Vatican : Giáo hoàng vẫn cử hành thánh lễ mừng Giáng sinh và Năm thánh 2025 dù suy yếu

RFI

Tối nay, 24/12/2024, Tòa thánh Vatican sẽ bắt đầu thánh lễ đêm Giáng Sinh sớm : Ngay từ 19 giờ, giáo hoàng Phanxicô sẽ mở cánh cửa thánh tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, mở ra một năm thánh (Jubilé), trong bối cảnh sức khỏe của vị lãnh đạo Giáo hội, nay đã 88 tuổi, ngày càng đáng lo ngại.

Đăng ngày: 24/12/2024

Màn hình ở Quảng trường Thánh Phêrô tại Vatican chiếu cảnh Đức Giáo Hoàng Phanxicô đọc lời cầu nguyện buổi trưa, sau khi ngài quyết định không trực tiếp xuất hiện, ngày 22/12/2024.

Màn hình ở Quảng trường Thánh Phêrô tại Vatican chiếu cảnh Đức Giáo Hoàng Phanxicô đọc lời cầu nguyện buổi trưa, sau khi ngài quyết định không trực tiếp xuất hiện, ngày 22/12/2024. AP – Andrew Medichini

Chi Phương

Theo truyền thống Công giáo, đại lễ được cử hành 25 năm một lần dự trù thu hút hơn 34 triệu người hành hương đến Roma để được sám hối, chuộc tội. Từ Roma, thông tín viên Cyprien Viet tường trình :

« Sau đại lễ Năm Thánh (Jubilé) 2000 do giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ nhị chủ trì khi ngài đang chịu nhiều đau đớn, Năm thánh 2025 được mở ra trong bầu không khí đầy lo lắng về sức khỏe của giáo hoàng Phanxicô, trong khi các lễ đánh dấu Năm Thánh sẽ kéo dài đến ngày 06/01/2026. Chủ Nhật vừa qua, do bị suy giảm chức năng hô hấp, giáo hoàng buộc phải đọc kinh cầu nguyện từ nhà thờ nơi ngài ở, chứ không phải từ cửa sổ của Điện Tông Tòa (Phủ giáo hoàng) theo truyền thống của Vatican.

Gương mặt ngài vẫn bị tụ máu sau khi bị ngã, nhưng ngài vẫn đảm nhiệm lịch trình dày đặc trong những tuần qua, đặc biệt là chuyến đi tới đảo Corse ngày 15/12. Trong chuyến thăm này, giáo hoàng đã không thể họp báo theo dự trù.

Tuy ngồi trên xe lăn, giáo hoàng vẫn bày tỏ sự quan tâm đến những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Sau lễ ban phép lành Urbi và Orbi dịp Giáng sinh vào ngày mai, trước những giáo dân tập hợp tại quảng trường Thánh Phêrô, giáo hoàng Phanxicô sẽ đến Roma vào thứ Năm để mở một cách cửa thánh khác trong nhà tù Rebibbida, nơi mà cố giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ nhị đã tha thứ cho kẻ khủng bố đã cố ám sát ngài vào năm 1981 nhưng bất thành ».


 

Ngày giỗ cụ Liên Xô-Cù Tuấn

Ba’o Tieng Dan

Cù Tuấn

24-12-2024

Sắp tới đây là kỷ niệm 33 năm ngày Liên Xô tan rã. Liên bang Xô viết, một siêu cường cạnh tranh ngang hàng với Mỹ trong thời đại Chiến Tranh Lạnh, đã sụp đổ, tách ra thành Liên bang Nga và 14 quốc gia độc lập khác. Tổng bí thư kiêm Chủ tịch Liên bang Xô viết Mikhail Gorbachev từ chức, bàn giao vali mật mã tên lửa hạt nhân chiến lược cho Boris Yeltsin.

Thành lập từ năm 1922, Liên Xô đã trở thành siêu cường quốc ngang hàng với Mỹ từ năm 1945. Không ai ngờ chỉ sau chưa tới một thế kỷ, siêu cường này đã sụp đổ. Nhìn lại sự việc, chúng ta thấy có rất nhiều giọt nước nhỏ đã dẫn đến tràn ly.

  1. Gorbachev lên nắm quyền

Ngày 11 tháng 3 năm 1985, Mikhail Gorbachev trở thành Tổng Bí thư Liên Xô. Leonid Brezhnev, nhà lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô trước đó đã đàn áp những người bất đồng chính kiến, và duy trì một nền kinh tế trì trệ (và còn thảm hại hơn sau cuộc xâm lược Afghanistan).

Gorbachev đã tập trung giải quyết những vấn đề này, coi chúng là những vấn đề có khả năng gây tử vong cho hệ thống chính quyền Xô viết. Theo đó, ông đã ban hành hai chính sách lớn: perestroika (tái cấu trúc nền kinh tế) và glasnost (cởi mở).

Trong perestroika, Gorbachev đã mở cửa nền kinh tế kế hoạch hóa và tập trung cao độ của Liên Xô cho một số hình thức doanh nghiệp tự do hạn chế có thể tham gia. Có lẽ ví dụ ấn tượng nhất về điều này là cửa hàng McDonald’s đầu tiên ở Matxcơva vào năm 1990.

Mặt khác, glasnost dẫn đến các hình thức tự do ngôn luận ngày càng tăng, mặc dù còn hạn chế. Gorbachev nghĩ rằng việc cho phép tự do ngôn luận nhiều hơn sẽ khuyến khích những lời chỉ trích mang tính xây dựng, từ đó sẽ cải thiện hệ thống chính trị Liên Xô.

  1. Thảm họa Chernobyl

Mặc dù perestroika có một số tác động tích cực, nhưng nó không thành công như Gorbachev đã hy vọng. Hơn nữa, thay vì sửa chữa hệ thống chính trị của Liên Xô, sự “cởi mở” hạn chế của glasnost đã gây ra những căng thẳng đáng kể.

Ví dụ, Gorbachev vẫn cố gắng che giấu thảm họa Chernobyl năm 1986, trong đó hàng ngàn người cuối cùng cũng đã chết. Sau khi được dân chúng phát hiện, việc này đã gây ra sự tức giận trong dân chúng, dẫn đến các cuộc biểu tình rầm rộ tập trung vào các vụ việc ô nhiễm môi trường khủng khiếp của Liên Xô.

Ngày càng có nhiều cuộc biểu tình xảy ra trong những năm sau đó, từ các quốc gia sắp thành lập vùng Baltic, đến vùng Kavkaz, sau đến Ukraine. Mặc dù có chút khác biệt về mục đích của chúng, những cuộc biểu tình này đều bày tỏ sự bất mãn chung với chính phủ Liên Xô. Khi kết hợp với một nền kinh tế vốn đã có nhiều vấn đề — mà còn phải chi tiền khôi phục Chernobyl và bị hao hụt đi do chiến tranh Afghanistan đã nói ở trên — Liên Xô đã ở một vị trí bấp bênh hơn nhiều so với trước đây.

  1. Bức tường Berlin sụp đổ

Đến năm 1989, những cuộc biểu tình này đã biến thành các phong trào cách mạng toàn diện, không chỉ ở Liên Xô mà trên toàn bộ Khối phía Đông. Vào tháng 2 năm đó, Công đoàn Đoàn kết, một công đoàn độc lập của Ba Lan và phong trào chống độc tài, đã có nhiều thành viên giành được ghế trong cuộc bầu cử tự do một phần đầu tiên. Vào tháng Tư, 150 dặm dây thép gai đã được dỡ bỏ trên biên giới Hungary-Áo.

Tuy nhiên, có lẽ sự kiện quan trọng nhất là sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào ngày 9 tháng 11. Chính phủ Đông Đức đã thông báo vào ngày hôm đó rằng các cửa khẩu sang Tây Berlin sẽ được phép mở cho dân chúng đi qua. Bị choáng ngợp bởi số lượng người cố gắng đi qua cửa khẩu, lính canh đã mở hàng rào cho mọi người đi lại tự do, dẫn đến chấm dứt sự phân chia giữa Đông Đức và Tây Đức.

  1. Các tuyên bố độc lập của các nước trong khối, mất sự ủng hộ của Nga và Liên Xô tan rã

Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, nhiều nước Cộng hòa thuộc Liên Xô đã tuyên bố độc lập. Một số ví dụ đáng chú ý nhất bao gồm Estonia, Latvia và Litva, tất cả đều tuyên bố trở thành nhà nước độc lập vào năm 1990.

Tuy nhiên, có lẽ đòn chí mạng nhất đối với Liên Xô là việc mất đi sự hỗ trợ của Nga. Trong suốt thời kỳ hỗn loạn của những năm trước, ngày càng nhiều người Nga cảm thấy rằng Nga nên chi nhiều tiền hơn cho Nga hơn là các khu vực khác của Liên Xô. Một trong những người theo chủ nghĩa dân tộc này, Boris Yeltsin, được bầu làm Tổng thống Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga vào tháng 6 năm 1991.

Cuộc bầu cử này báo hiệu rằng Liên Xô đang ở thế cùng đường, vì Nga là nước chiếm phần lớn dân số và hỗ trợ kinh tế cho cả khối. Cuối cùng, bất chấp những căng thẳng và thậm chí cả âm mưu đảo chính của những người theo đường lối cứng rắn cũ của Liên Xô, một loạt thỏa thuận và hiệp định đã lên đến đỉnh điểm với việc quốc hội Liên Xô bỏ phiếu tuyên bố Liên Xô sẽ không còn tồn tại nữa vào ngày 26 tháng 12 năm 1991.


 

Tin Vui Cuối Năm: Con số người tìm mua và đọc Kinh Thánh gia tăng rất nhiều

Trong khi tổng doanh số bán sách in tại Hoa Kỳ tăng chưa đến 1% trong năm nay cho đến cuối tháng 10, doanh số bán Kinh thánh đã tăng vọt 22% so với cùng kỳ năm ngoái.Bible clipart - Clipground

Thực ra Kinh Thánh là cuốn sách phổ thông nhất trong mọi thời đại trên toàn thế giới theo thống kê về sách. Chỉ trong năm mươi năm qua Kinh thánh đã được mua với số lượng hơn 3,9 tỷ bản.

ng dụng có tên là  “Kinh thánh kỹ thuật số” bản in của Bạn đã vượt qua 877 triệu lượt tải xuống trên toàn thế giới và câu Kinh thánh được tìm kiếm nhiều nhất trong năm là Phi-líp 4:6 , có nội dung như sau:

Đừng lo lắng về bất cứ điều gì, nhưng trong mọi hoàn cảnh, hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và tạ ơn mà trình dâng những nhu cầu của mình cho Đức Chúa Trời.

Người ta lo lắng và tìm lời giải đáp thiết thực ở Kinh Thánh

Giới Trẻ mua Kinh Thánh nhiều nhất, họ thích các bản in mới, dễ hiểu, dễ tìm với các tag mầu đánh dấu các chương

Thế Hệ Z (sinh năm 2000 về sau) loan truyền podcast Kinh Thánh cho nhau nghe theo cách riêng của họ.

Tổng Thống Trump đề cao bản Kinh Thánh King James có tên là "Chúa phù hộ nước Mỹ - Kinh Thánh"... Ông khuyên ta tra cứu và cầu nguyện trở lại.

Doanh số bán Kinh Thánh tăng lên ngay cả khi các cuộc thăm dò cho thấy lòng ngưỡng mộ các tôn giáo đang suy giảm trên khắp cả nước.

Tỷ lệ người Mỹ tự nhận mình theo tôn giáo Cơ đốc đã giảm xuống mức thấp là 68% vào năm ngoái, theo cuộc thăm dò của Gallup . Nửa thế kỷ trước, 87% người lớn ở Hoa Kỳ tự nhận mình là người theo đạo Cơ đốc, Gallup phát hiện ra. Khoảng 28% người lớn ở Hoa Kỳ hiện không theo tôn giáo nào, theo Pew Research.

“Chắc chắn một số người sẽ không quay lại nhà thờ nữa, nhưng họ đang tìm đến Kinh thánh”, Giám mục Robert Barron ở Minnesota nói với Fox News Digital.

Người sáng lập Word on Fire, Giám mục Robert Barron
Giám mục Robert Barron cho rằng doanh số bán Kinh Thánh tăng đột biến là do nhu cầu tìm kiếm ý nghĩa, mục đích và giá trị mới.
“Hãy nhìn nhận một thực tế, Kinh thánh đã từng là nền tảng vững chắc cho nền văn minh phương Tây, thậm chí cả trên toàn thế giới — là cội nguồn của ý nghĩa, mục đích và giá trị (của đời sống)”, Đức Giám Mục Barron nói. “Tôi nghĩ mọi người đang quay trở lại với Kinh thánh với số lượng càng nhiều hơn vì họ đang tìm kiếm điều đó, và họ nhận ra theo linh tính rằng họ sẽ tìm thấy”.

Đức Giám Mục lập luận rằng, nhà tâm lý học người Canada Jordan Peterson ( nhà vô thần trở lại Đạo) có thể là người góp phần vào xu hướng (tin tưởng vào Lời Chúa) này, vì ông đã “nói về văn bản Kinh thánh theo cách mà mọi người thấy rất hấp dẫn”. …

“Tôi nghĩ lúc đầu một số người nghĩ rằng, ‘Ồ, tuyệt. Hãy chỉ trích người đàn ông (Jesus) đó, và tôi phản đối tôn giáo.’

Nhưng khi bạn tiếp nhận thông điệp của chủ nghĩa Vô Thần đó, bạn còn lại cái gì? Đó là một tình trạng ở trong hư vô hoàn toàn”. Do vậy, Đức GM đã  không ngạc nhiên trước tỷ lệ trầm cảm, lo âu và ý định tự tử gia tăng , đặc biệt là ở những người trẻ tuổi. “Đó là những gì xảy ra khi bạn nói rằng không có ý nghĩa hay mục đích nào tồn tại trong cuộc đời cả”.

Các nhà xuất bản cũng cho rằng sự bùng nổ của Kinh Thánh có thể là hệ quả tự nhiên của cảm giác lo lắng chung trên thế giới.

“Tôi nghĩ mọi người đang khao khát sự thật, khao khát mục đích, ý nghĩa và định hướng, đặc biệt là trong vài năm trở lại đây”.

Cô Fitzpatrick nói. “Tôi nghĩ nhiều người trong chúng ta đều tự hỏi, chuyện gì đang xảy ra? Chúng ta tin tưởng ai? Chúng ta phải nhờ đến ai?”

Người đàn ông cầu nguyện bằng tay trong Kinh Thánh
 
Fitzpatrick cho biết câu thơ có sức tác động mạnh nhất mà cô đã đọc trong năm kể từ khi mua Kinh thánh là Ma-thi-ơ 6:33. “Trước hết hãy tìm kiếm vương quốc của Đức Chúa Trời và sự công chính của Ngài, thì những điều còn lại sẽ theo sau”, cô đọc thuộc lòng.

Fitzpatrick cho biết việc có một quyển Kinh Thánh thực thụ đã cách mạng hóa hành trình tâm linh của mình. Cô đã đọc Kinh Thánh mỗi ngày kể từ khi mua nó, và thậm chí còn bắt đầu tham gia các nhóm học Kinh Thánh.A girl reading book in cartoon style 19864068 Vector Art at Vecteezy

Câu chuyện kể dịp Noel: Cầu khẩn Phật Bà Quan Âm nhưng lại được gặp Đức Mẹ Maria

Anh Joseph Philips Nguyễn

Câu chuyện của Anh Nguyễnkhá tương tự với nhiều câu chuyện của các Anh Chị Em phật tử kể lại trên đường vượt biên, họ gặp phật bà Quân Âm cứu khổ, cứu nạn. Họ nào biết đó chính là Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa.

 

 

Xin Mẹ Maria tỏ ra cho mọi lương dân được ơn cứu độ của Cứu Chúa Jesus.

Mẹ luôn ở gần bên con để cứu vớt con.

Câu chuyện của Ca sĩ Tâm Đoan gặp gỡ Mẹ Maria

Cảm tạ ơn Mẹ Hiền

Chỉ thị bí mật và các cuộc đàn áp làm tê liệt xã hội dân sự ở Việt Nam

Bài viết của Allegra Mendelson cho chuyên mục Điều tra của RFA
2024.12.21

 (Minh họa bởi Amanda Weisbrod; hình từ Adobe Stock)

Những năm gần đây, Bình đã quen sống trong trạng thái sợ hãi thường trực. Giống như nhiều người làm việc trong lĩnh vực xã hội dân sự ở Việt Nam, người phụ nữ 44 tuổi này luôn ám ảnh rằng: Cô có thể bị bắt giam vào một ngày bất kỳ nào đó, đơn giản chỉ vì đi làm.

“Tất cả mọi người bây giờ đều trở nên cảnh giác” – cô nói với Đài Á Châu Tự Do (RFA) trong một cuộc trao đổi qua điện thoại vào tháng 11 vừa qua. “Những người tôi biết đã bị bắt giữ vì những lý do không rõ ràng”.

Bình, người đã yêu cầu chúng tôi sử dụng tên giả vì lý do an ninh, đã làm việc hơn 20 năm trong lĩnh vực trợ giúp nhân đạo cho một số tổ chức cả trong nước và quốc tế ở Việt Nam. Ở mỗi tổ chức này, cô đều đã tránh được sự dọa nạt và đàn áp của Đảng Cộng sản (ĐCS) cầm quyền ở Việt Nam. Nhưng gần đây, tình hình đã trở nên tồi tệ một cách rõ rệt.

Mặc dù làm việc cho một tổ chức phi chính phủ (NGO) quốc tế, Bình cho hay cứ ba tháng một lần, toàn bộ nhân viên của cơ quan cô thường bị triệu tập lên văn phòng Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị Việt Nam – cơ quan quản lý các tổ chức NGO quốc tế – để được “phỏng vấn”.

