Chúng ta ra tòa, dù là nhà nước cũng phải ra tòa

Đúng rồi ! Thành uỷ là quản lý toàn diện mà, đã bán tôi mua giờ muốn huỷ hợp đồng thì ra toà để xem xem việc bồi thường huỷ hợp đồng thế nào. Chứ thảnh uỷ đâu phải đứa con nít đâu mà muôn bán thì bán muốn lấy lại thì lấy lại !
—————
Phản hồi sau bài viết: “Ai gây thất thoát ngàn tỷ trong phi vụ bán 324.971 m2 đất công sản tại TP.HCM?” do báo Người Tiêu Dùng đăng ngày 17/4/2018, bà Nguyễn Thị Như Loan – Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty Quốc Cường Gia Lai khẳng định việc Công ty Tân Thuận bán khu đất này đã được Thành ủy TP.HCM phê chuẩn.

Cũng theo bà Loan, trường hợp xấu nhất là trả lại đất cho Công ty Tân Thuận.

Tuy vậy, bà Loan tuyên bố: Dù là nhà nước cũng phải ra tòa, rất là rõ ràng, không thể ép doanh nghiệp được, doanh nghiệp không sai !

Bà Loan cho biết: “Khi bán thì chị cũng không cần biết họ là ai, chỉ biết anh có hàng bán thì tôi mua, vì anh cũng là một công ty kinh doanh bất động sản.

Thế thì họ dưới quyền của chủ sở hữu họ thì họ phải đi trình.

Việc họ trình Thành ủy như thế nào thì tôi không quan tâm, tôi mua cũng có xuất hóa đơn đầy đủ, cũng thuế VAT đàng hoàng, nó là một tài sản hàng hóa chứ không phải tài sản công sản, còn tài sản công sản là không có chuyện xuất hóa đơn, cũng không có chuyện là không thông qua đấu giá, ai cũng biết luật!

Không có ai nhắm mắt để làm bậy đâu !”.

NGUOITIEUDUNG.COM.VN
 
bà Nguyễn Thị Như Loan – Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty Quốc Cường Gia Lai cho biết, trường hợp xấu nhất là trả lại đất cho Công ty Tân Thuận.

Khi có một tỉ phú…

 
 
 
Image may contain: one or more people, text and outdoor

Trinh PhuongFollow

Ở nước ngoài, khi có một tỉ phú thì họ tạo điều kiện cho hàng nghìn người có công ăn việc làm, có thu nhập tốt, sinh lợi cho xã hội là rất lớn. Ở nước ta, khi dinh ra một tỉ phú thì hàng trăm người bị cướp đất , đất sản xuất, đền bù không thỏa đáng (cướp đất), dẫn đến khiếu kiện lâu dài

YÊU KẺ THÙ… KHÓ QUÁ KHÔNG?

Thanh Tran shared a post.
 
 
Image may contain: 1 person, plant, tree and outdoor

Nhịp cầu Caritas 

YÊU KẺ THÙ… KHÓ QUÁ KHÔNG?

Câu chuyện về Lm Piô Ngô Phúc Hậu, một linh mục cao niên vùng truyền giáo, được mời đi xức dầu bệnh nhân. Khi về, ngài lẳng lặng đi vào phòng riêng, đóng cửa và gục đầu xuống trên bàn viết. Buồn quá! Buồn tê tái! Buồn đến chết được! Cả đời mới có một lần buồn như thế!…

Nhiều năm sau cha già mới kể lại chuyện buồn hôm ấy…

– Nguyễn – Trần là hai dòng họ nổi tiếng của giáo xứ P.H., đông nhân danh nhất, giàu nhất, có nhiều người làm công chức nhất, công chức bên đạo cũng như bên đời, có nhiều người đi tu nhất, dâng cúng tiền bạc nhiều nhất cho nhà thờ và các cơ sở tôn giáo.

– Hai dòng họ ganh đua nhau từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn. Họ Trần dâng cúng cho nhà thờ một trăm triệu đồng, thì họ Nguyễn sẽ dâng cúng một trăm mốt. Họ Nguyễn có mười người học đại học, thì họ Trần phải cố gắng có mười một. Bên họ Trần có mười người đi tu thì bên họ Nguyễn sẽ có mười một người…

– Một lần kia có cuộc tranh chấp về đất đai. Không bên nào chịu thua. Ban đầu thì cãi nhau to tiếng. Sau đó là chửi nhau thô tục. Cuối cùng là đánh nhau dữ dội. Cả hai bên đều có người u đầu, phù mỏ. Ông trưởng tộc họ Nguyễn bị trọng thương năm thở thoi thóp, rên hư hư…

Cha xứ được mời đi xức dầu bệnh nhân. Cha xứ và nạn nhân nhìn nhau bằng ánh mắt thương cảm. Trước khi xá giải và xức dầu, cha xứ mở lời :
– Xin ông giục lòng ăn năn tội, xin Chúa tha thứ mọi tội, nhất là tội đánh nhau. Vậy ông có sẵn sang tha thứ cho người đánh ông không?
– Thưa cha không. Đây là mối thù truyền kiếp con không thể tha được.
Cha xứ moi trong túi kẻ liệt ra một cây Thánh giá giơ cao lên và rỉ rả khuyên lơn.
– Ông xem Chúa bị đóng đinh đau đớn vô cùng, oan khiên vô cùng. Vậy mà Chúa vẫn cứ một niềm: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.
– Chúa khác, con khác. Chúa tha thứ kệ Chúa. Còn con thì chết cũng không tha.

Khuyên nhủ không được, nói ngọt không được, cha xứ đổi giọng, giọng cứng cỏi, giọng chua chát:

– Nếu ông không tha thứ cho người ta thì Chúa cũng không tha thứ cho ông đâu. Ông phải xuống Hỏa Ngục đấy.
– Xuống thì xuống. Còn tha thứ thì không bao giờ.
Hù dọa không xong, cha xứ chuyển sang chiến thuật năn nỉ:
– Xin ông nhìn xem Chúa bị đóng đinh và xin Chúa ban cho ông ơn quảng đại, bao dung, tha thứ…
– Thôi, thôi, đã nói là thôi…!

Ông trưởng tộc họ Nguyễn không thèm nhìn ảnh Chúa thọ nạn. Ông quay mặt nhìn vào bức tường. Cha xứ thất vọng ôm mặt khóc thầm. Bỗng có tiếng gào lên: “Bố đi mất rồi…”.

Cha xứ lủi thủi ra về. Không Bí tích Hòa Giải, không Bí tích Xức Dầu, không trao Mình Chúa. Sau lưng cha xứ chỉ còn tiếng khóc hậm hực, tiếng khóc oán thù. Chập trùng. Chập trùng.

Một kỷ niệm buồn, buồn tê tái, buồn chưa từng có trong đời mục vụ của một linh mục.

Nghe cha già kể chuyện, mình thấy xót xa trong tim, mình thấy tê tái trên làn da. Buồn quá!

Buồn vô cùng! Buồn lâu lắm rồi mới hồi tỉnh để đặt vấn đề.

– Tại sao một Kitô hữu, một người đạo dòng, một người đang đứng bên bờ vực thẳm của sự chết, mà lại chống đối luật bác ái của Chúa một cách quyết liệt và cực đoan đến như thế?

– Phải chăng “yêu kẻ thù và chúc lành cho kẻ thù” là điều không thể thực hiện được đối với thân phận con người?

– Phải chăng luật bác ái Kitô giáo thay vì nâng con người lên hàng thần thánh, thì lại ném nó xuống làm thân phận con thú?

Hình ảnh ông trưởng tộc họ Nguyễn tắt thở ngay sau khi từ chối nhìn Đức Giêsu thứ tha làm lương tâm mình bứt rứt khôn nguôi. Mình liên tưởng đến những kỷ niệm chồng chất trên đường truyền giáo.

۩ Mình mở một lớp Giáo lý dự tòng. Học viên ngồi đầy phòng lớp. Mình thấy phấn khởi quá chừng. Hôm ấy mình nói về bác ái Kitô giáo. Mình nhắc lại nguyên văn giáo huấn của Đức Giêsu: “Nếu không cầu nguyện và chúc lành cho kẻ thù, thì không xứng đáng làm con của Đấng đã cho mặt trời mọc lên soi sáng cho cả người lành lẫn người dữ…”. Mình đang cao hứng khai triển bài Tin Mừng, thì bỗng cụt hứng.

Một người đàn bà đứng lên dõng dạc phát biểu: “Đạo này khó quá à, tôi theo không được đâu. Tôi có một đứa con dâu, nó hỗn lắm, tôi không thể tha thứ được. Tôi đã ghi băng đàng hoàng dặn con cháu tôi không được coi nó như con cái trong gia đình”. Vừa dứt lời, bà ngoe ngoảy ra về và… không bao giờ trở lại lớp học nữa. Buồn ơi là buồn!

۩ Hôm ấy mình đang rảo bước trên đường phố, thì bỗng phải dừng lại để chứng kiến một chuyện buồn. Một thằng cu tí bên hàng xóm chạy về. Khóc hu hu. Khóc hậm hực. Mẹ nó đằng đằng sát khí.
– Tại sao mày khóc?
– Thằng Tèo nó đánh con.
– Nó đánh mày thì mày đánh nó. Tại sao mày ngu mà khóc?
Người đàn bà đằng đằng sát khí ấy là một Kitô hữu trong họ đạo của mình. Bà dạy con mình trả thù, ngược lại với giáo huấn của Đức Giêsu. Buồn ơi là buồn!
Chuyện buồn này gọi nhớ về một chuyện xa xưa.

۩ Thằng cu tí đang chập chững tập đi. Nó vấp phải cái ghế, lăn đùng ra, khóc òa lên. Mẹ nó lấy roi mây quất lên cái ghế vô tri, vừa quất vừa dạy đời: “cái ghế này làm cho con tao ngã. Tao đánh mày. Tao đánh mày. Chừa nhá”. Được mẹ trả thù giùm, thằng cu tí thôi khóc, sung sướng quá chừng. Người mẹ cũng sung sướng, vừa sung sướng vừa hãnh diện về tài dỗ trẻ em của mình. Bà không ngờ rằng chính bà đang đào tạo đứa con để nó không thể tha thứ như Chúa muốn. Từ bà mẹ này mình nhớ đến một bà mẹ khác.

۩ Bà đang bồng con, thì ông nội đến chơi. Ông nội đón cháu từ tay bà mẹ. Ông cưng cháu, nựng cháu. Nựng theo kiểu đấng nam nhi đội đá vá trời xanh. Ông hôn cháu như bão táp. Ông chà cái cằm râu lởm chởm của mình lên mặt mũi nõn nà của thằng cháu mới lên hai tuổi. Thằng cháu khóc òa lên. Ông nội cười khằng khặc. Bà mẹ lấy tay đánh nhẹ lên vai ông nội, vừa đánh vừa la : “Mẹ đánh ông nội này!… Nín đi con”. Thằng bé được mẹ trả thù giùm, nín ngay. Bà mẹ cười hả hê.

Bà mẹ ấy ơi, bà đã vô tình gieo hạt giống hận thù vào tâm não của em bé. Hạt giống ấy nảy nở và lớn lên bao trùm hết cuộc đời của nó. Thế là nó không thể tha thứ theo yêu cầu của Đức Giêsu. Đáng tiếc vô cùng!

Sau khi ôn lại những kỷ niệm buồn rải rắc đó đây, mình ngẫm nghĩ và ngộ ra rằng “yêu kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ thù, chúc lành cho kẻ thù, để xứng đáng làm con của Cha trên trời” là một giáo lý cao siêu nhưng không vượt tầm với của con người. Loài người có thực hiện được giáo huấn ấy hay không là do những nguyên nhân rất cụ thể.

