Việt Nam có thật sự là nơi đáng sống hay không?

Ba’o Nguoi-Viet

October 14, 2025

*Chuyện Vỉa Hè
*Tư Ngộ

Việt Nam được người ta dẫn chứng từ “chỉ số hạnh phúc” giả tạo đến các thống kê hàng triệu du khách theo nhau đến Việt Nam mỗi năm để quảng cáo xứ này là nơi đáng sống trên thế giới.

Nhưng theo một ký sự ngắn viết trên mạng của tổ chức thông tin Công giáo khu vực Á Châu (UCAN) ngày 14 Tháng Mười 2025 thì có lẽ nơi này đáng sống nếu người ta bưng tai, bịt mắt trước mọi nghịch cảnh và bất công xã hội ở chung quanh.

Các loại xe được hướng dẫn chạy trên những đường phố ngập nước ở Hà Nội ngày 7 Tháng Mười 2025 vì hậu quả của trận bão số 11 (Matmo) và các đập thủy điện xả lũ. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Nói khác, người ta chỉ có thể sống mà không gặp gì rắc rối nếu chịu thích nghi, giữ mồm giữ miệng chứ không chê bai chỉ trích chính trị, sống theo khuôn khổ cho phép của nhà cầm quyền. Bằng không, người ta sẽ thấy đất nước này vô cùng ngột ngạt. Người ta hứa hẹn giắt tay đi lên thiên đường xã hội chủ nghĩa dù chỉ có trong những cái loa tuyên truyền treo ở đầu đường xó chợ.

Bài viết trên UCAN dẫn lại một chuyện cũ, thảm kịch, xảy ra 6 năm trước. Tất cả 39 người, đa số là dân Nghệ An, gồm 31 đàn ông và 8 phụ nữ, đã chết ngộp trên chiếc xe tải đông lạnh khi đến được nơi họ muốn đến, ngoại thành London, nước Anh. Gia đình họ đã cầm cố nhà cửa, bán tài sản gom góp tiền bạc để trả cho bọn buôn người đưa họ đi lậu qua đó để kiếm tiền, cơ hội đổi đời cho gia đình.

Thảm kịch gây xúc động không riêng gì tại Việt Nam mà cho cả thế giới nhưng nay đã đi vào quên lãng. Việt Nam đang được tô vẽ như một nơi rất đáng sống trên hành tinh này, một đất nước đang phát triển, an toàn và đầy lạc quan. Nhà cầm quyền CSVN quảng cáo đất nước hòa bình phát triển thịnh vượng nên đầu tư ngoại quốc ùn ùn đổ tiền vào đây, thúc đây gia tăng nhanh chóng tầng lớp trung lưu.

Trên mạng xã hội, có nhiều video clip quảng cáo Việt Nam “đáng sống hơn Tây phương”. Một số bloggers ca tụng đời sống nơi đây chi phí thấp, đồ ăn ngon, người địa phương thân thiện, thời tiết thì quanh năm ấm áp. Mới đây, trang mạng của đài CNBC Mỹ kể câu chuyện của một cựu chiến binh Mỹ tên Markeiz Ryan, 36 tuổi. Sau khi giải ngũ, anh ta đến Sài Gòn sống thoải mái với tốn kém trung bình mỗi tháng $4,000 USD và không có ý định đi nơi nào khác, kể cả về lại nước Mỹ.

Số tiền chi tiêu hàng tháng đó đến từ tiền hưu trí cựu quân nhân, tiền anh làm thêm như dạy Anh ngữ và các khoản kiếm thêm khác. Tiền ăn uống chỉ tốn $400 USD một tháng thôi nhưng tiền thuê nhà $850 USD, tiền điện nước, tiền bảo hiểm sức khỏe và các khoản linh tinh khác cộng lại nên nhiều như vậy.

Dù sao, Markeiz Ryan nhìn nhận “Người ta ở đây chỉ chú ý tới đời sống hàng ngày của họ chứ không để ý mấy tới mấy chuyện chính trị gì đang xảy ra”.

Theo thống kê, giữa các năm 2016 đến 2020, hơn 24,000 người Việt Nam từ bỏ quốc tịch để nhập tịch ở nước khác trong khi chỉ có vài trăm người xin nhập tịch hoặc xin hồi tịch quốc tịch Việt Nam. Nhưng chỉ nửa năm 2014, có hơn 2,100 trường hợp nhà cầm quyền Hà Nội khoe “liên quan đến quốc tịch” được Bộ Tư Pháp “xử lý”.

Nhưng những con số trên cho thấy số người muốn thoát ra khỏi Việt Nam, cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp, vẫn nhiều hơn là số người muốn đến Việt Nam sống hoặc quay về cố quốc để sống những ngày cuối đời. Hồi năm ngoái, cảnh sát Liên Âu đã phá vỡ một tổ chức buôn người Việt Nam, bỏ tù 16 người. Con đường di dân lậu từ Việt Nam qua ngả Nga, vòng vèo ở nhiều nước trước khi đến nước Anh bằng xuồng cao su hay xe tải vẫn tiếp diễn chứ không dừng lại. Cảnh sát liên bang Đức coi những nhóm tội phạm gốc Việt là một số trong những nhóm bóc lột di dân lậu tàn nhẫn nhất khi ép họ làm tại các nhà hàng, tiệm móng tay, nông trại, để trừ nợ cho chuyến đi.

Giới đầu tư quốc tế không đặt nặng vấn đề chính trị. Họ không cần biết cái chế độ này hay chế độ kia tàn ác thế nào đối với các người bất đồng chính kiến. Họ chỉ biết được yên thân thuê nhân công giá rẻ, làm ra sản phẩm để bán kiếm lời cao.

Chế độ Hà Nội khoe hồi tuần trước là tính đến cuối Tháng Chín, “tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam bao gồm: vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 28.54 tỷ USD, tăng 15.2% so với cùng kỳ năm trước.” Nghĩa là, dù Việt Nam đang phải đối phó chật vật với thuế quan đối ứng của Mỹ, giới đầu tư vẫn thấy làm ăn được.

Cùng lúc ấy, Việt Nam lại được một tổ chức khuyến khích du lịch quốc tế ở Hong Kông trao tặng giải thưởng công nhận nước này có một số trong những trung tâm du lịch sinh thái tuyệt vời nhất trên thế giới như Đồng Văn Mèo Vạc, Phong Nha – Kẻ Bảng.

Xã Thất Khê tại tỉnh Cao Bằng chìm dưới nước khi bão số 11 (Matmo) đưa mưa lũ tới, rồi các đập thủy điện nhỏ bé ở tỉnh này hối hả xả lũ chống vỡ đập làm nước sông Bằng Giang dâng cao bất thường. Người chết, tài sản thiệt hại nghiêm trọng. (Hình: Anh Túc/AFP/Getty Images)

Chẳng vậy, năm 2024, Việt Nam đón tiếp 17.5 triệu du khách, tăng 39.5% so với năm 2023. Năm nay, 9 tháng đầu 2025, Việt Nam đã tiếp đón đến 15.4 triệu du khách, tăng 19.5% so với cùng thời gian này của năm ngoái.

Người ta dẫn chứng các con số về gia tăng phát triển kinh tế hàng năm, về sự ổn định chính trị để nói rằng cái đất nước này đáng sống. Nhưng người ta không biết rằng đó chỉ là bề nổi, mặt ngoài mà thôi. Đại đa số người dân vẫn chạy ăn từng bữa toát mồ hôi, còn tầng lớp trung lưu và giàu có nằm trong giới “tư bản đỏ” tại Việt Nam vẫn chỉ là thiểu số.

Như ở trên trình bày, muốn yên thân sống ở Việt Nam, đừng đòi hỏi gì về nhân quyền. Quyền tự do phát biểu, tự do báo chí, hội họp, tự do biểu tình, tự do tôn giáo tín ngưỡng, cái gì cũng có cả đấy, nhưng chỉ có trên giấy mà thôi. Các quyền tự do ấy bị các điều luật hình sự trói lại bằng những từ ngữ mơ hồ để bắt tù những ai cắc cớ. Ít nhất 4 người đã bị bắt giam trong Tháng Chín vừa qua.

Tóm lại, Việt Nam chỉ là nơi có thể đáng sống của những người chấp nhận cúi đầu sống cái thân phận con lừa kéo xe để được cho ăn cho ít cỏ, uống ít nước, rồi cắm đầu chạy tiếp theo lệnh cái roi vụt lên lưng. Muốn chống đối? Cái cùm tại 53 trại giam trên toàn quốc đang sẵn sàng.


 

MƯỜI BÀI HỌC THIÊNG LIÊNG TỪ THÁNH NỮ TÊRÊSA AVILA – Lm. Ed Broom, OMV 

Lm. Ed Broom, OMV 

Chỉ cách nhau hai tuần trong Lịch Phụng Vụ, chúng ta kính nhớ hai vị thánh tuyệt vời, đầy cảm hứng và đáng mến, những người thật sự yêu thương chúng ta và cũng mong chúng ta đáp lại tình yêu của họ: thánh Têrêsa Lisieux và thánh Têrêsa Avila.

Chúng ta mừng kính thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu ngày 1 tháng 10; còn ngày 15 tháng 10 là lễ nhớ thánh Têrêsa Avila.  Vậy điểm chung giữa hai vị thánh này là gì?  Cả hai đều là phụ nữ, đều thuộc số ít nữ Tiến sĩ Hội thánh, đều là những nhà chiêm niệm tuyệt vời, đều là những nữ tu dòng kín Cát Minh, nhưng điều quan trọng nhất là họ đều đã, đang, và sẽ mãi đến muôn đời là những hiền thê vĩ đại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ ta.

 Trong bài viết ngắn này, chúng tôi muốn tri ân thánh Têrêsa Avila và nêu bật mười đóng góp vĩ đại của thánh nữ cho Giáo hội Công giáo và cho mỗi người chúng ta, như một mẫu gương về sự thánh thiện mà tất cả chúng ta đều được mời gọi noi theo.  Hãy nhớ lại những lời của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ ta, đã nói trong Bài giảng trên núi: “Anh em hãy nên thánh, như Cha anh em trên trời, là Đấng thánh.” (Mt 5, 48)

 Nên thánh và đạt tới một đời sống thánh thiện không phải một điều kiện phụ thuộc, một ước muốn viễn vông, càng không phải là điều chỉ riêng một số ít được mời gọi, mà là điều dành cho tất cả chúng ta.  Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đặt ra cho ta một thách thức với những lời đánh động này: “Nên thánh không phải là đặc ân của thiểu số, mà là bổn phận của tất cả mọi người.”

 Bây giờ, hãy cùng hướng nhìn lên thánh Têrêsa Avila, người sẽ dẫn dắt ta đến với Đức Giêsu, Đấng là Chúa, là Đấng Cứu Thế, và là Người Bạn trung tín của chúng ta.

