Thể tăng lực cho những người đau khổ phần hồn và phần xác. Chúng con tin kính Ngài là Đấng hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Mạng Lưới Cầu Ngyện
From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ & Mai gởi
ĐTC Phanxicô
SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2018
”Vì sự ác lan tràn, tình yêu của nhiều người trở nên nguội lạnh” (Mt 24,12).
Anh chị em thân mến,
Một lần nữa chúng ta tiến về Lễ Phục Sinh của Chúa! Để chuẩn bị cho lễ này, Chúa Quan Phòng ban cho chúng ta Mùa Chay hàng năm, ”dấu chỉ bí tích sự hoán cải của chúng ta” (1), loan báo và thực hiện khả năng trở về cùng Chúa với trọn tâm hồn và cuộc sống.
Năm nay cũng vậy, qua sứ điệp đây, tôi muốn giúp toàn thể Giáo Hội sống thời điểm ân phúc này trong vui mừng và chân lý; và tôi thực hiện điều này bằng cách để cho mình được gợi ý từ câu nói của Chúa Giêsu trong Tin Mừng theo thánh Mathêu: ”Vì sự ác lan tràn, tình yêu của nhiều người bị nguội lạnh” (24,12).
Câu này ở trong đoạn Chúa nói về thời tận thế và ở trong bối cảnh thành Jerusalem, trên Núi Cây Dầu, chính tại nơi khởi đầu cuộc thương khó của Chúa. Khi trả lời một câu hỏi của các môn đệ, Chúa Giêsu loan báo sầu muộn lớn và mô tả tình trạng trong đó cộng đồng tín hữu có thể lâm vào: đứng trước những biến cố đau thương, một số tiên tri giả sẽ lường gạt nhiều người, đến độ đe dọa làm cho tâm hồn họ bị tắt lịm lòng mến là trung tâm của toàn thể Tin Mừng.
Những tiên tri giả
Khi nghe đoạn Tin Mừng này và chúng ta tự hỏi: những tiên tri giả có những hình dạng thế nào?
Chúng giống như những người ”làm mê hoặc rắn”, nghĩa là chúng lợi dụng cảm xúc của con người để biến họ thành nô lệ, đưa họ tới những nơi chúng muốn. Bao nhiêu con cái của Thiên Chúa đã bị dụ dỗ bằng những dua nịnh của lạc thú trong chốc lát, mà họ tưởng là hạnh phúc! Bao nhiêu người nam nữ sống như bị mê hoặc vì ảo tưởng tiền bạc, khiến họ trở thành nô lệ cho tiền của hoặc những mối lợi nhỏ nhen! Bao nhiêu người sống mà chỉ nghĩ đến mình và rơi vào tình trạng cô độc!
Có những tiên tri giả khác giống như các ”lang băm”, cống hiến những giải pháp đơn giản và tức thời cho những đau khổ, nhưng thực ra những liều thuốc này hoàn toàn vô hiệu: bao nhiêu người trẻ tìm phương dược giả dối trong ma túy, trong những quan hệ ”dùng rồi bỏ”, kiếm tiền dễ dàng một cách bất chính!. Bao nhiêu người khác nữa bị vướng vào một cuộc sống hoàn toàn là ảo, trong đó những tương quan có vẻ đơn gian và mau lẹ hơn, nhưng rồi chúng vô nghĩa một cách bi thảm! Những kẻ lường gạt ấy cống hiến những điều vô giá trị, nhưng chúng lại tước mất điều quí giá nhất như phẩm giá, tự do và khả năng yêu thương. Đó là một sự lường gạt về sự háo danh, biến chúng ta giống như con công.. để rồi trở thành lố bịch; và từ sự lố bịch ta không thể thối lui được. Không lạ gì: ma quỉ, vốn là ”kẻ dối trá và là cha kẻ dối trá” (Ga 8,44), trình bày sự ác như là điều thiện và trình bày điều giả như điều thật, để làm cho tâm hồn con người bị lẫn lộn. Vì thế, mỗi người chúng ta được kêu gọi phân định trong tâm hồn và cứu xét xem mình có bị đe dọa vì những điều giả dối của các tiên tri giả ấy hay không. Cần học cách không dừng lại ở mức độ gần kề, hời hợt, nhưng nhận ra điều để lại trong chúng ta dấu vết tốt lành và lâu bền hơn, vì nó đến từ Thiên Chúa và thực sự có giá trị mưu ích cho chúng ta.
