BÀ TIẾN HAY ÔNG LÙI CŨNG RỨA THÔI.

Nguyễn Hoành 

 Bài viết hơi dài “đụng chạm đến nhiều người” xin mọi người hãy chịu khó đọc hết nhé!

BÀ TIẾN HAY ÔNG LÙI CŨNG RỨA THÔI.

Câu chuyện như sau:

Năm 2008 tôi về Quảng Ngãi tìm tư liệu và chuẩn bị làm phim về cụ Huỳnh Thúc Kháng. Khi đang chụp ảnh phần mộ của cụ trên núi Thiên Ấn thì một bác già khả kính đến nói với tôi:

– Anh làm ơn chụp cho đoàn bác vài kiểu ảnh kỷ niệm. Máy bác hết phim ( hồi đó còn chụp bằng phim).

Nói rồi ông gửi tôi cái danh thiếp và hẹn gặp lại ở nhà khách UBND tỉnh Quảng Ngãi gần đường Hùng Vương.

Nhìn tấm danh thiếp tôi khoái ngay và chỉ sau một giờ tôi đã đem đến nhà khách biếu quý khách một bộ ảnh rất đẹp, không lấy tiền.

Cảm kích vì nghĩa cử đó và nhận ra mình là đồng hương, quê tôi ở Cẩm Khê, nhà ông ở Xuân Huy, Lâm Thao một làng nhiều Tiến sỹ nhất Việt Nam từ năm …1970 chỉ cách nhau hơn chục cây số, ông tiếp tôi rất nồng hậu.

Khi tôi khéo léo hỏi ông (có ghi âm) về chuyện Y đức thì vị giáo sư bạc đầu này nhận ra ngay.

Ông nói:

-Tôi không trả lời anh đâu, nhưng tôi kể cho anh nghe câu chuyện của chính gia đình tôi, rồi anh làm gì thì làm.

Tôi nghe xong câu chuyện mà xúc động. Câu chuyện này có lẽ đủ tư cách giải thích tất thảy những chuyện vui buồn của ngành y tế, từ chuyện tiêm vacxin chết người đến chuyện Cát Tường, chuyện dịch sởi v.v…

Dưới đây là câu chuyện của GS Võ Như Lành.

-Một lần tôi về phép đúng vào dịp người em tôi bị đau vùng bụng cấp, rất nguy kịch, phải đi bệnh viện ngay ban đêm.

Là nhà nghề tôi leo lên xe đi cùng. Vào khu vực phòng cấp cứu, tôi vui mừng nhận ra vị trưởng phòng cấp cứu là BS Huy, một học trò giỏi của tôi trong trường y.

Khi khiêng băng ca vào phòng, hai lần tôi giáp mặt với BS Huy nhưng tôi chợt nhận thấy hình như anh ta không muốn chào tôi.

Anh đeo khẩu trang nhưng làm sao tôi quên được vầng trán, ánh mắt, dáng đi của một SV đặc biệt đã học tôi 6 năm trời.

Và đêm ấy, theo gợi ý của cô y tá và sự chỉ dẫn của một người lạ, người nhà tôi phải chi ra 2 triệu bôi trơn cho kíp mổ.

Một tuần sau em tôi ra viện.

Tôi cầm tiền lên thanh toán viện phí và chủ trương đối diện với tay sinh viên xưa, nay đã trở thành kẻ bất trị này.

Khi tôi vào phòng y vụ, vừa chìa giấy tờ ra thì cô nhân viên chừng 30 tuổi đứng bật dậy, giọng nói trầm ấm, thân tình:

-Mời thầy đi theo em.

Mặc dù tôi chưa dậy cô này ngày nào nhưng nghe giọng nói thân thiện, tác phong rất chân tình, tôi vô thức bước theo cô.

Cô đưa tôi lên thẳng phòng …cấp cứu. Đến cửa, cô nói:

-Mời thầy vào, Xếp em đang chờ thầy!.

Cô mở cửa ấn tôi vào căn phòng mát rượi và đi ra.

Khi chỉ còn hai người, BS Huy ôm chầm lấy tôi. Anh nói ngay:

-Thầy ngồi đi, em biết là thầy giận em lắm. Rồi em sẽ giải thích ngay đểthầy hiểu.

Tôi lắng nghe.

Vẫn con người ấy, thông minh, lanh lợi, tin cậy và thân tình.. Anh ta nói:

…………..

“ Và nếu hôm đó, thầy trò mình nhận nhau, tay bắt mặt mừng thì có thể, người nhà thầy…chết!.

Nếu kíp mổ nhận thấy họ đang phải thức ba tiếng đồng hồ giữa đêm khuya để mổ một ca không – phong – bì thì chất lượng chuyên môn, các biện pháp hỗ trợ sẽ chạy theo kiểu không – phong – bì thầy ạ.

Bởi vậy, khi gặp thầy, em làm lơ, tính sau kíp mổ sẽ gặp lại thì Thầy đã về nhà rồi.

Hôm nay, em xin tạ tội cùng thầy và em phải nói rằng, em có được như ngày hôm nay là nhờ thầy, Xin thầy đừng từ chối món quà này của em, coi như vài thang thuốc bổ để chăm sóc thầy khi không được gần thầy” .

Huy nói rồi lấy một gói giấy mỏng, gói ghém chu đáo sẵn nhanh tay nhét vào túi trong áo veston của tôi.

Tôi hoàn toàn mất tự chủ.

Sự thể diễn ra hoàn toàn ngoài suy đoán, dự cảm của tôi. Huy vẫn như cậu sinh viên hiếu hạnh, chu đáo và giỏi giang năm xưa.

Cuối cùng, tôi hỏi:

– Tôi có dạy các anh làm thế không?.

– Dạ, thưa thầy, cái lỗi chính nằm ở chỗ ấy ạ. Cái chính là vì các thầy đã không dạy những cái đó, những cái cần – phải – dạy.

Tôi ớ ra, hỏi cho rõ thì BS Huy nhẹ nhàng:

-Ngày làm luận văn tốt nghiệp, các thầy cho một câu hỏi: Người BS chế độXHCN khác với người BS tư bản ở chỗ nào? Nếu ai trả lời rằng, điểm khác biệt đó là người BS XHCN không cần tiền bạc vẫn làm tốt chức phận của mình thì được điểm cao.

Thực tế không phải thế!

Tôi bắt đầu hiểu ra vấn đề. Hình như toàn bộ bi kịch là ở đây. Hình nhưchúng tôi có lỗi. Không có BS nào là không cần tiền cả. Tôi ngậm ngùi thăm hỏi hoàn cảnh BS Huy. Anh nói:

“ Sau khi ra trường, con về phục vụ tại một bệnh viện chuyên ngành chăm sóc cán bộ tại Hà Nội. Bệnh nhân của BV này toàn loại VIP.

Đến bữa trưa, con đem cặp lồng cơm đã nguội hắt có vài cọng rau muống đen xì và nửa quả trứng kho mặn vợ chuẩn bị ra ăn trong khi những bệnh nhân kia chơi gà luộc nửa con, giò chả ngập chân răng và họ luôn có quyền bắt ne bắt nét chúng con.

Đến một lúc, con nghĩ: tại sao cùng là người sao họ sướng thế. Sao mình ra sức phục vụ, ăn học từng ấy năm, tận tụy, hiểm nguy mà khổ thế. Phải “chặt”!.

Lần đầu con chặt, cầm cái phong bì hơi cũng run tay nhưng về sau quen dần, càng chặt càng bén, chặt nhát nào ra nhát ấy.

Về sau con cũng đứng lớp, cũng dạy học trò nghề y cao quý này, ra trường chúng cũng biết chặt, chúng chặt giỏi hơn con, chặt nhát nào ra nhát ấy”.

Tôi không biết nói gì lúc này nữa.

Trong không gian này, tôi không biết ai là thầy, ai là trò nữa. Hình như BS Huy đang dạy cho tôi bài học vỡ lòng về sự bất hợp lý trong những vận động xã hội đã xảy ra, đang xảy ra.

Trên đường về, tôi giở phong bì ra, đếm được mười triệu. Tôi lẩm cẩm nghĩ: Lãi 8 triệu và một bài học quý từ cuộc sống, thôi thì….

Câu chuyện của GS Lành đến đây là hết. Không gian nhà khách UBND tỉnh Quảng Ngãi trầm hẳn xuống. Tôi cũng chẳng biết bình luận gì thêm.

Phải chăng, chúng ta đã tạo ra một không gian để phát triển một loại mâu thuẫn xã hội đằng đẵng dăm chục năm và rồi hôm nay ta đắm mình trong bi kịch đó, bi kịch mà một nhà văn đã nói:

Cái lò xo bị nén xuống ba tấc, khi bật lên, nó sẽ bật lên chín tấc.

Những tiêu cực trong ngành y tế sẽ còn dài chứ không dừng lại ở đây kể cảkhi thay ba bộ trưởng.

Bao giờ cái thiết chế y tế, từ đào tạo đến các nguyên tắc về phúc lợi, nhân đạo, chính trị thay đổi theo hướng tích cực, có lý có tình thì tình hình sẽ tựnó tốt lên, các bạn ạ.

st có chỉnh sửa

Cóp từ FB Nguyễn Khang


Khi nào bong bóng AI sẽ vỡ

Theo báo WSJ và AI

Chi tiêu cho AI đang ở mức kỷ lục. Liệu nó có bao giờ mang lại hiệu quả như ý không?

Các công ty công nghệ đổ hàng trăm tỷ vào các trung tâm dữ liệu, gánh khoản nợ lớn, nhưng doanh thu hiện tại tương đối nhỏ; gợi nhớ đến bong bóng dot-com vào những năm 1990-2000

Những người theo dõi hoạt động của Thung lũng Silicon lo ngại rằng sự nhiệt tình với AI đã trở thành một bong bóng , tiếng cảnh báo ngày càng lớn về  một cơn sốt xây dựng cơ sở hạ tầng giống như thời kỳ bong bóng internet vào cuối những năm 1990. 

Hồi đó, các công ty viễn thông đã chi hơn 100 tỷ đô la để phủ kín cả nước bằng cáp quang với niềm tin rằng sự phát triển của internet sẽ bùng nổ đến mức hầu hết mọi khoản đầu tư đều hợp lý. Kết quả là một cuộc xây dựng ồ ạt, khiến viễn thông trở thành ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong cuộc khủng hoảng dot-com. Các gã khổng lồ trong ngành sụp đổ như chuỗi cờ domino, bao gồm các hãng,  Global Crossing, WorldCom và 360Networks.

Ngày nay, trong thế giới chip, các trung tâm dữ liệu vốn tẻ nhạt đã trở thành chiến trường khốc liệt trị giá hàng trăm tỷ đô la, nơi những gã khổng lồ ở Thung lũng Silicon cạnh tranh nhau về các cam kết chi tiêu và xướng lên những danh xưng của khoa học viễn tưởng chẳng hạn như cổng sao – stargate của hãng OpenAI và Oracle. 

Ảnh chụp từ trên cao trung tâm dữ liệu Wisconsin của Microsoft đang được xây dựng.

Microsoft cho biết trung tâm dữ liệu Wisconsin trị giá 3,3 tỷ đô la của họ sẽ đi vào hoạt động vào đầu năm 2026 và ban đầu được sử dụng để đào tạo các mô hình OpenAI. Ảnh: Microsoft

Trong chuyến tham quan cùng các phóng viên báo chí hôm thứ Ba, các giám đốc điều hành của Oracle và OpenAI đã giới thiệu khu phức hợp rộng 1.100 mẫu Anh (khoảng 450 ha), gọi đây là tổ hợp siêu máy tính AI lớn nhất thế giới. Bên ngoài, các công nhân đeo khẩu trang chống bụi và kính râm di chuyển trên những chiếc xe đẩy, cố gắng che chắn bản thân khỏi cái nóng 38 độ C. Một trong những chiếc xe đẩy treo một lá cờ có dòng chữ “Jesus Is the Answer” (Chúa Jesus là Câu trả lời).