 1.Cầu nguyện

Một trong những điểm nổi bật về các mức độ thiêng liêng sâu xa của thánh Têrêsa Avila là tầm quan trọng của việc cầu nguyện.  Dù gặp không ít khó khăn trong nhiều năm dài, thánh nữ vẫn dạy ta một chân lý thiêng liêng căn bản nhưng không thể thiếu: Hãy kiên trì trong việc cầu nguyện!  Hãy suy ngẫm và ghi nhớ những lời bất hủ đầy khôn ngoan này của thánh nữ: “Chúng ta phải có một quyết tâm vững chắc để không bao giờ từ bỏ việc cầu nguyện.”

 Đức Giêsu đã dạy chúng ta chân lý tối quan trọng này qua dụ ngôn bà góa kiên trì và quan tòa bất chính.  Nhờ lòng kiên trì và bền chí, người đàn bà góa cuối cùng cũng nhận được sự giúp đỡ từ vị quan tòa vô tâm lạnh lùng (Lc 18, 1-8).  Thánh Têrêsa nhấn mạnh rằng chúng ta không bao giờ được từ bỏ việc cầu nguyện.  Nếu bạn cần một phép ví von: không khí cần thiết cho phổi thế nào thì cầu nguyện cũng cần thiết cho linh hồn như thế.  Một lá phổi khỏe mạnh cần nguồn khí trong lành và liên tục; một linh hồn khỏe mạnh cũng cần hít thở không ngừng bằng việc cầu nguyện liên lỉ— nguồn ôxy của linh hồn! 

  1. Định nghĩa việc cầu nguyện

Thánh Tôma Aquinô cho chúng ta một lời khuyên đơn giản nhưng vô cùng chắc chắn: hãy định nghĩa một chủ đề thật rõ ràng trước khi nói về điều đó.  Bằng cách này, ta có thể tránh được nhiều hiểu lầm.  Thánh Têrêsa Avila đã đưa ra một trong những định nghĩa kinh điển về cầu nguyện trong lịch sử Giáo hội: “Cầu nguyện không gì khác hơn là dành thời gian dài lâu một mình bên Đấng mà tôi biết là Ngài yêu tôi.”

Một đúc kết ngắn gọn?  Hai người bạn yêu thương nhau!  Chính Đức Giêsu đã gọi các tông đồ là bạn hữu – và chính chúng ta cũng được mời gọi để nên bạn hữu với Thầy Giêsu! 

  1. Tình yêu với Chúa Giêsu 

Thánh Têrêsa cho chúng ta một gợi ý để thăng tiến trong đời sống cầu nguyện.  Vị nữ Tiến sĩ Hội thánh này từng nói rằng ngài nhận được rất nhiều ân sủng khi suy ngẫm về nhân tính của Chúa Giêsu.  Dành thời gian cùng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, và bước vào cuộc trò chuyện với Người là con đường vững bền để thăng tiến trong cầu nguyện.  Hãy thử xem!  Trong tập sách Linh Thao, thánh Inhaxiô Loyola nhấn mạng việc cầu xin ân sủng này: “Ơn hiểu biết sâu sắc về Chúa Giêsu để chúng ta yêu Ngài cách nồng nhiệt hơn và bước theo Ngài cách gần gũi hơn.” 

  1. Yêu mến Chúa Giêsu trong những đau khổ của Người

Dường như giữa các vị thánh có một mẫu số chung – lời mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu của Đức Giêsu qua cuộc thương khó đau khổ của Người – thánh Piô Năm Dấu, thánh nữ Catarina thành Siêna, thánh nữ Faustina và thánh nữ Têrêsa Avila.  Phần thánh Têrêsa, thánh nữ đã có một trải nghiệm thần bí về Chúa Giêsu Chịu Khổ Nạn (Ecce Homo: này là Người); ngài đã nhìn Đức Giêsu đầu đội mạo gai, và điều này đã thúc bách thánh nữ yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn. 

  1. Chúa Thánh Thần: Vị Thánh Sư trong cầu nguyện

Có một lần, thánh nữ gặp khó khăn trong việc cầu nguyện và đã tìm đến một linh mục Dòng Tên để xin lời khuyên về cách vượt qua khó khăn này.  Lời khuyên của vị linh mục rất đơn giản và đi thẳng vào trọng tâm, nhưng nó đã làm thay đổi đời sống của thánh nữ!  Cha đã nhấn mạng việc cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.  Kể từ đó, khi nghe theo lời khuyên này mà cậy dựa nơi Chúa Thánh Thần, đời sống cầu nguyện của thánh Têrêsa đã cải thiện đáng kể.  Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô cũng nhắc lại điều tương tự: “Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả.” (Rm 8, 26).  Hãy để chúng ta được dẫn dắt bởi Thầy Dạy tốt nhất trong các thầy, Bậc Thầy nội tâm của việc cầu nguyện, Chúa Thánh Thần. 

  1. Hướng dẫn thiêng liêng

Để thăng tiến không ngừng trong đời sống thiêng liêng, chúng ta cần một hình thức hướng dẫn thiêng liêng nào đó.  Chúng ta ai cũng từng kinh nghiệm về sự mù tối trong đời sống thiêng liêng.  Ma quỷ có thể trá hình hoặc giả trang thành thiên thần ánh sáng.  Và ta càng tiến xa trên con đường thiêng liêng, những chiêu trò và cám dỗ của ma quỷ càng tinh vi – “như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5, 8-9). 

Trong suốt cuộc đời mình, thánh nữ Têrêsa Avila đã tìm đến sự hướng dẫn từ nhiều vị linh hướng, và một số trong đó hiện nay đã được phong thánh: thánh Gioan Thánh Giá (dòng Cát Minh), thánh Phanxicô Borgia (Dòng Tên), thánh Phêrô thành Alcantara (dòng Phan Sinh), và cuối cùng là cha Jerome Gracian – một học giả và nhà thần học nổi tiếng dòng Đa Minh.  Đúng là không phải ai trong chúng ta cũng có ba vị thánh và một thần học gia dòng Đa Minh làm người hướng dẫn, nhưng chúng ta có thể và phải tìm một hình thức hướng dẫn thiêng liêng định kỳ nào đó.  Thánh Gioan Thánh Giá đã nói rất thẳng thắn: “Ai tự mình làm người hướng dẫn thì sẽ có một kẻ ngốc làm môn đệ.” Rất chuẩn! 

  1. Hoán cải và Canh tân

 Một dấu ấn nổi bật trong cuộc đời Thánh Têrêsa Avila nằm ở toàn bộ phạm trù hoán cải và canh tân.  Cùng với Thánh Gioan Thánh Giá, ngài là khí cụ chính mà Thiên Chúa chọn để cải tổ dòng Cát Minh.  Tuy nhiên, thánh Têrêsa luôn ý thức rõ một điều: để hoán cải người khác, ta phải bắt đầu từ chính bản thân mình trước – và đó cũng là điều thánh nữ đã làm trong suốt cuộc đời trần thế của mình.  Lời đầu tiên của Chúa Giêsu khi rao giảng đã là: Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1, 15).

 Nguyện cho chúng ta luôn không ngừng hoán cải cách sâu sắc hơn nữa qua lời cầu thay nguyện giúp của thánh nữ Têrêsa Avila. 

  1. Những kiệt tác thiêng liêng – Các tác phẩm của thánh nữ

Chắc chắn, một trong những đóng góp lớn nhất của thánh Têrêsa Avila cho Giáo hội cũng như cho toàn thế giới chính là những tác phẩm, hay những kiệt tác thiêng liêng của ngài.  Một trong những chủ đề chính yếu mà thánh nữ nhấn mạnh là tầm quan trọng của cầu nguyện, và việc nỗ lực tiến sâu xa hơn trong cầu nguyện cho đến khi hồn ta đạt tới sự hiệp nhất huyền nhiệm với Chúa Giêsu, Đấng Tình Quân Thiên Quốc.  

Ai thật sự nghiêm túc với đời sống cầu nguyện của mình đều nên biết đến những tác phẩm của thánh Têrêsa và dành thời gian đọc những trang viết đầy tràn ơn Chúa của thánh nữ.  Những tác phẩm kinh điển của ngài là gì?  Đây là một số trong số đó: “Tự Thuật” (Her life), “Đường Hoàn Thiện” (The Way of Perfection), “Lâu Đài Nội Tâm” (The Interior Castle), “Các Nền Tảng” (Foundations).  Ngoài những sách này, thánh nữ còn để lại nhiều bức thư đầy truyền cảm.  Bạn muốn trở thành một vị thánh?  Hãy đọc và tận hưởng nguồn ơn thiêng từ những trang viết của các thánh, nhất là các thánh Tiến sĩ Hội thánh! 

  1. Thập giá – con đường vào Nước Trời

Chúa Giêsu từng nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.”  Một điểm chung khác trong cuộc đời của các thánh là sự hiện diện của thập giá.  Thánh Luy Maria Montfort thường chúc lành bạn hữu mình như thế này: “Nguyện xin Chúa chúc lành cho anh và ban cho anh nhiều thập giá nhỏ!” 

Thánh nữ Têrêsa đã sống trọn đời mình với người bạn chí thiết là thập giá của Thầy Giêsu.  Sức khỏe của thánh nữ luôn rất yếu, và ngài từng suýt chết khi còn rất trẻ.  Hơn nữa, để thực hiện việc cải tổ dòng Cát Minh, thánh nữ còn chịu đựng nhiều chống đối và bách hại từ các nữ tu khác trong nhà dòng, những người ưa thích một đời sống dễ dãi hơn, từ các linh mục (dòng Cát Minh), và từ các đấng bậc khác trong Giáo Hội.  Thay vì nhụt chí hay nản lòng, thánh nữ càng hân hoan tín thác hơn nữa vào Thiên Chúa – dù sao đi nữa, đây chính là công trình do tay Người thực hiện. 

  1. Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse

Trong suốt đời tu trì của mình, thánh Têrêsa Avila đã luôn hết lòng yêu mến Đức Trinh Nữ Maria – một lòng sùng kính thường thấy ở các vị thánh, và hy vọng cả nơi bạn cũng vậy!  Tước hiệu Đức Mẹ mà thánh nữ sùng kính cách đặc biệt là Đức Mẹ Núi Cát Minh.  Khi tỏ lòng yêu mến Mẹ, đừng ai quên mang Áo Đức Bà Camêlô.  Đây sẽ là dấu chỉ bề ngoài của các con cho việc tận hiến dành cho Đức Maria. 

Hơn nữa, thánh Têrêsa Avila còn lấy lòng con thảo mà kính yêu Thánh Cả Giuse.  Thánh nữ tin rằng sự bình phục sau một cơn bệnh hiểm nghèo gần như đã kết thúc cuộc đời mình là nhờ lời cầu bầu quyền năng của Thánh Giuse.  Ngài cũng đặt tên cho tất cả các tu viện mới thành lập của dòng là San Jose – Thánh Giuse! 

Kết lại, nguyện xin cho vị nữ Tiến sĩ Hội thánh – Tiến sĩ của cầu nguyện – thánh Têrêsa Avila luôn là nguồn khích lệ cho bạn trên đường hành hương của linh hồn tiến về cõi Thiên Quốc.  Nguyện xin thánh nữ nâng đỡ để ta biết cầu nguyện nhiều và sâu sắc hơn, đạt tới sự hoán cải con tim sâu xa hơn, và đến cùng vẫn luôn yêu mến Chúa Giêsu là trọng tâm và là nguồn sống của đời ta!