Một con tim nguội lạnh
Thi hào Dante Alighieri, khi mô tả về hỏa ngục, đã trình bày quỉ ngồi trên ngai băng giá (2); hắn ở trong giá lạnh của tình yêu bị bóp nghẹt. Vì thế chúng ta tự hỏi: lòng yêu mên trong chúng ta trở nên lạnh lẽo thế nào? Đâu là những dấu hiệu cho chúng ta thấy tình yêu có nguy cơ bị tắt lịm trong chúng ta.
Điều dập tắt tình bác ái trước tiên là sự ham hố tiền bạc, ”là căn cội của mọi sự ác” (1 Tm 6,10); tiếp đến là sự từ khước Thiên Chúa và do đó từ khước tìm kiếm sự an ủi nơi Ngài, thích sự sầu muộn của chúng ta hơn là sự an ủi của Lời Chúa và các bí tích (3). Tất cả những điều ấy biến thành bạo lực chống lại những người bị coi là đe dọa cho những ”chắc chắn” của chúng ta: như hài nhi chưa sinh ra, người già bệnh hoạn, khách qua đường, người ngoại quốc, và cả người lân cận không đáp ứng những mong đợi của chúng ta.
Cả thiên nhiên cũng là nhân chứng âm thầm về đức bác ái bị trở nên lạnh lẽo: trái đất bị ô nhiễm vì những đồ phế thải vứt bỏ vì cẩu thả và vì lợi lộc; biển cả, cũng bị ô nhiễm, rất tiếc là nó cũng phải che phủ những gì còn lại của bao nhiêu vụ đám tàu của những cuộc cưỡng bách di cư; bầu trời, trong kế hoạch của Thiên Chúa, vốn ca ngợi vinh quang Chúa, nhưng nay đang bị cày xéo vì những máy móc làm mưa xuống những dụng cụ chết chóc.
Tình yêu cũng trở nên nguội lạnh trong các cộng đoàn của chúng ta: trong Tông huấn ”Niềm vui Phúc Âm” (Evangelii gaudium) tôi đã tìm cách mô tả những dấu chỉ rõ ràng nói lên sự thiếu tình yêu như thế. Chúng là thái độ ích kỷ lười biếng, bi quan vô bổ, cám dỗ muốn cô lập mình và dấn thân trong những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn liên tục, não trạng trần tục chỉ bận tâm tới những gì bề ngoài và như thế là làm giảm bớt nhiệt huyết truyền giáo (4).
Làm thế nào đây?
”Nếu chúng ta nhìn vào thẳm sâu tâm hồn của mình và quanh chúng ta những dấu hiệu vừa nói trên đây, thì Giáo Hội, là Mẹ và là Thầy của chúng ta, cùng với phương dược sự thật, nhiều khi là thuốc đắng, cống hiến cho chúng ta trong mùa chay này phương dược ngọt ngào là
kinh nguyện, làm phúc bố thí và chay tịnh.
Khi dành nhiều thời giờ hơn cho kinh nguyện, chúng ta sẽ để cho tâm hồn mình khám phá những gian dối bí mật chúng ta thường dùng để đánh lừa chính mình (5), để tìm kiếm sự an ủi trong Thiên Chúa là Cha và là Đấng muốn cho chúng ta được sống.