Anuj Saharan, người làm việc trong nhóm máy tính OpenAI, cho biết: “Cách đây một năm, nơi đây thực sự chẳng có gì cả”. 

Ảnh chụp từ trên không về quá trình xây dựng đang diễn ra tại một cơ sở hạ tầng AI.

Công ty OpenAI hiện đang hợp tác với các đối tác để xây dựng một khu phức hợp điện toán rộng lớn ở phía tây Dallas. Ảnh: daniel cole/Reuters

OpenAI cũng công bố kế hoạch cho năm trung tâm dữ liệu mới trên khắp Hoa Kỳ

Chúng sẽ được xây dựng cùng với công ty Oracle và tập đoàn công nghệ Nhật Bản SoftBank. Các cơ sở mới này sẽ giúp đưa gần 7 gigawatt điện vào hoạt động, lượng điện này tương đương với khả năng cung cấp năng lượng cho gần tám triệu hộ gia đình.

Các giám đốc điều hành công ty khẳng định rõ ràng rằng cơ sở Abilene chỉ là bước khởi đầu, lưu ý rằng theo tính toán, họ sẽ cần có tới hơn 20 gigawatt năng lực tính toán để đáp ứng nhu cầu bùng nổ của ChatGPT, hiện có hơn 700 triệu người dùng hàng tuần.

Mỗi gigawatt công suất dự kiến ​​sẽ tiêu tốn khoảng 50 tỷ đô la, nghĩa là công ty đang đặt nền móng cho ít nhất 1 nghìn tỷ đô la chi tiêu cho cơ sở hạ tầng. Một giám đốc điều hành của công ty cho biết nhu cầu cuối cùng có thể đạt gần 100 gigawatt, tương đương 5 nghìn tỷ đô la. Con số này vượt quá GDP hàng năm của Nhật Bản hoặc Đức.

Các tòa nhà trung tâm dữ liệu đang được xây dựng tại trung tâm dữ liệu của OpenAI ở Abilene, Texas.

Trong khi các trung tâm dữ liệu cung cấp nhiều việc làm xây dựng (ngắn hạn), thì nhu cầu về nhân lực lại giảm đi rất nhiều sau khi chúng được xây dựng xong. Ảnh: shelby tauber/Reuters

 Một giám đốc điều hành của Oracle cho biết sẽ có khoảng 1.700 việc làm cố định tại chỗ sau khi việc xây dựng kết thúc. Khu phức hợp trung tâm dữ liệu này  nằm cách trung tâm thành phố Abilene gần 6 dặm.

Cơn sốt xây dựng thực chất là một canh bạc đầu cơ lớn, với hy vọng rằng công nghệ sẽ nhanh chóng được cải thiện, chuyển đổi nền kinh tế và bắt đầu tạo ra lợi nhuận ổn định. “Tôi hy vọng chúng ta sẽ không mất đến 50 năm”, CEO Microsoft Satya Nadella phát biểu tại một hội nghị hồi tháng 5 với CEO Meta Mark Zuckerberg , “Đúng vậy, chúng ta đều đang đầu tư như thể việc này sẽ không mất đến 50 năm”, Zuckerberg trả lời.


20 VIỆC ĐƠN GIẢN TÍCH PHÚC LÀNH MỖI NGÀY

Gieo Mầm Ơn Gọi

20 VIỆC ĐƠN GIẢN TÍCH PHÚC LÀNH MỖI NGÀY (Càng âm thầm, càng chân thành phúc càng lớn)

  1. Mỉm cười với người khác – gieo năng lượng tích cực.
  2. Nói lời tử tế, chân thật – lời lành chữa lành tâm hồn.
  3. Giúp đỡ người gặp khó khăn – dù là việc nhỏ.
  4. Đừng vứt rác bừa bãi – bảo vệ môi trường là giữ phúc cho đời sau.
  5. Chăm sóc cha mẹ, người thân – hiếu đạo là gốc phúc đức.
  6. Không sân si, nói xấu người khác – giữ miệng là giữ phúc.
  7. Đọc sách thiện lành, truyền cảm hứng – nuôi dưỡng tâm hồn trong sạch.
  8. Chia sẻ thức ăn cho người thiếu thốn – bố thí là một hình thức bác ái.
  9. Tha thứ cho người làm mình tổn thương – buông bỏ là một cách nhẹ lòng.
  10. Thành tâm cầu nguyện, hướng thiện – tâm sáng thì đường đi cũng sáng.
  11. Tôn trọng mọi người, không phân biệt giàu nghèo.
  12. Không sát sinh, ăn chay khi có thể – gieo lòng từ, nhận bình an.
  13. Tình nguyện, giúp đỡ cộng đồng – góp sức nhỏ, mang ý nghĩa lớn.
  14. Giữ lời hứa, sống có uy tín – một chữ “tín” giữ ngàn phúc lành.
  15. Chăm sóc động vật, không hành hạ chúng.
  16. Biết ơn những gì mình đang có – người biết đủ là người hạnh phúc.
  17. Không tham lam, không chiếm đoạt của người khác.
  18. Khuyên người khác sống thiện, sống đúng – truyền phúc cho người lành.
  19. Tránh tranh cãi vô ích, giữ tâm an tịnh.
  20. Làm việc bằng cả cái tâm, không gian dối – mỗi việc làm đều ghi dấu phúc lành.

Phúc lành không đến từ việc lớn, mà đến từ cái tâm khi làm việc nhỏ. Bạn có thể chọn 1–2 việc mỗi ngày, lặp lại với tâm chân thành, thời gian sẽ chứng minh mọi điều. Chúc bạn một đời an vui – trong tâm có phúc, ngoài đời có may

ST


 

“GIÁO DỤC LÒNG CĂM THÙ” – MỘT BI KỊCH CỦA NỀN GIÁO DỤC HẬU CHIẾN

Nguyễn Quốc Chính

                              ———-*¥¥. Gã Khờ

CỤM TỪ NGHẸN NGÀO..

Tôi đã từng uất nghẹn khi bắt gặp trong văn kiện, trong sách giáo khoa, thậm chí trong khẩu hiệu, cụm từ: “giáo dục lòng căm thù”.

Nghe qua, tưởng như đó là một mệnh lệnh mang tính “cách mạng”, như một thứ ngọn lửa để khích lệ chiến đấu. Nhưng càng nghiền ngẫm, càng thấy đau: căm thù vốn là phi giáo dục. Giáo dục là gieo hạt, là nuôi dưỡng, là khai mở nhân tính. Lòng căm thù chỉ làm chai sạn tâm hồn, làm con người thu hẹp vào hố sâu chia rẽ.

Đất nước ta từng trải qua hàng ngàn năm chống ngoại xâm. Nhưng chưa bao giờ tổ tiên dạy con cháu “căm thù”. Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo từng viết:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.”

Sau chiến thắng, cha ông còn cấp thuyền, ngựa, lương thực cho quân giặc về nước. Đó là minh triết của kẻ chiến thắng: chiến đấu để giành độc lập, nhưng không gieo thêm hận thù. Vậy mà, thời hậu chiến, chúng ta lại biến “căm thù” thành một nội dung giáo dục. Ấy là một trượt dài – và cần phải nhìn thẳng.

TRUYỀN THỐNG NHÂN BẢN CỦA DÂN TỘC

Không phải ngẫu nhiên mà sử Việt luôn toát lên tinh thần khoan hòa sau chiến tranh.Thời Trần, sau khi đánh tan Nguyên Mông, thay vì tận diệt, triều đình mở hội nghị Diên Hồng, lo chuyện phục hồi đất nước, và còn cấp ngựa, lương thực cho tàn quân rút về.Nguyễn Trãi soạn văn kiện để tuyên bố với thiên hạ rằng người Việt “lấy nhân nghĩa làm gốc”, không lấy hận thù làm kim chỉ nam.Nguyễn Huệ sau khi đại phá quân Thanh ở Đống Đa, không đem xác thù ra phơi thây, mà cho chôn cất tử tế, rồi gửi biểu cầu hòa.

Từ cổ chí kim, dân tộc này đánh giặc không phải để nuôi căm thù, mà để giành lại sự sống cho mình. Đánh giặc xong, việc cấp thiết nhất là hàn gắn vết thương, chứ không phải truyền đời sự hận hằn.

Ấy vậy, truyền thống nhân bản ấy đã bị bóp méo trong một giai đoạn.

KHI GIÁO DỤC TRƯỢT KHỎI BẢN CHẤT

Sau 1975, trong khí thế toàn thắng, đất nước thống nhất, những tưởng giáo dục sẽ lấy yêu nước, yêu người, khoan dung, sáng tạo làm gốc. Nhưng không, một đường ray khác đã được dựng nên: giáo dục lòng căm thù giai cấp, căm thù “kẻ thù dân tộc”.

Trong sách giáo khoa, học sinh phải thuộc lòng những bài văn, bài thơ gieo mầm thù hận. Trong trường học, nhiều phong trào, khẩu hiệu vang lên với âm hưởng: “Nhớ ơn căm thù…”, “Đời đời căm thù đế quốc…”.

Câu hỏi đặt ra: lòng căm thù có nuôi dưỡng nhân cách không?

Không. Nó chỉ nuôi dưỡng sự đối lập và nghi kỵ. Thay vì giúp thế hệ trẻ hiểu quá khứ, để trân trọng hòa bình, nó lại biến quá khứ thành vết thương chưa khép.

Ở mức chính sách, “căm thù” còn được sử dụng như một thứ công cụ chính trị – để duy trì kỷ luật tư tưởng, để buộc người trẻ phải đi theo một “đường thẳng” có sẵn. Nhưng giáo dục mà thành công cụ, thì đã mất đi bản chất.

HỆ LỤY XÃ HỘI

Hãy nhìn những hệ quả:Chia cắt tâm thức dân tộc: “căm thù” khiến thế hệ trẻ nhìn đồng bào miền Nam, kiều bào hải ngoại bằng ánh mắt nghi kỵ. Thay vì hòa hợp, lại đào sâu hố ngăn cách.Nghi kỵ lẫn nhau: hận thù giai cấp khiến xã hội thiếu niềm tin. Người ta dè chừng nhau theo “lý lịch”, thay vì đánh giá bằng năng lực.Kìm hãm sáng tạo: căm thù nuôi dưỡng sự tiêu cực, không giúp con người cởi mở. Trong khi sáng tạo cần khoan dung, cần thấu hiểu.Làm nghèo đi tình người: khi “căm thù” trở thành giáo điều, thì lòng nhân ái, sự bao dung – vốn là phẩm chất cốt lõi của người Việt – bị lu mờ.

Nói một cách cay đắng: chúng ta đã trồng căm thù, và gặt cô đơn, chia rẽ, hoang mang.

