MỘT CUỘC CHUYỂN HOÁ KHÔNG THỂ ĐƯỢC (Nguyễn Gia Kiểng)

 
 
Image may contain: text

Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

 

MỘT CUỘC CHUYỂN HOÁ KHÔNG THỂ ĐƯỢC (Nguyễn Gia Kiểng)

Trước hết là một vài suy tư nhân dịp lễ Phục Sinh.

Giê-Su ra đời được hai năm thì vua Herode từ trần. Các hoàng tử tranh quyền, nước Do Thái rối loạn và bị sáp nhập thành một tỉnh của đế quốc La Mã khi ông mới vừa 12 tuổi. Người Do Thái chờ đợi một vị cứu tinh, và nhiều thủ lãnh đã xuất hiện. Giê-Su là một trong những lãnh tụ này, và là lãnh tụ độc đáo nhất. Trong khi mọi người chỉ nhìn thấy giải pháp võ trang, Giê-Su đã nhận ra nguyên nhân đã khiến người Do Thái thất bại và mất nước là sự thua kém về tư tưởng và văn hoá. La Mã đã hơn hẳn Do Thái và mọi nước khác vào thời đó, bởi vì xã hội của họ tự do hơn, dân chủ hơn, có đối thoại, và nhất là có phân biệt giữa tôn giáo và chính trị.

Giê-Su nhìn thấy sự vô vọng nguy hiểm của các chủ trương giải phóng võ trang. Ông cũng nhìn ra nguyên nhân chính khiến Do Thái không vươn lên được : đó là sự kỳ thị giai cấp, sự tôn thờ bạo lực, óc bất dung và nhất là sự lẫn lộn giữa tôn giáo và chính trị giam hãm xã hội trong cái khung cứng nhắc của kinh thánh khiến xã hội không tiến hoá được. Từ đó Giê-Su kêu gọi hòa giải và hòa hợp dân tộc, bao dung, bác ái, bất bạo động và nhất là phân biệt tôn giáo và chính trị.

Giê-Su có phải là hiện thân của Thiên Chúa hay không là câu hỏi mà mỗi người tự trả lời cho mình. Nhưng nếu chúng ta chỉ giới hạn dưới góc nhìn chính trị thì sự nghiệp của Giê-Su thật là oan trái : ông đã chinh phục được chính đế quốc La Mã, không những thế ông còn chinh phục được cả thế giới chung quanh ông và mở ra một nền văn minh lộng lẫy, nhưng riêng đồng bào Do Thái của ông mà ông muốn giải thoát lại bức tử ông. Giê-Su đã không thuyết phục được dân tộc ông cũng như không ai có thể là tiên tri tại quê hương mình vì ông đụng phải một bức tường văn hoá. Cuộc đời ông chứng tỏ thay đổi văn hoá là một điều cực kỳ khó khăn.

*
Năm 1883 nước ta bị người Pháp đô hộ sau một cuộc chinh phục dễ dàng trong đó triều đình nhà Nguyễn chỉ chống trả một cách yếu ớt. Nguyên nhân của thất bại là do văn hoá và tổ chức xã hội kém hẳn đối phương. Vua Tự Đức không phải là không nhìn thấy yêu cầu canh tân, nhưng ông bị vây bọc bởi cả một bức tường thủ cựu kiên cố của quần thần nên đã tiếp tục sa lầy và cuối cùng mất chủ quyền. Quán lực văn hoá lớn đến nỗi ngay cả quyền lực tuyệt đối của Tự Đức cũng không thể thay đổi cách suy nghĩ và hành động bằng mệnh lệnh.

Cuộc đô hộ của người Pháp hoàn toàn khác với những giai đoạn Bắc thuộc trước đây : kẻ thống trị khai thác tài nguyên của Việt Nam nhưng họ cũng đồng thời mở mang đất nước như chưa bao giờ thấy. Người Pháp vừa là kẻ thống trị vừa là người giải phóng, giúp Việt Nam vứt bỏ ách nô lệ văn hoá của Trung Quốc. Về mặt trí tuệ phải nói người Pháp đã đem đến cho chúng ta cả một bước nhảy vọt. Ngay cả ý thức về quốc gia như một thực thể của chung của mọi người cũng ra đời dưới thời Pháp thuộc, cũng những ý niệm về tự do, dân chủ, bình đẳng nam nữ, v.v… Về khoa học kỹ thuật thì phải nói chúng ta đã được người Pháp giáo dục từ số không. Nói chung, mặc dù cái nhục đô hộ, giai đoạn Pháp thuộc đã rất có lợi cho chúng ta. Nhưng người Việt càng tiến lên nhờ người Pháp thì cái nhục bị lệ thuộc Pháp lại càng đau nhức.

Điều mà chúng ta cần trong giai đoạn này là những nhà tư tưởng tìm ra một cách nhìn và một cách sống cái nhục đó. Một đồng thuận dân tộc trên một cách ứng xử sáng suốt có thể đã giúp chúng ta lấy được quyền tự chủ sau một hai thế hệ. Nhưng chúng ta đã không có được những nhà tư tưởng đó. Phong Trào Đông Kinh Nghĩa Thục nhiều tình cảm tốt nhưng thiếu nền tảng lý luận. Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh là những học giả nhưng không phải là những nhà tư tưởng. Phan Châu Trinh đơn độc và chết quá sớm. Do sự thiếu định hướng đó, mặc dù cuộc sống tinh thần và vật chất đã được cải thiện rất nhiều, người Việt Nam, nhất là giới sĩ phu, chỉ cảm nhận sự kiện bị một nước có nền văn hoá khác hẳn đô hộ như một sự xúc phạm lớn. Đã có nhiều cuộc khởi nghĩa nhưng vì thiếu hiểu biết và thiếu sáng kiến chúng đã chỉ loanh quanh trong chống đối võ trang để rồi bị đập tan. Kể cả đảng cộng sản. Và ngay cả trong giai đoạn thế chiến II khi tại Đông Dương chỉ còn lại một nắm nhỏ người Pháp đã thua trận và mất nước. Sau cùng quân Nhật, chứ không phải kháng chiến Việt Nam, đã lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp.

Bế tắc của cố gắng giải phóng dân tộc cũng cùng một nguyên nhân như bế tắc của dân Do Thái vào thời Giê-Su. Văn hoá cũ đã đưa đến thua kém và thất bại, phải có một văn hoá mới để nhìn ra một phương thức đấu tranh mới. Nhưng vấn đề ngàn đời vẫn thế: thay đổi văn hoá là điều cực kỳ khó khăn.

*
Giai đoạn Pháp thuộc cũng là giai đoạn mà phong trào cộng sản bành trướng trên thế giới và lan tới Việt Nam. Chủ nghĩa cộng sản không mới. Nó nằm trong một luồng tư tưởng đã có từ rất lâu và thể hiện rất mạnh mẽ qua các bài giảng của Giê-Su. Nó cũng là một đề tài tranh luận sôi nổi trong thế kỷ 18 và 19 tại châu Âu sau cuộc cách mạng kỹ nghệ. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để xã hội ngày càng giàu mạnh lên và của cải làm ra được phân chia một cách công bằng. Karl Marx là một trong những người chủ trương dành hẳn ưu tiên cho công bằng xã hội. Marx không phải là một triết gia, cũng không phải là một nhà tư tưởng lớn. Ông là một học giả, một nhà văn và một nhà báo. Ông thu thập những ý kiến và khám phá của người khác rồi làm tổng hợp. Những tổng hợp của ông thường vội vã, thiếu chiều cao trí tuệ, nhưng ông diễn đạt một cách rất đặc sắc và hùng hồn. Những đóng góp thực sự của Marx như phân tích về giá trị thặng dư, dự báo sự sụp đổ chắc chắn của chủ nghĩa tư bản, v.v… đều sai một cách ngây ngô. Do tài diễn đạt, đặc biệt là cách trình bày mạch lạc của một người uyên bác, Marx được nhiều người ngưỡng mộ, và những gì ông viết ra có ảnh hưởng lớn. Những tác phẩm của Marx có thể đã chỉ là những tài liệu nghiên cứu nếu không có Lênin.

Lênin mới thực sự là cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản như đã được thực hiện tại nhiều quốc gia. Lênin đã nhận thấy ở những tác phẩm của Marx một số khẩu hiệu có tác dụng kích thích quần chúng nghèo khổ đồng thời một hệ thống tư tưởng sơ sài nhưng có vẻ hoàn chỉnh bao gồm cả triết học, sử quan, kinh tế, xã hội. Đó là một kiện hàng lý tưởng cho một người đang tìm kiếm một cơ sở lý luận để cướp chính quyền. Lênin đã dựa vào tư tưởng của Marx để phát minh ra cả một lý thuyết thực dụng để cướp và giữ chính quyền bằng bạo lực. Lênin đã viết và nói mỗi lúc một khác trên tất cả mọi vấn đề, nhưng ”tư tưởng Lênin” có thể tóm tắt trong hai thành tố: 1/ lẫn lộn cứu cánh (thí dụ xây dựng một xã hội công b^ằng và phồn vinh) và phương tiện (thí dụ cuộc cách mạng vô sản), nâng phương tiện lên thành cứu cánh để biện minh cho những phương tiện khác; 2/ đồng hoá một khái niệm (thí dụ cách mạng) với một trong những biểu hiện của nó (thí dụ đảng cộng sản). Cả hai đều là cách lý luận bất lương. Được áp dụng một cách dây truyền, và hơn nữa lại phối hợp với nhau, lối lý luận này có thể dẫn đi rất xa khỏi cả điểm khởi hành lẫn mục tiêu ban đầu. Từ giấc mơ một thiên đường trên mặt mặt đất hoàn toàn tự do và thân ái, không còn bóc lột, hà hiếp và cũng không cần chính quyền, nó dẫn tới một nhà nước khắc nghiệt và nhiều lần hung bạo hơn những nhà nước tư bản mà Marx muốn xoá bỏ. Nó cũng đã dẫn hàng chục triệu người vô tội vào nhà tù hay ra pháp trường.

Lênin, Stalin và các lãnh tụ cộng sản khác thừa biết rằng thiên đường cộng sản mà Marx tưởng tượng chỉ là một ảo tưởng nhưng là một ảo tưởng có thể lợi dụng để cướp chính quyền. Một khi đã cướp được chính quyền các chế độ cộng sản cai trị thuần túy bằng bạo lực và khủng bố. Sử dụng một xác quyết sơ đẳng của Marx theo đó lịch sử nhân loại chỉ là đấu tranh giai cấp và đẩy tới tột đỉnh lô-gích khủng bố, chủ nghĩa cộng sản còn cho phép tiêu diệt không những các cá nhân mà toàn bộ những thành phần xã hội theo giai cấp, chủng tộc, tín ngưỡng. Về bản chất không có sự khác biệt giữa các chế độ nazi, phát xít và cộng sản. Tất cả đều là những phong trào cho mình quyền tiêu diệt những cá nhân không phải vì họ đã phạm một tội gì mà vì họ thuộc một thành phần bị chế độ coi là thù địch.

Các chế độ cộng sản còn cần một loại nạn nhân khác. Vì lấy một ảo tưởng làm cứu cánh, chúng luôn luôn cần chứng minh tại sao cứu cánh vẫn chưa thực hiện được và không những thế càng ngày càng xa vời thêm trong khi những hy sinh ngày càng nhiều. Phải có những thủ phạm, những kẻ phá hoại việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và lần này các nạn nhân không nhất thiết phải là những kẻ thù giai cấp mà cũng có thể là những kẻ thất bại trong những tranh chấp nội bộ bị chọn làm dê tế thần trong những đợt thanh trừng.

Một đặc tính khác của phong trào cộng sản cần được lưu ý. Đó là nó hoàn toàn không dựa vào hậu thuẫn của quần chúng. Kỹ thuật của mọi đảng cộng sản là chỉ dựa vào một thiểu số có kỷ luật và đội ngũ vững chắc để khai thác một tình trạng khủng hoảng để cướp chính quyền và sau đó cai trị bằng bạo lực và sự nghèo khổ. Đi xa hơn các chế độ phát xít, các chế độ cộng sản còn sử dụng cả lương thực như một vũ khí khống chế xã hội.

Nhiều người cộng sản sẽ rất phiền lòng khi nghe nói rằng về bản chất phong trào cộng sản là một phong trào khủng bố và tội ác. Sự phiền lòng càng chân thực khi chính họ là những con người lương thiện. Nhưng sự thực là như thế. Có lẽ trước hết cần đồng ý trên định nghĩa của tội ác. Đó là việc cố ý sử dụng bạo lực để tiêu diệt, lưu đày hay ngược đãi những người vô tội vì quan điểm, tôn giáo, chủng tộc hay giai cấp của họ. Đây là định nghĩa chính thức của công pháp quốc tế về ”tội ác đối với loài người” và cũng là điều mà mọi chế độ cộng sản đều làm. Cuốn Sách Đen Về Cộng Sản (Le Livre Noir du Communisme) không phải do một tổ chức chống cộng nào viết ra trong mục đích tuyên truyền, mà là công trình tập thể của một số đông đảo các nhà khảo cứu có uy tín, đa số đã từng ủng hộ phong trào cộng sản. Nó cho thấy phong trào cộng sản đã làm thiệt mạng trên 100 triệu người qua những quyết định độc ác có chủ ý và được thực hiện một cách lạnh lùng. Điều không thể chối cãi được là ở tất cả mọi quốc gia mà nó có cơ hội được thực hiện chủ nghĩa cộng sản đã chỉ đẻ ra những chế độ hung bạo và gian ác. Như vậy thì phải kết luận rằng chủ nghĩa cộng sản chất chứa tội ác và bạo lực ngay trong bản chất của nó (*).

Lênin đã thắng Kerensky và các đối thủ khác bởi vì xã hội Nga chưa bao giờ có một văn hoá chính trị nào khác ngoài bạo quyền và bạo lực. Những người dân chủ Nga đương thời với Lênin không thiếu nhưng họ đã thất bại bởi vì văn hoá chính trị của nước Nga chưa chín muồi cho dân chủ. Cùng một lý do đã khiến Mao Trạch Đông đánh bại Tưởng Giới Thạch tại Trung Quốc. Văn hoá nào chế độ đó. Một lần nữa chúng ta thấy trọng lượng và quán lực của văn hoá.

*
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập như là một phân bộ của cộng sản thế giới. Cha đẻ của nó là Hồ Chí Minh đã được đào tạo tại Nga, trong lò Stalin. Nó có mọi đặc tính một đảng cộng sản.