Việc thực hành làm phúc bố thí giải thoát chúng ta khỏi sự ham hố và giúp khám phá tha nhân là anh chị em chúng ta: điều chúng ta sở hữu không phải chỉ là của chúng ta. Tôi ước mong việc làm phúc được biến thành lối sống đích thực của mỗi người! Tôi mong ước dường nào cho các tín hữu Kitô chúng ta theo gương các Tông Đồ và nhìn thấy qua sự kiện có thể chia sẻ thiện ích của chúng ta với người khác là một chứng tá cụ thể về tình hiệp thông mà chúng ta sống trong Giáo Hội. Về điểm này, tôi khuyên nhủ như thánh Phaolô khi Ngài mời gọi dân thành Corinto lạc quyên giúp cộng đoàn Jerusalem: ”Đây là điều có lợi cho anh chị em” (2 Cr 8,10). Điều này có giá trị đặc biệt trong Mùa Chay, trong mùa này nhiều tổ chức quyên góp cho các Giáo Hội và dân chúng gặp khó khăn. Nhưng tôi cũng muốn rằng trong các tương quan thường nhật, đứng trước mỗi người anh chị em xin giúp đỡ, chúng ta hãy nghĩ rằng đó là một lời kêu gọi của Chúa Quan Phòng: mỗi lần làm phúc bố thí là một cơ hội để tham gia vào sự Quan phòng của Thiên Chúa đối với con cái của Ngài và nếu ngày hôm nay, Ngài dùng tôi để giúp đỡ người anh em, thì làm sao ngày mai Ngài chẳng quan phòng lo cho các nhu cầu của tôi, Ngài vốn là Đấng không thua ai về lòng quảng đại? (6)
Sau cùng, việc chay tịnh giải tỏa bạo lực của chúng ta, và là cơ hội quan trọng để tăng trưởng. Một đàng chay tịnh cũng giúp chúng ta cảm nghiệm điều mà nhiều người khác đang thiếu thốn, thiếu những điều cần thiết và bị đói. Chay tịnh biểu lộ tình trạng tinh thần của chúng ta, đang đói khát lòng từ nhân và sự sống của Thiên Chúa. Chay tịnh thức tỉnh và làm cho chúng ta chú ý hơn đối với Thiên Chúa và tha nhân, thúc đẩy ý chí vâng phục Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể thỏa mãn sự đói khát của chúng ta.
Tôi mong ước tiếng nói của tôi đi ra ngoài biên cương của Giáo Hội Công Giáo, để đi tới tất cả anh chị em, những ngừơi nam nữ thiện chí, cởi mở lắng nghe Thiên Chúa. Nếu anh chị em cũng buồn sầu vì sự ác lan tràn trên thế giới, nếu anh chị em cũng lo lắng vì giá lạnh làm tê liệt tâm hồn và hành động, nếu anh chị em thấy thiếu ý nghĩa của tình nhân loại chung, thì xin hãy liên kết với chúng tôi để cùng nhau cầu khẩn Thiên Chúa, để cùng nhau ăn chay và cùng với chúng tôi trao tặng những gì anh chị em có thể để giúp đỡ các anh chị em khác!
Lửa Phục Sinh
Nhất là tôi mời gọi các phần tử của Giáo Hội hãy nhiệt thành tiến bướctrên con đường Mùa Chay, được nâng đỡ nhờ các hoạt động làm phúc bố thí, chay tịnh và kinh nguyện. Nếu đôi khi lòng bác ái dường như bị tắt lịm trong bao nhiêu tâm hồn, thì nó vẫn không bị lịm đi trong con tim của Thiên Chúa! Ngài luôn ban cho chúng ta những cơ hội mới để chúng ta có thể tái bắt đầu yêu thương.
Một cơ hội thuận tiện trong năm nay cũng là sáng kiến ”24 giờ cho Chúa”, mời gọi cử hành bí tích Hòa Giải trong khuôn khổ Chầu Thánh thể. Năm 2018 này, sáng kiến đó sẽ được cử hành vào thứ sáu mùng 9 và thứ bẩy mùng 10 tháng 3, lấy hứng từ lời Thánh Vịnh 130 câu 4: ”Nơi Chúa có ơn tha thứ”. Trong mỗi giáo phận, ít nhất hãy có một thánh đường được mở cửa 24 giờ liên tục, để các tín hữu có cơ hội cầu nguyện trước Thánh Thể và lãnh nhận bí tích giải tội.