“Họ thường hỏi chúng tôi đã đi đâu gần đây và chúng tôi đang làm gì. Điều này rất kỳ cục. Rõ ràng là họ muốn chúng tôi biết là chúng tôi đang bị giám sát” – cô nói.

Bình cho biết, một số lần khác, công an đã theo dõi cô và đồng nghiệp khi họ xuống làm việc tại cơ sở.

Cảnh sát đứng gác bên ngoài các tòa nhà chính phủ ở Hà Nội, ngày 22 tháng 8 năm 2024. (Allegra Mendelson/RFA)

Thậm chí các cơ quan của Liên Hợp Quốc cũng bị “giám sát chặt chẽ” và o ép  – Bình, người có kinh nghiệm cộng tác với một số cơ quan của Liên Hợp Quốc (LHQ), cho biết.

“Có những lúc người ta cắt điện và yêu cầu chủ nhà không cho họ thuê văn phòng nữa” – cô nói.

RFA đã liên lạc với Văn phòng Điều phối viên thường trú của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam – nơi quản lý các cơ quan của LHQ  tại Việt Nam – để yêu cầu bình luận về thông tin này nhưng đã không nhận được phản hồi.

Bình đã làm mọi thứ có thể để bảo vệ bản thân và cho đến nay những biện pháp này vẫn tỏ ra có hiệu quả. Tuy nhiên những người khác, trong đó có cả những đồng nghiệp và bạn thân của cô, đã không được may mắn như vậy.

Theo Dự án 88, một tổ chức nhân quyền Việt Nam, trong bốn năm qua, gần một chục nhân viên của các tổ chức NGO đã bị bắt hoặc giam giữ chỉ vì làm công việc của họ. Dự án 88 cũng cho biết ít nhất bốn người trong số này hiện vẫn còn đang bị tù đày cùng với hơn 175 nhà hoạt động khác.

Những cuộc bắt giữ này – nhiều trường hợp được tiến hành với cáo buộc trốn thuế hoặc các cáo buộc khác mà các nhà giám sát luật pháp nói là có động cơ chính trị – là một phần của một cuộc đàn áp rộng lớn hơn do chính phủ tiến hành nhằm hạn chế xã hội dân sự ở Việt Nam.

Hàng loạt các quy định mang tính bóp nghẹt, rất nhiều trong số đó được giấu kín, đã tạo cơ sở cho nỗ lực thắt chặt quyền lực của ĐCS.

Một trong số đó và có thể xem là hà khắc nhất, là Chỉ thị 24 – được ban hành tháng 7/2023. Trong bối cảnh Việt Nam đang gia tăng toàn cầu hóa, văn bản này lại coi tất cả các hoạt động hợp tác với nước ngoài là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia.

Chỉ thị bí mật mà Dự án 88 tiếp cận được vào hồi đầu năm 2024 này chưa bao giờ được chính quyền Việt Nam công bố. Văn bản này cung cấp thông tin chi tiết về sự phản đối của nhà cầm quyền Việt Nam với quyền tự do biểu đạt, viện trợ quốc tế, công đoàn và thậm chí với việc đi nước ngoài. Theo giới chuyên gia, tác động của chỉ thị này là việc hình sự hóa một cách hiệu quả các hoạt động vận động chính trị, xã hội.

Tháng 10 vừa qua, chính phủ đã củng cố những biện pháp này bằng Nghị quyết 126 – một văn bản đã bổ sung thêm những hạn chế đối với việc thành lập bất kỳ loại hình hội nhóm nào ở Việt Nam.

Đàn áp được triển khai cùng với chiến dịch chống tham nhũng rộng khắp khiến phần lớn xã hội dân sự rơi vào bế tắc. Bầu không khí sợ hãi gia tăng, vì vậy, các chính trị gia không sẵn sàng thông qua các dự án và kinh phí.

Trong bốn tháng qua, RFA đã trao đổi với hơn một chục nhà hoạt động, nhân viên các tổ chức NGO, các nhà tài trợ quốc tế, các nhà ngoại giao và các chuyên gia để tìm hiểu xem các chỉ thị, mệnh lệnh của chính quyền và các cuộc đàn áp sau đó đã được tăng cường như thế nào và ảnh hưởng của chúng đối với những người làm việc trong lĩnh vực xã hội dân sự ở Việt Nam.

Lo sợ về ảnh hưởng của nước ngoài

Xã hội dân sự không phải lúc nào cũng là mục tiêu đàn áp của chính phủ Việt Nam. Một thập kỷ trước, rất nhiều người đã có cái nhìn lạc quan hơn nhiều.

Nguyễn Tiến Trung, một nhà hoạt động dân chủ hiện sống tại Đức, từng bị bắt vào năm 2009 vì chống đối ĐCS. Ông nói rằng ông được ra tù 5 năm sau đó – vào thời điểm mà sự hỗ trợ đối với xã hội dân sự khác xa so với hiện nay.

“Khi tôi được ra tù vào năm 2014, các tổ chức xã hội dân sự mọc lên như nấm ở Việt Nam. Rất nhiều tổ chức, cả đã đăng ký và không đăng ký [hoạt động] với chính quyền cộng sản Việt Nam, đều hoạt động tự do thoải mái” – ông Trung nói.

Nhà hoạt động Nguyễn Tiến Trung, trong một bức ảnh không ghi ngày tháng. (Trung Nguyen Tien)

Nhưng vào khoảng năm 2016, tình hình bắt đầu thay đổi. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố nghỉ hưu và ông Nguyễn Phú Trọng, người khi đó là Tổng Bí thư ĐCSVN, tái đắc cử cho nhiệm kỳ thứ hai. Ông Trọng đã qua đời vào giữa năm nay.

Không giống như ông Dũng – người tương đối  thiện cảm với xã hội dân sự – ông Trọng có một cách tiếp cận rất khác. Ông không đồng tình với các mối quan hệ nồng ấm, thân thiện mà ông Dũng đã xây dựng với phương Tây và bắt đầu triển khai một loạt các biện pháp để hạn chế ảnh hưởng của nước ngoài.

Việt Nam có mạng lưới các tổ chức hoạt động ở nhiều cấp độ khác nhau, từ các nhóm không chính thức, không đăng ký ở cấp địa phương tới những tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGOs) lớn như Save the Children hay Oxfam.

Hầu hết các tổ chức NGO quốc tế đăng ký hoạt động với Bộ Ngoại giao trong khi các tổ chức NGO trong nước lại đăng ký với Bộ Khoa học và Công nghệ. Những biện pháp được đưa ra dưới thời ông Trọng nhắm vào mục tiêu tăng cường sự quản lý giám sát của chính phủ đối với các tổ chức này.

Bắt đầu từ năm 2020, chính phủ Việt Nam đã đưa ra một loạt các nghị định và quyết định để ngăn chặn tiếp cận đối với các nguồn tài trợ nước ngoài và gia tăng việc kiểm soát thông qua cái mà hai báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc gọi là “những đòi hỏi nặng nề quá đáng” cho các hoạt động.

“Các lãnh đạo ĐCS muốn duy trì sự độc quyền về quyền lực của họ. Họ lo ngại rằng  ảnh hưởng của nước ngoài có thể làm mất ổn định quyền kiểm soát của họ. Các tổ chức NGO quốc tế và các thể nhân/tổ chức nước ngoài thường quảng bá, thúc đẩy các giá trị dân chủ và nhân quyền – điều mà ĐCS xem là những mối đe dọa đối với chế độ độc đảng cầm quyền của mình” –  ông Trung, nhà hoạt động dân chủ nói.

Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng, các quan ngại đặc biệt tập trung vào những ảnh hưởng của phương Tây trong khi các nước, ví dụ như Trung Quốc và Nga là “những hình mẫu cho Đảng Cộng sản [Việt Nam] noi theo”.

Các  bộ ngành quản lý các tổ chức NGO ở Việt Nam đã không hồi đáp những đề nghị bình luận của RFA cho bài viết này.

Không gian bị bóp nghẹt

Trong môi trường hoạt động này, vô số tổ chức phi chính phủ đã phải đóng cửa trong những năm gần đây.

Trong số đó có Towards Transparencey, một chi nhánh của tổ chức Transparency International toàn cầu, đã phải đóng cửa vào cuối năm 2021 do những quan ngại về an ninh. Không lâu trước đó, chính quyền thành phố Hà Nội đã tước tên miền trang web của tổ chức này – điều mà nhiều người xem là một động thái đe dọa sau khi website này đăng tải một tấm bản đồ thiếu các đảo ở Biển Đông [mà Việt Nam, Trung Quốc và một vài nước trong khu vực] đang tranh chấp chủ quyền.

Hội nghị triển khai Chỉ thị 24, tại Hà Nội ngày 21/12/2023. (Bộ Công an Việt Nam)

Trung tâm Phát triển Cộng đồng LIN – một mạng lưới mang tính đầu mối của 400 tổ chức phi lợi nhuận đã công bố sẽ đóng cửa vào tháng 1/2023 mà không nêu lý do cụ thể và Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ (SENA) đã buộc phải giải thể vào tháng 7/2023 – một năm sau khi giám đốc của họ bị bắt và cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” vì đã gửi các góp ý xây dựng ĐCS.

Chính quyền cũng nhắm vào các cá nhân, tiêu biểu bằng việc sử dụng luật thuế. Luật lệ xung quanh vấn đề chiếm dụng thuế hiện khá mơ hồ và có thể bị lợi dụng để truy tố bất cứ ai mà chính quyền muốn ngăn chặn – ông Trung nói.

Kết quả là “nỗi sợ hãi bị bắt giữ bởi cáo buộc ‘trốn thuế” đã tạo ra sự cẩn trọng, nếu không muốn nói là sự tê liệt hoàn toàn trong lĩnh vực này” – ông nói.

Một trong những vụ án nổi nổi bật nhất trong những năm gần đây là việc bắt giữ nhà hoạt động môi trường Hoàng Thị Minh Hồng vào tháng 5/2023. Cô đã bị kết án 3 năm tù về tội trốn thuế nhưng đã được thả sớm vào tháng 9 năm nay.

Dự án 88 phát hiện ra rằng “Chính phủ Việt Nam có truyền thống sử dụng cáo buộc trốn thuế để truy tố những người bất đồng chính kiến mà họ không thể buộc tội một cách thuyết phục theo các điều khoản về an ninh quốc gia của Bộ luật Hình sự.”

Ông Nguyễn Quang A – một nhà hoạt động nhân quyền nổi bật ở Việt Nam đồng thời là cựu Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển đã giải thể – nói với RFA rằng ông đã bị bắt về tội trốn thuế “ít nhất bốn hay năm lần” nhưng lý do đó thực ra luôn là cái vỏ bọc cho các vấn đề liên quan đến bất đồng chính kiến.

Ông Nguyễn Văn Bình, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam. (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam)

Các luật khác cũng đã được vũ khí hóa. Tháng 4 năm nay, ông Nguyễn Văn Bình, khi đó là Vụ trưởng Vụ Pháp chế của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, đã bị bắt và truy tố vì bị cho là đã tiết lộ bí mật nhà nước.

Ông đã nỗ lực hỗ trợ nhằm mang đến cho người lao động quyền được thành lập công đoàn – một loại hình tổ chức vốn bị cấm ở Việt Nam trừ một ngoại lệ là công đoàn trực thuộc nhà nước.

Ông Bình được xem là “đồng minh” của các tổ chức như Stitch – một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan hoạt động trong lĩnh vực về quyền lao động ở Việt Nam. Việc ông bị bắt giữ được xem là “một tín hiệu cho thấy hướng mà ông đã đi không phải hướng để đi” – một nguồn tin cấp cao quen thuộc với tổ chức này nói.

Sau khi ông Bình bị bắt giữ, Stitch đã dừng hoạt động ở Việt Nam.

“Người ta cũng lo sợ về những tác động tiêu cực vì tín hiệu đó là dành cho những người liên quan đến Stitch” – nguồn tin này cho biết.

Chiến dịch Đốt lò

Những sự đàn áp này chỉ là một mảng thách thức mà các tổ chức NGO ở Việt Nam phải đối mặt và vượt qua. Đốt lò – chiến dịch chống tham nhũng gây nhiều tranh cãi đã khiến việc có được sự phê duyệt của chính phủ đối với các tổ chức  xã hội dân sự trở nên khó hơn bao giờ hết, trong tất cả các vấn đề từ đi lại cho đến kinh phí.

Các cảnh sát chờ đợi bên ngoài một đồn cảnh sát ở trung tâm Hà Nội, ngày 17 tháng 8 năm 2024. (Allegra Mendelson/RFA)

Kể từ khi chiến dịch này được phát động vào năm 2013, chính phủ Việt Nam đã nỗ lực kiểm tra, bắt giữ các quan chức ở tất cả các cấp, bao gồm cả các thành viên cấp cao của Bộ Chính trị và các bộ trong chính phủ. Tính đến năm 2023, gần 200.000 đảng viên đã bị kỷ luật trong khuôn khổ chiến dịch này.

Mặc dù chiến dịch này đã đưa Việt Nam từ vị trí 113 lên vị trí 83 về Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng nhưng nó cũng làm đóng băng cả những hoạt động hợp pháp – các nhà vận động chính sách cho biết.

“Các quan chức không rõ là những hoạt động nào có thể khiến ai đó gặp rắc rối. Vì thế, tất cả mọi người đều luôn đề cao cảnh giác” – ông Minh, một nhà hoạt động lâu năm phát biểu. Ông cũng đã yêu cầu chúng tôi sử dụng tên giả vì lý do an toàn.

“Tác động lớn nhất của chiến dịch chống tham nhũng là các quan chức chính phủ không muốn làm việc nữa, họ không muốn ủng hộ, tạo điều kiện cho xã hội dân sự. Họ thường giữ im lặng vì nói không thì dễ dàng hơn”.

Điều đó có nghĩa là trong 3 năm gần đây, Việt Nam đã đánh mất khoảng 2,5 tỷ USD viện trợ nước ngoài. Một tỷ USD nữa hiện đang chờ được thông qua.

Phần lớn tài trợ đó đã được dành cho những thứ như các dự án phát triển và cơ sở hạ tầng, trong đó các cơ quan của Liên Hợp Quốc hoặc Liên minh Châu Âu (EU) đôi khi hợp tác với các tổ chức trong nước của Việt Nam.

Một người từng là nhà tài trợ phương Tây cao cấp nói với RFA rằng rất nhiều tổ chức trong nước “không còn muốn nhận tiền [tài trợ của] nước ngoài vì việc này mang đến quá nhiều rủi ro” và do đó, họ buộc phải thu hẹp quy mô hoạt động.

Tìm kiếm những giải pháp thay thế

Để hoạt động, các nhóm xã hội dân sự đã tìm đến một số giải pháp. Một trong những giải pháp này là đăng ký hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp xã hội – một dạng kết hợp giữa tổ chức từ thiện và doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận – thay vì là một tổ chức phi chính phủ. Cách này đã giúp một số tổ chức hoạt động dễ dàng hơn nhưng điều đó cũng có nghĩa là họ phải trả nhiều thuế hơn.

“Họ không trực tiếp hối lộ chính phủ nhưng dành rất nhiều tiền của, công sức để vun đắp các mối quan hệ đó để tránh các vấn đề [có thể xảy ra]” – ông Bình nói.

Nhưng sự thanh thản, yên bình có được những lựa chọn này không phải là lý tưởng và nhiều khả năng chỉ mang tính tạm thời. Những người làm việc trong khu vực xã hội dân sự ở Việt Nam lo lắng rằng môi trường hoạt động của họ sẽ tiếp tục tồi tệ hơn.

Sau khi ông Trọng qua đời vào tháng 7 năm nay, người kế nhiệm ông là ông Tô Lâm – một cán bộ lâu năm của Đảng đồng thời đã giữ những vị trí cấp cao trong chính phủ trong nhiều thập kỷ.

Ở cương vị Bộ trưởng Bộ Công an, ông đã thực hiện nhiều hoạt động đàn áp đối với các tổ chức xã hội dân sự, trong đó có việc sử dụng tội danh trốn thuế như một cách để bịt miệng người bất đồng chính kiến.

“Ông Tô Lâm đã làm cả đời trong ngành công an. Ông ta coi tất cả các tổ chức không nằm dưới sự kiểm soát của ĐCS là những kẻ thù tiềm năng” – ông Trung, nhà hoạt động dân chủ nói.

“Tôi không nghi ngờ việc ông ấy sẽ tiếp tục đàn áp các phong trào dân chủ và dân sự xã hội” – ông Trung dự đoán.

Biên tập bởi Abby Seiff và Boer Deng.


 

CSVN bước vào kỷ nguyên mới với tư duy rừng xanh?-Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 22, 2024

Chuyện Vỉa Hè

Đặng Đình Mạnh

Sau năm tháng nắm giữ chức vụ tổng bí thư đảng, không ngày nào mà truyền thông trong nước không lên tiếng ca ngợi ông Tô Lâm, mặc cho quá khứ của ông ấy hãi hùng đến như thế nào đi nữa.