SO SÁNH QUỐC TẾ – BÀI HỌC CẦN NHÌN

Thế giới không thiếu những dân tộc từng trải qua chiến tranh. Nhưng cách họ giáo dục thế hệ trẻ sau chiến tranh khác ta rất nhiều.Đức sau Thế chiến II: không dạy học sinh “căm thù” ai cả. Họ đưa trẻ em đến trại Auschwitz để hiểu bi kịch chiến tranh, để từ đó nuôi dưỡng tinh thần hòa bình, nhân bản, trách nhiệm. Họ nói: “Không bao giờ nữa” – chứ không gieo hận thù.Nhật Bản: sau Hiroshima, Nagasaki, trẻ em được dạy về hậu quả của bom nguyên tử, về giá trị hòa bình, chứ không phải “căm thù nước Mỹ”. Kết quả là Nhật trở thành quốc gia sáng tạo, vươn lên bằng tri thức, chứ không bị nhấn chìm trong oán hận.

Nếu Đức và Nhật gieo căm thù, liệu họ có thể hòa giải, có thể trở thành cường quốc kinh tế, có thể là bạn với cả thế giới?

TRÁCH NHIỆM VÀ NGUYÊN NHÂN

Ai phải chịu trách nhiệm về sự trượt dài ấy?Nhà hoạch định chính sách: đã chọn cách dễ nhất để duy trì sự trung thành – gieo hận thù, thay vì nuôi dưỡng trí tuệ.Người làm giáo dục: không dám phản biện, buộc phải “soạn bài giảng căm thù” như một bổn phận.Xã hội: thụ động chấp nhận, coi đó là lẽ thường.

Nguyên nhân sâu xa chính là tư duy chính trị hóa giáo dục. Khi giáo dục bị biến thành công cụ chính trị, thì mục tiêu “trồng người” bị lấn át bởi mục tiêu “củng cố chế độ”.

ĐIỀU CẦN SỬA SAI

Đã đến lúc cần dũng cảm sửa sai.Xóa bỏ khái niệm “giáo dục lòng căm thù” khỏi mọi văn bản, sách giáo khoa.Thay thế bằng “giáo dục lòng nhân ái, khoan dung, yêu nước, yêu hòa bình”.Học theo Đức, Nhật: dạy trẻ em nhìn thẳng vào bi kịch chiến tranh để rút ra bài học nhân bản, chứ không để nuôi hận thù.Trả giáo dục về đúng bản chất: dạy trẻ làm người tử tế, có trách nhiệm, biết tôn trọng sự khác biệt.

Quan trọng hơn: cần một sự thành thật trong chính sách. Đừng dùng giáo dục để duy trì hận thù. Hãy dùng giáo dục để tạo nên những thế hệ công dân biết xây dựng.

VÌ TƯƠNG LAI CON EM CHÚNG TA

Một dân tộc không thể mãi sống trong bóng tối của căm thù. Thế hệ cha ông đã trả giá bằng máu để đất nước được độc lập. Thế hệ hôm nay phải có trách nhiệm trả lại cho con trẻ một nền giáo dục nhân bản – chứ không phải giáo dục căm thù.

Nếu không, chúng ta sẽ tạo ra những con người mang nặng quá khứ nhưng hụt hẫng với tương lai.

Giáo dục là gieo trồng. Xin hãy trả lại cho giáo dục Việt Nam hạt giống yêu thương, nhân ái, sáng tạo và trách nhiệm. Đó mới là con đường để dân tộc đi xa.

Đã đến lúc phải thẳng thắn nói ra: “Giáo dục lòng căm thù” là một sai lầm. Và sai lầm ấy cần được sửa ngay – để chúng ta có thể ngẩng cao đầu trước thế hệ mai sau.

⏤ Gã Khờ


 

Tự sướng với lòng yêu nước?- Nguyễn Hoàng Văn

Ba’o Tieng Dan

19/09/2025

Nguyễn Hoàng Văn

Tìm kiếm tài liệu liên quan đến “diễn ngôn Đoàn Hương”, tôi bắt gặp một clip của nhà khoa bảng gây tranh cãi này trên trang Youtube: “Hiếm có dân tộc nào mang tinh thần yêu nước trong GEN như người Việt Nam!” [1]

YouTube player

Nghĩa là, không chỉ yêu nước hạng nhất, nhì nhân loại, người Việt còn hơn hẳn những dân tộc khác với tình yêu nước bẩm sinh, yêu ngay từ… đại phân tử DNA chứa mật mã di truyền chứ không tầm thường như thứ tình yêu… nhân tạo, chỉ yêu do bị nhồi sọ, do tác động của bộ máy tuyên truyền. Lời bà này làm tôi nghĩ ngay đến câu thơ của Bảo Sinh:

Tự do là sướng nhất đời

Tự lừa còn sướng bằng mười tự do

Tự lừa để sướng thì cũng có nghĩa là “tự sướng”, nên nói theo Nguyễn Huy Thiệp, đó cũng chẳng khác nào một hình thức “thủ dâm chính trị”, hệ quả từ một cái nhìn hẹp hòi, thiển cận [2].

Để hiểu sự hẹp hòi này thì tốt nhất, hãy lắng nghe ông Václav Havel (1936-2011), một trí thức khả kính, từng là Tổng thống Tiệp Khắc rồi Tổng thống Tiệp, xuất thân là một nhà thơ, nhà soạn kịch và là nhà bất đồng chính kiến kiên cường. Trong cuộc phỏng vấn đăng tải trên báo New York Times vào ngày 30/12/1989, chỉ một ngày sau khi trở thành Tổng thống Tiệp Khắc, ông bày tỏ:

Tôi là người Tiệp. Đây không phải là chọn lựa mà là số phận của tôi. Cả đời tôi sống trên đất nước này. Đây là ngôn ngữ, là nhà của tôi. Tôi sống ở đây như bất cứ ai khác. Tôi không cảm thấy tôi là người ái quốc bởi vì tôi không cảm thấy rằng làm người Tiệp là cái gì đó hơn hẳn người Pháp hay người Anh, người Âu hay bất cứ ai khác. Tôi không hiểu tại sao Thương Đế lại muốn tôi làm người Tiệp. Đó không phải là chọn lựa của tôi. Nhưng tôi chấp nhận điều đó và vì tôi đang sống ở đây, tôi phải cố làm điều gì đó cho đất nước tôi” [3].

Ông Havel không huênh hoang là mình yêu nước. Ông cũng không ưỡn ngực “tự hào quá Tiệp ơi” với ngụ ý rằng làm người Tiệp thì cao quý hơn là làm người Anh, người Pháp người Đức hay người Nhật v.v… Tuy nhiên, với tư cách là một nhà cầm bút sống giữa sức ép của chế độ toàn trị mà không hề thỏa hiệp, không bán rẻ lương tâm mà, hơn thế nữa, còn ngẩng cao đầu như một nhà bất đồng chính kiến quả cảm, ai cũng phải thừa nhận rằng ông, như một cá nhân, đã thể hiện một nhân cách cực kỳ cao quý và với những gì đã “cố làm cho đất nước” thì lại là một nhà ái quốc vĩ đại.

Từ một nhân cách cao quý nhưng hết sức khiêm cung như thế mà quay trở lại với trò tự sướng trong clip nói trên, sẽ thấy có cái gì đó kỳ kỳ, lố bịch, sống sượng. Nhưng lố bịch hay sống sượng đến mấy thì cũng không có gì là lạ bởi, ít nhất, đó là cách mà bộ máy giáo dục của chúng ta dạy dỗ cho bao nhiêu thế hệ, theo đó thì lòng yêu nước là một “bản sắc” của người Việt Nam.

Tôi thử Google ý niệm “bản sắc dân tộc” và tìm ra ngay một định nghĩa ngắn gọn, chắc nịch như đinh đóng cột:

“Nền văn hóa Việt Nam mang những bản sắc dân tộc đặc trưng: Yêu nước, tự cường, đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, trọng đạo lý, trọng tình nghĩa, cần cù, sáng tạo, ứng xử tinh tế và giản dị” [4].

Bao nhiêu năm qua, chúng ta rót vào tai nhau, dạy đi dạy lại cho bao thế hệ trẻ về “bản sắc dân tộc” những điều như thế, nhưng nếu nhìn lại để đặt nó trong mối quan hệ tương liên với các dân tộc khác thì, thực tình mà nói, chúng ta chẳng khác nào hạng trẻ con, mà cũng chẳng khác lũ ếch ngồi sâu trong đáy giếng.

Nếu “yêu nước” là “bản sắc” của dân tộc Việt Nam thì hóa ra người Nga, người Pháp, người Anh, người Trung Hoa hay người Lào, người Nhật không hề yêu nước của mình?

Và nếu “tự cường” là bản sắc dân tộc thì tại sao chúng ta vẫn lẹt đẹt, thua xa những láng giềng hay những nước Á châu khác từng ngang hàng hay kém xa mình?

Mà không chỉ là lòng “yêu nước”, là tính “tự cường”, toàn bộ những yếu tố kể trên đều cần phải xem lại [5].

Đã gọi là “bản sắc” thì đó phải là những đặc điểm khiến mình khác biệt so với người khác, không phải là những yếu tố chung chung mà hầu như dân tộc nào cũng có. Để tiện, thử so sánh với “bản sắc Úc” mà giới nghiên cứu nước này đã đưa ra vào thập niên 1990, với bốn đặc điểm: Lười biếng, kỳ thị, thế tục và nam tính.

Về sự lười biếng thì, trên thực tế, người Úc không hề lười biếng, họ lao tâm lao lực ra trò. Vấn đề là sự “lười biếng” này được ghi nhận qua một mô thức kinh tế… lười biếng. Úc là một quốc gia phát triển nhưng hoạt động kinh tế, phần lớn, chỉ ở mức… đang phát triển, chỉ đào quặng mỏ lên bán cùng với các sản phẩm canh nông, chẳng khác gì mấy các quốc gia đang phát triển Á, Phi. Nếu Úc không “lười biếng” thì các quặng mỏ và sản phẩm canh nông kia phải được chế biến mà ngôn ngữ kinh tế gọi là thêm phần “giá trị gia tăng”.

Thứ hai là sự kỳ thị. Dù đang theo đuổi chính sách đa nguyên, Úc vẫn bị mang tiếng là kỳ thị do chính sách “White Australia” áp dụng từ năm 1901, theo đó chỉ nhận di dân da trắng. Dẫu chính sách này đã bị bãi bỏ từ năm 1966 nhưng người Úc vẫn ghi nhận là “ấn tượng” về sự kỳ thị vẫn còn đó nên, trong bang giao quốc tế, cần phải “ý tứ” đến yếu tố này.

Thứ ba là chủ nghĩa thế tục, secularism, thể hiện rất rõ ở các chính trị gia Úc nếu so với Mỹ. Ra ứng cử, bất cứ ứng cử viên nào ở Mỹ – từ cấp dân biểu, nghị sĩ đến tổng thống – ai cũng cố bày tỏ lòng mộ đạo, ngọt xớt dẫn chứng Thượng Đế và, khi kết thúc bài diễn văn, luôn luôn lập lại câu kinh nhật tụng “God bless America”. Nhưng các chính trị gia Úc không hề đếm xỉa đến chuyện này và, trên phương diện xã hội, những lãnh tụ tôn giáo thường bị báo chí mang ra nhạo bang, không chút nể nang!

Thứ tư là chủ nghĩa nam tính, masculinism, thể hiện qua sự tôn sùng cũng như đòi hỏi cao ở nam giới. Có thể thấy điều này trong môn thể thao bóng bầu dục, khi các cầu thủ Úc chỉ trang bị duy nhất dụng cụ bảo vệ ở bộ răng, khác với các các cầu thủ bóng bầu dục Mỹ bảo vệ hầu như toàn thân. Hay thói tục trọng thể thao: Dàn nhạc giao hưởng trẻ của Úc trình diễn tại Âu châu đạt thành tích vang dội nhưng truyền thông hầu như chẳng để ý, trong khi đó một cầu thủ quần vợt, một tay bơi đạt giải nào đó là được tán dương tận mây xanh.