Trong đêm Phục Sinh, chúng ta sẽ cử hành nghi thức đầy ý nghĩa thắp sáng cây nến Phục Sinh: ánh sáng được lấy từ ”lửa mới”, dần dần phá tan bóng đen và soi sáng cho cộng đồng phụng vụ. ”Ánh sáng Chúa Kitô phục sinh vinh hiển phá tan đóng đêm của tâm trí” (7), để tất cả chúng ta có thể cảm nghiệm lại kinh nghiệm của các môn đệ trên đường Emmaus: lắng nghe Lời Chúa và nuôi dưỡng mình bằng Bánh Thánh Thể, giúp cho tâm hồn chúng ta tái nồng nhiệt tin cậy mến.
Tôi thành tâm chúc lành cho anh chị em và cầu nguyện cho anh chị em. Xin Anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi.
ĐTC Phanxicô
Trần Đức Anh OP chuyển ngữ
Anh chị Thụ & Mai gởi
ĐỂ DỰ PHẦN “GIA SẢN” CỦA CHÚA
Fr. Jude Siciliano, OP
Chương 13 của Tin Mừng thánh Gioan là khúc ngoặt của sách Phúc âm này. Bởi lẽ nó kết thúc phần một, quen gọi là “sách các dấu lạ.” Chúa Giêsu chấm dứt sứ vụ công khai của Ngài. Bây giờ chúng ta bước vào phần thứ hai, tựa đề là: sách vinh quang từ chương 13 đến chương 17. Từ then chốt của phần này là“yêu thương.” Ngài sẽ kêu gọi các môn đệ của Ngài vào vương quốc đó và bày tỏ cho họ biết tình yêu thương nào mà Ngài nghĩ tới khi Ngài hiến dâng thân mình cho họ, cho nhân loại. Ngài là hạt lúa rơi xuống đất, chết đi và mang nhiều hoa trái như chính Ngài đã tiên báo ở Chúa Nhật V mùa Chay (Năm B).
Câu mở đầu của Tin Mừng hôm nay (Ga 13,1) liên kết giờ cuối cùng của Chúa Giêsu với biến cố vượt qua. Do đó có sự lựa chọn bài đọc thứ nhất từ sách Xuất hành, đoạn nói về trình thuật Vượt Qua nguyên thủy. Chúa Giêsu sẽ tắt thở vào chính lúc con chiên Vượt Qua chịu sát tế làm lễ toàn thiêu trong đền thờ. Đây là một sự tiên báo, sẽ có biến cố trọng đại thê thảm xảy ra cho Ngài vào giờ này. Giờ Ngài đã chờ đợi từ lâu để làm đầy đủ ý nghĩa “vượt qua.” Máu chiên bôi lên khung cửa nhà các người Do Thái ở Ai cập để cứu họ thoát tay Thiên Thần chinh phạt. Cũng thế, máu con chiên vẹn toàn Giêsu cũng cứu chữa toàn thể nhân loại khỏi chết vì tội lỗi. Ngài cúi xuống rửa chân cho các Tông đồ không chỉ nêu gương sáng cho chúng ta. Những điều Ngài làm khởi sự từ giây phút này đều có quyền năng cứu chữa nhân loại khỏi áp lực của tội lỗi trên cuộc đời họ.
Rửa chân là một phần không thể thiếu của lòng hiếu khách trong văn hóa Do thái. Đường sá ở đó rất bụi bặm. Các khách đến thăm hay đến dự bữa đều phải được rửa chân cho sạch trước khi bước vào nhà.
Thường thường công việc này dành cho thành viên trẻ nhất của gia , hay cho đầy tớ hoặc nô lệ hèn hạ nhất của chủ nhà. Chúa Giêsu đảo lộn và bẻ gãy tục lệ đã được duy trì bao đời nay trong xã hội. Đó là điểm quan trọng gây ngạc nhiên cho mọi người có mặt, kể cả các Tông đồ. Giữa bữa ăn, Ngài đứng dậy, tự mình làm công việc rửa chân! Nghĩa là giờ của Ngài đã đến gần, chỉ trong giây phút nữa. Cho nên Ngài đã hạ mình đến tột độ, dốc hết cái tôi của Ngài đi, ngõ hầu dễ dàng chấp nhận Thánh ý Đức Chúa Cha. Ngài bắt đầu chết. Cuộc sống mới của nhân loại sắp ló dạng. Trong cuộc sống này, cộng đồng nhân loại đã có một dấu hiệu chỉ dẫn, mà hành động bất ưng của Chúa Giêsu ngụ ý. Đó là mọi người phải trở thành “kẻ rửa chân,” làm đầy tớ cho những người nghèo khổ, thiếu thốn trong cộng đồng. Tuy nhiên, việc làm của Chúa Giêsu còn mang nhiều ý nghĩa hơn nữa.