Theo đúng kỹ thuật Lênin, nó không dựa trên quần chúng mà dựa trên một số nhỏ có đội ngũ và quyết tâm để chờ đợi khai thác một tình trạng khủng hoảng. Cơ hội đến với thế chiến II. Với một đội ngũ nhỏ không quá 2.000 nhưng có tổ chức và quyết tâm, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nắm được chính quyền vào một lúc mà chính quyền bỏ ngỏ : Nhật lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp rồi thua trận và đầu hàng. Sau đó nó dùng bạo lực để tiêu diệt các đảng phái yêu nước khác.

Sau khi đã nắm được độc quyền đấu tranh giành độc lập, theo đúng bài bản của mọi đảng cộng sản, nó thực hiện khủng bố toàn diện và tối đa. Người ta sẽ không thể nào đánh giá đúng mức sự khủng bố trong cuộc chiến tranh chống Pháp. Bao nhiêu người đã bị giết oan trong thời gian này? Có những người đã bị giết chỉ vì họ có chút uy tín tại địa phương và cũng có rất nhiều người đã bị giết chỉ vì bị tình nghi là gián điệp dựa trên những chi tiết như đội mũ có ba màu hay trong người có mảnh gương. Thêm vào sự khủng bố theo chính sách còn có khủng bố vì ngu dốt. Thực là cả một giai đoạn kinh hoàng. Trong cuộc chiến tranh lần thứ hai, 1960-1975, khủng bố cũng vẫn là vũ khí chính của đảng cộng sản. Chính quyền Sài Gòn dù có phương tiện dồi dào hơn cũng không sao chống trả được một lực lượng cộng sản không bị vướng tay bởi bất cứ một qui luật nào.

Trong cả hai cuộc chiến này, đảng cộng sản cũng đã được một bối cảnh quốc tế thuận lợi. Văn hoá chính trị thế giới trong hơn ba thập niên từ sau thế chiến II là chống Mỹ và chống chủ nghĩa tư bản. Trong số các sinh viên chống sự can thiệp của Mỹ tại Việt Nam có cả một tổng thống tương lai của Hoa Kỳ. Cảm tình dành cho Đảng Cộng Sản Việt Nam lớn đến nỗi những tin tức về những vụ bắt cóc, ám sát, đặt mìn trong các thành phố và những hố chôn tập thể tại Huế không có một ảnh hưởng nào. Khủng bố và bạo lực không bị lên án vì được coi là những vũ khí cần thiết cho một cuộc cách mạng phải có. Chỉ từ thập niên 1980 thế giới mới tiến tới một văn hoá hòa bình, quay lưng lại với bạo lực và các tổ chức khủng bố không còn được ủng hộ. Một lần nữa chúng ta thấy văn hoá quyết định cách ứng xử tập thể và văn hoá không dễ thay đổi.

Khủng bố và tội ác đã là vũ khí lợi hại nhất của đảng cộng sản nhưng không phải là lý do duy nhất giúp họ chiến thắng. Các phong trào cộng sản ở châu Mỹ La-Tinh cũng quyết tâm và hung bạo không kém nhưng đã thất bại. Còn môt lý do quyết định khác, đó là đảng cộng sản đã được sự ủng hộ của chính nhân dân Việt Nam. Dĩ nhiên là có rất nhiều người Việt Nam thù ghét đảng cộng sản nhưng cũng có một số rất đông đảo ủng hộ họ rất tận tình. Những người này không phải không biết tới những tội ác của đảng cộng sản nhưng họ vẫn ủng hộ phe cộng sản bởi vì các chính quyền quốc gia dưới mắt họ chỉ là lai căng, vọng ngoại, công cụ của nước ngoài. Họ ủng hộ phe cộng sản nhân danh lập trường dân tộc.

Chủ nghĩa cộng sản không hoàn toàn là một ”chủ nghĩa ngoại lai”, như những người chống cộng lập luận, mà ở ngay trong lòng người Việt Nam, bởi vì không có một khác biệt căn bản nào giữa chủ nghĩa cộng sản và ý thức hệ Khổng Giáo mà người Việt tôn sùng trong hàng ngàn năm. Xét về bản chất thì cộng sản và Khổng Giáo chỉ là một, nếu nhìn kỹ hơn cộng sản là chủ nghĩa hay nhất có thể có nếu chỉ muốn cải tiến Khổng Giáo. Như vậy không có gì ngạc nhiên khi đảng cộng sản đã được một hậu thuẫn rộng lớn, vững chắc và bền bĩ trong dân chúng. Chính nhờ hậu thuẫn này mà dù gặp khó khăn tới đâu hay bị thất bại nặng nề tới đâu họ vẫn gượng dậy được. Văn hoá và tâm lý có sức mạnh ghê gớm của chúng và chúng cũng rất khó thay đổi. Đó là lý do khiến những tội ác kinh hoàng của người Thái đối với người Khmer, và ngược lại, vẫn không ngăn cản họ thấy gần gũi với nhau hơn là với người Việt.

Cần chấm dứt một huyền thoại đã kéo dài quá lâu. Đó là đảng cộng sản tuyên truyền giỏi và tổ chức giỏi. Hoàn toàn sai. Họ tuyên truyền rất vụng về và tổ chức một cách rất luộm thuộm. Sức mạnh đã đưa họ đến thắng lợi gồm ba yếu tố: 1/bản chất khủng bố và tội ác cho phép họ làm bất cứ gì để đạt mục đích mà không cần thắc mắc; 2/ họ có căn bản dân tộc bởi vì chủ nghĩa mà họ theo đuổi về bản chất phù hợp với văn hoá Khổng Giáo của xã hội Việt Nam; 3/ những người lãnh đạo cộng sản đều ít học cho nên rất quyết tâm, cuồng tín và kiên trì. Tất cả những lý do khác đều là phụ, những phân tích về quân sự lại càng không quan trọng.

Nhưng đó là đảng cộng sản nhìn từ bên ngoài. Một câu hỏi cần được đặt ra là bằng cách nào họ đã giữ được sự ổn vững trong nội bộ mặc dầu đã phạm rất nhiều tội ác đẫm máu và sai lầm nghiêm trọng? Lý do là vì ít nhất từ sau đại hội 3 năm 1960 đã có ”một đảng cầm quyền trong đảng”, thực hiện sự khủng bố ngay trong nội bộ đảng để duy trì kỷ luật. Đảng cầm quyền trong đảng này do Lê Đức Thọ cầm đầu. Từ 1960 trở đi tất cả mọi cấp lãnh đạo thực sự trong đảng đều thuộc phe này. Một đảng khủng bố không thể không thực hiện khủng bố ngay trong nội bộ.

Đảng cộng sản đã có được một bối cảnh quốc tế thuận lợi, đã được viện trợ một cách dồi dào từ cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, họ cũng đã may mắn chỉ gặp những đối thủ rầt tầm thường trong phe quốc gia và những vụng về của người Mỹ, nhưng hai lý do chính khiến nó đã thành công là vì nó đã có hậu thuẫn quần chúng và vì nó là một đảng khủng bố và tội ác và dám đẩy đến cùng lô-gích khủng bố và tội ác đối với bên ngoài cũng như trong nội bộ đảng.

*
Nhưng từ ngày 30-4-1975 họ đã toàn thắng và qui được cả đất nước về một mối. Lô-gích tự nhiên lúc đó là phải hành xử như một đảng cộng sản cổ điển, và như họ đã làm tại miền Bắc trong hơn hai mươi năm, nghĩa là cai trị bằng kềm kẹp, khủng bố bằng bạo lực và bằng sự nghèo đói. Nhưng thế giới đã thay đổi, phong trào cộng sản thế giới đã rạn nứt. Đảng Cộng Sản Việt Nam dù muốn hay không cũng phải bắt đầu chuyển hoá.

Đại hội 4 cuối năm 1976 đánh dấu bước đầu của một cuộc chuyển hoá từ một đảng khủng bố và tội ác sang một đảng cầm quyền và quản trị. Từ đó mọi đại hội đảng đều là những đại hội chuyển hoá theo cùng chiều hướng bắt buộc này.

Đại hội 9 cũng không khác. Điều khác biệt là nó cũng là đại hội chuyển giao thế hệ. Những cấp lãnh đạo xuất thân từ chiến tranh và có công lao trong chiến tranh cuối cùng đã phải ra đi vì già yếu theo luật đào thải tự nhiên của tạo hoá.

Không nên để bị lung lạc bởi những lời tuyên bố lạc quan và tin tưởng sau đại hội 9. Một số quan sát viên quốc tế sẽ nhận xét rằng những cấp lãnh đạo mới trẻ hơn, cởi mở hơn và hiểu biết hơn và không giáo điều như những người tiền nhiệm. Tất cả những nhận xét này đều đúng nhưng cũng chỉ là những gì chúng ta đều đã thấy. Từ 1975 đến nay tất cả mọi đại hội đảng cộng sản đều đã có tiến bộ. Nhân sự luôn luôn trẻ hơn, cởi mở hơn và hiểu biết hơn nhưng điều đó vẫn không ngăn cản đảng cộng sản tiếp tục sa lầy và chế độ cộng sản tiếp tục suy thoái. Cố gắng chuyển hoá đã thất bại.

*
Nhưng tại sao cuộc chuyển hoá này lại thất bại ?

Đó là vì chuyển hoá từ một đảng khủng bố và tội ác sang một đảng cầm quyền và quản trị là một cuộc chuyển hoá cực kỳ khó khăn mà chưa một đảng cộng sản nào làm được. Cuộc chuyển hoá này đòi hỏi một thay đổi văn hoá. Phải thay văn hoá chiến tranh bằng văn hoá hòa bình, văn hoá căm thù bằng văn hoá anh em, văn hoá cướp bóc bằng văn hoá lương thiện, văn hoá khủng bố bằng văn hoá đối thoại và thoả hiệp, văn hoá phá hoại bằng văn hoá xây dựng. Và dĩ nhiên cũng cần thay những kiến thức cũ bằng những kiến thức mới. Đây là một cuộc cách mạng văn hoá to lớn và toàn diện, đòi hỏi những cấp lãnh đạo có văn hoá cao và tầm nhìn xa, những người mà đảng cộng sản hoàn toàn không có. Bộ máy khắc nghiệt của đảng đã loại bỏ khỏi vị trí lãnh đạo hầu hết những người lương thiện, có trí tuệ và nhân cách.

Mọi cuộc chuyển hoá văn hoá đều rất khó khăn, ngay cả nếu người ta ý thức được và thực hiện với tất cả quyết tâm. Nhưng mặt khác đảng cộng sản cũng không ý thức được tầm vóc và sự khó khăn của cuộc chuyển hoá này. Họ đã chỉ để cho thực tại xô đẩy và họ đã chỉ làm những thay đổi vụn vặt bất đắc dĩ khi không có chọn lựa nào khác. Những khuôn mặt lãnh đạo mới dù trẻ tuổi hơn cũng chỉ là những người già nua trong kiến thức, văn hoá và tâm lý. Điều duy nhất thực sự mới so với các đại hội trước là ”đảng Lê Đức Thọ” đã chết già. Từ nay đảng cộng sản không còn dụng cụ để duy trì kỷ luật nội bộ nữa.

Thời gian sau cùng đã làm công việc của nó. Đảng cộng sản đã thay đổi, dù là một sự thay đổi không thành công. Tháng 4-1975 nó là một đảng khủng bố và tội ác xuất sắc, tháng 4-2001 nó là một đảng cầm quyền và quản trị tồi tệ. Không có gì đáng ngạc nhiên và cũng không thể khác. Các đảng cộng sản không được thành lập để quản lý tốt một đất nước và giành thắng lợi trong một cuộc bầu cử, chúng chỉ được thành lập để tạo khủng hoảng và lợi dụng khủng hoảng để cướp chính quyền. Đảng Cộng sản Việt Nam không khác, nó còn cộng sản hơn đa số các đảng cộng sản. Không những thế nó còn thiếu quyết tâm tự cải thiện. Cuối cùng thì tên tướng cướp dữ tợn vẫn chưa thành người lương thiện, hắn mới chỉ thành một tên du đãng. Đỡ hơn, nhưng chưa đủ. Đảng cộng sản không còn ám sát, bỏ tù hàng chục năm không cần xét xử nữa, nhưng nó vẫn tạm giam, quản chế, cắt điện thoại và dùng báo chí độc quyền để vu cáo và bôi nhọ. Và nó vẫn sợ đa nguyên đa đảng.

Giê-Su Ki-Tô cũng đã không thay đổi được văn hoá của dân tộc ông và đành chịu lấy tính mạng để trả giá cho sự sáng suốt của mình. Gorbachev cũng đã không thích nghi được bộ máy đảng cộng sản của ông, sự thay đổi tại Nga đã chỉ đến một cách khó khăn với sự đào thải của Đảng Cộng Sản Liên Xô khỏi chính quyền. Alexis de Tocqueville đã nhận định rằng mối nguy của một chế độ bạo ngược thường đến vào lúc mà nó tìm cách cải tiến. Đó là trường hợp của đảng cộng sản. Mọi cuộc thay đổi văn hoá đều không thể đến từ bên trong một trật tự có sẵn. Nó chỉ có thể đến từ những con người ngoài hệ thống đã đóng góp vào thay đổi và đã biết chuẩn bị trước để đúng hẹn với thay đổi.

*
Chúng ta sẽ nhìn rõ hơn tương lai của chế độ và rút ra một kết luận cho đất nước mình nếu chúng ta suy nghĩ một cách bình tĩnh về giai đoạn cộng sản đang chấm dứt. Đất nước ta từ ngày thành lập vẫn chỉ đặt nền tảng trên một văn hoá duy nhất : văn hoá Khổng Giáo giáo điều và độc đoán. Sau thế chiến II chúng ta có một cơ hội để giành độc lập và thiết lập dân chủ. Nhưng chuyển hoá về dân chủ đòi hỏi một thay đổi văn hoá lớn và một đoạn tuyệt dứt khoát và toàn diện với văn hoá Khổng Giáo. Chúng ta đã không có nổi bước nhảy vọt đó bởi vì chúng ta không có những nhà tư tưởng để hướng dẫn. Các trí thức của chúng ta đã chỉ nghĩ đến cải thiện Khổng Giáo, đa số còn kêu gọi giữ gìn văn hoá truyền thống. Có thể chúng ta không ý thức được nhưng chủ nghĩa cộng sản đã đến đúng như chúng ta mong muốn. Dù nhiều người có thể không đồng ý, nhưng chủ nghĩa cộng sản đã là một cải tiến lớn theo chiều hướng tốt của Khổng Giáo. Nó đã đem vào những giá trị dân chủ và nhân quyền, dù ở một mức độ rất thấp so với yêu cầu của đất nước. Chế độ cộng sản như vậy là một giai đoạn chuyển tiếp tự nhiên từ Khổng Giáo sang dân chủ. Cộng sản không phải là một tai họa từ trên trời rơi xuống hay từ dưới đất mọc lên. Nó từ chúng ta mà đến và chúng ta đã xứng đáng với nó.