 Lm. Ed Broom, OMV

Chuyển ngữ: Nam Anh

Từ: https://catholicexchange.com

Nguồn: dongten.net

LÒNG NHÂN LÀNH CỦA ĐỨC MẸ FATIMA – Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 Tôi – phụ nữ Đức – kết hôn với một tín hữu Công Giáo Bồ Đào Nha.  Sau khi hiền phu qua đời, bà con bên chồng mời tôi mang đứa con gái nhỏ 5 tuổi, trở về Bồ Đào Nha, để cô bé học biết ngôn ngữ của thân phụ.  Tôi hân hoan chấp nhận lời mời.

Tại quê chồng, tôi được gia đình tử tước De Caleiro tiếp đón nồng hậu trong dinh thự ở Donro.  Bà chị họ chồng tôi có 4 đứa con – tuổi tác suýt soát con gái nhỏ tôi – nên cô bé học tiếng Bồ rất nhanh, nhờ chơi đùa với mấy anh chị em họ.  Nhưng cuộc sống êm đềm tốt đẹp không kéo dài lâu.  Bệnh đậu lào đổ ập trên vùng, gieo chết chóc trong các gia đình.

Dinh thự gia đình chúng tôi xem ra an toàn cho đến ngày đứa con gái nhỏ của tôi mắc chứng bệnh khủng khiếp ấy.  Chúng tôi tức tốc dời cô bé đến căn phòng biệt lập gần nhà nguyện của dinh thự.  Không thể nào tìm ra y tá, vì ai ai cũng sợ lây phải chứng bệnh hiểm nghèo!  Tôi đành một mình săn sóc cho con, túc trực ngày đêm bên giường con.  Nhờ ơn THIÊN CHÚA, tôi không ngã bệnh.  Con bé mỗi ngày một kiệt sức.  Bằng mọi cách, tôi phải cứu sống con.  Tôi cho mời một bác sĩ trẻ tuổi nhưng nổi tiếng người Pháp, từ thủ đô Paris đến.

Bà chị họ nói với tôi là chị cùng mấy đứa con làm tuần chín ngày kính Đức Mẹ Fatima, xin Đức Mẹ MARIA cứu sống con bé.  Chị mời tôi cùng hiệp ý với gia đình chị.  Tôi không tin mà cũng không hề để ý đến Đức Mẹ Fatima, nhưng tôi chấp nhận đề nghị và bằng lòng làm tuần chín ngày nơi nhà nguyện cạnh phòng con tôi.  Trong khi đó thì sức khoẻ của con bé bước vào tình trạng vô cùng tuyệt vọng.  Các ngón tay đã tím xanh.  Con bé không ăn uống gì và nằm im bất động.  Cả hai bác sĩ chữa chạy cho cô bé cũng bó tay và khuyên tôi chuẩn bị đón nhận một thử thách nặng nề.  Trước khi từ biệt, cả hai vị hứa sẽ trở lại sáng hôm sau, nhưng không chắc cô bé có qua khỏi đêm nay không!

Quý vị có thể đoán được tâm tình rối loạn của tôi khi nghe câu tuyên bố này!  Tôi đã mất một người chồng yêu dấu, một người chồng có quả tim vàng!  Giờ đây đứa con gái duy nhất – bảo ảnh, bảo chứng tình yêu của chồng – đang lâm nguy!  Trong cơn tuyệt vọng, tôi liền chạy đến nhà nguyện.  Bấy giờ là mùa đông.  Tôi quỳ sụp xuống và tha thiết kêu xin Đức Mẹ MARIA cứu đứa con gái nhỏ.  Tôi hứa với Đức Mẹ là nếu con bé khỏi bệnh, tôi sẽ dâng hiến con cho Đức Mẹ và sẽ đi hành hương về đồi Cova-da-Ira, nơi Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ chăn chiên làng Fatima.  Tôi ở lại nhà nguyện thật lâu, không biết mấy tiếng đồng hồ, cho đến khi toàn thân rã rời thấm lạnh, tôi mới rời nhà nguyện.

 Tôi trở về phòng của con.  Vừa mở cửa phòng, tôi ngạc nhiên thấy con bé đang nhảy nhót trên giường.  Con bé nói:

– Má đi đâu mà lâu dữ vậy?  Con đói quá, Má cho con cái gì để ăn đi!

Tôi tìm cách đặt con bé nằm xuống, bụng nghĩ thầm:

– Con bé gần chết nên nói sảng đây!

Nhưng con bé tiếp tục nói:

– Con lành bệnh rồi!  “Mẹ THIÊN CHÚA Fatima” bảo con như thế!

Sáng hôm sau, tôi nhờ bà chị họ mời hai bác sĩ đến.  Vừa trông thấy họ, Margarida – tên con gái tôi – vui vẻ chào hai người, đặc biệt, cô bé nói với vị bác sĩ của gia đình:

– Bây giờ Bác nhớ cho cháu con búp bê mà Bác hứa, nếu cháu lành bệnh.  Cháu muốn đi chơi với mấy anh chị em họ của cháu.  Cháu khỏi bệnh rồi.  “Mẹ THIÊN CHÚA Fatima” nói với cháu như thế, khi Má cháu bỏ cháu một mình trong phòng.

Vị bác sĩ già nghiêm khắc nhìn tôi và nói:

– Bà phải nói thật bà đã làm gì cho con bé đêm vừa rồi?  Bà mời một tên phù thủy đến chữa bệnh phải không?

Nghe thế, tôi nổi giận hét lớn:

– Sao bác sĩ lại có tư tưởng lạ kỳ đối với một người Đức như tôi?  Những người Bồ Đào Nha đồng hương của bác sĩ, có bao giờ ngây thơ đến độ đi cầu cứu với các tên phù thủy không?  Hẳn là không, phải không?

Vị bác sĩ lão thành lắc đầu nói:

– Con của bà hấp hối, giờ đây bỗng dưng trở lại bình thường.  Một sự kiện không thể giải thích theo khoa học!

Nghe thế, tôi kể lại tất cả những gì xảy ra trong đêm vừa qua.  Nghe xong, vị bác sĩ già, quỳ sụp xuống, vừa khóc vừa nói:

– Một phép lạ cả thể đã xảy ra.  Chúng ta hãy cùng dâng lên Đức Mẹ Fatima lòng biết ơn sâu xa của chúng ta!

… “Đức Chúa là Vua, là Đấng cứu chuộc Israel, và là Đức Chúa các đạo binh, Người phán thế nầy: Ta là khởi nguyên, Ta là cùng tận; chẳng có thần nào hết, ngoại trừ Ta.  Ai được như Ta, người ấy cứ lên tiếng, cứ kể ra và trình bày cho Ta xem những gì đã xảy ra từ thời cổ đại, khi Ta tạo dựng loài người.  Và những gì sẽ xảy đến, cứ kể ra đi.  Đừng run, đừng sợ.  Ta đã chẳng cho ngươi nghe từ thưở nào, đã chẳng báo cho ngươi biết đó sao?  Chính các ngươi là nhân chứng của Ta.  Hỏi có thần nào khác, hỏi có núi đá nào khác, ngoại trừ Ta?  Ta biết chắc là không” (Isaia 44,6-8)….

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

(Albert Pfleger, ”FIORETTI DE LA VIERGE MARIE”, Mambré Editeur, Paris 1992, trang 41-44)

From: Langthangchieutim

 Nhật Bản Và Việt Nam XHCN – Thái Hạo

BẢO TỒN TIẾNG VIỆT

   Nhật Bản Và Việt Nam XHCN – Thái Hạo

Cách đây mấy ngày thấy có tờ báo đăng tin 2 thanh niên Nhật Bản bị bắt vì tội…dùng đũa cá nhân để gắp gừng trong chiếc lọ đựng gia vị trên bàn ăn của một nhà hàng, rồi quay clip và post lên mạng xã hội. Chủ quán báo cảnh sát, vì hành động “mất vệ sinh” này làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ! Thôi, chắc không cần bình luận nữa về sự nghiêm ngặt của luật pháp xứ ấy.

Tình cờ là cũng hôm trước, tôi có mấy người bạn ghé chơi, trong đó có 2 người mới từ Nhật về nước. Một ông nói, đi 7 năm, về VN 2 tháng rồi nhưng vẫn bị “sốc nhiệt”. Tôi hỏi vì sao bên đó đang làm ăn ngon lành thế mà lại về làm gì.

– Bị đuổi về. Vi phạm pháp luật.

Anh ta kể rằng buôn xe ô tô, mua phải một chiếc xe ăn cắp, bị bắt và giam 15 ngày, sau khi điều tra, kết luận đúng là mua nhầm chứ không phải tự mình ăn cắp, thì được thả nhưng trục xuất luôn.

Lạ là, dù bị bắt tạm giam, nhưng việc đầu tiên là cảnh sát hỏi về thực đơn và thói quen ăn uống của mình, thích ăn những món gì, khẩu vị ra sao…, có nhu cầu gì thay đổi về đồ ăn thì cứ “yêu cầu”, họ phải đáp ứng hết. Bị giam nhưng nhiều lúc quên mất là mình đang phạm tội, vì nào là kêu bật điều hòa, tăng nhiệt độ, giảm nhiệt độ, rồi nói đi mua thứ này, đi lấy thứ kia…, cảnh sát chỉ việc “ngoan ngoãn” làm theo yêu cầu. Không bao giờ có chuyện to tiếng hay tỏ thái độ bất lịch sự với mình, chỉ một lòng cúc cung “phục vụ”.

“Hết 15 ngày sau khi đã có kết luận thì được thả, về Đại sứ quán đang chuẩn bị lên đường hồi hương theo lệnh của chính quyền Nhật thì có người của sở cảnh sát tới, mang theo một chiếc áo. Chiếc áo này tôi bỏ quên ở chỗ giam giữ. Mà thực ra cũng chẳng phải bỏ quên, áo rẻ tiền, lại cũ rồi, vứt đi chứ lấy làm gì. Nhưng họ phái 3 cảnh sát mang tới tận nơi, hỏi có phải áo của anh không, giao lại đường hoàng rồi mới đi”.

Ở Nhật, nếu vì lý do nào đó mà anh “ngủ bờ ngủ bụi” thì sẽ có cảnh sát đứng canh cho ngủ, không để ai làm phiền, khi nào anh tỉnh dậy họ có làm gì mới làm, tuyệt đối không quấy rầy giấc ngủ của anh, chỉ tận tụy đứng đó, giữ đồ và “canh giấc ngủ” cho anh!