Tại sao ông Phêrô từ chối để Chúa rửa chân cho? Ông thừa hiểu việc rửa chân là truyền thống, và ý nghĩa của nó ra sao. Ông có đủ can đảm theo gương Chúa không? Ông không phải là một gã ngốc nghếch, dại khờ. Ông theo Chúa với một mục tiêu đầy tham vọng. Lúc này ông đang bị ngỡ ngàng vì hành động của Chúa, ông chưa dám chấp nhận số phận tệ hại như thế: Làm đầy tớ thiên hạ. Ông chưa sẵn sàng để mọi người hạ nhục. Bị nhục nhã trước công chúng chưa phải là tư tưởng của ông. Ông chưa chấp nhận cho nên ông từ chối để cho Chúa rửa chân.
Nhưng Chúa Giêsu đòi hỏi là Ngài phải rửa chân cho ông. Ông phải học bài học khiêm nhu của Ngài, bằng không, ông sẽ không được dự phần vào “gia sản” của Ngài. Gia sản ấy là cuộc sống mới, tư tưởng mới, thái độ mới, là tình yêu của Chúa Cha, là bác ái với mọi người mà việc rửa chân cho nhau là dấu chỉ. Gia sản ấy là cộng đồng mới, ngôi nhà mới có Chúa Giêsu cư ngụ. Phêrô với ơn Chúa Thánh Thần, nhận ra lời dạy bảo của Chúa, và ông đã chấp nhận.
Tuy nhiên, Chúa không đòi hỏi Phêrô phải có một cuộc tắm rửa toàn diện mà chỉ cần rửa chân khỏi những bụi bặm bên đường. Sau này, các tín hữu của Chúa trên hành trình qua cuộc sống trần gian, cũng vương nhiều bụi bặm. Cuộc thanh tẩy toàn thể không cần thiết nữa (tức không cần rửa tội lại) mà chỉ cần bí tích Hòa Giải, để có thể đồng bàn với Thiên Chúa tình yêu. Suy rộng ra, Hội Thánh luôn phải thanh tẩy mình, làm cho mình được đổi mới luôn, trong sạch luôn để xứng đáng tham dự lễ Vượt Qua với Chúa Kitô.
Sự kiện xảy ra tại bàn ăn, lệnh truyền yêu thương cũng được ban ra tại bàn ăn. Thế thì bàn tiệc Thánh Thể luôn luôn là đề tài để chúng ta suy nghĩ. Bàn ăn phải là nơi chúng ta tha thứ cho nhau, phục vụ nhau tẩy sạch mọi bụi bặm trần gian để có thể đón nhận giới răn mới của Chúa.
Thực ra, về hình thức, giới răn này chẳng có chi mới. Nhưng nội dung của nó thì hoàn toàn mới, và đã trở nên giới răn riêng của Chúa Giêsu, là dấu hiệu để thế gian nhận biết chúng ta là môn đệ của Ngài. Thực ra, yêu thương đối với Chúa Giêsu cực kỳ quan trọng đến nỗi Ngài phải làm gương, trước khi ban ra lệnh truyền, bởi Ngài biết rõ chỉ nhờ yêu thương mà thế gian sẽ được cải tạo, được đổi mới.