– Nếu bà mẹ nào cũng lấy roi trừng phạt cái ghế vì nó làm cho con của bà vấp ngã ; nếu bà mẹ nào cũng giả vờ đánh ông nội, để cho con mình nín khóc…, luật “yêu kẻ thù” sẽ mãi mãi ở ngoài tầm với của loài người.

– Nếu có những bà mẹ khuyến khích, năn nỉ con cái tha thứ và cầu nguyện cho những người ghét mình, nói xấu mình… thì giáo huấn “yêu kẻ thù” bắt đầu thăng hoa. Nếu tối nào cha mẹ cũng dạy con xin lỗi nhau trước khi đi ngủ, thì giáo huấn “yêu kẻ thù” đang là hiện thực.

– Thánh Phaolô yêu cầu tín hữu: “Giận ai thì giận nhưng khi mặt trời lặn xuống thì hãy quên hết đi”. Đó là tập luyện tha thứ, y như võ sĩ: tập luyện cơ bắp. Thời gian yêu kẻ thù như một tập quán sẽ chẳng còn xa bao nhiêu nữa.

– Trong thực tế, đã có biết bao nhiêu người sẵn sàng yêu kẻ thù, thứ tha cho người làm khổ mình một cách bất công. Cụ thể là Thánh Stêphanô. Kẻ thù ném đá vào ngài như mưa. Vậy mà ngài vẫn một niềm tha thứ, yêu thương như Đức Giêsu trên khổ giá: “Lạy Chúa, xin Chúa tha cho họ”. Tuyệt vời! Trên tuyệt vời!

“Yêu kẻ thù” là đỉnh điểm chót vót của bác ái Kitô giáo. Khó lắm, nhưng không khó quá. Để vươn tới đỉnh điểm ấy, thì giáo dục và luyện tập là phương tiện cần thiết. Nhưng có bao nhiêu người đang tập luyện yêu thương và tha thứ?

Nguồn: Sưu Tầm

MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Trong số Mười Điều răn, có một điều bắt đầu bằng chữ ‘Giữ’ Giữ ngày chúa nhật.  Nó nhắc cho chúng ta nhớ về một điều mình đã biết.  Có các giới răn của lòng thương xót ghi sẵn trong DNA của chúng ta. Chúng ta đã biết, nhưng cần phải nhớ rõ ràng hơn.  Đó là gì?

Mười Điều răn của Lòng thương xót

  1. Nhớ rằng lòng thương xót nằm sâu thẳm nhất trong trái tim Thiên Chúa.

Hiếm có điều nào thể hiện yếu tính Thiên Chúa hơn là lòng thương xót.  Lòng thương xót là yếu tính của Thiên Chúa.  Kinh thánh dùng những từ ngữ như trìu mến yêu thương và cảm thương để cố gắng định nghĩa lòng thương xót Chúa, nhưng khái niệm kinh thánh trọng tâm, nắm bắt từ khái niệm hesed của Do Thái, bao hàm một mối quan hệ yêu thương, ôm lấy và tha thứ ngay cả khi và nhất là khi chúng ta không thể vươn đến hay xứng đáng với những gì Chúa ban cho chúng ta.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót là yếu tính của mọi tôn giáo.

Bên trong tôn giáo và linh đạo, bên trong mọi đức tin, có ba điều cần phải nằm ở vị trí trọng tâm, là hành đạo đúng hợp, vươn đến người nghèo, và lòng cảm thương.  Xét tận cùng, chúng không đối nghịch nhau, nhưng là những mảnh bổ trợ của một lòng đạo toàn diện.  Nhưng việc hành đạo và vươn đến người nghèo là sự mở rộng của tình yêu Thiên Chúa chứ không phải của bản ngã con người, chúng cần được căn cứ trên cảm thương, trên lòng thương xót.  Sâu thẳm bên trong mọi tôn giáo là một lời mời: Hãy động lòng thương, hãy thương xót như Thiên Chúa thương xót.

  1. Nhớ rằng tất cả chúng luôn mãi cần lòng thương xót.

Thiên đàng sẽ nhảy mừng vì một người có tội ăn năn hoán cải hơn là vì chín mươi chín người công chính.  Liệu Thiên Chúa yêu mến người có tội hơn là người công chính?  Chẳng có ai là công chính.  Đúng hơn là, chúng ta cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa rõ ràng hơn khi thú nhận mình là người có tội.  Không một ai trong chúng ta đủ tầm.  Nhưng, như thánh Phaolô đã không ngừng dạy rằng, chúng ta không cần phải đủ tầm.  Đó chính là ý nghĩa của lòng thương xót.  Lòng thương xót dành cho những người không xứng đáng.

  1. Nhớ rằng, khi được nhận lòng thương xót, chúng ta phải thương xót người khác.

Chúng ta chỉ đón nhận và cảm kích lòng thương xót của Chúa và của người khác, khi chúng ta cũng thực hiện lòng thương xót đó với người khác.  Lòng thương xót phải đổ tràn qua chúng ta.  Nếu chúng ta không chuyển lòng thương xót đến với người khác, thì chúng ta sẽ trở nên nuông chiều bản thân và khắc nghiệt với người khác.

  1. Nhớ rằng chỉ có thực hành lòng thương xót mới cho chúng ta tự do.

Đón nhận và trao đi lòng thương xót, là điều duy nhất giải thoát chúng ta khỏi chiều hướng bẩm sinh của mình là mưu cầu bản thân, tự bào chữa cho mình và phán xét người khác.  Không có gì giải thoát chúng ta khỏi bạo chúa bản ngã cho bằng thực hành lòng thương xót.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót không mâu thuẫn với công lý, nhưng là thành toàn cho công lý.

Như hồng y Walter Kasper đã nói rất khôn ngoan, “Lòng thương xót là một dạng nước làm mềm vải, xói mòn giáo lý và giới răn, xóa bỏ ý nghĩa trọng tâm và nền tảng của chân lý.”  Đây chính là những gì mà người Pharisiêu cáo buộc Chúa Giêsu.  Lòng thương xót là khi công lý phải nhường bước.

  1. Nhớ rằng chỉ có thực hành lòng thương xót mới làm cho Nước Chúa trị đến.

Chúa Giêsu hứa với chúng ta rằng người hiền lành sẽ thừa hưởng địa cầu, người nghèo sẽ được ăn uống dư dật, và mọi nước mắt sẽ được lau khô.  Chuyện này chỉ có thể xảy ra khi lòng thương xót thế chỗ của tư lợi.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót cần phải được thực hành chung.

Sống lòng thương xót trong đời mình mà thôi, thì không đủ.  Lòng thương xót bị đẩy ra ngoài rìa khi xã hội không để tâm đủ đến những con người yếu đuối hay túng quẫn, và cũng bị đẩy ra rìa khi giáo hội xét đoán.  Chúng ta phải tạo một xã hội thương xót và một giáo hội thương xót.  Chỉ mình lòng thương xót mới có thể cho người yếu đuối được sống.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót kêu gọi chúng ta làm việc cả mặt thiêng liêng lẫn vật chất.

Đức tin Kitô giáo đòi buộc chúng ta biểu lộ lòng thương xót song song, vừa cụ thể vừa thiêng liêng.  Những việc làm lòng thương xót phần xác kinh điển là: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho khách đậu nhà, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng người bệnh, thăm kẻ tù rạc, và chôn cất kẻ chết.  Những việc thương xót phần hồn kinh điển là: dạy bảo kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn dạy kẻ có tội, tha kẻ dễ ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.  Thiên Chúa ban cho chúng ta nhiều ơn khác nhau và tất cả chúng ta đều hơn người khác ở một điểm nào đó, nhưng lòng thương xót thì được biểu lộ trong mỗi một người chúng ta, không chừa một ai.

  1. Nhớ rằng cuộc sống của chúng ta là đối thoại giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự yếu đuối của con người.

Điều duy nhất làm chúng ta xứng đáng là vì chúng ta bất xứng.  Chúng ta luôn mãi bất toàn, dù cho có mạnh mẽ, chân thành, thiện ý đến đâu chăng nữa.  Chỉ có lòng thương xót, khi đón nhận và trao đi lòng thương xót, chúng ta mới có thể ra khỏi những lo lắng, băn khoăn và vô vị cuộc đời mình.  Chỉ khi biết lòng thương xót, chúng ta mới biết tri ân.

Năm 2016 Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn tất cả chúng ta sống một năm của lòng thương xót, để suy ngẫm mầu nhiệm lòng thương xót là “giếng nước niềm vui, thanh thản và bình an.”  Đức Giáo hoàng tin rằng Lòng thương xót là bí mật để cho thế giới thấy dung nhan đáng tin của Thiên Chúa, gương mặt khả tín của Giáo hội, và để cho chúng ta bước đi vững vàng trong cuộc sống.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Lạy Chúa Giêsu xin ban cho con có lòng thương xót và biết thực hành lòng xót thương như Cha trên trời là Đấng đầy lòng xót thương.  Amen!

From Langthangchieutim gởi

TẠI SAO TÔI CHỐNG CỘNG?

No automatic alt text available.

Hoang Le Thanh is with Phan Thị Hồng.

Vấn đề của Việt Nam là vấn đề của thể chế chính trị, cần phải thay. Khi hệ thống sai, thì dù cho có dẹp ung nhọt này để thay bằng cái mới, thì cái mới cũng sẽ thành ung nhọt.

Rõ ràng cái xấu được sinh ra từ cái gốc là độc tài Cộng sản.

CS là nguồn sinh ra cái sai bất tận của đất nước này nên tôi chống nó, thế thôi!

Mời các bạn đọc bài phân tích rất hay:

TẠI SAO TÔI CHỐNG CỘNG?

Tác giả: Đỗ Ngà

Cách đây khoảng 18 năm, xe máy Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam. Dân Việt mua dùng rất nhiều. Thế rồi khi sử dụng, xe Tàu không thể thay thế xe Nhật được. Dùng xe Tàu nó sẽ hư rất thường xuyên, làm mất thời gian và chi phí sửa chữa của khổ chủ. Một xe Tàu, tháng nào cũng phải sửa là chuyện bình thường. Trong khi xe Nhật cũng hỏng hóc, nhưng rất lâu chủ mới sửa một số chi tiết nhỏ. Xe Tàu mỗi lần vào tiệm, nó hay đổ bệnh liên hoàn, chỉ tiết này hư kéo theo chi tiết khác. Còn xe Nhật, thường bị bệnh nào thay chi tiết đó là sẽ chạy tốt.

Bệnh của xe Tàu là bệnh hệ thống, còn bệnh xe Nhật là bệnh chi tiết. Cuối cùng, ai từng xài hàng Tàu đều phải vứt bỏ và trở về với xe Nhật. Không thể ôm lấy cái hệ thống chuyên trục trặc được, lỗi hệ thống thì thay hệ thống.

Nói đến bộ máy chính trị là nói đến hệ thống, còn chính sách và cá nhân người lãnh đạo là chi tiết trong hệ thống đó. Trong một bộ máy hoàn hảo, hỏng một chi tiết nhỏ thì chỉ cần thay chi tiết đó thì máy chạy vẫn êm. Còn khi hệ thống bị lỗi thì cứ thay một chi tiết thì chi tiết nào thì rồi chi tiết đó cũng sẽ hỏng theo cái hỏng của hệ thống mà thôi.