Ông bạn này còn kể, có một ông già độc thân, cứ thỉnh thoảng lại ăn trộm ít trái cây trong vườn nhà hàng xóm, để được đi tù! Thế là cứ ra tù là lại liền ăn trộm, vì ở trong tù sướng hơn ở ngoài nhiều. Trong đó, được chăm sóc tận tình và đối xử tử tế. Ở Nhật, cảnh sát và người nhà nước đúng nghĩa là “đầy tớ” luôn. Thử vi phạm giao thông mà xem, cứ ngồi trong xe bật điều hòa mát, họ tới ăn nói lễ phép, chỉ thiếu khúm núm xin được kiểm tra nữa thôi. Không bao giờ có chuyện hách dịch kiểu như ở VN chứ đừng nói chuyện vòi tiền…

Anh ta nói, ở Nhật đúng là có hơi “phát xít” thật, vì quy tắc rất nghiêm, cái gì cũng phải nhất nhất tuân thủ, nhưng quyền con người cao lắm, không ai được nhân danh nhà nước để xúc phạm hay đối xử thô bạo với anh, dù anh có phạm tội gì đi chăng nữa.

Còn một chuyện lạ đời này nữa: ví dụ, người dân trồng vài cây trái trong vườn nhưng chủ yếu để cho đẹp chứ rất ít khi ăn, thường để rụng đầy gốc, rồi ra siêu thị mua về dùng. Lý do là cây trái tự mình trồng thật đấy, nhưng vẫn không “chắc ăn”, cứ ra cửa hàng hay siêu thị mua về, ăn nếu lỡ có vấn đề gì thì có chỗ mà bắt đền. Thực phẩm trên thị trường Nhật gần như tuyệt đối an toàn, và nếu có nơi nào bán đồ mà ăn vào “có vấn đề gì” thì chỗ đó chỉ có điêu đứng. Oái oăm thay, ở ta mà muốn bán được hàng thì phải kèm theo câu “nhà làm”…

Những chuyện lan man không đầu không đuôi như thế nhưng cứ làm hiện dần lên hình ảnh của 2 đất nước, như thuộc về hai cõi khác nhau. Đến bao giờ chúng ta mới có được một xã hội vừa nghiêm khắc nhưng lại cũng rất tự do và nhân văn, không còn coi “Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay”* mà vụ án cô giáo Dung vừa minh họa một cách hùng hồn?

Ông bạn bảo, 200 năm nữa, may ra…

*Lời thơ cô giáo Trần Thị Lam:

“Đất nước mình lạ quá phải không anh

Những chiếc bánh chưng vô cùng kỳ vĩ

Những dự án và tượng đài nghìn tỷ

Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…”

Thái Hạo


 

TẠI SAO NHỮNG CA KHÚC TRƯỚC NĂM 1975 VẪN ĐƯỢC ƯA CHUỘNG? – Nguyễn Văn Tuấn

Kimtrong Lam

Nguyễn Văn Tuấn

Hôm nọ, có nghe ông Nguyễn Phú Trọng phàn nàn là Việt Nam không có những bài hát hay. Tôi thì nghĩ khác ông ta, vì Việt Nam có những bài hát hay, có thể ông chưa nghe đó thôi. Chúng ta thử tìm về nhạc thời trước 1975 ở miền Nam xem, có nhiều bài hay lắm chứ, và vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay dù nó bị vùi dập nhiều lần …

Câu hỏi đặt ra là tại sao những bài ca đã được sáng tác hơn nửa thế kỷ trước mà đến nay vẫn còn được giới thưởng ngoạn, từ bình dân đến lịch lãm, đều ưa thích. Tôi nghĩ đến 4 lý do và cũng là đặc điểm của những ca khúc trước 1975 ở miền Nam: tính nhân văn, tự do tư tưởng, tính phong phú, và giàu chất nghệ thuật.

NHÂN VĂN

Thứ nhất là đậm chất nhân văn. Nếu nhìn lại những bài ca trước 1975 ở miền Nam và so sánh với những sáng tác ở miền Bắc, tôi nghĩ ít ai có thể bác bỏ tính nhân văn trong các sáng tác ở trong Nam. Khi nói “nhân văn”, tôi không chỉ nói đến những sáng tác về thân phận con người, mà còn kể cả những sáng tác thuộc dòng nhạc lãng mạn, trữ tình, nói lên cảm xúc của con người trước thời cuộc.

Người ta thường phân nhóm những sáng tác của Trịnh Công Sơn thành hai nhóm tình yêu và thân phận, nhưng tôi nghĩ cách phân nhóm đó cũng có thể áp dụng cho nhiều nhạc sĩ khác như Từ Công Phụng chẳng hạn. Tình yêu không chỉ là tình yêu đôi lứa, mà còn tình yêu quê hương đất nước (“Tôi đi xem để thấy những gì yêu dấu Việt Nam”) và giữa người với người “Tôi yêu bác nông phu đội sương nắng bên bờ ruộng sâu”).

Thỉnh thoảng cũng có một vài bài có chất “máu” (như câu “nhưng thép súng đang còn say máu thù” trong bài “Lính xa nhà”), nhưng cho dù như thế thì câu kết vẫn có hậu “Hẹn em khi khắp trời nở đầy hoa có tôi về”. Có thể nói rằng cái đặc tính nhân văn và nhân bản của những ca khúc trước 1975 ở miền Nam là yếu tố mạnh nhất để phân biệt so với các ca khúc cùng thời ngoài Bắc, vốn lúc nào cũng có nhiều mùi máu và súng đạn.

NGHỆ THUẬT

Cái đặc điểm nổi bật thứ hai là tính nghệ thuật trong các ca khúc. Khi nói “nghệ thuật” tôi muốn nói đến những lời ca đẹp, giàu chất thơ, và những giai điệu đẹp. Những bài ca mà ngay cả từ cái tựa đề đã đẹp. Những Dấu tình sầu, Giáng ngọc, Mùa thu cho em, Nghìn trùng xa cách, Tuổi biết buồn, Thà như giọt mưa, Giọt mưa trên lá, Hạ trắng, Diễm xưa, Ướt mi, và biết bao tựa đề có ý thơ và sâu lắng như thế đã đi vào lòng người thưởng ngoạn.

Thử so sánh những tựa đề của các sáng tác cùng thời ngoài Bắc như Bài ca năm tấn, Em đi làm tín dụng, Chào anh giải phóng quân, chào mùa xuân đại thắng, Người mẹ miền Nam tay không thắng giặc, v.v… thì chúng ta dễ dàng nhận ra sự khác biệt.

Lời ca trong những ca khúc trước 1975 ở miền Nam cũng là những lời đẹp. Tôi thán phục những nhạc sĩ như Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Hoài Linh [không phải anh hề], Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên (và nhiều nữa) đã viết ra những lời ca đi vào lòng người. Không phải chỉ đơn giản nhân văn theo kiểu những ý tưởng trừu tượng trong sáng tác của Trịnh Công Sơn (ví dụ như “hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi”, hay “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”), nhưng có khi đi thẳng vào vấn đề như Phạm Duy (“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời”).

Còn nhiều nhiều bài đã đi vào lòng người qua những lời ca đẹp và giản dị: “Hôm xưa tay nắm tay nhau anh hỏi tôi rằng: ‘Những gì trong đời ta ghi sâu vào tâm tư / Không tan theo cùng hư vô, không theo tháng năm phai mờ / Tình nào tha thiết anh ơi?”.

Có những lời ca mà tôi nghĩ giới trẻ ngày nay có thể mỉa mai cười khẩy nói sến, nhưng tuổi trẻ thì thường chưa đủ lớn để cảm những câu như “Phút ban đầu ấy / Thư xanh màu giấy viết nhưng chưa gởi em / Ngõ đi chung một lối / Đôi khi định nói với em một lời.”

Không biết từ thuở nào mà tôi đã mê bài Trộm nhìn nhau và đã từng dự báo rằng bài này có ngày sẽ nổi tiếng. Thời đó, tôi mới về thăm nhà sau 20 năm xa cách, và nhìn người xưa, tôi thấy những câu “Ðôi khi trộm nhìn em / Xem dung nhan đó bây giờ ra sao / Em có còn đôi má đào như ngày nào” sao mà hay quá, hợp cảnh quá. Chỉ trộm nhìn thôi. Lời nhạc rất thơ.

Mà, thật vậy, đa số những lời ca trong các sáng tác trước 1975 được viết ra như vẫn vần thơ hoặc phổ từ thơ. Người phổ thơ thành nhạc hay nhất là Nhạc sĩ Phạm Duy, được xem như là một “phù thủy âm nhạc”. Chính vì thế mà âm nhạc trước 1975 có những lời ca sang trọng. Thời nay, trong môi trường những ca khúc dung tục, rất hiếm thấy những ca khúc có những lời ca đẹp như trước.

Lạ một điều là cũng là nhạc tuyên truyền (ở ngoài Bắc gọi vậy) hay nhạc tâm lý chiến (cách gọi trong Nam), nhưng những sáng tác trong Nam thì lại được người dân nhớ và xưng tụng. Sau cuộc chiến, những bài gọi là “nhạc đỏ”, dù được sự ưu ái của nhà cầm quyền văn hóa, chẳng ai nhớ hay muốn nhớ đến chúng.

Ngược lại, những sáng tác về người lính ở trong Nam thời trước 1975 thì lại còn lưu truyền và nuôi dưỡng trong lòng dân, dù nhà cầm quyền ra sức cấm đoán! Ngay cả những người lính miền Bắc cũng thích những bài hát về lính của các nhạc sĩ trong Nam. Tại sao vậy ? Tôi nghĩ tại vì tính nghệ thuật và nhân bản trong những sáng tác ở miền Nam. Người lính, cho dù là lính cộng sản hay cộng hòa, thì vẫn cảm được những câu “Con biết xuân này mẹ chờ tin con / Khi thấy mai đào nở vàng bên nương” hay “Thư của lính, ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay”. Những lời ca đó không có biên giới chính trị.

TỰ DO

Đặc điểm thứ ba là tự do. Dù có kiểm duyệt, nhưng nói chung các nghệ sĩ trước 1975 ở miền Nam có tự do sáng tác. Không ai cấm họ nói lên nỗi đau và những mất mát của chiến tranh. Không ai “đặt hàng” họ viết những bài ca tụng lãnh đạo như ngoài Bắc. Thật vậy, nhìn lại dòng nhạc thời đó, chẳng có một ca khúc nào ca tụng ông Nguyễn Văn Thiệu cả. Có một bài ca tụng ông Ngô Đình Diệm, nhưng cũng chẳng ai ca vì nó được dùng trong mấy rạp chiếu bóng là chính. Thay vì ca ngợi “lãnh tụ” dòng nhạc miền Nam ca ngợi con người và dân tộc, nhưng cũng đồng thời nói lên nỗi đau của chiến tranh.

Trịnh Công Sơn viết hẳn một loạt “Ca khúc Da Vàng” (mà hình như cho đến nay vẫn chưa được phép phổ biến). Trong thời chiến mà họ vẫn có thể phổ biến những sáng tác không có lợi cho chính quyền. Những ca khúc như “Dù anh trở về trên đôi nạng gỗ/ Dù anh trở về bằng chiếc xe lăn” chắc chắn không có cơ may xuất hiện trong âm nhạc miền Bắc thời đó (và ngay cả sau này).

Một trong những ca khúc nổi tiếng nhất trong thời chiến có lẽ là bài “Kỷ vật cho em” (phổ thơ của Linh Phương) với những lời ca ray rứt, bi thảm: “Anh trở lại có thể bằng chiến thắng Pleime/ Hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giã/ Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngả/ Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa/ Anh trở về bằng chiếc băng ca/ Trên trực thăng sơn màu tang trắng.” Nghe nói ca khúc này đã làm cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa rất khó chịu với nhạc sĩ.