Thánh Gioan viết trình thuật này cho cộng đoàn của ngài trong tình hình rất cụ thể của cộng đoàn đó. Vậy thì mục tiêu của ngài là gì? Ngài nhắm đạt tới điều chi? Có lẽ sau khi chịu phép Thánh tẩy, trở lại với Chúa Giêsu, đã có nhiều điều xảy ra cần được tẩy rửa, sửa chữa. Đúng như tình trạng của các giáo xứ chúng ta ngày nay. Thánh Gioan đã dùng ngòi bút của mình mà thôi thúc mọi phần tử trong cộng đoàn tha thứ cho nhau, làm tôi tớ cho nhau, để có thể cùng nhau mừng lễ vượt qua. Thế thì các giáo xứ, các cộng đoàn tín hữu, tu trì ngày nay có cần lời khuyên nhủ của thánh nhân để cũng có thể cử hành lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu không ?
Lễ Vượt Qua này bắt đầu bằng nghi thức rửa chân, hạ mình ra không để đón nhận thánh ý Chúa, mà thánh ý Chúa là yêu thương. Thì chúng ta không thể nào làm khác được. Bữa tiệc Mình Máu Thánh Chúa cử hành hằng ngày tại các giáo xứ, các cộng đoàn cũng phải bắt đầu bằng nghi thức rửa chân, xin lỗi nhau và tha thứ cho nhau. Chỉ khi nào chúng ta thành thực trong tâm hồn, ngoài cử chỉ thực hiện nghi thức này, lúc đó mới xứng đáng được Chúa ngự vào lòng. Amen.
Fr. Jude Siciliano, OP
From Langthangchieutim
Trung Quốc đang cho các nước tham gia “Sáng kiến Vành đai và Con đường” vay rất nhiều tiền để thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng đầy tham vọng. Bắc Kinh trở thành chủ nợ chi phối các nước này và đến khi tới hạn đáo nợ, rủi ro rất cao là các “con nợ” sẽ bị mất chủ quyền vào tay Trung Quốc.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tiếp Tổng thống Djibouti Ismail Omar Guelleh tại Đại Lễ Đường Nhân Dân ở Bắc Kinh vào ngày 23/11/2017.
Cho đến tận thời gian rất gần đây, thế giới biết đến đất nước Châu Phi Djibouti bụi bặm nhiều nhất là ở hình ảnh cư dân nơi đây có thói quen nhai lá khat – một loại lá cây bụi có chứa chất kích thích – để có cảm giác thăng hoa. Mỗi ngày, khi cái nóng oi nồng của buổi chiều tăng lên, những người đàn ông Djibouti lại tụ tập thành từng nhóm, nhét ít lá khat vào miệng và nhai cho tới khi đạt được cảm giác hưng phấn, bay bổng. Và thế là, chẳng ai còn làm được việc gì cho tới cuối ngày. Kết quả là, tại đất nước Phi Châu này chẳng có nghành nghề sản xuất nào cả, ngoại trừ việc nhập, buôn bán, phân phối và bán lẻ lá khat.
Tại Djibouti, thời gian luôn trôi đi chậm rãi.
Thế rồi, cho tới gần đây hơn mọi chuyện đã thay đổi. Không biết nên gọi Djibouti được ban phước hay quỷ ám với một vị trí địa lý chiến lược, nằm ngay phía tây của Bab al Mandab – eo biển hẹp giữa Châu Phi và Ả-rập, cửa ngõ vào phía nam biển Đỏ và tới Kênh đào Suez, bắt đầu phát huy tác dụng thu hút sự chú ý của quốc tế. Truyền thống trước đây, tuyến hàng hải chính qua Bab al Mandab tới phương Đông đã luôn bị chi phối bởi bến cảng tự nhiên tuyệt vời, nằm trong một vùng miệng núi lửa núi lửa đã tàn – cảng Aden, Yemen. Nhưng vào năm 2000, một cuộc tấn công tự sát bằng thuyền tại cảng Aden gần như đã đánh chìm tàu khu trụ hải quân Mỹ USS Cole đã làm tình hình khu vực chuyển biến. Với việc bến cảng tốt nhất không còn an toàn, nạn cướp biển gia tăng đe dọa cho tuyến hàng hải và khu vực này ngày càng không ổn định, các cường quốc thế giới bắt đầu chuyển hướng sự chú ý của họ sang Djibouti – đất nước sở hữu bờ biển phía tây của eo Bab al Mandab.