Những điều này được phân tích trong môn học mang tính địa lý – chính trị tại các đại học Úc vào thập niên 1990, chuyên về quan hệ giữa Úc và Á châu. Đó là thời điểm mà Úc đang cố gắng hội nhập vào Á châu và “bản sắc” này không chỉ là nỗ lực tự phán, mà còn được đúc kết từ cảm nhận của các láng giềng Á châu về Úc: Muốn hội nhập vào Á châu thì nước Úc phải hiểu rõ Á châu nhìn mình và hiểu về mình như thế nào.

Đó, có lẽ cũng là điều mà đất nước chúng ta phải áp dụng trong nỗ lực gọi là “Tiến ra biển lớn”. Nếu những thế hệ đi trước như Nguyễn Văn Vĩnh từng “xét tật mình” như một cách tự phán thì thế hệ hiện tại phải làm hơn thế nữa: Ngoài việc tự phán còn phải lắng nghe và ghi nhận những phán xét chẳng mấy hay ho và, thậm chí, cực kỳ tồi tệ của người khác về mình.

Trong Chuyện Tử Tế, đạo diễn Trần Văn Thủy đã dựng hai cảnh trái ngược. Một là cảnh một lớp học rách nát tại Việt Nam và những học trò suy dinh dưỡng quàng khăn đỏ trên cổ, trên bục cô giáo giảng bài về niềm tự hào của một đất nước anh hùng, rừng vàng biển bạc v.v… Một là cảnh một lớp học hiện đại tại Nhật nhưng bài học lại là sự bất hạnh của một đất nước nghèo tài nguyên lại bị thua trận trong chiến tranh: Tương lai của đất nước hoàn toàn phụ thuộc vào nỗ lực học hành của các em.

Để “tự cường” thì cần phải dạy sao cho thế hệ trẻ biết nhục về những cái yếu kém của mình, thay vì ê a những bài học vinh quang và tự hào, mà nói theo Vũ Trọng Phụng, là “Biết rồi, khổ quá, nói mãi”. Hãy dạy để học trò biết đau trước những tấm biển “Cấm vào đây ăn trộm” bằng tiếng Việt tại các siêu thị ở Thái Lan, ở Nhật, ở Úc hay lời tuyên bố lạnh tanh “Không được đến đây làm đĩ” tại Singapore [6].

Đừng nên dạy chúng tự sướng, đẩy chúng lên những đám mây xanh tự hào, huênh hoang rằng, chỉ có người Việt mới yêu nước như thế, hay yêu nước nhất nhì thế giới.

Mà không chỉ dạy cho thế hệ trẻ. Phải nhồi vào tai, phải nhét vào đầu của người lớn, cả những kẻ đầu đã hai thứ tóc, rằng nếu thực sự yêu nước thì đừng có làm nhục đất nước mình, đừng có biến đất nước mình thành trò cười của nhân loại.

__________

Chú thích:

  1. https://www.youtube.com/watch?v=eAYsm6xq2rI
  1. “Bệnh nhược tiểu, thói hủ nho và thủ dâm chính trị”: https://vanviet.info/van-de-hom-nay/benh-nhuoc-tieu-thi-hu-nho-v-thu-dm-chnh-tri/
  2. I am Czech. ‘This was not my choice, it was fate. I’ve lived my whole life in this country. This is my language, this is my home. I live here like everyone else. I don’t feel myself to be patriotic, because I don’t feel that to be Czech is to be something more than French, or English, or European, or anybody else. ‘God – I don’t know why – wanted me to be a Czech. It was not my choice. But I accept it, and I try to do something for my country because I live here.”

http://www.nytimes.com/1989/12/30/world/upheaval-east-new-president-man-master-irony-humor-vaclav-havel.html

  1. “Những giá trị bền vững của văn hóa Việt Nam”: https://baodongnai.com.vn/vanhoa/202001/ban-sac-van-hoa-nam-bo-nhung-gia-tri-ben-vung-cua-van-hoa-viet-nam-2984578/
  2. Thí dụ như “đoàn kết”, ngay trong truyền thuyết “trăm trứng trăm con” đã thấy sự chia rẽ rồi: Sau khi đã có một trăm mặt con, Lạc Long Quân phải thú nhận với Âu Cơ là không thể tiếp tục ăn ở, phải cắt đôi gia đình, năm mươi về núi, năm mươi về xuôi. Và càng phải xem lại những “bản sắc” như “lòng nhân ái, khoan dung, trọng đạo lý, trọng tình nghĩa, cần cù, sáng tạo, ứng xử tinh tế và giản dị”.

Lấy thí dụ yếu tố “ứng xử tinh tế và giản dị”. “Tinh tế” là ý niệm phải đặc biệt chú ý trong quan hệ ngoại giao nhưng cứ xem cách bà Nguyễn Thị Kim Ngân, khi còn là chủ tịch quốc hội, “tinh tế” như thế nào khi cùng cho cá ăn với nguyên Tổng thống Mỹ Barrack Obama, khiến ông này, một người rất tinh tế, cũng phải cũng phải bộc lộ ra ánh mắt ngỡ ngàng!

Hay cảnh các quan chức chúng ta tán gẫu như thể là đang uống trà đá vỉa hè, giữa lúc đang chờ làm việc chính thức với Bộ Ngoại giao Mỹ, với câu chốt khét tiếng “Rõ ràng, sòng phẳng. Mẹ nó, có sợ gì đâu!”

Về giản dị thì từ “văn hóa cổng chào” cho đến “lễ” nhậm chức, có thể nói là người Việt Nam hiện tại tỏ ra rườm rà và lãng phí vào hạng nhất nhì thế giới. Tại Úc, mỗi lần thay đổi nội các, chính phủ chỉ đơn giản đến Dinh Tổng Toàn Quyền làm lễ tuyên thệ nhưng tại Việt Nam chỉ quyết định bổ nhiệm một quan chức cấp tỉnh thôi cũng rềnh rang ban bệ từ trung ương về, treo băng rôn, cờ, hoa v.v… lãng phí bao nhiêu thời gian, công sức, tiền bạc.

  1. Khoảng mười năm trước, một tiệm sách tại một trung tâm thương mại ở Sydney treo bảng bằng tiếng Việt: “Ăn trộm là tội phạm, sẽ bị truy tố theo luật hình sự”. Tôi thắc mắc thì người quản lý, một phụ nữ rất cởi mở, giải thích là thời gian qua tiệm bị mất khá nhiều sách và đã theo dõi, sau đó đã bắt quả tang một số sinh viên Việt Nam “không có quốc tịch Úc” trộm sách, đã giao cho cảnh sát. Trung bình mỗi học kỳ một sinh viên tại Úc theo học bốn môn và ít nhất mỗi môn phải mua một cuốn sách tham khảo chính, có môn phải mua đến ba cuốn, mỗi cuốn như vậy, vào thời điểm đó, có giá từ $70 đến $120.

 

Nghĩ về sự liêm sỉ của người cầm bút – Lê Nguyễn

Ba’o Tieng Dan

Lê Nguyễn

16-9-2025

Trong cuộc đời của mỗi chúng ta, sự xung đột giữa tài năng và nhân cách, sự song hành giữa công và tội là cả một bi kịch.

Trong lịch sử thời Pháp thuộc, đó là những Hoàng Cao Khải, Cao Xuân Dục ở miền Bắc, là Đỗ Hữu Phương, Trần Bá Lộc ở miền Nam. Hai vị trước vừa tích cực ra tay đàn áp, sát hại nghĩa quân kháng chiến chống Pháp, vừa để lại cho đời nhiều công trình văn hóa lịch sử quan trọng còn lưu giá trị đến ngày nay. Hai ông sau cũng lập nhiều “đại công” với Pháp, trong đàn áp các cuộc khởi nghĩa của Thủ Khoa Huân, Mai Xuân Thưởng, được thăng đến hàm Tổng đốc, đến cuối đời cũng làm được đôi điều ích nước lợi dân.

Ông họ Trần ra sức huy động người đào con kênh Tổng đốc Lộc, giúp mở mang sự vận chuyển của cả một vùng rộng lớn, ông họ Đỗ ra sức mở cuộc lạc quyên để xây dựng cho thành phố Sài Gòn ngôi trường Con gái bản xứ (École des filles indigènes), sau là trường Áo tím, trường Gia Long, nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai.

Đến giữa thế kỷ XX, bên cạnh những tác phẩm của Tự lực văn đoàn, cả một thế hệ học sinh, sinh viên miền Nam còn khao khát nền văn học tiền chiến với những Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư…, mà vì lý do chia cách hai miền, tác phẩm của họ không được phép xuất bản ở miền Nam. Bản thân người viết bài này khi cầm được những Thơ Thơ, Gửi Hương Cho Gió của Xuân Diệu, Lửa Thiêng của Huy Cận, Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân từ một ông “Bắc kỳ di cư” chuyên cho thuê sách cũ, lòng rưng rưng xúc động như bắt gặp của quý tự nghìn đời.

Thế rồi, sau năm 1954, sự kiện Nhân văn – Giai phẩm như một quả bom nổ giữa trời quang, lột trần trụi nhiều sự thật, làm sụp đổ những thần tượng của thế hệ chúng tôi. Bi kịch đó đeo đẳng cuộc đời mỗi nhà văn, nhà thơ cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay, đồng thời cũng tạo nên một bài học về liêm sỉ của người cầm bút.

Những năm trước 1975, cuộc chiến khốc liệt giữa hai miền Nam-Bắc biến tuyên truyền thành vũ khí sắc bén nhất để giành lấy thắng lợi về các mặt tinh thần, tâm lý, kể cả mặt ngoại giao. Đó là thời kỳ hoàng kim của Hòn Đất (Anh Đức), Người Mẹ Cầm Súng (Nguyễn Thi), thơ Tố Hữu …, những “tác phẩm” vẽ lên hình tượng những người cầm súng bảo vệ mảnh đất mình đang sống không còn là những con người, mà là một loài ngạ quỷ hút máu người, ăn thịt người, lấy sự chém giết làm lẽ sống.

Sau tháng 4.1975, tưởng như với sự thống nhất về địa lý, giang sơn thu về một mối, một quá khứ với bao nhiêu “sự thật” bị vẽ vời, phóng đại sẽ được xếp vào tàng cổ viện, không ngờ nó vẫn tiếp diễn với quán tính cũ, với một thế hệ nhà văn kế thừa sự bịa đặt của lớp đàn anh.

Lần này, văn chương còn được sự chắp cánh của phim, kịch, tạo nên những Ván Bài Lật Ngửa, Ông Cố vấn, Biệt Động Sài Gòn,… và nhiều lúc hình ảnh những kẻ bại trận còn được miêu tả ghê rợn hơn, như cảnh người lính miền Nam moi tim gan đối phương, nướng ăn và còn chia nhau hai hạt… tinh hoàn. Sự tưởng tượng cao siêu đến mức ghê tởm!

Xét cho cùng, so với Hòn Đất của Anh Đức, Người Mẹ Cầm Súng của Nguyễn Thi và “tác phẩm” của nhiều người cùng thời khác, thì Mưa Đỏ của Chu Lai chẳng là cái đinh gì. Không may cho ông, quyển tiểu thuyết được chuyển thể thành phim trong một thời điểm mà lương tri con người và tinh thần yêu chuộng sự trung thực và công bằng đang được mạng xã hội dành cho những điều kiện tốt nhất để phát huy. Vì thế, thay vì phùng mang trợn mắt, cãi chầy, cãi cối như nhiều người khác, sự bối rối của ông Chu Lai cũng còn ẩn chứa một chút liêm sỉ của người cầm bút, ta nên thông cảm phần nào với ông để nhà văn còn có dịp ngẫm lại mình.