Tiêu biểu cho tinh thần tự do sáng tác có lẽ là tự sự của Phạm Duy: “Tôi đưa ra một câu nói thôi: ‘Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi’ đất nước bơ vơ, nó rối bù đi thì tôi phải khóc thôi. Lúc nào mà đoàn kết thì tôi cười theo. Khóc cười theo mệnh nước. Cái xã hội mình nó rối tung lên như vậy thì làm sao mà mình … Thành thử tôi nghĩ rằng vấn đề là … Các anh yêu tôi thì nói là tôi có sự nghiệp hơi đầy đủ, hơi lớn một tí đấy, nhưng mà riêng tôi thì tôi thấy cho đến giờ phút này thì tôi hoàn toàn thất bại. Bởi vì đất nước đã thống nhất rồi mà lòng người thì không thống nhất, thành thử đại khái nếu mà tôi có chết đi thì tôi hãy còn gần như là tôi không được thỏa mãn.”

Cái tính tự do còn thể hiện qua một thực tế là chính quyền thời đó không cấm đoán việc phổ biến các nhạc sĩ còn ở ngoài Bắc. Những sáng tác của Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, v.v…đều được phổ biến thoải mái trong Nam. Ngay cả bài quốc ca mà chính quyền vẫn sử dụng bài “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước vốn là một người cộng sản. Ngược lại, nhà cầm quyền ngoài Bắc thì lại cấm, không cho phổ biến các sáng tác của các nhạc sĩ trong Nam hay đã vào Nam sinh sống.

ĐA DẠNG

Đặc điểm thứ tư của âm nhạc ngày xưa là tính phong phú về chủ đề. Khác với nhạc ngoài Bắc cùng thời tất cả dồn cho tuyên truyền và kêu gọi chiến tranh, các sáng tác trong Nam không kêu gọi chiến tranh nhưng yêu thương kẻ thù. Nhạc thời đó đáp ứng cho mọi nhu cầu của giới bình dân đến người trí thức, từ người dân đến người lính, từ trẻ em đến người lớn quan tâm đến thời cuộc, từ tình yêu lãng mạn đến triết lýhiện sinh, từ tục ca đến đạo ca, từ nhạc trẻ đến nhạc “tiền chiến”, từ nhạc tâm lý chiến (tuyên truyền) đến nhạc chống chiến tranh, nói chung là đủ cả. Không chỉ sáng tác bằng tiếng Việt mà còn trước tác hay dịch từ các ca khúc nổi tiếng ở nước ngoài để giới thiệu cho công chúng Việt Nam.

Tôi nghĩ bốn đặc điểm đó có thể giải thích tại sao những ca khúc dù đã sáng tác hơn nửa thế kỷ trước mà vẫn còn phổ biến và được yêu chuộng cho đến ngày nay. Mai kia mốt nọ, nếu có người viết lại lịch sử âm nhạc, tôi nghĩ họ sẽ ghi nhận những sáng tác thời trước 1975 ở miền Nam là một kho tàng vàng son của âm nhạc Việt Nam. Như là một quy luật, những bài hát tuyên truyền thô kệch và nhồi sọ, những bài ca sắt máu, những sáng tác kêu gọi giết chóc và hận thù sẽ bị đào thải, và thực tế đã chứng minh điều đó. Ngược lại, chỉ có những sáng tác đậm tính nhân văn, giàu chất nghệ thuật, và phong phú xuất phát từ tinh thần tự do, thì mới tồn tại theo thời gian.

Nguyễn Văn Tuấn.


 

Sao ông Trump không được giải Nobel Hòa Bình?- Hiếu Chân/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

October 10, 2025

Hiếu Chân/Người Việt

Cuộc tranh luận sôi nổi chung quanh triển vọng đoạt giải Nobel Hòa Bình 2025 của Tổng Thống Mỹ Donald Trump đã ngã ngũ vào rạng sáng Thứ Sáu, 10 Tháng Mười, sau khi Uỷ Ban Nobel Hòa Bình Na Uy (Norwegian Nobel Committee – NNC) công bố quyết định trao giải thưởng cho bà Maria Corina Machado – người lãnh đạo phe đối lập chống độc tài ở Venezuela. Toà Bạch Ốc ngay lập tức ra thông báo lên án NNC “đặt chính trị trên hoà bình.”

Tổng Thống Donald Trump. (Hình: Andrew Caballero-Reynolds/AFP via Getty Images)

Bất ngờ đến phút cuối

Sự kiện ông Trump không được nhận giải năm nay gây bất ngờ lớn cho nhiều người đã chắc mẩm thế nào giải năm nay cũng sẽ về tay nhà lãnh đạo dân tuý “do Chúa chọn” mà họ ủng hộ hết mình, dù bản thân ông Trump có lần bộc lộ một cách cay đắng rằng: “Họ sẽ không bao giờ trao cho tôi giải Nobel Hòa Bình. Thật đáng tiếc. Tôi xứng đáng, nhưng họ sẽ không bao giờ trao cho tôi.”

Vì nghĩ mình xứng đáng nên ông Trump đã nhiều lần yêu cầu chính phủ Na Uy trao giải cho mình, viện dẫn ông có công dàn xếp bảy cuộc xung đột lớn trên thế giới; thậm chí chính quyền của ông lặng lẽ gây áp lực đối với chính phủ Na Uy, buộc họ phải chọn ông để trao giải. Ông là ứng viên duy nhất làm như vậy do ông không nhận ra hoặc phớt lờ sự thật rằng NNC do Quốc Hội Na Uy bổ nhiệm nhưng hoạt động độc lập, không chịu sự chỉ đạo hay can thiệp của chính phủ; chính tính độc lập và khách quan của Ủy Ban Nobel là yếu tố tạo nên uy tín và danh giá của giải thưởng này. Đi xa hơn, trong cuộc “huấn thị” các tướng lãnh quân đội Hoa Kỳ hôm 30 Tháng Chín, ông Trump nói nếu ông không được giải Nobel Hòa Bình năm nay thì đó là “sự lăng nhục nước Mỹ” (!).

Ông Trump cũng là người duy nhất được nhiều nhà lãnh đạo quốc gia đề cử, hầu hết là những nhà độc tài, từ Pakistan, Azerbaijan, đến Cambodia và Israel. Có điều, sự đề cử của các nhà lãnh đạo này gần như chỉ là tâng bốc để ông Trump ban phát đặc ân cho họ mà không hoàn toàn dựa trên thành tích của ông hoặc dựa vào các tiêu chuẩn của giải Nobel. Tuyên bố của ông Trump trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc rằng ông có công dàn xếp bảy cuộc xung đột bị coi là một lời phóng đại, khoe khoang thành tích xa rời thực tế. Thủ Tướng Ấn Độ Narendra Modi chẳng hạn đã phủ nhận “công lao” của ông Trump dàn xếp vụ ngừng bắn giữa Ấn Độ và Pakistan mới đây khiến ông nổi giận và đánh thuế trừng phạt 50% đối hàng hóa Ấn Độ.

Công chúng thế giới dường như có cái nhìn khác với các chính trị gia. Ở mục theo dõi giải Nobel Hòa Bình 2025, trang mạng chuyên dự đoán (prediction) nổi tiếng Polymarket.com ghi nhận, trong ngày Thứ Năm, 9 Tháng Mười – một ngày trước khi công bố kết quả – tỷ lệ đặt cược vào các ứng viên hàng đầu thay đổi chóng mặt. Vào lúc 3 giờ 40 phút chiều, bà Yulia Navalnaya (vợ góa nhà đấu tranh dân chủ Alexei Navalny của Nga) dẫn đầu với 9%, tiếp theo là ông Donald Trump 4.5%, trên cả bà Maria Corina Machado 3.6%, và Đức Giáo Hoàng Leo XIV 0.3%. Nhưng tình hình thay đổi rất nhanh, đến 4 giờ 5 phút chiều, bà Maria Corina Machado vượt lên dẫn đầu với 43.4%, ông Trump xếp thứ hai với 4.8%, vượt qua bà Yulia 4.5%. Nửa giờ sau, lúc 4 giờ 30 phút, cơ hội để bà Maria giành giải Nobel tăng vọt lên 65.2% trong khi các ứng viên còn lại bị giảm, bà Yulia còn 3.5% và ông Trump chỉ còn 2.3% – và dao động quanh tỷ lệ này cho đến lúc NNC xướng danh người thắng giải vào lúc 11 giờ sáng ngày 10 Tháng Mười, giờ Na Uy.

Vì sao ông Trump không xứng đáng được giải?

Không thể phủ nhận Tổng Thống Trump có vai trò quan trọng thúc đẩy Israel và Hamas ký kết thỏa thuận ngừng bắn, trao đổi con tin và tù nhân sau hai năm chiến tranh đẫm máu ở dải Gaza. Chúng tôi đã có bài phân tích vai trò của ông Trump và kế hoạch hòa bình Gaza 20 điểm của ông trên trang báo này. Nhưng ngừng bắn chưa hẳn là hoà bình vĩnh viễn, và không ai dám đoan chắc thỏa thuận ngừng bắn vừa ký kết giữa Israel và Hamas sẽ chấm dứt xung đột. Trong lịch sử, người ta thấy sau Hiệp Định Paris vào Tháng Giêng, 1973 chấm dứt chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, giải Nobel Hòa Bình 1973 được trao cho hai ông Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, cuộc chiến vẫn tiếp tục diễn ra ác liệt dẫn tới sự sụp đổ của chính thể VNCH chỉ hai năm sau đó.

Công lao của ông Trump ở Gaza là rất đáng tuyên dương nhưng đóng góp muộn màng ấy không đủ để xóa đi tác động mà những chính sách gây tranh cãi của chính quyền Trump gây ra cho nước Mỹ và cộng đồng quốc tế. Và đây chính là lý do mà ông Trump chưa được trao giải Nobel, chưa được có tên trên bảng vàng danh dự những người đóng góp lớn cho hòa bình thế giới.

Ngay sau khi kết quả xét chọn giải Nobel Hòa Bình 2025 được công bố, trên trang Foreign Policy In Focus (FPIF), ông Clarence Lusane, giáo sư khoa chính trị học kiêm giám đốc chương trình nghiên cứu quốc tế của đại học Howard University ở thủ đô Washington, DC, đã viết một bài dài chỉ ra 10 lý do khiến ông Trump không xứng đáng với giải thưởng cao quý đó.

Theo Giáo Sư Lusane, ông Trump đã có các chính sách phản hòa bình như ân xá cho 1,500 tù nhân gây ra vụ bạo loạn ngày 6 Tháng Giêng, 2021, chiến dịch chống người nhập cư tàn bạo, đóng cửa cơ quan viện trợ phát triển USAID, đưa Vệ Binh Quốc Gia và quân đội đến các thành phố, đe doạ xâm chiếm Canada, Greenland, và kinh đào Panama, trừng phạt Brazil và Tòa Hình Sự Quốc Tế vì “tội” truy tố các đồng minh chính trị của ông, ném bom cơ sở nguyên tử của Iran và rút Mỹ ra khỏi các tổ chức quốc tế quan trọng; chưa kể việc tấn công giết người mà không xét xử, không có chứng cứ tội phạm trên vùng biển quốc tế gần Venezuela mới đây.