Vì từng là thuộc địa của thực dân Pháp, Djibouti từ lâu đã là nơi đồn trú của cả một quân đoàn lính Pháp. Sau đó, vào năm 2001, người Mỹ cũng đến đây và họ ký thuê đất xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự làm căn cứ chính cho bộ tư lệnh Châu Phi trực thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ. Tiếp đến, người Nhật Bản cũng tới đây vào năm 2011. Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản với vỏ bọc là triển khai hoạt động chống cướp biển, đã thiết lập tại Djibouti căn cứ quân sự nước ngoài đầu tiên của người Nhật sau 70 năm.
Tiếp đó, tới năm 2016, tới lượt Trung Quốc đặt chân tới Djibouti. Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã ký hợp đồng thuê đất 20 năm, xây dựng trại lính quy mô lớn, mở các bến cảng cho tàu hải quân neo đậu và vẫn còn thấy ghen tị với đường băng của không lực Mỹ và hệ thống hạ tầng bãi biển của người Pháp.
Tuy nhiên, khác với Mỹ và đồng minh, khi thiết lập sự hiện diện của mình tại Djibouti, Trung Quốc không chỉ mở căn cứ quân sự nước ngoài (công khai) đầu tiên của mình, mà họ còn mang theo dòng vốn vay đổ vào đất nước Châu Phi này theo “Sáng kiến Vành đai và Con đường”. Chỉ trong vòng hai năm ngắn ngủi vừa qua, thông qua ngân hàng nhà nước – Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Trung Quốc, chế độ Bắc Kinh đã cung cấp cho Djibouti khoản vay lớn lên tới 1,4 tỷ USD, tương đương 75% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này.
Kết quả là, tỉ lệ nợ công của Djibouti so với GDP đã tăng lên 85%, trở thành một trong những nước thu nhập thấp có tỉ lệ nợ công cao nhất thế giới. Và nếu Trung Quốc tiếp tục giải ngân cho các cơ sở hạ tầng mới đã được lên kế hoạch bao gồm bến cảng, sân bay, đường cao tốc và đường sắt mới nối với Ethiopia, tỷ lệ nợ của Djibouti sẽ tăng lên hơn 90%, và đáng chú ý là đều nợ một chủ nợ – Trung Quốc.
Quốc tế bắt đầu dấy lên cảnh báo về sự gia tăng nợ công nhanh chóng tại Djibouti và lại tập trung duy nhất vào một chủ nợ. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã cảnh báo rằng cách vay nợ của Djibouti là “rủi ro cao”. Và đội ngũ tư vấn của Trung tâm Phát triển Toàn cầu (CGD) có trụ sở tại Washington và London cũng đã xác định Djibouti là một trong những trường hợp đặc biệt nhất trong số các nước nghèo “đang đối mặt với nguy cơ gia tăng rủi ro đáng kể về mất chủ quyền quốc gia nếu các dự án đã lên kế hoạch theo Sáng kiến Vành đai và Con đường được hoàn thành“.
Ngay trong cảnh báo của CGD cũng có ngụ ý rằng, mặc dù trường hợp của Djibouti có thể là nghiêm trọng nhất, nhưng đây không phải là nước duy nhất phải hứng chịu rủi ro mất chủ quyền vì thực hiện Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã cung cấp khoản vay cho nhiều nước tương đối nghèo nhưng có vị trí địa lý chiến lược và Bắc Kinh nhanh chóng nổi lên là chủ nợ quốc tế, có ảnh hưởng lớn nhất.
Trong một nghiên cứu mới phát hành tháng trước, CGD đã xác định ngoài Djibouti, còn có 14 nước khác có vay vốn của Trung Quốc theo Sáng kiến Vành đai và Con đường có nguy cơ rơi vào “kiệt quệ” tài chính. Trong đó, 7 nước có khả năng vì vay nợ sẽ đẩy nền kinh tế quốc gia đến bờ vực của cuộc khủng hoảng nợ công.