Một khi những đam mê và xúc động đã qua đi, các thế hệ mai sau sẽ nhìn giai đoạn cộng sản như một giai đoạn chuyển tiếp đáng tiếc mà trách nhiệm không phải chỉ thuộc về những người cộng sản. Trong chiều dài lịch sử, ngày 30-4 sẽ là một ngày để suy nghĩ.

Giai đoạn chuyển tiếp này đã kéo dài quá lâu và đã gây thiệt hại quá nhiều. Nó phải chấm dứt nhưng sự cáo chung của nó chỉ có ý nghĩa và cũng chỉ đáng mong muốn nếu để mở ra một kỷ nguyên dân chủ. Và muốn thế chúng ta cần một cố gắng tư tưởng vĩ đại để đạt tới một văn hoá dân chủ. Không có một cuộc vận động chính trị nào thành công nếu không được chuẩn bị trước bởi một cuộc vận động văn hoá. Chúng ta đã làm cố gắng này chưa và đã làm tới đâu rồi? Chúng ta đã có bao nhiêu người dân chủ chân chính? Dân tộc Việt Nam chắc chắn là muốn dân chủ và cũng xứng đáng để có dân chủ không kém nhiều dân tộc khác, nhưng chính trị ở nước nào và thời nào cũng chỉ là quan tâm và hoạt động của thiểu số tích cực. Vào thời điểm này chưa thể nói chúng ta đã có một văn hoá dân chủ và một đội ngũ dân chủ mà đất nước đòi hỏi.

Thông Luận số 148 (tháng 5-2001)

Việt Nam: Hãy hủy bỏ mọi cáo buộc đối với những người bảo vệ nhân quyền

Việt Nam: Hãy hủy bỏ mọi cáo buộc đối với những người bảo vệ nhân quyền

Các nhà hoạt động vì môi trường bị đặt vào vòng ngắm trong khi đàn áp vẫn tiếp diễn

Human Rights Watch – (New York, ngày mồng 4 tháng Tư năm 2018) – Hôm nay, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu rằng Việt Nam cần hủy bỏ mọi cáo buộc đối với các nhà vận động nhân quyền Lê Thu Hà, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Văn Đài, Phạm Văn Trội và Trương Minh Đức, đồng thời phóng thích họ ngay lập tức. Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội dự kiến sẽ xử vụ án của họ vào ngày mồng 5 tháng Tư năm 2018.

Sáu nhà hoạt động bị cáo buộc tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79 của bộ luật hình sự.

“Tội duy nhất mà những nhà hoạt động nói trên phạm phải là đã vận động không mệt mỏi cho một nền dân chủ và bảo vệ các nạn nhân bị vi phạm nhân quyền,” ông Brad Adams, Giám đốc Ban Á châu của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói. “Chính quyền Việt Nam đáng lẽ cần cảm ơn họ vì những nỗ lực cải thiện tình hình đất nước, thay vì bắt giữ và đem họ ra xử.”

Lê Thu Hà, Nguyễn Bắc TruyểnNguyễn Trung TônNguyễn Văn ĐàiPhạm Văn Trội và Trương Minh Đức bị cáo buộc có liên quan tới Hội Anh em Dân chủ, được Nguyễn Văn Đài và các nhà hoạt động cùng chí hướng thành lập từ tháng Tư năm 2013. Với các mục tiêu được ghi rõ là “bảo vệ các quyền con người đã được Hiến pháp Việt Nam và các Công ước quốc tế thừa nhận” và “vận động xây dựng một xã hội dân chủ tiến bộ, công bằng và văn minh tại Việt Nam,” Hội Anh em Dân chủ cung cấp một mạng lưới cho các nhà hoạt động cả trong và ngoài nước, những người muốn vận động cho dân chủ và nhân quyền Việt Nam.

Các thành viên của hội đã tổ chức các khóa tập huấn không chính thức về xã hội dân sự, nhân quyền và dân chủ, và các kỹ năng như an toàn và an ninh mạng Internet. Họ tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc và bảo vệ môi trường, và các hoạt động nhân đạo như giúp đỡ các nạn nhân bị thiên tai hay thương phế binh. Hội Anh em Dân chủ trợ giúp về pháp lý cho một số nhà hoạt động bị bắt và truy tố về các hoạt động dân chủ, và cùng ký các kiến nghị kêu gọi dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Họ đi thăm các gia đình tù nhân và can phạm chính trị để bày tỏ tình đoàn kết.

Cả sáu nhà hoạt động đã tham gia nhiều công việc liên quan tới nhân quyền, như vận động cho các nạn nhân, giảng bài về tiêu chuẩn nhân quyền, vận động cho tự do tôn giáo, và hỗ trợ các tù nhân chính trị và gia đình họ. Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Trung Tôn, Phạm Văn Trội và Trương Minh Đức cũng tham gia các nhóm xã hội dân sự khác để đấu tranh chống Formosa, một công ty thép Đài Loan đã thải độc xuống biển gây ra thảm họa môi trường quy mô lớn dọc bờ biển miền trung Việt Nam.

Công an bắt giữ Nguyễn Văn Đài và Lê Thu Hà vào tháng Mười hai năm 2015 và cáo buộc họ tội tuyên truyền chống nhà nước theo điều 88 bộ luật hình sự. Cả hai người đều bị tạm giam gần hai mươi tháng mà không được tiếp xúc với nguồn hỗ trợ pháp lý. Tháng Bảy năm 2017, công an thay đổi nội dung cáo buộc thành tội danh “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79 của bộ luật hình sự. Bốn người còn lại bị bắt vào tháng Bảy năm 2017 với cùng tội danh vừa nêu.

Chỉ trừ Lê Thu Hà, cả năm người còn lại đã từng phải thụ án tù giam vì các hoạt động dân chủ và nhân quyền ôn hòa của mình (để xem chi tiết lý lịch của từng người, xin đọc bản phụ lục kèm theo đây).

Theo báo Quảng Bình, cơ quan ngôn luận của đảng bộ tỉnh Quảng Bình, “lợi dụng sự cố môi trường biển ở các tỉnh miền Trung tháng 4-2016, cùng với các thế lực thù địch, phần tử phản động khác, Hội Anh em Dân chủ đã ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, kích động, lôi kéo nhân dân tham gia biểu tình dưới cái gọi là ‘công lý,’ ‘tự do,’ ‘dân chủ,’ ‘tuần hành biểu tình vì môi trường.’ Các đối tượng tìm cách thổi phồng, khoét sâu những vấn đề nhạy cảm mà dư luận xã hội quan tâm; tạo bức xúc, nghi ngờ, bất bình trong quần chúng. Chính sự cố ô nhiễm môi trường biển vô tình trở thành ‘cơ hội,’ là ‘nguyên cớ’ cho các đối tượng lợi dụng, lu loa nhằm gây ảnh hưởng để dư luận trong và ngoài nước hiểu sai lệch về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương.”

Kể từ sau sự cố môi trường Formosa vào tháng Tư năm 2016, đã có nhiều cuộc biểu tình ở Việt Nam đòi một môi trường sống sạch và đền bù thỏa đáng cho các nạn nhân bị ảnh hưởng. Chính quyền Việt Nam đã đối phó bằng cách bắt giữ và bỏ tù các nhà hoạt động tham gia biểu tình, trong đó có Nguyễn Ngọc Như QuỳnhTrần Thị NgaHồ Văn HảiTrần Hoàng PhúcHoàng Đức BìnhNguyễn Văn Hóavà nhiều người khác nữa.

“Không phải ngẫu nhiên mà phiên xử sáu nhà hoạt động được xếp lịch vào đúng ngày kỷ niệm hai năm thảm họa môi trường Formosa,” ông Adams nói. “Thay vì buộc những người phê phán phải im tiếng, chính quyền Việt Nam lẽ ra cần yêu cầu một bên thứ ba kiểm định khách quan về những nỗ lực làm sạch, khắc phục sự cố của công ty này, và trao đổi trực tiếp với những người dân trong vùng bị ảnh hưởng để đảm bảo mọi thiệt hại của họ được đền bù một cách công bằng và minh bạch.”

https://www.hrw.org/vi/news/2018/04/04/316574

Muốn đọc thêm tin, bài của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền về Việt Nam, vui lòng truy cập:

https://www.hrw.org/vi/asia/vietnam

Muốn đọc thêm thông tin về tù nhân chính trị Việt Nam, vui lòng truy cập:

https://www.hrw.org/vi/video-photos/interactive/2017/11/02/free-vietnams-political-prisoners

Muốn có thêm thông tin, vui lòng liên hệ:

Ở San Francisco, Brad Adams (tiếng Anh): +1-347-463-3531 (di động); hay email: adamsb@hrw.org. Twitter: @BradMAdams

Ở Washington, DC, John Sifton (tiếng Anh): +1-646-479-2499 (di động); hay email: siftonj@hrw.org. Twitter: @johnsifton

*

  1. Nguyễn Văn Đài

Nguyễn Văn Đài, 48 tuổi, là một luật sư nhân quyền từng hỗ trợ thành lập nhiều nhóm nhân quyền trong năm 2006, trong đó có Công đoàn Việt Nam Độc lập, Khối dân chủ 8406, và Ủy ban Nhân quyền Việt Nam. Ông đã nhận bào chữa cho hầu hết các vụ liên quan đến các nhà thờ Tin lành tại gia, trong đó có vụ của mục sư dòng Mennonite và cựu tù nhân chính trị Nguyễn Hồng Quang. Ông đã viết nhiều bài về dân chủ và tự do báo chí. Ông cũng mở nhiều lớp học ngoại khóa ở văn phòng luật của mình để dạy cho những người muốn học về nhân quyền.

Vì các hoạt động của mình mà Nguyễn Văn Đài đã phải chịu rất nhiều đợt sách nhiễu, đe dọa, thẩm vấn, quản thúc, câu lưu, hành hung và tù giam. Ông bị khai trừ khỏi luật sư đoàn và bị bắt hồi tháng Ba năm 2007 về tội “tuyên truyền chống nhà nước” theo điều 88 của bộ luật hình sự. Tháng Năm năm 2007, ông bị xử và kết án năm năm tù. Tháng Mười một năm 2007, tòa phúc thẩm giảm mức án của ông xuống còn bốn năm.

Sau khi hoàn thành bản án tù, Nguyễn Văn Đài lập tức nối lại các hoạt động vì quyền con người. Tháng Tư năm 2013, ông giúp thành lập một nhóm có tên gọi là “Hội Anh em Dân chủ” để “bảo vệ các quyền con người đã được Hiến pháp Việt Nam và các Công ước quốc tế thừa nhận” và để “vận động xây dựng một xã hội dân chủ tiến bộ, công bằng và văn minh tại Việt Nam.”

Tháng Năm năm 2014, khi đang ở trong một quán cà phê cùng vài nhà hoạt động nhân quyền khác, một nhóm người kéo đến, ném ly vào ông và đánh đập ông. Tháng Giêng và tháng Ba năm 2015, một nhóm người tấn công vào nhà ông và tìm cách phá cửa chính. Đầu tháng Mười hai năm 2015, Nguyễn Văn Đài có bài nói chuyện về các quyền con người được bảo đảm trong Hiến pháp Việt Nam, tiếp nối bằng một cuộc thảo luận mở ở giáo xứ Vạn Lộc, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Buổi chiều hôm đó, Nguyễn Văn Đài cùng ba nhà hoạt động khác trở về Hà Nội. Xe taxi chở họ bị một nhóm khoảng chục người mặc thường phục và đeo khẩu trang. Nguyễn Văn Đài kể với một phóng viên đài Á châu Tự do rằng những người này lôi ông ra khỏi xe taxi, đánh ông vào đùi và vai bằng gậy gỗ, rồi lôi ông lên xe ô tô của họ. Trong xe, họ vẫn tiếp tục đánh ông. Sau cùng, những kẻ thủ ác lột áo khoác và giày rồi bỏ ông trên một bãi biển. Ba nhà hoạt động khác cũng bị các nhóm người khác đánh rất tàn bạo. Mười ngày sau vụ tấn công đó, công an bắt Nguyễn Văn Đài khi ông đang trên đường đi gặp một phái đoàn Liên Âu tới Việt Nam để tham gia cuộc đối thoại nhân quyền thường niên.

Nguyễn Văn Đài bị cáo buộc tội tuyên truyền chống nhà nước và bị công an tạm giam suốt 19 tháng rưỡi mà không được tiếp cận với luật sư hay nguồn hỗ trợ pháp lý. Tháng Bảy năm 2017, công an thay đổi nội dung cáo buộc thành tội danh hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo điều 79 của bộ luật hình sự.

Nguyễn Văn Đài được trao giải thưởng tự do ngôn luận Hellman/Hammett năm 2007, giải Nhân quyền Việt Nam của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam cũng trong năm 2007 và Giải Nhân quyền của Liên đoàn Thẩm phán Đức năm 2017.

  1. Trương Minh Đức

Trương Minh Đức, 58 tuổi, là một nhà báo từng viết và đăng bài trên nhiều tờ báo chính thống ở Việt Nam, như báo Tiền Phong, Thanh Niên, Pháp Luật và Kiên Giang (tờ báo của quê ông). Các bài viết của ông phanh phui tham nhũng và các việc khuất tất khác của chính quyền địa phương liên quan tới quyền sở hữu đất đai. Ông kêu gọi mọi người hãy giúp đỡ những người gặp khó khăn. Năm 2006, ông tham gia khối dân chủ 8406 và Đảng Vì dân, “nhằm mục đích góp phần đấu tranh thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa xã hội, và xây dựng một nước Việt Nam Mới thật sự có hòa bình, tự do, ấm no và tiến bộ.”

Trương Minh Đức bị bắt vào tháng Năm năm 2007 và cáo buộc tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước” theo điều 258 của bộ luật hình sự. Ông bị kết án năm năm tù. Sau khi hoàn thành bản án tù vào tháng Năm năm 2012, Trương Minh Đức lại tiếp tục viết về các vấn đề nhân quyền. Ông vận động cho tù nhân lương tâm, những người vẫn đang bị ngược đãi trong ngục tù chỉ vì không chịu nhận tội. Ông tham gia Liên đoàn Lao động Việt Tự do từ năm 2014 đến năm 2016 và Phong trào Lao động Việt từ năm 2016 để đấu tranh cho quyền lợi của người lao động. Ông là thành viên Hội Cựu Tù nhân Lương tâm Việt Nam, và Hội Anh em Dân chủ, được thành lập từ năm 2013 để “bảo vệ các quyền con người đã được Hiến pháp Việt Nam và các Công ước quốc tế thừa nhận” và để “vận động xây dựng một xã hội dân chủ tiến bộ, công bằng và văn minh tại Việt Nam.” Ông cũng đấu tranh chống Formosa, một công ty thép Đài Loan đã thải độc xuống biển gây ra thảm họa môi trường quy mô lớn dọc bờ biển miền trung Việt Nam.