Nhà văn Chu Lai và tiểu thuyết Mưa Đỏ của ông đang gây tranh cãi. Nguồn: CAND

Thân phận một nhà văn quốc doanh lắm trái ngang, không dễ gì nói được hết những suy nghĩ của mình. Đến như Phùng Quán, vang danh một thời với Lời Mẹ Dặn, mà còn có lúc tự thú rằng ông đã ngồi ở Hà Nội để tưởng tượng nên một Vượt Côn Đảo “địa ngục trần gian”.

Cũng xin đừng như ai kia, đánh tráo khái niệm bằng cách so sánh tính hư cấu của bộ phim lừng danh Titanic với phim Mưa Đỏ, qua cảnh mô tả anh lính miền Nam thiêu sống anh tù binh phương Bắc. Sao nỡ lòng so sánh như vậy? Trong Titanic, sự hư cấu nâng giá trị nghệ thuật lên một tầm cao mới, còn trong Mưa Đỏ, sự hư cấu mang tính bịa đặt nhằm vùi lấp danh dự của người bại trận xuống bùn đen, và ghi đậm trong tâm hồn thế hệ trẻ sự ngộ nhận và thù hận đối với thế hệ cha anh của họ.

Ngày nay, nói đến sự liêm sỉ của người cầm bút, đã là xa xỉ chưa? Mình nghĩ là chưa. Vẫn còn đó những tiếng nói của lương tri đang ngày càng nở rộ trên mạng xã hội, đặc biệt của những người từng lớn lên dưới mái trường XHCN, nay vừa qua một thời tuổi trẻ và đang nhìn lại xã hội mình đang sống với cái nhìn trung thực, thẳng thắn và nhân văn. Đọc bài viết và bình luận của những bạn đó, mình rưng rưng xúc động, hy vọng vào một thế hệ kế thừa đang ngày càng sáng suốt, nhiều tình người hơn.

Nói đến sự liêm sỉ của người cầm bút, sẽ là vô cùng thiếu sót nếu chúng ta không nhắc đến nhà thơ Hữu Loan, con người đã coi khinh nghịch cảnh, đạp bằng trở lực, dành quãng đời còn lại đi đập đá và thồ đá để nuôi sống gia đình. Con người đó xứng đáng được tạc thành một tượng đài bất tử, và tên được đặt cho nhiều con đường để vinh danh cho tiết tháo và liêm sỉ ở đời.

Chừng nào xã hội chưa làm được điều đó, nhiều người trong chúng ta vẫn còn bất an cho tương lai của những thế hệ đến sau mình.


 

HẬN THÙ KHÔNG TỰ SINH RA

Lê Thọ Bình 

Khi cảnh sát Mỹ gõ cửa nhà Robinson ở Utah, người cha, một cựu sĩ quan cảnh sát trưởng, đã lặng lẽ đưa con trai mình ra đầu thú. Chỉ vài giờ trước đó, chàng trai 22 tuổi ấy thú nhận đã nổ súng vào Charlie Kirk, kết thúc cuộc đời một con người và khởi đầu cho bi kịch của cả gia đình.

Khoảnh khắc người cha nắm tay đứa con trai trẻ bước ra, có lẽ là khoảnh khắc đớn đau nhất. Đó vừa là sự tố cáo, vừa là tình yêu thương bất lực. Ông biết con mình phạm tội, và ông cũng biết, đằng sau tội ấy còn có một sự thật khác: một thanh niên non trẻ đã để hận thù chiếm lĩnh tâm hồn.

Trước đây, Thomas Matthew Crooks, 20 tuổi, đã nổ súng vào cựu Tổng thống Donald Trump, khiến ông bị thương. Hung thủ bị hạ gục ngay sau đó. Hôm nay, Tyler Robinson, 22 tuổi, bắn chết Charlie Kirk.

Tại sao những vụ việc ấy không đến từ các sát thủ chuyên nghiệp, mà lại từ những gương mặt “mặt búng ra sữa”, vẫn còn nguyên sự ngây thơ của tuổi đôi mươi?

Câu trả lời nằm ở chỗ: hận thù không tự sinh ra. Nó được gieo, được nuôi, được dẫn dắt. Và chính những người trẻ, dễ tổn thương, dễ bị dắt mũi, trở thành mảnh đất màu mỡ nhất cho hạt giống ấy nảy mầm.

Trong giảng đường Mỹ hôm nay, nhiều ý thức hệ chính trị được đưa vào như một phần của giáo dục. Một số câu chuyện được kể một chiều, nhấn mạnh vào sự bất công và nạn nhân, bỏ qua bối cảnh phức tạp.

Người trẻ, vốn sống bằng cảm xúc nhiều hơn lý trí, dễ bị cuốn vào những diễn ngôn ấy. Từ đồng cảm đến phẫn nộ, từ phẫn nộ đến căm ghét, chỉ là một sợi dây mong manh. Và khi căm ghét trở thành lăng kính để nhìn thế giới, một viên đạn có thể được bóp cò dễ dàng.

Cha của Robinson là một người nghiêm khắc, có trách nhiệm. Mẹ từng làm việc trong trung tâm hỗ trợ người khuyết tật. Gia đình không tan vỡ, không có bi kịch bạo lực. Nhưng cũng giống như hàng triệu gia đình khác, họ bận rộn với công việc và đời sống riêng, trong khi con cái lớn lên cùng nỗi cô đơn.

Khi những câu hỏi sâu thẳm của tuổi trẻ không tìm được câu trả lời trong gia đình, chúng sẽ tìm đến cộng đồng khác, trên mạng xã hội, trong các nhóm kín, nơi đầy rẫy ngôn ngữ cực đoan. Và ở đó, những tâm hồn non trẻ được “chăm bón” bằng hận thù, ngày qua ngày.

Mỹ là quốc gia tôn thờ tự do, nhưng cũng chính vì thế mà hận thù có đất sống. Súng dễ mua, ngôn từ cực đoan dễ phát tán. Một bình luận kích động có thể đến với hàng triệu người chỉ sau vài giây.

Những thanh niên chưa đủ chín chắn để phân biệt đúng sai trở thành nạn nhân. Họ không sinh ra để giết người. Họ chỉ bị cuốn đi trong một cơn lốc, cho đến khi chính mình cũng không còn làm chủ được bàn tay siết cò súng.

Nhìn vào những vụ việc này, điều quan trọng là dám đối diện: những kẻ gây án không chỉ là thủ phạm, họ còn là nạn nhân. Nạn nhân của một hệ thống giáo dục thiên lệch, của một gia đình lỏng lẻo, của một xã hội dung dưỡng cực đoan, của một mạng xã hội đầy kích động.

Hận thù không tự sinh ra, và cũng không tự mất đi. Nó là kết quả của những gieo mầm liên tục, âm thầm nhưng bền bỉ. Khi đủ điều kiện, nó nảy mầm và nổ tung.

Phật giáo gọi đó là nghiệp. Thiên Chúa giáo gọi đó là tội lỗi. Nhưng trước khi phán xét bằng ngôn ngữ tôn giáo, ta phải nhìn thấy sự thật trần trụi: nếu xã hội không thay đổi, nếu gia đình không gắn kết, nếu giáo dục không cân bằng, thì những viên đạn ngày mai sẽ vẫn được bóp cò bởi những gương mặt sáng sủa hôm nay.

Có người nghĩ rằng đây chỉ là chuyện của nước Mỹ. Nhưng ở bất kỳ quốc gia nào, nơi nào mạng xã hội tràn ngập ngôn ngữ thù ghét, nơi ấy đều có thể sản sinh bi kịch.

Ở Việt Nam, từng có những nhóm thanh niên trẻ nhân danh yêu nước, công kích, chửi bới, gieo rắc cực đoan trên mạng. Họ không cầm súng, nhưng ngôn từ của họ cũng có thể làm tổn thương, chia rẽ, hủy hoại một cộng đồng.

Điểm chung vẫn vậy: tuổi trẻ dễ tổn thương, dễ bị dắt mũi. Và hận thù, dù bằng súng hay bằng lời, đều gieo thêm khổ đau.

Khi một viên đạn rời khỏi nòng, nó không chỉ giết chết một con người, mà còn giết đi cả niềm tin, tình yêu, hy vọng của bao người xung quanh. Nó giết đi tuổi trẻ của chính kẻ bóp cò. Và nó nhắc nhở xã hội: không thể coi những vụ bạo lực ấy chỉ là “tai nạn” cá nhân.

Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật: hận thù không tự sinh ra, nó được gieo, được nuôi, được dẫn dắt. Nếu không chịu trách nhiệm, bi kịch sẽ cứ lặp lại, ở Mỹ, hay ở bất kỳ đâu trên thế giới.

Chú thích ảnh:

-Hung thủ 22 tuổi- nghi can giết Krisk cùng cha;

– Hung thủ 20 tuổi bắn ông Trump nhiều phát suýt chết, đã bị cảnh sát bắn chết.


 

Người tử tế không phải là người dễ bắt nạt

Gieo Mầm Ơn Gọi

 Người tử tế không phải là người dễ bắt nạt. Họ thường chịu thiệt thòi, vì họ không nỡ làm tổn thương ai. Họ lựa lời để nói, họ đặt lòng tốt làm chuẩn mực.

Nhưng có những kẻ nhầm lẫn sự tử tế với sự yếu đuối. Tưởng rằng người tử tế là kẻ dễ lợi dụng, dễ thao túng, dễ bị đè đầu cưỡi cổ.

Họ nhầm rồi.

Người tử tế có giới hạn. Họ chịu đựng, họ nhẫn nhịn nhưng khi giới hạn đó bị vượt qua, họ sẽ lạnh lùng quay lưng, không cần cảnh cáo. Họ không trả thù, họ chỉ biến mất khỏi cuộc đời của bạn.

Tử tế không phải là ngu ngốc. Tử tế là một dạng sức mạnh, một trái tim biết yêu thương, nhưng cũng biết buông bỏ.

Nếu bạn gặp một người tử tế, hãy trân trọng họ.

Đừng để mất rồi mới nhận ra: không phải ai cũng đủ tử tế để ở lại trong cuộc đời mình.

St


 

Đứa trẻ giải thích vì sao loài chó không sống thọ như loài người

Chuyện có thật.

Đúng là nguyên nhân tại sao những người cầm quyền độc tài

ngu dốt đều muốn và cần sống lâu…để học làm người.

Chiều hôm đó, tay bác sĩ thú y khẽ run. Không phải vì anh không biết mình đang làm gì — anh đã hành nghề nhiều năm, từng chứng kiến hàng trăm ca bệnh nặng, những cuộc chia ly nghẹn ngào.

Nhưng có điều gì đó ở Batuta, chú chó lai 13 tuổi, khiến lồng ngực anh nhói lên theo một cách khác.

Gia đình gọi anh đến khám vì họ đã linh cảm điều gì đó. Dù vậy, vẫn còn chút hy vọng mong manh nằm đâu đó trong góc khuất của tâm hồn — như tất cả chúng ta vẫn hay níu giữ.

Họ mong một phép màu.

Nhưng bác sĩ biết, sẽ không có điều kỳ diệu nào cả.

Ung thư đã lan rộng. Không còn cách nào cứu chữa.