Nào là bảo kê cho thương vụ tham nhũng AVG hàng ngàn tỷ đồng, nào là tổ chức bắt cóc quốc tế từ Đức, Thái Lan, nào là huy động 3,000 công an tấn công đẫm máu vào dân làng Đồng Tâm. Nào là đàn áp khốc liệt với mọi người dân yêu cầu về tự do, dân chủ và nhân quyền, nào là sinh hoạt xa hoa ăn bò dát vàng giữa hoàn cảnh đất nước khó khăn vì dịch giã COVID-19 gây tử vong hơn 40 nghìn đồng bào…

Tô Lâm khi còn là bộ trưởng Công An ăn thịt bò dát vàng tại London, Anh Quốc, do chính chủ nhà hàng là đầu bếp Nusr-Et đút tận mồm. (Hình: chụp lại từ Tiktok)

Mà ca ngợi thế kể cũng tài, khi ông Tô Lâm không đưa ra quyết sách gì mới? Ông ấy chỉ nhắc lại những vấn đề mang tính di sản tồi tệ mà các tổng bí thư tiền nhiệm đã từng nhắc đến, nhưng vô trách nhiệm vì nói mà không làm, hoặc bất lực không làm được. Để bây giờ trở thành vấn đề của người đương nhiệm.

Bên cạnh đó, sự ca ngợi ông Tô Lâm về những vấn đề cũ rích đó, chẳng phải là truyền thông Cộng Sản đang mắng xéo các tổng bí thư tiền nhiệm như Nguyễn Phú Trọng, Nông Đức Mạnh, Lê Khả Phiêu, Đỗ Mười… đã vô trách nhiệm, hoặc bất lực hay sao?

Kể cả vấn đề đang nóng bỏng hiện nay về thực hành tiếp kiệm, chống lãng phí thông qua tinh giản bộ máy chính quyền cũng vậy. Điều đáng lưu ý nhất khi đề cập đến vấn đề tinh giản bộ máy chính quyền, ông Tô Lâm lại sử dụng cụm từ “Vừa chạy vừa xếp hàng” trong bài viết với tựa đề “Tinh – Gọn – Mạnh – Hiệu năng – Hiệu lực – Hiệu quả” đã có thể làm nhiều người bối rối.

Khôi hài hơn, khi truyền thông Cộng Sản công khai nịnh bợ ông Tô Lâm khi ca ngợi cụm từ này “không chỉ đơn thuần là một phép ẩn dụ ngôn từ mà còn hàm chứa một tư duy lãnh đạo, điều hành sắc bén, linh hoạt và hiệu quả, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang dốc sức đổi mới, hội nhập và phát triển. Hình ảnh ẩn dụ này thể hiện một triết lý hành động, một nghệ thuật lãnh đạo đòi hỏi sự cân bằng tinh tế giữa tốc độ và trật tự, giữa sự năng động đổi mới và nền tảng ổn định vững chắc” [*].

Thật ra, nói ông Tô Lâm là tác giả cụm từ “vừa chạy vừa xếp hàng” là một sự thậm xưng. Vì lẽ, chúng đã có từ rất lâu, trễ nhất cũng phải từ năm 1954, khi ông Tô Lâm còn chưa được quấn tã vào đời.

Vì lẽ, năm 1954, thực hiện theo Hiệp Định Genever, lực lượng Cộng Sản ở miền Nam phải tập kết xuống tàu ra miền Bắc để chờ thống nhất tổng tuyển cử sau hai năm. Thực tế, Cộng Sản đã chủ trương vi phạm Hiệp Định Genever ngay từ đầu bằng cách để lại nhiều cán binh Cộng Sản ở lại miền Nam. Một phần sống công khai tại các đô thị, phần khác thì vào R (mật danh của chiến khu Cộng Sản trong rừng) tiếp tục hoạt động chống phá chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Trong hoàn cảnh tại R, hoạt động bí mật, Cộng Sản không thể tuyển dụng nhân sự một cách công khai được. Mà có người nào sử dụng người đó. Công việc được giao phó theo cách áng chừng về khả năng, học lực, quá trình cống hiến… Từ đó mới ra đời cụm từ “vừa chạy vừa xếp hàng,” để ám chỉ cách quản lý, phân công mang tính cách tạm thời trong điều kiện hoạt động bí mật. Đến một thời điểm định kỳ, sẽ tiến hành đánh giá lại khả năng từng người để điều phối, hợp lý hóa dần về nhân sự theo thời gian.

Cho thấy, “vừa chạy vừa xếp hàng” chỉ là cung cách quản lý nhân sự bất đắc dĩ, phải vận dụng trong hoàn cảnh khó khăn của Cộng Sản trong thời chiến mà thôi. Dĩ nhiên, cung cách này mang tính may rủi, vì có thể người được giao phó công việc lại không có chuyên môn, trình độ phù hợp.

Trong hoàn cảnh hiện nay, việc đặt ra chủ trương tinh giản đã phản ảnh tình trạng dư thừa về nhân sự trong bộ máy hành chính. Phải giảm nhân sự để giảm chi phí cho ngân sách quốc gia. Theo đó, lẽ ra tình trạng dư thừa nhân sự như vậy là điều kiện thuận lợi cho việc tuyển chọn nhân sự có tài năng, đức độ, mẫn cán để giữ lại làm việc. Chứ không thể bằng cách thức “vừa chạy vừa xếp hàng” đầy may rủi như thuở còn trong rừng như thế được, khiến cho người có khả năng bị xếp vào đối tượng bị thải loại, còn kẻ bất tài lại được giữ lại làm việc.

Chưa kể, việc ca ngợi, tô hồng ông Tô Lâm như là tác giả của ý tưởng “vừa chạy vừa xếp hàng” là đang đi vào vết xe đổ “cầm nhầm” tri thức của ông Hồ Chí Minh trong câu nói “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người.”

Thật vậy, nếu bây giờ chúng ta đặt từ khóa “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” vào ô tìm kiếm của trang Google, thì chưa đầy một giây sau, cái trang web ấy sẽ cho bạn hàng trăm nghìn kết quả mà đa phần trong số đó cũng đều cho rằng ông Hồ Chí Minh là tác giả.

Trong số ấy, có trang <xaydungdang.org.vn> khẳng định nguồn gốc hai câu ấy được ông Hồ Chí Minh dùng mở đầu bài nói tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc ngày 13 Tháng Chín, 1958. Sau đó, được đăng trên báo Nhân Dân số 1645, ngày 14 Tháng Chín, 1958.

Tương tự, trang <tapchicongsan.org.vn> đăng lá thư của ông Nguyễn Phú Trọng gởi cho Hội Khuyến Học Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày thành lập của hội này, thư có đoạn viết: “…Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh ‘vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người’” (trích).

Thậm chí, hai câu nêu trên đã trở thành đề thi trong các trường học, kể cả các trường trung hay cao cấp về chính trị …

Thật ra, câu nói trên chỉ là dịch nôm từ ý tưởng của Quản Trọng (sinh-725, mất-645), một bậc kỳ tài về chính trị và quân sự của đất nước Trung Hoa vào thời Xuân Thu, nguyên gốc như sau: “Nhứt niên chi kế mạc như thụ cốc; Thập niên chi kế mạc như thụ mộc; Chung thân chi kế mạc như thụ nhân; Nhứt thu nhứt hoạch giả, cốc dã; Nhứt thu thập hoạch giả, mộc dã; Nhứt thu bách hoạch giả, nhơn dã.”

Dịch nôm:

Kế một năm, chi bằng trồng lúa; Kế 10 năm, chi bằng trồng cây; Kế trọn đời, chi bằng trồng người; Trồng một, gặt một, ấy là lúa; Trồng một, gặt mười, ấy là cây; Trồng một, gặt trăm, ấy là người.

Vừa leo lên ghế tổng bí thư được hơn hai tuần lễ, ông Tô Lâm vội vã sang Trung Quốc gặp Chủ Tịch Tập Cận Bình. (Hình: Andres Casares/AFP/Getty Images)

Thậm chí, chính ông Tô Lâm có vẻ cũng không biết và vẫn tiếp tục “cầm nhầm” ý tưởng này, đưa vào bài diễn văn đọc vào sáng ngày 23 Tháng Chín, 2024, tại trường Đại Học Columbia trong chuyến công du Hoa Kỳ, như sau: “Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, cũng luôn nhấn mạnh tầm nhìn ‘vì lợi ích trăm năm trồng người.’”

Tóm lại, mang tư duy trong rừng, trong thời chiến, để áp dụng vào chính sách nhân sự trong thời bình, đang dôi thừa nhân sự là một giải pháp không hề chuyên nghiệp. Không xứng đáng với một chính quyền của quốc gia có cả hàng trăm triệu dân. Trong đó, truyền thông thay vì phê phán, giúp chế độ nhìn nhận, đánh giá lại cho đúng vấn đề lại đi ca ngợi, tô hồng như một phát minh vĩ đại, kể cả ý tưởng “cầm nhầm” từ lịch sử?!

Khốn khổ cho dân tộc này, người lãnh đạo mang tư duy từ tận rừng xanh, lại đang sử dụng chúng để đưa dân tộc này “Bước vào kỷ nguyên mới”! Thật là mông muội và hoang đường.


 

Dự thảo Cáo trạng chế độ độc tài-Đặng Đình Mạnh

Ba’o Tieng Dan

Đặng Đình Mạnh

22-12-2024

Đảng có lực lượng công an lớn nhất thế giới, nhưng không giữ được sự bình yên cho cuộc sống nhân dân.

Đảng có hệ thống truyền thông phủ khắp tỉnh thành, nhưng nhân dân không được thông tin về sự thật.

Đảng xây dựng nhà tù liên tục, nhưng không nhốt hết được bọn đảng viên tham nhũng.

Đảng có tòa án, viện kiểm sát đầy đủ, nhưng không thể mang đến công lý cho nhân dân ngoài sự oan khiên, bất công chồng chất.

Đảng nói kinh tế liên tục tăng trưởng, nhưng hàng loạt cửa hàng đóng cửa treo bảng cho thuê, hàng chợ ế ẩm, nhân dân thất nghiệp làn lan.

Đảng rao giảng đạo đức nhiều hơn ai hết, nhưng số đảng viên tha hóa, hủ hóa, tham nhũng, tham ô nhiều gấp bội so với nhân dân.

Đảng nói đảng viên là thành phần ưu tú của nhân dân, nhưng số đảng viên phạm tội ở tù, bị kỷ luật nhiều hơn cả nhân dân.

Đảng nói mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, nhưng đảng viên và người giàu có phạm pháp lại được châm chước hưởng hình phạt nhẹ nhàng so với người dân.

Đảng nói chống tham nhũng không có vùng cấm, nhưng đảng viên cao cấp phạm pháp bị kỷ luật thì đảng lại chỉ thông báo chung chung, mơ hồ.

Đảng nói đất nước phải thực hành tiếp kiệm, chống lãng phí, nhưng đảng lại làm lơ cho đảng viên sinh hoạt xa hoa ăn bò dát vàng.

Đảng nói muốn làm bạn với thế giới, nhưng lại tổ chức bắt cóc quốc tế mang người từ nước ngoài về Việt Nam và tấn công tình dục liên tục vào công dân nước người ta.

Đảng in tiêu đề “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” trên mọi văn bản, nhưng lại đàn áp quyền tự do của nhân dân một cách khốc liệt.

Đảng nói “Mọi quyền lực thuộc về nhân dân”, nhưng đảng giành hết quyền lực để tự tung tự tác.

Đảng nói “Nhân dân làm chủ đất nước”, nhưng đảng không cho nhân dân quyền quyết định bất cứ vấn đề gì.

Đảng chủ trương tinh giản bộ máy chính quyền, nhưng lại không động gì đến Bộ Công an đang có nhân sự cao nhất và xài tiền ngân sách nhiều nhất trong cả nước.

Đảng nói “thế nước đang lên”, nhưng nhân dân khắp nơi phải xuất khẩu lao động, vượt biên đi làm thuê cho khắp thế giới.

Đảng nói “chưa bao giờ cơ đồ đất nước được như thế này”, nhưng lãnh đạo công du ở đâu cũng xin xỏ họ hết cái này đến cái khác.

Đảng nói đồng bào hải ngoại là “khúc ruột nghìn dặm”, nhưng cấm cửa không cho về quê hương nếu có chính kiến khác với đảng.

Đảng kêu gọi hòa giải, hòa hợp dân tộc, nhưng lại bỏ rất nhiều tiền để tổ chức rầm rộ dịp 30/04 hạ nhục đồng bào.

Đảng ca ngợi đồng bào hải ngoại gởi kiều hối về duy trì chế độ độc tài, nhưng lại dung dưỡng cho đám dư luận viên mạt sát đồng bào hải ngoại là “Neo tộc”, “Đu càng”…

Đảng cho rằng mình nắm quyền lãnh đạo là nhờ lịch sử giao phó và nhân dân ủng hộ, nhưng lại kém tự tin đến mức không dám tổ chức bầu cử tự do.

Đảng nói cần đến hàng trăm nghìn tỷ đồng để chấn hưng văn hóa, nhưng lại bỏ tiền ra nuôi hàng vạn Dư luận viên chửi bới, thô tục vô văn hóa khắp nơi trên mạng xã hội.

Đảng nói mình là đại diện trung thành của giai cấp công nhân, nhưng thực chất không có ai trong số lãnh đạo cao cấp xuất thân từ công nhân cả.

Đảng nói “Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân”, nhưng bao nhiêu lợi ích của nhân dân đảng cướp sạch.

Đảng nói cán bộ là đầy tớ của nhân dân, nhưng thực ra nhân dân bị cán bộ hành như con thú.

Đảng nói phải chăm sóc cho thế hệ trẻ vì chúng là tiền đồ đất nước, thực ra đảng chỉ chăm lo cho con em đảng viên cao cấp và xem chúng là hồng phúc dân tộc.

Đảng kêu gọi nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng chính quyền, nhưng khi nhân dân có ý kiến thì đảng còng tay nhân dân bỏ tù.

Đảng nói láo nhiều đến mức tôi không thể nhớ hết, đồng bào giúp bổ sung…


 

Mùa Noel: Mời Bạn thăm các Hang Đá đẹp nhất trên đời

NGUYỆN CHÚC VUI AN GIÁNG SINH 2024!
ĐẾN VỚI BẠN ĐỌC VÀ QUÝ QUYẾN!

Hoạt cảnh Giáng Sinh của người Ấn Độ
Hang đá ở quảng trường thánh Phê Rô 2024
Hang đá đông nhất bao gồm 500 tượng các nhân vật ở tỉnh Đồng Nai.
Hang đá tân kỳ nhất tỉnh Đồng Nai
7 Hang đá ý nghĩa nhất của Tòa Thánh Rô Ma qua các năm, tác chế bởi các nghệ danh thế giới
Dân chúng đón Chúa Giáng Sinh khắp Thế Giới.

Merry Christmas 2024

Còn đối với Chúa thì sao?
Hang đá nào mà Hài Đồng Giê Su muốn sinh ra ?

Đó chính là hang đá ở bên trong mỗi chúng ta.

Chúa Giê Su muốn sinh ra và tỏa chiếu ánh sáng Vui An trong tâm hồn của chúng mình.

Bạn đã sẵn sàng để đón Chúa Hài Đồng chưa?

Hãng công nghệ hàng đầu Huawei của Trung Cộng lại lách luật để làm ra con CHIP cao cấp

Tổng hợp báo chí Quốc Tế

huawei network cartoon with comercio and the caption La oveja negra de celulares by Arcadio Esquivel

TSMC cảnh báo các quan chức Hoa Kỳ về những gì họ tin là nỗ lực của Huawei nhằm phá hoại các biện pháp kiểm soát xuất khẩu của Hoa Kỳ đối với các công nghệ sản xuất tiên tiến và công cụ tăng tốc AI thông qua việc sử dụng các công ty ủy nhiệm.

Trước đây, Huawei từng tuyên bố rằng Trung Cộng đã tự lực sản xuất được con chip 910B tân tiến nhất thế giới làm mọi người quan sát phải gãi đầu. Chip đó làm ra bằng cách nào trong hoàn cảnh cấm vận kỹ thuật chip mới do bộ Thương Mại Hoa Kỳ áp đặt.

Ascend 910B của Huawei là bộ tăng tốc tinh vi nhất của gã khổng lồ công nghệ Huawei, tốc độ xử lý gần ngang bằng với A100 đã bốn năm tuổi của Nvidia với hiệu suất 320 teraFLOPS FP16 hoặc 640 teraFLOPS Int8. Một số công ty hàng đầu về AI của Trung Quốc đang lắp đặt một số lượng lớn Ascend 910B tại các trung tâm dữ liệu của họ.

Mặc dù có thể không phải là con chip nhanh nhất hiện nay, nhưng các hạn chế thương mại của Hoa Kỳ đối với việc bán các bộ tăng tốc do Hoa Kỳ sản xuất chỉ trở nên nghiêm ngặt hơn trong những năm gần đây. Tính đến tháng 10 năm ngoái, các hạn chế đã càng gia tăng lên và trở nên nghiêm trọng đến mức ngay cả một số card đồ họa cao cấp dành cho chơi game cũng bị cấm bán ở Trung Quốc vì chúng có thể chuyển đổi thành Chip AI.

华为宣称Ascend 910B AI芯片成功超越A100 成为中国市场的重要替代品 - Huawei 华为 - cnBeta.COM

TSMC đã lên tiếng báo động sau khi một khách hàng đặt hàng một con chip rất giống với Ascend 910B của Huawei, một bộ tăng tốc AI cao cấp nhắm vào đào tạo AI và khối lượng công việc suy luận. Theo Reuters , trích dẫn hai người quen thuộc với vấn đề này, công ty đang được đề cập là Sophgo.


 

 

Tản mạn cuối tuần: Du Lịch Tàu có gì lạ?

du-lich-trung-quoc

Tử Cấm Thành ở thủ đô Bắc Kinh

Tử Cấm Thành đã tồn tại và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong suốt hơn 500 năm qua, từ thời kỳ triều đại nhà Minh. Với diện tích rộng lớn lên tới 250.000 m², Tử Cấm Thành bao gồm 980 điện và 8.886 phòng, được bao quanh bởi tường cao 7.9 m và dày 6 m, cùng với hào sâu 52 m. 