Vì các hoạt động của mình, Trương Minh Đức đã phải chịu rất nhiều vụ sách nhiễu, đe dọa, quản thúc, thẩm vấn, và hành hung. Tháng Chín năm 2014, khi Trương Minh Đức đi cùng với ba nhà hoạt động khác tới Bộ Công an ở Hà Nội để yêu cầu giải thích lệnh cấm xuất cảnh đối với nhà vận động cho quyền lợi của người lao động Đỗ Thị Minh Hạnh, một nhóm người mặc thường phục đã tấn công và đánh ông đến ngất xỉu. Tháng Mười một năm 2014, ông bị một nhóm tám người đánh rất tàn bạo, trong đó có một người ông nhận diện được là công an tên là Hòa, người đã thẩm vấn và đánh mình hai tháng trước đó ở đồn công an phường Mỹ Phước, huyện Bến Cát (tỉnh Bình Dương). Tháng Mười một năm 2015, công an tỉnh Đồng Nai câu lưu và hành hung Trương Minh Đức cùng nhà hoạt động vì quyền lợi người lao động Đỗ Thị Minh Hạnh chỉ vì họ giúp đỡ người lao động ở Công ty Yupoong thực hành các quyền của mình.

Tháng Bảy năm 2017, công an bắt giữ Trương Minh Đức và cáo buộc ông tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo điều 79 của bộ luật hình sự.

Trương Minh Đức được trao giải thưởng tự do ngôn luận Hellman/Hammett năm 2013, và giải Nhân quyền Việt Nam của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam năm 2010.

  1. Nguyễn Trung Tôn

Nguyễn Trung Tôn, 46 tuổi, là mục sư Tin lành độc lập và một blogger chuyên viết về tình trạng thiếu tự do tôn giáo và các vấn đề nhân quyền khác ở Việt Nam. Ông viết về tình trạng trưng thu đất đai ở địa phương và nạn tham nhũng đã đẩy nhiều nông dân vào hoàn cảnh không có đất. Ông nhận xét về các khoản lãng phí tiền thuế và ngân sách vào các lễ hội thay vì sử dụng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trường học hay hỗ trợ cho dân nghèo. Ông ủng hộ những người bạn hoạt động vì quyền tự do tôn giáo, như nhà lãnh đạo Phật giáo Hòa Hảo độc lập Lê Quang Liêm hay mục sư Tin lành Mennonite Dương Kim Khải. Ngoài ra, Nguyễn Trung Tôn cũng viết về tình trạng công an sách nhiễu và tấn công bản thân ông cũng như gia đình ông. 

Nguyễn Trung Tôn đã phải chịu rất nhiều đợt sách nhiễu, đe dọa, quản thúc, thẩm vấn, và hành hung. Tháng Năm năm 2003, nhiều người mặc thường phục tấn công vào nhà riêng, nơi ông sử dụng làm nhà thờ tại gia. Tháng Sáu năm 2006, ông bị công an triệu tập sau khi dự một buổi lễ tại nhà thờ, và bị hành hung trong khi thẩm vấn. Tháng Tám năm 2009, trong một buổi cầu nguyện tại nhà riêng, nhiều người mặc thường phục có đại diện chính quyền địa phương đi cùng đã tấn công và đánh đập những người trong gia đình Nguyễn Trung Tôn và bạn bè hoạt động vì tự do tôn giáo. Tháng Sáu năm 2010, cậu con trai vị thành niên của ông, tên là Nguyễn Trung Trọng Nghĩa bị năm người lạ mặt đánh trên đường đi học sau khi cha cậu đã phanh phui các hành vi vi lạm dụng quyền lực của công an.

Nguyễn Trung Tôn bị bắt vào tháng Giêng năm 2011 về tội tuyên truyền chống nhà nước và bị kết án hai năm tù. Sau khi thi hành xong án tù vào tháng Giêng năm 2013, Nguyễn Trung Tôn lập tức nối lại các hoạt động vận động cho nhân quyền và dân chủ. Ông viết hồi ký về thời gian ở trong tù, sau đó đã được đăng trên Dân Làm Báo. Ông vận động đòi thả các tù nhân chính trị. Ông là thành viên của Hội Cựu Tù nhân Lương tâm Việt Nam và Hội Anh em Dân chủ, được thành lập từ năm 2013 nhằm “bảo vệ các quyền con người đã được Hiến pháp Việt Nam và các Công ước quốc tế thừa nhận” và để “vận động xây dựng một xã hội dân chủ tiến bộ, công bằng và văn minh tại Việt Nam.” Ông đấu tranh chống Formosa, một công ty thép Đài Loan đã thải độc xuống biển gây ra thảm họa môi trường quy mô lớn dọc bờ biển miền trung Việt Nam.

Tháng Hai năm 2017, Nguyễn Trung Tôn và một người bạn nữa đón xe khách ở xã Quảng Thịnh, tỉnh Thanh Hóa để về thị trấn Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình. Khi tới nơi, một nhóm khoảng 7, 8 người mặc thường phục lôi họ vào một chiếc xe bảy chỗ, lấy hết đồ đạc và lột quần áo của họ, và dùng áo khoác trùm đầu họ rồi đánh liên tục bằng ống sắt. Sau đó những kẻ thủ ác bỏ Nguyễn Trung Tôn và người bạn cùng đi xuống một cánh rừng vắng ở tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Trung Tôn bị thương nặng và phải trải qua phẫu thuật tại một bệnh viện địa phương.

Tháng Bảy năm 2017, công an bắt giữ Nguyễn Trung Tôn và cáo buộc ông tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo điều 79 của bộ luật hình sự.

Nguyễn Trung Tôn được trao giải thưởng tự do ngôn luận Hellman/Hammett năm 2013.

  1. Phạm Văn Trội

Phạm Văn Trội, 46 tuổi, là một blogger đã dùng nhiều bút danh để viết về nhân quyền, dân chủ, quyền sở hữu đất đai, quyền tự do tôn giáo và tranh chấp lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ông là một thành viên tích cực của Ủy ban Nhân quyền Việt Nam, một trong vài tổ chức nhân quyền duy nhất từng hoạt động ở Việt Nam thời đó, cho đến khi tất cả các lãnh đạo của tổ chức này bị bắt. Ông cũng viết cho Tổ Quốc, một tập san bất đồng chính kiến. Kể từ năm 2006, ông phải chịu rất nhiều vụ sách nhiễu, quản thúc, hành hung và thẩm vấn.

Công an bắt Phạm Văn Trội vào tháng Chín năm 2008 và cáo buộc ông tội tuyên truyền chống nhà nước theo điều 88 bộ luật hình sự. Tháng Năm năm 2009, Đoàn Công tác về Bắt giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc kết luận rằng Phạm Văn Trội đã bị tạm giữ oan. Bất chấp kết luận đó, tới tháng Mười năm 2009 ông vẫn bị xử và kết án bốn năm tù giam.

Theo nội dung bản cáo trạng được đăng trên báo chí nhà nước, Phạm Văn Trội “đã viết bài ‘Đơn tố cáo về chính sách an ninh của Nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam’ vào tháng 11-2006 với nội dung xuyên tạc sự thật, vu cáo Nhà nước đàn áp dân chủ. Ngoài ra, Trội còn trả lời phỏng vấn qua điện thoại vu khống bị công an, quần chúng nhân dân đàn áp đánh đập.”

Sau khi hoàn thành bản án tù vào tháng Chín năm 2012, Phạm Văn Trội lập tức nối lại việc vận động cho nhân quyền và dân chủ. Tháng Tư năm 2013, ông giúp thành lập Hội Anh em Dân chủ nhằm “bảo vệ các quyền con người đã được Hiến pháp Việt Nam và các Công ước quốc tế thừa nhận” và để “vận động xây dựng một xã hội dân chủ tiến bộ, công bằng và văn minh tại Việt Nam.” Ông vận động đòi thả các tù nhân và can phạm chính trị trong đó có Trần Anh Kim và Nguyễn Văn Đài. Ông đấu tranh chống Formosa, một công ty thép Đài Loan đã thải độc xuống biển gây ra thảm họa môi trường quy mô lớn dọc bờ biển miền trung Việt Nam.

Phạm Văn Trội bị theo dõi gắt gao. Các nhà hoạt động và cựu tù nhân chính trị tới thăm ông bị sách nhiễu, câu lưu và đánh đập. Tháng Mười hai năm 2016, nhiều người mặc thường phục tới ném đá vào nhà ông và làm vỡ kính cửa sổ.

Công an bắt Phạm Văn Trội vào tháng Bảy năm 2017 và cáo buộc ông tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo điều 79 của bộ luật hình sự.

Phạm Văn Trội được trao giải thưởng tự do ngôn luận Hellman/Hammett năm 2010.

  1. Nguyễn Bắc Truyển

Nguyễn Bắc Truyển, 50 tuổi, là một doanh nhân bắt đầu tham gia các hoạt động nhân đạo vào đầu thập niên 2000. Ông hỗ trợ các nạn nhân bị thiên tai, trẻ mồ côi và trẻ em vùng sâu vùng xa. Công ty ông là một trong số những công ty đầu tiên ở Việt Nam áp dụng chế độ nghỉ sinh con cho nam giới. Ông viết và đăng bài trên các trang mạng tin tức ở hải ngoại về tình trạng đè nén, bất công và vi phạm nhân quyền của chính quyền Việt Nam. Năm 2005, ông gia nhập Đảng Dân chủ Nhân dân mới được thành lập để vận động cho đa nguyên đa đảng ở Việt Nam.

Nguyễn Bắc Truyển bị bắt hồi tháng Mười một năm 2006 theo điều 88 bộ luật hình sự về tội danh tuyên truyền chống nhà nước. Theo bản cáo trạng được báo chí nhà nước đăng lại, trước thềm Hội nghị Thượng đỉnh APEC (vào tháng 11 năm 2006), ông đã “đi rải truyền đơn, tập hợp lực lượng, tổ chức biểu tình, viết thư đòi gặp Tổng thống Mỹ khi vào thăm Thành phố Hồ Chí Minh.” Tháng Năm năm 2007, Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kết án Nguyễn Bắc Truyển bốn năm tù giam. Đến tháng Tám năm 2007, Tòa án Tối cao giảm mức án của ông xuống còn ba năm sáu tháng.

Ngay sau khi mãn án tù hồi tháng Năm năm 2010, Nguyễn Bắc Truyển bắt đầu đăng các bài viết về những người bạn tù chính trị của mình, và nỗi khó khăn, sự kỳ thị mà những cựu tù nhân chính trị phải chịu đựng. Ông là thành viên trực ngôn của Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam, có mục tiêu hỗ trợ các tù nhân và gia đình họ. Ông trả lời phỏng vấn của Đài Á châu Tự do và đài BBC về các trải nghiệm trong tù và tập hợp một danh sách chi tiết các cựu tù nhân ở Việt Nam cho các tổ chức nhân quyền quốc tế. Nguyễn Bắc Truyển vận động cho các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo Việt Nam độc lập bị đàn áp chỉ vì họ không chịu theo giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đã được nhà nước phê chuẩn. Ông phối hợp với nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế ở Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện các hoạt động nhân đạo cho các thương phế binh từng chiến đấu trong quân đội miền Nam trước 1975. Ôngđấu tranh chống Formosa, một công ty thép Đài Loan đã thải độc xuống biển gây ra thảm họa môi trường quy mô lớn dọc bờ biển miền trung Việt Nam. 

Vì các hoạt động bảo vệ nhân quyền của mình, Nguyễn Bắc Truyển đã phải chịu nhiều vụ sách nhiễu, đe dọa, theo dõi gắt gao, thẩm vấn, và hành hung. Tháng Tám năm 2010, công an thành phố Hồ Chí Minh câu lưu và thẩm vấn ông sau khi ông công khai kêu gọi Bộ Chính trị Việt Nam phóng thích tất cả tù nhân chính trị và tôn giáo. Tháng Hai năm 2014, một nhóm bạn hoạt động đến thăm Nguyễn Bắc Truyển và vợ ông là Bùi Thị Kim Phượng ở huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Cảnh sát giao thông và nhiều người mặc thường phục đã chặn họ lại và tấn công họ. Ba người trong nhóm bị bắt, bị cáo buộc tội “phá rối trật tự công cộng” và bị kết án tù. Hai tuần sau đó, Nguyễn Bắc Truyển ra Hà Nội để gặp các nhà ngoại giao nước ngoài nhằm vận động cho những người bị bắt. Trên đường đến Đại Sứ quán Úc, một nhóm người mặc thường phục tấn công và làm dập mũi ông. Tháng Chín năm 2016, Nguyễn Bắc Truyển cùng vợ đang trên đường về nhà thì bị một nhóm người mặc thường phục tấn công và dùng mũ bảo hiểm đánh họ.

Công an bắt Nguyễn Bắc Truyển vào tháng Bảy năm 2017 và cáo buộc ông tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo điều 79 của bộ luật hình sự.

Nguyễn Bắc Truyển được trao giải thưởng tự do ngôn luận Hellman/Hammett năm 2011, và giải Nhân quyền Việt Nam của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam trao năm 2014.

  1. Lê Thu Hà

Lê Thu Hà, 36 tuổi, bắt đầu quan tâm đến các vấn đề xã hội và nhân quyền từ khi còn là sinh viên. Sau khi tốt nghiệp, chị đi dạy tiếng Anh và tham gia các hoạt động xã hội dân sự. Năm 2013, chị tham gia Hội Anh em Dân chủ để “bảo vệ các quyền con người đã được Hiến pháp Việt Nam và các Công ước quốc tế thừa nhận” và để “vận động xây dựng một xã hội dân chủ tiến bộ, công bằng và văn minh tại Việt Nam.” Chị giúp nhóm dịch các báo cáo về vi phạm nhân quyền sang tiếng Anh. Chị tham gia biểu tình vì môi trường để phản đối việc chặt cây ở Hà Nội vào tháng Ba năm 2015. Chị cùng một nhóm nhỏ các nhà hoạt động đưa tin về các vụ vi phạm nhân quyền trên một kênh YouTube gọi là “Lương tâm TV” do Hội Anh em Dân chủ và Hội Cựu Tù nhân Lương tâm thành lập vào tháng Tám năm 2015. Chị kêu gọi hủy bỏ điều 258 có nội dung trừng phạt những người hoạt động ôn hòa với tội danh “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước.” Lê Thu Hà cũng đi tới tòa án khi có các phiên xử những người hoạt động chính trị để bày tỏ tình đoàn kết.