Ở bất kỳ quốc gia nào, cũng đều có những chính sách sai lầm của người đứng đầu chính phủ. Ở nước phát triển hàng đầu như Mỹ Nhật, Anh vv… cũng thế, cũng có những chính sách sai lầm làm kinh tế trì trệ hơn, nhưng phát hiện ra chính sách nào sai lầm, người ta sửa thì bộ máy nhà nước lại chạy tốt và ổn định. Hay tổng thống nào yếu kém, người ta truất phế tổng thống đó thì bộ máy nhà nước lại chạy tốt.

Nhưng ở Việt Nam thì sao? Khui ra một vấn đề tiêu cực, nó đổ bể ra cả chùm. Cho nên bất cứ vụ án nào, người ta cũng khui ra ở một chừng mực, còn nếu rút tiếp, dây sẽ làm động cả khu rừng. Rõ ràng những ung nhọt của Việt Nam nó nổi lên là bởi cái lỗi hệ thống, nói đúng ra là bởi chính quyền CS. Ê kíp này bị thay thế, ê kíp khác lại cũng sai lầm tiếp.

Phạm Vũ Luận gây ra một núi sai lầm, Phùng Xuân Nhạ lên cũng một núi. Tướng công an phá những vụ án lớn tiếng tăm nổi như cồn, nhưng rồi chính hắn và đồng bọn lại là cầm đầu một tổ chức tội phạm khác còn nguy hiểm hơn. Vấn đề của Việt Nam là vấn đề của thể chế chính trị, cần phải thay. Khi hệ thống sai, thì dù cho có đẹp ung nhọt này để thay bằng cái mới, thì cái mới cũng sẽ thành ung nhọt. Có thay thế đến thiên thu thì ngày nào trên mặt báo cũng dày đặc tiêu cực của chính quyền. Có người bảo cái sai của CS là cái sai do cá nhân chứ không phải cái sai hệ thống, vậy đấy không phải một dạng dốt nát là gì?

Ngoại trừ kẻ chống cộng cực đoan không dùng lí lẽ, thì người chống cộng là chống cái sai triệt để nhất, là chống cái gốc sinh ra cái sai nhan nhản trong xã hội này. Tôi cũng khẳng định, tôi là người chống cộng chứ không chống cá nhân nào cả, nên bài viết của tôi thế nào cũng dẫn đến sự quy kết một tội đồ lớn nhất, đó là độc tài toàn trị CS. Rõ ràng cái xấu được sinh ra từ cái gốc là độc tài Cộng sản, nhưng khi tôi chống Cộng, có kẻ lại cho rằng lời lẽ của tôi là “sặc mùi chống cộng”? Mù loà đến độ hàng vạn cái sai chồng chất, lớp lớp kẻ có quyền có chức sai trái vẫn sờ sờ ra đó mà không thừa nhận sự đúng đắn của kẻ chống Cộng. Cái sai của của quan chức thì công nhận, nhưng không công nhận cái sai của ĐCS, rất mâu thuẫn. Những kẻ như thế này rất hay cay cú, hậm hực với những ai chống Cộng. Ở xã hội này, kẻ như thế rất đông. Cộng toàn bộ những con người này lại, chẳng khác nào một tập thể đần độn trong bộ dạng có vẻ hiểu biết.

Trong friendlist và cả những kẻ ngoài friendlist, rất nhiều kẻ dạng như thế, tôi đã block một mớ. Loại này ban đầu còn nói lí lẽ, nhưng khi lí lẽ bị cùn thì lộ nguyên hình là kẻ cay cú và tấn công kiểu quy chụp người chống Cộng. Có thể những loại người này đang ăn lương chính quyền CS để bảo vệ hệ chính quyền bất lương, nhưng cũng có thể họ là dạng người hiểu biết không tới. Họ không biết suy luận vấn đề logic đơn giản nhất. Sóng biển vỗ bờ hết lớp này đến lớp khác, từ thời này sang thời khác, nhưng vẫn không công nhận là sóng đó được sinh ra từ biển. Tiêu cực được sinh ra từ chính quyền CS như là sóng biển xô bờ, thế nhưng vẫn không công nhận cả bộ máy chính quyền là nguyên nhân gốc, “cá nhân sai chứ Đảng không sai”. Những kẻ này cũng có vẻ hiểu biết về những thực trạng xã hội, nhưng với họ ai viết bài chống Cộng thì đều “viết như Kứt”. Bó tay! Đấy một dạng thằng não thì đần thái độ thì láo xược. Tranh luận vô ích.

Tôi không ngần ngại thừa nhận, tôi là kẻ chống Cộng. Vì sao? Vì CS là nguồn sinh ra cái sai bất tận của đất nước này nên tôi chống nó, thế thôi. Cách chống của tôi là viết bài phân tích cái sai tôi mới đi đến chống, tôi không phải là kẻ chỉ điên cuồng chửi mà không biết lí lẽ.

Cho nên, xin thông báo với quý “ngài” – loại người mà tấn công tôi chỉ vì tôi chống Cộng ấy – rằng tôi sẽ block các “ngài” nếu các ngài vào trang nhà tôi tấn công tôi mà bất cần lí lẽ. Nay tôi sẽ không muốn phí lời với “các ngài ” nữa nhá.

Kính báo!

Đỗ Ngà
https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=1388845121216185&id=100002721323393&refid=17&ref=content_filter

NGHE-BIẾT-THEO

NGHE-BIẾT-THEO

Lm Trịnh Ngọc Danh

Những dấu hiệu để nhận ra người thân quen là gương mặt và giọng nói.

Tuy cách nhau, nhưng nhớ đến ai, ta vẫn hình dung ra được gương mặt người ấy; nghe giọng nói qua điện thoại, ta nhận ra ngay người thân quen của ta là ai.

Chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Các chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Ga. 10,27), hay “Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga. 10,14).

Động từ “biết” trong Kinh Thánh có một ý nghĩa đặc thù diễn tả tình yêu thương kết hợp nơi thân xác của vợ chồng để cả hai trở nên một như Chúa Cha biết Chúa Con và Chúa Con biết Chúa Cha.  Khi nghe Thiên Thần báo tin: “Này Trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu…”, Trinh nữ Maria đã trả lời: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”

Như thế “biết” là không chỉ có ý nghĩa thuần túy thuộc phạm trù nhận thức mà còn bao gồm cả về phương diện tình cảm.  Biết là thân thương, trìu mến, gắn bó, kết hợp.

Ta biết các chiên Ta

Chúa Giêsu đã tự xác nhận mình là Mục Tử.  Ngài là chủ đàn chiên chứ không phải người chăn thuê và là một Mục Tử Nhân Lành.  Khác với chủ chăn đích thực, người chăn thuê, vì đàn chiên không thuộc về anh ta, anh ta không thiết gì đến đàn chiên, nên khi thấy sói đến, anh ta bỏ chiên mà chạy, mặc cho sói vồ lấy chiên và làm cho chúng chạy tán loạn.

Người Chăn Chiên Nhân Lành ấy biết đàn chiên của mình là con cái cùng một Cha, cùng chung một mái nhà, là anh em, là bạn hữu chứ không phải là tôi tớ…, biết từng con chiên một, biết đàn chiên yếu đuối hay sa ngã, biết chúng đang phải sống một kiếp sống hủy diệt vì tội lỗi, biết chiên đang khát vọng tìm một đồng cỏ xanh tươi, một dòng suối mát cho cuộc sống để nghỉ ngơi…

Vì yêu thương đàn chiên, muốn giải cứu chúng khỏi kiếp sống diệt vong ấy để được sống hạnh phúc viên mãn nơi Nhà Cha trên trời, người Mục Tử Nhân Lành đã xuống thế mang thân phận thấp hèn của con chiên, đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên để từ sự phục sinh của người Mục tử Nhân Lành, đàn chiên được sống trong an bình và hy vọng.

Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh, Mục Tử Nhân Lành đã trở nên nguồn ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, cho từng con người.  Ngài muốn chăn dắt, gìn giữ, nuôi sống từng con chiên một trong đàn chiên.  Mục Tử Nhân lành biết các chiên của mình là như thế đó!  Và dung mạo của Chủ Chăn ấy là nhân lành, yêu thương, biết các chiên, hy sinh mạng sống vì đàn chiên và bảo vệ đàn chiên là như thế đó!”

Là con chiên thuộc đàn chiên của Mục Tử Nhân Lành, ta đã biết chủ chăn, nghe tiếng Đấng ấy như thế nào?  Đã cảm nhận được sự hy sinh, bảo vệ, chăm sóc qua cái “ biết” của Mục Tử ấy chưa?

và các chiên Ta biết Ta, chúng nghe tiếng Ta

Nhờ dấu hiệu nào giúp chúng ta “ biết” Chủ Chăn?

Qua Kinh Thánh và nhất là qua Tin Mừng và phép Thánh Thể, ta biết Ngài, nghe tiếng Ngài kêu gọi. Ngài là Đấng Phục Sinh, nghĩa là Đấng Hằng Sống.  Ta sẽ biết rõ Ngài hơn, nhiều hơn, thân mật hơn, nếu ta sống và đi vào cuộc sống với, sống cùng các chiên khác.

Chúng ta đọc Kinh Thánh để nhận biết Người Chăn Chiên, để nghe tiếng Đấng ấy kêu gọi, nhưng ta nhận biết và nghe được tiếng gọi ấy bằng cách nào?  Bằng phân tích, lý luận hay bằng tình cảm tin yêu?

Ba người ngồi trao đổi với nhau về bản dịch Kinh Thánh.

Ông thứ nhất nói:

– Tôi thích bản dịch A.  Nó sáng sủa hơn những bản dịch trước.  Bản dịch này đọc dễ hiểu hơn.

Ông thứ hai nhận định:

– Tôi thì thích bản dịch B hơn.  Bản dịch vừa rõ ràng lại vừa văn chương, rất thích hợp cho chúng ta cầu nguyện.

Ông cuối cùng nhỏ nhẹ nói:

– Phần tôi, tôi thích bản dịch của mẹ tôi nhất.  Mẹ tôi dịch Thánh Kinh ra thực thế, làm cho Thánh Kinh dễ dàng áp dụng vào đời sống hằng ngày.

 Mỗi ngày, có thể ta sẽ viết thêm một trang mới vào cuốn sách Tin Mừng sống của thời đại bằng chính những việc ta làm, bằng những lời ta nói.  Nếu những lời nói và hành động của ta không phản ảnh được những giá trị của Tin Mừng, thì những lời nói và hành động ấy cũng chẳng nói lên được gì cả.

Sống và thực hành lời Chủ Chăn kêu gọi: hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, nhiệt thành tham dự Thánh Lễ để từ đó sống kết hợp với Ngài là ta biết và nghe tiếng Mục Tử Nhân Lành kêu gọi.  Bổn phận của con chiên là biết nghe tiếng của chủ chăn.  Chỉ có một tiếng thôi, không có tiếng nào khác để chiên nghe theo mà được yên ổn, an vui, sống hạnh phúc ngoài tiếng Giêsu.  Nhưng chỉ có thế thôi thì chưa đủ, chưa trọn vẹn bổn phận mà còn phải bước theo sự dìu dắt của Mục Tử nhân lành.

và chúng theo Ta” (Ga. 10, 27)

Đã biết Chủ Chăn, và đã phân biệt được tiếng gọi của Ngài với tiếng gọi của người chăn chiên thuê, ta phải mau mắn, tin tưởng đi theo.  Đi theo để được chăm sóc, được bảo vệ khỏi mọi hiểm nguy trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Không như người chăn thuê, khi thấy sói rừng đến thì bỏ mặc đàn chiên mà chạy thoát thân; trái lại, Mục Tử Nhân Lành của ta sẵn sàng thí mạng sống mình vì đàn chiên.  Đi theo và tin tưởng phó thác vào sự bao bọc chở che của Chủ Chăn đã lấy mạng sống Ngài để bảo vệ, cứu thoát ta khỏi tội lỗi và cái chết hủy diệt, để đưa ta vào sự sống Phục sinh vĩnh cửu như tác giả Thánh vịnh 22 đã cảm nghiệm:

Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.