Nước dễ bị tổn thương nhất là quốc đảo Maldives tại Ấn Độ Dương. Trung Quốc đã cho Maldives vay khoản tiền lớn để xây sân bay mới và các công trình phụ trợ liên quan trị giá tới 1,25 tỷ USD, và còn thêm một bến cảng. Kết quả là, nợ công của Maldives tương đương gần 75% GDP, trong đó 70% là nợ Trung Quốc. IMF vào năm ngoái đã cảnh báo việc Maldives gia tăng nợ công nhanh chóng sẽ gây ra rủi ro cao cho sức khỏe của nền kinh tế của quốc đảo này.
Các quốc gia nợ quá mức khác gồm Tajikistan, Cộng hòa Kyrgyz và Mông Cổ – đều nằm ở biên giới phía cực Tây của Trung Quốc, một khu vực mà chế độ Bắc Kinh thường xuyên trấn áp những người bất đồng chính kiến chính trị và tôn giáo.
Trong khi đó, tại Lào, các khoản vay của Trung Quốc đang tài trợ cho đất nước Đông Nam Á này xây dựng một tuyến đường sắt có giá trị bằng một nửa GDP. Và có thêm cả Pakistan, nước này đang vay Trung Quốc 50 tỷ USD theo lãi xuất thị trường để thực hiện một loạt các dự án cơ sở hạ tầng đầy tham vọng, nhưng rất ít dự án trong đó có cơ hội tạo ra đủ lượng tiền trong trung và dài hạn để trang trải các khoản chi phí lãi vay.
Vấn đề vay nợ cao, trong khi doanh thu dự án không đủ bù đắp chi phí trả lãi, đang tạo ra mối lo lắng lớn. Chính phủ vạy nợ sẽ bỏ qua chi tiêu vào các lĩnh vực thiết yếu khác như y tế hay giáo dục hoặc thậm chí sẽ phải vay nợ thêm để trang trải khoản lãi vay. Những hậu quả có thể xảy ra là tăng trưởng chậm, tỉ lệ lãi vay cao khiến rủi ro gia tăng và mức tăng nợ công nhanh chóng thậm chí có thể khiến quốc gia vay nợ phụ thuộc lớn hơn vào chủ nợ chi phối vì những đối tác cho vay khác không dám cấp vốn vay tiếp.
Kết quả cuối cùng sẽ hoặc là vỡ nợ với những khó khăn kinh tế trầm trọng hoặc phải tái cơ cấu nợ và dẫn tới rủi ro mất chủ quyền. Tái cơ cấu nợ là một viễn cảnh rất đáng quan ngại. Trung Quốc chưa ký kết tham gia vào Câu lạc bộ Paris tập hợp các chủ nợ quốc tế với các quy định thực thi tốt nhất về việc tái cơ cấu nợ.
Thực tế, trong những năm gần đây, Bắc Kinh đã yêu cầu một mức giá cao đối với những nước đi vay muốn tái cơ cấu nợ. Vào năm 2011, Trung Quốc đã yêu cầu Tajikistan chuyển nhượng hàng nghìn km2 lãnh thổ để đổi lại việc được xóa nợ. Và vào năm 2017, Trung Quốc đã hoán đổi khoản nợ của Sri Lanka để được thuê 99 năm cảng biển Hambantota có vị trí chiến lược.
Mô hình hiện tại của các khoản cho vay theo Sáng kiến Vành đai và Con đường đang thực hiện với các nước như Djibouti, khiến cho việc cơ cấu nợ theo cách của Trung Quốc đã làm với Tajikistan và Sri Lanka có thể tiếp diễn trong tương lai. Trung Quốc sẽ đòi hỏi các nước vay nợ phải nhượng bộ về chính trị hay lãnh thổ nặng nề để đổi lấy các điều khoản tái cơ cấu nợ dễ dàng hơn. Và nếu có ai nghĩ khác rằng Bắc Kinh đang cho các quốc gia tham gia Sáng kiến Vành đai và Con đường vay vốn vì lợi ích kinh tế của họ chứ không phải phục vụ cho lợi thế về chính trị và chiến lược của Trung Quốc, thì người đó chắc hẳn phải nhai lá khat để tạo hưng phấn như người Djibouti vẫn làm.
Tác giả: Tom Holland (scmp.com)
Tân Bình dịch và biên tập