Cả nhà quây quần quanh Batuta trong phòng khách. Họ vuốt ve nó, thì thầm trò chuyện, như thể những lời nói ấy có thể kéo dài thêm thời gian.

Batuta bình thản, thở chậm rãi. Mắt nó long lanh, dịu dàng. Nó không tỏ ra sợ hãi. Chỉ nằm đó, tựa như hiểu rằng nhiệm vụ của mình trên thế gian này đã trọn vẹn.

Pedro, cậu bé trong nhà, ngồi sát bên. Em nhẹ nhàng xoa đầu Batuta, không khóc, không sụt sùi — chỉ có sự dịu dàng thuần khiết, không cần lời.

Người lớn cố kìm nén cảm xúc trước mặt em. Nhưng rồi chính em lại là người giữ bình tĩnh cho tất cả.

Batuta ra đi trong yên bình. Quanh nó là những người thân yêu nhất. Không ai phải giải thích với Pedro điều gì — em tự hiểu.

Vài phút sau, khi sự im lặng bao trùm căn phòng, người mẹ hỏi một điều mà ai cũng nghĩ nhưng không dám thốt ra:

— Sao chó sống ngắn thế? Sao chúng lại rời bỏ ta quá sớm?

Trước khi bác sĩ kịp trả lời, Pedro cất tiếng. Nhẹ nhàng, như thể đó là một ý nghĩ em đã mang theo từ lâu:

— Bởi vì con người sinh ra để học cách trở thành người tốt. Mà đôi khi, phải mất cả đời để học cách yêu thương, chăm sóc, trung thành, tha thứ. Còn chó… chúng sinh ra đã biết tất cả những điều đó rồi. Chúng không cần sống quá lâu như ta.

Bác sĩ thú y lặng người. Nhìn Pedro, anh biết — từ giây phút ấy, mình sẽ không bao giờ còn nhìn nghề nghiệp của mình theo cách cũ nữa.

Lời giải thích ấy, tuy đơn sơ mà sâu sắc, đã thay đổi hoàn toàn cách anh nhìn nhận cái chết của động vật.

Không còn là một bất công đau buồn — mà là một vòng đời tuy ngắn, nhưng trọn vẹn.

Như thể loài chó đến thế giới này để nhắc ta điều con người hay quên.

Yêu không điều kiện.

Vui vì những điều giản dị.

Trung thành không cần ràng buộc.

Tha thứ không giữ hận thù.

Có lẽ vì vậy, chúng không ở lại lâu.

Bởi khi ai đó đã biết cách yêu thương mà không phức tạp — thì đâu cần kéo dài thêm bài học?

Chiều hôm ấy, khi thu dọn dụng cụ, bác sĩ không thấy buồn.

Chỉ còn lại lòng biết ơn.

Vì anh đã chứng kiến một cuộc chia ly không sợ hãi — và một câu trả lời mà chẳng cuốn sách nào dạy nổi.

Đôi khi, chỉ trẻ con và loài chó mới hiểu được điều thiết yếu — mà chẳng cần ai giảng giải.

(Ghi chép bởi Samuel Mendoza, bác sĩ thú y – và là người học trò của những sinh linh biết cách rời đi trong lặng lẽ.)

From: Tu-Phung

Việt Nam, một lịch sử khác?-Tác giả Christopher Goscha

BBC Vietnamese

Tác giả Christopher Goscha

Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Montréal, Canada

Tác giả Alex-Thái Đình Võ – Dịch

15 tháng 9 2025

Với đa số độc giả ngoài Việt Nam, quốc gia ven biển nhỏ bé này vẫn thường gắn liền với cuộc chiến kéo dài một thập kỷ, khi quân đội Hoa Kỳ sa lầy trong nỗ lực ngăn chặn cộng sản miền Bắc tiến chiếm một miền Nam không cộng sản. Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975 với sự thất bại nặng nề của Mỹ.

Nỗi thất bại cũng phủ bóng lên ký ức của Pháp về thuộc địa cũ. Thất bại ê chề mà Pháp phải chịu trong trận Điện Biên Phủ năm 1954, khi quân đội của Võ Nguyên Giáp chấm dứt 80 năm thống trị thuộc địa, vẫn còn vang vọng trong đời sống chính trị Pháp cho đến ngày nay.

Ở Việt Nam, chiến thắng vẻ vang này trở thành chủ đề chiếm vị trí trung tâm trong cách dân tộc này hình dung về chính mình.

Mỗi năm, hàng triệu học sinh và học viên quân sự được dạy rằng đất nước hình chữ “S,” trải dài từ sông Hồng ở miền Bắc đến đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam, được xây dựng từ truyền thống bền bỉ chống lại sự xâm lược từ bên ngoài. Trước khi đánh bại người Pháp và người Mỹ, người Việt đã từng đẩy lùi các đội quân xâm lược từ Trung Quốc và Mông Cổ.

Hồ Chí Minh chỉ là một trong số nhiều anh hùng đã giành lại độc lập cho Việt Nam. Theo cách nhìn này, cả Pháp lẫn Mỹ chỉ có thể tự trách mình vì đã phớt lờ những bài học từ lịch sử.

Tuy nhiên, việc xây dựng một câu chuyện lịch sử xoay quanh truyền thống kháng chiến sẽ che mờ nhiều yếu tố quan trọng khác, và đó chính là cái giá của nó. Việc kiến tạo một quá khứ trong đó Việt Nam – với đường biên giới và hình dạng như ta thấy ngày nay – luôn là một thực thể thống nhất chống lại ngoại xâm đã che phủ một lịch sử phức tạp và thú vị hơn nhiều.

Hai Bà Trưng trên tranh dân gian

Thực tế, dải đất hình chữ S mà ta thấy trên bản đồ hiện nay không phải lúc nào cũng tồn tại ở hình dáng ấy. Giống như Hoa Kỳ, Nga hay thậm chí Trung Quốc, Việt Nam cũng là sản phẩm của quá trình mở rộng thuộc địa của chính mình. Và, như các đế chế khác trong lịch sử, quốc gia này khởi đầu từ một vùng lõi nhỏ trước khi bành trướng thành một thực thể mang hình thái đế chế.

Cái nôi của nền văn minh Việt nằm ở đồng bằng sông Hồng, nơi một nhà nước độc lập, tập quyền với kinh đô Cổ Loa hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, gần thủ đô Hà Nội ngày nay. Dù là một nhà nước sôi động và phát triển vượt bậc so với bối cảnh đương thời, nền độc lập của Cổ Loa đã nhanh chóng chấm dứt khi đế chế Trung Hoa ở phương Bắc bắt đầu cho quân tiến vào vùng biên cương. Vào thế kỷ 2 trước Công nguyên, Trung Hoa giành quyền kiểm soát vùng sông Hồng, biến Việt Nam thành quận cực nam của đế chế, mang tên Giao Chỉ. Khi ấy, lãnh thổ Việt Nam chỉ gói gọn ở đồng bằng sông Hồng và nằm dưới ách cai trị Trung Quốc trong một ngàn năm.

Sự cai trị của Trung Hoa đôi khi rất khắc nghiệt. Đã có những thời khắc người Việt kháng cự quyết liệt, trong đó có cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào thế kỷ thứ nhất Công nguyên. Quân đội nhà Hán đã được điều động để trấn áp phong trào này. Tuy nhiên, cũng có nhiều người Việt hợp tác với chính quyền Trung Hoa, coi sự cai trị ấy như một phương tiện thúc đẩy cải cách và hiện đại hóa. Trên thực tế, một ngàn năm dưới ách đô hộ đã khiến nhiều yếu tố văn hóa Trung Hoa ăn sâu vào đời sống ở Giao Chỉ.

Hưng Đạo đại vương và trận chiến Bạch Đằng trên tranh dân gian

Các quan lại Trung Hoa giới thiệu những khái niệm mới về luật pháp, thời gian và không gian (như các bộ luật, niên lịch, hệ thống đo lường, trọng lượng và bản đồ), cùng với nghệ thuật quản lý hành chính, vũ khí, giấy và kèm theo đó là hệ thống chữ viết theo ký tự. Văn hóa của tầng lớp tinh hoa ở đồng bằng sông Hồng cũng thay đổi với sự xuất hiện của kiến trúc cung đình, âm nhạc, nghệ thuật và ẩm thực lấy cảm hứng từ Trung Hoa, bao gồm cả việc sử dụng đũa. Trong giai đoạn này, Nho giáo và Phật giáo Đại thừa trở thành một phần của đời sống văn hóa Việt Nam.

Khi đế chế Trung Hoa suy yếu vào cuối thời Đường (618–907), người Việt giành lại độc lập vào thế kỷ 10, nhưng lại mất nó một lần nữa vào đầu thế kỷ 15, khi triều Minh khôi phục đế chế bằng cả biện pháp chính trị lẫn quân sự. Lần đô hộ thứ hai này không kéo dài lâu; đến năm 1427, người Việt lại giành được độc lập sau một cuộc kháng chiến. Song, việc thoát khỏi hệ thống đế chế Trung Hoa không có nghĩa là chủ nghĩa thực dân không còn hiện diện trong câu chuyện của Việt Nam. Thực tế, nó vẫn là lực đẩy quan trọng định hướng mạnh mẽ trong tiến trình lịch sử.

Tương tự như người Mỹ thoát ly khỏi Đế quốc Anh vào cuối thế kỷ 18 nhưng sau đó lại tạo dựng một nhà nước thuộc địa riêng của họ bằng cách tiến dần về phía tây ra Thái Bình Dương, người Việt cũng chọn con đường bành trướng. Với sự rút lui của Trung Hoa, người Việt tập trung hướng tới việc kiến tạo đế chế riêng mình, chinh phục các vùng đất phía nam bằng vũ lực, nghệ thuật trị quốc và ý thức hệ thuộc địa theo tinh thần Nho giáo được coi là “ưu việt” mà họ tiếp thu từ Trung Hoa.

Trong bước tiến xuống phương nam, cùng với quân lính, quan lại và dân di cư, các hoàng đế Việt Nam thiết lập những phủ bảo hộ, thúc đẩy việc định cư, đồng thời luân phiên áp dụng hình thức cai trị “trực tiếp” và “gián tiếp” đối với các cộng đồng xa xôi, đa sắc tộc, như một phần trong sứ mệnh khai hóa của mình. Nếu người Mỹ chinh phục các tộc người bản địa và đẩy lùi các đế quốc châu Âu tại Bắc Mỹ, thì người Việt cũng chinh phục người Chăm ở miền Trung, người Khmer thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam, cùng nhiều cộng đồng phi Việt ở vùng cao nguyên lân cận.

Triều Lê, tồn tại từ năm 1428 đến 1789 sau khi nhà Minh rút lui, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ cuộc tiếp xúc “thuộc địa” này. Khi giành lại Việt Nam và xưng đế vào năm 1428, Lê Lợi cùng những người kế vị đã tái tổ chức nhà nước theo khuôn mẫu Nho giáo. Vị hoàng đế này nhìn thấy cơ hội làm được điều mà các bậc tiền nhân từng thất bại: thiết lập quyền lực tập trung trên một đất nước rộng lớn và khó quản lý. Ông và các thế hệ kế vị thúc đẩy mô hình trị quốc theo tinh thần Nho giáo thông qua việc mở mang trường học, đẩy nhanh các kỳ thi tuyển quan lại, và ban hành bộ luật nhà Lê (Bộ luật Hồng Đức) mang đậm dấu ấn Nho giáo.