 

Dân Trung Cộng ta luôn có nền văn minh XHCN đạt trình độ cao, đó là cái gì?

Tình nghi phản động

Ngay khi nhân viên xuất nhập cảnh mở hộ chiếu của tôi, tôi biết Trung Quốc sẽ là một trải nghiệm độc đáo. Cô công an cửa khẩu nhìn tôi chằm chằm với vẻ nghi ngờ trong khoảng một hoặc hai phút trước khi gọi hai nhân viên an ninh đến, họ kéo tôi sang một bên và bắt đầu tra hỏi tôi.

One consultant told reporters that he was not allowed to go back to Hong Kong after he refused to let Chinese customs officers check his smartphone. (Picture: Handout)

“Tên đầy đủ của ông là gì? Ông đến từ đâu? Đây có thực sự là hộ chiếu của ông không? Mục đích chuyến thăm của ông là gì?”

Viễn cảnh bị từ chối nhập cảnh khiến tôi hơi buồn nản — chủ yếu là vì người ta đồn rằng món sủi cảo thịt lợn ở đây cực kỳ ngon.

Cuối cùng tôi cũng được cho phép, nhưng trải nghiệm này chỉ là một trong nhiều điều kỳ lạ mà tôi khám phá ở Trung Quốc 

Mặc đồ ngủ ra đường.

Ở hầu hết các quốc gia khác, đồ ngủ chỉ dành cho phòng ngủ hoặc ở nhà vào những ngày lười biếng. Ở Trung Quốc, đồ ngủ thường được mặc khi chạy việc vặt và giao lưu xã hội. Nếu bạn đi lang thang vào một khu phố, công viên hoặc thậm chí là một cửa hàng tạp hóa, đừng ngạc nhiên khi thấy mọi người mặc những bộ đồ thoải mái nhất của họ.

Tự Do khạc nhổ ngoài đường                                                                                Tiêu chuẩn chung về phép lịch sự yêu cầu rằng khạc nhổ phải được diễn ra ở nơi chỉ dành riêng cho mình . Điều kỳ quặc là  những tiêu chuẩn này dường như không làm bận tâm ai trong số dân Trung Cộng, những người có thể được nhìn thấy khạc nhổ vào xô, vào bụi cây, khạc ra khỏi xe hơi và khạc ở nhiều nơi công cộng. Đừng ngạc nhiên khi lần tới, đột nhiên bạn thấy bác tài taxi của bạn thò đầu ra khỏi cửa sổ vào lúc đang có đèn đỏ!

Trong vài năm qua, Trung Cộng đang xây dựng một hệ thống quan sát xã hội theo kiểu “Big Brother”.

Big-brother-is-watching GIFs - Get the best GIF on GIPHYtrong đó cuộc sống hàng ngày của mọi công dân đều được theo dõi và chấm điểm chặt chẽ, tác động đến các khoản vay mua nhà và triển vọng việc làm. Một “nhà nước toàn trị kỹ thuật số”. Coi chừng “Anh Lớn đang theo dõi bạn”.

Người Trung Quốc luôn mang theo phích nước nóng.

Uống nước nóng giúp ngăn ngừa nhiều bệnh tật. Nếu bạn bị bệnh thì sao? Người Tàu khuyên ta “Hãy uống nước!”

Các Trò Chơi toát mồ hôi ở Trung Cộng

Thăm Thượng Hải thành phố giầu nhất Trung Cộng

Lăng Mộ Tần Thủy Hoàng (Tây An Thiểm Tây)

Được xem là một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất tại Trung Quốc, lăng mộ Tần Thủy Hoàng thu hút hàng triệu du khách mỗi năm bởi sự kỳ vĩ và bí ẩn của nó. Nằm tại phía Đông núi Lệ Sơn, Tây An, lăng mộ này được phát hiện vào năm 1974 khi một người nông dân đang đào giếng và tình cờ phát hiện ra một kho báu vô giá dưới lòng đất.

mộ Tần Thủy Hoàng
Các bức tượng cổ

Khi khai quật, hơn 8.000 bức tượng chiến binh phong kiến cổ đại đã được tìm thấy, tạo nên một cảnh tượng vô cùng ấn tượng và đầy cảm hứng. Các tượng chiến binh này được xác định niên đại vào khoảng năm 221 TCN và được cho là những bức tượng binh mã được dựng lên để bảo vệ lăng mộ của vị hoàng đế Tần Thủy Hoàng. Theo truyền thống tôn giáo của người Trung Quốc, người chết sẽ tiếp tục cuộc sống ở thế giới bên kia và hoàng đế Tần Thủy Hoàng đã tin rằng ông cần có sự bảo vệ của những binh mã để đảm bảo an ninh cho khu lăng mộ của mình. Vì vậy, ông đã dựng lên toàn bộ một mô hình vương triều thu nhỏ với những chiến binh bằng đất nung, được chế tác tỉ mỉ và tinh xảo. 

Chùa Huyền Không (Sơn Tây)

Chùa Huyền Không là một trong những địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng và hấp dẫn nhất của Trung Quốc. Nằm sâu trong lòng núi Hằng Sơn, tỉnh Sơn Tây, chùa được xây dựng từ khoảng 1.500 năm trước và vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính và linh thiêng cho đến ngày nay.

Chùa Huyền Không
Chùa Huyền Không

Được xem là một kiệt tác kiến trúc độc đáo, chùa Huyền Không có vị trí đặc biệt khi nằm cheo leo trên vách đá cao khoảng 50m so với mặt đất. Để đến được chùa, du khách phải vượt qua những con đường đèo hiểm trở và leo lên những bậc thang đá đầy gian nan. Nhưng khi đặt chân đến đây, họ sẽ được đền đáp bằng cảnh quan tuyệt đẹp và không khí thanh tịnh của nơi đây. Mặc dù đã trải qua hàng trăm năm và chịu đựng những điều kiện khắc nghiệt như động đất và thời tiết khắc nghiệt, chùa Huyền Không vẫn đứng vững và tỏa sáng như một ngôi sao trên vách đá….

Vạn Lý Trường Thành

Vạn Lý Trường Thành là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng và được yêu thích nhất tại Trung Quốc. Được xây dựng bởi con người với sự kết hợp giữa tài năng kiến trúc và sức lao động vô cùng khổng lồ, Vạn Lý Trường Thành đã trở thành biểu tượng văn hóa và lịch sử của đất nước này.

Vạn Lý Trường Thành

Với chiều dài khoảng 6000km, Vạn Lý Trường Thành là một trong những công trình kiến trúc vĩ đại nhất trên thế giới. Nó được xem là một trong bảy kỳ quan của thế giới và được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào năm 1987. Bức tường thành này được xây dựng từ thời kỳ của triều đại Tần (năm 220 TCN) và kéo dài cho đến thời kỳ của triều đại Minh (năm 1644). Với sự kết hợp giữa các tường thành, cầu cửa và các công trình phòng thủ khác…

Việc thi cử của các triều vua Việt Nam-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Tieng Dan

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

19/12/2024

Khung cảnh trường thi ngày xưa

Nước ta có 20 thế kỷ chữ Hán từ thời Bắc thuộc. Có 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ bắt đầu từ thế kỷ 10 và khi bước sang thế kỷ 18-19 là thời kỳ toàn thịnh của chữ Nôm, lấn át chữ Hán với Hịch Tây Sơn, sau đó đến Truyện Kìều. Việc thi cử vì thế cũng dựa trên cái đà phát triển của chữ Nôm và chữ Hán.

Việc thi cử ở nước ta mới có từ gần ngàn năm nay. Trước đó, khoa cử còn thiếu, các đời Đinh Lê về trước, trong việc kén hiền tài tuyển chọn người chỉ là tuỳ tiện không câu nệ cũng không theo phép tắc gì cả. Kể từ năm 1072, đời Lý mới mở khoa thi để tuyển chọn người có tài ra giúp nước. Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có khoa cử. (1)

Khoa cử chẳng những cung cấp nhân tài, người giúp vua trị nước mà còn là vốn quý cho văn học có cơ phát triển. Dẫn chứng cụ thể là vào những thế kỷ 10-12 chúng ta có được 50 tác giả làm thơ văn thì đa số là các nhà sư như Viên chiêu thiền sư (998-1090) Diệu nhân ni sư, Mãn giác thiền sư (1051-1096). Pháp Bảo, Không lộ thiền sư, Quảng nghiêm thiền sư vv… Nhưng khi mà thi cử đã phát triển với nhiều nhân tài, nhiều tiến sĩ thì chính các nho sĩ này sẽ là những nhà văn, nhà thơ. Vì vậy, ở thế kỷ 13-14 đã có trên 60 tác giả mà hầu hết là giới nho sĩ. Sang đến thế kỷ 15 thì đã có trên 80 tác giả mà đa số là các nho sĩ đã thi đỗ, vượt xa tất cả các thế kỷ từ trước tới nay. Đồng thời văn học vừa có tính cách đa dạng, với đủ mọi loại đề tài, đủ các thể loại khác nhau. Xem như thế thì, có sự phát triển đồng bộ giữa văn học và thi cử. (2)

Trong bài này chúng tôi tìm hiểu việc thi cử dựa trên những số liệu mà chúng tôi có được theo khảo hướng thống kê để từ đó rút ra được những ý nghĩa, những giải thích xét ra phần nào giúp chúng ta có được một số ý tưởng nòng cốt của việc thi cử ở Việt Nam.

Nói chung thì con đường cử nghiệp không phải là con đường bằng phẳng. Nhiều sĩ tử vướng mắc vào vòng thi cử đã lao đao lận đận cả đời. Ông nội Ngô Tất Tố chỉ đỗ tú tài sau khi đã lận đận 7 lần khoa thi hương. Đến ông thân sinh ra ông Tố thì đã trải qua 6 lần lều chõng. Đến lượt ông Tố thì 2 lần thi hương không đậu. Đến kỳ thi sát hạch ở Bắc Ninh, ông đỗ đầu nên người ta mới gọi ông là Đầu xứ Tố. Lúc đó ông mới 22 tuổi. Việc thi cử thật trần ai, vạn người thi, không lấy được trăm người đỗ nên đã để lại nỗi chán chường, tủi nhục và nước mắt thể hiện qua thi ca.

Không phải là thưà khi nhắc lại trường hợp Trần Kế Xương than thở trong bài phú Hỏng thi của ông:

Đau quá đòn hằn rát hơn lửa bỏng.
Tủi bút, tủi nghiên, hổ lều, hổ chõng.

Hoặc của một sĩ tử vô danh thị:

Than ôi, ai biết chăng ai, hỏng ôi là hỏng

Việc khoa cử khen ai khéo đặt, lừa anh hùng đến đầu bạc chưa thôi, áng công danh là số phận không lường, trêu sĩ tử dẫu gan vàng cũng núng.

Và mỗi lần thi rớt, còn mặt mũi nào nhìn vợ, nhìn con, bị người đời coi là hạng vô danh hạ sĩ.

Cũng vì vậy mà trong suốt gần ngàn năm, khi có thi cử, kể từ đời Lý nhân Tông (1072-1076), chúng ta chỉ lược kê ra được một vài nhân tài, mà tài năng xuất chúng không đợi tuổi.

Năm 1247, đỗ trạng nguyên có Nguyễn Hiền, người thuộc huyện Thượng Hiền, thuộc phủ Xuân Trường, tỉnh Hànam Ninh ngày nay. Ông Hiền lúc đó mới có 13 tuổi. Điều này cũng chứng tỏ triều đình đã tuyển chọn người tài mà không cần xét đến tuổi tác, già trẻ. Đó là một ưu diểm.

Ông Nguyễn Trãi đã đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ), khoa Canh Thìn, lúc 20 tuổi và sau đó được bổ làm quan giữ chức ngự sử. Hoặc trường hợp Hội nguyên, Đình nguyên Hoàng giáp Ngô thì Sĩ vào năm Cảnh Hưng thứ 27 (1766), ông này kể từ khi thi tam trưòng đến thi hội rồi thi Đình cũng đều đỗ đầu. Và đó cũng là trường hợp cụ Nguyễn Khuyến, mà ta thường gọi cụ là Tam nguyên Yên Đổ. Hoặc trường hợp đặc biệt có cha, em và hai con cùng thi đậu trong đó cha là Ngô Thúc Định, đậu lúc 19 tuổi và con là Ngô Quán. Em là Ngô Trọng Nhạ đậu lúc 16 tuổi. Ngô Trọng Nhạ, Ngô Thúc Định, Ngô Mạnh Nghinh đậu cùng một khoa Duy Tân 1915. (3)

Nhìn chung về kết quả các cuộc thi

Ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt vừa nêu trên, việc thi cử thật ra là cực kỳ khó khăn mà dựa trên những con số chúng tôi nêu ra đây làm chúng ta bất nhẫn, nghĩ tới số phận của không biết bao nhiêu sĩ tữ đã để ra cả đời học hành mà số phận long đong với cử nghiệp.

Theo Quốc triều hương khoa lục của Cụ Cao Xuân Dục thì trưòng Thi Hương ở Huế trong suốt 105 năm có 42 khoa thi hương, có được 1263 cử nhân. Sở dĩ dưới triều Nguyễn, số khoa thi Hội và Đình ít hơn, vì Gia Long đã không cho tổ chức kỳ thi này, Khoa thi hương đầu tiên tại Huế là năm 1813. Cho mãi đến năm 1822 (Nhâm Ngọ) dưới thời Minh Mạng mới có khoa thi hội. Về điểm này,chúng tôi thắc mắc tại sao Gia long lại không tổ chức thi hội. Ngay năm 1803, vừa lên ngôi một năm, Gia Long đã lập nhà Quốc học ở Huế, thiết lập các chức đốc học ở tỉnh, giáo thọ, huấn đạo ở các phủ huyện.                                   4) Rõ ràng là muốn mở mang, phát triển việc học để đào tạo nhân tài. Vậy tại sao không mở các kỳ thi hội. Có thể suy đóan, ông ngại hay nghi ngờ những tài năng xuất chúng. Một điều rõ ràng, dưới triều Nguyễn đã bãi bỏ chức trạng nguyên.

Căn cứ vào sách Lịch triều hiến chương loại chí thì dưới đời Lý, Lê, nhất là đời Hồng Đức, số người đỗ tiến sĩ rất cao, có những năm như Hồng đức thứ 9 (1478), lấy đỗ tiến sĩ 62 người, Hồng đức thứ 15, lấy đỗ 60 người, Hồng Đức thứ 21 (1490) 54 người.

Nhận xét về điểm này Đỗ Nhuận viết vào năm 1484: Việc lớn trong chính trị của Đế Vương, chẳng gì gấp bằng NHÂN TÀI. Chế độ của nhà nước muốn được kỹ càng, tất phải đợi ở Hậu Thánh (Các vua nối nghiệp về sau). (5)

Trước kia 6 năm một khoa thi, nay theo chế độ nhà Chu, định lệ 3 năm một khoa. Trước kia lấy đỗ chẳng qua vài ba chục người, nay lấy rộng người thực tài, không lo bội số. Với một tinh thần như thế, chúng ta sẽ cắt nghĩa làm sao những con số những người đỗ tiến sĩ dưới triều Nguyễn. Chẳng nhẽ sau cả gần 300 năm mà tinh thần thi cử dưới triều Nguyễn lại tỏ ra lạc hậu hơn các vua đời nhà Lê ? Vì vậy thi cử thịnh hành nhất là thời Hồng Đức.

Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người Công Bằng đời sau càng không thể theo kịp.

Chọn người cốt lấy rộng học thực tài, Không hạn định ở khuôn khổ mực thước. Trong nước, không để sót nhân tài, triều đình không dùng lầm người kém (LTHCLC).

Cho nên, để tưởng thưởng xứng đáng những người tài giỏi, kể từ năm 1442, bắt đầu dựng bia tiến sĩ. Và ra luật lệ cấm 2 loại người sau đây không được phép ứng thi:

-Người bất hiếu, bất mục, lọan luân, điêu toa, dẫu có học vấn văn chương cũng không được vào thi.

-Những người làm nghề hát xướng, nghịch đảng, và có tiếng xấu thì bản thân và con cháu không được thi.

Nghĩa là một người ra làm quan thì phải vừa có tài, vừa có đức. Nhưng đức là điều kiện tiên quyết cho việc ra làm quan.

Trong việc thi cử mà nếu gian lận thì suốt đời không được đi thi. Đến thi hội mà gian lận thì phải xử tội đồ, và suốt đời không được đi thi và không được bổ dụng. Nhà vua phán: Phép cấm không nghiêm thì không trừ được thói gian dối, chọn lọc không tinh thì không lấy đựợc người thực tài.

Trường hợp ông Đào Duy Từ (1572-1634), vì là con một nhà hát bội nên đi thi hương đã bị đánh hỏng, ông phẫn chí bèn rời bỏ quê hương ở đằng ngoài, thuộc chúa Trịnh đi vào đằng Trong thuộc chúa Nguyễn để tìm đường tiến thân. (6)

Tính cách Chính trị của Khoa Cử.