Tháng Tư năm 2015, công an cấm Lê Thu Hà xuất cảnh đi dự hội nghị về nhân quyền ở Thụy Điển. Tháng Chín năm 2015, chị bị câu lưu và thẩm vấn về việc tham gia kênh “Lương tâm TV.”

Tháng Mười hai năm 2015, công an bắt Lê Thu Hà và cáo buộc chị tội tuyên truyền chống nhà nước theo điều 88 của bộ luật hình sự. Chị bị công an tạm giam 19 tháng rưỡi mà không được tiếp xúc với luật sư hay nguồn hỗ trợ pháp lý. Tháng Bảy năm 2017, công an thay đổi tội danh của chị thành “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79 của bộ luật hình sự.

Công an kết luận điều tra vụ Ngân hàng Đông Á

Không hiểu sao thất thoát hàng ngàn tỷ đồng VN quá dễ dàng như vậy?

Hệ thống kiểm soát không có hay bất lực?

Công an kết luận điều tra vụ Ngân hàng Đông Á

2018-04-04
 

Tòa án Việt Nam đang xử nhiều vụ cáo buộc sai phạm liên quan đến ngân hàng. Ảnh chụp phiên tòa xử vụ án Ngân hàng Đại dương, 9/2017.

Tòa án Việt Nam đang xử nhiều vụ cáo buộc sai phạm liên quan đến ngân hàng. Ảnh chụp phiên tòa xử vụ án Ngân hàng Đại dương, 9/2017.

 AFP
 

Cơ quan điều tra Bộ Công an hôm 4/4 đề nghị truy tố nguyên Tổng Giám đốc Ngân hàng Đông Á vì tội cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Á (DAB)

Theo kết luận điều tra, ông Trần Phương Bình đã mua đô la Mỹ cho ông Phan Văn Anh Vũ, cũng như cho ông Vũ vay tiền để mua chính cổ phần của Ngân hàng Đông Á.

Ông Phan Văn Anh Vũ, có hàm thượng tá công an, sống ở Đà Nẵng bị bắt vào đầu năm 2018 trong một vụ án khác có liên quan đến lạm dụng quyền lực và thao túng thị trường địa ốc tại Đà Nẵng để trục lợi.

Kết luận điều tra cho biết ông Phan Văn Anh Vũ, còn gọi là Vũ Nhôm, đã khai ra rằng ông Bình đã mua cho ông 13 triệu 400 ngàn đô la Mỹ, và cho đến nay ông Vũ chưa trả cho ông Bình đồng nào. Ông Vũ nói cũng không biết ông Bình lấy tiền ở đâu để mua đô la Mỹ cho ông Vũ.

Cơ quan điều tra nói không có cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự đối với ông Vũ trong vụ mua đô la này nhưng ông Vũ phải trả số tiền này lại cho ông Bình.

Theo cơ quan điều tra thì số tiền 13 triệu 400 ngàn đô la, tương đương với 284 tỉ đồng tiền Việt Nam chỉ là một phần nhỏ trong tổng số tiền bị thất thoát tại Ngân hàng Đông Á là 3.405 tỉ đồng, mà trách nhiệm thuộc về ông Trần Phương Bình.

Ngoài ông Bình, cơ quan điều tra còn đề nghị truy tố 20 bị can khác, bao gồm 2 nguyên Phó Tổng Giám đốc DAB là bà Nguyễn Thị Kim Xuyến và Nguyễn Thị Ngọc Vân với tội danh tương tự.

Trong số 21 bị can đề nghị truy tố, có 8 bị can được tại ngoại, 13 bị can bị tạm giam.

Từ năm 2016 trở lại đây, một loạt các lãnh đạo ngân hàng thương mại và ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã bị truy tố vì các tội thiếu trách nhiệm, cố ý làm trái, tham ô và lạm dụng chức quyền để chiếm đoạt tài sản. Một lãnh đạo ngân hàng đã bị tuyên án tử hình vào năm ngoái, trong khi một cựu Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước là ông Đặng Thanh Bình hôm 22/3 đã bị Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao tống đạt cáo trạng truy tố.

Martin Luther King, biểu tượng đấu tranh dân quyền

Mục Sư Việt Nam nào cũng ngưỡng mộ MS King. Xin Chúa dấy lên hàng ngàn MS King da vàng mũi tẹt. 

Martin Luther King Jr., hiện thân của phong trào dân quyền ở Mỹ, bị ám sát cách đây 50 năm vào ngày 4 tháng 4 năm 1968. Đây là một số sự kiện chính về cuộc đời của ông.
VOATIENGVIET.COM
 

“ĐA PHẦN DÂN ĐỒNG TÌNH”, MỘT KIỂU NÓI VỪA XẤC LÁO VỪA KHINH KHI NHÂN DÂN

 
Hoang Le Thanh shared Thuy Van‘s post.

“ĐA PHẦN DÂN ĐỒNG TÌNH”, MỘT KIỂU NÓI VỪA XẤC LÁO VỪA KHINH KHI NHÂN DÂN

Fb Đỗ Ngà

Một lần Doanh Chính – Tần Thủy Hoàng bị một kiếm khách tên Kinh Kha hành thích, lúc đó một hoạn quan tiểu tốt có tên là Triệu Cao ra tay bất ngờ khiến Kinh Kha thất thế mà cứu được vua Tần thoát chết. Kể từ đó, Triệu Cao được vua tin cẩn giao thái tử Hồ Hợi cho hắn dạy dỗ. Thế là thanh thế Triệu Cao ngày một lớn mạnh, về sau lấn át luôn cả thừa tướng Lý Tư.

Năm 210 trước CN, một lần Tần Thủy Hoàng đi tuần du và ngã bệnh trên đường đi. Khi sắp chết, có Triệu Cao kế bên Tần Thủy Hoàng cho biết di chúc truyền ngôi cho thái tử Phù Tô – anh thái tử Hồ Hợi. Thế nhưng khi về đến kinh thành thì Triệu Cao dự tính xé đi chúc để đưa Hồ Hợi lên. Với thế lực mạnh hơn, hắn vừa gài vừa ép Lý Tư cùng hắn lập di chúc giả đưa Hồ Hợi lên thay. Trong thế yếu, Lý Tư phải đồng loã với Triệu Cao sửa di chúc truyền ngôi và buộc Phù Tô phải tự sát.

Hồ Hợi lên ngôi lấy niên hiệu là Tần Nhị Thế. Lúc này thế lực Triệu Cao lớn mạnh rất nhanh do công lao sửa di chúc giúp ông vua này lên ngôi nên được vua này tin dùng. Đến lúc này, Triệu Cao đã chuyển từ vai trò lo hậu cung của một hoạn quan sang việc can thiệp triều chính. Nhưng thừa tướng Lý Tư còn đó là một cản trở. Thế là hắn nghĩ cách diệt trừ luôn Lý Tư để độc chiếm triều chính lấn át luôn quyền hành của vua. Hắn bèn lập mưu vu cho Lý Do con trai Lý Tư theo quân phản loạn. Thế là hắn diệt cả nhà Lý Tư. Diệt Lý Tư xong hắn nghiễm nhiên lên làm thừa tướng và độc chiếm triều chính.

Vì sự phản nghịch, gian manh, độc ác, mà đặc biệt gốc gác là hoạn quan nên rất nhiều bá quan trong triều tỏ ra không phục. Để trừ khử những quan nào không phục, Triệu Cao nghĩ ra một kế độc. Hắn bắt một con hươu và bảo với vua rằng, nó là con ngựa. Vua hèn nên cũng bảo đó là ngựa. Còn các quan, ai bảo ngựa thì được sống mà ai nói hươu điều bị đem giết. Vì sợ, nên đa phần các quan đều cho đó là con ngựa.

Qua đây chúng ta thấy Triệu Cao, hắn là một tên xấc láo với vua và khinh thường tất cả. Lời cố tình nói sai của một người có quyền thì buộc mọi người phải theo. Loại quyền lực này nguy hiểm cho xã hội vô cùng, không trừ khử thì trước sau gì đất nước này cũng tan nát. Đất nước này không mất thì chắc chắn cũng nát.

Vâng, đấy là mẩu chuyện Triệu Cao chỉ hươu nói ngựa. Câu chuyện này là một hình mẫu về sự gian trá, độc tài, độc ác, thủ đoạn của một kẻ lộng quyền hách dịch và đầy tính kinh người. Với quyền lực trong tay, hắn chỉ phân bảo cơm và chỉ cơm bảo phân thì kẻ dưới quyền vẫn phải chấp nhận. Cứ có quyền là muốn dựng chuyện thì dựng, muốn vẽ vời gì vẽ cũng được bất chấp sự thật, bất chấp đạo lý và bất chấp lẽ phải. Cứ có quyền trong tay là đạp lên tất cả.

Ngày trước Triệu Cao khinh thường bá quan, ngày nay CS khinh thường cả một dân tộc. Không cần hỏi ý một người dân nào, nó mang tiền mồ hôi nước mắt của dân đem tặng Campuchia 25 triệu đô, tặng Lào 100 triệu đô, tặng Cuba hàng ngàn tấn gạo và tự ý xóa nợ rồi hách dịch bảo rằng “nhân dân Việt Nam” tặng. Dân đang đói rách tả tơi, dân nào đồng ý tặng? Nó tự cho mình cái quyền chỉ tay vào gà bảo vịt thì dân phải gọi là vịt. Một sự khinh thường nhân dân không thể chấp nhận được.

Và hôm nay, CS tăng phí bảo vệ môi trường lên 4.000 đồng/lít xăng rồi tự ý bảo rằng “đa phần dân đồng tình”. Dân nào đồng tình với chủ trương ăn cướp tiền của mình? Không có gì khốn nạn bằng, không điều gì mất dạy cho bằng thằng ăn cướp bảo rằng nạn nhân của nó đa phần là đồng tình với hành động của nó. Một chính quyền khinh thường dân như thế, xem dân như cỏ rác thế thì làm sao chúng có thiện chí chăm cho xã hội? Không bao giờ, không bao giờ nó chăm sóc cho cỏ rác cả. Nó sinh ra là chỉ để vơ vét, hết. Ta nên nhớ như thế.

Một chính quyền bất chính thì chỉ làm những điều bất chính. Một đảng mất dạy thì hành động với dân rặc một phường mất dạy. Không trưng cầu dân ý, không khảo sát một người nào nhưng vẫn vênh mặt lên bảo “bọn dân đen nó đồng tình rồi đó”. Đây rõ ràng là một thái độ vừa khinh khi vừa xấc láo với toàn thể nhân dân. Thật sự, nếu nhân dân ta có lòng tự trọng thì đã kéo cổ bọn này xuống. Nhưng không hiểu sao dân mãi hiền quá, hiền để rồi bị thứ phường mất dạy đó muốn làm gì thì làm. 93 triệu người là sức mạnh vô biên, đừng để phường mất dạy cai trị chúng ta mãi.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ngư Dân & Biển Cả

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ngư Dân & Biển Cả (RFA)

Ảnh của tuongnangtien

Người dân Việt Nam chẳng phải học sinh tiểu học, đặc biệt là ngư dân.

Báo Lao Động (27/03/2018)

Tờ Người Việt, số ra ngày 26 tháng 3 năm 2018, vừa buồn bã loan tin: “Một trường trung học ở Santa Ana phải tháo cờ CSVN sau khi bị phản đối.” Vài hôm sau, hôm 30 tháng 3 năm 2018, cũng báo Người Việt cho hay tiếp rằng ông ông Don Wilson, Tổng Quản Trị của trường này phát biểu: “Đây là một vinh dự lớn nhất của đời tôi vì nhận được sự thông cảm của cộng đồng người Việt. Chúng tôi rất áy náy và xấu hổ vì đã treo lá cờ kia.”

Lá cờ đỏ sao vàng, rõ ràng, không được người Việt nước ngoài chấp nhận.

Dân trong nước, xem chừng, cũng không ưa thích gì cho lắm. Sau khi Tỉnh Đoàn Hậu Giang tổ chức trao tặng 600 bộ cờ tổ quốc và ảnh Hồ Chí Minh cho các bà mẹ Việt Nam anh hùng (“nhân kỷ niệm 126 năm ngày sinh của Bác”) dư luận cũng nhao nhao phản đối. Riêng nhà báo Trương Duy Nhất còn đặt ra một câu hỏi khó: “Tặng ảnh ông Hồ cho người già. Tặng cờ cho dân … ăn Tết. Không biết tự bao giờ, người ta nghĩ ra được những món quà khốn nạn đến thế.”

Vốn là người “hiểu nhiều biết rộng” và rành rẽ “tất tần tật” mọi chuyện ở đời, tôi đã định trả lời thắc mắc của Trương Duy Nhất nhưng chỉ “định” thế thôi nhưng vì bận (nhậu – có độ hoài mà) nên quên bẵng. Mới đây, trong bản tin của báo Tiếng Dân – đọc được vào hôm 27 tháng 3 năm 2018 – lại thấy xuất hiện một câu hỏi khó (gần) tương tự:

“Vẫn như mọi năm, Hội Nghề cá lên tiếng phản đối việc cấm đánh cá trên Biển Đông của Trung Quốc, truyền thông trong nước đồng loạt đưa tin. Đảng và Nhà nước vẫn im thin thít như mọi năm, để cho Hội Nghề cá đơn độc lên tiếng…

Không rõ từ bao giờ, chuyện bảo vệ ngư dân và chủ quyền biển đảo thuộc trách nhiệm của Hội Nghề Cá, để hội này phải có công văn đề nghị chính phủ và các bộ vào cuộc, giúp bảo vệ ngư dân?”

Bữa nay thì tôi rảnh, và rảnh lắm, vì cả tuần không ai rủ nhậu nên lục mấy tờ báo cũ ra xem lại  (coi “tự bao giờ chuyện bảo vệ ngư dân và chủ quyền biển đảo thuộc trách nhiệm của Hội Nghề Cá”) cho nó tỏ tường:

-Báo VietnamPlus (07/07/2014): Hội Nghề cá Việt Nam phản đối Trung Quốc bắt giữ 6 ngư dân và tàu cá.

-Báo Pháp Luật (11/7/2015): Hội Nghề cá Việt Nam phản đối việc làm phi nhân đạo của phía Trung Quốc đối với ngư dân Việt Nam.

-Báo Người Lao Động (14/03/2016): Hội Nghề cá Việt Nam cực lực phản đối hành động phi pháp, vô nhân đạo của lực lượng Hải cảnh Trung Quốc sử dụng roi điện và gậy đập phá tài sản trên tàu ngư dân Việt Nam như những tên cướp biển.

Báo Mới (04/05/2016): Nghiệp đoàn nghề cá Việt Nam ra tuyên bố phản đối tàu lạ đâm chìm tàu cá của 34 ngư dân ở Hoàng Sa.