Trong đồng cỏ xanh tươi, Ngài cho tôi nằm nghỉ.

Ngài đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.

Ngài dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính, vì danh dự của Ngài.

Lạy Chúa, dầu qua thung lũng tối tăm,

con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.

Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm…

 Thế nhưng, ta có sẵn sàng chịu nghe tiếng của Chủ Chăn để tìm về với Ngài mỗi khi đi lạc đường, có sẵn sàng đi theo Ngài để cho Ngài bảo vệ, chăm sóc hay lại tìm cách tách rời đàn chiên để đi tìm những bãi cỏ tiền tài, danh vọng, bãi cỏ ý riêng… thay vì gặm cỏ xanh tươi, uống nước dòng suối mát nơi đồng cỏ Tin Mừng và Thánh Thể!

Phải coi chừng chủ chăn giả hay người chăn thuê, vì đàn chiên không thuộc về ngưới ấy, nên họ thiếu trách nhiệm với đàn chiên, ích kỷ sợ nguy hại đến bản thân mình hơn đến số phận của đàn chiên.  Ngược lại, Mục Tử nhân lành là người yêu thương, bảo vệ, chăm sóc đàn chiên, biết từng con chiên một.

Tiêu chuẩn cuối cùng để phân biệt chủ chăn đích thực và người chăn chiên thuê là thí mạng sống vì đàn chiên.  Chỉ có Mục Tử Nhân Lành Giêsu là Đấng đã làm như thế cho đàn chiên của mình.

Là chiên trong đàn chiên của Chúa, có ba điều ta cần phải suy xét và thực hành trong cuộc sống của mình là:

Chiên Ta nghe tiếng Ta, chúng biết Ta và chúng theo Ta.  Sống và thực hành ba điều đó không phải chỉ để mưu tìm hạnh phúc cho riêng mình mà còn phải cùng Mục Tử nhân Lành thực hiện một sứ vụ khác, một nỗi trăn trở khác là: “Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này, cả những chiên đó ta cũng phải mang về đàn, chúng sẽ nghe tiếng ta.  Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên.”

Khi gặm cỏ, gặp những chiên khác chưa thuộc đàn chiên của Chủ Chăn Giêsu, chúng ta có thái độ nào?  Đố kỵ hay thân thiện, nhường nhịn chia sẻ hay ganh ghét tranh phần, yêu thương hay thù hận, tiếp đón giúp đỡ hay làm ngơ bỏ mặc, cộng tác hay dửng dưng, đối thoại hay khép kín?

Ghen ghét, đố kỵ, phân cách, tự mãn, tự kiêu, ích kỷ… có giúp gì được cho mong ước quy tụ những chiên khác chưa thuộc về đàn chiên của Mục Tử Giêsu thành một đàn chiên duy nhất và chỉ một chủ chiên mà thôi không?

Lm Trịnh Ngọc Danh

From Langthangchieutim

‘Lối ca ngợi này nhằm mục đích gì?’

CA NGỢI ĐIỀU GÌ?

Báo chí Việt làm khổ người dân Syria, vì nếu có mệnh hệ gì thì họ là người gánh chịu tất cả chứ vui mừng gì mà đổ xuống đường trong khi có chiến tranh với những vũ khí hiện đại có tính huỷ diệt rất lớn luôn thường trực nhắm xuống?

Tôi không hiểu lối ca ngợi này để nhằm mục đích gì và tạo nên giá trị gì?

Trước đây báo chí Việt Nam cũng tung hô Gaddafi tuyên bố là họ giành thắng lợi lớn và kiểm soát gần như toàn bộ các vùng quan trọng ở đất nước này, nhưng cuối cùng chỉ ít tháng sau đó thì hắn ta và chế độ độc tài của bọn chúng bị chính người dân của mình tiêu diệt vì người dân không ủng hộ chúng.

Tên độc tài khát máu Saddam Hussein cũng tuyên bố chống lại Mỹ đến giọt máu cuối cùng và coi Iraq là mồ chôn lính Mỹ vì sẽ thực hiện chiến tranh nhân dân, nhưng rồi thì hắn ta đã phải trả giá và bị Toà án hình sự quốc tế đem ra xét xử về tội ác chống lại loài người cùng 6 kẻ khác.

Những kẻ độc tài và tước đoạt tự do cũng như sinh mệnh của dân chúng trên chính đất nước mình một cách tàn bạo thì cớ gì lại phải ủng hộ hoặc là bảo vệ chúng bằng những lời lẽ hay ho đến thế?

Biển đảo quê hương đang gặp nhiều sóng gió và an nguy, chưa thấy thắng lợi nào được vang lên mà vẫn chỉ thấy bóng dáng những chiếc tàu lạ thường xuyên xuất hiện hung hãn đâm, phá tàu và bắn giết ngư dân ta ngay trên vùng biển của mình, sao không hướng về đồng bào và phía biển đảo là máu thịt của tổ quốc mình trước những kẻ đang lăm le bành trướng bất chấp tất cả để cướp đoạt? 

‘Lối ca ngợi này nhằm mục đích gì?’

Một số nhà bình luận người Việt dùng Facebook để bày tỏ chính kiến khác với xu hướng chủ đạo của truyền thông nhà nước về vụ không kích ở Syria.

Luật sư Lê Văn Luân đặt câu hỏi trên Facebook cá nhân: “Tôi không hiểu lối ca ngợi này để nhằm mục đích gì và tạo nên giá trị gì?”

“Báo chí Việt làm khổ người dân Syria, vì nếu có mệnh hệ gì thì họ là người gánh chịu tất cả chứ vui mừng gì mà đổ xuống đường trong khi có chiến tranh với những vũ khí hiện đại có tính huỷ diệt rất lớn luôn thường trực nhắm xuống?”

Từ Sài Gòn, nhà văn Nguyễn Viện đặt câu hỏi báo chí đưa tin “láo khoét” thì có “lợi ích gì cho Việt Nam”.

app-facebook

Nguyễn Viện

on Sunday

Có 2 điều tôi không hiểu:
1/ Báo chí VN đưa tin láo khoét về chiến thắng của Syria trong vụ liên quân Mỹ Anh Pháp tập kích nước này. Lợi ích gì cho VN, trong khi quyền lợi của VN cần hướng tới là Syria hay Mỹ?
2/ Thời buổi thông tin toàn cầu như hôm nay, dối trá một cách ngu dốt để làm gì?

Vén lên màn bí mật tại Việt Nam: Quặng Bauxite hay Quặng Phóng Xạ?

 Vén lên màn bí mật tại Việt Nam: Quặng Bauxite hay Quặng Phóng Xạ?

Mai Thanh Truyết (Danlambao) – Bài viết nầy trích trong quyển sách “Từ Bauxite Đến Uranium: Tiến trình Đô Hộ Việt Nam Của Trung Cộng” xuất bản tại Nam California năm 2009, và đã được cập nhật hóa. Tác giả đã đi nói chuyện nhiều nơi, nhưng cho đến ngày hôm nay, CSVN vẫn chưa có một lời “phản bác hay phản biện”. Tại sao có sự im lặng khó hiểu như vậy? Phải chăng, đó là một sự thật mà họ “há miệng mắc quai?” 

Trong hiện tại, chúng ta có thể nói một cách chính xác và không sợ phản biện là những người lính Tàu dưới dạng công nhân đang hiện diện đầy rẫy trên quê hương Việt Nam của chúng ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, giống như mọi quốc gia trên thế giới như Tây Tạng, Tân Cương, Phi Châu và những nơi có dấu chân TC khai thác các công trình quặng mỏ hay những công ty sản xuất khác tại những nơi nầy.

Cộng sản Hà Nội cũng như Trung Cộng (TC) cũng không thể nào chối cãi được nhận định trên. Tại Việt Nam, người Tàu dù dưới dạng công nhân hay chuyên viên, mỗi khi vào một công ty nào đó đều sinh hoạt hoàn toàn riêng rẽ, nói chuyện với nhau bằng tiếng Hán mà thôi. Họ xây dựng lều trại làm nơi ăn ở, giải trí và có cuộc sống hoàn toàn cách biệt với các cộng sự viên người Việt. Thậm chí, mỗi khi có tranh cãi, họ ăn hiếp, đánh đập công nhân Việt. Thật không có gì nhục nhã cho bằng hiện tượng nầy xảy ra ngay chính trên mảnh đất quê hương của mình mà cán bộ hay công an cố tình làm ngơ trước những nghịch cảnh trên. Những khu biệt lập nầy do TC hoàn toàn quản lý mọi sinh hoạt, không có người “lạ” nào hay cán bộ, công an Việt Nam có thể bén mảng đến được, mặc dù những công ty họ làm việc, đa số đều do người Việt quản lý. 

Cho đến hôm nay, những tệ trạng trên tiếp tục diễn ra ở khắp mọi nơi, đặc biệt tại Vũng Áng, nơi có nhà máy gang thép Hưng Nghiệp Formosa tạo nên một luồn sóng phẫn uất trong lòng người Việt, và thiết nghĩ những người công nhân lương thiện nầy sẽ có ngày đứng lên dành lại quyền công nhân thực sự và sẽ không để công nhân TC hiếp đáp mãi mãi được. 

Những sự kiện tương tự cũng đã từng xảy ra ở những quốc gia có người Hán xâm nhập, đôi khi đi đến đổ máu như ở Tân Cương, Tây Tạng, và gần đây nhất tại thành phố Alger, Algeria, qua những nguyên nhân hết sức cá nhân, nhưng từ đó xảy ra những cuộc đụng độ có tích cách chủng tộc vì sự hống hách, ức hiếp của người Hán trên mảnh đất quê hương của người bản xứ. 

Trở lại Việt Nam, riêng tại hai vùng đang là điểm nóng từ năm 2008 ở Việt Nam; đó là Tân Rai Lâm Đồng và Nhân Cơ ở Đắk Nông. Hai nơi nầy hiện đang được TC phát động kế hoạch khai thác quặng mỏ bauxite từ 10 năm nay dưới sự đồng thuận của CSVN. Sau khi không thể bưng bít được, CSVN đã phải bạch hoá công bố hai công trình trên mặc dù đã ký kết với TC từ năm 2001 giữa Nông Đức Mạnh và Hồ Cẩm Đào, qua quá nhiều áp lực của đông đảo từng lớp dân chúng ở quốc nội cũng như ở hải ngoại cảnh báo về hiễm hoạ từ môi trường, kinh tế, chính trị, và quân sự nếu để cho TC khai thác hai vùng nầy. 

Nhưng trầm trọng hơn cả là qua việc nhường bước cho TC khai thác, CSVN để lộ ra tinh thần quốc tế vô sản (mà bây giờ đã biến thành tinh thần quốc tế hữu sản chăng?) trong việc hợp tác với TC. Và đây cũng có thể được xem như là một tiến trình then chốt của việc tiến chiếm Việt Nam không tiếng súng của TC. 

Hiện nay, đã có sự hiện diện của trên 10.000 công nhân TC ở Tân Rai và trên 7.000 ở Nhân Cơ. Đây là những con số do chính Ủy Ban Nhân Dân ở hai tỉnh trên công bố. Thiết nghĩ, con số thực sự chắc phải cao hơn nhiều và theo như dự kiến của hai công trình khai thác trên, con số công nhân TC sẽ đạt đến 10.000 người cho mỗi nơi như trong dự án đã ghi. 