Cũng dựa vào các con số, chúng tôi thấy các khoa thi không tiến hành đúng theo quy định 3 năm một lần như trong thời Minh Mạng đã quy định. Thi Hương thường được tổ chức vào mùa thu trong năm, rơi vào các năm tý, ngọ, mão, dậu. Thi hội vào mùa xuân trong các năm sửu, mùi, thìn, tuất… Nhưng lại có khá nhiều ân khoa. Như tại Huế, trong suốt 105 năm, có tổ chức 42 khoa thi, thì có đến 9 ân khoa rồi. Có nhiều lý do để cắt nghiã về các ân khoa này, có thể để ăn mừng lễ vạn thọ khánh tiết, hoặc để ăn mừng lễ đăng quang vua mới, hoặc nhằm kêu gọi sự hợp tác của nhà nho ở vào những thời điểm mà uy tín cửa triều đình đang xuống dốc, chẳng hạn sau cuộc rút quân dưới thời Thiệu Trị ra khỏi Cao Mên. Ý nghĩa của các ân khoa như vậy rõ ràng đi xa khỏi mục tiêu tuyển chọn nhân tài để cho thấy rõ khiá cạnh chính trị chen vào. Chẳng khác gì, nhân ngày lễ thả tù nhân thì đâu còn màng tới vấn đề công lý, vấn đề xã hội nữa. Chẳng hạn, năm 1848 (Tự Đức thứ 1), nhân dịp vừa lên ngôi ra lệnh tổ chức kỳ thi hương đặc biệt ân khoa. Trong dịp này có trường hợp hy hữu trong thi cử, xin kể ra đây. Số là có 2 anh em bài vở có nhiều điểm giống nhau về ý tưởng cũng như văn phong. Chủ khảo Hoàng tế Mỹ dán giấy mỏng che đậy tên 2 người trình vua Tự đức. Vua truyền cho tổ chức thi 2 người, ngồi riêng 2 phòng, trong 3 ngày, chính tay Tự Đức duyệt bài và ngự phê: Văn chương là lẽ công bằng, 2 anh em văn chương đều kiệt tác. Quý đặng chân tài. Anh em đồng khoa là việc tốt 2 anh em đó là Hoàng kim Giám và Hoàng kim Tịch, tức Hoàng Diệu sau này.

Tính cách chính trị còn thấy rõ rệt trong các kỳ thi Hội, nhất là thi Đình. Chúng tôi vẫn tự đặt nghi vấn là đã có kỳ thi hội rồi, rại sao còn tổ chức kỳ thi Đình làm gì. Phải chăng chỉ nhằm mục đích xếp hạng cao thấp. Không hẳn như vậy. Ít có nước nào mà kỳ thi lại do chính tay vua xếp đặt, ra đề thi, nhất là phần văn sách… Chẳng hạn, năm 1493, Chính vua xem quyển, định thứ bực cao thấp. Rồi vua ngự chính điện, truyền loa xưóng danh tiến sĩ, sau đó ban mũ đai và áo cho các tiến sĩ, cuối cùng thì ban yến… Rồi năm 1496 chính vua ra đề thi hỏi về văn sách, hỏi về đạo trị nước. Sau đó, dẫn các cử nhân vào sân điện Kim Loan, Vua xem dung mạo định lấy đỗ 30. Qua đọan trên cho thấy việc thi cử, nhất là trong các kỳ tiến sĩ có tác năng chính trị, nhằm bảo đảm sự trung thành, phục vụ cho vua. Vì thế mà chính vua can thiệp vào trong tiến trình thi cử, để loại trừ những thành phần mà xét ra không thích hợp. Việc xem dung mạo quyết định lấy 30 người đỗ không thể nói gì khác hơn tại sao lại tổ chức thi Đình. (7)

Tính cách chính trị còn có thể thấy rõ trong việc các làng công giáo không có người thi đậu đưọc trình bày ở phần sau. Trong những bài thi văn sách, nhà vua tự ra đề tài về chính sách cấm đạo để từ đó yêu cầu sĩ tử bàn luận và hưởng ứng chính sách của triều đình. Một đề tài thi cử như vậy đã hẳn có tác dụng lớn trên những chọn lựa của mỗi sĩ tử về vấn đề tôn giáo, đồng thời cũng tuyên truyền và ủng hộ đường lối của Triều đình trong phạm vi này.

Như trên đã trình bày, đường lối tuyển chọn nhân tài thật kỹ càng như vậy, nhưng vẫn không tránh được có trường hợp một số cống sĩ có thể bất phục và chống lại triều đình. Nhất là ở giai đọan khi mà sự có mặt của người Pháp là một thực thể khó có thể chối cãi được, đưa tới những thái độ nghi ngờ về sự bất lực của triều đình trong việc chống đối lại người Pháp. Đó là trường hợp Cụ Phan Chu Trinh, khi vua Khải Định sang Pháp để dự đấu xảo ở Marseille. Ông đã hài ra bảy tội của Khải Định là tôn bậy quân quyền, lạm hành thưởng phạt, thích chuộng sự quỳ lạy, xa xỉ quá độ, ăn bận không phải lối, tội chơi bời, chuyến đi Tây có sự ám muội. Thư thất điều đã được báo chí ở Pháp phổ biến, gây một tiếng vang bất lợi cho triều đình bấy giờ. Qua lá thư của Phan chu Trinh, người ta cũng thấy được, giới sĩ phu ít còn tin tưởng vào chế độ quân chủ mà họ cho là nguyên nhân tình trạng đưa đến mất độc lập, mất chủ quyền và trở thành nô lệ cho thực dân Pháp. Sự oán hận nhà vua chứng tỏ vai trò của một ông vua bù nhìn đưa đến sự chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến như là giải pháp cần thiết đi trước cả giải pháp dành lại độc lập.

Về Tỉ Lệ Con Số người thi đậu

Sau đây, chúng tôi đưa ra con số những người đỗ đạt tỉ lệ với số người ứng thi đã là then chốt của vấn đề thi cử ở nước ta. Xin dẫn chứng năm 1463, có 4400 người ứng thi, lấy đỗ hơn 40 người, tỉ lệ 1%. Năm 1502, tháng 2, có 5000 người thi cử nhân, lấy đỗ 61 người, tỉ lệ hơn 1%. Năm 1514, có 5700 người, lấy đỗ 43 người. Tỉ lệ chưa được 1%. Cũng nên nhớ rằng cái tỉ lệ này đã không tính tất cả những người đã dự thi ở quận huyện. — quận huyện, người ta đã sàng lọc tất cả những người kém cỏi không đủ tư cách để dự kỳ thi Hương rồi. Nếu tính tất cả những người dự thi ở quận huyện thì tỉ lệ sẽ là 1 phần vạn.

Có 3594 người thi đỗ trong 32 khóa thi từ 1807 đến năm 1858 chỉ là một phần tinh hoa quá nhỏ, quá ít, vô cùng vô nghiã trong một đất nước có từ 600.000 đến 1 triệu người đăng ký thi, tuổi từ 18 đến 60. Chia đều thì có khoảng 116 người thi đỗ trong mỗi khoá, và tính bình quân mỗi năm thì có khoảng 44 người. (Khoa mục chí)

Có người 16 tuổi đã đỗ như ông Ngô Trọng Nhạ. Có người như cụ Đòan tử Quang mãi tới 82 tuổi mới thi đỗ hội nguyên. Trong thư mục của cụ Hoàng Xuân Hãn do Tạ trọng Hiệp soạn (8) có đưa ra trường hợp cụ Đoàn Tử Quang đã để cả đời để học và thi và cho mãi đến năm 1900 cụ mới đậu cùng với Phan Bội Châu. Giả dụ cứ 3 năm thi một lần, không kể đến các ân khoa, thì trước sau cụ có thể đã dự 21 kỳ thi hương. Trong 21 khoa thi đó, không có gì làm bằng cớ cụ dốt nên đã rớt, nhất là sau này cụ đã đậu thi hội. (Bị giáng xuống cử nhân chót vì phạm trường quy). Cụ rớt, cụ đỗ, chỉ vì tỉ lệ xác suất, độ may rủi, về lề lối tổ chức chấm bài. Bài thi do các ông sơ khảo chấm. Rồi phúc khảo, cuối cùng đến giám khảo duyệt lại. Có biết bao nhiêu hệ số chủ quan của các ông giám khảo này. Có một kẽ hở rất lớn trong tổ chức thi cử thời xưa là mặc dù luật lệ rất nghiêm nhặt từ trường thi, quyển thi đến chấm thi, nhưng lại không có luật lệ rõ ràng về cách cho điểm.

Trong khoa thi này cụ Phan bội Châu đỗ Giải nguyên và cụ Đoàn tử Quang đỗ Á nguyên, nhưng vì phạm trường quy, theo lệ phải dánh hỏng. May nhờ chủ khảo là Khiếu Năng Tĩnh có lòng nhân từ thấy ông tuổi tác cao mà bị trượt nên họp bàn với các quan trường, đệ quyển thi về kinh, và dâng sớ xin cho ông đỗ cử nhân. Vua Thành Thái ban chỉ đặc cách cho Đoàn Tử Quang đỗ cử nhân thứ 21.

Chủ khảo Khiếu Năng Tĩnh và phó chủ khảo Mai Khắc Đôn viết bài: Nhai sự Ký kể lại việc này như sau: Khoa Canh Tý năm Thành Thái thứ 12, trường thi Hương Nghệ An, sĩ nhân Đoàn tử Quang 82 tuổi, quê làng Phụng Công, phủ Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, đã đỗ 2 khóa tú tài, nay đỗ cử nhân thứ 21… Từ khi quốc triều mở khoa thi đến nay, chưa từng thấy có chuyện lạ như thế.

Hôm xướng danh, người đi xem đông hơn đám hội. Xướng đến tên Đoàn tử Quang đỗ cử nhân thứ 21, một ông già dạ lên, chen đám đông bước vào, râu tóc trắng xóa, phong thái như người tiên. Các quan Tây, quan tỉnh đến cầm tay ông khen ngợi… Thật cảm động. Vào dự yến, không quên lấy phần về cho mẹ già 98 tuổi. (9)

Chúng tôi nhận thấy không biết bao nhiêu là điều luật về tổ chức, về trưòng thi, về các giám thị, về các giám khảo, nhưng lại không có những hướng dẫn minh bạch về cách chấm thi. người ta tin tưởng hòan tòan vào khả năng của người chấm. Cùng lắm thì chỉ có những bài mẫu văn thơ phú để làm tiêu chuẩn. (10) Cho nên, tổ chức thi cử như vậy là kéo lê một cái máy chém từ thế hệ này đến thế hệ khác mà nội dung thi cử hầu như không có gì thay đổi. Đấy là tôi chưa nói tới nội dung các bài thơ phú mẫu căn cứ vào đó để các giám khảo chấm bài mà nội dung cho ta có cảm tưởng nó rỗng tuếch, nó kêu. Đọc một đọan phú, cả trang giấy chỉ thấy những chữ lổm ngổm, kêu rổn rảng, có vẻ khó hiểu, kỳ bí mà thật sự nghèo nàn và nông cạn về nội dung,. Hình như triều đình nếu có thay đổi gì thì chỉ bận tâm tới những thay đổi về tổ chức mà không bao giờ có ý tưởng cho thấy muốn thay đổi về nội dung thi cử, cho thích hợp, cho đáp ứng kịp thời. Nội dung thi cử, người chấm, người thi khi mà cả 3 cái đó trùng hợp vào nhau thì có thể đỗ, khác đi thì rớt. Vì thế, xét thực tế, có đỗ, có rớt, nếu có điểm lợi gì, thì đó là cái lợi cho cá nhân ứng thi, còn nói về đại cuộc, có ích gì cho đời thì thật chẳng là bao.

Chúng tôi cũng nhận thấy không hiếm trường hợp anh em, bố con cùng đậu một khoa. Điều đó chỉ cho thấy có sự hên xui, may rủi, không cắt nghĩa được nên mới có câu Học tài Thi phận.

Trong bia đề tên các tiến sĩ khoa Mậu Tuất, Thành Thái thứ 10, chúng tôi liệt kê ra được số tuổi khá chênh lệch của họ: Có 2 người 26 tuổi, 1 người 27, 1 người 35, 1 người 39, 1 người 40, và người già nhất 47 tuổi. (Khoa mục Chí).. Không thể nói càn là vì ông 47 tuổi mới đỗ là vì dốt được. Đã gọi là dốt thì không thể đỗ được, nhất là đỗ tiến sĩ. Vậy làm sao cắt nghiã được sự chênh lệch về tuổi của họ. Chỉ có một cách giải thích tóan học là vì có quá nhiều người đi thi, và số đỗ lấy quá ít, nên đỗ hay không chỉ là vì vấn đề xác suất, may rủi như chơi vé xố thôi. Đó là vấn đề rút thăm, giữa nhiều người giỏi để chọn lấy một vài người.

Dưới triều Tự Dức trong Đại Nam thực lục có 17713 thí sinh được chấp nhận năm 1870, chỉ có 8 người đỗ tiến sĩ. Như vậy, cứ 1000 người đăng ký dự thi, có 20 được chấp nhận và không tới một người đỗ. Tỉ lệ gần 1 phần ngàn. Con số tỉ lệ 1 phần ngàn, nếu cứ tích lũy số người thi rớt mỗi năm, sẽ đạt tới con số triệu dễ dàng. Dĩ nhiên, triệu người thi rớt này cũng sẽ là thành phần những ứng sinh của khoá tới, có khi kéo dài hằng 9-10 khoa. Nhưng điều đó cũng chứng tỏ rằng rớt hay đỗ không còn là vấn đề giỏi kém, mà là một thứ sổ số mà thôi. Hằng triệu người đi thi, lấy đỗ chưa tới số trăm cử nhân thì dưới dạng thống kê là một con số vô nghiã.

Thi Cử ở Vùng Đất Mới

Đi vào từng địa phương, từng miền, những con số trình bày sau đây cũng cho chúng ta một sự ngạc nhiên không ít. Chẳng hạn, tại Nam kỳ với các di dân do người Việt từ phía Bắc tới hoặc người Trung Hoa tị nạn, vì vậy dân số gia tăng nhiều, tỉ lệ dân số gia tăng là 20%, trong khi đó tỉ lệ đỗ đạt lại giảm đi gần 2% so với tỉ lệ của cả nước. (11) Những di thần người Trung Hoa bài Mãn phục Minh đã đến xứ Đồng Nai, Gia Định và Hà tiên đáng xem xét kỹ hơn. Trần thắng Tài và Dương Ngạn Địch đem binh lính và quyến thuộc hơn 3 ngàn người và 50 chiến thuyền đến Cù lao Phố (Biên Hòa) và Mỹ tho để khai thác. Gia Định thành thông chí ghi rằng nhóm Trần thắng Tài yểm trợ việc lập chợ, buôn bán giao thông với người Tàu, người Nhật, tụ tập đông đảo ở Cù lao Phố. (12)

Điều này có thể cắt nghiã được là lý do đời sống ở miền Nam tương đối dễ dàng, lại xa mặt trời, xa các thủ đô văn hóa như Thăng Long và sau này là Huế. Dại gì đi học vẫn có đủ ăn ngày hai bữa, so với Bắc và Trung phần thì Nam phần là nơi dễ sinh sống, đất rộng người thưa. Người dân thảnh thơi vừa làm vừa chơi cũng đủ ăn…

Thiên nhiên ưu đãi, thực phẩm có thừa, công việc nhàn rỗi, áo quần nhà cửa, chữ nghiã còn thiếu, nhưng so sánh với một số địa phương khác thì đồng bằng sông Cửu Long quả là nơi lạc thổ. Nhiều đìa cá, cá nổi đầu lên như mù u chín rụng, nhưng chẳng ai khai thác, gặp năm cá sụt giá. Đìa ấy để cho người vùng trên đến mót lượm, cá chia 2 với chủ, Vịt nuôi không cần cho ăn, mùa hạn, dưới rạch đầy cá nhỏ, vịt thả rong, chiều tối về chuồng. Những người khẩn hoang thường là những người CHỮ NGHĨA KHÔNG ĐẦY LÁ ME, không rành cách ngôn thánh hiền. (13) — trong Nam, người ta nói tới ông Điền chủ, ông Bá Hộ nhiều hơn là quan phủ quan huyện. hai câu thơ sau đây cho thấy sự giầu có của Điền chủ:

Đất năm dây cò bay thẳng cánh (1 Dây khoảng 10 mẫu ta)

Anh dám hỏi nàng quê quán ở đâu.

Một điền chủ chết để lại một gia tài khoảng 75 mẫu ruộng, nhà cửa vàng bạc châu báu và một số tiền là 15000 quan tiền (Vào thời Minh mạng, một mẫu ruộng trị giá khoảng 180 quan tiền. (14) Điều đó cho thấy điền chủ trong Nam giầu tới mức nào.

Điều này chứng tỏ rằng việc thi cử ngoài lý do xã hội, danh tiếng, truyền thống,, còn có vấn đề hoàn cảnh kinh tế nữa… Trong số 6 tỉnh, Gia Định có số người thi đỗ cao nhất. Vì đây là một tỉnh có nếp sống văn hóa cao hơn các tỉnh khác, nếp sống đô thị rõ nét hơn với nhiều cơ cấu truyền thông, báo chí, tin tức được phổ cập, dễ có xu hướng trọng văn hóa bằng cấp địa vị xã hội.

Vì vậy mà trong biên niên sử đời Gia Long đã tỏ ra bận tâm về sự suy thoái về kết quả thi cử ở miền Nam và cũng nhận thức rằng có nhiều con đường khác đi đến thành công về mặt tài chánh mà không cần phải qua con đường thi cử.

Tỉ Lệ Thi Đậu ở Miền Trung.

— các tỉnh miền Trung, có sự gia tăng khá mạnh, trội vượt hẳn các tỉnh phía Nam về số thí sinh thi đậu. Tất cả là 1115. Điều đó cũng dễ hiểu, vì nay vùng đất miền Trung nằm trực tiếp trong vùng ảnh hưởng của triều đình Huế.