Việc mở rộng lãnh thổ quá nhanh đã châm ngòi cho nội chiến và sự hình thành các thế lực Việt Nam đối nghịch, cạnh tranh quyền kiểm soát một thực thể chính trị đang bành trướng. Dù danh nghĩa cai trị đất nước thuộc về triều Lê, nhưng từ sau khi Trung Hoa rút lui ở thế kỷ 15, thực tế đã hình thành hai Việt Nam: miền bắc do họ Trịnh nắm quyền quân sự, và miền nam do các chúa Nguyễn lãnh đạo trong quá trình bành trướng. Đến thế kỷ 18, nhà Nguyễn ở phương nam đã trở thành một nhà nước gần như độc lập, với triều đình, bộ máy hành chính và quân đội riêng. Mọi nỗ lực của họ Trịnh nhằm đánh bại thực thể này đều thất bại.

Bảo tàng Quang Trung tại Bình Định, nay là tỉnh Gia Lai, gợi nhắc một thời nội chiến của Việt Nam

Nội chiến leo thang trong thập niên 1770, khi ba anh em nhà Tây Sơn, dựa vào làn sóng phẫn uất vì đói nghèo của nông dân vùng cao nguyên miền Trung, đã đánh bật nhà Nguyễn khỏi kinh đô Huế và dồn họ vào các căn cứ trong rừng ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhà Tây Sơn sau đó hướng ra bắc và cuối cùng lật đổ luôn họ Trịnh vào cuối những năm 1780. Nhà Thanh tìm cách can thiệp nhưng bất thành và cuối cùng cũng bị Tây Sơn đánh đuổi.

Tuy nhiên, tàn dư của nhà Nguyễn vẫn bám trụ từ các căn cứ rừng sâu. Thực ra, cuộc nội chiến kéo dài 30 năm chỉ thật sự chấm dứt khi dòng họ Nguyễn có một màn trở lại ngoạn mục dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ánh. Vị lãnh đạo quân sự quyết đoán này đã chỉ huy đoàn quân tiến dọc bờ biển, đưa hải quân bắc tiến, đánh bại nhà Tây Sơn rồi lập nên đế chế Việt Nam vào năm 1802. Dáng hình chữ S của Việt Nam ngày nay có từ năm ấy, kết quả của nhiều thế kỷ mở rộng lãnh thổ và nội chiến. Kể từ thập niên 1620, đất nước này đã sống trong chia cắt. Vì thế, việc tồn tại của “hai Việt Nam” ở nửa sau của thế kỷ 20 không phải là điều lạ thường.

Từ kinh đô Huế, Minh Mạng – con trai Gia Long – cai trị thực thể chính trị mới này bằng bàn tay cứng rắn. Lý trí đến mức cực đoan và thông minh hiếm thấy, ông dồn trọn hai thập kỷ trị vì để kiến tạo một quốc gia hiện đại. Ông cai trị với sự khắc nghiệt, không để bất cứ điều gì cản đường. Tương tự những nỗ lực xây dựng quốc gia mà các vua Xiêm và Miến thực hiện ở phía tây biên giới Việt, Minh Mạng tin rằng quyền lực tập trung dựa trên quản trị hành chính hợp lý sẽ giúp cai trị hiệu quả hơn và thúc đẩy phát triển kinh tế.

Các chính sách hành chính của ông thúc đẩy sự thống nhất lãnh thổ, tập trung quyền lực, phát triển kinh tế và đồng nhất về ý thức hệ. Hệ thống khoa cử được cải tổ để bảo đảm tính minh bạch và chống lại những hệ lụy tiêu cực của nạn gia đình trị cùng nhiều thế kỷ phân quyền cát cứ. Thực tế, việc xây dựng một bộ máy dân sự nắm quyền chỉ huy quân đội – thay vì ngược lại – là ưu tiên của Minh Mạng và là điều kiện cốt lõi để kiến tạo một nước Việt Nam mới.

Về kinh tế, hệ thống thuế do nhà nước quản lý, đánh trên dân cư và hoạt động thương mại, cung cấp nguồn tài chính để đầu tư vào các công trình hạ tầng lớn, nhập khẩu hàng hóa nước ngoài và trả lương cho bộ máy quan liêu ngày càng mở rộng. Việc mở rộng quyền kiểm soát hành chính xuống các tầng nấc thấp hơn cho phép huy động khối lượng lớn nhân công để xây dựng đê điều, đường sá và cầu cống mới. Dưới thời Minh Mạng, triều Nguyễn cho xây dựng Quan lộ chạy từ Hà Nội đến Sài Gòn nhằm giúp việc di chuyển quan lại và binh lính giữa hai miền hiệu quả hơn; đến đầu thế kỷ 20, người Pháp cũng cho trải nhựa con đường này với mục đích tương tự.

Minh Mạng cũng ủng hộ việc thúc đẩy thương mại quốc tế. Ông mạnh tay trấn áp nạn buôn lậu gạo và thuốc phiện, thay vào đó phát triển hoạt động thương mại do chính quyền quản lý với Singapore, Trung Quốc và phương Tây. Triều Nguyễn cũng tổ chức cộng đồng thương nhân người Hoa thành các bang hội lớn để dễ kiểm soát và đánh thuế.

Những cải cách kinh tế và chính trị này cho thấy triều đại Minh Mạng ở đầu thế kỷ 19 xứng đáng được nhìn nhận nhiều hơn là chỉ một dòng chú thích trong lịch sử Việt Nam cận đại. Điều đó không có nghĩa là ông đã hoàn thành mọi mục tiêu đặt ra, mà thay vào đó cho thấy rằng tính hiện đại ở Việt Nam – cũng như ở bất kỳ nơi nào khác – không phải là một hiện tượng tuyệt đối “có hoặc không,” và cũng không nhất thiết phải đến từ mối liên hệ thuộc địa với phương Tây.

Cũng cần lưu ý rằng việc kiến tạo nước Việt Nam dưới thời Minh Mạng đã khởi phát một làn sóng chinh phục mang tính thuộc địa khác. Trong thập niên 1830, khi cải tổ bộ máy nhà nước, Minh Mạng đồng thời mở rộng lãnh thổ, sáp nhập toàn bộ Campuchia ngày nay và một phần Lào. Nhưng rốt cuộc, vị hoàng đế này đã đi quá xa: khi tìm cách xóa bỏ vương quyền Campuchia, ông đã châm ngòi cho một cuộc nổi dậy lớn và kéo theo sự can thiệp quân sự của Xiêm.

Campuchia sau đó giành lại độc lập thông qua một thỏa thuận hòa bình do Xiêm và Việt Nam cùng thương lượng. Nói cách khác, hình dáng chữ S của Việt Nam thực sự chưa bao giờ là một tất yếu lịch sử. Cuối cùng, chính sự can thiệp của Xiêm – chứ không phải của người Pháp – đã cứu Campuchia thoát khỏi sự thôn tính của Việt Nam vào thập niên 1840.

Khi người Pháp áp đặt quyền lực đế quốc của mình tại Việt Nam, họ đã xây dựng bộ máy thuộc địa dựa trên nền tảng sẵn có của nhà nước Việt Nam. Thực vậy, Liên bang Đông Dương thuộc Pháp, được chính thức tuyên bố thành lập năm 1888, phản chiếu một cách lạ lùng ranh giới của “Đại Nam” dưới thời Minh Mạng của những năm 1830, bao gồm cả Campuchia và phần lớn Lào.

Dù hành trình giành thống nhất và độc lập ở thế kỷ 20 là chìa khóa để lý giải lịch sử Việt Nam, nhưng nó thường bỏ qua sự thật rằng chưa từng có một Việt Nam duy nhất, mà nhiều Việt Nam với những diện mạo rất khác biệt. Trong 80 năm dưới ách cai trị của Pháp, người Việt quả thực chịu nhiều đau khổ, nhưng họ không phải lúc nào cũng chỉ là nạn nhân của sự đô hộ. Bởi chính họ cũng từng là những kẻ đi chinh phục.

Các tường thuật chuẩn mực về quan hệ Việt-Trung thường mô tả đó là một lịch sử liên tục chống lại sự xâm lược của Trung Quốc. Đây là một câu chuyện hấp dẫn đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam, bởi nó khơi gợi một truyền thống kháng cự bất tận trước ngoại xâm – không chỉ trong các cuộc chiến chống Pháp và Mỹ giữa thế kỷ 20, mà cả trong xung đột biên giới với Trung Quốc những năm 1980 và các căng thẳng trên Biển Đông hiện nay. Thế nhưng, như chúng ta đã thấy, những câu chuyện “chống Trung Quốc” này đã đơn giản hóa thực tế.

Thay vào đó, cần nhìn nhận rằng Việt Nam – cũng như Triều Tiên và thậm chí Nhật Bản – nằm trong một vị trí đặc thù: từng là một phần của, và luôn phải đối diện với, đế chế khổng lồ mà Trung Hoa đã tạo dựng từ thời Hán (206 TCN – 220 CN). Giống như người Frank và người German (Giéc-manh) đối diện với đế chế La Mã cùng thời, người Việt đã vay mượn nhiều yếu tố từ Trung Quốc. Người Triều Tiên và người Nhật cũng từng làm như vậy ở những thời điểm khác nhau.

Tuy nhiên, điểm khác biệt là ở chỗ Đế chế La Mã đã sụp đổ vào thế kỷ 5, trong khi đế chế Trung Hoa thì vẫn luôn tồn tại cho đến nay. Họ luôn có khả năng tái lập và thậm chí mở rộng quyền lực của mình.

Công cuộc chinh phục lãnh thổ của người Việt đã dẫn tới sự biến mất của các quốc gia phương nam

Người Việt, cũng như người Triều Tiên, vừa vay mượn từ Trung Hoa để xây dựng quốc gia và văn hóa riêng ở vùng ngoại vi đế chế, vừa phải luôn đề phòng nguy cơ bị kéo ngược trở lại trật tự cũ do Trung Quốc áp đặt. Điều này khiến người Việt luôn tự thuyết phục rằng mình không phải là người Trung Hoa, dù vẫn dựa vào những mô hình từ Trung Quốc, nhưng đồng thời tự xem mình như sứ giả của một nền văn minh “ưu việt” mà họ truyền bá xuống phương Nam thông qua quá trình bành trướng thuộc địa của chính mình. Đó là một hành động cân bằng độc đáo, khó khăn nhưng cũng đầy cuốn hút.

Người Pháp và người Đức không bao giờ phải lo La Mã quay trở lại để nghiền nát họ, hay chế giễu việc họ vay mượn thể chế, thần thoại, ngôn ngữ La Mã, hoặc tự xưng là “Caesar mới” trong châu Âu hậu La Mã với các danh hiệu như Tsar, Czar và Kaiser. Nhưng người Việt thì phải – và phải liên tục – đối mặt với điều này.

Ngày nay, những người cộng sản Việt Nam cũng rơi vào một tình huống tương tự. Họ đã vay mượn rất nhiều từ các mô hình và phương thức cộng sản Trung Quốc, từ cách tổ chức quân sự, xây dựng nhà nước độc đảng, cho đến – kể từ sau cải cách kinh tế thập niên 1980 – việc điều chỉnh kinh tế thị trường nhằm duy trì sự cai trị chuyên chế của đảng cộng sản. Song lãnh đạo Việt Nam vẫn làm điều đó bất chấp bối cảnh giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đang tìm cách mở rộng đế chế của mình vượt ra ngoài phạm vi lục địa.