“Chính sách chuyên chế của ông ấy nhằm định hình lại nước Mỹ và hạ thấp tất cả các định chế chính quyền, xã hội, tài chính, và văn hóa, tự nó là một mối đe doạ hòa bình”… “Chính sách cai trị độc tài và phản dân chủ của ông ngày càng trở nên nguy hiểm và tai hại hơn, không chỉ đối với Hoa Kỳ mà còn đối với toàn bộ cộng đồng quốc tế,” Giáo Sư Lusane viết và cho rằng ông Trump chẳng những không đủ tiêu chuẩn để được giải mà còn “đáng bị loại khỏi danh sách đề cử.”

Một cuộc thăm dò của Washington Post-Ipsos cho thấy 76% người Mỹ không cho rằng ông Trump xứng đáng với giải thưởng Nobel, bao gồm 49% người Cộng Hòa.

Dân chủ là điều kiện của hoà bình

Uỷ Ban Nobel Hòa Bình, trong thông cáo báo chí phát hành cùng với việc xướng danh người được giải, nhận định: “Dân chủ là điều kiện tiên quyết của hòa bình bền vững. Nhưng chúng ta đang sống trong một thế giới mà dân chủ đang thoái trào, ngày càng nhiều các chế độ chuyên chế thách thức các quy tắc và lạm dụng bạo lực… Chúng ta đang chứng kiến một xu hướng toàn cầu: Pháp quyền bị các nhà cai trị lạm dụng, truyền thông tự do bị bịt miệng, người phản biện bị cầm tù và các xã hội bị đẩy về hướng chuyên chế, quân sự hóa.”
Bà Maria Corina Machado, 58 tuổi, hiện đang phải lẩn trốn sự truy lùng của nhà cầm quyền của Tổng Thóng Nicolas Maduro, được cho là người “đang đấu tranh không mệt mỏi để thúc đẩy các quyền dân chủ cho người dân Venezuela và cho sự chuyển tiếp hòa bình từ độc tài sang dân chủ.” Trao giải Nobel cho bà, NNC muốn “giữ ngọn lửa dân chủ cháy sáng trong bóng tối ngày càng dày đặc,” thông cáo viết.

Xem ra, với NNC, hòa bình gắn liền với dân chủ, chỉ thể chế dân chủ mới bảo đảm mối quan hệ hòa bình giữa các dân tộc; ngược lại, các thể chế độc tài thường sử dụng bạo lực để tranh đoạt và duy trì quyền lực. Chiến tranh xâm lược của Nga tại Ukraine, vụ tấn công hèn hạ và dã man của tổ chức Hamas vào Israel cũng như vụ trả đũa tàn khốc vào người Palestine của chính quyền cực hữu Do Thái cho thấy ở đâu thiếu vắng dân chủ thì bạo lực lộng hành và hòa bình bị thủ tiêu trong bom đạn.

Cần tôn vinh những người bảo vệ dân chủ

“Khi các nhà chuyên chế nắm quyền lực, điều cấp bách là phải công nhận những người bảo vệ dũng cảm của tự do, những người đứng lên và phản kháng. Dân chủ phụ thuộc vào những người không chấp nhận im lặng, những người dám tiến về phía trước bất chấp rủi ro sinh tử, và những người nhắc nhở chúng ta rằng tự do không bao giờ là thứ mặc nhiên được hưởng mà phải luôn được bảo vệ – bằng ngôn từ, với lòng can đảm và cương quyết,” thông cáo của NNC khẳng định.

Quan điểm về hòa bình, dân chủ, tự do như vậy đã là nền tảng tư tưởng để NNC trao giải Nobel Hòa Bình cho các nhà đấu tranh dân chủ như Nelson Mandela của Nam Phi, Martin Luther King Jr. của Mỹ, Aung San Suu Kyi của Miến Điện, Lưu Hiểu Ba của Trung Quốc, và mới đây là Malala Yousafzai của Afghanistan (2014). Việc trao giải cho bà Maria Corina Machado năm nay tiếp tục xu thế đó.

Uỷ Ban Nobel không nhắc tới ông Trump và các ứng viên khác, nhưng rõ ràng quan điểm lựa chọn của họ hoàn toàn trái ngược với ông Trump, với đường lối mà ông đang thực hiện ở Mỹ theo hướng ngày càng độc tài chuyên chế, xa rời các chuẩn mực dân chủ, pháp quyền. Nếu ông Trump không thay đổi chính sách thì không chỉ năm nay mà trong nhiều năm tới, ông vẫn chưa thể chạm tay vào giải Nobel Hòa Bình danh giá dù ông có khao khát đến đâu. Một cuộc khảo sát dư luận của YouGov UK công bố sáng 10 Tháng Mười ghi nhận có tới 69% người Anh cho rằng trong tương lai, ông Donald Trump không nên được trao giải Nobel Hòa Bình, chỉ có 14% cho rằng ông xứng đáng, và 17% không có ý kiến. [đ.d.]


 

NGƯỜI ANH HÙNG TRÊN CON TÀU ĐỊNH MỆNH KG 3640

Tỵ Nạn Bidong 

NGƯỜI ANH HÙNG TRÊN CON TÀU ĐỊNH MỆNH KG 3640

(Kỷ niệm về một người lính Thủy Quân Lục Chiến VNCH – anh Tài Công)

Kỷ niệm không thể phai

Nếu ai hỏi tôi, kỷ niệm nào sâu đậm nhất trong hành trình vượt biển tìm tự do – trước khi đặt chân lên đảo Pulau Bidong, tôi sẽ không ngần ngại mà nói:

“Đó là hình ảnh anh Tài Công, người Thủy Quân Lục Chiến của tàu chúng tôi – KG 3640, số thứ tự 367.”

Giữa biển trời sinh tử

Hôm ấy, con tàu ọp ẹp chở đầy những người bỏ xứ ra đi, dập dềnh giữa trùng khơi mênh mông. Nước tràn dần vào khoang, thân tàu rệu rã.

Trước mặt chúng tôi là đất liền Mã Lai – chỉ hơn hai trăm mét, gần trong tầm mắt mà xa như cõi mơ.

Bất ngờ, tiếng quát tháo và súng nổ vang lên từ phía bờ.

Bọn lính Mã Lai đứng thành hàng, nòng súng chĩa thẳng ra khơi, xua đuổi con tàu nhỏ bé đang thoi thóp.

Những phát đạn thị uy rít lên trên mặt sóng, tiếng gió hòa cùng tiếng khóc của phụ nữ, tiếng nức nở của trẻ em. Không khí trên tàu bao trùm nỗi tuyệt vọng.

Khoảnh khắc người lính bước ra ánh sáng

Giữa giây phút ấy, anh Tài Công – cựu sinh viên Đại học Phú Thọ, người lính Thủy Quân Lục Chiến VNCH – đứng bật dậy.

Gương mặt sạm nắng, đôi mắt sáng quắc, anh bước ra mũi tàu.

Không một lời hô hào, anh nhảy xuống biển, bơi thẳng vào bờ, giữa làn đạn rít và sóng dữ.

Trước những nòng súng lạnh lùng đang chĩa thẳng vào mình, anh không hề run sợ.

Giữa gió biển và tiếng sóng, anh cất cao giọng – tiếng Anh vang dội, mạnh mẽ và đầy khí phách:

“Con tàu này đã thủng đáy, không thể ra khơi nữa!

Trên tàu là những con người vô tội – phụ nữ, trẻ em, người già.

Các anh có thể nhẫn tâm xua họ đi vào chỗ chết sao?”

Giọng anh vang lên như tiếng sét giữa biển trời, làm khựng lại những bước chân đang hung hăng.

Ánh mắt anh sáng rực, cứng rắn mà nhân hậu – ánh mắt của người lính từng quen nhìn thẳng vào cái chết, nhưng vẫn chọn cứu người.

Khi lòng can đảm lay động bạo lực

Toán lính Mã Lai, thoáng chốc lúng túng.

Rồi, như bị khuất phục bởi khí phách và lẽ phải, họ hạ súng, ra hiệu cho con tàu được phép tiến gần bờ.

Lúc ấy, tàu đã nghiêng ngả, thân tàu vỡ toác.

Mọi người dìu dắt nhau, bồng bế trẻ em, lội dần vào đất liền trong nước mắt, giữa tiếng gió và tiếng cầu nguyện.

Những bước chân yếu ớt nhưng chan chứa niềm tin vào sự sống –

và trong tim tất cả, hình ảnh người lính ấy hiên ngang, bất khuất, nhân từ.

Sau bốn mươi lăm năm nhìn lại

Đã hơn bốn mươi lăm năm trôi qua…

Nhưng trong ký ức tôi, hình ảnh anh Tài Công – người lính Thủy Quân Lục Chiến VNCH trên con tàu KG 3640 vẫn còn nguyên vẹn.

Anh – người đã dám đứng lên, dám bước ra khỏi cái chết, để mở đường sống cho đồng bào mình.

Không ai phong anh là anh hùng.

Nhưng trong lòng chúng tôi – những người sống sót – anh mãi là người anh hùng vô danh của biển cả, người đã viết nên một trang sáng chói trong hành trình thuyền nhân vượt biển tìm tự do.

Lời gọi hồn biển

Giờ đây, giữa cuộc sống bình yên nơi đất mới, đôi khi tôi vẫn tự hỏi:

“Anh ở đâu, anh Tài Công của con tàu KG 3640?

Anh còn nhớ chuyến tàu định mệnh năm ấy chăng?”

Nếu một mai có dịp gặp lại, tôi chỉ muốn cúi đầu nói một lời:

“Cảm ơn anh – người lính Thủy Quân Lục Chiến của quê hương tôi.”

Những người muôn năm cũ – Hồn ở đâu bây giờ?

Xin nguyện thắp nén hương lòng,

Tưởng nhớ và tri ân anh – người anh hùng giữa lòng biển lớn.


 

CÁCH TA CÚI XUỐNG

U 70 LVC.

Thầy Lê Văn Thông

 CÁCH TA CÚI XUỐNG

Buổi trưa, khu vườn nhỏ trước tòa nhà lớn ngập nắng. Một người phụ nữ sang trọng cùng cậu con trai nhỏ ngồi trên ghế đá. Họ vừa ăn, vừa trò chuyện vui vẻ. Rồi người phụ nữ tiện tay ném tờ giấy gói xuống đất.

Một ông lão mặc bộ đồ làm vườn cũ kỹ, lặng lẽ bước đến nhặt, bỏ vào thùng rác. Bà ta nhìn thấy, nhưng chẳng mảy may quan tâm. Vài phút sau, hành động ấy lặp lại — rồi lại lặp lại. Ba lần như thế, ông vẫn kiên nhẫn cúi xuống, không nói một lời.

Người phụ nữ khẽ cười với con trai:

— Con nhìn đi, nếu không chịu học, sau này con cũng chỉ có thể làm những việc thấp hèn như ông ấy thôi.