Có nhiều câu hỏi được đặt ra cho tình trạng nhân sự TC ở hai địa điểm trên là, tại sao họ có mặt 10 năm qua mà vẫn chưa hoàn tất việc chuẩn bị hoàn tất việc khai thác cho cơ xưởng, giải quyết các vụ đuổi nhà, chiếm cứ các vườn trồng cây công nghiệp của dân như trà, cà phê, cao su v.v… mà chỉ lo xây dựng láng trại và nhà ở cho công nhân và chuyên viên cùng những dịch vụ sinh hoạt khác như giải trí riêng biệt và cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài bằng hàng rào được thiết lập chung quanh? 

Đây là một tiến độ công trình rất chậm so với số lượng nhân công hiện có và thời gian thi công. Và điều nầy đang làm ngạc nhiên cho những nhà quan sát có kinh nghiệm về hoạt động công trường. 

Từ đó, câu hỏi khác được đặt ra là, họ có thực tâm đến đây để khai thác quặng mỏ bauxite hay không? 

Hay là họ có những dự tính thâm độc nào khác mà việc khai thác quặng mỏ bauxite chỉ là Diện để chứng minh sự có mặt của họ, và trọng tâm chính của họ là Điểm, là khai thác một công trình bí mật nào khác? 

Kể từ 2014 trở đi, hàng năm, tại hai dự án nầy, CSVN đều khai lỗ hang chục triệu Mỹ kim mà vẫn tiếp tục khai thác và chấp nhận sự hiện diện của hàng chục ngàn nhân công, hay quân nhân (?) TC… tiếp tục chiếm đóng, và tiếp tục “sản xuất”… trên 3.000 “đứa con lai” tại hai nơi nầy. 

Để trả lời và khơi mở một số nghi vấn trên, cũng như qua đề tựa của bài viết, người viết xin lần lượt tạo dựng ra nhiều giả thuyết qua các tin tức có được để từ đó chứng minh sự hiện diện và hành động của TC trên mảnh đất quê hương Việt Nam. 

  1. Việc khai thác quặng mỏ Uranium

Cao nguyên Trung phần Việt Nam là một phần của cao nguyên Bolloven. Nơi sau nầy là một vùng đất bazan, chuyển hoá từ phún xuất thạch của núi lửa hàng triệu năm qua. Do đó, hàm lượng phóng xạ của vùng đất nầy rất cao so với các vùng đất tự nhiên khác. Và sác xuất có quặng mỏ Uranium cũng rất cao. 

Để có khái niệm về việc khai thác quặng mỏ Uranium, sau đây là quy trình sơ lược dựa theo các nguyên tắc căn bản đang được sử dụng trên thế giới. Thông thường quặng Uranium có được là do sự phối hợp của hai chất đồng vị (isotope) Uranium: Uranium235 và Uranium238. U238 được xem như là đồng vị nặng vì có số NEUTRON nhiều hơn U235. Chính U235 mới đích thực là tác nhân tạo ra nguồn năng lượng cho nhân loại và thông thường có trữ lượng trong hỗn hợp quặng mỏ là 0,7% mà thôi. Việc khai thác gồm: 

– Quặng Uranium trong thiên nhiên cần phải được tách rời hai đồng vị 238 và 235; 

– Sau đó Uranium 235 sẽ được tinh luyện (enrich) để đạt được nồng độ Uranium cần thiết để ứng dụng trong nhiều mục tiêu khác nhau. 

Việc tinh luyện Uranium gồm 3 phương pháp: ly tâm, khuếch tán vật lý, và dùng tia laser. Các quốc gia như Pakistan, Ấn Độ, Bắc Triều Tiên hay Iran vẫn còn đang áp dụng phương pháp cổ điển là ly tâm. Trong lúc đó, ở các quốc gia phát triển khác như Hoa Kỳ và Tây Âu, hai phương pháp sau được dùng đến vì có hiệu quả và năng suất cao hơn. Muốn chế tạo ra bom nguyên tử, ít nhất, nồng độ của Uranium cần phải đạt được là 80%. Đối với các nồng độ thấp hơn, tuỳ thuộc vào những ứng dụng khác nhau trong việc dùng trong các nhà máy phát điện nguyên tử hay các hệ thống an toàn trong một số dịch vụ thật chính xác trong quy trình sản xuất mà con người không đủ khả năng để điều chỉnh bằng tay hay mắt được. 

  1. Trung Tâm Nguyên Tử Lực Cuộc

Đây là một trung tâm nghiên cứu về nguyên tử và phóng xạ được người Pháp xây dựng từ giữa thập niên 50 ở thế kỷ trước. Hiện nay, Trung Tâm vẫn còn hoạt động. CSVN dùng Trung tâm nầy để sản xuất các dụng cụ, hệ thống sensor để kiểm soát hay vận hành những khu vực hiểm yếu trong các công nghệ mhư khai thác mỏ than, hay các thiết bị kiểm soát trên tàu bè, cũng như trong các lãnh vực kiểm soát các valve an toàn về áp suất hay nhiệt độ, hoặc điều chỉnh một cách chính xác việc thay đổi điều kiện trong các quy trình sản xuất. Quan trọng hơn cả là việc ứng dụng vào các valve an toàn khi có vấn đề cấp bách trong vận hành để hạn chế hay tránh tai nạn. Hiện tại, Việt Nam đang nhập cảng nguyên liệu phóng xạ từ nước ngoài. 

Câu hỏi được đặt ra nơi đây là:  Tại sao người Pháp cho lắp đặt Trung Tâm nầy tại Đà Lạt vào thời điểm trên, trong khi quốc lộ 20 nối liền Sài Gòn và Đà Lạt chỉ là một con lộ thô sơ, chưa được tráng nhựa đẩy đủ?  Phải có điều gì bí ẩn khiến cho họ thành lập Trung Tâm nầy? 

Để trả lời hai câu hỏi trên, phải chăng là họ muốn xây dựng Trung Tâm gần nơi vùng có phóng xạ để nghiên cứu, thăm dò, và khai thác nguồn nguyên liệu phóng xạ tại chỗ? 

Ngược dòng lịch sử, trong giai đoạn chiếm đóng ngắn ngũi của Nhật Bổn vào thế chiến thứ hai vào những năm 1941, 42, 43…, họ cũng đã gởi nhiều phái đoàn địa chất để thăm dò vùng nầy. Và trong thời gian chiến tranh Mỹ-Việt, nhiều phái đoàn nghiên cứu của Hoa Kỳ cũng đi lại thường xuyên trên vùng Bolloven nầy. Thêm một nguồn tin từ một niên trưởng giáo sư hiện ở Phoenix, vào cuối năm 1944, một chiếc tàu Nhật trên đường từ Việt Nam trở về Nhật bị quân đội Đồng minh đánh chìm vì bị nghi có chở một số mẫu quặng mỏ Uranium lầy từ Cao nguyên Trung phần. Nhưng tất cả đều được giữ bí mật. Không có một báo cáo khoa học nào công bố về vấn đề trên hay cho biết vùng đất nghiên cứu có chứa nguồn nguyên liệu phóng xạ Uranium hay không? 

  1. Giả thuyết về sự hiện diện của TC trong vùng Cao nguyên Trung phần 

Ngày 21 tháng 4 năm 2009, tại Công ty NWT Uranium Corp. ở Toronto, Canada, Ông Chủ tịch Tổng Giám Đốc John Lynch đã công bố bản tin sau khi họp với đối tác là Việt Nam rằng, Công ty đã đồng ý trên nguyên tắc về việc chia sẻ, khai triển và khai thác quặng mỏ Uranium ở Việt Nam. Quả thật đây là một chỉ dấu cho thấy giả thuyết có nguồn nguyên liệu phóng xạ ở cao nguyên Trung phần Việt Nam là có thật. Chính nhờ đó mới có những giao kết thăm dò và khai thác giữa Việt Nam với các đối tác khác. 

Và TC, đã nắm bắt cũng như biết nguồn nguyên liệu nầy, vì vậy cho nên mới thực hiện dự án khai thác quặng mỏ bauxite để đánh lạc hướng thế giới thêm một lần nữa. 

Theo ước tính sơ khởi của công ty NWT thì cao nguyên có trữ lượng là 210 ngàn tấn quặng oxid uranium (U3O8) với nồng độ trung bình là 0,06%. Và ở một tài liệu khác cho biết hàm lượng quặng mỏ oxid uranium ở mỏ than Nông Sơn, Quảng Ngãi là 8.000 tấn quặng và có cùng một nồng độ trung bình với oxid uranium ở Cao nguyên. 

Qua hai thông tin trên, một lần nữa có thể cho chúng ta có một kết luận một cách xác tín là với mức độ quan trọng về nguồn nguyên liệu nầy khiến cho nhiều quốc gia như Pháp, Nhật, và Hoa Kỳ đã biết trước nhưng không công bố mà thôi vì điều kiện an ninh của Việt Nam trong thời chiến lúc bấy giờ không cho phép. 

Và ngày hôm nay, TC đã biết và thay vì đến Việt Nam để khai thác nguồn nguyên liệu quý giá về phương diện quốc phòng nầy, họ đã đánh lận con đen để nói tráo qua việc khai thác quặng mỏ Bauxite. 

Với hàm lượng oxid uranium kể trên, có thể ly trích và khai thác được hàng trăm Kg Uranium có nồng độc cao có thể ứng dụng vào trong kỹ nghệ quốc phòng và quân sự. 

Thêm nữa có hai chi tiết sau đây để củng cố giả thuyết về việc TC đang bí mật chuẩn bị việc khai thác quặng mỏ Uranium: 

– Mỏ than Nông Sơn đã được VNCH khai thác từ năm 1961, và vẫn được vận hành từ đó đến nay, và hoàn toàn không có tai nạn nào xảy ra ở đây. TC với tư cách nào và với lý do gì đã đem trên 200 chuyên viên vào nơi đây từ năm 2009? 

– Một phần cao nguyên Bolloven nằm trên địa phận Lào đã được TC thuê mướn trong vòng 50 năm? 

Hai chỉ dấu sau nầy chính là cái chìa khóa để mở toang cánh cửa bí mật giữa CSVN và TC trong việc khai thác quặng mỏ Bauxite ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Việc khai thác nầy chỉ là Diện để che mắt thế giới, và Điểm chính là việc tìm kiếm, khai thác, ly trích và tinh luyện chất phóng xạ Uranium 235 để làm tăng lợi khí“cường quốc” của Hán tộc. 

Và đây mới là điểm then chốt của tham vọng quyền lực của TC với sự đồng thuận của đảng cộng sản Việt Nam. 

  1. Ảnh hưởng của việc khai thác quặng mỏ Uranium 

Đứng về mặt môi trường, quy trình khai thác quặng mỏ Uranium tương đối phát thải phế thải ít hơn và dễ bảo quản cũng như kiểm soát hơn việc khai thác bauxite. Tuy hai công trình đều đem đến sự hủy diệt thảm thực vật ở miền Cao nguyên nầy, nhưng đứng về hiệu quả kinh tế, phát triển quốc gia, cũng như quốc phòng, việc khai thác Uranium chiếm nhiều ưu thế hơn cả. 

Thêm một điểm cần lưu ý là, một khi Việt Nam chủ động và làm chủ được nguồn nguyện liệu quan trọng và hiếm quý nầy, vị trí của Việt Nam trên thương trường quốc tế sẽ được bảo đảm cũng như tư thế chính trị cũng sẽ được nâng cao vì nguyên liệu nầy sẽ là một yếu tố quyết định trong các mặc cả trong nhiều lãnh vực nhất là quốc phòng đối với những quốc gia khác trên thế giới. Kinh nghiệm Bắc Hàn, một quốc gia nghèo đói, nhưng vì có “nguyên tử và hạt nhân” cho nên làm cho thế giới …kiên dè! 