-Báo VnExpress (02/03/2017): Hội nghề cá phản đối Trung Quốc đơn phương cấm đánh cá ở biển Đông.

– Báo Tiền Phong (26/03/2018): Hội nghề cá phản đối Trung Quốc cấm đánh bắt cá trên biển Đông.

Ngoài điệp khúc “hội nghề cá phản đối,” còn thêm một cụm từ “ngư dân báo về” cũng thường xuyên được nhắc đi nhắc lại khiến cho nhà báo Tạ Phong Tần … nổi nóng:

Đại tá Nguyễn Trọng Huyền- Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Phú Yên cho hay: “Thời gian vừa qua, đặc biệt hơn 10 ngày nay, tàu cá TQ xâm phạm nhiều lần trong vùng biển nước ta. Theo thông tin ngư dân báo về, trung bình mỗi ngày vùng biển ngoài khơi từ Đà Nẵng đến quần đảo Trường Sa có từ 120 đến 150, cá biệt có những ngày lên đến hơn 200 tàu cá TQ khai thác trong vùng biển nước ta”.

Cái đau của người Việt Nam là thông tin này do “ngư dân báo về” chớ không phải do Hải quân hay Cảnh sát biển phát hiện.

Ủa, chớ họ làm chi và ở đâu vậy cà?

Câu trả lời cũng có thể tìm được ở một tờ báo cũ, báo Lao Động, số ra ngày 6 tháng 7 năm 2015:

“Điều tra của phóng viên Báo Lao Động cho thấy, việc tuần tra, kiểm soát, hoạt động giám sát nghề cá trên biển do Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tỉnh Quảng Trị đảm nhiệm đã có sự trục lợi. Hàng chục bộ hồ sơ khống về những chuyến tuần tra biển đã được lập để ‘rút ruột’ Nhà nước hàng tỉ đồng…

Một nguồn tin nội bộ khác cho hay, các tàu được quyết toán khống này khẳng định rằng trên thực tế số lượng tàu tuần tra được quyết toán khống còn lớn hơn nhiều.

Đáng chú ý, đây là lực lượng thực thi pháp luật, tiến hành tuần tra, có nhiệm vụ sẵn sàng bảo vệ ngư dân trước những sự cố có thể xảy ra.”

Cụm từ “sự cố có thể xẩy ra” trong đoạn văn thượng dẫn, rõ ràng, có ý làm giảm nhẹ vấn đề. Mà vấn đề thì cũng … chả có gì đáng phải bận tâm – theo khẳng định của Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh:

“Trung Quốc không sử dụng sức mạnh của mình để làm phương hại đến lợi ích của các nước khác, không làm phương hại đến hoà bình, ổn định của khu vực và trên thế giới.”

Tướng Nguyễn Chí Vịnh (trái) gặp gỡ tướng Thường Vạn Toàn, bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Trung Quốc tại Bắc Kinh hôm 2/11/2016. Ảnh lấy từ RFA

Ngài Thứ Trưởng Quốc Phòng đã nói (“chắc như bắp”) thế rồi, và Bộ Chính Trị lại luôn đề cao  phương châm “Bốn Tốt” và “Mười Sáu Chữ Vàng” thì Lực Lượng Biên Phòng Quảng Ngãi nằm bờ (để rút dầu mang bán) kể cũng … đúng thôi. Hơn nữa, ngư dân địa phương (xem chừng) lại rất tích cực và sốt sắn trong việc bảo vệ biển đảo và hải phận nên để họ nêu cao tinh thần tự lực tự cường là chuyện rất nên làm – theo như cách tường thuật của báo Tuổi Trẻ, số ra ngày 26 tháng 7 năm 2015:

Tất cả ngư dân trẻ trên tàu cá QNg 94359 TS của ông Huỳnh Luận ở Quảng Ngãi đều mặc áo đỏ – màu cờ Tổ quốc – khi ra khơi.

Họ tâm sự: “Mặc áo mang biểu tượng Tổ quốc, trong lòng chúng tôi cảm thấy thật thiêng liêng, có cảm giác con tàu của mình chính là cột mốc chủ quyền trên biển cả”.

Ngư dân Trần Tấn Kiệt và thuyền trưởng Huỳnh Luận giải thích:

“Cách đây chưa lâu, báo Tuổi Trẻ đã xuống tàu tặng hai chiếc áo đỏ sao vàng cho chúng tôi. Vì vậy vào ngày 20-5-2015, khi hạ thủy tàu vỏ thép đi khơi, chúng tôi quyết định phát động toàn tàu mặc áo đỏ sao vàng khi tàu xuất bến, lúc trở về và đặc biệt khi đánh cá ở Hoàng Sa”.

Sáng kiến tặng áo và tặng cờ cho ngư dân Quảng Ngãi để họ trở thành “cột mốc chủ quyền trên biển cả” của báo Tuổi Trẻ(ngó bộ) dễ chơi, lại chả tốn kém gì nên được nhân rộng khắp mọi nơi:

– Báo Báo VietnamPlus (13/01/2016) : Trao tặng 1.000 lá cờ Tổ quốc cho ngư dân Phú Yên

– Báo Quân Đội Nhân Dân (25/03/2018) : Đồn Biên phòng Vinh Hiền trao cờ Tổ quốc và áo tặng ngư dân địa phương

 Báo Biên Phòng (28/03/2018) : Tặng cờ Tổ quốc cho ngư dân Thừa Thiên Huế

– Báo Quân Đội Nhân Dân (25/03/2018) : Đồn Biên phòng Vinh Hiền trao cờ Tổ quốc và áo tặng ngư dân địa phương

– Báo Tuổi Trẻ (28/03/2018) : Tặng ngư dân cờ Tổ quốc mới trước khi ra khơi ở

Cùng lúc BBC ái ngại loan tin: “TQ rầm rộ đưa hơn 40 tàu vào Biển Đông. Ảnh vệ tinh chụp hôm thứ Hai 26/3 do Planet Labs Inc cung cấp cho thấy hàng không mẫu hạm Liêu Ninh đang cùng chừng 40 tàu chiến và tàu ngầm đã đi vào phía Nam đảo Hải Nam trong đợt phô trương sức mạnh mới nhất của Trung Quốc.”

Chắc sợ lính Tầu khó nhắm trúng đích nên mới có vụ “tặng ngư dân cờ tổ quốc mới” để cho tụi nó dễ thấy, từ xa, tôi đoán vậy. So với vụ “tặng cờ cho dân ăn Tết” mà bạn Trương Duy Nhất coi là “những món quà khốn nạn” thì chuyện trao cờ cho ngư dân để “làm cột mốc chủ quyền trên biển cả” còn khốn nạn hơn nhiều!

Xảy ra tự sát tại Đại sứ quán Việt Nam ở Malaysia


Cảnh sát Malaysia đến hiện trường điều tra.
Cảnh sát Malaysia đến hiện trường điều tra.

Tờ Star dẫn lời đại diện cảnh sát quận Dang Wangi cho biết “Bà ấy đã nổi giận và bắt đầu la mắng nhân viên [Đại sứ quán] trước khi rút dao từ trong túi ra”.

Bà Trần Thị Mai, 37 tuổi, được cho biết đã dùng dao mang theo và tự đâm vào ngực mình. Bà đã được một người Việt có mặt tại hiện trường đưa đến bệnh viện cấp cứu nhưng không qua khỏi.

Chiều 3/4, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra thông cáo nói: “Tại nơi làm thủ tục, khi chưa nộp hồ sơ và tiếp xúc với cán bộ lãnh sự, chị Mai có biểu hiện bất bình thường (đập bàn, la hét) và rút dao từ trong túi xách mang theo người và tự gây thương tích. Sự việc diễn ra đột ngột, nhân viên bảo vệ, cán bộ Đại sứ quán và những người có mặt không kịp can thiệp”, theo PLO.

Vụ tự sát xảy ra ngay tại Đại sứ quán đã khiến nhiều người Việt Nam ở nước ngoài phẫn nộ. Nhiều ý kiến cho rằng tệ nạn lạm thu và thái độ bàng quang, vô trách nhiệm của các cán bộ tại các đại sứ quán Việt Nam đã dẫn đến những uất ức của người dân khi buộc phải đến làm thủ tục.

Xuan Vuong Nghiem, Admin của trang Facebook “Tôi và Sứ quán” chuyên phản ánh những tiêu cực của các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, viết:

“Đây là một minh chứng về việc “con giun xéo mãi cũng oằn”, hãy đừng khoanh tay đứng nhìn coi như không phải việc của mình mà hãy sát cánh bên nhau để đấu tranh dẹp bỏ thói hách dịch, cửa quyền, lạm thu phí lãnh sự một cách tàn nhẫn khi cái giá cao nhất phải trả không còn là tiền bạc nữa mà hôm nay đã là một mạng người”.

Malaysia là một trong những điểm đến trong khu vực của nhiều lao động Việt Nam. Rất nhiều trong số này sang Malaysia theo dạng du lịch, sau đó ở lại để làm việc chui nên thường xuyên phải đối diện với những bất an vì bị cảnh sát truy bắt.

Tháng 7 vừa qua, một đại diện của Đại sứ quán Việt Nam tại Kuala Lumpur xác nhận với báo Tuổi Trẻ về tình trạng cảnh sát Malaysia gia tăng truy quét lao động bất hợp pháp tại đây. Theo lời của cán bộ này, sứ quán Việt Nam không thể kiểm soát được số người Việt làm việc chui tại Malaysia “vì họ đi theo nhiều đường lắm”.

Vì cư trú bất hợp pháp nên nhiều lao động Việt Nam khi muốn về nước phải đến Đại sứ quán Việt Nam để làm giấy thông hành.

Nhiều người từng đến làm thủ tục tại đây cho biết họ rất “uất ức” vì những khoản lạm thu phi lý và thái độ tiêu cực của nhân viên Đại sứ quán.

Trong thông cáo chiều 3/4, Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết đã cung cấp trích xuất camera cho cảnh sát Malaysia để phục vụ việc điều tra.

Cơ quan này cũng đề nghị Bộ Công an xác minh thân nhân của bà Mai và hướng dẫn làm thủ tục cần thiết, giải quyết hậu sự.

Tin cho hay bà Trần Thị Mai qua đời để lại con nhỏ chưa đầy 1 tuổi.

Hành hương về cõi Vĩnh hằng

Hành hương về cõi Vĩnh hằng

Nhìn từ bên ngoài, cái chết của Đức Tổng Phaolô có vẻ cô đơn, lạnh lẽo. Ngài qua đời khi đang ở nước ngoài, xa quê hương, xa giáo phận, xa gia đình. Ngài qua đời, hoàn toàn vắng bóng người thân, thi thể được quàn trong bệnh viện, chờ ngày được vận chuyển về quê nhà theo đường hàng không! Rất cô đơn. Và lạnh lẽo, giữa mùa Đông băng giá.

Thế nhưng, trong tầm nhìn đức tin, sự ra đi của ngài mang ý nghĩa rất đặc biệt. Ngài ra đi sau khi chủ sự Thánh Lễ trọng thể, với sự hiện diện của tất cả Hội đồng giám mục, đại diện 26 giáo phận trên toàn cõi Việt Nam. Ngài lại chủ sự Thánh Lễ đó tại Đền thờ Thánh Phaolô, Thánh Bổn mạng của ngài. Và sau khi ban phép lành kết thúc Thánh lễ, chúc cộng đoàn ra đi bình an, chính ngài đã ra đi bình an về với Chúa. Bỗng nhớ lại lời một bài hát về linh mục: “Con muốn chết ở chân bàn thờ…”. Còn kết thúc nào đẹp hơn cho cuộc đời một người dâng mình cho Chúa?

Chưa từng có giám mục Việt Nam nào qua đời khi đang đi ad limina. Chưa từng có giám mục nào đang coi sóc giáo phận ở Việt Nam mà lại chết ở Rôma, thủ đô của Hội Thánh Công giáo, nơi chôn táng hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và biết bao vị thánh khác. Hiếm có giám mục ViệtNam nào vừa qua đời đã được đích thân Đức Giáo Hoàng loan báo và dâng lễ cầu nguyện cho. Cũng hiếm có giám mục ViệtNam nào được Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh chủ sự Thánh Lễ đưa chân. Rất nhiều điều đặc biệt đã diễn ra trong cái chết của Đức Tổng Phaolô!

Điều đặc biệt nhất là với Đức Tổng Phaolô, hành hương ad limina đã trở thành cuộc hành hương về vĩnh cửu và thể hiện ý nghĩa trọn vẹn của hành hương. Hành hương ad limina là trở về với cội nguồn đức tin, qua lời tuyên xưng của Thánh Phêrô vào Chúa Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Hành hương ad limina là trở về với cội nguồn sứ vụ tông đồ, sứ vụ được Chúa Giêsu trao cho Phêrô: “Anh là Phêrô, nghĩa là Đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18); và “Hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,32). Cội nguồn đức tin và sứ vụ đó là Chúa Giêsu, và xa hơn nữa, là chính Chúa Cha, Đấng đã sai Chúa Giêsu đến trong thế gian, để “những ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Và như thế, với Đức Tổng Phaolô, hành hương ad limina 2018 không chỉ là đến viếng mộ hai Thánh Tông Đồ và gặp gỡ Đức Giáo Hoàng, nhưng là gặp gỡ chính Thiên Chúa Tình Yêu. Ở đó, Thiên Chúa Ba Ngôi không còn là một đề tài thần học mà Đức Tổng Phaolô say mê nghiên cứu và giảng dạy suốt nhiều năm, nhưng đã thành thực tại sống động, bao la như đại dương, dịu dàng như lòng mẹ, êm ái như sóng vỗ.

Và cũng chính ở đó, châm ngôn đời giám mục của Đức Tổng Phaolô nên trọn vẹn: Ad Deum laetitiae meae – Chúa là nguồn vui của con.   

Gm Phêrô Nguyễn Văn Khảm

From: Do Tan Hung & Nguyen Kim Bang

SỐNG NIỀM VUI PHỤC SINH

SỐNG NIỀM VUI PHỤC SINH

Tôi rất thích câu Kinh Thánh: “Khi Chúa Giêsu thấy Maria Mađalêna khóc ở cửa mộ thì Ngài hỏi: Này chị, sao chị khóc?”(Ga 20:15).  Lúc đó Ngài không hỏi một câu văn hoa bóng bẩy.  Ngài muốn biết lý do chúng ta lo âu, khóc lóc và phiền muộn khi niềm hy vọng tiềm ẩn trong mọi sự – nếu chúng ta lưu ý.