Ông lão dừng tay, giọng trầm nhưng nhẹ:

— Cô vào đây bằng cách nào vậy? Đây là khu riêng của tập đoàn.

Người phụ nữ đáp, vẻ kiêu hãnh:

— Tôi vừa được nhận vào làm ở bộ phận quản lý.

Đúng lúc ấy, một chàng trai trẻ hối hả chạy đến:

— Thưa tổng giám đốc, cuộc họp sắp bắt đầu rồi ạ!

Không khí lặng đi. Người phụ nữ sững sờ, mặt thoáng tái. Ông lão đặt kéo xuống, điềm nhiên nói:

— Hủy quyết định tuyển dụng của cô này.

Rồi ông bước tới bên cậu bé, khẽ vuốt tóc, giọng dịu dàng mà ấm áp:

— Cháu à, học hành là để trở thành người tử tế, chứ không phải để đứng trên ai khác. Không có công việc nào là hèn mọn — chỉ có những con người tự đánh mất phẩm cách mới trở nên nhỏ bé thôi.

Cơn gió chiều lướt qua, làm tà váy người mẹ khẽ run. Cậu bé cúi đầu, ánh mắt bỗng khác đi.

Giữa khu vườn ngập nắng, ông lão lại cúi xuống, tiếp tục tỉa những nhành cây non.

Dáng ông bình dị, nhưng trong từng lần cúi ấy — là cách một con người giữ gìn sự cao quý của chính mình.

(LVT sưu tầm và biên tập lại)


 

NGƯỜI ĐƯỢC DẠY TỬ TẾ – NHÌN LÀ BIẾT

Lương Văn Can

 NGƯỜI ĐƯỢC DẠY TỬ TẾ – NHÌN LÀ BIẾT

Không phải ai học giỏi cũng là người có giáo dục.

Không phải cứ giàu có, thành đạt là sống đàng hoàng.

Người được dạy tử tế không phải ở cái miệng hay nói đạo lý, mà nằm trong từng cách họ cư xử mỗi ngày.

Và thật ra, nhìn một người có được dạy tử tế hay không, chỉ cần quan sát vài điều sau.

  1. Gặp chuyện không vừa ý, họ vẫn không làm người khác tổn thương

Ai cũng có lúc tức giận. Nhưng người được dạy đàng hoàng sẽ không trút giận lên người khác, không mắng nhân viên, không đổ lỗi lung tung.

Họ chọn cách giải quyết trong im lặng, nói chuyện đàng hoàng, giữ cho người khác thể diện.

Họ không cần phải hơn trong lời nói. Họ chỉ cần không khiến ai phải đau vì mình.

  1. Họ biết tự làm, không ỷ lại

Người được dạy tử tế không chờ ai sai bảo mới làm. Họ biết rửa bát, biết thu dọn, biết lau cái bàn dính bẩn mà không phải trách: “Cái này của ai?”

Lớn lên trong một mái nhà dạy điều hay lẽ phải, họ hiểu rõ: sống đâu phải để người khác phục vụ mình mãi.

Một người biết dọn nhà, biết cất chăn gối sau khi ngủ dậy – cũng thường là người biết dọn dẹp cuộc sống của mình cho gọn gàng, tử tế.

  1. Không lên giọng với ai – cả khi có quyền

Người tử tế không cần chứng minh mình là ai.

Càng có địa vị, họ càng khiêm nhường. Gặp người yếu thế hơn, họ không nói kiểu dạy đời. Với người lớn tuổi, họ vẫn lễ phép.

Đi làm, không chèn ép cấp dưới. Đi mua hàng, không xem thường người bán. Gặp nhân viên bảo vệ, họ vẫn cúi đầu chào.

Vì họ được dạy rằng: không có ai nhỏ đến mức đáng bị khinh.

  1. Họ biết ơn và nhớ ơn

Người sống tử tế không quên người đã giúp mình lúc khó. Không quay lưng khi đã khá hơn. Không lên tiếng chối bỏ quá khứ.

Họ không nói “tôi tự cố gắng nên mới được như hôm nay” – vì họ biết, một chén cơm ăn nhờ ngày xưa cũng là cái ơn phải nhớ.

Biết ơn là nền móng của đạo đức. Người vô ơn, sớm muộn gì cũng tự phá mình.

  1. Ở cạnh họ – thấy nhẹ lòng

Người sống tử tế không khiến người khác mệt. Họ không lên mặt, không chen ngang, không soi mói, không làm bạn phải phòng bị.

Nói chuyện với họ thấy dễ thở. Nhờ họ giúp việc gì thấy yên tâm. Không gặp thường xuyên, nhưng nghĩ đến là thấy quý.

Vì họ sống không bon chen. Không làm người khác khó chịu. Không cố gắng chứng minh điều gì.

Họ hiện diện, là một sự bình yên.

Người học cao, chưa chắc đã sống có giáo dục. Nhưng người sống tử tế chắc chắn đã từng được dạy bằng yêu thương.

Không cần đạo lý cao siêu. Chỉ cần dạy một đứa trẻ biết tự gấp mền, biết nói cảm ơn, biết xin lỗi khi sai – là đủ để lớn lên thành một người không làm ai phải khổ.

Xã hội này không thiếu người giỏi. Chỉ thiếu những người biết sống sao cho người khác thấy ấm lòng.

Cre: Hoàng Nguyên Vũ

———-

NGÔI NHÀ TINH THẦN CỦA PHỤ NỮ VIỆT.

Chuyên gia trị liệu hôn nhân và tham vấn cá nhân.


 

NGƯỜI VIỆT CỐ GIÀU LÊN ĐỂ LÀM Gì?

Nguyễn Hoành  

 Bài hay quá!

NGƯỜI VIỆT CỐ GIÀU LÊN ĐỂ LÀM Gì?

(Nhạc sĩ Tuấn Khanh’s Blog, tháng 10/2017)

Trong những ngày mưa ngập lụt lội nhiều nơi tại Việt Nam, có một người đàn ông đi xe hơi hạng đắt tiền đã giận dữ bỏ đi giữa làn nước, vốn đã lên đến thắt lưng, để lại chiếc xe của mình một cách đau đớn bất lực. Như hàng vạn người nghèo khó khác đã ngụp lặn, lội qua giòng nước ô nhiễm đó, chèo kéo từng chiếc xe Honda, xe đạp của mình để về nhà, người đàn ông đó chắc cũng có chung một câu hỏi không lời đáp về tương lai mà tiền của là vô nghĩa trước những biến động đang ập đến ngay cửa nhà mình.

Qua những biểu đạt than phiền về ngập lụt khắp nơi, qua các trang mạng hay báo chí, có thể thấy rằng không phải con người Việt Nam đã quá sức chịu đựng, mà họ như sực tỉnh trước một giấc mộng dài được vỗ về bởi những người lãnh đạo về sự hoa lệ của đô thị, về những chỉ số phát triển… nhưng chỉ trong tíc tắc đã lộ ra rằng mọi thứ chỉ là sân khấu tạm thời rực rỡ. Khi cánh màn nhung và những lời tuyên bố vừa dứt, hiện thực đã hiện ra tàn nhẫn với tương lai về nhà đen ngòm.

Người Việt rầm rộ làm giàu từ nhiều năm nay, tập bỏ quên mọi thứ khác chung quanh mình, mà tưởng chừng miếng cơm manh áo no đủ sẽ giải quyết tất cả, nhưng mọi thứ lại không phải như vậy.

Chưa bao giờ người Việt ào ạt in và ngấu nghiến đọc những công thức dạy làm giàu, dạy thành đạt như bây giờ. Thậm chí liều thuốc cường dương dựng đứng giấc mơ thành đạt của Mã Vân (Jack Ma) cũng được nhắc đi nhắc lại như một kim chỉ nam “quá 35 tuổi mà còn nghèo là tại bạn”. Thế nhưng những phong trào uống, chích các loại thuốc như vậy không hề có việc ghi chú chống chỉ định rằng việc thành đạt nóng, phải giàu có cho bằng được đôi khi cũng tạo ra loại ác thú núp kín sau bộ mặt niềm nở với đồng loại của mình.

Rất nhiều người trẻ ở Việt Nam muốn nhanh giàu có, nên đã bơm hoá chất vào heo gà và rau xanh, hoặc trở thành những kẻ cướp máu lạnh. Tệ hơn nữa là những kẻ luồn lách và làm giàu bằng gian lận và tham nhũng tiền thuế của nhân dân. Làm giàu và khoe giàu đã trở thành một tín chỉ quan trọng để vuơn lên, leo vào một chuồng trại khác trong xã hội Việt Nam hôm nay. Già hay trẻ cũng vậy! Sự tôn thờ vật chất đã có rất nhiều ví dụ đau lòng như con giết cha mẹ để lấy nhà, lấy đất cho đời thụ hưởng.

Nhưng rồi sự giàu có đó, sự tách biệt hãnh tiến đó bất chợt vỡ toang như những chiếc bong bóng xà phòng khi cơn mưa đem lụt lội đến. Họ nhận ra rằng mặt bằng cuộc sống không an sinh, không có gì cân bằng với giáo dục, môi trường, an ninh… Mọi hợp đồng bảo hiểm chỉ là trò tận thu chứ không hề cứu rỗi lúc tai ương. Mọi lời hứa vĩ đại trôi qua năm tháng, chìm vào hiện thực. Tương tự như sự kiện “ngày đen tối” của thị trường chứng khoán Việt Nam ảnh hưởng bởi thị trường chứng khoán Trung Quốc, trong tháng 9/2015 với gần 10 tỷ USD bốc hơi trong vài ngày, đã nhắc khéo rằng dường như mọi lâu đài đang được dựng lên bằng ảo tưởng của một đám đông, và bằng thực tế đáng giá của một vài kẻ đứng sau cánh gà.

Một chị bạn để dành được ít tiền sau những năm dài vật lộn mưu sinh, đã gọi hỏi tôi rằng có cách nào đưa con đi du học nước ngoài thật nhanh. Khi tôi hỏi lý do vì sao chị gấp gáp như vậy, thì câu trả lời – không phải của riêng một người – rằng chị cảm thấy lo lắng và muốn đưa con đến một môi trường sống và giáo dục tốt hơn. Một thế hệ mới của người Việt đang tự cào cấu với khát vọng đổi thay cuộc sống của mình nhưng bất lực, nên đành chọn cách chạy đi?

Câu chuyện của chị bạn xảy đến cùng lúc với tin những học trò nghèo ở Huế chưa đóng được học phí bị bêu tên dưới cột cờ. Công ty Tôn Hoa Sen kêu gọi từ thiện nhưng chặn nguồn nước của dân thiểu số ở Đạ Mri đế ép lấy đất. Công ty Tân Hiệp Phát thì thay vì xin lỗi người tiêu dùng, bãi nại cho người tố cáo sản phẩm lỗi bị gài bẫy đi tù… thì thay giám đốc người nước ngoài để rửa mặt. Và ở Hà Nội, quan lại chia nhau cai trị trong họ hàng của mình ở huyện Mỹ Đức.