  1. Thay lời kết 

Qua những nhận định vừa nêu trên, giả thuyết về việc khai thác quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên Trung phần và ở Nông Sơn có tính xác tín rất cao. Và giả thuyết nầy lại là một lý giải cho sự hiện diện của những người lính dưới dạng công nhân ở hai nơi nầy. 

Nếu suy nghĩ trên trở thành hiện thực, người Việt quốc gia ở quốc nội và hải ngoại phải làm gì trước những diễn biến đang xảy ra trên quê hương? 

Một điều không thể chối cải được là tiến trình Hán hóa Việt Nam của TC đã thể hiện rất rõ ràng. Đây là một tiến trình tiệm tiến giống như trường hợp của Tân Cương và Tây Tạng. Ngay sau khi chiếm đóng Trung Hoa lục địa, và nhất là lợi dụng tình trạng còn lỏng lẻo của Hội Quốc liên, tiền thân của Liên Hiệp quốc thời bấy giờ (1949), Mao Trạch Đông vội vàng chiếm đóng quốc gia Tây Turquistan và đổi tên thành Tân Cương, cũng như chiếm Tây Tạng vào năm 1959. Tiếp theo sau, chính sách Hán hóa bắt đầu thực hiện bằng cách cho người Hán nhập cư vào hai nơi nầy để rồi lần lần đồng hóa bằng những cuộc hôn nhân dị chủng. Hồ Cẩm Đào, và Tập Cận Bình ngày nay vẫn tiếp tục chương trình trên và kết quả hiện tại là dân Tây Tạng trở thành thiểu số trên chính quê hương mình, và dân Tân Cương chỉ còn chiếm 42% trên tổng số cư dân tại nơi đây. 

Qua hai diễn biến lịch sử kể trên, Việt Nam chắc chắn sẽ nằm trong “tầm bắn” của TC trong chính sách nầy trong một tương lai không xa. Hẳn chúng ta còn nhớ, vào những tháng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, hai món hàng dầu hỏa và quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên đã được chính quyền thời bấy giờ mặc cả với nhiều quốc gia đối trọng khác nhau ngõ hầu cứu vãn miền Nam, nhưng bị thất bại. Và ngày hôm nay, nguy cơ nguồn nguyên liệu quốc phòng nầy sẽ lọt vào tay TC rất cao. 

Chính vì thế, một trong những việc làm cấp bách hôm nay là phải cảnh báo cho thế giới biết rõ âm mưu của TC về việc khai thác quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên và Nông Sơn, để từ đó mượn áp lực chính trị và kinh tế của thế giới để đình chỉ việc khai thác trên. Nếu không, TC, một khi làm chủ được nguồn nguyên liệu nầy sẽ mọc “thêm râu thêm cánh” và ngang nhiên tung hoành như đi vào chỗ không người. Tinh thần Hán tộc cực đoan và chủ nghĩa bành trướng của TC càng được đẩy mạnh thêm lên qua quyển Tân Biên Sử mới của TC mà biên giới gồm thâu cả vùng Đông Nam Á, Miến Điện, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Nam Bắc Hàn v.v… Bằng bất cứ giá nào, người Việt khắp nơi sẽ không để nguồn nguyên liệu nầy lọt vào tay TC. Nếu không, Việt Nam sẽ biến thành một vùng tranh chấp quốc tế và thảm họa sẽ khó lường trong tương lai một khi đã có tranh chấp. 

Việc liên kết với các quốc gia ASEAN trong giai đoạn nầy để tạo hậu thuẫn trong các cuộc tranh chấp với TC là một trong những điềi kiện tối cần thiết trong lúc nầy. Cũng cần phải nói thêm là việc kết đoàn với Ấn Độ, một đối lực ngang ngữa với TC cũng là việc nên làm. Ấn Độ cũng vừa có một quyết định sáng suốt trước hiễm hoại TC là chấm dứt hợp đồng xây dựng đường ống dẫn dầu khí xuyên qua Ấn Độ, Miến Điện và Vân Nam (TC). Đây là bước ngăn chặn có hiệu quả nhất trước sự bành trướng của TC. 

Sự kết đoàn giữa quốc nội và hải ngoại, giữa Việt Nam và quốc tế rất cần thiết trong lúc nầy hơn bao giờ hết vì chính đảng Cộng sản Bắc Việt đã bất lực một khi để sự việc kể trên xảy ra cho đất nước trong lúc họ có khả ngăn chặn từ lúc đầu. 

Lịch sử Việt Nam sẽ không quên tội ác kể trên của CSVN, thái thú biết nói tiếng Việt của Trung Cộng. 

Mai Thanh Truyết – Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam – VEPS 

danlambaovn.blogspot.com

______________________________________

Ghi chú: Theo báo Thanh Niên ngày 6/8/2009, ông Trần Xuân Hương, Bộ trưởng Bộ Môi trường & Tài nguyên lúc đó công bố ngày 4 tháng 8 là Việt Nam quyết định thăm dò và khai thác quặng mỏ Uranium ở Nông Sơn, ước lượng có trữ lượng 8.000 tấn quặng oxid uranium U3O8. Việc khai thác nầy chia làm hai đợt cho đến 2020. Đối với một số địa điểm khác, ông cũng có nêu tên tỉnh Lâm Đồng nhưng không nói cụ thể như trường hợp Nông Sơn cũng như tên Đắk Nông cũng không được nhắc tới. Phải chăng đây là hai vị trí cấm kỵ và nhạy cảm vì còn nằm dưới chiêu bài khai thác quặng mỏ bauxite của TC? 

Và ông cũng cho biết là đã ký Biên bản ghi nhớ (Memorendum of Understanding) với Ấn Độ trong việc nghiên cứu và định hướng về công nghệ áp dụng cho việc khai thác quặng mỏ Uranium trên. 

Mỹ Trị Con Cọp Sút Chuồng

Tờ báo Apple Daily ở Hồng Kông có một bài ví Trung Cộng [TC] như một con cọp được Tây phương nuôi cho mập, đang phản chủ, sút chuồng chống lại Tây Phương. Trong đó Mỹ thức tỉnh trước đang kềm chế con vật hung dữ này.

Tây Phương nói chung Tây Âu và Bắc Mỹ hay Thế Giới Tự do thời Chiến tranh Lạnh đang đứng trước hai mối đe doạ của Nga hậu CS và TQ hiện CS. Cả Nga và TC vốn là hai chế độ được Tây Phương hào phóng viện trợ kỹ thuật, đổ vốn đầu tư nuôi cho mập sau khi Liên xô đột quị vì kinh tế kiệt quệ và suy tàn vì chạy đua võ trang trong Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao với Mỹ. Tây Phương nhất là Mỹ lầm tưởng khi giúp hai chế độ này đổi mới kinh tế thì dân chúng khá lên trở thành tầng lớp trung lưu sẽ chuyển hoá độc tài CS, mở rộng chánh trị hơn.

Nhưng 30 năm sau Nga thành con gấu, TC thành con cọp sút chuồng chống lại Tây Phương. Người dân Việt gọi hiện tượng này là nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà tai hại cho chủ nhà. Tây Phương gọi là nuôi con hổ dữ, nay trở thành hai mối đe dọa mà Tây phương buộc phải chung sống. Việc Nga hậu CS và TC hiện CS chống phá Liên Âu và Mỹ thì vô số kể, mọi mặt khó mà liệt kê ra hết.

Báo Manila Times của Phi cho TC và Nga đó là «chính quyền chuyên chế, đàn áp bên trong, thống trị bên ngoài». Báo Courrier International cũng trích dẫn như thế và trình bày cho người Pháp biết. Tuần báo The Economist cũng nói «Trong 10 năm gần đây, Tây phương nỗ lực giúp Trung Quốc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới, hội nhập vào thế giới. Nhưng trên thực tế, chế độ Trung Quốc không ngừng gia tăng chính sách kềm kẹp dân chúng, đả phá một số giá trị văn minh Tây phương như là tự do kinh tế, dân chủ chánh trị.

Báo Apple Daily ở Hồng Kông nhận định: Tây phương hãy tự trách mình đã không biết nhìn xa, đã lầm tưởng rằng giúp Trung Quốc trở thành một nền kinh tế tự do sẽ đưa đến một chế độ dân chủ. Nào ngờ Bắc Kinh luôn luôn tìm cách thay đổi nguyên trạng trên bàn cờ thế giới để làm lại dựa trên những cơ sở mới. Từ khi Tập Cận Bình tuyên bố ý định sửa đổi Hiến Pháp để có thể trở thành hoàng đế, người dân Trung Hoa tức giận nhưng không dám phản đối công khai. Trong khi đó, báo chí Tây phương không tiếc lời chỉ trích. Apple Times của Hồng Kông viết tiếp: Xã luận của tuần báo Anh nói thẳng «Tây phương nuôi chó sói trong nhà» nhưng rõ ràng là gần như thế. Ngay từ khởi đầu, Đặng Tiểu Bình sang tận Hoa Kỳ để nhờ Mỹ giúp Trung Quốc hội nhập hệ thống kinh tế thế giới. Mục đích là để được chuyển giao công nghệ, nguồn vốn đầu tư – hai thứ mà Trung Quốc hoàn toàn thiếu thốn.

Nhật báo độc lập của Hồng Kông cảnh báo: WTO chỉ là món khai vị. Con đường tơ lụa «một vành đai, một con đường» phủ khắp địa cầu mới là món ăn chính.

Trung Quốc dẹp qua một bên lời hứa mở cửa thị trường, tăng thêm gọng kềm kiểm soát, doanh nghiệp nước ngoài phải tuân theo ý của thiên triều nếu không muốn bị trừng phạt nặng nề. Bàn tay của đảng Cộng Sản ngày càng thô bạo. Trong 5 năm của Tập Cận Bình, giới dân chủ bị đàn áp thê thảm. Trong nội bộ đảng, xu hướng cải cách bị «bóp miệng». Giá trị phổ quát của nhân quyền, tự do dân chủ trở thành «cấm kỵ».

Trong nhiều thập niên qua, Tây phương nuôi một con hổ hung dữ, và giờ đây con hổ này đang nhe nanh vươn móng sắt. Vì sao nên nỗi? Tây phương hãy tự than thân đã nuôi một con thú dữ. Nếu vẫn còn tiếp tục hy vọng Trung Quốc tự do hóa kinh tế và chính trị thì đúng là ảo tưởng.

Tờ Manila Times của Philippines tỏ ra dè dặt trước quyết định «sốc» của đảng Cộng Sản Trung Quốc mở đường cho Tập Cận Bình cai trị mãn đời, có thời gian để thực hiện ba «đại công trình»: chống tham nhũng, con đường tơ lụa mới và tăng cường quân sự, thực hiện chính sách thống trị Biển Đông, thay đổi nguyên trạng, bằng sức mạnh.

Tây Phương trong đó Mỹ thấy rõ sai lầm và sửa chữa. TT Trump công bố chiến lược an ninh quốc gia mới coi Nga và TC là “đối thủ”. Chánh quyền Mỹ chống mưu đồ TC chiếm đoạt sở hữu trí tuệ, phát minh của các doanh nghiệp quốc tế bằng biện pháp bắt chẹt các xí nghiệp nước ngoài hoạt động tại Trung Quốc phải chuyển giao công nghệ. Mưu đồ thành lập một «Silicon Valley» tại Hoa lục, bị tổng thống Mỹ Donald Trump thọc gậy bánh xe.