Mối quan hệ lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc – dù trong khuôn khổ cộng sản hay Nho giáo – đặt các nhà lãnh đạo Việt Nam vào tình thế vừa phải dựa vào mô hình Trung Quốc để duy trì quyền lực trong nước, vừa phải đối phó với sự bành trướng của đế chế Trung Hoa trên trường quốc tế. Thế cân bằng này càng trở nên khó khăn khi các lực lượng đối lập trong nước tìm cách làm suy giảm uy tín của đảng bằng việc chỉ ra sự lệ thuộc vào mô hình Trung Quốc.

Tác giả Christopher E. Goscha là một nhà sử học người Mỹ-Canada, hiện là giáo sư chính tại Đại học Québec à Montréal (UQAM), nơi ông giảng dạy lịch sử quan hệ quốc tế, chiến tranh Việt Nam và lịch sử thế giới. Ông chuyên nghiên cứu về Chiến tranh Lạnh ở châu Á, quá trình phi thực dân hóa và các cuộc chiến tại Việt Nam. Goscha bảo vệ luận án tiến sĩ tại École Pratique des Hautes Études (Pháp) năm 2000 với đề tài về Chiến tranh Đông Dương trong bối cảnh xuyên quốc gia. Ông đã biên soạn và xuất bản hơn một chục đầu sách, trong đó có Historical Dictionary of the Indochina War (1945–1954), được tạp chí Choice xếp vào danh sách “Outstanding Academic Titles 2012” (Sách học thuật xuất sắc năm 2012). Năm 2016, Goscha xuất bản cuốn Vietnam: A New History, đoạt giải John K. Fairbank 2017 và được đánh giá là một trong những công trình toàn diện nhất bằng tiếng Anh về lịch sử Việt Nam hiện đại. Gần đây, ông tiếp tục gây tiếng vang với The Road to Dien Bien Phu: A History of the First War for Vietnam, một khảo cứu nhiều chiều cạnh về chiến thắng Điện Biên Phủ của Hồ Chí Minh trước thực dân Pháp – sự kiện được xem như đã báo trước trải nghiệm của Mỹ tại Việt Nam sau này.

Máy bay vũ trụ bí ẩn X-37B lại lên đường mang theo thiết bị GPS lượng tử

Máy bay vũ trụ X-37B của Lực lượng Không gian đã bắt đầu một nhiệm vụ đột phá : thử nghiệm một giải pháp thay thế lượng tử cho định vị GPS

X-37B

Trong không gian, đặc biệt là ngoài quỹ đạo Trái Đất, tín hiệu GPS trở nên không đáng tin cậy hoặc đơn giản là biến mất. Điều tương tự cũng xảy ra dưới nước, nơi tàu ngầm hoàn toàn không thể truy cập GPS. 

Space Force Space Plane – Launch Slip

Máy bay vũ trụ bí ẩn X-37B lại bay, lần này mang theo một thiết bị thay thế GPS lượng tử

Space exploration reaches a new milestone when the X-37B safely returns ...

X-37B là một tàu vũ trụ không người lái, nó trông giống như tàu con thoi đã nghỉ hưu của Hoa Kỳ nhưng bé nhỏ hơn, nó được phóng lên bằng tên lửa đẩy và sau khi trở về Trái Đất, nó sẽ hạ cánh không cần động cơ trên đường băng mặt đất. Tàu có động cơ có thể sử dụng để di chuyển trong không gian, nhưng vào năm 2024, nó đã cố tình lướt trên bầu khí quyển Trái Đất bằng cách sử dụng “phanh khí động” để tạo ra sự thay đổi đáng kể trên đường bay (quỹ đạo) của nó, thay vì phải tiêu tốn rất nhiều năng lượng để khởi động hệ thống phản lực.

Vì nguyên tử hoạt động như một sóng trong cơ học lượng tử, hai đường đi này giao thoa với nhau, tạo ra một mô hình tương tự như những gợn sóng chồng lên nhau trên mặt nước. Mô hình này chứa đựng thông tin chi tiết về cách môi trường xung quanh nguyên tử ảnh hưởng đến hành trình của nó. Đặc biệt, những thay đổi nhỏ nhất trong chuyển động, chẳng hạn như sự quay của cảm biến hoặc gia tốc, đều để lại dấu vết có thể phát hiện được trên các “sóng” nguyên tử này.

 

So với các hệ thống dẫn đường quán tính cổ điển, cảm biến lượng tử có độ nhạy cao hơn gấp nhiều lần. Vì các nguyên tử giống hệt nhau và không thay đổi, không giống như các thành phần cơ học hay thiết bị điện tử, chúng ít bị trôi dạt hoặc sai lệch hơn nhiều. Kết quả là khả năng dẫn đường có độ chính xác cao và thời gian dài mà không cần tham chiếu bên ngoài.

Boeing đã thử nghiệm công nghệ GPS lượng tử này vào tháng 3 năm 2025, khi hãng mô tả công nghệ này liên quan đến việc “sử dụng đơn vị đo quán tính lượng tử sáu trục (IMU) sử dụng “kỹ thuật cảm biến lượng tử gọi là giao thoa nguyên tử để phát hiện chuyển động quay và gia tốc bằng cách sử dụng nguyên tử”.

Phòng thí nghiệm quốc gia Sandia của Hoa Kỳ đã mô tả phép giao thoa nguyên tử là “một cách cực kỳ chính xác để đo gia tốc” và đã chế tạo một “bộ điều biến quang tử silicon hiệu suất cao – thiết bị điều khiển ánh sáng lượng tử bằng vi mạch điện tử” để có thể đưa bộ đo lượng tử đi vào hoạt động.

New quantum technology could lead to GPS-free navigation

Bản vẽ ý tưởng về chip điều biến dải đơn quang tử silicon

Nguồn: Science Advances (2024).

Vấn đề cốt lõi là giao thoa kế nguyên tử có thể được sử dụng để đo vị trí – công việc tương tự như chúng ta sử dụng GPS ngày nay.

Điều này đưa chúng ta trở lại lý do tại sao Trung Quốc hơi lo lắng về X-37B: Bắc Kinh lo ngại vệ tinh định vị Bắc Đẩu của họ có thể bị vô hiệu hóa. Hoa Kỳ cũng lo ngại về việc mất vệ tinh GPS, vì chiến tranh hiện đại phụ thuộc vào chúng.

Do đó, chuyến bay X-37B này có ý nghĩa quan trọng hơn một chút vì nó đang thử nghiệm một công nghệ có thể cho phép tàu vũ trụ trong tương lai và máy bay, tàu thủy chiến đấu, tên lửa, UAV tìm đường đi đến mục tiêu ngay cả khi hệ thống định vị vệ tinh gặp sự cố vì bị JAM, phá sóng…

Lầu Năm Góc không cho biết khi nào  X-37B sẽ quay trở lại Trái Đất hoặc họ hy vọng đạt được điều gì với nhiệm vụ này.

  • Hoa Kỳ, Trung Quốc và các quốc gia khác đang trong cuộc chạy đua công nghệ lượng tử để phát triển các hệ thống Định vị, Điều hướng và Đo Thời gian bằng lượng tử (PNT) . Trung Quốc được cho là đang cố thử nghiệm các công nghệ tương tự trong giai đoạn khởi đầu.

 

 

Charlie Kirk đã tiếp cận và mang Đức Tin đến cho giới trẻ như thế nào?

Theo báo WSJ và Copilot AI

Olivia Hubbard tại Đại học Grand Canyon.

Olivia Hubbard, 19 tuổi, cho biết việc lắng nghe Charlie Kirk nói chuyện giống như được nghe tất cả niềm tin của cô được diễn đạt rõ ràng. Ảnh: Rebecca Noble cho WSJ

PHOENIX—Khi Olivia Hubbard rời Iowa để đi học đại học, cô nghĩ mình sẽ thoát khỏi chủ nghĩa bảo thủ mà cha cô vẫn luôn rêu rao. Nhưng thay vào đó, cô đã được thức tỉnh về … Đức Tin.

Hubbard, hiện 19 tuổi, đã được một người bạn cùng phòng thuyết phục gặp Charlie Kirk vào năm ngoái khi anh đến thăm Đại học Grand Canyon, cách trụ sở tổ chức Turning Point USA của Kirk 20 phút. Hubbard nói rằng nghe Kirk nói chuyện giống như được nghe tất cả niềm tin của cô được diễn đạt rõ ràng.

“Tôi nghĩ thật tuyệt vời khi có người trẻ tuổi,  học ở tất cả các trường đại học như thế này, lại còn đức tin vào Chúa và thực sự truyền bá điều đó”, Hubbard, một người theo đạo Thiên Chúa, chia sẻ. Từ khoảnh khắc đó, cô bị cuốn hút, thức khuya xem video Kirk tranh luận với sinh viên theo chủ nghĩa tự do ở các trường đại học khác.

Kirk đã bị sát hại hôm thứ Tư trong chuyến thăm Đại học Utah Valley. Người đàn ông 31 tuổi này đã trở thành người tiên phong của phong trào MAGA và được Tổng thống Trump ghi nhận vì đã xây dựng được sự ủng hộ của giới trẻ và giúp ông tái đắc cử.

Người đưa tang theo dõi linh cữu của Charlie Kirk được đưa đến Sân bay quốc tế Sky Harbor.

Người dân theo dõi lễ đưa linh cữu của Charlie Kirk đến Sân bay Quốc tế Sky Harbor ở Phoenix vào thứ năm. Ảnh: Rebecca Noble cho WSJ

Là bậc thầy về truyền thông đại chúng thế kỷ 21, Kirk đã làm được điều mà Đảng Cộng hòa đã thất bại trong nhiều thập kỷ: tạo đột phá trong việc tiếp cận thế hệ trẻ. Bất kể họ có ủng hộ ông hay không, sinh viên đại học gần như không thể mở mạng xã hội mà không xem video của Kirk.

Đối với thế hệ thanh niên bảo thủ, ông đã truyền cảm hứng cho họ tự hào chia sẻ quan điểm của mình, bao gồm cả việc phản đối phá thai và hôn nhân đồng giới. Vô số người khác cho rằng quan điểm của ông mang tính phân biệt đối xử và xúc phạm. Dù yêu hay ghét ông, Kirk vẫn hiện diện ở khắp mọi nơi.

Copilot AI nhận định

Chứng ngôn cá nhân và đức tin mạnh mẽ

  • Anh Charlie Kirk thường nói, “Tôi chẳng là gì nếu không có Chúa Jesus” , anh đã tâm sự về việc dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa Kitô vào năm đang ở bậc tiểu học, lớp năm và xây dựng sứ mệnh mà Chúa giao phó cho mình dựa trên chân lý Kinh thánh.
  • Tuy nhiên, anh nói một cách cởi mở về tội lỗi mà Chúa Giế Su có thể xóa bỏ nhờ Thập Giá của Ngài, nói về sự cứu rỗi, hôn nhân và cuộc sống vĩnh hằng mai sau, ngay cả trong những môi trường thù địch.
  • Kirk biết tận dụng các nền tảng như The Charlie Kirk Show để nói về hy vọng, mục đích sức mạnh của Kinh thánh trong cuộc sống hàng ngày. Anh kêu gọi những người theo đạo Thiên chúa tham chánh để tác động đến mọi lĩnh vực của xã hội.

Đức tin đi vào các nhà thờ

  • Năm 2022, Kirk đã ra mắt Turning Point Faith , một chi nhánh mới của tổ chức Turning Point của ông nhằm mục đích giúp các nhà thờ tham gia vào các hoạt động dân sự tâm linhÔng khuyến khích các mục sư rao giảng một cách mạnh dạn về thẩm quyền của Kinh Thánh, từ chối “chủ nghĩa tự do quá trớn và chủ nghĩa phản đối có tên là “thức tỉnh”.