Phục sinh mang ý nghĩa giải thoát, rất ý nghĩa đối với một người như tôi, vì tôi luôn cảm thấy buồn sầu và tiêu cực.  Mừng lễ Phục sinh là dịp để chúng ta nói: “Vâng, lạy Chúa Giêsu, con tin.”  Khi làm vậy, hãy nắm bắt niềm hy vọng có sẵn đó.

  1. Tiến lên và chạm vào ngài

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và nói: “Sao anh em phiền muộn?  Sao anh em nghi ngờ?  Hãy sờ vào Thầy và xem đây, ma không có xương thịt như anh em thấy Thầy.”  Nếu tôi là một trong số họ, tôi không chỉ phiền muộn mà chắc rằng tôi sẽ không dám đến gần sờ thử.  Tôi nghi ngại.  Nhưng tôi tìm thấy sự an tâm trong sự bảo đảm của Chúa Giêsu rằng sự phục sinh của Ngài là thật.  Chúa Giêsu là thật, sự phục sinh là thật, do đó mà các lời hứa của Ngài là thật.  Nghĩa là chúng ta khả dĩ tin Ngài khi Ngài nói với chúng ta rằng Ngài sẽ ở với chúng ta đến tận thế (Mt 28:20).

  1. Thiên Chúa tốt lành

Trước khi chịu chết, Chúa Giêsu nhắc lại rằng Ngài được sai đến nhân danh Chúa Cha.  Thật vậy, qua nhiều phép lạ, nhất là việc cho Ladarô sống lại, cho thấy tính tốt lành của Thiên Chúa: “Vì Cha yêu Con và cho Chúa Con thấy mọi sự Người làm, và Người sẽ cho Chúa Con thấy những việc vĩ đại hơn vậy, đến nỗi anh em có thể ngạc nhiên” (Ga 5:20).

Chân phước Angela Foligna, thế kỷ 14, là người mẹ và người vợ, rồi là người viết xuất chúng về các điều thần bí, đã viết: “Bước đầu tiên mà linh hồn phải có khi đi vào con đường yêu thương là biết Thiên Chúa qua chân lý, nhờ đó mà muốn đạt tới Thiên Chúa…  Biết Chúa qua chân lý là biết Ngài như chính Ngài, hiểu sự xứng đáng của Ngài, vẻ đẹp của Ngài, sự ngọt ngào của Ngài, sự tuyệt luân của Ngài, sức mạnh của Ngài, sự tốt lành của Ngài, bản chất cực tốt lành của Ngài.”  Tôi nghĩ rằng tin Chúa tốt lành là điểm phục sinh.  Thiên Chúa có tốt lành không?  Có.  Chúng ta có thể nói vậy với niềm xác tín vào sự Phục sinh.

  1. Phó thác

Hãy phó thác ý muốn và cuộc đời mình cho Chúa quan phòng.  Thánh Thomas Tiến sĩ viết: “Tính thánh thiện không gì hơn là quyết định dứt khoát, một hành động anh dũng của một linh hồn phó thác cho Thiên Chúa.  Nhờ ý muốn thẳng thắn mà chúng ta yêu mến Chúa, chạy về phía Chúa, đạt tới Ngài và sở hữu Ngài.”  Mỗi khi chúng ta nói với Chúa: “Hãy lấy điều đó khỏi con,” chúng ta đang sống niềm vui Phục sinh, vì chúng ta đang nhớ lời hứa của Chúa rằng Ngài sẽ cung cấp cho chúng ta, Ngài không bỏ chúng ta, và dù chúng ta nghi ngờ thì Ngài vẫn thực sự đáng tin.

  1. Loại bỏ sợ hãi

Trong trình thuật của thánh Mát-thêu, thiên thần Chúa hiện ra với Maria và một Maria khác ở nơi mộ trống, rồi nói với họ: “Đừng sợ, vì tôi biết các chị đang tìm Giêsu bị đóng đinh.  Ngài không còn ở đây.  Ngài đã sống lại như Ngài đã nói.”  Sau đó Chúa Giêsu gặp các chị và lặp lại: “Đừng sợ!” (Mt 28:10).  Có thể điều Chúa Giêsu nói ở đây là đừng sợ.  Loại bỏ sợ hãi là điều không dễ làm.  Nhưng nếu chúng ta có thể loại bỏ sợ hãi, dù loại bỏ dần dần, chúng ta sẽ tránh xa nỗi buồn thập giá và đến gần sự tuyệt vời của ngôi mộ trống.  Cố tu sĩ Thomas Merton, dòng Trap, viết: “Nỗi sợ hãi thu hẹp lối vào trái tim, co rút khả năng yêu thương và làm đóng băng khả năng trao tặng chính mình.

  1. Công khai

Mệnh lệnh của Chúa Giêsu là rao giảng công khai.  Cho dù bạn có thể giống như kẻ khờ dại, cứ nói với người ta rằng sự sống lại đã xảy ra thực sự.  Không nhất thiết chúng ta phải là người rao giảng Tin Mừng từ xa.  Chúng ta khả dĩ làm và nói mọi thứ, ngôn ngữ và hành động của chúng ta luôn trở lại với sự Phục sinh, truyền niềm hy vọng cho mọi người chúng ta gặp.

  1. Khiêm nhường

Nếu Chúa Giêsu là Thiên Chúa, và chỉ có một Thiên Chúa, điều đó nghĩa là không ai trong chúng ta là Thiên Chúa.  Đó là sự thật quan trọng khác về sự sống lại: Thiên Chúa trở nên con người, con người không thể trở nên Thiên Chúa.  Tôi biết tôi thường lẫn lộn hai điều đó, nhất là khi tôi nói chuyện qua điện thoại với nhân viên bảo hiểm y tế, vì tôi cảm thấy mình có quyền hơn người đó.  Thánh nữ Catarina Siena viết: “Hãy nhỏ bé và khiêm nhường.  Hãy nhìn vào Thiên Chúa, Ngài tự hạ làm con người.  Đừng làm mình bất xứng với những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta.”  Với sự khiêm nhường, chúng ta sẽ có khả năng hơn nhờ sự Phục sinh.  Điều đó như sự bù đắp những gì chúng ta không thể có, nhưng Thiên Chúa khả dĩ cung cấp cho chúng ta nếu chúng ta tin vào ngôi mộ trống.

  1. Hành trình Emmaus

Tôi luôn được đánh động bởi trình thuật của thánh Luca về hành trình Emmaus.  Hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa Giêsu đến gần và hỏi họ đang nói chuyện gì.  Một người nói: “Sao ông hỏi vậy?  Ông không nghe xôn xao chuyện gì ư?”  Và họ chợt nhận ra Ngài khi Ngài cùng ngồi ăn với họ. Nhưng ngay khi họ nhận ra Ngài thì Ngài biến đi.  Hằng ngày chúng ta có dịp đi Emmaus nếu chúng ta đồng ý với thánh Leo Cả: “Chia sẻ sự Phục sinh của Chúa Kitô là không bị ràng buộc bởi những gì tạm thời, nhưng chỉ ràng buộc bởi sự sống vĩnh hằng mà Ngài trao ban cho chúng ta… Sự Phục sinh đã khởi sự nơi Đức Kitô, và Ngài muốn dẫn chúng ta đến sự viên mãn của sự sống và sự chữa lành.

  1. Cầu nguyện liên lỉ

Trong trình thuật của thánh Luca, tôi thích câu: “Họ hỏi nhau: Lòng chúng ta không sốt sáng khi Ngài nói chuyện với chúng ta trên đường đi và giải nghĩa Kinh thánh cho chúng ta sao?” (Lc 24:32).  Hành trình tới Emmaus là lời cầu nguyện, các nhiệm vụ nhỏ mọn của chúng ta hằng ngày cũng là những lời cầu nguyện. Thánh bổn mạng của tôi, Têrêsa Hài đồng, đã định nghĩa: “Lời cầu nguyện là điều bộc phát từ đáy lòng, là ánh mắt hướng về trời cao, là lời tạ ơn, là tình yêu giữa cơn thử thách và giữa niềm vui.”  Đó là cách cầu nguyện khi chúng ta sống niềm vui Phục sinh.

  1. Nhận biết Chúa trong mọi sự

Nếu mùa Chay là sống tĩnh lặng để lắng nghe tiếng Chúa thì lễ Phục sinh là ca vang Alleluia với Ngài.  Và nếu 40 ngày bắt đầu bằng thứ tư lễ Tro là tách mình ra khỏi ai đó, nơi nào đó và thương mình hơn thì lễ Phục sinh là đón nhận mọi người, mọi nơi, mọi thứ gì thúc đẩy sự tốt lành, vẻ đẹp và tình yêu thương.  Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã viết: “Chúng ta có thể tìm thấy Chúa trong mọi sự.  Chúng ta có thể hiệp thông với Ngài trong mọi sự và qua mọi sự.”  Thiên Chúa hằng sống và hiện hữu khắp nơi.  Hãy sống niềm vui Phục sinh ở mọi nơi và mọi lúc.  Hãy cầm lấytạ ơnbẻ ra và trao cho người khác chính cuộc đời mình!

 Therese Borchard

Trầm Thiên Thu

(chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Ai là kẻ bán nước?

Ai là kẻ bán nước?

RFA

Viết Từ Sài Gòn
2018-04-01
 

Hình minh họa. Người biểu tình phản đối công ty Formosa của Đài Loan ở Hà Nội hôm 1/5/2016.

Hình minh họa. Người biểu tình phản đối công ty Formosa của Đài Loan ở Hà Nội hôm 1/5/2016.

AFP
 

Một người đấu tranh cho dân chủ, dân quyền và nỗ lực giúp dân oan tìm lại công lý, cho dù người ấy có nhận tiền của người nước ngoài hay một tổ chức chính trị nào đó từ bên ngoài có tính đối lập, thậm chí cừu thù với đảng cầm quyền vẫn không thể gọi họ là kẻ bán nước.

Một người nhận tiền của một người hay một tổ chức chính trị đối lập nào đó đứng ra kêu gọi lật đổ chế độ cầm quyền, cho dù đứng trên góc độ chính thống của đảng cầm quyền để luận tội họ, họ có thể là phản động nhưng không phải là kẻ bán nước.

Một người hay nhiều người tổ chức biểu tình hàng loạt sau một sự cố về môi trường hay tài nguyên nào đó, cuộc biểu tình phát triển đến cấp độ kêu gọi lật đổ chính quyền và ngày càng lộ rõ chân tướng của người chủ mưu. Càng không thể gọi người chủ mưu tổ chức biểu tình là kẻ bán nước cho dù họ có âm mưu phản động lại nhà nước đương quyền.

Còn rất nhiều tội liên quan đến quốc gia đại sự nhưng không có bất kì một cơ sở nào để khép các tội nhân vào tội bán nước. Bởi họ không thể bán nước, họ không có khả năng bán nước.

Vậy ai là kẻ có khả năng bán nước và giữa tội phản động với tội bán nước, tội nào nặng hơn?

Ở đây, vấn đề dễ nhận thấy nhất là không riêng gì kẻ nắm quyền, đảng nắm quyền hoặc nắm lãnh thổ mới có khả năng bán nước. Vấn đề là kẻ bán nước đã bán nước kiểu gì và bán như thế nào?

Một công hàm gửi tháng Giêng năm 1959, công nhận Hoàng Sa là của Trung Quốc của Phạm Văn Đồng khi đang làm Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trong lúc này Hoàng Sa không thuộc về quyền quản lý của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Như vậy, nếu nhìn từ bên ngoài, nó có thể là một thứ công hàm vô giá trị. Nhưng nhìn vào bản chất hành động và hệ quả của nó thì cái công hàm kia đích thị là một thứ văn bản bán nước.

Bởi nhìn vào thực tế, sau khi cái công hàm này gửi đi, số hàng hóa, vũ khí mà Cộng sản Trung Quốc viện trợ cho Cộng sản Bắc Việt tăng lên một cách đáng kể để đánh miền Nam như một thứ bánh ít trao đi, bánh qui trả lại. Rõ ràng về mặt bản chất, đây là hành vi bán nước của Phạm Văn Đồng và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Và về sau, sự bán nước xuất hiện ngày càng nhiều hơn, dày đặc hơn và chính thống hơn. Nguyễn Ngọc Thiện, một tay cựu Bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên – Huế, hiện nay đang nắm chức Bộ Trưởng Văn hóa, thể thao và du lịch Việt Nam đã từng ký một văn bản cho Trung Quốc thuê 200 hecta đất trên 50 năm tại Mũi Cửa Khẻm, Hải Vân, nơi được xem là “bàn thờ quốc gia”, yết hầu quân sự của miền Trung Việt Nam lúc ông này còn giữ chức Bí thư tỉnh.

Sau đó ông này lọt tọt nhảy lên ghế cấp bộ và ngồi ghế Bộ Trưởng, đến Tháng Giêng năm nay (2018), ông lại cấp phép cho Đoàn Nghệ Thuật Nội Mông của Trung Quốc vào diễn ngay tại Nhà Hát Lớn Hà Nội đúng vào ngày 19 Tháng Giêng, ngày kỷ niệm Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974. Nhưng vì dư luận phản đối mạnh mẽ nên sau đó buổi diễn này bị hoãn lại với lý do “vì sự cố kỹ thuật”.

Mấy ngày gần đây, Nguyễn Ngọc Thiện, trước vụ ồn ào phim Điệp Vụ Biển Đỏ, Bộ Văn Hóa do ông ta đứng đầu liên tiếp khiến công luận phẫn uất vì hành vi ngang nhiên tuyên truyền, bảo kê cho Trung Quốc ngay trên đất Việt Nam cũng như cách trả lời vô trách nhiệm, vô cảm của ông ta trước tình hình Việt Nam đang bị Trung Quốc lấn lướt cả trên bờ lẫn dưới nước.

Cái kiểu nói dấm dúi rằng đoạn cuối phim Điệp Vụ Biển Đỏ là “lạc lõng” và “hoàn toàn không có căn cứ để kết luận rằng bộ phim có liên quan đến vấn đề chủ quyền biển đảo” là một cách nói đầy xảo trá, nó hàm chứa một thứ tội lỗi nấp bóng văn hóa, nấp bóng sự ngu dốt hoặc giả ngây.

Trong khi đó, khán giả xem phim, ai cũng có thể nhận ra cái thông điệp của Trung Quốc gửi gắm ở cuối phim rằng biển Đông là của Trung Quốc và không có quốc gia nào được phép xâm phạm. Một kiểu tuyên bố trắng trợn và tráo trở như vậy mà ông Thiện cho rằng nó “không có gì ghê gớm”.