Nhưng đặc biệt rất khó giải thích tại sao con cái dòng họ, các dòng Tôn Thất xa gần với vua lại có rất ít người thi đậu làm quan. Sĩ số thành phần này thi đậu có thể đếm trên đầu ngón tay, nhất là các năm đầu của các vua triều Nguyễn. Kể từ Thành Thái trở đi, người thi đậu có vào khoảng hơn chục người mà thành phần đều là những người kể từ đời thứ ba trở đi đến đời thứ 7. Điều đó đưa ta đến kết luận càng xa nguồn cuội, thì nhu cầu học hỏi càng tỏ ra cần thiết.

Mặt khác, cũng có thể tìm ra câu trả lời cho vấn nạn tại sao, dòng tộc vua chúa lại không mấy người thi đỗ. Một lối trả lời không mấy thỏa đáng, vì thực sự hiện nay, chúng ta không đủ chứng từ để minh chứng rõ ràng. Nhưng, chúng ta biết rằng truyền thống thi cử nước ta có cho phép các quan tiến cử những hiền tài xét ra có công trạng, hoặc nổi tiếng về văn chưong để vua xét bổ nhiệm vào các chức vụ giảng dạy, hay chờ đợi để dự các kỳ thi tiến sĩ, mà không cần có cử nhân.

Từ đó, ân duệ đó được áp dụng cho các con trai các công thần có uy tín trong triều đình, và cũng có thể áp dụng điều đó cho các gia đình trong hoàng tộc.

Và theo Langlet: Từ năm 1822 đến năm 1860, ông phát hiện ra 20 người thi đỗ cấp cao mà chưa bao giờ có thi đỗ ở các địa phương. (15)

Vì vậy, Thành phần thi đậu đều là người dân giả thôi. Người dân giả thì đa số lại không mấy khấm khá, vì thiên nhiên thời tiết có khắc nghiệt. Con đường tiến thân hợp lý hơn cả vẫn là cử nghiệp. Điều này còn đúng và kéo dài mãi cho đến thời Đệ nhị Cộng hòa mà không ở bất cứ tỉnh nào có mức độ ham học, ham mảnh bằng cho bằng xứ Huế.

— Mỗi mùa thi, học trò mang sách ngồi dưới cột đèn để học cho thấy họ nhìn tương lai họ ở chỗ nào. Cái hãnh tiến về xứ sở, cũng như hãnh tiến về truyền thống văn hóa cũng làm cho việc thi cử trở thành niềm trăn trở thao thức, niềm khát vọng cho mọi người. Mùa thi cử là mùa của hy vọng, của khát vọng vươn lên, vừa nuối tiếc, vừa muốn thoát ly ra khỏi khung trời dù là tình nồng, ấm áp, nhưng lại quá chật hẹp, không dung chứa nỗi những hoài bão của mình.

Cũng vì vậy, không biết bao nhiêu nhân tài, bao nhiêu chất xám mà cả nước không nơi nào có thể so đo với miền Trung đã lần lượt đội nón ra đi. Họ đi rồi vẫn ngoảnh mặt lại nuối tiếc về Huế, về cái gíó Lào, về những ruộng rau sống khô cằn đắng ngắt vì thiếu nước, giống như người dân ở đó. Huế đúng là để đi và rồi để nhớ. Ngay những người từ phương xa tới khi nghĩ tới, lúc rời khỏi Huế khó có thể quên được. Trong khi đi về các tỉnh phía Nam ăn uống, vui nhậu nhẹt, thoải mái cười đùa, ngày mai ra bến xe đò là quên hết.

Nhưng cũng cần phân biệt ở miền Trung giữa các tỉnh phía Bắc và phía Nam. Các tỉnh phía Bắc ti lệ thi đỗ cao nhất trong vùng. — các tỉnh Bình Thuận đến Quản Nam, số người đỗ đạt tổng cộng là 252 người… (16) Quảng Ngãi và Bình định số người thi đỗ từ đời Gia Long đến Tự Dức tăng từ 4 lên đến 85 người. Nhất là trong tỉnh Quảng Nam, dân giàu vì có mỏ vàng, tỉ lệ cao so với các tinh khác… — các tinh Bình Thuận đến Quảng Nam, số người đỗ đạt tổng cộng là 252 người. từ 7 lên 62, rồi 87. Đã hẳn, triều đình Huế có đủ các lý do về chính trị, kinh tế, văn hóa để lo ngại về dấu vết ảnh hưởng của văn minh Chàm, cũng như những ám ảnh về một quá khứ của Tây sơn đã hẳn còn in đặm trong lòng một số người, mà thời gian chưa đủ để xóa nhòa. Vả lại nếu đặt để bên cạnh nhau về một hình ảnh Tây sơn mới đây và hình ảnh Gia Long hiện nay, cái tâm lý thông thường cho thấy người dân sẽ ngả về phía nào.. Nhưng dù thế nào đi nữa, thì cái công xây dựng thủ đô, cái hệ thống triều đình, quan lại mỗi ngày một vững bền, với thời gian, lòng người cũng sẽ lóng lại, thì từ nay, mảnh đất này cũng sẽ trở thành một thủ đô văn hóa như đất Thăng Long vậy.

Nhưng chúng tôi cũng xin đưa ra ở đây một nhận xét là, không hiểu vì lý do gì, tất cả 3 trung tâm lớn là Hànội, Huế, Saìgòn lại có tỷ lệ thi đỗ thấp hơn những vùng biên trấn. Chẳng hạn như trong Nam thì tỉnh Gia Định và Biên hoà có tỉ lệ những người đỗ đạt cao nhất vùng.. Riêng tỉnh Gia Định, tổng số người đỗ đạt nhiều hơn 5 tỉnh kia cộng lại. — Huế, chúng ta nhận thấy số người đỗ đạt giảm sút kể từ sau giai đọan 1819, nhất là vào khoảng giữa thời Minh Mạng và cứ như thế, ổn định ở mức thấp cho đến 1852.

Tỉ Lệ Thi Đỗ Tại Bắc Kỳ.

— ngoài Bắc, thì số người đỗ đạt tập trung nhiều nhất ở 14 biên trấn quanh Hànội mà cái trục chính là Sơn Tây, Hải Dương và đặc biệt là Nam Định. — tỉnh Nam định thì đặc biệt là vùng Hành Thiện đã phá kỷ lục về số người đỗ với 73 người từ năm Gia Long 1813 cho đến lúc chấm dứt thi cử 1918. Nghiã là tròn 100 năm.

Xã Hành Thiện, tỉnh Nam Định.

Trong bài này, chúng tôi thấy phải dành riêng một phần để nói về xã Hành Thiện. Xã Hành Thiện thuộc huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định. Xã có 18 (Giông). Giông là tiếng địa phương để chỉ những con đường, hai bên có nhà cửa. Đó cũng là lối tổ chức nhà cửa xây cất có thứ tự của làng Hành Thiện. Trong QTHKL tôi thấy mãi đến năm Gia Long 1813 (Gia Long lên ngôi 1802), mới có Nguyễn trọng Trù là người đầu tiên thi đậu. Sau đến năm 1821 có 2 người em của Nguyễn Trọng Trù đậu cùng khoa. Và cũng kể từ đó liên tiếp các khoa thi đều có người của làng Hành Thiện thi đậu.

Trong số những người thi đậu này, có nhiều trường hợp đáng nêu ra ở đây. Thứ nhất là dòng họ Đặng có 39 người thi đậu. Có người đỗ Phó Bảng như Đặng Đức Địch sau làm đến Thượng thư Bộ Lễ. Có người đỗ Tiến sĩ như Đặng xuân Bảng (Tự Đức 1850. hay Đặng hữu Dương (Thành Thái 1891). Có trưòng hợp cả dòng họ, ông, cha con cháu, anh em đều thi đậu. Tỉ dụ Gia đình Đặng hữu Dương (Ông cháu, anh em cùng thi đậu,) Gia đình Đặng văn Độ, cả 3 anh em đều thi đỗ., Gia đình Đặng vũ Mẫn cũng 3 anh em cùng thi đậu. Đặc biệt gia đình Đặng vũ Phong Cha con cùng thi đậu, anh em đậu cùng khoa. Con là Đặng văn Tường, anh Đặng vũ Oánh, cháu Đặng vũ Uyển, em họ Đặng vũ Thực, Đặng cao Chi, Đặng vũ Hoan. Thật là vinh hạnh hết chỗ nói.Thật khó mà hiểu tại sao có một dòng họ đỗ đạt nhiều như vậy. (17)

Huyện Xuân Thủy (sau đổi là Giao Thuỷ) gồm nhiều xã, xã nào giỏi lắm thì có độ 3, 4 người thi đỗ như Trà Lũ, Kiên lao. Hoặc chỉ có một người thi đỗ trong suốt 100 năm như các xã Hội Kê, Hộ Xã, Lạc Nam vv… Tôi cũng nhận thấy một số làng, khá nổi tiếng về mặt này, mặt kia như làng Ngọc Cục, đối diện với Hành Thiện hay làng Trung Lao, Sở Kiện, Hoàng Nguyên hay làng Cự Đà, vậy mà trong suốt hơn 100 năm triều Nguyễn, không có một người nào trong các làng này có người thi đỗ.. (Xứ Trung Lao sau này có cụ Thượng Nhạ, nhưng tìm lại danh sách các người thi đậu thì không có tên cụ. Tôi giả đóan là cụ thuộc lớp nho học, bắt đầu có học Tây học, rồi được người Pháp nâng đỡ cho chức Thượng mà không phải thi cử gì cả, cũng giống như trường hợp các cụ Thượng Oánh, Thượng Bùi. Cái câu trong nhân gian nói về cụ là; Lý trưỏng bất túc, Tổng đốc hữu dư có thể giải thích được phần nào cái chức Thượng của cụ.

Do sự tò mò mà chúng tôi khám phá ra một đìều hết sức lý thú và quan trọng là suốt hơn trăm năm thi cử dưới triều Nguyễn, Hơn 50 chục làng công giáo mà chúng tôi biết được thì hầu như trong tất cả các làng đó đều không có người nào thi đỗ làm quan. Thoạt đầu, chúng tôi xem xét các làng chung quanh làng Hành Thiện để xem có người thi đỗ không, từ đó suy diễn ra cái tầm ảnh hưởng của Hành Thiện trên các làng lân cận. Về địa lý, làng Ngọc Cục chỉ cách một con sông với Hành Thiện, vậy mà không có lấy một người thi đậu suốt dọc dài hơn 100 năm. Một điều thật khó hiểu. Từ đó suy ra các làng công giáo khác. Kết quả thật ngạc nhiên: Hầu như không có làng công giáo nào cả. Những làng công giáo nổi tiếng như Phát Diệm, Sở Kiện, Trung Lao, Phúc Nhạc, Thạch Bích, Trung đồng,An Lộc, Bói kênh, Bình Cách, Lưu Phương Mưỡu Giáp vv Và rất nhiều xứ khác không cần kể ra đều không có ai thi đỗ và ra làm quan.

Từ những dữ kiện thu lượm đụợc ở trên, tôi suy diễn ra là có một chính sách ngăn cấm, hay tối thiểu thì cũng có giới hạn không cho phép người công giáo có cơ hội để đi thi. Cơ hội học thì có, nhưng không có cơ hội để thi.. mà không thi thì việc học sẽ rất hạn chế.

Cho mãi đến Thành Thái 1894 mới thấy có ông Vũ Luyện, người làng Quần Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định là một làng thuần công giáo có người thi đậu. Và đến năm1900, lại có người ở làng Quần Phương thi đậu. Nhưng năm 1900 là những năm cuối trào về thi cử và niên hiệu Thành Thái cũng cho thấy đó là giai đọan cởi mở hơn về chính sách cấm đạo.

Có những liên hệ gì cho phép chúng ta đi đến một kết luận là chính sách cấm đạo đã là nguyên do, trong dó gần 100 năm, người công giáo và các làng công giáo trở thành một loại công dân hạng nhì, vì không có cơ hội tiến thân về con đường học vấn, đóng góp nhân tài cho xứ sở. Nhưng cho đến nay, tôi không tìm thấy bất cứ văn bản chính thức nào giúp chúng ta có thể khẳng định dứt khoát là có một chính sách ngăn cản người công giáo thi cử. Trong sách vở về phía công giáo, tôi cũng chưa có cơ hội đọc hoặc nghe những cơ quan thẩm quyền xác định về điều này. Vậy thì, tất cả chỉ là những suy đoán mà thôi. Nhưng cái vấn đề các làng công giáo không có người thi đậu vẫn là một thực thể không chối cãi được và tự nó đòi hỏi có câu giải đáp.

Trở lại trường hợp làng Hành Thiện, làm sao cắt nghĩa được vào năm Thành Thái thứ 6 (1894), Trường Hà Nam có 9700 dự thi, lấy 60 ngùời đỗ, làng Hành Thiện chiếm 6 chỗ, 54 chỗ còn lại dành cho khoảng hơn 400 xã khác. Làm sao giải thích được sự kiện có làng thi đỗ có làng không Một giải thích dễ dãi, thiếu cơ sở khoa học là nói đến đất, đến có mả, hoặc văn hoa hơn gọi là đất ngàn năm văn vật. Cần tìm một lối giải chứng có cơ sở và khả tín hơn.

Có những giai thoại nghe ra có vẻ khinh bạc, nhưng cũng chứng tỏ một phần sự thật về vùng này, Người Hà nội có thói quen khá kiêu sa là thay vị gọi tên một người, họ lại gọi chức vị xã hội của người đó. Chẳng hạn cụ Tham Bảng, ông Đốc Ninh, Ông Phủ Dõan vvv. Xem Hồi Ký của Vũ Ngọc Phan, cuốn Những năm tháng ấy. (18)

Và nếu có một người khách nào đó về làng Hành Thiện, theo thói quen, hỏi thăm nhà cụ tham, cụ phó vv. Người dân làng sẽ trả lời là ở đây cụ tham, cụ cử nhiều như lợn con, hỏi thế biết đường nào mà lần.

Giải thích về con số đỗ đạt ở vùng này vì dù sao đất Bắc từ xưa tới nay, vẫn là cái nôi, của văn hoá và trí tuệ của cả nước. Nó có truyền thống lâu đời về việc học. Số trường học, cũng như trung tâm thì cũng nhiều hơn các nơi khác Một trường cho 6000 người ứng thi. — các vùng như Sơn Tây Hải Dương, Bắc Ninh thì khoảng 3000 người ứng thi cho một trường. Cái nọ nó kéo cái kia; truyền thống, tổ chức trường ốc, truyền thống địa phương, gia đình, họ hàng, sự giao tiếp cách này cách khác, trực tiếp hay gián tiếp, hoặc được nghe nói về đã là những cơ hội giúp những kẻ hậu sinh cố gắng vươn lên theo những mô hình lý tưởng khuôn mẫu là các bậc đàn anh.

Cách giải thích đúng lý nhất là TINH THÂN GIA TỘC, giáo dục gia đình bằng gương sáng cha anh đỗ đạt, mô hình lý tưởng là cha anh được mọi người kính trọng, được hưởng lợi lộc quan tước của trều đình. Lấy trường hợp họ Đặng sẽ giúp giải thích được yếu tố gia đình có tác dụng quan trọng thế nào cho việc thi đỗ của một người. Chúng tôi nhận thấy trong thời kỳ Gia Long đến năm 1825, tỉ lệ dòng họ Đặng thi đỗ so với các họ khác tại Hành Thiện 2 trên 6 sau đó 1850 là 8 trên 9, 1906 thì trội vượt là 36 trên 32 và cuối cùng là 39 trên 34, Riêng đời Thành Thái 1897, dòng họ Đặng có 6 người đỗ trong một khoa, kết quả đó cũng lặp lại một lần nữa vào năm 1903. Biểu đồ giúp ta hiểu chính xác truyền thống gia đình, cha truyền con nối, trong cùng gia đình, cùng dòng họ, có nhiều người thi đỗ. Sự trội vượt của họ Đặng cắt nghĩa bởi họ cùng huyết thống. Các họ Nguyễn, Trần, Phạm trong làng Hành Thiện chưa chắc đã cùng chung huyết thống nên đường dài sẽ thua sút họ Đặng. Điều đó xét ra cũng đúng một phần nào cho trường hợp người Việt Nam ở hải ngoại, đặc biệt là Montréal, mà một số đông con cái các gia đình đã thành công trong việc học.

Tỉ Lệ Thi Đỗ — Các Vùng Cao.

Cũng dựa trên những con số để nhìn về những vùng cao mà đa số là thanh phần các dân tộc thiểu số cho thấy tỉ lệ những người thi đỗ thật là ít ỏi. 6 tỉnh vùng này chỉ cống hiến được có 3 người thi đỗ, và đều thuộc những tỉnh huyện như Quảng Yên và Hưng Hóa rất gần với các tỉnh vùng đồng bằng. Điều đó cho thấy, thiếu một chính sách nâng đỡ cũng như tổ chức trường học giúp cho các tỉnh vùng cao có cơ hội nhập vào đời sống của miền dưới. Cho nên đồng bào các dân tộc thiểu số sau nhiều thế kỷ vẫn là những tỉnh bên lề như người nước ngoài ngay trên mảnh đất mà không biết tự bao đời họ vẫn tồn tại, mặc dầu có những đổi thay lớn nhỏ có tầm vóc lịch sử có liên quan đến sự sống còn của người dân ở các vùng dưới. Phần họ, họ vẫn là họ, Muôn đời.

Cũng qua những con số về những người thi đậu qua các triều vua, cũng như một cái nhìn lướt qua về các vùng có người thi đậu… Chúng tôi thấy rằng cái vấn đề lớn và quan trọng nhất không hẳn ở chỗ xem ai đậu, đậu ở đâu mà là nhìn ý nghĩa việc thi cử thời xưa qua những người không may mắn, khác đi là những người thi rớt.

Về những Người Không Đậu.