Đã có bao nhiêu người Việt đang gắng làm giàu, chỉ để tìm cách cho mình hay con em mình rời xa quê hương? Chắc không ít, và cũng chắc chắn không phải là một khuynh hướng tạm thời.

Nhan nhãn trên các trang báo, cũng như tin nhắn rác, là các dịch vụ môi giới đầu tư hay học nghề… ám chỉ việc ra đi, định cư ở nước ngoài. Một người bạn làm công việc này cho biết lượng người gọi vào, tìm hiểu, làm đơn hay hy vọng đang tăng đến mức kinh ngạc, thậm chí diện EB-5 của Mỹ, đòi hỏi phải có ít nhất 500.000 USD cũng vậy . Trong các bài phóng sự đuợc dịch từ báo nước ngoài cho thấy người Trung Quốc làm ra tiền đang ùn ùn tìm cách chuyển tài sản ra khỏi nước hoặc tìm cách di cư sang các nước phương Tây. Chỉ tính trong 10 năm, từ năm 2000 đến 2011, Trung Quốc đã chảy máu hơn 3.500 tỷ USD do người giàu Trung Quốc chuyển ra ngoài.

Chưa có con số thống kê nào về người Việt Nam nhưng tin tức vẫn hay hé mở cho biết các đại gia Việt luôn trong thế “an toàn” khi tất cả nhà cửa, tài sản, gia đình… được sắp xếp ở Mỹ, Canada… thậm chí ở ngay Singapore. Cũng như người Trung Quốc, họ đã cố gắng làm giàu bằng mọi cách trên quê hương mình nhưng không chọn tồn tại ở nơi đó. Điều này có ý nghĩa gì?

Có cái gì đó thật khó nghĩ về cách vồ vập muốn làm giàu của người Việt hôm nay, kể cả cách sau đó họ che mặt ra đi, bất chấp Việt Nam vẫn đang sáng rực tên trên các bản tin bình chọn là một trong những quốc gia hạnh phúc và đáng sống nhất thế giới.

Trong bài thơ Quê hương của nhà thơ Đỗ Trung Quân, đời thật đẹp với những chùm khế ngọt. Nhưng dường như một lớp người Việt hôm nay không chỉ tranh nhau hái trái, đốn hạ cây mà âm mưu sở hữu bán cả mảnh đất cha ông đã trồng cây để đầy túi. Nhưng lạ thay, sau đó họ lại lặng lẽ gói ghém ra đi thật xa. Người Việt đang cố gắng làm giàu thật nhanh rồi như vậy, vì sao?

Xin đừng ai trả lời. Đừng nói một lời nào cả. Chúng ta hãy cùng lặng im và suy ngẫm.

Cóp từ FB Bùi Quang Minh


 

Sự trung thực là khi ta giữ vững liêm chính

Chi NguyenNhững Câu Chuyện Thú Vị

Một du khách nước ngoài cố gắng bắt một chiếc taxi tại Tokyo. Do rào cản ngôn ngữ, vị khách chỉ có thể nói tên địa điểm mà mình muốn đến. Tài xế taxi hiểu và gật đầu, sau đó lịch sự mở cửa để hành khách bước lên.

Khi chuyến đi bắt đầu, tài xế bật đồng hồ tính tiền. Một lúc sau, anh tắt đồng hồ, rồi bật lại sau đó. Hành khách cảm thấy bối rối nhưng không nói gì.

Khi đến nơi, vị khách đề nghị những người đón tiếp:

“Giúp tôi hỏi tài xế taxi tại sao anh ta lại tắt đồng hồ tính tiền một lúc trong chuyến đi.”

Người tài xế, khi được hỏi, đã thật thà trả lời: “Tôi đã phạm sai lầm. Tôi bỏ lỡ ngã rẽ và phải quay đầu ở điểm tiếp theo khá xa. Vì sai lầm của tôi, chúng tôi phải đi thêm khoảng 2 đến 2,5 km. Trong suốt quãng đường đó, tôi đã tắt đồng hồ tính tiền. Tôi không thể tính tiền hành khách cho quãng đường tăng lên do lỗi của mình”.

Sự trung thực là khi ta giữ vững liêm chính, ngay cả khi không ai nhìn thấy hay hiểu được.

Trang: TokyoLife

Nguồn fb: Tuấn Mai SG

Bài sưu tầm


 

Sự tha thứ: 15 Trích dẫn từ các Vị Thánh

1.Thánh Kosmas Aitolos

“Nếu có người sỉ nhục tôi, giết cha tôi, mẹ tôi, anh em tôi, rồi móc mắt tôi, thì là một Kitô hữu, tôi có nghĩa vụ phải tha thứ cho người đó. Chúng ta, những Kitô hữu ngoan đạo, phải yêu thương kẻ thù và tha thứ cho họ. Chúng ta phải cho họ ăn uống, và cầu xin Chúa cho linh hồn họ. Và sau đó chúng ta nên nói: ‘Lạy Chúa, con xin Chúa tha thứ cho con, như con đã tha thứ cho kẻ thù của con.’”

  1. Thánh Mark the Ascetic

“Sự tha thứ cho những lời xúc phạm là dấu hiệu của tình yêu đích thực, không giả dối. Vì Chúa cũng yêu thế gian này như vậy.”

  1. Thánh Maximos the Confessor

“Một linh hồn được nuôi dưỡng bằng sự thù hận đối với con người không thể bình an với Chúa, Đấng đã phán: Nếu các ngươi không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha lỗi cho các ngươi (Mat. 6:15). Nếu một người không muốn hòa giải, ít nhất bạn phải tự bảo vệ mình khỏi sự thù hận, cầu nguyện với một tấm lòng trong sạch cho người đó, và không nói xấu về người đó.”

  1. Thánh Silouan the Athonite

“Chúa Kitô đã cầu nguyện cho những người đóng đinh Ngài: ‘Lạy Cha, xin đừng tính tội này cho họ; vì họ không biết họ làm gì.’ Phó tế Stephen đã cầu nguyện cho những người ném đá ông để Chúa không xét tội này cho họ. Và vì vậy, chúng ta, nếu muốn giữ được ân sủng, phải cầu nguyện cho kẻ thù của mình. Nếu bạn không thương xót một tội nhân sẽ phải chịu đau khổ trong ngọn lửa, thì bạn không mang ân sủng của Chúa Thánh Thần, mà là một tà linh; và trong khi bạn còn sống, bạn phải tự giải thoát mình khỏi nanh vuốt của hắn thông qua sự ăn năn.”

  1.  Thánh Tikhon of Zadonsk

“Chúng ta từ chối tha thứ sao? Chúa cũng sẽ từ chối tha thứ cho chúng ta. Chúng ta đối xử với người lân cận như thế nào, thì Chúa cũng đối xử với chúng ta như vậy. Sự tha thứ hay không tha thứ tội lỗi của bạn, và do đó cả sự cứu rỗi hay hủy diệt của bạn, đều phụ thuộc vào chính bạn. Vì không có sự tha thứ tội lỗi thì không có sự cứu rỗi. Bạn có thể tự mình thấy nó nghiêm trọng đến mức nào.”

  1. Thánh Joseph of Optina

“Cầu nguyện là thức ăn cho linh hồn. Đừng để linh hồn đói khát, thà để thân xác đói còn hơn. Đừng phán xét bất cứ ai, hãy tha thứ cho tất cả mọi người. Hãy coi mình tồi tệ hơn tất cả mọi người trên thế giới và bạn sẽ được cứu. Càng nhiều càng tốt, hãy im lặng hơn.”

  1. Thánh John of Kronstadt

“Là Đấng thấu suốt lòng người, Chúa biết rằng con người dễ phạm tội rất thường xuyên, và rằng, sau khi vấp ngã, họ thường đứng dậy trở lại; vì vậy Ngài đã ban cho chúng ta điều răn phải thường xuyên tha thứ cho những lỗi lầm, và chính Ngài là người đầu tiên thực hiện lời thánh thiện của Ngài. Ngay khi bạn nói từ tận đáy lòng, ‘Tôi ăn năn,’ bạn sẽ được tha thứ ngay lập tức.”

  1. Thánh Augustine of Hippo

“Chúa đã hứa tha thứ cho sự ăn năn của bạn, nhưng Ngài không hứa ngày mai cho sự trì hoãn của bạn.”

  1. Thánh Silouan the Athonite (2)

“Chúng ta có một luật như vậy: Nếu bạn tha thứ, điều đó có nghĩa là Chúa đã tha thứ cho bạn; nhưng nếu bạn không tha thứ cho anh em mình, điều đó có nghĩa là tội lỗi của bạn vẫn còn với bạn.”

  1. Thánh Theophan the Recluse

“Nếu bạn đã phạm tội, hãy thừa nhận tội lỗi và ăn năn. Chúa sẽ tha thứ tội lỗi và một lần nữa ban cho bạn một tấm lòng mới…và một tinh thần mới (Ez. 36:26). Không có cách nào khác: Hoặc đừng phạm tội, hoặc hãy ăn năn.”

  1. Thánh Nikolai Velimirovich

“Hoàn toàn không có gì sẽ giúp chúng ta nếu chúng ta không khoan dung với những điểm yếu của con người và tha thứ cho họ. Vì làm sao chúng ta có thể hy vọng rằng Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta nếu chúng ta không tha thứ cho người khác?”

12. Thánh Isaac the Syrian

“Không có tội nào không thể được tha thứ ngoại trừ tội thiếu sự ăn năn, và không có món quà nào không được tăng thêm trừ món quà còn lại mà không được thừa nhận. Vì phần của kẻ ngu dốt là nhỏ bé trong mắt hắn.”

  1. Thánh George Karslides

“Hãy yêu thương tất cả những người anh em của bạn, ngay cả kẻ thù của bạn. Đây là điều cơ bản nhất. Luôn luôn yêu thương không chỉ những người yêu thương chúng ta, mà còn cả những người ghét chúng ta. Chúng ta hãy tha thứ cho họ và yêu thương tất cả họ ngay cả khi họ đã làm điều ác lớn nhất với chúng ta; khi đó chúng ta thực sự là con cái của Chúa. Khi đó tội lỗi của chúng ta cũng được tha thứ.”

14. Thánh Barsanuphios of Optina

“Lạy Chúa, xin ban cho chúng con, nếu chúng con không thể yêu thương kẻ thù của mình, ít nhất là tha thứ cho họ.”

  1. Thánh Cyril of Jerusalem

“Nếu bạn có bất cứ điều gì chống lại bất kỳ người nào, hãy tha thứ cho nó: bạn đến đây để nhận được sự tha thứ tội lỗi, và bạn cũng phải tha thứ cho người đã phạm tội với bạn. Nếu không, với khuôn mặt nào bạn sẽ nói với Chúa, ‘Xin tha thứ cho tôi những tội lỗi của tôi’, nếu bạn chưa tự mình tha thứ cho người đồng nghiệp của mình ngay cả những tội lỗi nhỏ của anh ta.” Nguon: 

https://www.reddit.com/r/OrthodoxChristianity/comments/v9nqoz/forgiveness_15_quotes_from_the_saints/?tl=vi