Đến đây, có thể thấy chân dung kẻ bán nước trắng trợn, không cần giấu diếm là ai. Mà đáng sợ hơn là những kiểu chân dung bán nước như Nguyễn Ngọc Thiện đầy rẫy trên đất nước này. Từ Nguyễn Kim Cự huênh hoang, bán đứng Formosa cho Trung Quốc đến những tay không cần nghe ai khuyên can, cứ cho Trung Quốc thỏa sức mà khai thác bauxite Tây Nguyên, rồi những kẻ rước điện than vào Việt Nam… Tất cả bọn họ đều tạo ra một thứ cực kì nguy hiểm mà luật Việt Nam hiện tại không thể nào điều chỉnh để cứu nguy cho quốc gia. Đó là phá nát môi trường, rước voi về dày mả tổ, rước giặc vào sinh con đẻ cái trên đất nước.

Môi trường đã nát, người Trung Quốc có mặt khắp mọi nơi trên lãnh thổ Việt Nam. Nhưng vẫn chưa đáng sợ bằng hàng ngàn đứa trẻ mang dòng máu Trung Quốc. Hiện nay, con số những đứa trẻ cha Trung mẹ Việt có độ tuổi từ 0 tuổi đến 10 tuổi trên khắp đất nước này có thể lên đến hàng vạn. Đây là con số khủng khiếp!

Nó khủng khiếp bởi nó có đủ khả năng hợp thức hóa quyền cai trị của Trung Quốc trên đất Việt Nam một cách hiệu quả nhất. Thử nghĩ, một người nước ngoài thì không thể mua đất tại Việt Nam. Nhưng họ có quyền thuê, để rồi họ làm ăn, lấy gái Việt, đẻ ra những đứa con mang dòng máu cha Trung Quốc. Nhưng đa phần là những đứa con này ngoài giá thú. Nghĩa là chúng khai sinh theo mẹ, mang họ mẹ và được hưởng mọi quyền như những đứa trẻ Việt.

Trong khi đó, cha của chúng vẫn tiếp tục nuôi nấng chúng và cung cấp tiền cho mẹ của chúng mua đất. Tính đến thời điểm hiện tại, có lẽ đã có hàng triệu lô đất mà người Trung Quốc mua tại Việt Nam thông qua con đường này.

Bởi con đường này an toàn, cha mua cho con đứng tên hoặc mẹ đứa bé đứng tên, chẳng sợ mất, bởi có mất thì cũng mất của cha mà được của con. Nhưng với đứa bé, bên họ nội chúng vẫn là cái nôi, cái gốc, một khi cha chúng vẫn lo cho chúng mọi thứ. Đương nhiên, chúng sẽ nghe theo cha và chúng coi trọng bên nội. Và thử tưởng tượng khi chúng đủ tuổi làm chủ tương lai, làm chủ đất nước như những đứa trẻ Việt bình thường thì chuyện gì sẽ xảy ra?

Thử tưởng tượng khi chúng được đặt định từ đầu và sự có mặt của chúng trên đất nước này là một thứ định mệnh điệp báo? Thử tưởng tượng khi chúng được “thiên triều” chỉ vẽ và đào tạo thành những đại diện của họ? Thật là khó để tưởng tượng hậu quả!

Nhưng ai đã tạo ra những tai ương này? Đó là những kẻ bán nước, những kẻ chỉ vì vài đồng mọn của ngoại bang đã sẵn sàng biến mình thành thứ tay sai, phản động và bán đứng quốc gia, dân tộc. Tội này còn đáng khinh hơn cả Trần Ích Tắc!

Và những kẻ bán nước kia vẫn còn ngồi chễm chệ trên ghế quan lại trung ương hay cấp cao của tỉnh cho đến bao giờ? Thật là khốn nạn cho dân tộc này!

Bí mật Phong Thủy: Thiện niệm xóa hận thù

Bí mật Phong Thủy: Thiện niệm xóa hận thù

Mục đích tối hậu của Phon g Thủy là cầu lành tránh dữ, đem lại may mắn, thịnh vượng và bình an cho con người, tiền đề căn bản là dựa vào các yếu tố thiên nhiên để tác động tới nhân mệnh. Tuy nhiên đó chỉ là bề mặt, ý nghĩa sâu xa của Phong thủy lại chính nằm ở yếu tố con người.

c
Thiện niệm xóa tan hận thù (Ảnh minh họa: internet)

Người phương Đông có câu: “Người ta sinh ra một thiện niệm, tuy chưa biến thành việc thiện, nhưng đã được thần may mắn bảo hộ rồi”. Người phương Tây tin rằng: “Những điều xuất phát từ trái tim sẽ chạm đến trái tim”.

Thiện niệm thực sự là phương thuốc màu nhiệm làm chấn động lương tâm con người, có sức mạnh vĩ đại để xóa đi mọi hận thù. Không những thế, khoa học còn cho thấy thiện niệm có khả năng cải biến sức khỏe và môi trường sống của bạn. Vậy thì thiện niệm chẳng phải là phong thủy tốt nhất cho cuộc đời bạn hay sao? Trong loạt bài này, hãy cùng báo Trí Thức VN mở cánh cửa kho báu vô tận của sự thiện lương và chia sẻ nó cho tất cả người thân, bạn bè và cả kẻ thù của bạn.

Có những con người đã trở nên nổi tiếng nhờ vào tấm lòng thiện lương chân chính. Khi tình yêu thương xuất phát từ trái tim, họ mới có thể vượt lên sự khắc chế của thù hận, sự tổn thương của bản thân để trở nên cao thượng trong ứng xử. Nhờ vậy, họ đắc được nhân tâm và trở thành những con người vĩ đại.

Câu chuyện thứ nhất: Những phút cuối cùng

Tại Iran và một số nước Hồi giáo, gia đình nạn nhân của một vụ giết người sẽ được phép tới gần kẻ sát nhân trong “những phút cuối cùng” trước khi hắn bị tử hình bằng thòng lọng. Họ có hai lựa chọn: khiến kẻ ác nhận lấy cái chết – hay tha thứ…

“Thế giới của tôi sụp đổ vào cái ngày tôi nghe tin con trai mình bị chết. Nếu tôi tha thứ cho Bilal, làm sao tôi có thể sống được?” – Đó là điều mà bà Samereh Alinejad từng nói khi gia đình kẻ sát nhân Bilal Gheisari cầu xin bà tha thứ. Bilal đã giết chết Abdollah, đứa con trai 17 tuổi yêu quí của bà Samereh trong một trận ẩu đả trên đường phố. Bà cũng nói với chồng rằng: “Nếu Bilal được tha, tôi sẽ chết!“

Phong thủy tốt nhất cho cuộc đời bạn - Kỳ I: Thiện niệm xóa tan hận thù
Gia đình bà Samereh đau buồn trước cái chết của con (Ảnh: Interaksyon.com)
Ngày 15 tháng 4 năm 2014, khi Gheisari đứng trên một chiếc ghế tại giá treo cổ, với hai tay bị cùm, đầu quàng thòng lọng, thì hàng trăm người đã đứng bên ngoài cổng nhà tù ở một thị trấn miền Bắc Iran để chứng kiến bà Samereh thực hiện quyền của mình…

Gheisari năn nỉ: “Xin tha cho cháu, cô Maryam“. Đó là tên gọi thân thiện của bà Samereh trong cộng đồng. Người mẹ mất con tiến đến: “Vậy cháu có tha cho chúng ta không? Cháu có tha cho con trai ta không? Cháu đã lấy đi hạnh phúc của chúng ta. Tại sao chúng ta lại phải tha thứ?” Nói rồi, Samereh tát Gheisari một cái.

Rồi khi mọi người còn đang đợi chờ cái chết của Gheisari thì Samereh đột ngột lấy thòng lọng ra khỏi cổ Gheisari. Sau bảy năm chỉ khao khát có một điều là trả thù thì trong giây phút cuối cùng đó, Samereh lại lựa chọn tha thứ. Nhiều người dân chứng kiến đã chết sững vì kinh ngạc trước hành động của bà.

Phong thủy tốt nhất cho cuộc đời bạn - Kỳ I: Thiện niệm xóa tan hận thù
Xúc động và bất ngờ trước hành động của Samereh, mẹ của kẻ sát nhân đã cúi xuống hôn chân bà (Ảnh: Interaksyon.com)
Việc làm đó đã biến Samereh thành một người hùng ở vùng Royan trên bờ biển Caspian. Đường phố treo đầy băng rôn về lòng vị tha của gia đình Alinejad và người dân hết lời ca ngợi sự rộng lượng của Samereh. Còn Samereh thì tâm sự rằng bà cảm thấy tất cả những khổ đau suốt bảy năm trời đã trôi theo cái tát mà bà dành cho Gheisari. Điều quan trọng là bà cảm thấy bình an vì đã lựa chọn tha thứ.

Câu chuyện thứ hai: Sự cao thượng đến từ trái tim biết tha thứ

Vào năm 1754, George Washington đang ở thành phố Alexandria. Lúc đó là mùa bầu cử cho Hội đồng Lập pháp bang Virginia. Một người đàn ông tên là William Payne đã phản đối một ứng cử viên mà George Washington ủng hộ. Ngày nọ, Washington và Payne tranh luận kịch liệt về vấn đề tranh cử. Những bình luận của Washington đã làm Payne tức giận. Ông ta đã đấm Washington mạnh đến nỗi làm Washington ngã xuống đất. Các binh sĩ chạy ra khỏi doanh trại và chuẩn bị tấn công Payne nhưng Washington đã ngăn họ lại. Ông quả quyết rằng mình có một cách thích hợp hơn để giải quyết vấn đề này.

Phong thủy tốt nhất cho cuộc đời bạn - Kỳ I: Thiện niệm xóa tan hận thù
George Washington (Ảnh: Gilbert Stuart, Wikipedia)
Sáng hôm sau, George Washington đã gửi một bức thư ngắn cho William Payne, hẹn gặp ông ta tại một khách sạn địa phương. William Payne đến khách sạn trong tâm trạng lo lắng và nghĩ rằng một cuộc ẩu đả sẽ lại xảy ra. Nhưng khi bước vào phòng, thay vì các khẩu súng ngắn như Payne nghĩ, ông lại nhìn thấy một chai rượu và hai cái ly trên bàn. “Ông Payne,” Washington nói, “làm người ai cũng mắc sai lầm. Hôm qua tôi đã sai, nhưng ông cũng đã hành động để bảo vệ thể diện của mình. Nếu ông thấy đã thỏa mãn rồi thì chúng ta hãy bắt tay và là những người bạn.” Sau đó, William Payne đã trở thành một người ủng hộ trung thành của Washington.
Hai câu chuyện trên đây đã cho chúng ta thấy rằng, chỉ có thiện tâm mới có thể xóa tan được thù hận, và chỉ có thiện tâm mới có thể khiến người ta trở nên vĩ đại hơn. Kể cả chức vị của bạn có cao đến đâu, dù bạn là thủ tướng hay tổng thống, nếu bạn không có thiện tâm, thì lịch sử sẽ chỉ nhớ đến bạn như một kẻ độc tài. Dù bạn có nhỏ bé đến đâu, nếu bạn có thiện tâm, thì bạn sẽ vẫn được biết đến như một người hùng, một con người vĩ đại.
Ngọc Hà, Quang Minh

Tân Sinh biên tập từ  trithucvn.net

CHỐNG THAM NHŨNG THẬT HAY…

 Trần Bang‘s post.

Image may contain: 3 people, people smiling, people sitting

Image may contain: 9 people, people smiling, people standing and hat

Trần Bang added 2 new photos — with Sơn Long and 3 others.

CHỐNG THAM NHŨNG THẬT HAY…

* FB Nguyễn Quang A viết:

1. Tuyên giáo ra sức tuyên truyền về xử các vụ THAM NHŨNG;

2. Toà án chả nói gì đến THAM NHŨNG mà chỉ xử tội CỐ Ý LÀM TRÁI GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG (một tội đã bị xoá khỏi luật hình sự)

3. Thế mà dân (kể cả nhiều trí thức) TIN SÁI CỔ rằng Đ. ta (hay ông đốt lò) chống tham nhũng cực kỳ! Thật đáng thương!

4. Nếu tội chỉ đúng như VKS nêu ra, thì ông Thăng và các ông khác phải được trả tự do ngay tại toà trong 10 phút đầu tiên vì các cáo buộc thật sự vớ vẩn. Nay bảo # bồi thường 600 tỷ trong số 800 tỷ mà PVN đã góp cổ phần nay mất trắng tại Oceanbank do ngân hàng này bị NHNN mua với giá 0 đồng. Phần góp vốn trái với quy định của NHNN sau đó chỉ là 100 tỷ; nói cách khác 700 tỷ là góp đúng quy định. Mất vốn là do ngân hàng làm ăn thua lỗ sao lại đổ cho cổ đông? Phải cho mấy tay VKS và thẩm phán ất ưởng này về vườn.

5. Thế BCT ĐCSVN (chả biết có làm trái hay không) lệnh cho # đầu tư cả tỷ USD vào Venezuela cũng mất trắng sao không bắt 15-16 vị bồi thường (22 ngàn tỷ/15 vị ~ 1 ngàn 466 tỷ mỗi vị; so với 600 tỷ của # thì các vị phải chịu mỗi vị 44 năm tù kể cả ông đốt lò chỉ vì hậu quả của mỗi vụ Venezuela [chưa kể cả ngàn vụ khác] nếu lấy phán quyết của toà hôm nay làm án lệ!)

6. Hãy cáo buộc # tội tham nhũng và tìm cách chứng minh, đừng lập lờ đánh lận con đen như vậy hỡi các ông bà tuyên giáo và tư pháp (dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của ĐCSVN)

* Luật sư Lê Công Định (cựu TNLT ): Đinh La Thăng xứng đáng nhận 2 bản án 31 năm tù không?

Rất xứng đáng, thậm chí đáng bị chung thân và tử hình nữa là khác. Mọi kẻ tham nhũng và hối mại quyền thế đều đáng bị như thế.

Tuy nhiên, phiên tòa xử Thăng và bản án dành cho Thăng lại là sự thất bại của nền tư pháp, nếu không nói là rất nhạo báng công lý.

Đưa một kẻ có tội thật vào tù bằng lối suy diễn chứng cứ sượng sùng và theo cách cưỡng đoạt mọi nguyên tắc hình luật, thay vì bằng sự công minh và văn minh của luật pháp, chỉ càng phô bày thêm bản chất của chế độ cộng sản thời mạt vận.

Vì thế, tôi rất mãn nguyện nhìn thấy phiên tòa và bản án xử Thăng như thế. Nó cho thấy cộng sản thời nay không có quan tòa đúng nghĩa và càng không có nhân tài trị quốc.

Bài Copy từ https://www.danluan.org/…/2018…/dung-lap-lo-danh-lan-con-den

*Ảnh 1 chụp TS Nguyễn Quang A đang nói chuyện cùng NS Kim Chi… Ảnh 2, LS Lê Công Định, hàng ngồi thứ 2 tính từ trái sang