Trong tất cả những cuốn sách về thi cử mà chúng tôi đọc, không có một chỗ nào cho người không đậu (Tôi không dùng từ thi rớt) hay chỉ đậu tú tài. Đối với việc thi cử thời xưa, tú tài không có nghĩa là bằng cấp, và không được triều đình sử dụng. Người đỗ tú tài chỉ là những người không đỗ cử nhân, nghĩa là không đậu đủ 4 trưòng, mà chỉ đỗ có ba trường mà thôi.

Sách Quốc triều hương khoa lục của cụ Cao xuân Dục chỉ nói tới những người đỗ cử nhân thôi, LTHCLC của Phan huy Chú lại chỉ có danh sách các người đậu tiến sĩ từ khi bắt đầu các khoa thi.

Vậy mà cái thành phần chủ yếu của giai cấp nho sĩ lại là các nhà nho không đỗ đạt gì, hoặc chỉ là tú tài. Họ làm đủ thứ nghề như thầy lang, thày địa lý, cho đến cả bói toán cũng như gia sư cho các nhà giầu có. Nhưng cái thành phần đông đảo của họ vẫn là các ông đồ nho mà trong làng, huyện tỉnh nào cũng cần sự có mặt của họ.. Đã thế, trong mỗi làng đều cần đến những người có học, nên họ giúp một phần đắc lực cho các ông lý trưỏng, chánh tổng vv.. Sự có mặt của họ đôi khi còn là biểu tượng cho giềng mối luân lý, phong tục, nề nếp trong làng. Có thể nói không có nho học, nếu không có những người đại diện là các cụ đồ nho. Họ là biểu tượng cho lề luật, nếp sống, nếp suy nghĩ của dân làng. Không có luật lệ thành văn, nhưng qua giới nhà nho mà nề nếp, phong tục, đời sống xa hội được tôn trọng, được duy trì. Đời sống của họ là tấm gương từ đó phát huy những giá trị đạo đức.

Lấy trường hợp nhà nho Nguyễn Đức Đạt, 50 tuổi về hưu, mở trường dạy học, học trò có cả ngàn. Những môn sinh của ông có người đỗ đạt như Hoàng Cao Khải làm quan đến kinh lược Bắc Kỳ, hay cụ Cao xuân Dục, làm đến Lễ Bộ thương thư, thi sĩ Nguyễn Khuyến làm đến Tổng Đốc Sơn, Hưng Tuyên mà khi đến hầu thầy vẫn giữ lễ thầy trò. Khi ông ra thăm Thăng Long, Hoàng Cao Khải ra lệnh cho tuần phủ Ninh Bình vào tận Đồng Giao đón ông. Khi võng ông đến Thường Tín. HCK và CXD ra nghênh tiếp, đi bộ theo sau, có đủ mặt các quan đầu tỉnh Bắc Kỳ đến bái kiến. (19)

Điều đó chỉ ra rằng, vai trò nhà nho là yếu tố quyết định hình thành nếp sống, nếp suy nghĩ của người dân.

Họ phần đông sống nhẫn nhục, đạm bạc và túng thiếu, cố gìn giữ cái danh phận, dù cơ cực, nghèo túng và sống bất đắc chí đứng ở giữa giai cấp nông dân nghèo đói, ít học mà họ là đại diện và giới quan lại, nhà vua. Họ dễ có cái khả năng nhạy cảm để thấy được những sai trái, những những áp bức của giới cầm quyền. Nhưng họ cũng cảm nhận được sự bất lực của mình trước chính bản thân họ, và trưóc hoàn cảnh đất nước. Bi kịch của họ là bi kịch của những người có học, nhưng lại không đảm đương bất cứ một vai trò gì để có thể giải hoá những khó khăn của đất nước mà họ cảm thức được sự bất lực và sự vô hiệu của triều đình.

Họ là cái thành phần đông đảo, bất đắc chí là các ông đồ nho. Họ có bao nhiêu. Vào đời Gia Long (Theo ĐNNTC), họ có 643.706. Thời Minh Mạng, có 770.798. Thời Thiệu Trị 974.786. Thời Tự Đức chỉ còn 885.517 người. Với một số đông đảo như thế mà chẳng có mấy người có được chức vị cao trong triều đình. Sang đến thời Tự Đức bắt đầu có sự suy thoái dần, ảnh hưởng sang Tây học.

Ngày nay, nhìn lại cái lối tuyển chọn quá khắc nghiệt làm hao tổn không biết bao nhân tài, không biết dùng và sử dụng người, bóp nghẹt các sĩ phu. Tỉ như dưới triều Nguyễn chỉ có tối đa là 7 trường thi, không hơn gì số trường thi ở miền Bắc trước đó dưới thời các Chúa Trịnh nắm quyền. Chẳng hạn khi Nguyễn Trường Tộ dâng bản điều trần, nhà vua không lý đến những đề nghị của ông, chỉ phán: Cho y một chức quan nhỏ để thưởng cho y. Thật là khinh miệt kẻ sĩ, vì Nguyễn Trưòng Tộ, khi dâng bản điều trần thì đã hẳn đâu có cầu cạnh quan tước gì.

Về việc thi cử thì trước thế nào sau như vậy. Vì thế cuốn Lều Chõng là Một bản án, phê bình cái học cổ hủ, giáo điều. Vân Hạc là hình ảnh một người trí thức có tài, nhưng thi cử lận đận, thông minh và có lương tri, nhưng không ai dùng. Đó không phải là số phận. Đó là thân phận người trí thức   mà đại diện là tầng lớp nho sĩ. Tất cả là một sự xa hoa, xài phí chất xám vô ích. Cái bi kịch người trí thức này chấm dứt với hai cái chết tuẫn tiết của Phan Thanh Giản, (Cụ PTG là người đỗ đạt đại khoa đầu tiên của xứ Nam kỳ, đậu tiến sĩ năm 1826.) trong Nam và Hoàng Diệu, ngoài Bắc. Hai cái chết đó tiêu biểu cho sự cáo chung, sự bất lực của tầng lớp nho sĩ. Cái chết đó nêu gương khí tiết, nhưng nó cũng chỉ ra rằng thời của nho gia không còn lý do tồn tại nữa.

Về Việc Tổ Chức Thi Cử

Về tổ chức thi cử nói chung thì phải nói là thập phần chặt chẽ, tỉ mỉ, chi ly từng chi tiết, không thiếu xót một chi tiết nào, nhằm bảo đảm sự công bằng, tránh gian lận, cho thấy nhà vua coi việc thi cử như một QUỐC SÁCH của cả nước. Chỉ xin viện dẫn một vài chi tiết sẽ cho thấy rõ điều đó. Các quan đề điệu, giám thi, thừa sứ, tham nghị, giám khảo, phúc khảo đều có tiêu chuẩn về nhà cửa ăn uống riêng… Lấy trường hợp quan đề điệu mỗi ngày được gạo 7 bát và nưóc mắm, rưọu, trứng, muối, chè, gừng, củi, cộng chung giá tiền là 42 đồng. Nhưng đến quan đồng khảo thì gạo chỉ còn có ba bát thôi. Cái này thì kể ra khá bất công. Quan nào thì cũng cần ăn cho no mới làm việc đưọc. Sự khác biệt giữa 7 bát và 3 bát là sự khác biệt căn cứ trên chức vị hơn là trên nhu cầu.. Nói chi đến bọn binh lính và người theo hầu của các quan.

Lấy trường hợp quan giám thị thì đưọc cung cấp giường, phên nứa, cây đèn, dao quai, dao to, rổ rá, mâm và chậu gỗ sơn vẽ đều mỗi thứ mỗi cái, chiếu tốt một đôi, chiếu thường một đôi (quá thừa thãi, lãng phí của công), dầu 2 chĩnh, bấc đèn một bó, nồi đất 3 cái, chum lớn, chum nhỏ mỗi thứ 2 cái, bát dĩa mỗi thứ 15 cái. Cứ như thế, tuỳ theo chức vị mà có sự gia giảm số lượng. Chẳng hạn quan đồng giám khảo chỉ còn được hưởng 10 bát đĩã, chum lớm chum nhỏ chỉ còn mỗi thứ 2 cái. (20)

Đọc phần này của Khoa mục chí, cái nhận xét của chúng tôi là cảm phục cái người đứng ra tổ chức, phân phối đồ vật chi dùng của các quan, Từng chi tiết phải được tôn trọng, không được thiếu xót vì có trong điều lệ. Thiếu một chút cũng không được sẽ có so bì hơn kém. Đã vậy, lấy đâu ra tiền bạc, vật liệu để chi dùng. Các ty thừa hiến lại gõ đầu các quan huyện, châu trong hạt. Lại từng chi tiết rất chi ly. Xã phường lớn 2 quan 75 bát gạo. Xã phường trung 1 quan 5 tiền quý, 50 bát gạo, xã phường nhỏ 1 quan tiền quý, 35 bát gạo. Riêng các xã biên trấn thì xã lớn 1 quan tiền gián, 20 bát gạo, rồi đến 15 bát gạo và 10 bát gạo cho xã trung và xã nhỏ. Tiếp đến những thể lệ cho ĐÂU THẦU XÂY CẤT trường thi cũng rắc rối hành chánh sự vụ để tránh lạm dụng, lãng phí, tham ô. Tất cả những điều vừa trình bày trên cho thấy một tổ chức hành chánh quy mô, phức tạp mà người điều hành, như quan niệm ngày nay thì ít ra cũng phải tốt nghiệp trường Quốc gia hành chánh hay Chính trị kinh doanh Đà lạt mới đảm đương nổi. Nó còn chỉ cho thấy, để tránh LẠM QUYỀN, Các ty sở liên hệ không được đấu thầu như hai ty thừa hiến, bọn tai mắt, bọn quyền quý, bọn cường hào không được ủy thác đứng ra thu tiền, gây tình trạng lạm thu quá lệ, làm phí của dân. Rồi xã phường nào không đóng góp đủ thì cho phép các quan huyện châu trình lên Phủ Doãn và Hiến ty, XÉT RA LÀ THỰC thì xử phạt phải trả lại Bội Sổ, để trừng phạt. Nhưng học trò xã đó vẫn cho thi. (21)

Trở lại việc thi cử của các triều vua cũ tuy là chu đáo, nhưng cũng có 2 thời kỳ cho thấy việc thi cử đi đến chỗ suy đồi, không còn là nơi kén chọn hiền tài nữa. Đó là từ năm 1750 cho phép đóng tiền thì có quyền đi thi vì thế ai cũng có quyền dự thi, không kể dốt giỏi, nhiều người dốt, nhưng cũng đóng tiền để thi cho có tiếng.

Vì thế người làm ruộng, người đi buôn, cho chí người hàng thịt, người bán vặt cũng đều nộp đơn xin thi cả. Ngày vào thi đông đến nỗi giày xéo lẫn nhau, có người CHẾT ở cửa trường. Trong trường thi, nào mang sách, nào hỏi chữ, nào mượn người thi thay, công nhiên làm bậy, không còn biết phép thi là gì. Những người thực tài, mười phần không đậu một.

Việc thi cử như vậy nên mới có việc bọn sinh đồ 3 quan đầy thiên hạ, người trên lấy tiền mà không ngại, kẻ dưới nộp tiền để đỗ mà không thẹn, làm ra trường thi thành chỗ BUÔN BÁN. (22)

Dưới thời Pháp, việc thi cử thật lem nhem, chỉ còn là việc mua bán, hối lộ mà nguyên do là ở những khoa thi chót, có thêm bài thi Pháp văn, khi lễ xướng danh thì có chức quyền người Pháp tham dự. Nhiều quan chức người Pháp có nhúng tay vào việc thi cử lem nhem này. Việc hối lộ quan chức Pháp thể hiện qua 2 câu thơ sau đây:

Con nên khoa mục cha mòn trán

Em được công danh chị nát đồ.

Đọc hai câu thơ trên, nếu tinh ý một chút thì thấy rằng, đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử thi cử nước ta, việc cậy cục chạy chọt thi cử có thể bằng một con đường khác con đường chạy chọt bằng tiền… Chữ nghĩa trước đây có thể mua bằng tiền thì nay bằng THÂN XÁC người Phụ Nữ cũng như việc thăng quan tiến chức sau này cũng không tránh khỏi thông lệ này. (23)

Trong cuốn Hơn nửa đời hư của cụ Vương Hồng Sển cho thấy các quan chức lớn bé đều có thể mua chuộc bằng sắc đẹp phụ nữ cả. Và chính tác giả vì không chịu đút lót thi cử nên mới không đỗ. Và vì vậy mới có cơ hội để ông viết cuốn Hơn nửa đời hư. Ông kết luận: Cám ơn đã được thi rớt.

Sách đọc:

Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến Chương lọai chí. Phần Khoa mục chí.

Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ. Tập 7. Biên soạn : Nội các triều Nguyễn.

Cao Xuân Dục. Quốc triều Hương khoa Lục

Trần Gia Phụng. Những câu chuyện Việt sử

Đinh Gia Khánh. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam. Thế kỷ X đến XV11

90 năm nghiên cứu về văn hoá và lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội

Ngô tất Tố, Lều chõng.

Sơn Nam : Đồng bằng sông Cửu Long, Đất Gia Định xưa, Bến Nghé xưa

Vương Hồng Sển. Nửa đời hư.

Trần văn Giáp. Nhà sử học.

Vũ Ngọc Phan. Những năm tháng ấy.

Hợp Lưu. Số đặc biệt về Giáo sư Hoàng Xuân Hãn.

Hợp Lưu. số đặc biệt về Phan Khôi.

Đỗ Bằng Đoàn. Đỗ trọng Huề, Khoa cử Việt Nam.

(1) Phan huy Chú, Lịch Triều hiến chương, phần Khoa mục Chí tr149.

(2) Đinh Gia Khánh, Hợp tuyển thi văn Việt Nam tr 15..

(3) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí

(4) Trần Gia Phụng. Những câu truyện Việt sử

(5) Phan huy Chú. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (LTHCLC), tr 169

(6) Phan Huy chú LTHCLC. Phàn khoa mục chí. Tr. 160

(7) Phan Huy chú LTHCLC. Phàn khoa mục chí. Tr. 161

(8) Hợp Lưu. Só đặc biệt về học giả Hoàng xuân Hãn.

(9) Đỗ bằng Đoàn và Ông Đỗ trọng Huề: Khoa cử Việt Nam. tr 197.

(10) Sách KĐ, quyển 7, tr. 416

(11) 90 năm nghiên cứi về văn hoá và lịch sử Vietnam. Baì của Langlet. tr. 221

(12) Sơn Nam, Bến nghé xưa. tr. 11-15

(13) Sơn Nam. Đồng Bằng sông Cử u Long. tr 38,40

(14) Sơn Nam, Đất Gia định xưa tr. 71

(15) 90 năm nghiên cứu về văn hoá và lịch Việt Nam. Tr 290.

(16) 90 năm nghiên cứu về văn hoá và lịch sử Việt Nam. Bài của Langlet. tr. 223

(17) Cao xuân Dục, Quốc Triều Hương Khoa Lục.

(18) Theo G.S Tạ Trọng Hiệp, trong cuốn hồi ký cuối đời của ông Vũ ngọc Phan, mà chúng tôi đã đọc, nhưng không thấy được những kẽ hở quan trọng về nhân cách nhà văn như G.S đã nhận ra (G.S. Hiệp đã quá cố). Thời Nhân văn giai phẩm, theo tôi cũng giúp chúng ta có cơ hội thấy đưọc một số trí thức tiểu tư sản hèn như thế nào. Nổi tiếng thì như Thế Lữ. Riêng Thế Lữ thì tôi đã nhận ra ông ngay từ thời T.L.V.Đ. Khi cuốn phóng sự Làm Đĩ ra mắt Ông diễu : Có một người khách vào tiệm sách hỏi cô bán sách : Cô có LÀM ĐĨ không.. Cô bán hàng không vừa Đốp lại. Thưa không, ông lấy một CÁI TÁT nhé! Ông đã vùi dập những người không phải phe nhóm như khi ông phê bình, diễu cuốn Thần Hổ của Tchya. Sau này ông theo C.S, ông đập Phan Khôi cùng với Nguyễn công Hoan.

Riêng Vũ ngọc Phan thì khôn ngoan hơn, ông để gần 100 trang để nói về mối tình với cô Hằng Phương, Hằng Phương là ai. Là con gái Sở Cuồng Lê Dư, người cộng tác làm báo N.P với Phạm Quỳnh. Ông Lê Dư có 3 người con gái đẹp, 1 lấy Vũ Ngọc Phan, 1 lấy tướng Nguyễn Sơn, nổi tiếng ở Thanh Hoá một thời (Xin đọc hồi ký của Phạm Duy), và gái cuối cùng lấy Hoàng văn Chí. Ông Lê Dư lại lấy em gái cụ Phan Khôi. Rắc rối rồi.

Vì vậy, trong hồi ký không nhắc gì đến TÊN bố vợ.., đến ngày tháng năm sinh, người ta cũng cố tình quên khi cần phải viết về tiểu sử Lê Dư.. Tên ông ngoại của bố vợ là cụ Phan Trân thì lại cố tình viết trẹo ra là cụ Phan Trần. Kỹ quá. Mà cũng tội nghiệp cho họ.

(19) Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề: Khoa cử Việt Nam tr.27.

(20) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí. Tr. 181

(21) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí. Tr. 177

(22) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí. Tr. 174

(23) Vương Hồng Sển. Hơn nữa đời hư. Tr. 299


 

Đoàn Văn Báu: Hộ pháp hay người áp giải Thầy Minh Tuệ?