Los Angeles Times ngày 12/03/2018 đi tin, Donald Trump ký sắc lệnh, nhân danh «nhu cầu an ninh quốc gia», không cho công ty điện tử Singapore Broadcom mua lại, với giá 117 tỷ đôla, hãng chế tạo «chip» điện tử Qualcomm của Mỹ. Trước đây 5 năm, một hợp đồng khổng lồ như thế có lẽ đã được chấp thuận dễ dàng.

Trong tương lai, Ủy ban xem xét đầu tư của Mỹ, dưới tên gọi CFIUS, nếu được Quốc Hội cho thêm thẩm quyền như dự trù, sẽ có thể «cấm» các công ty Mỹ hoạt động tại Trung Quốc chuyển giao công nghệ cho đối tác Trung Quốc. Chính vì những chuyển nhượng này mà Bắc Kinh kiểm soát được đời tư của công dân, xâm nhập tài khoản trên mạng xã hội của các nhà họat động nhân quyền, dân chủ.

Mỹ đang mở chiến dịch, đúng ra là chiến tranh thương mại đối với TC. Mỹ áp đặt suất thuế 25% cho thép và 10% cho nhôm, và hàng 100 mặt hàng TC xuất cảng sang Mỹ dự thu thêm 60 tỷ thuế trên hàng hoá của TC. Còn TC tăng thuế từ 15 đến 25% nhắm vào gần 130 sản phẩm của Hoa Kỳ nhập vào TQ.

Theo Julien Marcilly, đại diện cho công ty bảo hiểm cho các doanh nghiệp Pháp Coface, nếu xảy ra một cuộc chiến thương mại, Trung Quốc bị thiệt hại nhiều hơn Mỹ. Tổng kim ngạch xuất cảng của Mỹ sang Trung Quốc chỉ tương đương với 0,5% GDP của nền kinh tế số 1 thế giới là Mỹ. Ngược lại xuất cảng của Trung Quốc sang Hoa Kỳ chiếm tới 5% tổng sản phẩm nội địa Trung Quốc.

Mỹ là nước giàu tài nguyên và nhiên liệu, khoa hoc kỹ thuật cao. TC thua xa. Hàng hoá TC made in China mang tiếng xấu. TQ đông dân nhưng lợi tức đầu người thấp hơn Mỹ rất nhiều, sức mua yếu, thị trường TQ so với Mỹ yếu hơn. Mỹ là thị trường lớn nhứt thế giới. Hàng hoá made in USA được trọng vọng, tín cẩn  trên thế giới nhiều lần hơn của TQ. Mỹ giao thương với nhiều nước hơn TC. Đô la Mỹ được nhiều nước lấy làm bản vị cho đồng tiền quốc gia. Thương mại TC không thể đấu với Mỹ.

Theo phân tích của giáo sư Tôn Lập Bình (Sun Liping) đại học Tinh Hoa ở  Bắc Kinh thì Washington có nhiều đồng minh trên thế giới hơn TC. Mỹ có thể trông cậy vào nhiều đồng minh để phần nào bù đắp vào chỗ trống do Trung Quốc để lại. Còn TC  không có được ngõ thoát hiểm an toàn như Mỹ. Chuyên gia trường đại học Tinh Hoa Bắc Kinh kết luận: “Chiến tranh thương mại, nếu có, sẽ gây phương hại nhiều cho nền kinh tế Mỹ, nhưng còn đối với Trung Quốc, đây là chuyện sống còn”./.(VA)

Tại sao các vị sĩ quan tình báo Bộ Công an bị bắt?

Tại sao các vị sĩ quan tình báo Bộ Công an bị bắt?

Kính Hòa RFA
2018-04-18
 

Công an vũ trang của Việt Nam diễn hành, tháng 10/2010.

Công an vũ trang của Việt Nam diễn hành, tháng 10/2010.

 AFP
 Ngày 17 tháng tư 2018, hai ông Phan Hữu Tuấn và Nguyễn Hữu Bách là hai nhân vật mới nhất thuộc Bộ Công An bị bắt giữ. Đây là hai trong số những vụ bắt bớ ở bộ này từ cuối năm 2017 đến nay, và ông Phan Hữu Tuấn là người có cấp bậc và chức vụ quan trọng nhất, ông từng là sĩ quan cấp tướng, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục tình báo của Bộ Công An.

Tổng cục 5 bị xóa sổ

Theo cách loan tin của truyền thông nhà nước Việt Nam thì những vụ bắt bớ này có thể chia làm hai vụ án. Vụ thứ nhất gồm các ông Phan Văn Anh Vũ, bị bắt vào đầu năm 2018, ông Phan Hữu Tuấn và ông Nguyễn Hữu Bách. Các viên sĩ quan này đều thuộc Tổng cục tình báo của Bộ Công an, còn gọi là Tổng cục 5.

Vụ thứ hai là hai ông Phan Văn Vĩnh, và Nguyễn Thanh Hóa liên quan đến một đường giây đánh bạc.

Tổng cục tình báo của Bộ Quốc phòng đang lấy lại phong độ và quyền thế, đặc biệt ảnh hưởng của họ đối với chính trường Việt Nam và đối với Tổng bí thư.
-Nhà báo Phạm Chí Dũng.

Trong hai vụ này dư luận rất quan tâm đến các vị sĩ quan tình báo, vì nó liên quan trực tiếp đến việc Đảng Cộng sản Việt Nam đang xóa bỏ tất cả các tổng cục của Bộ Công an, trong đó có Tổng cục tình báo.

Vào tháng Giêng 2018, ngay sau khi ông Phan Văn Anh Vũ, còn gọi là Vũ nhôm bị bắt, nhà quan sát chính trị nội bộ Việt Nam là nhà báo Phạm Chí Dũng, từ Sài Gòn bình luận với chúng tôi:

“Tôi thấy rằng nếu Phan Văn Anh Vũ mà không có một vai trò quan trọng, thì đã không có cả một chiến dịch khổng lồ của công an và nghe nói có cả Tổng cục 2 của quân đội nữa, để truy bắt Phan Văn Anh Vũ, và cũng không có một cuộc thương thảo dày công đến thế giữa Chính phủ Việt Nam và Singapore để dẫn độ Phan Văn Anh Vũ về Việt Nam. Không đơn thuần là Vũ “nhôm” sai phạm về kinh tế hay làm lộ bí mật gì gì đó như ngành công an nêu ra, mà chắc chắn Vũ “nhôm” phải có vai trò quan trọng đến mức có thể là yết hầu, hay tử huyệt của một số quan chức, thậm chí là quan chức cao cấp ở Việt Nam.”

Ông Vũ là một nhà kinh doanh nghề nhôm kính tại Đà Nẵng, có quân hàm sĩ quan tình báo cấp tá của Bộ Công an. Theo các bản tin chính thức của báo chí nhà nước Việt Nam thì ông Vũ đã lợi dụng chức vụ của ông để trục lợi trong việc mua rẻ nhà cửa của nhà nước tại Đà Nẵng và bán đi để kiếm lời.

Trên trang web của Bộ Công an Việt Nam, cả ba ông, Phan Văn Anh Vũ, Phan Hữu Tuấn, và Nguyễn Hữu Bách đều bị gán cho tội danh làm lộ bí mật nhà nước tuy không nói rõ là như thế nào.

Chúng tôi có liên lạc với Bộ Công an qua trang web của bộ này nhưng không thành công.

Nhận xét về các vụ bê bối của Tổng cục tình báo Bộ Công An, ngay sau khi ông Phan Văn Anh Vũ bị bắt, nhà báo Trương Duy Nhất, sống tại Đà Nẵng có nói với chúng tôi rằng sẽ phải truy cứu trách nhiệm của Trung tướng Nguyễn Việt Tân, nay đã về hưu từng đứng đầu Tổng cục này.

Cán cân quyền lực thay đổi

Theo các tài liệu báo chí được nhà nước Việt Nam công bố thì cho đến hiện nay công tác tình báo của Việt Nam được hai Tổng cục thuộc hai Bộ khác nhau thực hiện, đó là Tổng cục 5 của Bộ Công An, và Tổng cục 2 của Bộ Quốc phòng.

Công tác tình báo của cả bên công an lẫn quân đội, phục vụ cho đất nước thì ít mà phục vụ cho chuyện kiểm soát nội bộ với nhau thì nhiều.
-Ông Đặng Xương Hùng, cựu nhân viên Bộ Ngoại giao.

Nhà báo Phạm Chí Dũng nhận định với chúng tôi:

“Tỉ lệ nghịch với sự suy yếu vai trò của Bộ Công an là sự gia tăng ảnh hưởng của Bộ Quốc phòng, đặc biệt Tổng cục tình báo Bộ Quốc phòng. Tôi nghĩ rằng sau những vụ bê bối như là A10, T4 vào những năm 2000, thì Tổng cục tình báo của Bộ Quốc phòng đang lấy lại phong độ và quyền thế, đặc biệt ảnh hưởng của họ đối với chính trường Việt Nam và đối với Tổng bí thư.”

Các vụ bê bối mà ông Phạm Chí Dũng đề cập có liên quan đến Thứ trưởng Bộ Quốc phòng hiện nay là Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh. Theo tiết lộ của cựu Đại tá Quân đội Việt Nam là ông Bùi Tín, hiện tị nạn chính trị tại Pháp, thì vào thời điểm những năm 1990, 2000, Tổng cục 2 là một tổ chức siêu quyền lực, lợi dụng vị trí đó lũng đoạn đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam.

Ông Đặng Xương Hùng, cựu nhân viên Bộ Ngoại giao Việt Nam, hiện cư trú chính trị tại Thụy sĩ nhận xét về các tổ chức tình báo của Việt Nam:

Công tác tình báo của cả bên công an lẫn quân đội, phục vụ cho đất nước thì ít mà phục vụ cho chuyện kiểm soát nội bộ với nhau thì nhiều. Tôi cảm nhận thấy điều đó, nhất là cái thời thành lập Tổng cục 2, tôi thấy rằng Bộ Chính trị hay là một số cá nhân trong Tổng cục 2 đó để mà kiểm soát các vị lãnh đạo trong Bộ Chính trị, để mà phục vụ cho những công việc như đấu đá, tranh giành quyền lực giữa các phe phái trong đảng.”

Trở lại vụ án các sĩ quan công an tình báo hiện nay, còn có sự liên quan đến vụ án Ngân hàng Đông Á, trong đó ông Trần Phương Bình, Tổng Giám đốc đang bị bắt và bị xử án, đã mua một số lượng lớn đô la Mỹ cho ông Vũ.

Theo một nguồn tin thân cận với ông Bình mà chúng tôi chưa xác nhận được thì Ngân hàng Đông Á là một cơ quan kinh tài của Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Nếu so sánh với Bộ Quốc phòng thì Bộ Công an không phải là Bộ duy nhất có các cơ quan kinh tài, thậm chí các công ty làm ăn kinh tế của Bộ Quốc phòng còn có qui mô rộng lớn hơn, mà trong thời gian gần đây đã có nhiều chỉ trích, được đăng trên chính truyền thông nhà nước Việt Nam, rằng các đơn vị quân đội không nên tham gia vào các hoạt động kinh tế.

Có hai vụ được bàn đến nhiều nhất là vụ Công ty Viettel của quân đội được cấp đất tại xã Đồng Tâm, ngoại thành Hà Nội, tạo nên một cuộc xung đột lớn giữa dân chúng và các cơ quan chức năng. Vụ thứ hai là việc kinh doanh sân golf tại khu vực sân bay Tân Sơn Nhất đã cản trở việc mở rộng sân bay này.

Cho đến nay vẫn chưa có kết luận gì về sai phạm của các đơn vị quân đội ở hai nơi này, và dự án mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất được Chính phủ phê chuẩn đã tránh không đụng đến sân golf.

Tuy nhiên cũng có nhận định khác về vai trò quyền lực của hai bộ phận tình báo, công an và quốc phòng.

Một nhà nghiên cứu chính sách tại Hà Nội xin ẩn danh nói với chúng tôi rằng sự mất quyền lực của Tổng cục 5, Bộ Công an cũng chỉ là một sự ngẫu nhiên lịch sử. Theo người này thì Tổng cục 5 cũng đã thực hiện được một công trạng lớn cho Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian qua là bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh, một cựu quan chức ngành dầu khí bị cáo buộc tham nhũng, từ Đức mang về Việt Nam.

Việc này chưa bao giờ được Việt Nam chính thức công nhận hay phủ nhận mặc cho những cáo buộc rất mạnh mẽ từ Chính phủ Đức.

Nhà nghiên cứu ẩn danh nói tiếp với chúng tôi là có thể sau khi chấn chỉnh Bộ Công an, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ chấn chỉnh Bộ Quốc phòng. Theo ông Tổng cục 5 đã được giao quá nhiều quyền lực và không được kiểm soát trong thời gian vừa qua.

Ở tuổi xế chiều, nhà mới là nơi cuối cùng chúng ta trở về

 Ky Nguyen‘s post.

Ky Nguyen

Trong những năm tháng dài dằng dặc cùng với nỗi cô độc lúc cuối đời, Thatcher lại bị đột quỵ. Mọi thứ đối với bà đều trở thành thử thách, ngay đến xem báo cũng rất khó khăn, vừa đọc câu sau đã quên câu trước. Ở tuổi xế chiều, Thatcher phải chịu nỗi khổ về tinh thần, cơ thể cũng bị bệnh tật tàn phá, lại còn phải chịu đựng sự lạnh nhạt và xa cách của con cái.

Trong phòng, bà đặt rất nhiều bức ảnh của chồng, con, và các cháu. Nhưng bên cạnh bà lại không có bất cứ người thân nào, làm bạn với bà chỉ có bác sĩ và y tá. Cho đến phút lâm chung, con trai, con gái cũng không có mặt kịp thời để lo lắng hậu sự cho bà.

Những năm cuối đời của Thatcher thật khiến người đời phải cảm thán, nhưng làm sao trách được mệnh Trời? Ai ai cũng phải sống cho xã hội, cho thân nhân, và cho chính mình. Những năm tháng son trẻ khiến con người ta chìm đắm trong sự nghiệp, trong danh vọng và hào quang của quyền lực.

Nhưng khi ánh hào quang ấy qua đi, ta chỉ còn lại ta, chỉ còn lại cái thân xác đã hao mòn vì năm tháng. Vậy thì, đâu mới là cuộc sống đích thực của chúng ta? Là tuổi trẻ ước mơ hoài bão, là những năm tháng phồn hoa, là vinh quang tột đỉnh, hay là một tinh thần thản đãng và bình yên?

Với cố thủ tướng Anh Margaret Thatcher, có lẽ bà là người thấu hiểu hơn ai hết rằng: Sự nghiệp có thể cho chúng ta danh tiếng, địa vị và cảm giác thành tựu. Nhưng đến lúc chúng ta cởi bỏ chiếc áo choàng danh vọng ấy, thì trong đêm khuya một mình thanh tĩnh cũng là lúc chúng ta hiểu rằng ai cũng sẽ dần dần già đi. Danh tiếng cuối cùng rồi cũng sẽ phai nhạt, cảm giác thành tựu rồi cũng dần tan biến. Tiền dẫu còn giữ lại được, thì khi già cả yếu ớt, cả núi vàng biển bạc cũng không thể mang lại hạnh phúc. Cuối cùng, chỉ có gia đình mới là nơi trở về, nơi cho ta nương tựa.

Lúc bị thương, nhà là một chiếc ô che mưa chắn gió, lúc vui vẻ nhà là nơi hạnh phúc ấm áp đong đầy. Sự nghiệp không thể nào thay thế cho tình người, công danh cũng không thể thay thế cho một gia đình hạnh phúc. Đáng tiếc đến giai đoạn cuối cùng của cuộc đời, rất nhiều tỷ phú và những chính trị gia quyền lực mới nhận ra điều này.

Mong rằng những ai đọc bài viết này sẽ hiểu được, tiền tài, danh tiếng chỉ là những thứ nhất thời, đều không thể đem lại cho chúng ta hạnh phúc lâu dài, chỉ có gia đình mới là nơi chúng ta dựa dẫm cả đời, là nơi đáng tin cậy và là nơi cuối cùng chúng ta đi về.

Nguyện cho những ai đọc bài viết này đều cùng gia đình sống hòa thuận, hạnh phúc một đời.

CUỘC CHIẾN TRONG BẦY

Đỗ Ngà

Lương cán bộ công chức nhà nước chỉ chưa tới 15 triệu. Thế nhưng nhà chục tỷ, trăm tỷ của cán bộ cứ hiên ngang xuất hiện. Đấy là bài toán đơn giản mà ai cũng nhìn ra. Nó là một lời khẳng định, rằng chính quyền CS là một hệ thống quan chức sống bằng tham nhũng. Có thể nói, những quan chức CS nhận lương 0 đồng họ vẫn giàu nứt đố đổ vách.

Tựa như cảnh ăn bufet kiểu lùa hốt, quan chức CS cũng vậy, sức ăn của họ 1 nhưng lo hốt đến 10, đến 100 vv… Máy móc nào thì nhiên liệu đó. Có loại máy móc hoạt động được là nhờ xăng, cũng có loại hoạt động được là nhờ dầu Diesel. Tương tự vậy, bộ máy chính quyền Âu Mỹ vận hành được là nhờ lương, còn bộ máy chính quyền CSVN vận hành được là nhờ tham nhũng. Chính phủ liên bang Mỹ sẽ bị shutdown nếu thiếu tiền trả lương. Còn bộ máy chính quyền CS thì sao? Thì bộ máy này cũng sẽ bị shutdown nếu thiếu tiền cho nó tham nhũng.

Câu khẳng định thế tưởng như tôi nói đùa, nhưng đó hoàn toàn là sự thật. Chính sách thuế kiểu vặt lông vịt là một phương cách mà bộ máy này nạp năng lượng cho túi tham để duy trì sự hoạt động của nó. Cái hố nợ công bị khoét ngày càng sâu và rộng cũng là vì đi vay để duy trì tham nhũng, vay càng nhiều càng tốt không cần tính đến kế hoạch trả nợ. Vì khi trả nợ cứ đè cổ hơn 90 triệu con vịt ra vặt lông cắt tiết là xong. Rồi nũa, họ dùng bộ não để nghĩ ra đủ thứ chiêu trò để dụ khị Việt Kiều gởi đô về nuôi họ. Bài ca “khúc ruột ngàn dặm” cũng là trò dụ dỗ ấy mà thôi. Mục đích để câu kiều hối về nhét vào túi tham nuôi chính quyền CS tồn tại.

Thằng ăn trộm đang thăm một cửa hàng đá quý, nó vào đó để nghía xem chủ cửa hàng có sơ hở nào thì ra tay. Thấy chủ tiệm bận nói chuyện với khách, nó thò tay lấy một viên kim cương cho vào miệng và nuốt gọn. Khi phát hiện mất đồ, chủ tiệm chẳng biết ai lấy, vì lục hết mọi người ở đó đều không thấy. Về đến nhà, tên trộm ranh ma dùng bô nhựa sổ ra cho sạch ruột rồi banh tìm viên đá quý mà hắn đã nuốt. Cuối cùng hắn cũng tìm được thứ mà hắn đã ăn cắp. Hắn đem nó ngâm vào chậu rửa để kỳ cọ cho sạch rồi dùng nó để sống phè phỡn.

Tương tự vậy, trong hệ thống chính quyền CS có tham ô thì chắc chắn có hệ thống rửa. Đồng tiền từ thuế do dân lao động đến còng lưng nộp vào, một tấm màn đen được dựng lên để che mắt nhân dân, tấm màn đó có tên là “thiếu minh bạch”. Sau bức màn, một đám đông đúc tha hồ bốc hốt nuốt cho thật nhiều. Rồi mỗi tên lại đem nó về thải vào chậu để rửa cho sạch những đồng tiền bẩn. Vậy chậu rửa cho đám quan chức là cái gì và đặt ở đâu?

Nói trắng ra, chậu rửa đồ ăn trộm là những doanh nghiệp sân sau. Tiền tham nhũng được cho vào đó rửa rồi các sếp lấy ra xài. Ở Việt Nam, có nhiều doanh nghiệp nó lớn nhanh như thánh gióng, nó không tuân thủ theo quy luật lớn mạnh của bất kỳ một doanh nghiệp chân chính nào. Có khi lấy tiền đưa vào đó rồi lấy ra, có khi đám quan chức làm chính sách cho doanh nghiệp sân sau hốt tiền rồi chuyển lại cho mình. Có cung thì ắt có cầu. Nhìn đâu cũng thấy dấu hiệu của một bộ máy nhà nước chạy bằng thứ nhiên liệu “tham nhũng”.

Hồi xưa tôi học cấp 2, vào giờ thực hành sinh học, cô phân công mỗi tổ mang theo một con ếch sống để giải phẫu, tức mổ xem bên trong nội tạng con ếch có gì. Sau giờ thực hành, tôi mới hiểu đúng về cấu tạo con ếch. Việc bắt ếch mổ xẻ là một việc làm chỉ mang ý nghĩa là làm sao cho bọn tôi hiểu, chứ việc giết mấy còn con ếch không thể xóa sạch loài ếch được.

Với bộ máy sống bằng tham nhũng thì hôm nay họ bắt một vài tên để mần thịt, thì điều đó nó chỉ có tác dụng cho ta một cái nhìn tường tận hơn cái bộ máy tham nhũng của nó mà thôi, sẽ không thể diệt hết tham nhũng đâu. Năm 2010, trong một phiên của quốc hội bù nhìn, ông Nguyễn Sinh Hùng nói “Hôm nay thấy sai một chút chỗ này xử lý, “cách chức đi, kỷ luật đi”, ngày mai thấy sai chỗ kia, “cách chức đi, kỷ luật đi”, lấy ai mà làm việc các đồng chí ?”. Câu nói này gây phẫn nộ trong nhân dân, nhưng cũng phải công nhận là ông ta nói thật. Không một quan chức nào mà tay không nhúng chàm.

Khi lòng tham ngự trị thì cái ác sẽ trổi dậy. Đằng sau bức màn đen, họ che mắt dân để bốc hốt. Khi những kẻ tham chụm lại một mỏ vàng vô chủ thì mâu thuẫn giữa những kẻ giành ăn nảy sinh là điều tất yếu. Thế là cuộc thanh trừng xảy ra. Nếu kèn cựa thì tạm ổn, nếu có một bên trượt chân thất thế sự cắn xé nhau là điều chắc chắn. Tranh ăn choảng nhau là điều chắc chắn xảy ra, vì loài lang sói nó sẽ cắn nhau ác liệt khi chúng sinh sôi nảy nở quá nhiều mà mồi thì ít. Chiếc bánh ngân khố vốn đã hụt nay lại thêm đông kẻ chực chờ thì chúng sẽ cắn xé nhau mà thôi. Nói vậy để chúng ta biết bản chất của nó chứ chẳng có một triển vọng đổi thay nào cả. Vì đơn giản, tuy bầy chó đang tranh ăn đánh nhau chí tử, nhưng nếu khác loài mà lại gần nó sẽ xé xác kẻ lạ mặt.