Ba’o Tieng Dan

RFA

Gió Bấc

19-12-2024

Ảnh minh họa. Nguồn: RFA/ Bom Nổ Chậm

Sau một tuần lễ kể từ ngày Thầy Minh Tuệ bộ hành về đất Phật, những diễn biến thực tế mâu thuẫn đã buộc người ta tự hỏi Đoàn Văn Báu là ai? Là doanh nhân tự nguyện phát tâm đồng hành làm hộ pháp hỗ trợ Thầy như lời ông ta nói? Hay đang là đồng chí nguyên thượng tá an ninh, tiến sĩ tâm lý tội phạm học, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện nhiệm vụ áp giải Thầy theo cách im ả nhất đến Himalaya ẩn tu theo kế hoạch của ai đó?

Cần nhớ bốn năm qua, Sư Minh Tuệ từng bốn lần độc hành xuyên Việt, không giấy tờ tùy thân, không có ai bảo vệ nhưng vẫn an toàn. Hành trình về đất Phật của Sư đi qua Lào, Thái, Myanmar, Nepal, là những quốc gia Phật giáo được tôn kính như quốc giáo, vậy tại sao phải được bảo vệ kín kẽ như vậy?

Trước hết xin gọi Ngài Minh Tuệ là Thầy, một danh xưng kính trọng phổ quát. Không dám gọi là Sư vì e sẽ làm phiền đến các đồng chí quan chức giáo hội quốc doanh không cho phép xem Thầy là tu sĩ.

Nhìn lại những diễn biến dồn dập đuổi theo bước chân, số phận Thầy Minh Tuệ trong năm qua, dễ thấy rằng luật vô thường của Phật Pháp đã thể hiện rõ trong từng sát na.

Khi cộng đồng mạng xã hội phát hiện dẫn đến thông tin bùng nổ, Thầy được hàng triệu người ngưỡng mộ. Tu sĩ độc hành không thuyết giảng mà thu hút thành “tăng đoàn” cuồn cuộn như thác lũ trên đường thiên lý dọc các tỉnh thành. Đang lúc cao trào, Phật tử xứ Huế kính ngưỡng, bỗng nhiên có phép màu nào đó giữa đêm, Thầy mất tích, “tăng đoàn” tan tác, người Bắc người Nam. Dư luận hoang mang thắc mắc, Thầy lại hiện hình được công an “hỗ trợ” làm căn cước công dân, lên sóng truyền hình rồi lại mất tích, ẩn tu rồi bộ hành khất thực khi núi Sạn Nha Trang, khi ở Gia Lai.

Dù Thầy ẩn ở đâu, sức thu hút Phật tử, công chúng vẫn rất mạnh mẽ, họ vẫn săn lùng, quy tập về chực chờ được chiêm bái và luôn được bảo vệ chặt chẽ, nghiêm mật. Trú xứ của Thầy cũng được an ninh hóa đến mức đài truyền hình quốc gia cũng phải dùng thủ thuật để khán giả không nhận diện ra. Ý nguyện chân chính đơn giản nhất của Thầy là bộ hành khất thực trở thành vô vọng vì lý do sẽ gây tụ tập đông người, làm mất an ninh trật tự.

Thật đáng tiếc cho một đất nước đang vươn mình vào kỷ nguyên mới, lần thứ ba đăng ký vào hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc, lần thứ ba đăng cai tổ chức Vesak Phật Đản Liên Hiệp Quốc mà tâm nguyện nhỏ nhoi của cá nhân công dân tu theo hạnh đầu đà tốt đẹp lại không thực hiện được.

Một đảng quang vinh bách chiến bách thắng, một nhà nước do dân, vì dân lại không thể tạo điều kiện cho một khất sĩ tu hành theo cách khổ hạnh cao nhất.

Nhà nước không ngại tốn kém, cho phá rừng xây chùa Bái Đính, chùa hàng trăm, hàng ngàn hecta, quy tụ hàng chục, hàng trăm ngàn người khắp nơi trên thế giới tụ về lễ lạc cúng bái linh đình nhưng lại không đủ sức giữ gìn trật tự trị an cho một khất sĩ đi xin ăn mỗi ngày một bữa. Phải chăng người ta e ngại phẩm hạnh buông bỏ, giác ngộ sáng ngời của vị chân tu sẽ làm tan rã tấm bình phong tự do tôn giáo đang che chắn cho đội ngũ ma tăng cổ súy cho tà thuyết cúng dường?

Ấy vậy mà Thầy Minh Tuệ bỗng dưng được lỏng tay, bộ hành về Ấn Độ với sự bảo vệ, hỗ trợ của một số cá nhân tự nguyện. Trong tâm thư viết tay, Thầy Minh Tuệ chỉ cầu mong sự giúp đỡ về thông tin, thủ tục giấy tờ, mọi thứ còn lại Thầy đều tự lực với phát tâm mạnh mẽ: “Nếu có ai không đồng ý hay phản đối, gây khó khăn, hay cấm đoán, bắt bớ hay ép buộc, hay thủ tiêu, hay bắt buộc phải bỏ hạnh nguyên, hay tước đoạt mạng sống, hay nhận bản án tử hình. Con đều hoan hỉ đón nhận và không kiện cáo gì và đều ước nguyện cho họ hạnh phúc…”

Thông tin chấn động ấy làm nức lòng hàng vạn trái tim. Những “đệ tử” trong tăng đoàn ngày trước, những người yêu kính Phật và đức hạnh của Thầy đã phát tâm xin đồng hành. Doanh nhân, nguyên thượng tá an ninh Đoàn Văn Báu đã bất ngờ xuất hiện tự nguyện tham gia như ngôi sao sáng trong vai trò người hỗ trợ về thủ tục pháp lý, hướng dẫn đường đi… tóm lại là vai trò Hộ Pháp.

Trước khi xuất phát, dư luận đa số đồng tình nhưng không ít ý kiến băn khoăn lo ngại về lai lịch ông Báu, ông thật sự phát tâm hay tham gia theo sự phân công của Sư? Ông đã lên mạng live stream trần tình lật ngửa bài mình là thượng tá công an đã về hưu 3 năm, đang sinh hoạt đảng ở địa phương và tuyên bố chắc nịch sẽ làm những điều tốt đẹp theo tâm nguyện Thầy Minh Tuệ. Nhiều người, trong đó có tôi, đã bị thuyết phục trước lời trần tình này.

Một tuần lễ bộ hành trôi qua, diễn biến thực tế chuyến đi đã đủ cơ sở trả lời những băn khoăn về ông Báu.

Trước hết, về nguyên tắc đảng, cái tội lớn nhất, đáng sợ nhất của đảng viên cộng sản là tự chuyển biến, tự chuyển hóa chính trị, vi phạm những điều cấm đảng viên không được làm. Trong những điều cấm ấy, quan trọng nhất là làm trái chủ trương, chính sách đảng, nhà nước. Vậy chủ trương của đảng và nhà nước về chuyện Thầy Minh Tuệ bộ hành đi Ấn Độ ra sao? Câu trả lời là 800 tờ báo lề phải không đăng 1 chữ nào. Trên mạng xã hội, các trang “bò đỏ”, dư luận viên tha hồ đơm đặt chỉ trích. Điều ấy cho thấy đảng không muốn cho công chúng biết về chuyến đi, và nếu có biết thì phải biết những điều xấu xa đơm đặt.

Như vậy đã rõ, ông Báu hoặc đã tự nguyện hộ pháp cho Thầy Minh Tuệ trái với chủ trương của đảng, hoặc đang thực hiện một nhiệm vụ được đảng phân công.

Diễn biến cho thấy, ông Báu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Mượn vai Hộ Pháp cho Thầy Minh Tuệ, nhưng thực chất ông Báu đang áp giải Thầy Minh Tuệ đến nơi nào đó theo ý đảng và hạn chế tối đa tiếng vang của chuyến đi, cũng như tên tuổi, hình ảnh phẩm hạnh của Thầy Minh Tuệ.

Nhân danh làm thủ tục pháp lý và quan hệ với các nước sở tại, ông Báu đã hạn chế số lượng người tham gia bộ hành đến mức thấp nhất. Quan niệm từ bi của Thầy Minh Tuệ trước sau như một là không mời ai tham gia, cũng không chối bỏ bất cứ ai tự nguyện, miễn là mọi thứ tốt đẹp. Nước Lào chưa bao giờ có quy định hạn ngạch số người Việt nhập cảnh vào Lào hay số lượng người được đi thành đoàn trên đường. Thế nhưng, cho rằng có thỏa thuận nào đó với cơ quan chức năng của Lào, ông Báu đã từ chối nhiều nhóm người Việt tham gia, ngay cả những người đã xuất cảnh hợp pháp sang Lào như nhóm của chức sắc Phật Giáo Hòa Hảo Phước Nghiêm, dù ông này đã từng phát tâm đồng hành với Thầy Minh Tuệ ngay ở Gia Lai. (1)

Ngày 14-12, ông Báu độc đoán loại trừ Sư Hộ Pháp Kim Cang và một Sư khác vì lý do đông người. Mượn tay an ninh Lào cưỡng ép Sư Kim Cang lên xe, ngăn không cho gặp Sư Minh Tuệ. Đến ngày 18-12, Báu lại gọi điện cho ông Tuấn (anh Thầy Minh Tuệ) yêu cầu cho ông Quý và một số Sư nhỏ sang Lào tham gia đoàn. Ông Tuấn đề nghị cho Đông, một youtuber thân ông Tuấn, nhưng Báu không chấp nhận. Có người thân cận ông Báu giải thích rằng Quý có sức khỏe, kinh nghiệm làm hộ pháp cho Thầy Minh Tuệ khi bộ hành ở Gia Lai. Cách giải thích này không thỏa đáng. Sư Kim Cang dù nói năng lỗ mãng nhưng thể lực tốt đã từng bảo vệ Thầy Minh Tuệ trên cung đường xuyên Việt hàng trăm cây số, trước áp lực đám đông hàng chục ngàn người. Ông Quý nếu có tham gia chỉ là trên cung đường ngắn thôn làng, số người hâm mộ cũng không đông lắm. Sư Kim Cang đến Lào hợp pháp lại bị đuổi về, ngược lại ông Quý đang ở Việt Nam chưa đủ giấy tờ lại được mời sang.

Về thông tin, trong văn bản thông báo của công ty Thiên Định Tuệ công bố trên website của công ty trước chuyến đi đã xác định các youtuber, fbker, tự do quay phim chụp ảnh đoàn bộ hành và phải chịu trách nhiệm việc làm của mình. Phải thừa nhận rằng trong sự kiện Thầy Minh Tuệ bộ hành trước đây, vai trò, công lao của các youtuber rất lớn. Tuy có người quá khích, qua đáng xông vào chỗ các Thầy nghỉ ngơi, lúc riêng tư, nhưng trong bối cảnh cạnh tranh, các youtuber đã tường thuật chi tiết từng bước đi, phát hiện phản ánh từng chi tiết diễn biến các thành viên trong đoàn và sự kiện liên quan.

Công bằng mà nói, chính họ cũng là người phát hiện, phản ánh, đấu tranh vạch mặt những Sư giả, những nhóm người lợi dụng ăn theo tiếng tăm tăng đoàn Thầy Minh Tuệ. Thế nhưng, từ khi xuất phát đến nay, Báu không cho phép bất kỳ một youtuber nào tham gia đoàn, thậm chí là đi sau ở phía xa cũng không được. Tất cả các kênh youtuber khác đều phải sử dụng hình ảnh từ Báu và Lê Khả Giáp. Trong các clip đó, Báu vừa là nhân vật, vừa là người dẫn chương trình. Hình ảnh của Thầy Minh Tuệ và tăng đoàn bị mờ nhạt, thời lượng không nhiều. Điều thú vị nhất là các câu nói, giải đáp thắc mắc mang tính thuyết pháp có ý nghĩa đạo lý sâu sắc, sinh động của Thầy Minh Tuệ hiếm khi thể hiện. Đoàn người cứ đi im lặng như những robot không hồn.

Cách độc quyền quay phim chụp ảnh cung cấp cho toàn xã hội, các youtuber khác phải xào nấu theo nguồn nguyên liệu này, Đoàn Văn Báu đã lũng đoạn và thao túng truyền thông theo ý của mình, giống như 800 tờ báo chỉ có một tổng biên tập là Ban Tuyên Giáo.

Về ý nghĩa việc khất thực, ngoài việc nuôi thân để sống và tu tập, bằng việc xin ăn, chư tăng ni gieo duyên với chúng sinh trong “bát cơm ngàn nhà”, đánh thức Phật tính, lòng từ bi, giảm tính tham lam bủn xỉn trong mỗi người. Đây cũng là cơ hội để họ truyền pháp, lan tỏa thông điệp từ bi hỷ xả, lối sống thiện lành. Nên nhớ, khi khất thực, Đức Phật và các đệ tử bưng bát ghé lần lượt từng nhà chứ không lựa chọn những nhà hảo tâm mà mình biết để nhanh chóng xin đủ bữa.

Với bản thân khất sĩ, việc xin ăn cũng giúp họ kiểm soát bản ngã, xóa bỏ tính kiêu ngạo, tự cao, học tính khiêm cung, nhẫn nại. Khất thực cũng giúp đoạn trừ được lòng tham còn lại trong tu sĩ, vì các vị được bố thí gì thì dùng cái đó, khi bước đi không biết được thí chủ cho gì, nhiều hay ít, ngon hay không. (2)

Thế nhưng, cũng nhân danh việc giữ an ninh, Báu đã vạch ra những cung đường vắng vẻ phải vượt suối, băng rừng, cố ý tránh xa nơi có nhiều người, thậm chí né tránh những bản làng có đông người Việt. Trừ những đoạn qua công ty Hoàng Anh – Gia Lai hay thị trấn không thể né tránh. Trung thực là ngây thơ như youtuber Lê Khả Giáp đến ngày thứ 5 của chuyến đi đã kịp ghi nhận trong clip “Đáng Nhớ Sư Minh Tuệ Lần Đầu Vào Một Ngôi Làng Tại Lào Để Khất Thực”. Trong đó, Giáp nhấn mạnh: “Các thầy rất thích đi khất thực từng nhà.” (3)

Một youtuber đã dành thời gian tra cứu kinh điển Phật pháp, đối chiếu cách làm của Báu và bình luận trong clip “Đoàn Văn Báu tái thiết hạnh đầu đà mới cho Thầy Thích Minh Tuệ, tìm hiểu lại nguồn gốc.” (4)

Lộ liễu rõ rệt nhất là trong một clip, Báu đã gợi ý với Thầy Minh Tuệ cho đoàn cầm cờ đỏ sao vàng khi đi bộ hành. Bằng trí tuệ trong suốt, Thầy Minh Tuệ trả lời thẳng thắn: “Tu sĩ ai cầm cái đó. Cho những người đi theo ai cầm được thì cầm, hoặc gắn nó trên xe (chiếc xe bán tải chở hành lý, thực phẩm cho những người đi theo).”

Một quốc gia mà chính phủ đàn áp người tu, tăng đoàn đến mức tan tác. Một giáo hội không công nhận người tu là tu sĩ, đơm đặt bôi xấu tăng đoàn giờ lại bày trò cầm cờ bộ hành quay phim là quá sức xấu hổ thủ đoạn chính trị. (5)

Các dư luận viên đã dựa vào clip này kết án Thầy Minh Tuệ và tăng đoàn như những kẻ phản quốc.

Độc quyền chọn người, lại chọn mờ ám, bất công. Độc quyền thông tin lại lũng đoạn, thao túng thông tin gây bất lợi cho Thầy. Bằng nhiều cách tách tăng đoàn không được giao tiếp với công chúng trên đường đi, bày ra nhiều chiêu trò để đi sai Phật pháp. Đoàn Văn Báu đã lộ nguyên hình là kẻ áp giải Thầy Minh Tuệ đến nơi đọa đày nào đó, vai trò quan trọng trong kế hoạch cực kỳ thâm độc, loại trừ Thầy Minh Tuệ ra khỏi lãnh thổ và dìm mọi tiếng vang, giá trị của Thầy trong nhận thức mơ hồ, lộn xộn chóng quên.

Thầy Minh Tuệ không phải là nạn nhân đầu tiên của cộng sản về việc hộ vệ kiêm áp giải. Qua câu chuyện cố thiếu tướng Phan Văn Xoàn, Phó Tư lệnh lực lượng Cảnh vệ, người phụ trách bảo vệ Hồ Chí Minh tự kể đã được chọn lọc trên báo chí cho thấy, ông Xoàn có cả hai vai trò đó. Ông Hồ được bảo vệ chu đáo, cẩn thận trong từng bước chân, muốn bước ra khỏi cổng nhà sàn, muốn gặp bất cứ ai phải được ông Xoàn sắp xếp theo phê duyệt, chỉ đạo của Bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn. Muốn đi chợ Tết phải hóa trang thành hai cha con và theo phương thức ba không: không dừng lại, không mua bán, không giao tiếp với ai. Đêm giao thừa ông Hồ bất ngờ đi thăm hộ dân nghèo nhất Hà Nội là một màn trình diễn, tất cả các nhân vật tháp tùng, đón tiếp đều là diễn viên công an sắm vai. Chỉ duy nhất người phụ nữ nghèo gánh nước thuê là diễn viên nghiệp dư được công an lựa chọn. Tất cả những điều cưỡng ép dối trá ấy đều nhân danh mục đích cao quý là bảo vệ an toàn tuyệt đối cho ông Hồ.

Tham khảo:

1- https://www.youtube.com/watch?v=XUbZca_KYKg
2- https://vtcnews.vn/vi-sao-duc-phat-di-khat-thuc-ar694792.html
3- https://www.youtube.com/watch?v=eELFGQC8za8
4- https://www.youtube.com/watch?v=ZLycPR4ziSg
5- https://www.youtube.com/watch?v=ZoLOt5aR30c